Tiếng Việt Kỳ Diệu: Hành Trình Từ Chữ Nho, Chữ Nôm Đến Chữ Quốc Ngữ – Nguyễn Hải Hoành

 Nguyễn Hải Hoành

Đã hơn trăm năm nay nước ta chính thức sử dụng chữ Quốc ngữ, thứ chữ viết được các nhà trí thức tiên tiến đầu thế kỷ 20 ca ngợi là Hồn trong nước; Công cụ kỳ diệu giải phóng trí tuệ người Việt và tin rằng Nước Nam ta sau này hay dở cũng ở chữ Quốc ngữ.

Dư luận nước ta trước đây quy công trạng làm ra thứ chữ kỳ diệu ấy cho giáo sĩ người Pháp Alexandre de Rhodes. Gần đây lại có dư luận yêu cầu ghi công các giáo sĩ không phải người Pháp như Francisco de Pina, António Barbosa, Gaspar do Amaral, António de Fontes… và đóng góp của giáo dân miền Nam nước ta từng giúp các giáo sĩ đó học tiếng Việt, và đóng vai trò “giám định” trong quá trình thí điểm sử dụng thứ chữ mới ấy.

Đáng tiếc là cho tới nay công luận ở ta vẫn chưa nhất trí chọn được các nhân vật tiêu biểu làm ra chữ Quốc ngữ, và cơ quan chính quyền liên quan cũng chưa dứt điểm giải quyết vấn đề này. Để tình trạng đó kéo dài sẽ không có lợi cho hình ảnh một dân tộc văn minh. Đã đến lúc cần bàn thảo rộng rãi và sớm có hành động tri ân những người xứng đáng ghi công. Bài này nhằm góp một ý kiến bàn thảo. Vì người viết ít hiểu biết về ngôn ngữ học nên ý kiến nêu ra khó tránh khỏi có sai sót, mong được bạn đọc chỉ bảo.

* * *

Tiếng nói là khả năng bẩm sinh của con người, còn chữ viết là một phát minh sáng tạo không phải dân tộc nào cũng có. Ở thời xưa, tiến trình làm chữ viết cho một ngôn ngữ cần thời gian nhiều thế kỷ, thậm chí hàng ngàn năm. Tiếng Việt có hệ thống ngữ âm cực kỳ phong phú, cho nên càng có sức sống bền dai và càng khó làm được chữ viết; có thể vì thế mà ta chậm có chữ của mình. Nhưng cũng chính nhờ tiếng ta giàu ngữ âm mà rốt cuộc dân tộc ta được thừa hưởng một loại chữ viết tuyệt vời nhất vùng Đông Á.

Hiếm thấy nước nào từng sử dụng ba loại chữ viết như nước ta: chữ Nho, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ, mỗi loại chữ ấy làm nên một trang sử vẻ vang đáng ôn lại.

Chữ Nho

Khoảng thế kỷ 2 TCN, phong kiến Trung Quốc (TQ) chiếm nước ta, bắt dân ta học chữ Hán.[1] Nhờ đó lần đầu tiên người Việt Nam biết tới chữ viết –– phương tiện truyền thông tin cực kỳ tiện lợi, không bị hạn chế về không gian và thời gian như tiếng nói. Có thể vì thấy được cái lợi lớn ấy mà các bậc đại trí người Việt đã nảy ý tưởng mượn dùng loại chữ này. Nhưng học Hán ngữ cực kỳ khó, vì người TQ đọc tiếng Hán theo hàng trăm phương ngữ khác nhau. Cái khó ló cái khôn: tổ tiên ta đã nghĩ ra cách chỉ đọc thứ chữ này bằng tiếng Việt mà không đọc bằng tiếng Hán, tức chỉ học chữ mà không học tiếng Hán. Ngôn ngữ học ngày nay giải thích điều đó là hợp lý, vì chữ Hán là chữ biểu ý (chữ ghi ý, ideograph), tương tự chữ tượng hình vẽ con vật hoặc chữ số 1, 2, 3 hoặc ký hiệu $, %, … cả thế giới đều hiểu ý nghĩa các ký hiệu biểu ý đó, tuy đọc bằng tiếng của mình. Tổ tiên ta đã lợi dụng tính biểu ý của chữ Hán để đọc nó bằng tiếng Việt, như cách người TQ các địa phương đọc bằng phương ngữ của họ. Vì thế chính quyền chiếm đóng không thể cấm dân ta đọc chữ Hán theo cách của ta.

Người Việt gọi thứ chữ Hán đã Việt hóa phần ngữ âm ấy là chữ Nho, tức chữ của người có học. Khi ấy mỗi chữ Hán được đọc bằng một âm (từ) Hán-Việt gần giống âm Hán của nó; nhưng một âm Hán có thể chuyển thành một số âm Việt khác nhau. Không chữ Hán nào không được đặt tên tiếng Việt. Việc đặt tên cho hàng chục nghìn chữ Hán kéo dài hàng trăm năm, thực sự là một công trình vĩ đại. Chỉ bằng truyền miệng mà cách nay 2.000 năm các thầy đồ Nho trong cả nước ta đã đọc chữ Hán bằng một âm Việt thống nhất (TQ đặt mục tiêu đến năm 2020 toàn dân đọc chữ Hán bằng một âm Hán thống nhất). Có lẽ đây là lần đầu tiên chữ Hán được phiên âm ra tiếng nước ngoài.

Do dạy và học chữ Hán bằng tiếng mẹ đẻ nên dân ta học chữ Hán dễ hơn so với khi dạy và học bằng tiếng Hán, nhờ đó mượn được thứ chữ này để dùng, và coi chữ Nho là “chữ ta” trong khoảng 2.000 năm. Không ít người giỏi chữ chẳng kém người Hán. Như Khương Công Phụ (731-805) người Thanh Hóa đỗ Trạng nguyên ở TQ, về sau được vua nhà Đường phong Tể tướng.

Sau khi có chữ viết, dân tộc ta thoát khỏi thời tiền sử lạc hậu, tiến sang thời đại có sử sách ghi chép, có công cụ giao tiếp đối nội đối ngoại, sáng tác văn thơ, xây dựng ngành giáo dục, tiếp thu nền văn minh Trung Hoa tiên tiến, tổ chức xã hội theo mô hình TQ, từ đó tạo dựng nền văn minh Việt. Việc dùng chữ Hán mà không nói tiếng Hán đã giúp dân ta đời đời nói tiếng mẹ đẻ; nhờ thế dù có học và dùng chữ Hán bao lâu thì vẫn tránh được thảm họa bị người Hán đồng hóa. Chữ Nho đã thầm lặng bóp chết âm mưu Hán hóa tiếng Việt. Sau hơn 1.000 năm Bắc thuộc, dân tộc ta vẫn giữ được nguyên vẹn tiếng mẹ đẻ cùng nền văn hóa của mình. Đây là thắng lợi vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam.

Phương pháp dùng từ Hán-Việt để phiên âm chữ Hán, qua đó làm thành chữ Nho, là một sáng tạo xuất sắc về ngôn ngữ, cực kỳ ích lợi: vừa mượn được chữ của người Hán về dùng, vừa lợi dụng được kho từ vựng chữ Hán làm nguồn bổ sung vô hạn cho kho từ vựng tiếng Việt. Thực ra hiện nay từ Hán-Việt đã kết hợp nhuần nhuyễn với từ thuần Việt tới mức khó phân biệt (ví dụ: lập trình, cận nghèo v.v…). Khi cần dịch một từ ngữ mới xuất hiện, ta thường tham khảo cách dùng từ của người TQ. Ví dụ từ quantum, người TQ dịch là量子, ta đọc Hán-Việt là lượng tử, rất hay và dễ hiểu. Toàn bộ từ vựng Hán ngữ hiện đại do người Nhật cuối thế kỷ 19 phiên dịch các từ ngữ phương Tây, sau khi vào Việt Nam đều được các nhà Nho Đông Kinh Nghĩa Thục chuyển thẳng thành từ Hán-Việt như vậy. Ngày nay không một từ ngữ mới nào không thể chuyển thành tiếng Việt.

Hơn nữa, tổ tiên ta phiên âm chữ Hán theo cách khôn ngoan không đâu có. Người Triều Tiên/Hàn Quốc phiên âm theo kiểu bám sát âm Hán, hậu quả là thừa kế 100% tình trạng tồn tại quá nhiều chữ đồng âm trong chữ Hán; bởi vậy sau 7 thế kỷ dùng chữ Hangul, cho tới nay họ vẫn phải dùng chữ Hán để ghi chú các chữ đồng âm. Người Nhật đọc chữ Hán theo nghĩa tiếng Nhật, không theo âm tiếng Hán –– cách phiên âm này khiến cho ban đầu họ phải dùng hàng chục nghìn chữ Hán, làm cho tiếng Nhật thời cổ trở nên cực kỳ phức tạp. Về sau họ làm ra chữ Kana biểu âm, nhờ thế chỉ còn cần dùng khoảng 2000 chữ Hán. Tổ tiên ta phiên âm chữ Hán theo kiểu một âm tiếng Hán được chuyển thành hàng chục âm tiếng Việt, nhờ thế giảm hàng chục lần số chữ đồng âm, qua đó làm cho từ Hán-Việt chính xác hơn. Ví dụ âm [yi] tiếng Hán có 135 chữ đồng âm, ta chuyển thành hàng chục âm tiếng Việt như ất, dật, di, dĩ, dị, dịch, duệ, ích, y, ý, nghi, nghị, nghĩa, nhị, ức,…

Chữ Nho vốn là chữ Hán nên không ghi được lời nói tiếng Việt, do đó không thể làm chữ viết của tiếng Việt. Trên thực tế chữ Nho hoàn toàn xa lạ với ngôn ngữ của tầng lớp bình dân, chỉ một số ít người thuộc giới quan lại hoặc giới tinh hoa ở ta biết dùng chữ Nho, và chỉ dùng để viết (bút đàm) trong một số lĩnh vực hẹp, không dùng để nói. Văn thơ chữ Nho làm theo kiểu văn thơ của người Hán không được coi là văn thơ tiếng Việt.

Chữ Nôm

Từ khoảng thế kỷ 12 tổ tiên ta bắt đầu sáng tạo một loại chữ viết nhằm ghi âm tiếng mẹ đẻ, gọi là chữ Nôm. Thử nghiệm này nói lên ý thức tự chủ ngôn ngữ muốn có chữ viết riêng của ta, chấm dứt tình trạng dùng chữ đi mượn, lại thể hiện được trí tuệ của người Việt: tiến tới làm ra loại chữ tiên tiến nhất –– chữ biểu âm (chữ ghi âm, phonograph), loại chữ người Hán chưa từng có.

