CHỖ THẤP NHẤT – Lm. Minh Anh

Lm. Minh Anh, Tgp Huế

“Xin ông nhường chỗ cho người này!”.

“Khiêm nhường không có nghĩa là nghĩ về bản thân kém hơn người khác; là đánh giá thấp về những quà tặng riêng của mình. Khiêm nhường có nghĩa là tự do không nghĩ về bản thân cách này, cách khác. Ai khiêm nhường, người ấy tự do!” – William Temple.

Kính thưa Anh Chị em,

“Ai khiêm nhường, người ấy tự do!”, một cách tài tình, Chúa Giêsu và Phaolô sẽ khai triển câu nói của William Temple trong phụng vụ Lời Chúa hôm nay. Từ đó, chúng ta có thể rút ra những bài học bổ ích khi biết chọn cho mình ‘chỗ thấp nhất’.

Được mời dùng bữa, Chúa Giêsu thấy nhiều người chọn những cỗ nhất, Ngài nói cho họ rằng, chúng ‘rất chông chênh’; bởi lẽ, chủ nhà có thể mời họ xuống cỗ dưới! Tuy nhiên, một người khiêm nhượng thực sự sẽ không cảm thấy xấu hổ khi nghe những lời này, thay vào đó, người ấy sẽ vui vẻ hồn nhiên nhường chỗ cho người khác; vinh dự thế gian chẳng nghĩa lý gì đối với họ. Nhưng ở đây, Chúa Giêsu không nói với người khiêm nhượng, Ngài nói với những con người đang giành giật bằng được vinh dự phù hoa. Điều này, cách nào đó, cho thấy bên trong họ, đang rất bất an và thiếu tự trọng.

Thú vị ở đây là các biệt phái, những người đang cố chiếm những cỗ bàn ‘tròng trành’ đó. Chúa Giêsu tiết lộ cho họ một sự thật rằng, niềm vui và hạnh phúc thực sự chỉ được tìm thấy nơi những ai biết hạ mình và biết đề cao người khác. Xu hướng phổ biến của các biệt phái phát xuất từ việc cá nhân họ bất an và nặng sĩ diện. Trẻ em luôn cảm thấy tự do và an toàn vì không cần giữ sĩ diện! Yêu bản thân theo cách Thiên Chúa yêu chúng ta, bạn và tôi có thể hoàn toàn bình an; chúng ta trân trọng phẩm giá tha nhân, thậm chí vui mừng vì sự thành công của họ.

Cũng một chủ đề, qua thư Rôma hôm nay, Phaolô xác định “Chúa không ruồng rẫy dân Người!” như Thánh Vịnh đáp ca xác tín, dẫu xem ra thoạt đầu, Ngài quay sang ủng hộ dân ngoại. Bằng chứng là chính Phaolô, một người Do Thái thuần huyết đã nghe và khiêm tốn đáp lại ơn cứu độ. Sự không tin của người Do Thái chỉ là bước đầu Thiên Chúa cho xảy ra với mục đích khiến họ “ghen tị” với người ngoại mà ăn năn; vì làm sao Ngài có thể bỏ họ! Từ đó, những người Do Thái biết thống hối trở về, khiêm tốn đón nhận Chúa Kitô, họ sẽ được lại tự do của con cái Chúa!

Anh Chị em,

“Xin ông nhường chỗ cho người này!”. Chúa Giêsu không muốn ai trong chúng ta phải nghe những lời bất tiện này; Ngài muốn ngay từ đầu, chúng ta nhường ‘chỗ tốt’ cho người khác. Noi gương Ngài, chúng ta chiếm ‘chỗ thấp nhất’, tự do, an toàn; chỗ phục vụ, hạ mình, yêu thương! Trong thư Philipphê, Phaolô viết, “Phận là phận của một vì Thiên Chúa, Ngài đã trút bỏ hết mọi vinh quang”, chọn ‘chỗ thấp nhất’ trên thập giá; và “Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài!”. Cũng thế, với bạn và tôi, khiêm tốn, đơn giản là chúng ta nhìn thấy chính mình dưới ánh sáng theo cách Thiên Chúa nhìn mình; không cần sự khen ngợi và quý trọng của thế gian; chỉ cần tình yêu Ngài dành cho chúng ta là đủ.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con chạy đôn chạy đáo vì những bã vinh hoa trần thế; để được tự do, bình an và sự tự trọng, cho con biết chọn ‘chỗ thấp nhất!’”, Amen.

Lm. Minh Anh.

From: KimBang Nguyen

Kỹ Thuật cuối tuần: Pin xe điện của BMW có tầm hoạt động xa hơn pin Tesla 30%

Tổng Hợp báo chí chuyên xe điện EV

BMW cho biết pin thế hệ 6 mới của họ vượt xa Tesla một bước

Các tế bào pin mới được cho là có thể tăng phạm vi hoạt động lên 30% và cắt giảm 60% lượng khí thải carbon liên quan đến sản xuất.

BMW cho biết pin thế hệ 6 mới của họ vượt xa Tesla một bước

Trên thực tế, các đơn vị pin mới có đường kính 46 mm và cao 95 mm hoặc 120 mm (tùy thuộc vào phiên bản) được cho là cung cấp mật độ năng lượng cao hơn 20%, phạm vi hoạt động rộng hơn tới 30% và liên quan đến sản xuất thấp hơn 60%. lượng khí thải carbon hơn so với các đơn vị pin hiện tại của BMW.

Các đơn vị pin này có hàm lượng niken cao hơn và hàm lượng coban thấp hơn ở phía cực âm và hàm lượng silicon cao hơn ở phía cực dương so với các tế bào đi ra ngoài.

Họ sẽ có thể cung cấp cho các mẫu xe Neue Klasse phạm vi hoạt động lên tới 500 dặm (~800 km).

Khái niệm BMW Vision Neue Klasse

Đây chính là diện mạo của thế hệ tiếp theo của BMW, với Vision Neue Klasse được quảng cáo là sự tái sinh của công ty trong một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên xe điện.

BMW Neue Klasse Concept khởi động lại thương hiệu và 3-Series cho thời đại điện (Ảnh trực tiếp)

BMW Neue Klasse Concept khởi động lại thương hiệu và 3-Series cho thời đại điện (Ảnh trực tiếp)

Công bố gần đây với tạp chí Automotive News Europe, ông Milan Nedeljkovic, giám đốc sản xuất của Tập đoàn BMW, cho biết hãng sản xuất ô tô này không thấy có khoảng cách tụt hậu với Tesla và trên thực tế, Tesla có thể cần phải bắt kịp BMW khi loại pin thế hệ thứ sáu của hãng xe Đức được sản xuất với dòng xe điện Neue Klasse bắt đầu từ năm 2025.

Tesla, Lucid và Rivian đều sử dụng pin hình trụ và đều dẫn đầu trong phạm vi hoạt động trong khi những hãng khác gặp khó khăn. Mặc dù đây không phải là mảnh ghép duy nhất giải thích tại sao những người khác chưa bắt kịp, nhưng việc sử dụng các ô hình trụ đang dần nổi lên như một vấn đề quan trọng.

Theo BMW, việc sản xuất pin quy mô lớn sẽ được thực hiện bởi các nhà cung cấp Contemporary Amperex Technology Co (CATL) và Eve Energy tại sáu nhà máy khác nhau. Hai trong số các nhà máy này sẽ được đặt tại Châu Âu, Trung Quốc và Bắc Mỹ.

BMW Neue Klasse 2025: así será la nueva berlina revolucio...

Sách cũ miền Nam 1954 -1975 – Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

Đã định tâm như thế rồi. Cho nên, khoảng 6 tháng trước khi về Sàigòn để thăm lại bạn bè, bà con mình, tôi đã nhờ bạn bè bên ấy tìm cho tôi những sách mà tôi muốn tìm. Thật ra ít có ai có thì giờ và có lòng để đi làm một công việc vô bổ như thế. Biết bao nhiêu phần đời tôi, biết tìm cái gì, biết mua ra sao?

Rất may là tôi còn những người bạn có lòng để tâm giúp đỡ, tên anh là Hồ Công Danh. Đó không phải là đi mua sách cũ mà là một việc truy lùng, sục sạo, mò mẫm đầy bất trắc và may rủi, nhưng cũng đầy thú vị và mủi lòng.

Bởi vì sách vở thời ấy, số phận nó như số phận người. Nó cũng phải trốn chạy, chui rúc, ẩn náu. Chúng cũng rơi vào cảnh mồ côi cha mẹ, cảnh lạc đàn, cảnh tan nát, cảnh tan hoang mất còn.

