Bác Sĩ Tô Dương Hiệp – Đoá hoa âm thầm giữa vườn hoa điên loạn-Đoàn Xuân Thu

Đoàn Xuân Thu

Saigon Nhỏ

Bệnh Viện Tâm Thần Biên Hòa. (Hình minh họa: Hotovietnam.org)

Nếu có ai hỏi: “Con người nào đã chọn cái chết âm thầm để giữ lại sự bình yên cho người khác?” thì cái tên Tô Dương Hiệp chắc hẳn xứng đáng được xướng lên trong niềm kính phục.

Là bác sĩ chuyên khoa tâm thần, Bác Sĩ Tô Dương Hiệp sống một cuộc đời dung dị nhưng đầy tận hiến trong ngành y – một đời giữa những người điên và chết giữa họ, như một lời nguyện.

Sinh ngày 1 Tháng Mười Một năm 1935, tại Tân Uyên, Biên Hòa, BS. Hiệp trưởng thành trong một gia đình nho phong, trọng chữ nghĩa và đạo lý. Vừa thừa hưởng cốt cách nhân văn từ thân phụ, ông lại sớm chọn con đường y học như một sứ mạng.

Năm 1971, ở tuổi 36, ông được bổ nhiệm làm giám đốc Dưỡng Trí Viện Biên Hòa, một cơ sở y tế chuyên điều trị bệnh nhân tâm thần lớn nhất Việt Nam Cộng Hòa lúc bấy giờ.

Dưỡng Trí Viện Biên Hòa không phải là nơi dành cho những trái tim yếu mềm. Ở đó, giữa âm thanh thảng thốt và ánh mắt vô định, người thầy thuốc không chỉ cần y lý vững vàng mà còn phải có lòng từ bi sâu rộng. BS. Tô Dương Hiệp không chỉ đáp ứng những điều ấy, mà còn vượt xa khỏi khuôn mẫu thường tình.

Một giai thoại thường được nhắc lại: có lần, viện tiếp nhận một thanh niên bị rối loạn tâm thần sau khi thi rớt tú tài đau lòng như muốn khóc, BS. Hiệp không dùng thuốc vội, mà thử nghiệm phương pháp “Tâm lý trị liệu” – một hướng điều trị còn rất mới mẻ lúc bấy giờ. Kết quả khiến đồng nghiệp khâm phục: chỉ sau thời gian ngắn, bệnh nhân hồi phục hoàn toàn. Người ta nói, có lẽ ông đã chữa bằng cả trái tim.

Phòng mạch riêng của ông đặt tại đường Hàm Nghi, Biên Hòa. Nhưng chính dưỡng trí viện mới là nơi ông gửi gắm trọn đời mình, như một tu viện của khoa học và lòng nhân.

Khi biết mình mang một chứng bệnh hiểm nghèo -bệnh máu trắng (leukemia) – bác sĩ Hiệp không hề hoảng loạn hay than van. Ông âm thầm chịu đựng, âm thầm cống hiến như chưa có gì xảy ra. Ông không nói với ai, kể cả vợ con. Chỉ khi bệnh tình trầm trọng, ông mới đề nghị Bộ Y Tế VNCH cử người thay thế chức vụ giám đốc, vì biết mình không còn đủ sức cáng đáng công việc.

Bộ Y Tế khẩn trương lên kế hoạch đưa ông sang Thái Lan điều trị, chuyến bay định cất cánh lúc 10 giờ đêm ngày 21 Tháng Mười Một năm 1973. Nhưng định mệnh không chờ ai. Chỉ 15 phút trước khi buổi sáng ngày ấy tròn một giờ đồng hồ, tức 9 giờ 45 sáng, BS. Tô Dương Hiệp trút hơi thở cuối cùng. Ông ra đi ở tuổi 38, đúng vào tháng sinh của mình – như định mệnh đã viết sẵn.

Người ta kể rằng, trong lời trăn trối sau cùng, ông dặn được chôn ngay trong khuôn viên nghĩa trang dưỡng trí viện, giữa những người điên mà ông đã suốt đời săn sóc.

“Khi sống, tôi chăm sóc họ. Khi chết, xin được nằm bên cạnh họ,” ông nói như vậy.

Và lời ấy được thực hiện, không một tấm bia phô trương, chỉ là mộ phần lặng lẽ giữa vườn hoang tâm thức.

Câu chuyện của BS.Tô Dương Hiệp gợi nhớ đến nhân vật Naôê trong tiểu thuyết Vô Đăng Ảnh (tựa gốc Đèn Không Hắt Bóng) của bác sĩ Nhật Dzyunichi Watanabe. Naôê, một bác sĩ giải phẫu lừng danh, cũng phát hiện mình mắc ung thư cột sống (myeloma). Như bác sĩ Hiệp, ông cũng giấu bệnh, cũng đi qua từng ngày với trái tim bị mài mòn bởi nỗi cô đơn bệnh lý.

Nhưng trong khi Naôê tìm quên qua rượu, dục vọng và thuốc phiện, rồi kết thúc đời mình bằng cách gieo xác xuống hồ Sikôtsu lạnh lẽo, thì BS. Tô Dương Hiệp lại chọn con đường trầm tĩnh hơn: tiếp tục làm việc, tiếp tục chữa trị người điên bằng lý trí sáng suốt và sự thương yêu.

Cả hai đều là bác sĩ, đều can đảm, nhưng chọn cách khác nhau để đối mặt với định mệnh.

Bác Sĩ Hiệp là trưởng nam của nhà văn Bình Nguyên Lộc – cây bút lớn của văn học miền Nam. Hai cha con như có sợi dây kỳ lạ nối kết vận mệnh: Nhà văn Bình Nguyên Lộc sinh ngày 7 Tháng Ba và cũng qua đời đúng ngày đó; bác sĩ Hiệp sinh ngày 1 Tháng Mười Một và cũng mất trong Tháng Mười Một, ngày 21. Những trùng hợp lạnh lùng ấy như ẩn dụ cho một dòng máu văn-y, sống và chết như một bản giao hưởng ngắn ngủi mà sâu sắc.

Gia đình ông còn để lại dấu ấn đậm nét trong văn hóa Biên Hòa: vợ ông là một cựu giáo sư dạy Văn tại Trung Học Ngô Quyền, và ông để lại cho đời bốn người con – chắc chắn là bốn ngọn đèn âm thầm nối tiếp ánh sáng mà người cha đã đốt lên bằng chính sinh mạng mình.

Bác Sĩ Tô Dương Hiệp không phải là một danh y nổi tiếng ngoài xã hội, nhưng trong vũ trụ bé nhỏ của những người điên, ông là ánh sáng cuối đường hầm. Giữa thời buổi chiến tranh, hỗn mang và máu lửa, ông chọn lặng thầm hiến mình cho những mảnh đời mất lý trí. Và chính ông, bằng lý trí rực sáng, đã bước vào cái chết như bước vào giấc ngủ trưa – bình yên và vĩnh cửu.

Không tượng đài, không lễ tang rình rang, chỉ là nấm mộ nơi góc vườn Dưỡng Trí Viện Biên Hòa, nơi có thể nghe được tiếng cười khóc vô định của những kẻ điên, nhưng nếu có ai hỏi “anh hùng là gì?”, thì xin hãy kể về Bác Sĩ Tô Dương Hiệp – người đã chọn nằm xuống giữa những người không ai muốn lại gần, vì ông yêu họ hơn cả chính bản thân mình.

(Melbourne)


 

BÉ MỌN – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn”.

“Trí tuệ nhân loại dựng nên những mê cung, nhưng lòng tin trẻ thơ chỉ cần một cửa sổ mở ra ánh sáng. Sự thật là không phải mọi thứ đều quá rắc rối; chúng đơn giản đến mức đôi khi người thông minh nhất không nhận ra, nhưng đứa trẻ thì tin ngay!” – G.K. Chesterton.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay cho thấy cuộc sống thật phức tạp khiến con người nhiều lúc đặt bao câu hỏi mà không có câu trả lời; nhưng sự thật, không nhất thiết phải như vậy. Vì lẽ, câu trả lời của Thiên Chúa thường đủ đơn giản để một đứa trẻ hiểu! Vấn đề nằm ở chỗ không ai muốn trở nên ‘bé mọn’ để có thể lắng nghe Ngài.

Trước hết, câu chuyện cậu bé Môsê được Chúa hiện ra qua bụi cây cháy bừng – bài đọc một. Cậu tò mò lại gần. Trẻ em thường tò mò! Chúa phán, “Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh!”. Mọi cuộc gặp gỡ Thiên Chúa đều tạo nên đất thánh! Khi cầu nguyện, linh hồn là đất thánh! Cũng từ đất thánh đó, Chúa sai Môsê đi giải phóng dân. Quá phức tạp! “Con ‘là ai’ mà dám đến với Pharaô?” – “Ta sẽ ở với ngươi!”. Quá bất ngờ! Đó là một câu trả lời đủ đơn giản cho một đứa trẻ; và Môsê hiểu. Từ nay, tên cậu không còn là “Môsê”, nhưng là “Ta Sẽ Ở Với Ngươi!”. Đấng đặt tên mới cho Môsê là Đấng cậu sẽ trải nghiệm dần, “Đấng từ bi nhân hậu!” – Thánh Vịnh đáp ca.