Chữ Nôm được xây dựng trên cơ sở chữ Hán đọc theo âm Hán-Việt, kết hợp cả hai yếu tố biểu ý và biểu âm. Vì chưa biết tới ký tự Latin abc nên tổ tiên ta đã dùng các ký tự vuông chữ Hán (có cải tiến) để ghi âm tiếng mẹ đẻ của mình. Ban đầu chữ Nôm mượn dạng chữ Hán để ghi âm tiếng Việt, dần dần dùng cách ghép hai chữ Hán để tạo ra một chữ mới, một phần gợi âm, một phần gợi ý –– về sau loại chữ tự tạo này được dùng ngày một nhiều. Nhưng vì các ký tự vuông gốc chữ Hán không phải là chữ cái ghép vần, cho nên mức chính xác ghi âm tiếng Việt còn thấp, chưa tiêu chuẩn hóa, nhiều chữ phải đoán âm đọc, có trường hợp một âm có nhiều chữ v.v…

Mỗi chữ Nôm thể hiện một âm tiết. Tiếng Việt giàu âm tiết nên có nhiều chữ Nôm. Theo tài liệu, vào giữa thế kỷ 17 đã có khoảng 80.000 chữ Nôm (?). “Bảng tra chữ Nôm” (xuất bản năm 1976) cho biết có 8.187 chữ. “Từ điển Chữ Nôm dẫn giải” của GS Nguyễn Quang Hồng (2015) có 9.450 chữ Nôm (gồm gần 3.000 chữ tự tạo), ghi 14.519 âm tiết tiếng Việt. Do chữ Nôm chưa chuẩn hóa nên các số liệu trên có khác nhau, nhưng đều cho thấy tổ tiên ta đã làm được rất nhiều chữ, suy ra chữ Nôm thời xưa đã ghi được rất nhiều (nếu không nói là hầu hết) âm tiếng Việt đã dùng.

Chữ Nôm từng được gọi là Quốc ngữ hoặc Quốc âm, tức chữ của tiếng nói nước ta (chữ Nho chưa bao giờ được gọi như vậy). Nhưng do cấu tạo trên nền tảng chữ Hán nên chữ Nôm phụ thuộc vào chữ Hán, khó học (biết chữ Nho mới học được chữ Nôm), khó phổ cập. Hơn nữa, do Nhà nước phong kiến và tầng lớp tinh hoa ở ta mù quáng sùng bái chữ Hán cho nên chữ Nôm chưa được thừa nhận là chữ viết chính thức, bị coi là thấp kém dưới chữ Hán. Vì thế chữ Nôm khó được phát triển và hoàn thiện, chưa tiêu chuẩn hóa.

Tuy vậy văn thơ chữ Nôm, tức văn thơ tiếng Việt, do nói lên được tiếng nói và nỗi lòng của người bình dân nên đã tỏ ra trội hơn hẳn văn thơ chữ Nho. Nền văn học chữ Nôm từng đạt tới cực thịnh từ thời Hậu Lê đến thời kỳ đầu nhà Nguyễn (thế kỷ 17-19), với các kiệt tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), Đoàn Thị Điểm (1705-48), Nguyễn Gia Thiều (1741-98), Nguyễn Huy Tự (1743-90), Nguyễn Du (1765-1820), Hồ Xuân Hương (thế kỷ 18-19), Phạm Thái (1777-1813), Bà Huyện Thanh Quan (thế kỷ 19), Lý Văn Phức (1785-1849), Nguyễn Đình Chiểu (1822-88), Nguyễn Khuyến (1835-1909), Trần Tế Xương (1870-1907), v.v. Sách Thiên Nam Ngữ Lục (cuối thế kỷ 17) gồm 8.136 câu thơ lục bát, dùng tới 58.212 chữ Nôm.

Càng về sau chữ Nôm càng được sử dụng nhiều: trong hơn 200 năm sau khi chữ Quốc ngữ đã ra đời nhưng chưa phổ cập, các linh mục Công giáo đều dùng chữ Nôm viết tài liệu giảng đạo. Điều đó cho thấy vai trò to lớn của chữ Nôm trong đời sống văn hóa ở ta, đặc biệt trong cộng đồng Công giáo vốn không ưa dùng chữ gốc Hán.

Vì sao chữ Nôm khó học mà lại được sử dụng khá phổ biến như vậy? Chủ yếu do chữ Nôm có yếu tố ghi âm rất rõ, ghi được tiếng nói người bình dân, là “chữ của tiếng ta”. Ngôn ngữ học thời nay giải thích: chữ Nôm có được yếu tố ghi âm là do tiếng Việt giàu âm tiết nên vượt qua được sự hạn chế của ngôn ngữ đơn âm tiết (monosyllabic).[2]

 Chữ Quốc ngữ

Thế kỷ 17 các giáo sĩ Kitô giáo Dòng Tên Francisco de Pina, António Barbosa, Gaspar do Amaral, António de Fontes, Girolamo Maiorica, Alexandre de Rhodes v.v… đến nước ta truyền giáo. Dòng Tên chỉ tuyển người có trình độ tiến sĩ, và nghiêm khắc yêu cầu nhà truyền giáo phải thông thạo ngôn ngữ và theo phong tục tập quán của dân bản xứ.

Theo ghi chép, Francisco de Pina đến Việt Nam năm 1617, ba năm sau đã cùng các giáo sĩ soạn tài liệu giáo lý bằng chữ Nôm. Trong các năm 1632-1656, Girolamo Maiorica (người Ý) đã viết 45 tác phẩm chữ Nôm, trong đó Thư viện Quốc gia Pháp hiện còn giữ 15 tác phẩm với tổng số 1,2 triệu chữ Nôm,[3] nhiều gấp 52 lần số chữ Nôm trong Truyện Kiều. Một số thư viện còn giữ được nhiều tài liệu chữ Nôm của các giáo sĩ đi đầu làm chữ Quốc ngữ như Gaspar do Amaral, António Barbosa…

Vì đối tượng truyền giáo thời ấy là nông dân, ngư dân Quảng Nam, Quảng Ngãi nên dĩ nhiên các tài liệu giảng đạo chữ Nôm phải dùng từ ngữ của dân thường. Từ đây có thể suy ra các vị giáo sĩ-bậc thầy ngôn ngữ học ấy không thể không nhận thấy chữ Nôm có yếu tố biểu âm, và đã ghi được phần lớn âm tiếng Việt, nhưng chỉ vì dùng ký tự vuông của Hán ngữ nên ghi âm chưa chính xác, và khó học, khó phổ cập. Kinh nghiệm thất bại của các giáo sĩ Dòng Tên ở Nhật trong việc phiên âm Latin hóa chữ Kanji biểu ý (tức chữ Hán) càng cho thấy việc chữ Nôm có yếu tố biểu âm là một thuận lợi lớn khi phiên âm nó thành chữ biểu âm Latin hóa.

Với nhận thức như vậy, các giáo sĩ giỏi chữ Nôm kể trên dĩ nhiên đã sớm nảy ra ý tưởng và niềm tin có thể dùng chữ cái Latin để phiên âm chữ Nôm, biến thứ chữ gốc Hán có yếu tố biểu âm ấy thành thứ chữ biểu âm Latin hóa dễ học dễ dùng cho việc truyền giáo.

Hiển nhiên, phiên âm một loại tiếng nói đã có chữ viết ghi lại âm của tiếng đó thì đơn giản nhiều so với việc phiên âm thứ tiếng nói chưa có chữ viết –– ở thời xưa, đó là một công trình lao động sáng tạo cực kỳ phức tạp, cần nhiều người làm trong hàng trăm năm.

Trên thực tế, các giáo sĩ kể trên dù rất ít người và làm việc phân tán nhưng đã nhanh chóng tìm ra các chữ cái Latin thích hợp thay cho các ký tự vuông tương ứng trong chữ Nôm và tạo ra loại chữ mới trong thời gian ngắn kỷ lục: 32 năm (1617-1649). Năm 1617 Francisco de Pina đến Đàng Trong, năm 1619 đã viết xong một bản từ vựng tiếng Việt bằng chữ Latin. Năm 1631 Gaspar do Amaral đến Đàng Ngoài, năm sau đã ghi âm rất tốt tiếng Việt, năm 1634 làm xong một cuốn từ vựng tiếng Việt. Trong mấy cuộc gặp tại Macao (1630-1631), các giáo sĩ đã xác định được 6 thanh điệu và tính đơn âm tiết của tiếng Việt. Năm 1649 Rhodes mang theo bản thảo Từ điển Việt-Bồ-La (Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum) rời Việt Nam. Năm 1651 Từ điển này được xuất bản tại Roma, đánh dấu sự ra đời chữ Quốc ngữ Việt Nam.[4] Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, chữ viết biểu âm Latin hóa thành công ra đời tại khu vực ảnh hưởng của Hán ngữ.

Trong quá trình làm chữ Quốc ngữ, các giáo sĩ đã phải giải quyết nhiều khó khăn gây ra bởi hệ ngữ âm tiếng Việt quá phong phú và mới lạ. Vấn đề phức tạp nhất là phải nghiên cứu sáng tạo ra hệ thống ký hiệu thể hiện được các thanh điệu sắc, huyền, hỏi. ngã, nặng, và các con chữ thể hiện được các ngữ âm không có trong bộ chữ La tinh như ă, â, ê, ơ, ô, ư, đ. Bộ ký hiệu và con chữ ấy làm nên cái gọi là “giày và mũ” trong nhận xét của một học giả nổi tiếng Trung Quốc: “Chữ viết của Việt Nam sau khi phiên âm hóa, đầu đội mũ, chân đi giày, rất nực cười”. Thực ra “mũ, giày” ấy là những sáng tạo hợp lý tới mức người Việt xưa và nay đều không chấp nhận bất cứ thứ chữ Quốc ngữ nào không có các ký hiệu và con chữ đó. Ví dụ gần đây công luận không tán thành một số phương án chữ Quốc ngữ bỏ dấu. Ngoài ra các giáo sĩ đã hiệu chỉnh những âm tiếng Việt mà chữ Nôm chưa ghi chính xác, và hiện đại hóa ngữ pháp cùng cách viết, như đưa vào các loại dấu ngắt câu, ngắt đoạn, dấu ngoặc, ký hiệu toán học, lối viết hoa, viết tắt v.v…

Về hình thức, chữ Quốc ngữ khác hẳn chữ Nôm, nhưng về bản chất cả hai đều là các hệ chữ viết ghi âm tiếng Việt; chữ Quốc ngữ trong Từ điển Việt-Bồ-La thể hiện rất rõ mối tương quan với chữ Nôm.[5]

Sau mấy chục năm dầy công lao động sáng tạo, các vị giáo sĩ nói trên đã hoàn thành việc phiên âm và biến đổi chữ Nôm thành một thứ chữ biểu âm dùng chữ cái Latin – loại chữ viết tiên tiến nhất, quốc tế hóa nhất thời đó, về sau được gọi là chữ Quốc ngữ. Rõ ràng, chữ Quốc ngữ chính là chữ Nôm được Latin hóa và hiện đại hóa.

Giả thử thời ấy chưa có chữ Nôm, chỉ có chữ Nho, thì việc làm chữ của các giáo sĩ sẽ vô cùng khó khăn vì chữ Nho vốn là chữ Hán. Thực tiễn cải cách chữ viết ở Trung Quốc đã chứng tỏ không thể dùng bất cứ bộ chữ cái nào để phiên âm chữ Hán thành chữ biểu âm.