Vận người dân miền Nam thế nào, vận chúng như thế.

Đứa may trốn thoát. Tôi có đứa cháu trai, hồi đó, 6,7 tuổi. Khi đi di tản năm 1975, cháu chỉ mang cặp sách của cháu và nhặt một cuốn sách giáo khoa tâm lý học tôi viết thời đó. Sang sau vài năm, cháu đưa lại cho tôi.

Kể cũng mừng và cũng buồn cười.

Đứa yểu tử thì làm mồi cho cuộc phần thư. Đứa không may làm giấy gói sôi buổi sáng. Đứa bất hạnh làm giấy chùi đít. Đó là cuộc trốn chạy vô tiền khoáng hậu mà những kẻ đi truy lùng chỉ là các trẻ con lên 12, 13 tuổi. “Các cháu ngoan bác Hồ”. Họ xô những đứa trẻ con vô tội đó ra đường. Chúng quàng khăn đỏ hô hoán, reo hò như trong một vụ đi bắt trộm, hay đi bắt kẻ gian. Chúng lục soát tận tình, chúng đánh trống, chúng hát hò như một cuộc ra quân của một đoàn quân chiến thắng.

Gia đình nào cũng sợ hãi cái quang cảnh đó nên kẻ mà phải hy sinh đầu tiên chính là sách vở.

Đốt sách hay không đốt sách (cập nhật) | Thư Quán Bản Thảo / Trần Hoài Thư

Sách vở gì cũng sợ nên sách gì cũng phải tẩu tán. Sách vở bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, mặc dầu chúng là người ngoại quốc, mặc dầu chả dính dáng gì đến chuyện chính trị hay chiến tranh Việt Nam, chúng cũng chịu chung số phận. Tôi cũng có khá nhiều sách vở bằng tiếng Pháp, nhưng tôi biết rằng, trước sau gì tôi sẽ không bao giờ dùng đến chúng nó nên lôi ra bán ve chai mà không thương tiếc. Sách nhỏ bán trước, sách lớn bán sau, cuối cùng là bộ Bách Khoa tự điển bằng tiếng Anh tuần tự rơi vào tay các ông bà bán ve chai.

Ở nơi ấy, chẳng mấy khi mà Aristote gặp được Kant. Cũng chẳng ai ngờ được Bùi Giáng gặp mặt được Heideigger.

Sách cũ đối với tôi là một ám ảnh mời gọi tìm về. Trong đó đặc biệt có chuyện sưu tập tài liệu triết cũ. Cũng từ những sách cũ đó mà trước đây tôi lớn lên, được nuôi dưỡng và phát triển về trí năng mỗi ngày.

Nếu cơm gạo miền Nam cho tôi lớn lên thì sách miền Nam nuôi dưỡng tôi thành người thông tuệ.

Đi truy lùng lại sách cũ là tìm lại một phần bản thân tôi vậy.

Nhưng khi tôi nói sách cũ thì không có nghĩa là sách cổ, mà là sách của miền Nam xuất bản trước 1975. Sách mà theo bá cáo của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng tại kỳ họp thứ nhất của Quốc Hội, ngày 26 tháng 6, năm 1976 là :

Việc xây dựng nền Văn Hoá mới đuợc tiến hành trong cuộc đấu tranh quét sạch những tàn dư mà Mỹ đã gieo rắc ở miền Nam. Đó là thứ Văn Hoá “nô dịch”, lai căng, đồi trụy, cực kỳ phản động..[i].

Để thực hiện nghị quyết trên. Họ đã làm mọi cách : tịch thu, tàng trữ và đốt sách và coi sách vở báo chí miền Nam chỉ là thứ rác rưởi. Phần tôi, tôi dám gọi đó là đống rác tinh thần, tài sản của tất cả trí thức, nhà văn, nhà nghiên cứu, nhà phê bình, nhà khoa học miền Nam trong vòng hai mươi năm đã bị đốt. Tóm lại, đó là đống rác thân yêu của miền Nam, cho người miền Nam gìn giữ lấy.

A.- Tình hình sách cũ hồi 1975

Cộng chung số sách đã bị tịch thâu, hay bị đốt theo là bao nhiêu? Hình như chưa có ai hỏi câu hỏi đó và cũng chưa bao giờ có câu trả lời. Có thể chẳng ai biết được. Chỉ tính theo đầu sách thôi, các số liệu cũ của Bộ Thông Tin cho thấy, vào tháng 9- 1972,  theo Ủy Hội Quốc Gia Unesco Việt Nam Cộng Hòa trung bình đã cấp giấy phép cho 3000 đầu sách được xuất bản một năm. Cộng chung từ năm 1954 đến 1975, đã có khoảng từ 50.000- 60.000 đầu sách đủ loại được xuất bản, thêm vào đó 200.018 đầu sách ngoại quốc được nhập cảng. Giả dụ mỗi đầu sách in tối thiểu 3000 cuốn.

 

Sẽ có 180 triệu cuốn sách tiếng Việt bị tiêu hủy.

Đây chỉ là một lối tính ước chừng. Và như vậy số sách bị tịch thâu, bị đốt, bị bán ra vỉa hè hay ve chai là khoảng 180 triệu cuốn trên khắp miền Nam. Miền Nam theo nghĩa từ Bến Hải vào đến Cà Mâu.

Con số này đã không còn đúng nữa khi ta đọc một bài viết của ông Vũ Hạnh, một nhà văn thời VNCH và là một đảng viên cộng sản trong bài: “Mấy ý nghĩ về Văn Nghệ thực dân mới đăng trong tuần báo Đại Đoàn kết: Từ 1954 đến 1972, có 271 ngàn loại sách lưu hành tại miền Nam, với số bản là 800 triệu bản’.

Trong khi đó sách của ông Trần Trọng Đăng Đàn đưa ra con số 357 ngàn loại. Và ông Đàn dám cả gan nói: Như vậy là con số của Vũ Hạnh gần như khớp với con số chúng tôi tìm được. Thưa ông Trần Trọng Đăng Đàn, con số cách nhau gần một trăm ngàn mà ông dám bảo là khớp thì tôi chịu ông.

 Các ông đã bao giờ biết nói thật chưa?.

Cũng vậy, tờ Tin Sáng số ra ngày 1 tháng 8, năm 1976 tính rằng: Từ năm 1962 về sau, tại Nam Việt Nam đã xuất bản 208 bộ sách chưởng, gồm 850 quyển, con số phát hành này ước tính 5 triệu bản, bằng số sách giáo khoa trung học xuất bản cùng thời gian.[ii] Con số này, xin nhờ những vị chuyên gia về Kim Dung cho biết xem thực hư ra sao.[iii]

Độc giả thân mến, xin ghi nhận những thống kê của Ủy Hội Quốc Gia Unesco VN là tài liệu đáng tin cẩn. Tôi chỉ xin nói một điều, nước Pháp hiện nay mỗi năm xuất bản khoảng 1000 đầu sách tiểu thuyết mới. Làm sao VNCH có thể xuất bản mỗi năm hơn 20 chục ngàn đầu sách một năm. Những con số của ông Vũ Hạnh hay gì khác là một thổi phồng đến phi sự thực. Tôi không dám bảo là ông ấy nói láo khoét.  Hãy trả lại các ông ấy những gì các ông ấy viết. Chỉ cần so sánh con số dự đoán giữa ông và Trần Trọng Đăng Đàn đưa ra cũng cách nhau cả gần một trăm ngàn đầu sách.

Điều đó muốn nói với chúng ta điều gì?

Nay tất cả những sách đó đều ra tro. Đây là một chính sách man rợ và xuẩn động của nhà cầm quyền Hànội. Dĩ nhiên, người ta đã không đốt hết mà mang bán, chính vì thế nay còn rơi rớt lại một số nhỏ nơi các tiệm bán sách.

Vì sợ hãi nên người ta mang sách vở tài liệu ra chợ bán ký, đó là thứ hàng vô dụng và nguy hiểm nhất trong lúc ấy. Người ta đốt những sách nào liên quan đến chính trị, nhất là sách vở chống Cộng. Người ta đốt những nhà văn nào liên quan đến chính trị như Nguyễn Mạnh Côn, Nhã Ca,  Phan Nhật Nam v.v… Người ta cũng đốt tài liệu, hình ảnh cũ, giấy tờ, huân chương, bằng khen. Đó cũng là thứ mà những người chủ mới không muốn nó có mặt.