Với bài Tin Mừng, Chúa Giêsu xác quyết, “Cha đã mặc khải các mầu nhiệm Nước Trời cho những người bé mọn”. Vậy liệu bạn và tôi nên ‘khôn ngoan thông thái’ hay nên người ‘bé mọn?’. Rõ ràng, tốt hơn sẽ là ‘bé mọn!’. “Một sinh vật càng lớn càng muốn khẳng định mình. Nó muốn ngày càng ít phụ thuộc hơn; do đó, ngày càng trở thành ‘một loại thần thánh’ không cần ai!” – Ratzinger.

Vậy mà trong cuộc sống, bao vấn đề từ bản thân, gia đình, bạn bè đến quá khứ, hiện tại, tương lai xem ra quá phức tạp! Sự thật này cho thấy, chúng ta cần trở nên thơ bé! Cả khi trưởng thành, bạn và tôi đừng bao giờ ngừng tỏ ra là trẻ thơ. “Khi tôi trưởng thành, tôi không từ bỏ những điều trẻ thơ; tôi chỉ học cách yêu thương chúng sâu sắc hơn. Một trái tim trẻ thơ trong một người trưởng thành – đó không phải là ngây ngô, mà là trưởng thành trong đức tin!” – C.S. Lewis.

Anh Chị em,

“Nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn”. Những người ‘bé mọn’ – trẻ em – tự mình là một kho tàng của thế giới và của Giáo Hội; vì lẽ, trẻ không ngừng gợi lên những điều kiện cần thiết để chiếm lĩnh Nước Trời – không tự coi mình có thể tự cung, tự cấp, nhưng cần được giúp đỡ, yêu thương và tha thứ. Trẻ trở thành biểu tượng của những ‘người nghèo’ mà Vương Quốc thuộc về. Để trưởng thành trong đức tin, tất cả chúng ta cần sự giúp đỡ, yêu thương và tha thứ. “Sự yếu đuối không phải là điều đáng xấu hổ. Nó là cánh cửa mở ra cho tình yêu Thiên Chúa. Và không ai dạy điều đó tốt hơn một đứa trẻ!” – Henri Nouwen.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cái tôi khiến con trở nên một loại thần thánh không cần ai. Cho con đừng bao giờ ngừng tỏ ra là trẻ thơ, và Chúa luôn có câu trả lời đủ đơn giản để con hiểu!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

**********************************************

Lời Chúa Thứ Tư Tuần XV Thường Niên, Năm Lẻ

Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm Nước Trời, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.

25 Khi ấy, Đức Giê-su cất tiếng nói : “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm Nước Trời, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. 26 Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.

27 “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha ; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.”


 

THÁNH BÔNAVENTURA, GIÁM MỤC TIẾN SĨ HỘI THÁNH (1221-1274)

Thánh Bônaventura sinh năm 1221 tại Bagnorea, gần Viterbo, là con ông Giovanni di Fidanza và bà Ritella.  Ngài được đặt tên là Giovanni, lúc lên bốn, Ngài lâm trọng bệnh vô phương cứu chữa.  Người mẹ vội ẵm Ngài tới gặp thánh Phanxicô khó khăn.  Thánh nhân thương cha mẹ dâng lời cầu nguyện và Giovanni hết bệnh.  Sung sướng, người mẹ kêu lên: “O buona Ventura” (Ôi biến cố phúc hậu).  Từ đó Giovanni mang tên Bônaventura.  Ngài theo học tại dòng anh em hèn mọn.

 Tới tuổi 15, Bonaventura theo học tại Paris, trung tâm ánh sáng thời đó.  Ngài sống thanh trong đến nỗi Alexandre de Hales nhận xét: Anh giống như Adam chưa hề phạm tội.

 Ngài kết thân với sinh viên tài ba khác là Thomas Aquinô.  Ngỡ ngàng về sự hiểu biết của bạn mình.  Thomas hỏi Bonaventura xem Ngài đã học sách nào?  Bonaventura chỉ cây thánh giá trả lời: Đây là nguồn mọi hiểu biết của tôi.  Tôi học Chúa Giêsu bị đóng đinh.

 Năm 1257, Ngài được chọn làm bề trên cả dòng Phanxicô.  Tình thế Ngài phải đối diện rất là phức tạp.  Trong dòng đang có sự phân rẽ giữa những người nhiệt tâm muốn tuân giữ nghiêm nhặt luật dòng và những người muốn chước giảm.  Nhờ sự thánh thiện và tài khéo léo, Bonaventura đã giải quyết các vấn đề cách ổn thỏa, đến nỗi Ngài đang được gọi là Đấng sáng lập thứ hai của dòng.  Trong kỳ đại hội ở Narbonne 1250, Ngài đã ban hành hiến pháp đầu tiên cho dòng.  Sau đó Ngài liên tiếp thăm viếng không biết mệt các tỉnh dòng để quan sát việc thực hiện bản quy luật này.  Chính Ngài tổ chức việc học hành cho các giáo sĩ trong dòng, làm cho công cuộc tông đồ được phổ biến rộng rãi đến cả những bậc thức giả lẫn giới bình dân.  Chính Bonaventura là một nhà dòng giảng thuyết có biệt tài.  Ngài đã giảng thuyết từ các tu viện, tới các thành phố ở Âu Châu, trước mặt vua Louis IX, Đức Giáo Hoàng.

 Luôn luôn Ngài thu phục được cảm tình của thính giả.  Một thầy dòng khiêm tốn tên là Gilles hỏi Ngài: Các cha thông thái, được Chúa ban cho nhiều tài năng.  Còn chúng con, chúng con có thể làm gì được?

 Bonaventuratrả lời: Nếu Chúa ban cho một người tài năng khác là ơn yêu mến Ngài thế là đủ rồi, và là kho tàng quí báu nhất.

 Thầy dòng hỏi tiếp: Một người không biết đọc biết viết có thể yêu mến Thiên Chúa như một nhà thông thái biết mọi sự không?

 Thánh nhân trả lời: Chắc chắn rồi, một bà già có thể yêu Chúa hơn cả một nhà tiến sĩ thần học.

 Thầy dòng vui vẻ la lớn: Một bà già có thể yêu Chúa hơn cả cha Bonaventura của chúng ta nữa.

 Ngài còn tiếp: Biết một chút về Chúa còn hơn là biết mọi sự trong trời đất.

 Ngoài những hoạt động bên ngoài ấy.  Bonaventura còn lo viết sách để huấn luyện các tu sĩ và những sách về triết học, thần học và thánh kinh.  Chúng ta có thể kể đến cuốn “Chú giải luật dòng Phanxicô,” “Hạnh tích thánh Phanxicô” nhất là cuốn “Hành trình của linh hồn hướng về Thiên Chúa.”

 Trong nỗ lực xây dựng Hội Thánh, Bonaventura luôn tỏ ra khiêm tốn. Người ta kể rằng: Đức Giáo Hoàng Grêgoriô X truyền cho thánh Thomas và Bonaventura soạn thảo bộ kinh lễ Thánh Thể. Khi hai vị vào yết kiến Đức Giáo Hoàng trình bày công việc, thánh Bonaventura xé nát bản văn của mình.

 Cùng với lời khiêm tốn ấy, Bonaventura đã từ chối chức Tổng Giám mục thành York mà Đức Giáo Hoàng Clêment IV đề nghị, lòng khiêm tốn ấy không ngăn cản sự cương quyết và can đảm của Ngài chống lại thuyết sai lầm của thuyết Aristote và Avéoes…  Nhưng Đức Giáo Hoàng Grêgoriô X đã quyết định đặt Ngài làm hồng y cai quản giáo phận Albanô và truyền Ngài về Roma ngay.  Khi hai sứ thần mang mũ hồng y đến, Ngài còn đang rửa chân.  Ngày 28 tháng 5 năm 1273 Ngài nhận chức và là cánh tay đắc lực của Đức Giáo Hoàng.  Phần đóng góp của Ngài vào sự hợp nhất Giáo hội Hy lạp và Roma tại công đồng Lyon thật lớn lao.

 Nhưng khi công đồng Lyon còn đang nhóm họp thì Bonaventura từ trần ngày 14 tháng 7 năm 1274.  Đức Sixtô IV phong Ngài lên bậc hiển thánh năm 1482 và đức Sixtô V đã đặt Ngài làm Tiến sĩ Hội Thánh năm 1858.  Người ta gọi Ngài là “Tiến sĩ sốt mến.”

 Thánh Bônaventura đầy lòng thánh thiện và khiêm tốn.  Với lòng yêu mến Chúa, yêu mến Giáo hội. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mỗi chúng ta cũng biết sống gắn bó với Chúa và Giáo hội bằng tất cả tấm lòng yêu mến chân thành, nhờ lời cầu bầu của thánh nhân.

 Nguồn: tgpsaigon.net

 From: Langthangchieutim


 

Mọi người đều nghĩ cô bé đã ra đi

Xuan-Huong T Nguyen

Một bé gái 3 tuổi mất tích chỉ vài giờ trước khi trận lũ lụt thảm khốc ập vào một cộng đồng nông thôn ở Texas – khơi mào một cuộc tìm kiếm điên cuồng trên khắp các cánh đồng, con suối và những ngôi nhà đổ nát. Nhiều giờ trôi qua và mưa ngày càng nặng hạt, hy vọng bắt đầu lụi tàn.

Nhưng rồi phép màu đã đến.