Năm 1582 giáo sĩ Dòng Tên người Ý Matteo Ricci đến Trung Quốc truyền giáo. Ông rất giỏi Hán ngữ, đã dành nhiều năm nghiên cứu cách phiên âm chữ Hán. Năm 1605 Ricci đưa ra phương án phiên âm chữ Hán bằng chữ cái Latin, nhưng phương án này chỉ giúp người Âu học chữ Hán dễ hơn, chứ chưa phải là một loại chữ viết mới. Về sau, giới trí thức Trung Quốc tiếp tục nghiên cứu theo phương hướng của Ricci nhằm mục tiêu tạo ra một thứ chữ biểu âm có thể thay thế chữ Hán mà họ muốn loại bỏ. Nhưng mọi cố gắng ấy đều không có kết quả. Năm 1958 Ủy ban Cải cách chữ viết Trung Quốc làm ra Phương án phiên âm (Pinyin) Hán ngữ dùng chữ cái Latin, nhưng chỉ có tác dụng phụ trợ là ghi chú âm cho chữ Hán, không phải là một loại chữ viết. Từ năm 1986 Ủy ban này không còn nhắc tới mục tiêu tạo ra loại chữ biểu âm thay cho chữ Hán nữa, và nói tương lai của chữ Hán sẽ do các thế hệ sau quyết định. Hiện nay Trung Quốc vẫn dùng chữ Hán như cũ, có kết hợp dùng phương án Pinyin Hán ngữ chỉ để ghi chú âm đọc chữ Hán.

Tóm lại, việc dùng chữ cái Latin phiên âm chữ Nôm thành chữ biểu âm đã thành công ngay từ giữa thế kỷ 17, trong khi mọi cố gắng tương tự đối với chữ Hán cho tới nay vẫn bất thành. Tại sao vậy? Đó là do chữ Nôm có yếu tố biểu âm, còn chữ Hán biểu ý không biểu âm; và tình trạng đó bắt nguồn sâu xa từ chỗ tiếng Việt giàu âm tiết, tiếng Hán nghèo âm tiết.

Đến đây có thể kết luận: Chữ Nôm đã xây đắp nền tảng ngôn ngữ để các giáo sĩ nói trên dựa vào đó tạo ra chữ Quốc ngữ. Toàn dân Việt Nam mãi mãi ghi nhớ công trạng làm chữ Nôm của tổ tiên ta, coi chữ Nôm là một sáng tạo ngôn ngữ xuất sắc góp phần quyết định sự hình thành chữ Quốc ngữ.

Sau cùng cần nhấn mạnh vai trò quan trọng của Kitô giáo. Là hiện tượng văn hóa của số đông loài người, các tôn giáo lớn đều tôn sùng và truyền bá tư tưởng nhân ái cao quý. Thế kỷ 17, các giáo sĩ Kitô giáo người Âu khi đến Việt Nam truyền giáo đã kết hợp làm sứ mạng khai hóa dân bản xứ, khác hẳn hành vi xâm chiếm thuộc địa của chủ nghĩa thực dân phương Tây. Thực dân Bồ Đào Nha khi chiếm Brazil đã cưỡng bức đồng hóa dân bản xứ bằng cách bắt họ nói tiếng Bồ, trong khi các giáo sĩ Kitô giáo người Bồ như Francisco de Pina … đến Việt Nam truyền giáo đã không làm thế mà còn tìm cách Latin hóa chữ Nôm. Hơn nữa, de Pina còn nghĩ tới việc dùng thứ chữ hiện đại này bắc cây cầu đối thoại Việt Nam với châu Âu văn minh, và tạo dựng một nền văn hóa mới cho nước ta. Đây thật là một ý tưởng cao quý! Khi mới chiếm Việt Nam, thực dân Pháp từng chủ trương bắt dân ta đời đời nói tiếng Pháp như chúng đã làm ở các thuộc địa châu Phi. Nhưng giáo sĩ người Pháp Alexandre de Rhodes lại hăng hái làm chữ viết riêng giúp cho người Việt giữ được tiếng mẹ đẻ. Nếu chưa có chữ Quốc ngữ thì nước ta ắt hẳn đã bị người Pháp đồng hóa từ lâu.

Bởi vậy sẽ là sai lầm khi cho rằng các giáo sĩ đạo Kitô đến Việt Nam truyền giáo là để phục vụ chính sách xâm lược của thực dân Pháp. Với truyền thống Uống nước nhớ nguồn, dân tộc ta đời đời ghi ơn tất cả các giáo sĩ Kitô giáo đã góp phần làm ra thứ chữ viết kỳ diệu ta dùng hơn trăm năm nay.

Và như vậy có thể nói chữ Quốc ngữ là thành quả kết hợp trí tuệ của nền văn minh Việt với nền văn minh Kitô giáo, là món quà vô giá mà các giáo sĩ Dòng Tên trao cho dân tộc ta trong một ngẫu nhiên lịch sử xảy ra ở thế kỷ 17.

Nguyễn Hải Hoành

[1] Thứ chữ này đến đời nhà Nguyên (thế kỷ 14) mới có tên “chữ Hán”. Ở đây gọi như vậy cho tiện.

[2] Nguyễn Hải Hoành: “Một vài tìm tòi về ngôn ngữ”. Tạp chí Tia Sáng số 11 (5/6/2020).

[3] Lã Minh Hằng: “Đôi nét về thư tịch Hán Nôm Công giáo tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm”.

[4] Phạm Thị Kiều Ly: “Lịch sử chữ Quốc ngữ từ 1615 đến 1861: Quá trình La-tinh hóa tiếng Việt trong trào lưu ngữ học truyền giáo”. TC Tia Sáng số 24  (20/12/2019).

[5] Nguyễn Ngọc Quân: “Chữ Quốc ngữ trong Từ điển Việt-Bồ-La trong tương quan với cấu tạo chữ Nôm đương thời”.

From: My Tran


 

Việc nên làm cho chính mình

1- Uống nhiều nước.

2- Ăn sáng như Vua, anh trưa như Ông hoàng và ăn tối như Kẻ ăn xin (ăn ít).

3- Ăn nhiều thức ăn mọc trên cây và ăn ít thức ăn được chế tạo trong nhà máy.

4- Sống với 3 chữ N: Năng lực –Nhiệt thành- Nhân ái (bản tiếng Anh là 3 chữ E: Energy, Enthusiasm và Empathy).

5- Tìm ra thời gian để cầu nguyện.

6- Chơi trò chơi nhiều hơn.

7- Đọc sách nhiều hơn so với năm trước.

8- Mỗi ngày dành 10 phút ngồi yên lặng

9- Ngủ tối thiểu 7 giờ

10- Vừa đi bộ vừa mỉm cười 10-30 phút mỗi ngày

11- Đừng so sánh cuộc đời của mình với cuộc đời của những người khác. Không biết hành trình của họ như thế nào đâu.

12- Đừng có những suy nghĩ tiêu cực hoặc nghĩ những điều mà mình không thể làm chủ. Thay vào đó, hãy đầu tư năng lực của mình vào ngay thời điểm hiện tại.

13- Đừng làm gì quá sức. Phải giữ một giới hạn cho bản thân.

14- Đừng coi mình quá nghiêm trọng, coi như không ai sánh nổi.

15- Đừng phí năng lực quý ‎ báu vào những chuyện ngồi lê đôi mách.

16- Hãy biết mơ nhiều hơn ngay khi còn đang thức

17- Ghen tỵ là phí thì giờ. Mình đã có tất cả những gì mình cần rồi.

18- Hãy quên đi những chuyện đã qua. Đừng nhắc người thân nhớ lại những lỗi lầm trong quá khứ. Điều đó sẽ làm tan vỡ hạnh phúc đang có.

19- Cuộc sống quá ngắn để tốn thời gian căm ghét bất cứ ai. Chớ ghét bỏ ai

20- Hãy dàn hòa với quá khứ của mình đẻ tránh làm hỏng cái hiện có

21- Không ai nuôi dưỡng hạnh phúc của mình, ngoài chính mình

22- Hãy coi cuộc đời là một trường học và bạn đang ở đó để học. Những điều khó hiểu chỉ là một phần của chương trình học, chúng xuất hiện rồi biến dần giống như môn Đại số. Nhưng những bài học mình thu nhận được sẽ kéo dài suốt đời

23- Hãy mỉm cười và cười nhiều hơn nữa

24-Không buộc phải thắng trong mọi cuộc tranh cãi. Hãy bằng lòng với sự bất đồng

25- Hãy thăm hỏi thường xuyên gia đình mình

26- Mỗi ngày hãy đưa lại vài điều tốt cho người khác

27- Hãy tha thứ cho mọi người về mọi chuyện

28- Hãy dành thời gian cho các cụ ngoài 70 và các cháu dưới 6 tuổi

29- Cố gắng làm được cho 3 người mỉm cười mỗi ngày

30- Không cần biết những điều người khác nghĩ về mình

31- Công việc không chăm sóc được khi mình đau ốm. Bạn mình mới làm được. Hãy luôn liên lạc với nhau

32- Hãy luôn làm những chuyện đúng đắn

33- Hãy gạt bỏ mọi chuyện bất lợi, không đẹp hoặc không vui

34- Thời gian sẽ chữa lành mọi chuyện

35- Dù cho mọi hoàn cảnh tốt hay xấu cũng sẽ thay đổi

36- Mặc dù cảm thấy thế nào cũng hãy đứng dậy, trưng diện lên và khoe với mọi người

37- Điều tốt nhất rồi sẽ đến

38- Thức dậy thấy vẫn sống, hãy cảm ơn Thượng đế

39- Trong lòng luôn thấy hạnh phúc. Đó chính là hạnh phúc

40- Hãy có những ngày trong tuần thật tuyệt vời


 

NÔN NẢ – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Được tin Gioan Tẩy Giả chết, Đức Giêsu xuống thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt. Nghe biết vậy, đông đảo dân chúng từ các thành đi bộ mà theo Người”.

Kính thưa Anh Chị em,

Phúc Âm hôm nay mở đầu với một ‘hung tin’ như thế! Biết vậy, Chúa Giêsu bỏ đám đông để được ở một mình. Vậy mà chẳng yên; dân chúng ‘nôn nả’ kiếm tìm Ngài!

Trước cái chết của Gioan – báo trước cái chết của Ngài – Chúa Giêsu đau đớn, lặng trân. Ngài âm thầm rút vào cô tịch là lẽ thường; nhưng việc người ta không để Ngài yên là điều khó chấp nhận! Ngài phản ứng thế nào? “Thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương, và chữa lành các bệnh nhân của họ”. “Tình yêu đích thực bắt đầu từ việc ta sẵn lòng để người mình yêu được là chính họ!” – Thomas Merton.

Hãy chiêm ngắm trái tim lân mẫn của Chúa Giêsu! Bao lần chúng ta ngại đến với Ngài vì lỗi này, lỗi kia; sợ những gì Ngài sẽ nghĩ, điều Ngài sẽ trách; chúng ta xấu hổ và tìm cách xa lánh Ngài… Thật ủi an để biết rằng, Ngài không xua đuổi nhưng luôn trắc ẩn với bất cứ ai tìm đến Ngài. “Không ai bao giờ đi quá xa đến mức vượt ngoài tầm lòng thương xót của Thiên Chúa!” – Fulton Sheen. Bởi thế, dù thấy mình bất xứng đến đâu, tội lỗi đến mấy, bạn cứ mạnh dạn ‘sấn tới’; Ngài không bao giờ mệt mỏi để tha thứ.