Người ta đốt tất cả những kỷ niệm, dù đẹp nhất của đời mình.

Mọi người phải tự hiểu rằng, phải đốt tất cả những gì cần đốt, không phải chỉ đốt những kỷ niệm mà tất cả những gì liên quan đến đời sống đó. Một đời sống mà tự nó đã là một điều xấu, một bản án.

Muốn sống yên, người ta phải đốt tất cả quá khứ đời một người cùng với những kỷ niệm, những sự nghiệp từ quá khứ đó mà ra.

Sách không đốt thì được bày bán lén hoặc công khai. Sự bầy bán sách vở như thế coi như dân chúng bắt mạch được thâm ý người chủ mới muốn gì ? Nhưng trong số vạn người bán, vạn người mua,vẫn có những người nhà buôn bất đắc dĩ mà đặc loại là một số nhà văn, nhà giáo chế độ cũ nắm được cái chìa khóa của nhu cầu và ý nuốn của người đọc. Họ tìm ra giữa những kẽ hở để thấy được trong hàng tấn sách báo thải loại, cái nào là thứ hàng có giá trị,có giá đối với người chủ mới. Nạn chợ đen, nạn săn tìm sách cũ cho một thị trường mới nhờ thế càng phát triển.

Một cách nào đó, chính những nhà giáo, nhà văn, những kẻ bán sách lề đường, những tên lái sách trở thành những người bảo tồn Văn hoá miền Nam.

Sách phản động càng cấm, càng có giá. Đó là phản ứng ngược chiều ở thời điểm đó. Trên báo Đại đoàn kết, ngày 10-11-1982, Đinh Trần Phương Nam thú nhận một thực tế phũ phàng như sau: “Các hoạt động của chúng ta vừa qua thật rầm rộ, thật phong phú và đa dạng, song các loại sách báo phản động đồi trụy, đã bị quét hết chưa. Xin thưa ngay là chưa.”

Số Tiền Phong ngày 23-9-1985 cũng than thở: “Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện nhiều đợt bài trừ sách báo xấu, nhưng hiện nay hiện tượng mua bán và cho thuê các loại sách báo xấu vẫn còn tồn tại[iv]

Càng những sách bị cấm lại càng có giá trên thị trường đen. Trên vỉa hè phố, những sách từ ngoài đó được phép bầy bán nằm chống mốc, cong queo ít được ai ngó tới. Người ta bầy những sách trên để che mắt mà thôi. Người mua sách sành điệu chỉ cần hỏi tên một tác giả nhà văn Ngụy. Năm phút sau, chạy đi một lúc có liền.

Lại một thách đố nữa cho người chủ nhân ông mới.

Sách Ngụy trở thành một thách đố chính quyền mới, thách đố ai hơn ai chứ không phải ai thắng ai!!Thách đố mang tầm vóc văn học, giá trị nghệ thuật dựa trên nhu cầu người đọc. Sách hay thì tìm đọc, sách tuyên truyền thì không đọc.

Đài phát thanh thành phố ra lệnh phải thu nộp tất cả các sách vở, báo chí, phim ảnh, tài liệu in ấn trước ngày 30 tháng tư được coi là đồi trụy. Nhiều người tiếc rẻ đem bán kilô. Các gói xôi bán buổi sáng, nay có tên Nguyễn Thụy Long, Nhã Ca, Thanh Tâm Tuyền. Vừa ăn, vừa đọc kể cũng vui. Nhiều chỗ mang sách vở cũ ra đốt. Mà phải đốt lén vào ban đêm.

Nhưng sau đó ai cũng thấy đốt là phí phạm. Không đốt thì sách vở đó đi đâu ? Không ai biết nữa. Nhiều người nhắc nhở đến tên Tần thủy Hoàng. Nhưng chẳng ai để ý đến có mối liên hệ gì giữa chuyện xưa và chuyện nay.
Tại sao lại dị ứng với văn học như thế? Không lẽ tất cả đều là phế liệu, tàn dư Mỹ Ngụy hết sao ? Sách nào là phản động, đồi trụy ? Vì thế sách cũ ở đây được đồng hóa với sách cực kỳ phản động, không phản động thì đồi trụy, không đồi trụy thì lai căng.. Mấy chữ trên như những khẩu lệnh bao trùm và truy chụp hầu như bất cứ tác giả nào và bất cứ quyển sách nào.

– Trước hết, các nhà xuất bản sách thiếu nhi bị cấm toàn bộ.

Đó là các nhà xuất bản như Tuổi thơ, Nắng sớm, Tuổi Hoa Niên, Sách Đẹp, Viễn Du, Hùng Dũng, Hoa Hồng, Hoa Hướng Dương, Hoa Mai, Hoa Hồng.

– Các dịch giả kiếm Hiệp sau đây cũng bị cấm : Kim Dung, Cổ Long, Trần Thanh Vân, Nam Kim Thạch, Từ Khánh phụng, Phan Cảnh Trung, Long Đức Nhân.

– Các tác giả có sách bị cấm toàn bộ như : Bùi Giáng, Chu Tử, Dương Nghiễm Mậu, Duyên Anh, Doãn Quốc Sĩ, Đinh Hùng, Nguyễn Mạnh Côn, Hoàng Hải Thủy, Lệ Hằng, Mai Thảo, Nguyên Sa, Nguyễn Đình Toàn, Thế Uyên, Thanh Nam, Võ Phiến, Văn Quang, Vũ Hoàng Chương, Vũ Tài Lục, Nguyễn Mộng Giác, Thảo Trường, Nguyễn Thị Hoàng..

Nhận xét:

–  Những nhà xuất bản sách thiếu nhi này ấn hành đặc biệt các truyện dành cho thiếu nhi. Những sách đó có tính cách giáo dục, giải trí, hay nêu gương tốt cho các em thiếu nhi. Nội dung lành mạnh và có chất lượng giáo dục. Những nhà xuất bản này thường bất vụ lợi, có sự tài trợ đằng sau của những tổ chức tôn giáo, hay những nhà xuất bản có lòng như trường hợp ông Khai Trí. Vậy mà tội tình gì cũng bị cấm. Cứ cấm là cấm, cấm một cách chùy dập vô tội vạ và vô ý thức.

Các trẻ em miền Nam tự nhiên mù chữ vì không có sách đọc.

– Về các dịch giả truyện Kiếm Hiệp cho thấy đây là những sách dịch vô tội vạ, vô thưởng vô phạt xét về mặt luân lý, giáo dục. Chủ đích của người dịch trước hết có thể là giải trí người đọc. Ai đọc truyện kiếm hiệp chả thấy hấp dẫn và hay, đọc để giải trí.  Sau đó mới nói tới những chủ đề tình yêu, y học, võ thuật, nhân vật truyện, chất hài, chất ghen tuông, chất giang hồ, kiếm pháp trong các truyện kiếm hiệp ấy. Sách phải được coi là bổ ích và nó là bộ phận không nhỏ trong sinh hoạt Văn học miền Nam.

Trẻ đọc, già đọc, bình dân đọc, trí thức đọc.. Mỗi người tìm ra được cái thích thú cho riêng mình. Đến có thể nói, một trong những nét đặc thù trong sinh hoạt Văn Học miền Nam là sách của Kim Dung. Xin cos, nguoifw vieets bafi nayf, xin gioisw thieeuj moojr nhaan vaajt ddawjc bieetj trong truyeejn Kim Dung: Nhaan vvajt Leenhj Hoof Sung

Kim Dung tên thật là Trà Lương Dung. Truyện võ hiệp đầu tay là Thư kiếm ân cừu, xuất bản ở Hương Cảng, từ đó có bút danh Kim Dung. Năm 1957 ra bộ Anh Hùng Xạ Điêu, 1969 ra Lộc Đỉnh Ký. Cho mãi đến 1978 Đài Loan mới rút lệnh cấm tác phẩm Kim Dung và 1986, sau khi tiến lên 4 Hiện đại hoá ở Trung Quốc mới xuất hiện Kim Dung. Truyện chưởng Kim Dung “độc bá quần hùng” trong sinh hoạt văn học ở miền Nam thời ấy. Vào năm 1968, khi xuất hiện Tiếu Ngạo Giang Hồ trên tờ Minh Báo thì có đến 44 nhật báo ở Sàigòn đều tranh nhau dịch và đăng lại. Tình trạng mê Kim Dung đến như thế, và kéo dài cho đến 1972-1974 khi bộ Lộc Đỉnh Ký ra đời. Và đây là lời Vũ Đức Sao Biển, tốt nghiệp Đại học Văn Khoa, Sàigòn, ban Hán Văn: “Tôi học cách làm người, cách đối xử nhân thế, đắc thủ được những kiến thức hoàn toàn không có trong giáo trình đại học từ các tác phẩm của một nhà văn nước ngoài chưa hề biết mặt.”