Đội cứu hộ cuối cùng đã tìm thấy cô bé, cuộn tròn dưới một nhà kho đổ nát cách nhà cô bé hàng dặm – người lấm lem bùn đất, run rẩy nhưng vẫn còn sống. Và cô bé không hề đơn độc.

Bên cạnh cô bé là một chú chó – ướt sũng, bẩn thỉu và cũng kiệt sức không kém – mà không ai nhận ra. Nó không phải là thú cưng của gia đình cô bé. Nó cũng không phải người trong khu phố. Thực tế, chưa ai từng nhìn thấy nó trước đây.

Nhưng những gì nó đã làm trong những giờ trước khi cơn bão ập đến giờ đây được gọi là một phép màu của bản năng, lòng dũng cảm và lòng trung thành.

Theo những người ứng cứu khẩn cấp, chú chó đã bám chặt lấy cô bé trong suốt cơn hỗn loạn – che chở cho cô bé khỏi gió, cái lạnh và những mảnh vỡ. Dấu chân in trên bùn cho thấy nó thậm chí còn giúp dẫn đường cho cô bé đến nơi trú ẩn, đẩy cô bé vào dưới công trình duy nhất còn sót lại sau trận lũ.

“Chúng tôi tin rằng chú chó này đã cứu mạng cô bé”, một nhân viên cứu hộ nói, vẫn đang cố kìm nén cảm xúc. “Nó chưa bao giờ rời xa cô bé.”

Những bức ảnh chụp cặp đôi lấm lem bùn đất – cô bé nằm trên bộ lông ướt đẫm của chú chó, cả hai đều chớp mắt trước ánh đèn flash của đội cứu hộ – đã lan truyền chóng mặt, khiến trái tim tan chảy trên toàn cầu.

Và điều bất ngờ là gì?

Đó thậm chí không phải là chó của cô bé.

Không ai biết nó đến từ đâu, làm thế nào nó tìm thấy cô bé, hay tại sao nó lại ở lại. Nhưng giờ đây, nhiều người gọi con vật là thiên thần hộ mệnh có bàn chân – một người lạ xuất hiện đúng lúc và từ chối rời đi cho đến khi có sự trợ giúp.

Cô bé hiện đã an toàn, đang hồi phục tại nhà cùng gia đình. Còn chú chó thì sao? Người dân địa phương đã bắt đầu vận động để nhận nuôi người hùng bí ẩn này, mặc dù nhiều người cho rằng đã rõ nó đã chọn ai để bảo vệ.

Nguồn: news.topnewsource

Ảnh: Trí tuệ nhân tạo


 

QUEN VỚI NGƯỜI CHẾT HAY SAO MÀ CÚI ĐẦU CHÀO TIỄN HỌ VẬY ?

Xuyên Sơn

Buổi trưa, giờ tan học, trước cổng trường Tiểu học đang có rất nhiều phụ huynh chờ đón con, người thì dõi mắt tìm kiếm, người gọi tên con mình …

​Lúc ấy, có xe đám tang đi ngang qua. Nhiều người ngước nhìn xe đưa tang, bày tỏ sự phấn khích khi đội nhạc cử kèn trống vang lên inh ỏi.

Họ bàn tán xôn xao, có người khen ban kèn Tây chơi toàn nhạc Trịnh Công Sơn “nghe hết sảy”,

người khác góp ý như thế thì không hợp với khung cảnh, đáng lẽ phải chơi bài Lòng mẹ, Tình cha …

Duy nhất trong số phụ huynh đang ồn ào đó, có người đàn ông trên 50 tuổi lặng lẽ bước xuống xe, lấy chiếc mũ bảo hiểm đang đội trên đầu cầm tay rồi đứng thẳng người, đầu hơi cúi một chút.

Ông cứ đứng vậy, yên lặng chờ xe tang đi qua mới ngước mặt gọi cháu lên xe đi về.

Người đứng bên cạnh tỏ vẻ ngạc nhiên hỏi:

– “Ủa, ông quen với người chết hay sao mà cúi đầu chào tiễn họ vậy?”.

Ông trả lời:

– “Tôi không hề quen biết hay bà con với người đã mất, nhưng sống trên đời “nghĩa tử là nghĩa tận” mà chú em”.

Rồi ông giải thích:

– “Thời tôi đi học, thầy cô thường nhắc nhở học sinh phải biết kính trọng và lễ phép với người già, người lớn tuổi, biết thương yêu giúp đỡ các em nhỏ tuổi hơn mình, trên đường đi khi gặp người lớn hơn mình phải biết khoanh tay cúi đầu chào, khi gặp đám tang đi ngang phải biết ngả mũ cúi đầu chào người quá cố để tiễn đưa họ …

Chính vì vậy mà các việc ấy bây giờ trở thành thói quen với tôi, mà thói quen thì không bao giờ quên được, việc tôi làm chỉ xem là phản xạ tự nhiên từ nhỏ cho đến bây giờ”.

Tôi nghe ông nói, ngẫm nghĩ đó chỉ là chuyện nhỏ, chuyện đạo làm người mà hình như bây giờ trong xã hội không còn tồn tại hình ảnh đẹp hết sức trân trọng đó.

Tôi mong sao những bài học đạo đức như vậy được chú trọng dạy trong trường, thay vì chỉ tập trung dạy kiến thức sách vở để trẻ có thể hình thành những thói quen tốt trong cuộc sống, như có thể giữ yên lặng và cúi chào tiễn đưa khi gặp đám tang đi qua.

Tiếc thay học tập và làm theo tấm gương đạo đức… trong sách vở hiện nay chẳng có trang nào dạy như vậy.

TRẦN VĂN TÁM


 

NHẬT BẢN VÀ VIỆT NAM….

Xuyên Sơn

Cách đây mấy ngày thấy có tờ báo đăng tin 2 thanh niên Nhật Bản bị bắt vì tội…dùng đũa cá nhân để gắp gừng trong chiếc lọ đựng gia vị trên bàn ăn của một nhà hàng, rồi quay clip và post lên mạng xã hội. Chủ quán báo cảnh sát, vì hành động “mất vệ sinh” này làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của họ! 

Thôi, chắc không cần bình luận nữa về sự nghiêm ngặt của luật pháp xứ ấy.

Tình cờ là cũng hôm trước, tôi có mấy người bạn ghé chơi, trong đó có 2 người mới từ Nhật về nước. 

Một ông nói, đi 7 năm, về VN 2 tháng rồi nhưng vẫn bị “sốc nhiệt”. 

Tôi hỏi vì sao bên đó đang làm ăn ngon lành thế mà lại về làm gì. 

– Bị đuổi về. Vi phạm pháp luật.

Anh ta kể rằng buôn xe ô tô, mua phải một chiếc xe ăn cắp, bị bắt và giam 15 ngày, sau khi điều tra, kết luận đúng là mua nhầm chứ không phải tự mình ăn cắp, thì được thả nhưng trục xuất luôn. 

Lạ là, dù bị bắt tạm giam, nhưng việc đầu tiên là cảnh sát hỏi về thực đơn và thói quen ăn uống của mình, thích ăn những món gì, khẩu vị ra sao…, có nhu cầu gì thay đổi về đồ ăn thì cứ “yêu cầu”, họ phải đáp ứng hết. 

Bị giam nhưng nhiều lúc quên mất là mình đang phạm tội, vì nào là kêu bật điều hòa, tăng nhiệt độ, giảm nhiệt độ, rồi nói đi mua thứ này, đi lấy thứ kia…, cảnh sát chỉ việc “ngoan ngoãn” làm theo yêu cầu. Không bao giờ có chuyện to tiếng hay tỏ thái độ bất lịch sự với mình, chỉ một lòng cúc cung “phục vụ”.

“Hết 15 ngày sau khi đã có kết luận thì được thả, về Đại sứ quán đang chuẩn bị lên đường hồi hương theo lệnh của chính quyền Nhật thì có người của sở cảnh sát tới, mang theo một chiếc áo. Chiếc áo này tôi bỏ quên ở chỗ giam giữ. Mà thực ra cũng chẳng phải bỏ quên, áo rẻ tiền, lại cũ rồi, vứt đi chứ lấy làm gì. Nhưng họ phái 3 cảnh sát mang tới tận nơi, hỏi có phải áo của anh không, giao lại đường hoàng rồi mới đi”.

Ở Nhật, nếu vì lý do nào đó mà anh “ngủ bờ ngủ bụi” thì sẽ có cảnh sát đứng canh cho ngủ, không để ai làm phiền, khi nào anh tỉnh dậy họ có làm gì mới làm, tuyệt đối không quấy rầy giấc ngủ của anh, chỉ tận tụy đứng đó, giữ đồ và  “canh giấc ngủ” cho anh!

Ông bạn này còn kể, có một ông già độc thân, cứ thi thoảng lại ăn trộm ít trái cây trong vườn nhà hàng xóm, để được đi tù! 

Thế là cứ ra tù là lại liền ăn trộm, vì ở trong tù sướng hơn ở ngoài nhiều. Trong đó, được chăm sóc tận tình và đối xử tử tế. 

Ở Nhật, cảnh sát và người nhà nước đúng nghĩa là “đầy tớ” luôn. 

Thử vi phạm giao thông mà xem, cứ ngồi trong xe bật điều hòa mát, 

họ tới ăn nói lễ phép, chỉ thiếu khúm núm xin được kiểm tra nữa thôi. 