Môsê có một trải nghiệm tương tự. Ông phải chịu đựng, bị giày vò khi thấy cảnh “Dân tụm năm tụm bảy đứng ở cửa lều mà kêu khóc” – bài đọc một. Họ kêu khóc vì nóng lòng vào Đất Hứa cũng đành; đàng này, chỉ vì những quả “dưa gang, dưa bở, nào hẹ, nào hành, nào tỏi” xứ người. Quá mệt mỏi, Môsê xin được chết; ông ‘nôn nả’ tìm kiếm Chúa, nói khó với Ngài. Và vì mủi lòng, Ngài ban thịt cho dân – cách lãng mạn và ngoạn mục – khi cho chim cút rơi xuống rợp trại giữa chốn heo hút; và họ ‘trơ tráo’ chúc khen, “Reo lên mừng Thiên Chúa, Đấng trợ lực chúng ta!” – Thánh Vịnh đáp ca.

Một Linh mục thư ký của cố Tổng Giám mục Philipphê Nguyễn Kim Điền tâm sự. Mỗi ngày, ngoài giờ làm việc và đọc sách, Đức Cha thường xuyên ở trước Mình Thánh Chúa trong phòng nguyện – sát phòng ngài. Có khách, cha thư ký phải xuất hiện đến mấy lần, Đức Cha mới đứng lên và xuống tiếp khách, dù trước đó ngài biết có người lấp ló. Đặc biệt, những lúc khó khăn, suốt ngày, hầu như Đức Cha không rời khỏi đó!

Anh Chị em,

“Đức Giêsu xuống thuyền đến một chỗ hoang vắng”. Lời Chúa mời gọi bạn và tôi tự hỏi, mỗi khi đau buồn, cảm thấy lẻ loi; mỗi khi đối diện với các vấn nạn dường như không thể vượt qua, chúng ta tìm đến ai? Quả thật, chỉ nơi Chúa Giêsu, trong Chúa Giêsu và nhờ Chúa Giêsu, bạn và tôi mới có thể tìm được mạnh mẽ giữa yếu đuối, an toàn giữa chao đảo, và suối nguồn bình an đích thực giữa muôn vàn dằn vặt, bất an. “Khi chúng ta bị nghiền nát như những trái nho, ta không thể hình dung được thứ rượu mà mình sẽ trở thành!” – Henri Nouwen. Ngay giữa khổ đau, nếu tìm đến Chúa, chính Ngài sẽ ủ ấp và chuyển hoá ta.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, giữa cõi vắng lặng, xin đừng vắng mặt. Con cần Ngài! Con không cần con đường dễ đi, chỉ cần có Chúa cùng đi!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

***********************************************

Lời Chúa Thứ Hai Tuần XVIII Thường Niên, Năm Lẻ

Ngước mắt lên trời, Đức Giê-su dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ, còn các môn đệ trao cho dân chúng.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.      Mt 14,13-21

13 Khi ấy, được tin ông Gio-an Tẩy Giả chết, Đức Giê-su xuống thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt. Nghe biết vậy, đông đảo dân chúng từ các thành đi bộ mà theo Người. 14 Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương, và chữa lành các bệnh nhân của họ.

15 Chiều đến, các môn đệ lại gần thưa với Người : “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn.” 16 Đức Giê-su bảo : “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn.” 17 Các ông đáp : “Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá !” 18 Người bảo : “Đem lại đây cho Thầy !” 19 Sau đó, Người truyền cho dân chúng ngồi xuống cỏ. Người cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho môn đệ, và môn đệ trao cho đám đông. 20 Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu lại được mười hai giỏ đầy. 21 Số người ăn khoảng chừng năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con.


 

IM LẶNG – VẾT THƯƠNG KHÔNG MÁU, KHÔNG TIẾNG KÊU

Tu Le

IM LẶNG – VẾT THƯƠNG KHÔNG MÁU, KHÔNG TIẾNG KÊU

Có những nỗi đau không cần phải có nước mắt.

Chỉ cần một sự im lặng kéo dài – là đủ hiểu lòng người đã tan nát tới mức nào.

Người ta vẫn nghĩ: ai im là đã quên, đã buông, đã “vượt qua rồi”.

Nhưng đâu ai biết rằng – có những người chọn im lặng, không phải vì họ không còn gì để nói…

Mà vì họ đã từng nói rất nhiều – nhưng chẳng ai chịu lắng nghe bằng cả trái tim.

Trong đời sống thường nhật, bạn sẽ dễ dàng bắt gặp những người như thế.

Họ sống trong chính gia đình mình, nhưng tiếng nói của họ chưa bao giờ được xem trọng.

Họ làm việc trong những tập thể ồn ào, nhưng mọi ý kiến đưa ra chỉ là cái cớ để người khác bắt bẻ.

Họ bước qua một mối quan hệ – nơi người ta chỉ giỏi phán xét, chứ không hề biết thấu hiểu.

Rồi một ngày, họ im.

Im – vì nhận ra có giải thích cũng vô ích.

Im – vì không muốn mỗi câu nói đều bị bóp méo thành “tự suy diễn”.

Im – vì chẳng còn sức mà tranh cãi, phân trần, giãy giụa giữa cái nhìn định kiến của người khác.

Và cũng có những người, sau một biến cố, sau một lần bị tổn thương sâu sắc – họ khép chặt lòng mình lại.

Không còn nói nhiều. Không còn cố gắng “cho người ta hiểu mình”.

Họ chọn cách sống nhẹ đi, âm thầm, không trách – nhưng cũng chẳng còn mở lòng như trước nữa.

Đôi khi, im lặng là lựa chọn cuối cùng của một trái tim đã kiệt quệ.

Chúng ta sống trong một xã hội đầy ắp tiếng ồn, nhưng lại thiếu trầm trọng sự lắng nghe.

Ai cũng vội vã đưa ra kết luận, đưa ra lời khuyên, đưa ra đánh giá…

Nhưng mấy ai chịu ngồi xuống và lắng nghe ai đó kể nỗi lòng – mà không chen vào phán xét?

Chúng ta bảo nhau “hãy nói ra, đừng giữ trong lòng”,

Nhưng liệu – khi người khác nói, ta có đủ bao dung để tiếp nhận sự thật họ mang theo?

Hay ta chỉ muốn họ nói những gì ta muốn nghe, và hiểu theo cách ta muốn hiểu?

Sự im lặng, nếu nhìn kỹ, không phải là sự trốn tránh.

Mà là một cách tự vệ. Một chiếc áo giáp mềm – khoác lên người từng bị hiểu lầm đến mệt mỏi.

Họ không muốn cãi nhau nữa.

Không muốn giằng co đúng – sai, phải – trái.

Vì họ hiểu: có những điều, chỉ ai đi qua rồi – mới thật sự thấm được.

Vậy nên, nếu bạn thấy ai đó bỗng dưng ít nói, bỗng dưng xa cách…

Đừng vội trách.

Đôi khi – đó là dấu hiệu họ đang đau.

Mà không biết chia sẻ cùng ai.

Cũng không còn ai để đủ tin mà chia sẻ nữa.

Bạn có thể đã từng là người đó.

Đã từng viết một đoạn tin nhắn rất dài… rồi xóa.

Đã từng định giải thích với ai đó… rồi lại thôi.

Đã từng tổn thương… và rồi học cách cười nhẹ – cho qua.

Cuộc đời này, có lúc phải học im lặng – không phải để chịu đựng, mà để giữ lại một phần bình yên cho chính mình.

Không phải ai cũng cần biết nỗi đau của bạn sâu tới đâu.

Không phải ai cũng xứng đáng để bạn phải cố gắng giải thích đến cùng.

Lựa chọn im lặng – đôi khi là cách trưởng thành buồn nhất.

Nhưng cũng là cách để ta học yêu chính mình nhiều hơn.

Nếu bạn đang trong những ngày im lặng đó – hãy biết rằng bạn không cô đơn.

Ở đâu đó – vẫn có những trái tim từng đi qua nỗi đau như bạn, đang âm thầm dõi theo, thấu cảm, và cầu mong bạn sớm an lành trở lại.

Và nếu bạn đang sống cùng người từng im lặng…

Xin đừng quên hỏi:

“Có điều gì bạn chưa từng dám nói, vì sợ tôi không lắng nghe?”

Nếu bạn thấy mình trong bài viết này, hãy để lại một dấu chấm “.” để tôi biết bạn vẫn đang sống – dẫu lặng lẽ nhưng đầy kiêu hãnh.

Bạn cũng có thể tag một người bạn từng im lặng thật lâu – để họ biết: có người đã hiểu họ mà chẳng cần phải giải thích quá nhiều.

____

Tu Le

#gotacoffee

#ngườiviếtgiữahaimiền


 

BUÔNG BỎ – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Phải giữ mình tránh mọi thứ tham lam!”.

“Buông bỏ không có nghĩa là không sở hữu gì, mà là không để bất cứ thứ gì sở hữu bạn!” – Ali ibn Abi Talib.

Kính thưa Anh Chị em,

Thi thoảng Chúa Giêsu nhắc chúng ta về mối nguy do của cải. Lời Chúa hôm nay đặt một câu hỏi, “Tôi đang có nguy cơ dính mắc điều gì; tôi cần ‘buông bỏ’ nó không?”.

Dụ ngôn đề cập đến sự giàu sang và chúng ta có thể cảm thấy cảnh báo này ít liên quan đến mình. Tuy nhiên, tất cả chúng ta đều có thể dính mắc vào những khía cạnh vật chất khác của cuộc sống – công việc, thú vui, danh vọng, hay ngay cả gia đình. Những điều này không nhất thiết là xấu; nhiều trong số đó là ân huệ Chúa. Vậy mà, “Bất cứ điều gì bạn yêu hơn Thiên Chúa đều là ngẫu tượng, dù đó là điều tốt!” – Tim Keller.

Vấn đề là giá trị tuyệt đối dành cho chúng! Đang khi suy cho cùng, những điều này chỉ là phù du và không tồn tại mãi, “Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân!” – bài đọc một. Bởi đó, hãy cầu xin Chúa chỉ cho chúng ta thấy những tham lam, dính mắc nào cần thanh tẩy và ‘buông bỏ’. Vì “Tất cả những gì không vĩnh cửu đều vĩnh viễn lỗi thời!” – C.S. Lewis.

Tham lam nảy sinh khi trái tim chúng ta yêu vật chất và của cải ‘cách ích kỷ và ngổn ngang’; khi khối óc và trái tim đang tìm kiếm một giá trị đảo ngược: chọn quà thay vì chọn Đấng Trao Quà! Hãy đặt Chúa trên hết mọi sự, ‘đừng làm loãng tình yêu’ dành cho Ngài! “Tình yêu tuy không phải là nguồn tài nguyên giới hạn, nhưng nó sẽ bị pha loãng khi bị rải ra trên quá nhiều ngẫu tượng!” – Tim Keller.

Có rất nhiều điều tốt đẹp và tốt lành trong các tạo vật Chúa ban để chúng ta hưởng dùng và được hạnh phúc. Không nên xa lánh chúng, nhưng bạn cần sử dụng chúng một cách hữu ích, miễn là chúng đưa chúng ta đến với Chúa và tha nhân chứ không phải xa rời Ngài, xa cách họ. ‘Buông bỏ’ không phải là từ bỏ của cải, mà là sắp xếp các giá trị cuộc sống sao cho Chúa và ơn cứu độ vĩnh cửu luôn được đặt lên hàng đầu. “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa!”; “Hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới!” – bài đọc hai. Vì “Điều bạn sẽ mang theo là tất cả những gì bạn đã cho đi!” – Phanxicô.