Với lượng tác phẩm đồ sộ như thế, với số người đọc đông như thế, không thể không tìm hiểu văn học miền Nam nhất là văn học dịch mà bỏ qua tác giả Kim Dung. Người ta có thể bàn về bất cứ vấn đề nào của con người, của xã hội. Có thể từ tình yêu, bạo lực, đạo đức, tâm lý hay sự đánh tụt giá của chủ nghĩa bạo lực trong truyện Kim Dung. Từ vấn đề nghệ thuật, cách xây dựng nhân vật tiểu thuyết, chất thơ, chất hài… đến chứng cứ kiếm pháp, Võ và Hiệp, cho đến những vấn đề có thể trở thành tranh luận văn học như hư cấu nhân vật, hư cấu lịch sử. Kim Dung đã hư cấu lịch sử Trung Hoa cách đấy ba thế kỷ mà vẫn hay với cấu trúc tiểu thuyết liên hoàn. Vương Sóc, nhà văn-nhà phê bình Trung Hoa (mà nghĩ đến ông tôi bắt nghĩ đến Trần Trọng Đăng Đàn của Việt Nam), đã gọi tiểu thuyết Kim Dung là một trong “tứ đại tục” bởi đã hư cấu méo mó hình tượng người Trung Hoa. Từ đó đã gây thành những tranh luận lớn khắp Hoa Lục. Lại còn vấn đề tôn giáo, giáo phái trong tiểu thuyết. Luận về anh hùng và những nhân vật biểu tượng như Kiều Phong, một đại trí, đại dũng lại rất giầu tình cảm và lòng nhân ái vời vợi? Trương Vô Kỵ, Lệnh Hồ Xung, tài trí hơn người, hành xử quang minh lỗi lạc, tốt bụng hơn người? Dương Quá, Địch Vân, Hồ Phỉ… Rồi còn nhân vật nữ, những mỹ nhân như Hân Tố Tố, Nhậm Doanh Doanh, Triệu Minh, Tiểu Siêu, Song Nhi, v.v.. mỗi người mỗi vẻ, mỗi người một thông điệp. Không có những nhân vật nữ đó, tiểu thuyết Kim Dung còn gì?

Vấn đề tâm đắc đối với tôi: Vấn đề chính hay tà, vấn đề thị phi trong cuộc đời, giữa Hiệp nghĩa và xã hội đen, giữa danh môn chính phái và ma giáo. Ai chính, ai tà. Tà chính khác nhau chỗ nào? Đọc Kim Dung sẽ thấy sự phân biệt Chính và  là vô thực. Trong Kim Dung, có một cố gắng đánh tụt giá những người tự nhận là Chính Nghĩa, và qua họ, những giá trị mà họ tượng trưng. Sự sa đọa xuống tới sự bất nhân, sự dâm loạn, sự ngu xuẩn của những đệ tử phái Toàn Chân thì còn ai tin gì ở Chính Nghĩa?

Chuyện đã hay, cơ man nào nhân vật, cơ man nào tình tiết chòng chéo lôi kéo người đọc. Kim Dung phải là người kiến thức rộng, đọc nhiều, dùng Quan Thoại, một thứ ngôn ngữ trong sáng, lại kế thừa truyền thống của những nhà văn như Lâm Ngữ Đường, Tào Ngu, Lỗ Tấn… đã biến những chuyện võ hiệp tầm thường thành những tác phẩm để đời. Đã vậy, có những dịch giả như Hàn Giang Nhạn chuyển ngữ tài tình làm say mê độc giả VN.

Hễ hay thì người đọc, dở thì bị người bỏ quên.

–  Về các tác giả, các nhà văn bị xoá sổ cho thấy tính cách tổng quát hoá và khái quát hoá đồng loạt. Tỉ dụ thơ của Vũ Hoàng Chương như Hoa Đăng, Thơ say, Tâm sự Kẻ sang Tần thì tại sao cấm. Gìn Vàng giữ Ngọc và Giòng sông Định mệnh của Doãn Quốc Sĩ thì chỗ nào là phản động, chỗ nào là đồi trụy. Duyên Anh với Hoa Thiên Lý, Sa Mạc tuổi trẻ, Ngựa chứng trong sân trường, Dấu chân sỏi đá thì chẳng những không đồi trụy mà còn có tác dụng giáo dục nữa. Thơ Nguyên Sa, Gõ đầu trẻ, Một bông hồng cho văn nghệ thì hoặc là có tác dụng giáo dục, hoặc đặt ra những vấn đề tranh luận trong văn học.  Hầu hết người ta không biết hoặc quên rằng Nguyên Sa còn có tập thơ *Những năm 1960*, trong đó là thứ thơ dấn thân, nhập cuộc. Thảo trường với Người đàn bà mang thai trên kinh Đồng Tháp thì có giá trị tố cáo sự tàn bạo của chiến tranh.  Bùi Giáng với Mưa nguồn, Đi vào cõi thơ  là những chất ngọc nào phải thứ đồi trụy rẻ tiền.

Có vẻ nhà cầm quyền lúc đó muốn truy chụp tác giả hơn là tác phẩm. Vũ Hoàng Chương, Mai Thảo, Duyên Anh, Đinh Hùng, Hoàng Hải Thủy, Nguyên Sa, Chu Tử, Thanh Tâm Tuyền, Nhã Ca, Võ Phiến, Văn Quang, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Mạnh Côn, Tạ Tỵ  có viết gì cũng vẫn bị coi là thứ biệt kích văn nghệ.

Xin lấy trường hợp Vũ Hoàng Chương làm điển hình. Ai đã gặp Vũ Hoàng Chương rồi thì đều thấy đó là một thi sĩ gầy ốm tong teo, nói năng nhỏ nhẹ, lúc nào cũng ăn mặc rất chải chuốt, tươm tất, đầu chải mượt với cà rà vạt. Tác phẩm thì tóm gọn trong hai chữ mà thôi : Thơ Tình. Cả đời chỉ biết làm thơ. Và chỉ biết có thơ. Nhưng dù chỉ làm thơ cũng bị coi là người bội phản. Ông đã đi tù như một số nhà văn khác như trường hợp Hồ Hữu Tường. Khi ra khỏi tù được vài ngày thì ông chết.

Mai Thảo dù chỉ viết truyện thuần túy văn chương như Người thầy cũ, Mười đêm ngà ngọc, Căn nhà vùng nước mặn hay Bày thỏ ngày sinh nhật cũng vẫn bị coi là tên Biệt kích văn nghệ hàng đầu của miền Nam. Thanh Tâm Tuyền dù siêu thực hay lãng đãng bí hiểm như Tôi không còn cô độc, Bếp lửa, Cát lầy cũng là kẻ cấy mầm độc tư tưởng ngoại lai thoái hoá. Hủy diệt các niềm tin thì đã có Thanh Tâm Tuyền, Phạm Công Thiện. Duyên Anh có viết Dấu chân sỏi đá, Hoa thiên lý, Thằng Khoa, Gấu rừng, Giặc ô Kê cho trẻ con cũng vẫn là tên đầu sỏ văn nghệ nguy hiểm.

Người ta nhắm đánh vào người, nhắm thái độ lập trường chính trị để đánh giá tác phẩm của tác giả. Vì nhắm tác giả nên có nhiều nhà văn tự nhiên được sót tên một cách cố ý. Đó là những nhà văn một mặt nào đó có thể không chịu xếp hàng trong xã hội miền Nam cho dù thực sự họ cũng xếp hàng như mọi người. Có nghĩa là xét về mặt tác phẩm thì những nhà văn này cũng chẳng khác gì các nhà văn vừa kể ở trên. Có gì phân biệt được về phong cách viết giữa Bình Nguyên Lộc với Lê Xuyên hay với Võ Phiến. Nhưng Bình Nguyên Lộc được tha. Giữa Nguyễn Văn Trung và Lý Chánh Trung mà đôi khi ta tưởng hai người có cùng một lập trường, cùng một quan điểm và cùng một đường lối. Nhưng sách vở thì lại bị phân biệt đối xử khác nhau.

Trong số những người sót tên trong sổ đen phải kể đến Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Vũ Hạnh, Lý Chánh Trung, Lữ Phương, Nguyễn Trọng Văn, Thích Nhất Hạnh.