Không bao giờ có chuyện hách dịch kiểu như ở VN chứ đừng nói chuyện vòi tiền…

Anh ta nói, ở Nhật đúng là có hơi “phát xít” thật, vì quy tắc rất nghiêm, cái gì cũng phải nhất nhất tuân thủ, nhưng quyền con người cao lắm, không ai được nhân danh nhà nước để xúc phạm hay đối xử thô bạo với anh, dù anh có phạm tội gì đi chăng nữa.

Còn một chuyện lạ đời này nữa: ví dụ, người dân trồng vài cây trái trong vườn nhưng chủ yếu để cho đẹp chứ rất ít khi ăn, thường để rụng đầy gốc, rồi ra siêu thị mua về dùng. 

Lý do là cây trái tự mình trồng thật đấy, nhưng vẫn không “chắc ăn”, cứ ra cửa hàng hay siêu thị mua về, ăn nếu lỡ có vấn đề gì thì có chỗ mà bắt đền. 

Thực phẩm trên thị trường Nhật gần như tuyệt đối an toàn, và nếu có nơi nào bán đồ mà ăn vào “có vấn đề gì” thì chỗ đó chỉ có điêu đứng. 

Oái oăm thay, ở ta mà muốn bán được hàng thì phải kèm theo câu “nhà làm”…

Những chuyện lan man không đầu không đuôi như thế nhưng cứ làm hiện dần lên hình ảnh của 2 đất nước, như thuộc về hai cõi khác nhau. 

Đến bao giờ chúng ta mới có được một xã hội vừa nghiêm khắc nhưng lại cũng rất tự do và nhân văn, không còn coi “Sinh mạng con người chỉ như cái móng tay”* 

mà vụ án cô giáo Dung vừa minh họa một cách hùng hồn?

Ông bạn bảo, 200 năm nữa, may ra…

*Lời thơ cô giáo Trần Thị Lam:

“Đất nước mình lạ quá phải không anh

Những chiếc bánh chưng vô cùng kì vĩ

Những dự án và tượng đài nghìn tỉ

Sinh mạng con người chỉ như cái móng tay…”

Nguồn fb Thái Hạo


 

Chọn cái chết  cho em mình được sống

Anh Chi -Tâm Thức Việt  

Chọn cái chết  cho em mình được sống.

Cô đã mang đôi giày của mình cho em gái để sống sót qua cuộc “lựa chọn” — 1944

Giữa mùa đông khắc nghiệt năm 1944 ở trại Auschwitz, sự sống hay cái chết đôi khi được quyết định chỉ trong vài giây ngắn ngủi.

Với Dina, 19 tuổi, và em gái cô, khi run rẩy xếp hàng chờ bị SS thẩm tra, vài giây ấy đã trở thành ranh giới sinh tử.

Dina nhận ra em gái mình đang khập khiễng—một dấu hiệu của sự yếu đuối, và điều đó đồng nghĩa với cái chết trong mắt viên bác sĩ SS.

Không chút do dự, Dina cúi xuống và đổi giày cho em—nhường lại đôi giày vừa chân hơn.

Khi viên bác sĩ bước tới, em gái cô được xem là còn đủ sức lao động và được giữ lại sống.

Còn Dina—trong đôi giày rộng, bước chân không còn vững—bị đưa sang hàng dành cho phòng hơi ngạt.

Lúc bị kéo đi, cô chỉ kịp thì thầm:

“Hãy đi thật nhanh nhẹn trong đôi giày của chị.”

Nhiều năm sau, người em còn sống đã kể lại câu chuyện ấy cho các cháu mình:

“Từng bước chân trong đời của bà… đều bắt đầu từ sự hy sinh của chị gái.”

Đó là một hành động lặng lẽ, cuối cùng, của tình yêu – nhưng vĩnh viễn khắc sâu trong ký ức về thảm họa diệt chủng.

#Auschwitz1944 #TìnhChịEm #SựHySinhThầmLặng

#ĐôiGiàySốngSót #KhôngBaoGiờQuên #HolocaustMemories

St


 

QUỞ TRÁCH – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Khốn cho ngươi, hỡi Corozain! Khốn cho ngươi, hỡi Bethsaiđa!”.

“Sự thánh thiện của Thiên Chúa không bao giờ im lặng trước sự khước từ của con người. Phản ứng đúng đắn của bạn không phải là nín thinh, chịu đựng những lời quở trách này, mà là nhớ xem ai là người yêu cầu điều này – Chúa và lợi ích của Chúa!” – Ray Stedman.

Kính thưa Anh Chị em,

“Khốn cho ngươi!”. Những lời của Chúa Giêsu hôm nay khá gây sốc. Động cơ bên trong của những ‘quở trách’ này là gì? Động cơ của nó vẫn là Chúa và lợi ích của Chúa; nói cách khác, tình yêu đầy nhân ái của Ngài phải được đáp trả.

Chỉ vì yêu thương và mong muốn họ thay đổi, Chúa Giêsu nặng lời với dân các thành vốn vẫn cứng lòng trước những giáo huấn và các phép lạ Ngài làm. Hành động của Ngài thoạt tiên như một cảm xúc giận dữ, nhưng đó là sự khác biệt mang tính quyết định! Ngài không ‘quở trách’ vì giận; nhưng Ngài lên tiếng vì họ cần thay đổi một lối sống. “Ân sủng được trao không để ngắm nhìn, mà để biến đổi!” – Henry Newman.

Sự thật tương tự cũng có thể áp dụng cho chúng ta. Đôi khi chúng ta được biến đổi và chiến thắng một tội lỗi nhờ một lời mời gọi nhẹ nhàng của ân sủng; tuy nhiên, vào những lúc khác, khi tội lỗi quá nghiêm trọng, chúng ta cần một lời ‘quở trách’ quyết liệt hơn. Nếu bạn đang rơi vào trường hợp này, hãy nghe những lời hôm nay của Chúa Giêsu như thể được dành riêng cho bạn. Vì lẽ, đây có thể là một hành động xót thương cụ thể mạnh mẽ mà chúng ta đang cần. “Tình yêu không luôn nói lời ngọt ngào. Đôi khi, nó là tiếng thét cuối cùng để kéo ai đó khỏi vực sâu!” – Soren Kierkegaard.

“Khốn cho con, khốn cho con! Vì Ta đã ban cho con quá nhiều. Ta ban cho con chính Ta, Ta chọn con là Kitô hữu, nhưng con lại thích một cuộc sống hời hợt, nửa vời: một chút Kitô giáo với một chút nước thánh và không có gì hơn! Sống theo kiểu đạo đức giả, điều cuối cùng chúng ta làm, là loại Chúa Kitô ra khỏi trái tim mình. Chúng ta vờ có Ngài, nhưng đã đuổi Ngài ra ngoài. “Là Kitô hữu, chúng tôi tự hào là Kitô hữu!”, nhưng chúng ta sống như những người ngoại đạo! Thái độ này giản lược Tin Mừng thành một sự kiện xã hội hoặc một tương giao xã hội hơn là mối quan hệ cá nhân với Chúa Giêsu. Và Kitô giáo trở thành một thói quen xã hội, một bộ quần áo tôi mặc rồi vứt sang một bên. Chúa Giêsu khóc thương vì chúng ta sống theo một Kitô giáo ‘chính thức’ chứ ‘không đích thực!’” – Phanxicô.

Anh Chị em,

“Khốn cho con, khốn cho con!”. Hãy ngẫm xem bạn có cần được Chúa Giêsu ‘quở trách?’. Nếu có, hãy để những lời yêu thương nghiêm khắc này thấm nhuần! “Đấng yêu thương bạn thật lòng sẽ không ngại chỉ ra những vết thương nơi bạn – không để làm nhục bạn, nhưng để bạn được chữa lành!” – Augustinô. Đến lượt mình, chúng ta cũng hãy suy gẫm về trách nhiệm của mình trong việc sửa chữa lầm lỗi của những người khác. Đừng ngại thực hiện một hành động yêu thương thiêng liêng dưới hình thức ‘quở trách’ rõ ràng, mạnh mẽ. Nó có thể là chìa khoá để giúp những người bạn yêu thương trở về với Chúa.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con hiểu rằng, ân sủng không bao giờ là một thứ trang sức. Nó đòi con biến đổi!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

*************************************************

Lời Chúa Thứ Ba Tuần XV Thường Niên, Năm Lẻ

Đến ngày phán xét, thành Tia, thành Xi-đôn và đất Xơ-đôm còn được xử khoan hồng hơn các ngươi.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.   Mt 11,20-24

20 Khi ấy, Đức Giê-su bắt đầu quở trách các thành đã chứng kiến phần lớn các phép lạ Người làm mà không sám hối. Người nói :

21 “Khốn cho ngươi, hỡi Kho-ra-din ! Khốn cho ngươi, hỡi Bết-xai-đa ! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xi-đôn, thì họ đã mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối từ lâu rồi. 22 Vì thế, Ta nói cho các ngươi hay : đến ngày phán xét, thành Tia và thành Xi-đôn còn được xử khoan hồng hơn các ngươi. 23 Còn ngươi nữa, hỡi Ca-phác-na-um, ngươi tưởng sẽ được nâng lên đến tận trời ư ? Ngươi sẽ phải nhào xuống tận âm phủ ! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi ngươi mà được làm tại Xơ-đôm, thì thành ấy đã tồn tại cho đến ngày nay. 24 Vì thế, Ta nói cho các ngươi hay : đến ngày phán xét, đất Xơ-đôm còn được xử khoan hồng hơn các ngươi.”