Anh Chị em,

“Phải giữ mình tránh mọi thứ tham lam!”. Tránh tham lam hay ‘buông bỏ’ không phải là mất mát, nhưng là một hành trình trở về với chính mình, nơi không còn bị chi phối bởi điều tạm bợ. Khi dám buông những điều mình nắm chặt – dù đó là của cải, thành công, hay cả những ảo ảnh về chính mình – thì một khoảng trống mới được mở ra cho Thiên Chúa bước vào. Chính trong sự rỗng không ấy, bạn và tôi không nghèo đi, mà trở nên giàu có hơn: giàu lòng tin, giàu bình an, và giàu một niềm tự do sâu thẳm mà thế gian không thể ban. ‘Buông bỏ’ là một ân sủng, cũng là một lựa chọn – để sống nhẹ hơn, thật hơn, và gần trời hơn, “Ngài là nơi chúng con trú ẩn!” – Thánh Vịnh đáp ca.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, chỉ cho con những điều con đang giữ quá chặt. Dạy con biết buông, để lòng được rỗng, và Chúa ùa vào!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

*********************************************

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN, NĂM C

những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai ?

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.     Lc 12,13-21

13 Khi ấy, có người trong đám đông nói với Đức Giê-su rằng : “Thưa Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi.” 14 Người đáp : “Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh ?” 15 Và Người nói với họ : “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu.”

16 Sau đó Người nói với họ dụ ngôn này : “Có một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, 17 mới nghĩ bụng rằng : ‘Mình phải làm gì đây ? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu !’ 18 Rồi ông ta tự bảo : ‘Mình sẽ làm thế này : phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. 19 Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng : hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã !’ 20 Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta : ‘Đồ ngốc ! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai ?’ 21 Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó.”


 

Phù hoa nối tiếp phù hoa-Ts. Trần Mỹ Duyệt

Ts. Trần Mỹ Duyệt

Anh Duyệt thân mến,

Nghe bài giảng của Cha Michael tối qua và trước sự ra đi đột ngột của chị bạn, vợ của một bác sỹ rất nổi tiếng trị bệnh Azheimer, tôi càng thấy câu “phù vân, ôi phù vân. Tất cả chỉ là phù vân…” thật thấm thía.

Nếu câu này có thể là một gợi ý để anh viết một bài để độc giả suy nghĩ về sự ngắn ngủi của kiếp người, và để chúng ta, từ đó, biết hoàn toàn phó thác vào Tình yêu Chúa Giêsu giàu lòng thương xót?

Chúc anh và gia đình một cuối tuần vui vẻ và tràn đầy Ơn Chúa.
Augustinô

Trên đây là email mà tôi vừa nhận được từ một người bạn. Đối với tôi, nó cũng “thấm thía” và mang ý nghĩa như bài giảng mà chúng tôi đã nghe trong thánh lễ hôm ấy. Điều làm tôi cảm động hơn là tâm tình của người nghe với những suy tư ứng dụng vào cuộc sống. Đó chính là “sống thánh lễ”, vì thánh lễ được chia thành hai phần: phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể. Thử hỏi có mấy ai khi tham dự thánh lễ đã để tâm lắng nghe, suy nghĩ và cảm thấy mình được thúc đẩy sống đời sống tâm linh bởi ý nghĩa của Lời Chúa?

VANITAS VANITATUM, OMNIA VANITAS

Đây là những lời rất bóng bẩy, thâm thúy của sách Giảng Viên (Eccl 1:2) đã được Thánh Giêrônimô dịch ra Latin trong bộ Thánh Kinh Vulgata.

“Vanitas vanitatum, omnia vanitas.”
Phù hoa nối tiếp phù hoa, của đời hết thảy chỉ là phù hoa.”

Nhưng câu hỏi được nêu lên là có mấy ai đã đọc, đã hiểu, đã suy ngẫm, và nhất là thực hành được ý nghĩa của những dòng chữ vắn vỏn này?

Đọc, nghe hoặc nói về câu nói ấy chắc có thể là nhiều người. Hiểu và suy ngẫm thường là ít. Còn sống và thực hành thì con số này chắc chắn không được bao nhiêu! Tại sao?

“Tham, sân, si” trong Kinh Pháp Cú, theo Phật Giáo, là những nguyên nhân gây ra bất hạnh và phiền não, ưu tư cho con người. Đó cũng là bản tính chung con người. Mấy ai có dịp làm giầu, trèo cao trên nấc thang danh lợi, và quyền uy mà lại bỏ lỡ. Cứ nhìn những cảnh thanh toán nhau trong lịch sử về việc tranh đoạt ngôi thứ. Cảnh tranh cử, đấu đá, bêu xấu nhau với mục đích dành được chiếc ghế thị trưởng, nghị sỹ, dân biểu, thủ tướng, tổng thống trong các cuộc bầu cử hiện nay. Hoặc cảnh luồn cúi, đút lót để được chức chủ tịch, giám đốc, viện trưởng, khoa trưởng, giảng sư…  thì mới biết sức hấp dẫn và thu hút của “Cái vòng danh lợi cong cong. Kẻ hòng ra khỏi, người mong bước vào” như thế nào.

Dựa trên ý nghĩa của bài giảng hôm ấy, và dựa trên hai nhân vật được nêu lên trong bài giảng, chúng ta thử tìm hiểu xem “phù hoa là gì?” Và của đời là “phù hoa” như thế nào?

GIÊSU NAZARETH

Đối với những Kitô hữu thì Ngài là Đấng Thiên Sai do Thiên Chúa sai xuống trần cứu chuộc nhân loại. Ngài là người đã được tiên báo qua những tiên tri trong Cựu Ước, và được ghi lại qua Tân Ước. 33 năm sống trên trần gian, đặc biệt, 3 năm sau cùng của hành trình truyền giảng Tin Mừng, khi có người thanh niên muốn theo Ngài, Ngài đã nói trước với anh thế này: “Cáo có hang, chim có tổ. Con người không có chỗ gối đầu.” (Mt 8:20; Lc 9:58)

Ngài sống thế không phải vì Ngài không có khả năng làm giầu, không có khả năng kiếm tiền, hoặc kiếm được một việc làm mang lại nhiều lợi nhuận, một địa vị danh giá trong xã hội. Trên thự tế, Ngài chỉ là con một bác phó mộc, sống bằng nghề thợ mộc tại làng quê nghèo Nazareth (Mt 13:55; Mk 6:3).

Và trong Thánh Kinh đã có một lần, Ngài được cơ hội trở nên “tất cả”, đó là khi Satan đem Ngài lên núi cao, cho thấy tất cả vinh quang trần thế, rồi nói với Ngài: “Tất cả đều thuộc về tôi, và tôi sẽ cho ông, nếu ông sấp mình thờ lạy tôi.” (Mt 4:9).

Được tất cả đây hiểu theo đúng nghĩa đen của giầu có, danh giá, và quyền bính. Nhưng những thứ đó không phải là cùng đích của cuộc đời. Và dĩ nhiên là Chúa Giêsu đã từ chối.

ALEXANDER ĐẠI ĐẾ

Alexander III of Macedon, thường được biết như Alexander Đại Đế, vị hoàng đế của đế quốc cổ Hy Lạp thuộc Macedon. Ông lên ngôi thay cho cha mình là Philip II năm 336 BC ở tuổi 20. Suốt đời ông chinh chiến từ Tây Á sang Đông-Bắc Phi Châu. [1].

Ông sinh tháng Bảy 356 BC tại Pella, và qua đời tháng Sáu 323 BC tại Babylon, hưởng dương 32 tuổi. Cái chết của ông là một cái chết bí mật. Một số sử gia bảo ông chết vì sốt rét, hoặc những nguyên nhân khác. Một số khác thì cho là ông bị đầu độc.

Nhưng những gì ông để lại sau những chiến thắng vang dội, với hào quang của một đại đế bách chiến, bách thắng là ba câu nói (ba lời trối trăn).

Khi biết mình sắp chết, ông gọi các vị đại tướng lại quanh mình và nói với họ: “Ta sẽ sớm ra đi khỏi thế giới này. Ta có ba ước nguyện, các ngươi đừng quên thực hiện.”
1. “Các vị y sỹ của ta phải khiêng quan tài ta.”
2. “Ta muốn rằng khi quan tài của ta được khiêng tới nơi an táng, trên đường đi, hãy rải vàng bạc, tiền của mà ta có.”
3. “Lời trăn trối thứ ba và sau cùng của ta là hai tay của ta phải để thò ra ngoài quan tài.”

Rồi ông nói với họ: “Ta muốn thế giới hiểu ba bài học mà ta vừa học.”

“Ta muốn các vị danh y của ta khiêng quan tài để người đời biết rằng không có vị bác sỹ nào trên trái đất có thể thực sự cứu được bất cứ ai. Họ không làm gì được trước sự chết.”

Cắt nghĩa lời trối thứ hai, vị hoàng đế nói: “Ta đã bỏ cả đời ta để đạt được sự giầu có, nhưng lại không thể mang theo được gì với ta. Hãy để cho mọi người biết rằng, sự giầu có của thế gian chỉ là bùn đất.”

Còn câu thứ ba ta mong mọi người biết điều này “ta đến thế gian này tay trắng, và ta cũng sẽ ra đi trắng tay.” [2]

HAI CON NGƯỜI HAI BÀI HỌC

Qua hai hình ảnh vừa kể, chúng ta liệu có rút ra được bài học gì trong cuộc sống?

Với Đức Giêsu Kitô bài học về sự phù hoa trần thế là một bài học mang tính cách tâm linh, một bài học đạo đức, và mang giá trị đời đời. Vì đối với cuộc sống trần gian này, con người chúng ta tất cả chỉ là những lữ khách trên đường về quê hương vĩnh cửu. Con đường mà cuộc đời mang lại nhiều gập ghềnh, khó đi, và dài ngắn bao lâu không lệ thuộc vào mỗi người. Như vậy nếu mang theo những của cải vật chất, chẳng khác gì tự mang những gánh nặng chồng chất trên vai một cách vô nghĩa. Bởi vì, tất cả những thứ đó sẽ không là gì khi chạm ngưỡng cửa đời đời.

Sống phó thác. Sống khiêm tốn và bằng an với những gì mình có để dễ hướng lòng về quê hương vĩnh cửu, và nhẹ nhàng bước đi trên hành trình cuộc sống.

Trong quan phòng của Thượng Đế, Ngài biết chúng ta cần gì? Và bao nhiêu? Sự tham lam của con người đến từ tâm lý nghi ngờ và lo sợ về ngày mai.

Khác với Đức Giêsu, Alexander Đại Đế chỉ miễn cưỡng bỏ lại những gì mà ông ky cóp và chiếm đoạt. Những gì ông nói chỉ phản ảnh tâm trạng tiêu cực của một người trước ngưỡng cửa sự chết. Và trên thực tế, ông đã không làm gì được với những của cải mà ông có khi hai tay ông thò ra khỏi quan tài.

Nhưng chúng ta phải cám ơn ông, vì trước giờ chết ông đã ngộ ra chân lý, và chân lý đã giúp ông biết bỏ lại tất cả vì biết rằng sẽ không có cái gì thuộc về trần thế được đem vào thiên quốc. Cám ơn ba lời trối trăn của ông. Và cám ơn ba lời giải thích của ông về cái giá trị phù vân đời này.