Sự đánh phá và truy chụp đó nói cho cùng là một sự muốn xoá trắng Văn học miền Nam.

Đó là cái tội đối với lịch sử văn học nói chung, chứ không phải chỉ có tội đối với miền Nam nói riêng. Xin trích dẫn vài tư liệu làm bằng cớ trong sách Văn Học VN dưới chế độ Cộng Sản của Nguyễn Hưng Quốc, trang 200 :”Theo Phan Cư Đệ và Hà Minh Đức, trong Nhà Văn VN, từ 1954-1975 có 286 bài viết nhằm vu khống, xuyên tạc văn học miền Nam. Chỉ thị của Lê Duẩn sau giải phóng, kỳ họp Quốc Hội khoá 5 : Sau ngày giải phóng nhân dân ta đã làm rất nhiều việc nhằm quét sạch những dấu vết và di hại của thứ văn hoá ấy. Công việc này cần được tiếp tục một cách kiên trì, tích cực và triệt để.”

Về những bài viết, xin kể vài bài : Tiếp tục đấu tranh xóa bỏ tàn dư văn hoá mới. Nọc độc văn hoá nô dịch. Những tên biệt kích cầm bút. Lại bàn về nọc độc văn học thực dân mới Mỹ ở miền Nam những năm 1954-75.

Tên những người viết đó là: Trần Trọng Đăng Đàn, Lê Đình Ky, Trần Văn Giàu, Nguyễn Huy Khánh, Thạch Phương, Phan Đắc Lập, Bùi Công Hùng và cả Lữ Phương.

Miền Nam có thể thua cuộc. Nhưng cái văn học đó không có lý do gì bị xoá trắng oan uổng như thế. Bởi vì trong 20 năm sinh hoạt văn học đó, nó xác định cho thấy chỗ đứng của nó với sắc thái và cá tính của một nền Văn học đích thực. Một nền văn học mà sản phẩm của nó là kết quả của tự do suy nghĩ, tự do sáng tác.

 Đấy là cái ưu vượt của sinh hoạt văn học nghệ thuật miền Nam mà trong suốt mấy chục năm chia cắt và cả sau mấy chục năm thống nhất đất nước rồi, người ta vẫn chưa thực hiện nổi một điều đơn giản đó.

Đặc biệt các giáo sư Triết, dù bị phê phán vì rao truyền chủ nghĩa Hiện Sinh, nhưng sách vở của họ lại không bị cấm lưu hành toàn bộ như Lê Tôn Nghiêm, Trần Thái Đỉnh, Trần Văn Toàn, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung và các lớp giáo sư trẻ như Đặng Phùng Quân, Nguyễn Trọng Văn. Trừ một trường hợp đặc biệt, dù là giáo sư triết, nhưng viết văn nên cấm lưu hành toàn bộ như sách của Huỳnh Phan Anh và Nguyễn Xuân Hoàng.

Phần tôi nghĩ rằng, thời kỳ sau 1975, đó là thời kỳ Văn Học bất hạnh cho toàn miền Nam

Bất hạnh vì sách bị tịch thu, bị thiêu hủy. Bất hạnh vì hơn 200 nhà văn, nghệ sĩ bị đưa đi cải tạo. Bất hạnh theo suốt cả đời họ. Vì kể từ đó, họ bị khước từ là nhà văn, bản án tù cứ thế kéo dài mãi mãi vì họ không bao giờ còn có cơ hội để viết. Và kể từ đó đến sau này, ta không còn bắt gặp lại mảnh đất miền Nam với những cây trái văn học nữa, cùng lắm có những cây trái đau khổ, đọa đầy và hủy diệt.

Và cái người bất hạnh nhất, tiêu biểu nhất có lẽ là nhà văn Nguyễn Thụy Long mà người ta quen gọi là nhà văn “Loan mắt nhung”. Sau 1975, ông lê kiếp số phận nhà văn như một  con chó đói, một loài chuột chui nhúc để kiếm sống.

Hãy nghe ông kể :”Tôi về sống với mẹ già ở Ấp Đông Ba Gia Định sau ngày “giải phóng”, bên này Cầu Bông, sau khi bị phía nhà vợ thuộc gia đình Cách mạng đuổi ra khỏi nhà.Tôi ngậm đắng nuốt cay bước ra khỏi nhà sau khi bị vu  bao nhiêu là thứ tội, kể cả tội ăn cắp tài sản của chính mình, suốt nhiều năm cầm bút tạo thành… Mất nhà, mất vợ chẳng nói làm gì, vì đã cạn tầu ráo máng rồi, nhưng mất con tôi mới đau.” Sau khi hồ Con Rùa trên đường Duy Tân bị nổ, ông cùng nhiều trí thức, văn nghệ sĩ bị bắt vì vụ này.

 Xin đọc tiếp :” Những câu chuyện vặt trong phòng giam bỗng im bặt, khi tiếng nói thật lớn thật to ở phòng giam tử tội cuối hành lang cất lên: Chào tất cả các anh em bạn tù, chúng tôi ba người mang án tử hình, sẽ bị xử bắn vào sáng sớm ngày mai, chúng tôi có lời chào vĩnh biệt tất cả các anh em còn ở lại. Tôi là Nguyễn Xuân Hùng, tự Ali Hùng, hai người bạn tôi, một là linh mục, một là chiến sĩ. Tôi là một người Việt Nam lai da đen, xứ Phi Châu Sénégalais, mẹ tôi là người Việt Nam, vậy tôi xin nhận nơi này làm quê hương, vì mẹ Việt Nam của tôi đã nuôi tôi khôn lớn và thành người. Trong phòng giam của tôi, vị linh mục đang quỳ dâng mình cho Chúa, người bạn chiến sĩ thì đang huấn nhục. Tôi có giọng khỏe, xin được hát thân tặng lại tất cả những anh em còn ở lại. Những bài hát thấm đượm tình quê hương của Phạm Duy mà tôi rất ngưỡng mộ.”

Chúng tôi đã mất Sàigòn thật rồi.[v]

Sau này, theo bs Trần Ngọc Ninh viết lại trên tờ Khởi Hành, tháng 9-2005, ông từ chối không cho nhà xuất bản sửa dù một chữ những tác phẩm của ông :”Tôi còn gì để mất ngoài liêm sỉ, thà chết đói chứ tôi không sửa văn tôi viết trước kia được”.

Chính Nguyễn Thụy Long cũng kể lại về trường hợp có nhà xuất bản cho người đến đề nghị in lại cuốn Kinh nước đen với điều kiện nó phải được sửa chữa lại. Ông đã từ chối không chịu. Nay thì tờ Khởi Hành đang tiến hành giải văn chương năm nay dành cho ông. Thực tế trước mắt là ông sẽ nhận được một số tiền để sinh sống ra khỏi kiếp chó đọa đầy.

B- Tình hình sách cũ hiện nay

Về Sàigòn hôm nay, mục đích chính là chỉ ở Sàigòn thôi mà không ở Hànội, tôi tìm lại xem trong đống tro tàn đó còn lại được gì. Không còn bao nhiêu. Tôi thấy họa hiếm mới còn sót lại một vài cuốn truyện. Và càng ngày, số lượng nó càng ít đi, vì mua vào mà không bán ra hoặc theo thời gian bị tiêu ma vì không có thư viện bảo quản. Chỉ còn lại một số rất ít mà trên lý thuyết vẫn là sách cấm lưu hành, bất hợp pháp, nhưng lại được bày bán công khai như thể hợp pháp. Hơn thế nữa, các loại “sách ” thuộc loại sách chưởng, kiếm hiệp, mặc dầu vẫn là sách cấm lưu hành lại được in lại, sách cũ trở thành “sách mới”, bày bán công khai và hợp pháp. Chẳng hạn những sách của Vũ Đức Sao Biển như Kim Dung giữa đời tôi gồm các quyển Kiều Phong, Khát vọng tự do, quyển thượng, Thiên hạ đệ nhất mỹ nhân, quyển trung, Từ AQ đến Vi Tiểu Bảo, quyển hạ và Thanh Kiếm và  cây đàn, quyển kết thì đã được Nhà xuất bản Trẻ in ấn và phát hành đoàng hoàng. Gần như toàn bộ các loại sách kiếm hiệp được in lại. Sách của nhóm TLVĐ cũng vậy. Sách Triết cũng được in lại rất nhiều với các tác giả Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm.