 

Khoa học gia Dương Nguyệt Ánh bác bỏ tin đồn được Trump tham vấn và vinh danh

Ba’o Nguoi- Viet

July 12, 2025 

Triều Giang

TYSONS, Virginia (NV) – Trong những ngày gần đây, có nhiều tin đồn xoay quanh khoa học gia Dương Nguyệt Ánh về việc 14 quả bom được thả xuống ba cơ sở nguyên tử tại Iran là loại bom do bà chế tạo, nhất là sau khi Tổng Thống Donald Trump ra lệnh cho sáu phi cơ B2 thả 14 quả bom xuyên boongke.

Khoa học gia Dương Nguyệt Ánh. (Hình: Tài liệu Người Việt)

Dư luận càng lan truyền rằng đó là bom nhiệt áp do bà Dương Nguyệt Ánh và các đồng nghiệp phát triển, và rằng bà đã được Tổng Thống Trump mời vào Tòa Bạch Ốc để tham vấn và vinh danh.

Nhân dịp chúng tôi liên lạc để kính mời bà tham dự với tư cách khách danh dự trong chương trình Tưởng Niệm 50 Năm Viễn Xứ và Tri Ân – VIETNAMERICA The Musical sẽ được tổ chức vào Chủ Nhật, 7 Tháng Chín, tại nhà hát Capital One Hall, Tysons, Virginia, chúng tôi cũng xin nêu vấn đề này ra vì có rất nhiều người đã thắc mắc và hỏi chúng tôi.

Bà Dương Nguyệt Ánh cho biết, loại bom bà và các đồng nghiệp từng phát triển là BLU-118/B – một loại bom dẫn đường bằng laser, được thiết kế để xuyên sâu vào những không gian chật hẹp như hệ thống đường hầm dưới lòng đất mà Al Qaeda chiếm giữ ở Afghanistan ngay sau vụ tấn công khủng bố Tháp Đôi ở New York năm 2001 – thì loại bom này cũng có một số điểm tương đồng với bom GBU-57 Massive Ordnance Penetrator, xuyên boongke đã được sử dụng tại Iran nhưng không phải là một.

Mặc dù những người phát triển bom GBU-57 dùng ở Iran này cũng là những nhà khoa học mà bà từng biết và từng cộng tác, nhưng đó hoàn toàn không phải là BLU-118/B mà bà và nhóm của bà đã chế tạo.

Riêng về tin đồn bà được mời tới Phòng Tình Huống để tham vấn và được Tổng Thống Trump vinh danh, bà khẳng định đây hoàn toàn là thông tin thất thiệt. Bởi lẽ bà đã nghỉ hưu từ khá lâu và không còn sinh hoạt, hay công tác gì tại Bộ Hải Quân hay Bộ Quốc Phòng – nơi bà từng làm việc. Bà cũng cho biết không hề có chuyện được Tổng Thống Trump vinh danh.

Chúng tôi xin trích một đoạn ngắn trong bức điện thư mà bà gửi cho chúng tôi dưới đây để làm rõ sự thật: “Xin chị giúp cải chính giùm Ánh là Ánh đã về hưu, không có phận sự gì trong vụ thả bom ở Ba Tư và không có tiếp xúc nào với Tổng Thống Trump. Đó chỉ là những tin giật gân bịa đặt trên mạng để dụ cho mọi người click vào. Ánh đã cố cải chính nhưng không xuể.”

Bà cũng gửi cho chúng tôi đường dẫn đến bài báo của New York Times phỏng vấn bà và phát hành vào đầu Tháng Bảy vừa qua nhân dịp Tổng Thống Trump cho thả bom tại Iran.

“Bài báo dưới đây đăng trên trang nhất của tờ New York Times số Sunday, 6 July, mới là bài báo chân chính, của ký giả Elizabeth Williamson viết về Ánh. Vì bài này đã xuất hiện trên website của NYT từ Thứ Hai tuần trước nên cũng có một người nào đó ký tên Y Nguyên tự ý dịch lại với nhiều chỗ sai và tệ nhất là không ghi xuất xứ từ bài báo của NYT, làm như chính Y Nguyên mới là tác giả,” bà chia sẻ.

Chúng tôi xin dịch một phần quan trọng bài báo của ký giả Elizabeth Williamson phỏng vấn khoa học gia Dương Nguyệt Ánh đăng trên New York Times để kính tường:

“Sau khi Hoa Kỳ thả 14 quả bom xuyên boongke (bunker buster) xuống hai cơ sở nguyên tử ở Iran, bà Ánh Dương đã tra cứu thông tin kỹ thuật về loại vũ khí này và cảm thấy một sự quen thuộc trào dâng. Bà Ánh, 65 tuổi, là một cựu thuyền nhân tị nạn chiến tranh Việt Nam, từng vượt thoát khỏi Sài Gòn và cùng gia đình tìm được nơi nương náu tại Washington.

Từ lâu đã quyết tâm đền đáp lại đất nước đã cưu mang mình, bà đã có cơ hội làm điều đó chỉ một tháng sau vụ khủng bố ngày 11 Tháng Chín, 2001, khi bà là trưởng nhóm các nhà khoa học quân sự Mỹ phát triển một loại thuốc nổ cùng họ với bom xuyên boongke được sử dụng ở Iran. Đó là BLU-118/B, một loại bom dẫn đường bằng laser được thiết kế để xuyên sâu vào các không gian chật hẹp như hệ thống đường hầm dưới lòng đất mà Al Qaeda chiếm giữ ở Afghanistan.

BLU là viết tắt của ‘Bomb Live Unit,’ chứ không phải ‘Big, Loud and Ugly’ (to, ồn và xấu xí) – ‘dù có lẽ lính tráng hay nói vậy,’ bà Ánh chia sẻ trong một buổi phỏng vấn tại ngôi nhà ở ngoại ô Maryland. Quả bom này tạo ra một vụ nổ nhiệt độ cao và kéo dài, ‘để quân mình không phải đi bộ vào tận trong đồi núi hay hang động để truy quét,’ bà nói. Được sử dụng nhiều lần ở Afghanistan, loại vũ khí do ‘Bomb Lady’ của Hải Quân và nhóm của bà phát triển được nhiều người cho là đã góp phần rút ngắn cuộc chiến dài nhất của nước Mỹ.

Trước khi thiết kế BLU-118/B, bà Ánhg và nhóm của mình đang nghiên cứu thế hệ mới của các loại ‘thuốc nổ hiệu suất cao, ít nhạy’ có thể chịu được va chạm và rung lắc trong quá trình vận chuyển.

Bà Ánh không tham gia vào cuộc tranh luận về mức độ thiệt hại mà các quả bom gây ra cho chương trình nguyên tử của Iran. (Tổng Thống Trump khẳng định cuộc tấn công đã ‘xóa sổ’ các cơ sở nguyên tử của Iran và ông còn đe dọa kiện các cơ quan truyền thông đã nghi ngờ điều đó, bao gồm cả việc họ trích dẫn báo cáo sơ bộ của Cơ Quan Tình Báo Quốc Phòng cho rằng chương trình của Iran có thể chỉ bị trì hoãn vài tháng. Ngoại Trưởng Marco Rubio thì cho rằng chương trình này đã bị lùi lại nhiều năm vì Mỹ và Israel đã phá hủy một cơ sở then chốt ở Isfahan, nơi dùng để chuyển đổi nhiên liệu nguyên tử thành vũ khí – nhưng cơ sở đó lại bị tấn công bằng hỏa tiễn của Israel và Mỹ chứ không phải bằng bom xuyên boongke.)

Cuối cùng, bà Ánh nói, mức độ thành công của quả bom không thể được đo lường từ Washington, Israel hay thậm chí Tehran. ‘Hãy nghĩ xem, mình đã đánh bom một cơ sở nguyên tử ngầm dưới lòng đất. Không thể an toàn để cử người vào đó. Tôi đoán phải rất lâu nữa mới có thể tiến hành một đánh giá thực sự, trực tiếp,’ bà nói.” [qd]

—–
Nguyên văn bài báo xin vào đường dẫn: nytimes.com/2025/06/30/us/politics/bomb-iran.html?unlocked_article_code=1.TE8.zzwW.QesTxmugsE_X&smid=nytcore-ios-share&referringSource=articleShare.


 

VĨNH CỬU – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã, người đó sẽ  không mất phần thưởng đâu!”.

Nhà thờ cẩm thạch Milan nổi tiếng với ba dòng chữ trên ba ô cửa. Ô thứ nhất, “Những gì làm hài lòng, chỉ là tạm thời!” trang trí với một vòng hoa hồng; ô thứ hai, “Những gì gây phiền nhiễu, chỉ là phút chốc!” với một cây thánh giá; và ô cửa chính, “Chỉ vĩnh cửu mới quan trọng!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu bất ngờ khai triển ý lực “Chỉ vĩnh cửu mới quan trọng!”. Không phải những gì to tát, nhưng những gì nhỏ bé – cho ai một chén nước lã vì danh Chúa – thì ‘hành vi nhân linh’ này vẫn mang chiều kích ‘vĩnh cửu!’.