“Phù hoa nối tiếp phù hoa. Của đời hết thảy chỉ là phù hoa”.

_____________

Tài liệu tham khảo:

  1. Wikipedia
  2. Last three wishes of Alexander The Great – The Siasat Daily …
    https://archive.siasat.com › News

SỨC MẠNH CỦA CẦU NGUYỆN – Susan Ciancio

Susan Ciancio

 Đã bao nhiêu lần bạn nghe nói rằng cầu nguyện chẳng có tác dụng gì?  Người ta thường chế nhạo vì khi điều bất hạnh xảy ra, cách duy nhất chúng ta thường làm đó là cầu nguyện.  Thực tế cho thấy rằng, nhiều khi chúng ta chẳng thể thay đổi tình hình, chẳng hạn như: chúng ta chẳng thể chữa khỏi ung thư, chẳng thể cho kẻ chết sống lại, và cũng chẳng thể ngăn ngừa tác hại của một trận hỏa hoạn, lũ lụt, … 

 Nhưng rõ ràng là, dù chạm đến sự giới hạn cuối cùng đó, chúng ta vẫn có thể thưa chuyện với Chúa, nài xin lòng thương xót, sự phù trợ, giúp giảm bớt phần nào đau khổ mà con cái Ngài đang phải chịu đựng. Trích dẫn lời của Thánh Gioan Damascene, Sách Giáo lý Công giáo dạy rằng: “Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa hay là cầu xin Thiên Chúa ban cho những điều xứng hợp” (GLCG 2590).

 Cầu nguyện là một điều tuyệt vời và cần thiết trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta.  Không cầu nguyện, chúng ta không có mối tương quan với Thiên Chúa.  Không cầu nguyện, chúng ta sẽ lạc lối.  Cầu nguyện là cách thế tốt nhất để chúng ta mở lòng ra với Thiên Chúa, nhờ đó, chúng ta có thể và sẽ tạo ra sự khác biệt trong thế giới.

1.Cầu nguyện củng cố quyết tâm của chúng ta.

 Chúng ta có thể nhận được sức mạnh lớn lao từ cầu nguyện.  Chỉ cần dành thời giờ thân thưa với Chúa về điều khiến chúng ta vui, buồn và tạ ơn Ngài vì những ơn lành chúng ta đã lãnh nhận sẽ mang lại cho chúng ta tầm nhìn quan trọng về cuộc sống và về những gì chúng ta được mời gọi để làm cho người khác.  Trong thực tế, chúng ta dễ cảm thấy chán nản khi mọi việc không như ý mình, nhưng với một chút thời gian yên tĩnh ở một mình với Chúa có thể giúp chúng ta cảm nhận được sự thanh thản, nhìn mọi việc theo một nhãn quan khác và tăng thêm sức mạnh để làm điều tốt cho người khác. 

2.Cầu nguyện mang lại cho chúng ta sự hiểu biết sâu sắc.

 Thời gian cầu nguyện trước sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Thánh Thể biến đổi tâm hồn khi chúng ta biết suy tư về cuộc sống, hành vi của mình, và quyết tâm thay đổi theo chiều hướng tích cực.  Chúng ta có thể thưa chuyện với Chúa về những gì Ngài muốn dành cho chúng ta và Ngài muốn chúng ta tạo ra sự khác biệt trong cuộc sống của mình và người khác như thế nào.  Việc ngồi tĩnh lặng thưa chuyện với Chúa hoặc đọc Kinh thánh giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc về cách thế Thiên Chúa muốn chúng ta hành động khi chúng ta có thể noi theo gương của các Thánh và của những người nam nữ tốt lành trong Kinh Thánh. 

3.Cầu nguyện thúc đẩy chúng ta hành động.

 Hành động bắt đầu bằng việc cầu nguyện.  Chúng ta thưa chuyện với Chúa và Ngài lắng nghe.  Chúng ta có thể hỏi Thiên Chúa rằng Ngài muốn chúng ta ở đâu, Ngài muốn chúng ta làm gì và làm sao để chúng ta có thể làm theo ý muốn của Ngài.  Chắc chắn Thiên Chúa sẽ nói với chúng ta, mặc dù nhiều khi chúng ta không nghe được tiếng nói trực tiếp của Ngài.  Tuy nhiên, chúng ta có thể cảm nhận ý muốn của Thiên Chúa được đặt vào lòng chúng ta và khi Ngài giúp chúng ta đưa ra những quyết định vì lợi ích của chúng ta hoặc của người khác. 

4.Cầu nguyện đưa người khác đến gần Chúa hơn.

 Khi người khác thấy chúng ta cầu nguyện, chúng ta đang làm gương về cách hành động.  Và khi cầu nguyện cho người khác, chúng ta có thể tin chắc rằng Thiên Chúa lắng nghe chúng ta.  Chúng ta có mẫu gương của Thánh Monica, người đã cầu nguyện ròng rã nhiều năm cho người con trai là Augustino được ơn hoán cải, và bà đã được toại nguyện.  Noi gương thánh nữ Monica, chúng ta hãy cầu nguyện cho những người chúng ta yêu thương và khi cảm thấy mệt mỏi, buồn bã vì lời cầu nguyện của mình không được nhậm lời, sự kiên trì của thánh nữ là nguồn khích lệ lớn lao.

 Cầu nguyện không chỉ củng cố mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa mà còn biến đổi con người chúng ta.  Cầu nguyện uốn nắn chúng ta thành người trung thành hơn, quảng đại hơn để giúp đỡ người khác, và dấn thân hơn để biến thế giới thành một nơi tốt đẹp hơn, đáng sống hơn.

 Thiên Chúa là Cha và Ngài yêu thương chúng ta sâu xa hơn những gì chúng ta có thể hình dung.  Hãy dành thêm thời gian để thân thưa với Ngài, và xây dựng mối tương quan mà cả Thiên Chúa và chúng ta đều khao khát.

 Susan Ciancio

Nt. Anna Ngọc Diệp, OP Chuyển ngữ từ: catholicworldreport.com (15. 04. 2024)

From: Langthangchieutim


 

HỌC CÁCH TỰ VUI VỚI CHÍNH MÌNH – BÀI HỌC LỚN NHẤT CỦA TUỔI GIÀ

Tu Le

Khi còn trẻ, ta dễ nghĩ rằng niềm vui là thứ được ban tặng từ bên ngoài: một cái ôm, một buổi họp mặt đông vui, một người yêu luôn nhắn tin mỗi tối. Nhưng rồi đời sống dạy ta một điều chậm rãi mà chắc chắn: hạnh phúc thật sự không nằm ở những tiếng cười xôn xao, mà nằm ở sự bình yên bên trong, lúc chẳng còn ai bên cạnh.

Có người già đi giữa phố, tay cầm túi xách nhỏ, dáng lặng lẽ như cái bóng dài của hoàng hôn. Thấy cụ ngồi ở công viên, nhẩn nha ăn một cái bánh mì nhỏ, mắt vẫn ánh lên niềm vui, tôi chợt nhận ra: người biết tự vui với chính mình, là người đã học được điều quan trọng nhất sau bao năm tháng bôn ba.

Người ta có thể sống giữa con cháu sum vầy, nhưng lòng vẫn thấy cô đơn. Bởi sự có mặt về thể xác không thể thay thế sự đồng hành của tâm hồn. Con cháu có thể hiếu thảo, có thể chăm lo từng bữa ăn, từng viên thuốc. Nhưng không ai có thể đi cùng ta vào giấc mơ đêm khuya, không ai sống thay những nỗi trống vắng âm thầm trong lòng.

Rồi sẽ đến lúc những buổi tụ họp thưa dần, ai cũng bận rộn với đời mình. Những tin nhắn thưa thớt, những cuộc gọi vội vã. Nếu ta không học cách tự làm bạn với chính mình, thì những tháng năm sau cùng của cuộc đời dễ trở thành những ngày dài thở dài.

Vì vậy, tập tự vui với mình không phải là buông xuôi, mà là buông bớt. Buông những kỳ vọng không cần thiết. Buông sự lệ thuộc vào người khác để được hạnh phúc. Buông cái thói quen đòi hỏi đời phải giống như trong mơ. Rồi ta mới thấy: sống nhẹ lòng là một nghệ thuật, mà ai cũng cần học, nhất là khi tuổi đã xế chiều.

Đừng chờ ai đó rảnh rang mới rủ ta đi uống cà phê. Hãy tự chọn một quán quen, tự kêu món mình thích, và lặng lẽ nhìn người qua lại như một thước phim đời. Đừng chờ con cháu nhớ ngày sinh nhật, hãy tự mua tặng mình một món quà – nhỏ thôi, nhưng ý nghĩa. Một chậu hoa, một cuốn sách, một cái bánh. Cuộc đời, có khi chỉ cần vậy là đủ để lòng ấm.

Người già sống thanh thản là người không giận con cháu vì ít gọi điện, không trách người thân vì không hỏi thăm đều đặn. Bởi người ấy hiểu rằng: ai rồi cũng có hành trình riêng, đâu thể quanh quẩn mãi bên nhau được. Cái quý của đời không nằm ở việc người khác nhớ mình mỗi ngày, mà ở chỗ mình nhớ thương họ một cách yên bình, không oán trách.

Tự pha một ly trà, tự đi bộ vài vòng quanh hồ, tự xem một bộ phim cũ từng thích. Đó không phải là những hành động nhỏ nhặt. Đó là những bài tập thảnh thơi giúp ta trở về với chính mình. Cuộc đời này, ai rồi cũng sẽ đối diện với những buổi chiều lặng gió, những đêm không ai bên cạnh. Học cách vui với những điều nhỏ nhất – ấy là đang chuẩn bị cho một tuổi già không tủi thân.

Người già hạnh phúc không phải người có nhiều tiền, nhiều nhà, mà là người có một tâm hồn đầy đủ. Đầy từ sự biết ơn. Đầy từ những kỷ niệm đã qua mà không tiếc nuối. Đầy từ sự bằng lòng với hiện tại, dù nó chẳng còn bao nhiêu náo nhiệt.

Có những thứ mất đi rồi ta mới biết quý, nhưng cũng có những thứ, chỉ khi buông bớt, ta mới thấy đời thảnh thơi hơn. Tình thân, nếu có – xin trân trọng. Nếu thưa vắng – xin nhẹ lòng. Sức khỏe, còn được bao nhiêu – hãy gìn giữ và trân quý. Ngày nào còn đi lại được, còn nghe được tiếng chim hót sáng mai – ngày đó còn là một món quà.

Tuổi già không nên chỉ là chuỗi ngày lặp lại, sống mòn. Tuổi già cũng có thể là mùa đẹp nhất, nếu ta biết sống chậm, sống sâu, sống tử tế – trước hết là với chính mình.

Sống đến ngần này tuổi, ai cũng từng trải qua mất mát, từng gãy đổ, từng hy vọng rồi thất vọng. Nhưng nếu sau tất cả, ta vẫn có thể mỉm cười với một buổi sáng đầy nắng, thấy lòng dịu lại khi nghe một khúc nhạc cũ, thì có nghĩa là ta đang sống thật sự, không cần ai thay mình, cũng không cần đám đông phải công nhận.