Thế thì những bá cáo chính trị suốt bao nhiêu năm cũng như những văn kiện, nghị quyết của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung Ương đảng Cộng sản phải chăng chỉ còn có giá trị như những tấm giấy lộn?

Để hiểu rõ thêm về phần sách cũ này, tôi có một nhận xét như sau : Kể tử 1975 đến 1985, Sàigòn hay miền Nam có hai bộ mặt sinh hoạt văn học : Mặt nổi và mặt chìm.

– Mặt nổi bao gồm những sách báo in ấn chính thức từ miền Bắc gửi vào. Đó là một thứ văn học Cộng Sản mà tự nó mang tính chất đồng phục, tính chất hợp pháp và giáo điều buồn nản và tầm thường. Tôi còn nhớ trên vỉa hè phố Sàigòn những cuốn sách dịch in trên giấy xấu đến khó coi cả từ bề ngoài đến tựa đề. Đọc lên nghe tức anh ách như : Mười ngày của Bôcaxiô. 10 ngày gì mới được chứ. Thằng cười, dịch V.Hugô. Cửa hàng vì hạnh phúc các bà của E.Zôla.. Dịch lạ quá, tôi đi tìm sách của nhà văn này, nhưng đành chịu không kiếm ra cái tựa đề Cửa hàng vì hạnh phúc các bà ở đâu. Trăm năm cô đơn của G.Market. Tuổi thơ mãi mãi cùng ta của M. Karim, Đất vỡ hoang của M. Sôlôkhốp, Thời gian để sống và để chết của E. Rơmacơ.  Ông già và biển cả của E. Hemingway, Đồi gió hú của E.Brônti. Cả ba cuốn này đều đã được dịch ở trong Nam trước đó rồi.  Đốt Đỉnh gió hú, đốt Lão ngư ông và biển cả, đốt Thời gian để sống và để chết của miền Nam mà chất lượng dịch đã hẳn là bảo đảm hơn miền Bắc để mang nguyên con những thứ đó vào miền Nam với phẩm chất không bảo đảm và giấy thì thật xấu. Để làm gì?

Vì thế dân chúng trong Nam vẫn chịu khó tốn công, tốn tiền đi tìm sách báo cũ để đọc, chuyền tay nhau để đọc. Bởi vì, chính những sản phẩm văn hoá đó đã làm nên họ, là của họ, là bản thân họ và trở thành biểu tượng của những giá trị quá khứ cần được nâng niu giữ gìn. Và như thể, nếu không có những thứ văn hoá phẩm đó được nuôi dưỡng thì họ không còn là họ nữa, khô chồi và thui chột.

Nora Lãng Du: Xưa 1975 cộng sản đốt sách VNCH - 40 năm sau cộng sản cho ...

Xin trích dẫn ở đây nhận xét và tâm tình của  một người bạn yêu sách miền Nam.

Vào những năm 76-79, tôi hay đi chợ Trời sách Sàigòn lục các sách kỹ thuật để xem bạn bẻ du học Mỹ, Tây, Tầu, Úc ai còn ai ở..Sự kiện như thế này: sách kỹ thuật mà bán ở chợ Trời, tức là chủ sách đã chạy rồi và người nhà hoặc con buôn đem sách đi bán hoặc là nhà bị kiểm kê. Sách kỹ thuật được gom lại rất dơ bẩn và được chuồi ra cho con buôn. Sau này, khi tôi vượt biên, bạn bè còn lại cũng thấy sách ngành luyện kim (metallurgy) của tôi bán ở chợ trởi.. Thế là biết nhau hết.

Cứ có sách ở đó, tức là người đã đi rồi. Tôi còn nhớ có một lần dược một chị con buôn sách vỉa hè tin cậy, cho lén xem kho sách chị thu gom được. Cả ngàn hay vạn cuốn sách chứa đầy một căn gác rộng và kín, chỉ có vài ánh nắng chiếu vào. Tôi lom khom ở trên gác lửng đó lục sách, thôi thì gì cũng có cả: tiếng tây, tiếng Mỹ, tiếng Tàu, tiếng Việt. Văn chương, khoa học kỹ thuật. Hàng vạn cuốn cũ chất đống, bụi bậm mịt mù mỗi khi nhấc một cuốn sách lên. Thật là một kinh nghiệm không bao giờ quên. Bây giờ nhắm mắt lại, vẫn còn thấy, còn ngửi được mùi sách, mùi bụi, mùi văn minh từ căn gác ấy. Không hiểu anh nghĩ sao, chứ bây giờ, tôi vẫn rất kính phục những con buôn sách đó, dù rằng họ giữ gìn sách quốc cấm  vì lợi nhuận chứ không phải vì họ quý trọng nền văn hoá và văn minh trong sách, bởi vì việc làm của họ đã giúp bảo tồn nền văn học của miền Nam tự do”.

Nhưng một phần thì sinh hoạt văn học miền Nam dừng lại ở đó, bằng lòng với tất cả những thứ đến từ dĩ vãng, quá khứ và trong tương lai sẽ mỗi ngày mỗi thưa vắng đi, bởi vì không có người làm công việc sáng tác nữa. Đó là thứ văn học không có tương lai mà chỉ còn mở ra một sinh lộ: Quay lại quá khứ của chính mình để nhớ, để thương và để sống lại. Nếu ở Hải ngoại thời đó người ta gọi VHHN là thời kỳ văn học lưu vong. Trong nước phải gọi là thời kỳ văn học của quá khứ, vang bóng một thời.

Từ một nền văn học đồng phục, bị động, nghèo nàn với những sách vở lưa thưa và chưa định hình. Sách báo miền Nam cũ vẫn có mặt mà chưa có kế thừa và thay thế. Kể từ đó, sau ngày 30-4, sách báo miền Nam vỉa hè, giống như số phận của chính nền văn học ấy, thực sự trở thành sinh động chỉ nhờ vào sách báo cũ. “Điều đáng chú ý là đa số chủ nhân các tụ điểm văn hoá này là những người có học. Không thể nói là họ không am hiểu nội dung và tác hại của thử sách ra. Lạ một điều là bất chấp mọi hậu quả, họ cứ thản nhiên bày bán, những thứ rác rưởi văn hoá đó, ngày này qua ngày khác. Cứ mỗi độ chiều về, ở những điểm này, người bán kẻ mua tấp nập[vi].

Không có gì lạ. Cái lạ là các ông không hiểu gì về nếp sống, nếp nghĩ, sinh hoạt văn học miền Nam cả. Những thứ mà quý ông gọi là rác rưởi thì dân miền Nam lại coi là thứ rác quý, rác hiếm.

Sau 30-4, miền Nam có nhiều thứ rác lắm. Những thứ rác có thể đốt. Nhưng đốt thứ rác sách vở, báo chí văn học nghệ thuật miền Nam, các ông đã đụng chạm đến tinh thần và niềm tự hào của cả một miền đất nước thân yêu của họ.

Điều đó khó mà tha thứ được.

C- Những người có công với sách cũ của Sàigòn

Sách vở, báo chí miền Nam trở thành món ăn tinh thần là do công sức của các nhà văn, nhà phê bình, giáo sư đến các học giả. Điều hiển nhiên là thế. Nhưng sức bật, sự tác động để phổ biến những văn hoá phẩm ấy là nhờ vào một số  lớn nhà xuất bản có công với Văn Học.

Họ là những nhà xuất bản như Trình Bày, Nam Sơn, Nguyễn Đình Vượng, Văn Hoá Á Châu, Diên Hồng, Xưa nay, Khai Trí, Lá Bối, An Tiêm. Những nhà xuất bản này đã đóng góp vào việc xuất bản 200 triệu cuốn sách trong 20 năm. Con số thật không nhỏ.

1- Ông Khai Trí : Chẳng mấy ai biết tên thật của ông thành  thương hiệu nhà sách KT, 62 Lê Lợi được đồng hoá vào tên ông. Thật ra tên ông là Nguyễn Hùng Trương, với hai tay trắng làm nên sự nghiệp. Ông vừa là một doanh gia, vừa là người làm văn hóa. Ông biên sọan khoảng 15 cuốn sách như Thơ tình Việt Nam và thế giới chọn lọc, Chánh tả cho người miền Nam... và chủ trương tuần báo Thiếu Nhi cùng với Nhật Tiến.