Việc trao một ly nước sẽ không gây chú ý, nhiều khả năng chỉ người cho và người nhận biết. Tuy nhiên, Chúa Giêsu xem hành động tử tế này có giá trị vô song. Ly nước ‘biểu tượng’ cho bất kỳ hành động bác ái nào – dù nhỏ bé đến đâu – vẫn được Chúa trân trọng. “Điều vĩ đại trong đời sống Kitô hữu không nằm ở sự kiện lớn, nhưng ở chỗ: giữa đời thường, bạn vẫn hành động như thể sự sống đời đời đang chảy qua mọi điều nhỏ nhất!” – Karl Rahner. Như vậy, một hành động đơn sơ vì thiện ích tha nhân sẽ luôn bất tử.

Tình yêu được thể hiện bằng những điều nhỏ – biểu lộ sự quan tâm – khiến con người cảm thấy ấm áp! Những gì tình yêu cần là những hành động cỏn con; một lời chúc ngủ ngon, một cái ôm hôn sau một ngày làm việc. Tình yêu không có thời gian để chờ đợi một vườn hồng hay một cánh đồng hồng; nó chỉ cần những nụ hồng hàm tiếu được trao nhiều lần trong ngày! “Mỗi hành động nhỏ trong đời thường, nếu được làm vì tình yêu Thiên Chúa và tha nhân, đều trở nên bất tử!” – Elisabeth Leseur.

Thế giới hiện đại luôn có khuynh hướng coi những gì lớn lao mới có giá trị; với Chúa Giêsu thì không! Vì thế, người ta có thể trao cho rất nhiều người một ‘điều gì đó’ chỉ tương đương với một ly nước lã; và với Ngài – chỉ ngần ấy thôi – vẫn có thể khiến một điều gì đó xảy ra, ‘một Ai đó’ hiện diện, “Ai tiếp đón anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy!”.

Anh Chị em,

“Người đó không mất phần thưởng đâu!”. Phần thưởng ở đây là chính Thiên Chúa. Chúa Giêsu bảo đảm, khi chúng ta tiếp đón nhau là chúng ta tiếp đón Ngài, tiếp đón Chúa Cha. Như thế, chúng ta đang đứng trên đất thánh mọi lúc vậy! “Chúa không chỉ hiện diện trong các nhà thờ, Ngài ở đó – nơi có người dang tay đón người khác – nơi nước được chia, bánh được bẻ. Tình yêu làm Ngài hiện hình!” – Phanxicô. Vì thế, ở đâu có lòng tốt, sự quan tâm và lòng hiếu khách; ở đó, có Chúa. Những cuộc gặp gỡ như thế có một phẩm chất bí tích thực sự; bởi lẽ, chính chúng ta đang làm cho Thiên Chúa hiện diện khắp nơi. “Tình yêu được sống cách cụ thể có một sức mạnh bí tích: nó khiến Chúa có mặt. Bất cứ nơi đâu có sự hiệp thông yêu thương thật, nơi đó có Thiên Chúa!” – Chiara Lubich.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con hiểu rằng, bác ái trong những điều vô danh, nhỏ bé – đó là lúc con để Chúa bước vào thế giới cách sâu thẳm nhất!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

********************************************************

Lời Chúa Thứ Hai Tuần XV Thường Niên, Năm Lẻ

Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.   Mt 10,34 – 11,1

10 34 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất ; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. 35 Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. 36 Kẻ thù của mình chính là người nhà.

37 “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. 38 Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. 39 Ai tìm giữ mạng sống mình, thì sẽ mất ; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được.

40 “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.

41 “Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ ; ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính.

42 “Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.”

11 1 Khi Đức Giê-su ra chỉ thị cho mười hai môn đệ xong, Người rời chỗ đó, đi dạy dỗ và rao giảng trong các thành thị trong miền.


 

THIÊN ĐÀNG VÀ HOẢ NGỤC – Cao Gia An, S.J. 

Cao Gia An, S.J. 

Câu hỏi Con nghe người ta nói là năm 1999 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã từng tuyên bố: Thiên Đàng không ở trên chín tầng mây, hoả ngục cũng không ở trong lòng đất. Nếu thế, không lẽ Đức Cố Giáo Hoàng đi ngược lại với Giáo Lý Công Giáo? Hơn nữa, còn mâu thuẫn với bí mật thứ nhất Fatima khi ba trẻ được Đức Mẹ cho thấy hoả ngục dưới lòng đất? 

******

Câu hỏi này sẽ được trả lời theo hai bước. Thứ nhất, thay vì nghe “người ta nói”, chúng ta thử lục lại xem thật sự Đức Cố Giáo Hoàng đã nói gì. Tiếp đó, chúng ta sẽ cùng phân tích chính những điều Đức Cố Giáo Hoàng đã nói, để xem liệu có thật những điều Ngài nói đi ngược với Giáo Lý Công Giáo (GLCG) hay ngược với bí mật thứ nhất của Fatima không nhé! Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã nói gì? Điều mà bạn “nghe người ta nói” có vẻ như có liên hệ đến hai bài nói chuyện của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolo II trong buổi tiếp kiến khách hành hương tại Quảng Trường Thánh Phêrô vào hai ngày Thứ Tư cuối tháng 7 năm 1999. Đức Cố Giáo Hoàng đã dựa trên nền tảng Kinh Thánh và các suy tư thần học để quảng diễn về ý nghĩa của Thiên Đàng và Hoả Ngục. Có thể tìm đọc hai bài này ở trang web chính thức của Vatican.

Đây là link của bài nói chuyện ngày 21 tháng 7: http://w2.vatican.va/content/johnpaul-ii/en/audiences/1999/documents/hf_jp-ii_aud_21071999.html.

Có thể tạm tóm lược điều Ngài nói như sau: Được làm người, con người nào cũng có một cùng đích tối hậu là được thông hiệp trọn vẹn với Thiên Chúa Ba Ngôi. Sự thông hiệp trọn vẹn này được gọi là “Thiên Đàng”. Tư tưởng này được Đức Cố Giáo Hoàng trích từ sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo:

“Thiên Đàng là cùng đích tối hậu và là thành toàn của khát vọng sâu thẳm nhất trong mọi trái tim con người, là tình trạng hạnh phúc tối cao và viên mãn” (GLCG, số 1024). Đức Giáo Hoàng còn quãng diễn rằng: Theo dòng văn chương Kinh Thánh, Thiên Đàng là một lối nói ẩn dụ để chỉ về “nơi” Thiên Chúa ngự. Nhưng nơi ấy không được hiểu theo nghĩa không gian địa lý. Ngài lại trích dẫn Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo: “Thiên Đàng là cộng đoàn của tất cả những ai hoàn toàn được tháp nhập trong Đức Kitô, được hưởng nhờ Ơn Cứu Độ từ Đức Kitô” (GLCG, số 1026).

Như thế, Thiên Đàng không phải là một khái niệm trừu tượng nay một nơi chốn địa lý nào đó trên chín tầng mây, nhưng là một mối tương quan sống động và cá vị với chính Ba Ngôi Thiên Chúa.

Còn đây là link của bài nói chuyện ngày 28 tháng 7 http://w2.vatican.va/content/johnpaul-ii/en/audiences/1999/documents/hf_jp-ii_aud_28071999.html.

Có thể tạm tóm lược điều Ngài nói như sau: Hoả ngục là nơi dành cho những người chủ ý từ khước tình yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa, tự tách mình ra khỏi sự kết hiệp hạnh phúc với Người. Đây là điều mà Giáo Hội gọi là “sự kết án đời đời”, là hoả ngục. Đức Cố Giáo Hoàng lại trích dẫn Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo: “Chết trong tình trạng còn mang tội trọng, lại từ chối hoán cải và từ chối chấp nhận lòng thương xót của Thiên Chúa, đồng nghĩa với việc tự do chọn xa cách Thiên Chúa mãi mãi.

Tình trạng tự mình loại mình ra khỏi sự hiệp thông với Thiên Chúa như thế được gọi là hoả ngục” (CLCG, số 1033).

Như thế, hoả ngục không phải là một hình phạt do Thiên Chúa áp đặt trên con người, nhưng là hậu quả tất yếu của lựa chọn tự do của con người khi phạm tội và tự cách ly mình khỏi Thiên Chúa, Đấng là nguồn mạch của mọi niềm vui và hạnh phúc. Như vậy, hoả ngục không phải là một nơi nào đó dưới lòng đất, nhưng là tình trạng của những người chọn lựa từ chối tình yêu và lòng thương xót của Chúa, thậm chí trong chính giây phút cuối cùng của đời mình. Điều Đức Cố Giáo Hoàng nói có đi ngược với GLCG? Bạn thấy đấy, trong cải hai bài nói chuyện, để quãng diễn về hình ảnh Thiên Đàng và hoả ngục, Đức Cố Giáo Hoàng đều dựa trên nền tảng Kinh Thánh và những suy tư thần học. Đặc biệt, Ngài minh nhiên trích dẫn GLCG. Vậy, nếu dựa vào chính điều Đức Cố Giáo Hoàng đã nói, liệu bạn có thể kết luận rằng Ngài đi ngược với GLCG không? Thiên Đàng không ở trên chín tầng mây, theo nghĩa như là một nơi chốn địa lý cụ thể nào đó cách xa khỏi trần gian này. Ấy là một tuyên bố đúng đắn. Não trạng bình dân hay nghĩ về Thiên Đàng như một nơi chốn trên trời cao. Nhưng đó là lối nói ẩn dụ, chứ không thể hiểu theo nghĩa đen được. Có bao giờ bạn nghe nói về những Thiên Đàng tại thế không? Ấy là những thời khắc mà người ta được sống trong tâm trạng bình an, hoan lạc, hạnh phúc, chẳng hạn như khi người ta cảm nghiệm được sự kết hợp ngọt ngào với Thiên Chúa trong cử hành Thánh Lễ, được kết hợp với Chúa qua Bí Tích Thánh Thể, cảm nghiệm được sự an ủi thiêng liêng của Ngài, cảm nghiệm được sự hiện diện gần gũi và thân mật của Ngài. Đó có thể chỉ là những giây phút ngắn ngủi. Nhưng trong những giây phút ấy, có thể nói rằng con người được cảm nếm Thiên Đàng tại thế rồi. Cũng vậy, Hoả Ngục dưới lòng đất cũng chỉ là một lối nói ẩn dụ dân gian. Sự phát triển của khoa học ngày nay cho thấy trong lòng đất làm gì có một nơi chốn gọi là Hoả Ngục. Thật ra, đâu cần phải xuống tận sâu lòng đất với những lò lửa cháy hừng hực thì mới gọi là hoả ngục.