Và có lẽ, bài học lớn nhất của đời người – sau bao năm thăng trầm, chính là:

Biết tự vui, tự an, tự thương lấy mình.

____

#gotacoffee

#ngườiviếtgiữahaimiền


 

ẢO ẢNH – DODUYNGOC – Truyen ngan HAY

Chi NguyenNhững Câu Chuyện Thú Vị

TG: DODUYNGOC

Lần đổi tiền thứ hai năm 1978, Hân chẳng có bao nhiêu tiền để đổi. Lúc đấy Hân đang thất nghiệp, chạy đầu này đầu nọ, chẳng ra việc gì, ai kêu gì làm nấy, bữa đói bữa no. Có thằng bạn thân vượt biên, trước ngày đi có cho một ít, ăn được vài tuần cũng hết sạch. Loay hoay mãi mà chưa biết cách gì để sống. Sách vở bán đã hết. Áo quần cũng chỉ còn bộ đồ mặc trên người, cũng chỉ còn đôi giày da mòn long đế. Gia sản chỉ có bấy nhiêu. Căn phòng càng ngày càng vắng đồ đạc, càng thưa thớt người. Lần lượt từng người đi. Kẻ về quê, người đi đâu mất biệt. Đôi lúc có kẻ lướt về rồi lại đi. Tất cả tản mác để tiếp tục sống, để tiếp tục tồn tại.

Đang là cuối đông. Sài Gòn bỗng lành lạnh với những cơn gió lạ. Cả xã hội nghèo, thiếu ăn. Chén cơm trắng là giấc mơ của bao người. Ai cũng gầy với đôi mắt thất thần và cái bụng lép. Chẳng ai giúp được ai. Hân co ro dưới gió trên đường Trương Minh Giảng. Con đường quen thuộc cả chục năm nay, Hân thuộc từng con hẻm, từng lối rẽ, từng cái ổ gà nho nhỏ trên nền xi măng của vỉa hè. Vẫn biết là chẳng đi đến đâu, chẳng giải quyết được gì cho cái bụng rỗng đã ba hôm rồi, nhưng anh vẫn đi. Nằm nhà xót bụng không chịu được, ra đường với chút hi vọng gặp ai đó, gặp một dịp may nào đó, lượm được đồng bạc ai đánh rơi. Biết đâu? Cũng còn vài người quen, cũng còn vài thằng bạn. Nhưng Hân ngại. Anh tiều tuỵ quá. Đói rách quá, ngại gặp mọi người. Gia đình nào cũng nghèo nhưng đến bữa cũng có bữa cơm dù là bo bo, bột mì hay cá hẩm thịt ôi. Hân chỉ cần có gì bỏ bụng. Lấp đầy khoảng trống của bao tử đang kêu ầm ĩ. Nhưng Hân không dám đến nhà ai. Đói nhưng cái bệnh sĩ vẫn bám vào anh. Hân đi dọc căn phố, những cửa hàng ngày xưa sầm uất thế, rộn ràng thế bây giờ đìu hiu và buồn tẻ. Đã gần chập chọang chiều mà căn phố vẫn hiu hắt vì không có điện. Những giọt mưa lác đác, hắt vào anh. Hân tay ôm ngực tay loay hoay tìm điếu thuốc. Túi rỗng. Hân thèm một hơi thuốc trong mưa. Hân cúi xuống, mắt lướt trên nền xi măng, anh lượm được hai cái tàn thuốc. Anh lượm mảnh giấy báo, xé hai tàn thuốc, gói mấy sợi thuốc vào mảnh giấy báo rồi se lại. Ánh lửa soi sáng một vùng mặt, khói vờn lên. Bụng đang đói gặp hơi khói làm đầu anh lâng lâng như say. Những bóng người loang thoáng, chập chờn. Bụng anh thắt lại. Hân có cảm giác có dòng nước mắt đang âm ỉ chảy từ đôi mắt cận.

Hân băng qua ngã tư. Góc cây xăng Trần Quang Diệu với Trương Minh Giảng cũ có một bà cụ già bán bánh ít nhân đậu. Bà cụ người Bắc đã già lắm. Lưng còng, lúc nào người cũng quấn trong hai ba lớp áo, đầu quấn khăn. Hàng của bà chỉ chục cái bánh lá đặt trên cái thúng cũng cũ kỹ như bà. Một bà cụ nghèo, vốn liếng chẳng bao nhiêu. Bà bán vào buổi chiều, ít thấy khách mua nên nhiều lúc bảy tám giờ tối vẫn còn thấy bà ngồi dưới đèn đường, bóng bà đổ trên đường nhìn hiu quạnh lắm. Hân lâu lâu cũng ghé bà, mua một vài cái ăn qua cơn đói. Hôm nay Hân nghĩ giá có vài cái bánh này, chắc cũng đỡ cho cái bụng. Nhưng anh chẳng còn đồng bạc nào trong túi. Ngang qua, Hân đi luôn dù chân như muốn níu lại. Hân đi đến hẻm Trường Lê Bảo Tịnh. Anh quay lại, dùng dằng mấy bước rồi sà xuống cái thúng bánh tả tơi của bà cụ. Cụ ạ! Cụ cho con hai cái được không? Mời cậu. Cậu mua giúp. Ế quá. Nhưng cụ ơi! Hôm nay cháu không còn tiền, cụ cho cháu thiếu được không? Bà cụ ngần ngừ, chép miệng: Khổ thế cơ à? Ối giời thời thế gì mà ai cũng khổ thế này? Hân đứng lên, anh thấy chóng mặt, cái đầu hơi quay quay, anh lại đành ngồi xuống. Dạ vậy thôi cụ ạ. Vốn cụ chẳng bao nhiêu mà cháu lại ăn thiếu thì khổ cho cụ quá. Bà cụ đưa đôi mắt hấp hem nhìn Hân, móm mém: Khổ đã khổ rồi. Cậu cứ xơi bánh đi, hôm nào có tiền gởi cho tôi cũng được. Trông cậu xanh quá. Chắc đói lắm rồi hử?

Đêm đó nhờ hai cái bánh ít, Hân ngủ được một giấc ngon.

Mấy hôm sau đó, có việc ở Biên Hoà, anh xuống làm phụ mộc gần chục ngày. Về lại Sài Gòn mấy bữa, ghé góc đường lại không thấy bà cụ. Rồi ngày qua tháng lại, thời gian trôi đi, lúc thì quên, khi nhớ tìm mãi chẳng thấy bà cụ đâu.

**********

Cuối năm ấy, một người bạn cho một suất vượt biên, trả tiền sau. Hân liều làm một chuyến vì đang bế tắc quá. Lênh đênh gần nửa tháng ngoài biển, máy hư, tàu vô nước, cuối cùng cũng cặp được vào đảo Pulau Bidong  đảo nhỏ ở phía nam biển Đông, thuộc bang Terengganu của Malaysia. Đảo này được biết đến chủ yếu vì đây mở trại tạm cư cho người Việt tỵ nạn trong những đợt vượt biên liên tiếp của thuyền nhân từ năm 1975 đến năm 1991. Đến 30 tháng 10năm 1991 khi trại đóng cửa thì nơi đây đã tiếp đón 250.000 người tỵ nạn.

Hân ở đảo gần một năm vì chẳng có thân nhân nào bảo lãnh, anh vốn lớn lên từ cô nhi viện, tứ cố vô thân nên chẳng biết cậy nhờ ai. Sau đó anh gia nhập đạo Tin Lành và rồi một hội thánh ở Mỹ bảo lãnh Hân qua Mỹ.

Những năm tháng ở Mỹ, Hân cật lực vừa học vừa làm, cuối cùng cũng có một việc làm ồn định, một bằng cấp kha khá, một căn nhà vừa ý. Hai lần lập gia đình đều đổ vỡ, không có đứa con nào, anh nghĩ chắc ở thế cho đến già. Số thế rồi thì chấp nhận vậy. Đi làm về, một mình trong căn nhà trống, nhiều đêm Hân nhớ Việt Nam, đôi khi thấp thoáng bóng của bà cụ và hai chiếc bánh anh còn thiếu nợ hiện ra trong giấc mơ. Nhưng anh vẫn chưa về, thật ra cũng chẳng còn ai để về. Chẳng còn chi níu kéo để về. Nhưng Việt Nam vẫn về trong giấc mơ của Hân. Có một cái gì đó không giải thích được cứ gọi anh về.

Năm 2002, nhân chuyến công tác ở Thái Lan, anh về lại Sài Gòn năm hôm. Thành phố chẳng còn như cũ, nhiều nhà cao tầng, phố xá đông đúc hơn, người ta có vẻ giàu hơn, hàng quán nhiều hon. Buổi chiều anh về lại con đường Trương Minh Giảng cũ, con phố này có vẻ ít đổi thay, trường đại học ngày xưa của anh giờ trông tàn tạ, những bức tường ám rêu, cái cổng trường vẫn thế. Ngôi chợ cũ khang trang hơn, phố sầm uất hơn. Hân đi dọc con đường mấy chục năm trước thường đi, vỉa hè không còn loang lổ, lát gạch đẹp hơn. Đứng ở bên này ngã tư Trần Quang Diệu nhìn qua xây xăng, anh thoáng thấy bà cụ bán bánh ít nhân đậu xanh đang ngồi ở dưới cột đèn đường. Lạ nhỉ? Hai mươi mấy năm rồi, cụ còn sống sao? Cụ vẫn ngồi bán ở đây sao? Hân nhớ hai chiếc bánh còn thiếu nợ bà cụ. Anh vội băng qua đường. Một chiếc xe bus trờ tới, che tầm mắt của anh. Khi anh bước qua bên kia đường thì không còn thấy bà cụ nữa. Mới thấy đây mà? Hay chỉ là ảo ảnh. Hân đi tìm quanh quất mà chẳng thấy gì. Anh đứng ngay chỗ bà cụ hay ngồi ngày xưa, miệng lẩm bẩm: Cụ ơi! Con về tìm cụ trả tiền hai chiếc bánh. Chắc cụ chẳng còn trên đời này nữa đâu. Nhưng con vừa thấy cụ. Hay cụ nhắc con nhớ món nợ năm xưa. Nhưng con biết làm sao trả. Cụ ơi! Mong cụ siêu thoát. Món nợ này con suốt đời nợ cụ.

Mấy ngày còn lại ở Sài Gòn, Hân cứ quanh quất ở cây xăng Trần  Quang Diệu, hỏi thăm về bà cụ bán bánh ít hơn hai mươi năm trước ở chỗ này. Mấy hôm rồi chẳng ai biết, chẳng biết thêm tin tức gì. Hôm cuối cùng ở Việt Nam, anh gặp được một anh chàng xe ôm, anh ta bảo biết rất rõ bà cụ vì anh là con rể của bà. Hân mừng quá, ngồi trên xe để anh xe ôm chở về nhà mà anh cứ ôm bụng anh chàng xe ôm mà nói: Mừng quá, mừng quá. Chắc là bà cụ khiến anh gặp tui.Mừng quá! Anh xe ôm kể đêm qua thấy cụ về bảo chiều mai ra góc cây xăng, có người muốn gặp. Hân nói với lên: Thế là cụ bảo ra gặp tui đấy. Bà cụ linh thiêng thật.