Sau giải phóng, nhà sách KT là nạn nhân của nạn hôi của, đốt phá. Sách vở tung toé khắp nơi từ trong nhà sách ra ngoài đường. Tôi đã tận mắt chứng kiến cảnh ấy trong nỗi bất lực, bất lực của một người tự xếp hàng vào người thua cuộc. Tôi không biết lúc bấy giờ ông Khai Trí đứng ở đâu. Đứng ở đâu thì cũng cùng tâm cảnh đau xót đó thôi. Khi đã chứng kiến cảnh này rồi thì đừng bảo tôi có thể nghĩ hay cho những người mới đến. Họ không hiểu được điều đó vì quá hăng say trong men chiến thắng hay họ chưa bao giờ biết nghĩ tới người dân muốn gì, nghĩ gì. Tiếp theo đó là hai kho sách lớn cũng bị trưng thâu. Hằng vài trăm ngàn cuốn sách ra khỏi kho, rồi biến mất dạng.

Ông trắng tay sau bao nhiêu năm tốn công gây dựng.

Sau này, ông ở Mỹ về VN một lần nữa, mang theo hy vọng làm được một chút gì cho đất nước. Ông đã mang về 2000 đầu sách để tiếp tục làm Văn hoá. Sách bị tịch thâu với lý do: in trước 75. Theo Nguyễn Thụy Long, phần lớn sách bị tịch thâu là các loại sách Học Làm Người, báo chí quý hiếm trước 1954, như bộ Loa rất nổi tiếng. Sách ông mang về ai cũng biết là sách về giáo dục, sách hiền, sách tốt cả. Mà dại gì ông mang sách dữ, mà làm gì kiếm ra đâu được sách dữ. Nó chỉ có một cái tội: Tội đã in sách trước 1975.

Trước 75 là xấu, vi phạm luật. Sau 75 là tốt.

Ông đau lòng vì sách, ôm đơn đi kiện. Kết cục chẳng đi đến đâu.

Trước khi ông mất, người ta đã không quên đặt tên ông cho một con phố nhỏ. Đúng như ông thày Thích Trí Quang nhận xét : “Hôm qua nó giết mình, hôm sau nó mang vòng hoa đến phúng điếu”. 

 Ông ra đi lúc 5h15 ngày 11/3, linh cữu hiện quàn tại nhà riêng (237 Điện Biên Phủ, quận 3, TP HCM), lễ động quan lúc 6h ngày 14/3, hỏa táng tại Bình Dương. Nguyện vọng của gia đình là gửi tiền phúng điếu vào quỹ từ thiện thành phố.

Cụ Toan Ánh, năm nay 91 tuổi, trong bữa đưa đám ma ông Khai Trí than thở: tại sao mình sống lâu như thế, ông Khai Trí mới có 80 tuổi.

2- Nhà Lá Bối : nhà Lá Bối do nguyên Đại đức Từ Mẫn, tên thật là Võ Thắng Tiết trông nom. Sau ông hoàn tục. Ông là người có lòng, để việc phụng sự văn học nghệ thuật lên trên tiền bạc. Từ Mẫn đã giúp các nhà văn có nơi xuất bản những đầu sách có giá trị và người đọc có cơ hội đọc những cuốn sách trang nhã, chăm sóc từng chút trong việc trình bầy ấn loát và cả đến nội dung sách. Tất cả sách của Nhất Hạnh đều từ đây mà ra. Nếu không có Lá Bối, những Chiến tranh và Hoà Bình, Chiến Quốc Sách, Sử Ký Tư Mã Thiên, Kiếp người của Sommerset Maugham, Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay và Lối thoát cuối cùng của V. Georghiu sẽ nằm ở đâu? Nếu không có Lá Bối, nhiều sách chắc gì đã có cơ hội ra mắt bạn đọc. Nhất là bộ Chiến tranh và Hoà Bình của Léon Tolstoi. Sách in tốn vài ba triệu thời bấy giờ, bao giờ lấy lại vốn. Sau này, ở Hải ngoại, ông tiếp tục làm công tác văn học với nhà xuất bản Văn Nghệ. Nếu cần một vinh danh gì cho 20 năm Văn học dịch nói riêng và Văn học nói chung, có cần nên nhắc đến Võ Thắng Tiết không? Kẻ lót đường cho Văn học miền Nam.

3- An Tiêm Thanh Tuệ

 Tôi chỉ xin trích dẫn ba bài viết lúc mà Thanh Tuệ nằm xuống để thấy được rằng nhà xuất bản An Tiêm với Thanh Tuệ có lòng với văn chương như thế nào.

-Thái Kim Lan về Thanh Tuệ:

Hình như dưới tay anh tác phẩm được in nào cũng mang một chút lòng trân trọng của anh như thế đối với tác giả và độc giả, một nét cười bao dung mời gọi, vừa cảm khái liên tài vừa khuyến khích thúc dục, một nhịp nối uyển chuyển tài hoa giữa giãi bày tâm sự và tìm kiếm tri âm trong chữ nghĩa và tri thức, giữa người và người…

An Tiêm đã khai phá, mở cửa khu vườn văn học của các nghệ sĩ trẻ miền nam trong khung cảnh sôi động của thập niên 60…

-Tiếc Văn Chương, thương chữ nghĩa, Trần Thị Lai Hồng.

Biết là vô thường, nhưng vẫn không khỏi tiếc thương.Tôi tiếc thương người An Tiêm Thanh Tuệ hiền hòa đã đành, mà  nỗi tiếc Thương Văn Chương chữ nghĩa còn trĩu quá nặng.

 Thôi từ nay, còn ai khổ công lặn lội tìm tòi đãi lọc để phổ biến văn chương như đã từng với Tuệ Sĩ, Bùi giáng, Sao Trên Rừng, Nguyễn Đức Sơn. Thôi từ nay còn ai trân quý nâng niu bảo trọng chữ nghĩa như đã từng với Lá Hoa Cồn, Ngàn Thu Rớt Hột, Mười Hai con Mắt.. Đêm Nguyệt Động, Cái chuồng khỉ và còn nhiều, rất nhiều công lao với văn học đã, đang và chưa thực hiện được.

  • Với nhà văn Lê Thị Huệ:

Rồi bỗng nhiên nghe tin Ông chết. Đặng Ngọc Loan hôm trước rủ đi uống càphê với Ông một lần, gọi điện thoại nói với tôi: Tin gì kỳ cục. Sao người vậy mà chết nghe kỳ cục quá.

4- Doanh nghiệp sách Thành Nghĩa, Sàigòn.

Có lẻ phải nói đây là một ông Khai Trí thứ hai. Trong một dịp đi dự một buổi phát giải thường, do cái TTNCBTVPHVHDT. Viết tắt thế để quý vị khỏi mất thời giờ với cái Trung Tâm đó.

Người viết bài này có gặp anh Võ Thành Tân, Tổng giám đốc nhà sách Thành Nghĩa và nhất là  anh Vũ Quang Trình, trợ lý TGĐ trong bữa ăn trưa đó. Các anh cho tôi biết: Gốc gác các anh đều là dân Quảng Nam, Quảng ngãi mà người dân gọi đùa là: Cộng Hoà Xã Hội chủ nghĩa Việt Nam Quảng Nam, Đà Nẵng. Gọi như thế để  thấy cái dân ngoài đó đi theo đảng nhà nước tận tình. Nay sau 30 tháng tư, Họ,những người dân miền ấy có mặt khắp nơi, nhất là trong ngành báo chí, xuất bản. Các báo lớn như Tuổi Trẻ, Thanh Niên v.v. đều có người của họ. Chẳng hạn báo Thanh Niên có Nguyễn Công Khế, Tuổi Trẻ có Hùng Sơn Phước, Công An thành phố Trần Trữ Lang, Sàgòn time có Võ như Lanh, Kinh tế VN có Cung Văn, Nhất Ánh..

Võ Thành Tân, sau 75 đang còn học Văn Khoa. Với cái vốn liếng ấy, anh đâm ra hữu dụng, anh làm nghề mua bán sách cũ. Biết sách nào quý, biết sách nào giá trị là sở trường của một người mua bán sách cũ. Có tý vốn rồi, anh mua lại một cái ki ốt bán sách lẻ ở đường An Dương Vương. Kịp đến thời mở cửa,1986.. Theo lời anh Trình, các anh liên kết với các nxb của nhà nước để in sách. Họ đứng tên, cho giấy phép rồi họ mặc cho mình muốn làm gì thì làm. Một cuốn sách mới đầu ít vốn in 1000 cuốn thăm dò. Bán chạy thì in lại, bán tiếp. Một năm mới đầu xuất bản 4, 5 đầu sách, rồi cứ thế tăng dần. Đến năm 2004 thì đã cho xuất bản đến 3000 đầu sách đủ loại. 2005 tăng lên 3500 đầu sách một năm.