Trong cuộc sống thường ngày, đâu hiếm những trường hợp cuộc sống của người ta trở thành Hoả Ngục. Chẳng phải bạn vẫn từng nghe “cuộc sống như địa ngục” đấy sao? Đó không phải là một nơi chốn cụ thể, nhưng là một tình trạng, một cảnh huống bi thảm và đau khổ. Cuối cùng, cần thấy rằng điều Đức Cố Giáo Hoàng nói hoàn toàn không có gì trái ngược với điều được gọi là “bí mật thứ nhất của Fatima”, như được kể lại trong nhật ký của nữ tu Lucia dos Santos. Để hiểu thấu đáo hơn về bí mật Fatima, có lẽ bạn nên đọc lại văn kiện chính thức của Giáo Hội, với sự trích dẫn nguyên văn và bút tích của sơ Lucia dos Santos. Bạn có thể tìm đọc ở đây:

https://www.vatican.va/roman_curia/congregations/cfaith/documents/rc_con_cfaith_doc_ 20000626_message-fatima_en.html

Theo đó, điều được gọi là “bí mật” thật ra là một thị kiến về Hoả Ngục. Sơ Lucia dos Santos đã viết lại trong nhật ký của mình kinh nghiệm về Hoả Ngục bằng ngôn ngữ của thị kiến. Chúng ta biết rằng, những người có thị kiến là những người được cho thấy về những điều vốn vượt quá sức hiểu biết và khả năng diễn đạt của con người. Bởi thế, để diễn tả về thị kiến, những hình ảnh ẩn dụ dân gian thường được sử dụng. Sơ Lucia đã mô tả hình ảnh kinh sợ của Hoả Ngục như là một biển lửa có vẻ như ở dưới lòng đất. Đây hoàn toàn không phải là một Mạc Khải về đức tin nhằm khẳng định rằng Hoả Ngục là một nơi ở dưới lòng đất. Hình ảnh “biển lửa”, “có vẻ như ở dưới lòng đất”, “tiếng than khóc rên la”… là những hình ảnh ẩn dụ mà con người có thể hiểu được, để nói về những đau khổ khốn cùng không cách nào diễn đạt trọn vẹn của Hoả Ngục, tình trạng của những người tội nhân bị vĩnh viễn kết án xa rời Thiên Chúa.

Hơn nữa, sứ điệp chính của thị kiến này cũng không chỉ dừng lại ở việc mô tả Hoả Ngục mà là lời kêu gọi việc sùng kính Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ, như là một sứ mạng cầu nguyện được gởi đến cho mọi người, nhằm xin ơn cứu rỗi cho những linh hồn đang khổ đau vì tình trạng bị lìa xa Thiên Chúa.

Thay lời kết Trước khi kết thúc, chúng ta thử phân tích thêm một chút về cách đặt câu hỏi của bạn nhé. Bạn khởi đầu câu hỏi của mình bằng cụm từ “con nghe người ta nói”. Đây là cách đặt câu hỏi thường thấy trong giới trẻ ngày nay. Chúng ta thường bắt đầu câu hỏi của mình bằng những thông tin “nghe người ta nói”. Sự phát triển của các phương tiện truyền thông mở ra cho chúng ta một thế giới bao la. Thật tốt khi chúng ta chịu khó đọc, chịu khó lượm lặt thông tin về Giáo Hội và về đức tin, chịu khó “nghe người ta nói”… Nhưng bạn biết không, cái biết từ việc nghe người ta nói là một cái biết rất đại khái. Trong cuộc sống thường ngày, có nhiều điều chúng ta “nghe người ta nói”, nhưng đâu phải điều gì người ta nói cũng đều đúng, phải không? Một người cẩn trọng là người phải tìm cách kiểm chứng rõ ràng điều mình “nghe người ta nói”, trước khi đặt niềm tin vào đó và dựa vào đó để suy diễn thêm. Trong câu hỏi của mình, bạn đã không thật sự dựa vào điều Đức Giáo Hoàng nói, chỉ dựa vào điều “người ta nói” rằng Đức Cố Giáo Hoàng đã nói. Giả như “người ta” ở đây là những người có ác ý, muốn công kích Đức Cố Giáo Hoàng, thì sao nhỉ? Nếu người ta nói theo hướng cắt xén và lèo lái lời của Ngài để tấn công Ngài, thì sao nhỉ? Liệu có phải cái phản ứng của bạn cũng đang bị người ta lèo lái và định hướng không? Như thế, cái lạ của bạn nằm ở chỗ này: khởi đi từ một điều “nghe người ta nói” chưa được kiểm chứng rõ ràng, bạn lại có xu hướng đi đến một kết luận đầy tính nghi nan: liệu Đức Cố Giáo Hoàng có đi ngược lại với Giáo Lý Công Giáo không? Nếu là một người được sinh ra trong lòng Giáo Hội Công Giáo, tại sao bạn lại chọn nghe và tin điều “người ta” xa lạ nào đó nói về điều Đức Giáo Hoàng đã nói, và phản ứng theo hướng đặt nghi nan về phía Đức Giáo Hoàng, là “người nhà” của mình? Đây là một điều dở, phải không? Nếu thật sự là một người tín hữu, mang trái tim của một người con trong Giáo Hội, bạn vẫn có thể chọn đứng về phía Đức Giáo Hoàng để chất vấn ngược lại điều “người ta nói” mà, đúng không? Chúc bạn tiếp tục phát huy nét đẹp của việc thích tìm tòi và học hỏi, nhằm đào sâu hiểu biết về Giáo Hội và đức tin của mình. 

Đồng thời, chúc bạn luôn mang một trái tim tin tưởng và bình an của một người con trong Giáo Hội. 

nguon:https://giaoly.org.


 

Ý TƯỞNG CỘNG SẢN CỦA FIDEL ĐÃ TÀN PHÁ CUBA NHƯ THẾ NÀO?!

Xuyên Sơn

Trước cuộc cách mạng 1959 của Fidel Castro, Cuba là một trong những quốc gia giàu nhất Mỹ Latin.

51 năm sau, trong buổi ăn trưa với nhà báo Mỹ Jeffrey Goldberg, vị cha đẻ cuộc cách mạng lật đổ một “kẻ độc tài thân Mỹ” để xây dựng một Cuba “anh hùng” làm “ngọn cờ đầu cho phong trào vô sản thế giới”, đã phải thừa nhận:

“Mô hình Cuba không còn hiệu quả cho chúng tôi”.

Có thể khác như thế được không, khi mà toàn bộ sinh lực quốc gia bị dành hết để mạ vàng cho cụm từ vô nghĩa “xã hội chủ nghĩa”?

Đây là cách mà sự điên rồ của một lãnh đạo có thể phá tan nát một quốc gia Đòn cấm vận của Mỹ chỉ là một yếu tố. Cho đến ngày 31 Tháng Bảy 2006 khi truyền hình nhà nước Cuba loan tin Fidel nhập viện phẫu thuật và tạm giao quyền cho em trai Raúl Castro, Cuba trông chẳng khác gì một mẩu xì gà cháy dở mà Fidel ném lại: nham nhở, nặng mùi và méo mó.

Di sản Fidel mà Raúl tiếp nhận khi ngồi ghế chủ tịch vào Tháng Hai 2008 là một “ngọn đuốc cách mạng” gần tàn. Không một thể chế kinh tế nào có thể phát triển nếu nó “kiên định” với đường lối phi thị trường.

Ấy thế Fidel vẫn ôm tất.

Cần biết, cho đến tận năm 2012, chế độ tem phiếu thực phẩm vẫn tồn tại.

Lúc đó, toàn Cuba chỉ có khoảng 600,000 xe hơi, hầu hết thuộc thập niên 1960 và ½ trong số đó là sở hữu nhà nước.

Lương tối đa trung bình chỉ $20 và bệnh viện xơ xác đến mức bệnh nhân phải tự mang theo tấm trải giường. Carmelo Mesa Lago thuộc Đại học Pittsburgh cho biết, sản lượng bình quân đầu người của 15 trong 22 ngành công-nông nghiệp vào năm 2007 thậm chí thấp hơn 1958!

Nông trại nhà nước chiếm 75% trong 6.7 triệu hecta đất nông nghiệp. Năm 2007, khoảng 45% trong số đó bị bỏ hoang.

Và dù là quốc gia duy nhất Mỹ Latin xem việc giết bò là tội phạm, số bò vẫn giảm từ 7 triệu năm 1967 xuống còn 4 triệu năm 2011.