Xe chạy vào mấy cái hẻm ngoằn nghèo. Con hẻm càng vào sâu càng hẹp lại. Căn nhà ở cuối con hẻm ứ nước, cạnh bãi rác. Nhà sơn tróc loang lổ, nghiêng ngiêng như muốn ngã. Trong nhà tù mù một cái bóng đèn vàng hiu hắt. Một người đàn bà đi ra sau tiếng kêu của anh xe ôm. Hân bước vào nhà, đập vào mắt anh là chiếc bàn thờ be bé thắp ngọn đèn đỏ quạch soi tấm ảnh nho nhỏ của bà cụ. Bà cụ đang nhìn anh, mắt nheo nheo với nụ cười hóm hỉnh. Anh nhớ câu cuối cùng của bà nói với anh hơn hai mươi năm trước: Khổ đã khổ rồi. Cậu cứ xơi bánh đi, hôm nào có tiền gởi cho tôi cũng được. Trông cậu xanh quá. Chắc đói lắm rồi hử?

Hân xin ba cây nhang, đốt lửa, ánh sáng bùng lên soi khuôn mặt của người đàn bà nhầu nhĩ, chắc tại nghèo. Hân chắp tay vào ba cây nhang: Cụ ơi,con xin lỗi cụ, con đắc tội với cụ, con mang nợ cụ hai chiếc bánh cứu con qua cơn đói mà bây giờ con mới trả được cho cụ thì cụ đã chẳng còn. Con không quên được hai chiếc bánh của cụ đâu. Và vì không quên nên con mới nhìn thấy cụ, con mới tìm được nhà cụ để trả món nợ ân tình.

Hân ra ngoài cửa, ánh sáng cuối cùng của buổi chiều hắt lên ánh sáng kỳ dị vừa nhờ nhờ vừa tăm tối trên cánh cửa loang lổ. Anh rút hết số tiền trong ví, trong túi xách, anh không đếm là bao nhiêu nhưng cũng được một bó bằng cườm tay. Anh xin chiếc dĩa, đặt hết lên đấy và vái một lần nữa. Cụ ơi! Con xin gởi cụ. Đã biết trễ rồi nhưng có còn hơn không. Con đội ơn cụ và mong cụ tha lỗi cho con.

Hân bước ra con hẻm, ánh đèn đường vừa bật, anh lại ra con đường cũ. Cây xăng đang tấp nập. Khoảng sáng chiếu ở dưới đèn đường, anh lại thấy nụ cười và dáng lom khom của bà cụ. Nhưng lần này cụ không có bóng đổ.

15.7.2005

TG: DODUYNGOC

(Trích trong Tập truyện ngắn Bước không qua số phận. NXB Hội Nhà Văn. 2022)

Ảnh ST. minh họa.


 

SỰ THẬT MỘT KIẾP NGƯỜI

Chuyện tuổi Xế Chiều – Công Tú Nguyễn

 – Một ngày rất ngắn, ngắn đến mức chưa nắm được cái sáng sớm thì đã tới hoàng hôn.

– Một năm thật ngắn, ngắn đến mức chưa kịp thưởng thức sắc màu đầu xuân thì đã tới mùa đông giá lạnh.

– Một cuộc đời rất ngắn, ngắn tới mức chưa kịp hưởng thụ những năm tháng đẹp thì người đã già rồi.

– Sự việc luôn luôn đến quá nhanh mà hiểu ra thì quá muộn, cho nên chúng ta phải học cách trân trọng: trân trọng tình thân, tình bạn, tình đồng nghiệp, tình yêu, tình vợ chồng, tình phụ mẫu, tình đồng loại…

Vì một khi đã lướt qua, thì khó có thể gặp lại.

* Sau 20 tuổi thì đất khách và quê nhà giống nhau vì đi đến đâu cũng có thể thích ứng.

* Sau 30 tuổi thì ban ngày và ban đêm giống nhau vì mấy ngày mất ngủ cũng không sao.

* Sau 40 tuổi thì trình độ học vấn cao thấp giống nhau, học vấn thấp có khi kiếm tiền nhiều hơn.

* Sau 50 tuổi thì đẹp và xấu giống nhau vì lúc này có đẹp đến mấy cũng xuất hiện nếp nhăn và tàn nhang.

* Sau 60 tuổi thì làm quan lớn và quan bé giống nhau vì nghỉ hưu rồi cấp bậc giống nhau.

* Sau 70 tuổi thì nhà to và nhà nhỏ giống nhau vì xương khớp thoái hóa không thể đi được hết những không gian muốn đi.

* Sau 80 tuổi thì tiền nhiều và tiền ít giống nhau vì có tiêu cũng chẳng tiêu được bao nhiêu tiền.

* Sau 90 tuổi thì nam và nữ giống nhau vì không thể làm nổi chuyện gì nữa.

* Sau 100 tuổi thì nằm và đứng giống nhau vì đứng dậy cũng chẳng biết làm gì?

Vậy nên: trước hay sau, trẻ hay già, giàu hay nghèo, sang hay hèn, quan hay dân dù là bất cứ ai đều giống nhau.

Hãy sống và giữ cho mình thứ tồn tại bất biến là: Niềm tin, Tình người và Nhân nghĩa.

Cuộc sống không bán vé khứ hồi.


 

HỐI TIẾC – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Đó chính là ông Gioan Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết trỗi dậy!”.

“Để có thể vượt qua hối tiếc, thoát khỏi nỗi đau bởi những hối hận quá khứ, sợ hãi tương lai… bạn hãy để lại dĩ vãng cho lòng thương xót Chúa; trao tương lai cho sự quan phòng của Ngài; và dâng hiện tại cho tình yêu Chúa bằng việc trung thành với ân sủng!” – Jean-Pierre de Caussade.

Kính thưa Anh Chị em,

Trong Tin Mừng hôm nay, Hêrôđê cho rằng, Chúa Giêsu là Gioan Tẩy Giả sống lại, phải chăng trong ông đã có một sự đấu tranh về những hối tiếc, sợ hãi và mặc cảm tội lỗi? Giá mà ông vượt qua ‘hối tiếc’, cho phép lòng thương xót và ân sủng Chúa bước vào!

‘Hối tiếc’, sợ hãi và mặc cảm tội lỗi là những tác động phổ biến của một lương tâm xung đột. Hêrôđê là một ‘mẫu gương’ về những gì xảy ra khi chúng ta không thể giải quyết cuộc chiến đó trong nội tâm mình; nhưng Hêrôđê ‘hối tiếc chỉ để hối tiếc’ mà không biến nó thành một thái độ hoán cải. Vì lẽ, “Hối tiếc là một sự lãng phí năng lượng khủng khiếp; bạn không thể xây dựng được gì từ nó; nó chỉ để ta đắm chìm trong đó!” – Katherine Mansfield. Hêrôđê đã để mình trượt dài trong ‘hối tiếc’, không chuyển hoá được nó thành hối cải.

Cách duy nhất để vượt qua nó và giải quyết sự bối rối bên trong của một lương tâm là ‘khiêm nhường đầu phục sự thật’. “Khiêm nhường là chìa khoá để có bình an nội tâm. Bao lâu còn kiêu ngạo, bấy lâu không thấy sự thật!” – C.S. Lewis. Bạn không thể tìm lại bình an bằng cách lẩn tránh nó. Như Hêrôđê đã tránh đối diện sự thật – và càng lẩn tránh, ông càng bất an.

Hãy tưởng tượng nếu Hêrôđê ăn năn; nếu ông tìm đến Chúa Giêsu, thú nhận tội lỗi và cầu xin sự tha thứ! Đó sẽ là một câu chuyện Phúc Âm tuyệt vời. Thật tiếc, Hêrôđê đã không làm vậy và chúng ta đã mất đi chứng từ của một người lầm lạc – cuối cùng – để cho lòng thương xót Chúa cùng ân sủng Ngài bước vào để được ơn hoán cải. Sai lầm là của con người, tha thứ là của Thiên Chúa; nhưng ăn năn mới là nhịp cầu nối hai bên. Hêrôđê đã không bước lên nhịp cầu ấy, ông bị mắc kẹt giữa tội lỗi và lòng thương xót chưa được đón nhận. “Bi kịch của một cuộc đời không phải là nó kết thúc quá sớm, mà là chúng ta chờ quá lâu để thực sự bắt đầu!” – W. M. Lewis.

Anh Chị em,

“Đó chính là ông Gioan Tẩy Giả!”. Hãy suy ngẫm về ‘lời chứng không thánh thiện’ này! Chúa có thể sử dụng ‘mẫu gương’ Hêrôđê để chúng ta thấy bất kỳ khuynh hướng tương tự nào. Bạn có đấu tranh với hối tiếc, sợ hãi và tội lỗi? Tin tốt lành là xung đột này dễ dàng được giải quyết bằng một tấm lòng khiêm hạ tìm kiếm sự thật. Hãy kiếm tìm nó để chiến thắng ‘hối tiếc’, thừa nhận bất kỳ tội lỗi dai dẳng nào mà bạn cần giải quyết và cho phép lòng thương xót Chúa bước vào – qua Bí tích Hoà Giải – hầu bạn được giải thoát. Tắt một lời, “Hãy để lại dĩ vãng cho lòng thương xót Chúa; trao tương lai cho sự quan phòng của Ngài; và dâng hiện tại cho tình yêu Ngài dành cho bạn!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin biến hối tiếc của con thành khởi đầu mới! Dạy con cách quỳ xuống trước sự thật!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

****************************************************************

Lời Chúa Thứ Bảy Tuần XVII Thường Niên, Năm Lẻ

Hêrôđê sai người vào ngục chặt đầu ông Gioan. Môn đệ ông đi báo tin cho Đức Giêsu.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.     Mt 14,1-12

1 Khi ấy, tiểu vương Hê-rô-đê nghe danh tiếng Đức Giê-su, 2 thì nói với những kẻ hầu cận rằng : “Đó chính là ông Gio-an Tẩy Giả ; ông đã từ cõi chết trỗi dậy, nên mới có quyền năng làm phép lạ.”

3 Số là vua Hê-rô-đê đã bắt ông Gio-an, xiềng ông lại, và tống ngục vì chuyện bà Hê-rô-đi-a, vợ ông Phi-líp-phê, anh của nhà vua. 4 Ông Gio-an có nói với vua : “Ngài không được phép lấy bà ấy.” 5 Vua muốn giết ông Gio-an, nhưng lại sợ dân chúng, vì họ coi ông là ngôn sứ. 6 Vậy, nhân ngày sinh nhật của vua Hê-rô-đê, con gái bà Hê-rô-đi-a đã biểu diễn một điệu vũ trước mặt quan khách, làm cho nhà vua vui thích. 7 Bởi đó, vua thề là hễ cô xin gì, vua cũng ban cho. 8 Nghe lời mẹ xui bảo, cô thưa rằng : “Xin ngài ban cho con, ngay tại chỗ, cái đầu ông Gio-an Tẩy Giả đặt trên mâm.” 9 Nhà vua lấy làm buồn, nhưng vì đã trót thề, lại thề trước khách dự tiệc, nên truyền lệnh ban cho cô. 10 Vua sai người vào ngục chặt đầu ông Gio-an. 11 Người ta đặt đầu ông trên mâm, mang về trao cho cô, và cô ta đem đến cho mẹ. 12 Môn đệ ông đến lấy thi hài ông đem đi mai táng, rồi đi báo cho Đức Giê-su.