Năm 2008, Raúl cho phép nông dân và hợp tác xã thuê đất trong thời hạn 10 năm (sau đó nâng lên 25 năm) nhưng bóng dáng nhà nước vẫn hiện diện.

Nông dân tiếp tục bị chi phối bởi Acopio – công ty nhà nước độc quyền cung cấp hạt giống, phân bón, thiết bị…, và là nơi duy nhất có thể mua sản phẩm nông dân!

Năm 2012, nông dân bắt đầu có thể bán “sản lượng thặng dư” nhưng chỉ giới hạn với 17 nông sản.

Tất cả điều đó đã dẫn đến một cảm thán của chính Raúl Castro mà bản thân ông phải hiểu rõ nguyên nhân: Cuba phải nhập 80% lương thực từ 2007-2009 với chi phí $1.7 tỉ/năm.

Trong cuộc phỏng vấn “CBS This Morning” (ngày 18 Tháng Mười Hai 2014), cựu Ngoại trưởng Mỹ Colin Powell, dù bày tỏ ủng hộ chính sách tái lập quan hệ với Havana, nói rằng Cuba vẫn là “một chế độ kinh khủng”.

Điều gì khiến Powell nhận xét như vậy?

Năm 2002, khi một số nhà hoạt động dân chủ kêu gọi 10,000 chữ ký trong một thỉnh nguyện thư gửi Quốc hội yêu cầu lấy ý kiến xã hội về bầu cử đa đảng, Chính phủ Havana đã phản ứng bằng cách tổ chức “trưng cầu dân ý” với kết quả tám triệu người nói rằng chế độ XHCN vẫn ưu việt và không thể thay thế!

Tháng Tư 2011, Đảng Cộng sản Cuba đưa ra chương trình cải cách với 313 “hướng dẫn”.

Tuy nhiên, từ “cải cách” hoặc “chuyển giao” luôn bị tránh đề cập và được thay bằng từ “nâng cấp”; trong khi “tư nhân hóa” lại được hiểu với khái niệm “các tác nhân phi nhà nước và hợp tác xã sẽ được khuyến khích”.

Raúl vẫn nói mục tiêu của ông là “biến XHCN trở nên bền vững và không thể đảo ngược”.

Đất nước tiếp tục dựa vào “nền kinh tế kế hoạch” chứ không phải thị trường, và “sự tích cóp tài sản” là điều nghiêm cấm tuyệt đối (phát biểu trước Quốc hội vào Tháng Mười Hai 2010).

  • Tại sao Cuba thất bại thảm hại?

Đã có những bài viết nhìn lại thành tựu “xây dựng XHCN” của Fidel Castro. Việc Cuba có một chính sách giáo dục miễn phí “tuyệt vời” luôn được nhắc lại như một trong những ưu điểm nổi trội của đất nước này.

Tuy nhiên, người ta không đặt ra một câu hỏi liên quan: tại sao nền giáo dục ấy không mang lại sự thịnh vượng cho đất nước Cuba? Cuba có một “nền y học xuất sắc” nhưng tại sao Cuba chỉ “xuất khẩu” được các bác sĩ thay vì có những công trình nghiên cứu cách mạng đột phá đóng góp cho y học thế giới?

Để có cái nhìn rõ hơn, thử so sánh Cuba với Singapore, hay chính xác hơn là so sánh Fidel Castro với Lý Quang Diệu (ông Lý chết năm 2015 khi 91 tuổi; Fidel chết năm 2016 khi 90 tuổi).

Cả Fidel và Lý đều lên nắm quyền cùng năm 1959, thời điểm mà Cuba giàu hơn Singapore.

Trong khi Singapore là một thương cảng nghèo, Cuba đã nổi tiếng với nền công nghiệp du lịch và giàu tài nguyên.

Đó là thời điểm Cuba xếp hạng năm khu vực về thu nhập đầu người,

hạng ba về tuổi thọ, hạng hai tỷ lệ đầu người sở hữu xe hơi, và hạng nhất về tỷ lệ đầu người sở hữu tivi.

Sau hơn nửa thế kỷ, sự khác biệt giữa Cuba và Singapore chẳng có gì để bàn cãi.

Nó cho thấy sự thành công và thất bại giữa hai mô hình kinh tế:

kinh tế tập trung và thị trường tự do.

Nó cũng cho thấy sự thất bại và thành công giữa hai mô hình chính trị: XHCN và tư bản tự do.

Năm 1959, khi Fidel lên nắm quyền, GDP đầu người Cuba là khoảng $2,067/năm, so với $3,239 của Puerto Rico.

Đến 1999, 40 năm sau,

GDP Cuba gần như giậm chân tại chỗ với $2,307; trong khi đó Puerto Rico là $13,738.

Từ 1965 đến 1990, năm mà họ Lý rời ghế thủ tướng, GDP Singapore tăng 2,800%, từ $500 lên $14,500.

Trong khi đó, Cuba dưới sự cai trị độc tài của Fidel, kinh tế quốc gia suy tàn, doanh nghiệp tư nhân bị xóa sổ và tỷ lệ nghèo vọt lên 26%.

Chuẩn sống trung bình người dân tệ hơn trước thời Liên Xô sụp đổ.

Tính đến năm 2015, trong số 11.3 triệu người Cuba, chỉ 5 triệu (không đến 45% dân số) là tham gia lực lượng lao động.

Với Singapore (5.4 triệu dân), lực lượng lao động chiếm hơn 3.4 triệu người!

Xét về các chính sách thị trường tự do, Singapore hạng nhất thế giới trong danh sách các quốc gia có chính sách ưu đãi doanh nghiệp do Nhóm Ngân hàng Thế giới (World Bank Group) xếp chọn.

Tính đến năm 2015, Singapore đứng thứ hai liên tiếp trong bốn năm trong danh sách các quốc gia có nền kinh tế cạnh tranh toàn cầu do Diễn đàn kinh tế thế giới bình chọn.

Tổ chức Heritage xếp Singapore hạng nhì thế giới trong danh sách Chỉ số tự do kinh tế 2015 (Index of Economic Freedom-IEF). Trong khi đó, Cuba được xếp hạng 177 trong danh sách IEF và bị đánh giá là nước có nền kinh tế “ít tự do nhất trong 29 quốc gia khu vực Trung Mỹ, Nam Mỹ và Caribê”. Cuba thậm chí không được xếp hạng trong danh sách 189 nền kinh tế của World Bank Group.

Người dân Cuba, với cái bụng lép, trong nhiều thập niên, vẫn phải gượng sức hô to những khẩu hiệu sáo rỗng và lặp đi lặp lại như cái máy hát rằng “XHCN là ưu việt”, là “con đường tất yếu của thời đại”,

là “xu thế của loài người văn minh”. Tuy nhiên, Fidel đã thiết kế một mô hình xã hội khác khá xa với văn minh loài người.

Ở đất nước ông, người dân không phải đóng thuế bất động sản hoặc trả tiền lãi cho nhà mua góp nhưng người dân cũng không được phép xây ngôi nhà của chính mình (mãi đến năm 2010 họ mới được phép làm điều này!).

Ở đất nước ông, học sinh được miễn phí đi học.

Tuy nhiên, miễn phí giáo dục không đồng nghĩa với tự do trong giáo dục và tự do trong tư duy.

Mãi đến năm 2008, Raúl Castro mới đề cập một “chủ trương” “chưa từng có” trước đó: lần đầu tiên, việc mua máy tính, đầu máy DVD và lò viba là có thể được hợp pháp hóa!

Đó cũng là năm mà người dân Cuba được phép sử dụng điện thoại di động…

Cuộc cách mạng “chấn động địa cầu” của Fidel đã đóng một dấu ấn lịch sử chính trị thế giới và nó ít nhiều từng “gây cảm hứng” cho một thế hệ “sôi sục cách mạng” của thời ông, nhưng di sản cai trị của ông đã để lại quá nhiều hậu quả bi thảm mà ảnh hưởng của nó không chỉ đối với một thế hệ người dân Cuba.

Ông có thể được các “đồng chí XHCN” của ông nhìn nhận như là một nhân vật “tiên phong cách mạng”

nhưng ông thật ra là một trong những người đi chậm nhất, lạc hậu nhất, và bảo thủ nhất, ngay cả trong chính thời đại của mình.

Như nhiều lãnh tụ cộng sản khác, ông xây dựng nên một huyền thoại cho cá nhân mình hơn là tạo dựng ấm no và hạnh phúc thật sự cho người dân của ông.

Từ khi Fidel chết năm 2016 đến nay, di sản của ông vẫn còn đó.

Điếu xì gà cháy dở của Fidel vẫn còn đó.

Người ta chưa đủ cam đảm dập tắt tàn lửa ngúm khói âm ỉ của nó.

Tuy nhiên, phải thấy rằng, luồng gió từ bên ngoài cũng bắt đầu khiến nó lạnh tàn, từng ngày.

Không chỉ Fidel, “histórico” – thế hệ những đồng chí cách mạng chiến đấu bên cạnh ông – đã bắt đầu trở thành một phần của lịch sử.

Havana không còn đường để quay trở lại.

Sẽ chẳng bao giờ Cuba có thể quay trở lại một Cuba cộng sản mà Fidel từng dùng nắm đấm sắt để dựng lên.

Nguồn fb Calvin Nguyen