Nay thì các anh trở thành tỉ tỉ phú trong ngành xuất bản. Ngoài ra, các anh còn mở ra 18 cửa hàng bán sách với 2000 nhân viên. Tôi thắc mắc hỏ:tại sao có nhiều nhân viên như thế? Trả lời là để trông chừng những khách hàng ăn trộm đồ trong tiệm sách.

Có những tiệm sách lớn có đến 40 chục ngàn đầu sách đủ loại.

Tôi còn ghi lại một chi tiết nhỏ trong buổi ra mắt sách, mỗi khách mời ngoài phần ăn uống, còn có một phong bì 50.000 làm quà tặng. Còn các quan văn nghệ lớn từ miền Bắc vào, ngoài chi phí máy bay, khách sạn, còn phong bì không biết là bao nhiêu? Tôi không tiện hỏi. Đó là một cách đút lót hợp pháp.

Làm gì còn có những Thanh Tuệ, những Từ mẫn nữa. Làm gì còn có Lá Bối, An Tiêm, Nam Sơn nữa. Làm gì còn có Loan mắt Nhung  nữa.

Thôi chào vĩnh biệt sách cũ Sàigòn. Chào những đứa con tinh thần sinh trước 1975 còn sót lại.

Và như trong một số bài viết của tôi, tôi luôn luôn đòi hỏi nhà cầm quyền đương thời một điều, một điều thôi. Trước khi nói hoà giải, trước khi nói tình nghĩa, trước khi kêu gọi Việt kiều về nước, trước khi nói đến khúc ruột ngàn dặm v.v. và v.v., yêu cầu các ông một lời xin lỗi chúng tôi, xin lỗi những người lính VN cộng hoà, xin lỗi các nhà văn, nhà trí thức, xin lỗi các bà vợ, xin lỗi người mẹ, xin lỗi trẻ con miền Nam và cuối cùng xin lỗi sách vở miền Nam. Xin lỗi tất cả.

Không làm thì hãy khoan nói đến truyện gì khác.

 —————————————————————————-

[i] Trích Văn Hoá, Văn Nghệ..Nam Việt Nam 1954-1975, Trần Trọng Đăng Đàn, trang 779, nxb Văn Hoá Thông Tin Hànội- 2000.
[ii] Trích lại trong Văn Hoá Văn Ngệ Nam Việt Nam 1954-1975 của Trần Trọng Đăng Dàn, trang 502, nxb Văn Hóa Thông tin.
[iii] Trích lại trong Văn Hoá, Văn Nghệ, Nam Việt Nam 1954-1975 của Trần Trọng Đăng Đàn. Nxb Văn Hoá Thông tin. Trg 502.
[iv] Trích Văn Học Việt Nam dưới chế độ Cộng Sản, Nguyễn Hưng Quốc, trang 226, nxb Văn Nghệ, 1991
[v] Trích Ký ức về tiếng hát của người tử tù, Nguyễn Thụy Long, tạp chí Khởi Hành số tháng 9-2005, trang 23.
[vi] Trích SGGP, ngày 15-2-1987. Trong Văn Học VN dưới chế độ Cộng Sản của Nguyễn Hưng Quốc, trg 228. nxb Văn Nghệ.


 

Image result for cho sach cu sau 1975

Sách Sài Gòn sau 1975: Nền văn hóa đổ tràn ra vỉa hè

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Cái địt giữa tòa

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Honoré de Balzac qua đời năm 1850. Từ đó đến nay cả đống nước sông, nước suối (cùng với nước mưa, nước mắt) đã ào ạt chảy qua cầu và qua cống. Loài người mỗi lúc một thêm tiến bộ và văn minh hơn. Theo thời gian luật pháp – nói chung – cũng vậy, cũng được cải thiện (dần dần) nghiêm minh và đàng hoàng hơn thấy rõ. Ruồi lớn, giờ đây, cũng bị vướng vòng lao lý đều đều.

Cả Tổng Thống Đài Loan (Trần Thủy Biển) lẫn Tổng Thống Nam Hàn (Park Geun-hye) đều bị ngồi tù chỉ vì lem nhem về tiền bạc. Gần hơn, ngày 20 tháng 09 năm 2018, cựu thủ tướng Malaysia Najib Razak cũng vừa phải vác chiếu hầu toà vì tội biển thủ công quỹ.

Nhân loại – tất nhiên – không phải lúc nào cũng vui vẻ nắm tay nhau, hướng về phía trước, và cùng đồng nhịp bước tiến. Ở Zimbabwe, Tổng Thống Robert Mugabe (một con ruồi lớn) đã thoát lưới dễ dàng vì luật pháp ở xứ sở này – ngó bộ – có hơi xộc xệch.

Nói vậy rất dễ gây ngộ nhận là (dường như) luật pháp tại Á Châu tiến bộ hơn ở Phi Châu chăng?

Không dám hơn đâu!

Việt Nam thuộc Đông Nam Á, và hệ thống pháp luật của quốc gia này, xem chừng, vẫn đang có khuynh hướng thụt lùi. Cựu T.T Nguyễn Tấn Dũng đã hạ cánh an toàn, không một phiên toà hay ngày tù tội gì ráo trọi, dù ông được công luận ghi nhận là một nhân vật “đầy tì vết tham nhũng” và “phá chưa từng có!”

Ngành tư pháp của đất nước Zimbabwe hình thành và lùi/tiến ra sao, nói thiệt, tui hoàn toàn mù tịt nên không dám lạm bàn. Còn ở VN của mình thì tui có biết (sơ) nên xin phép được nói qua chút xíu, nghe chơi, để rộng đường dư luận.

Đại Học Đông Dương khai giảng lần đầu vào năm 1907. Tác giả Trần Thị Phương Hoa (Institute for European Studies) cho biết thêm :

“Lần khai giảng thứ hai năm 1917 mở ra một hình thức mới cho trường – đó là mô hình bách khoa với nhiều trường kỹ thuật. Giai đoạn thứ ba từ 1932 đến 1945 khẳng định diện mạo của trường với ba thành tố: Trường Y, trường Luật và trường Khoa học.

Mặc dù trường đại học hạn chế số lượng thành viên, uy tín chuyên môn của Đại học Đông Dương tăng dần. Kể từ năm 1932, trường Y và trường Luật trở thành một phân hiệu của trường Y và Luật Paris.”

Không chỉ muộn màng, ngành luật học ở Việt Nam còn gặp rất nhiều trắc trở :

“Ngày 17-11-1950, Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 158-SL, quyết định việc bổ sung cán bộ công nông vào ngạch thẩm phán và thăng bổ các thẩm phán toà án nhân dân huyện lên toà án nhân dân tỉnh… Từ đây, theo ông Vũ Đình Hòe : ‘các thẩm phán huyện, đa số là đảng viên cộng sản, chỉ qua lớp chính trị và nghiệp vụ’. Quan điểm lựa chọn thẩm phán chủ yếu ‘đứng trên lập trường nhân dân’ của Hồ Chí Minh đã ảnh hưởng lâu dài đến nền tư pháp Việt Nam.” (Huy Đức. Bên Thắng Cuộc, tập II. OsinBook, USA: 2012).

Muốn biết “quan điểm lựa chọn thẩm phán ‘chủ yếu là đảng viên cộng sản’ và ‘đứng trên lập trường nhân dân’ của Hồ Chí Minh đã ảnh hưởng lâu dài đến nền tư pháp Việt Nam” ra sao, xin đọc qua một mẩu đối thoại (giữa quan toà và bị cáo) trong phiên toà xử Phan Thắng Toán và những người đồng vụ – vào  năm 1971 – do nhạc sĩ Tô Hải ghi lại :

Chánh án: – Anh có nhận là đã đánh nhạc của tư sản, là đồi truỵ không?

Toán xồm: – Dạ! Thưa quý toà, con chỉ đánh những gì in trên đĩa của Liên Xô, của Tiệp Khắc, của Cộng Hoà Dân Chủ Đức thôi ạ!

Chánh án: – Anh nói láo! Thế Paloma, Santa Lucia là của ai?

Toán Xồm: – Dạ! Paloma là của nước bạn Cu Ba ạ! Còn Santa Lucia là dân ca Ý ạ! Nhà xuất Bản của nhà nước đã in và sân khấu nhà nước đã có nhiều ca sỹ biểu diễn ạ!

Chánh án: – Vậy anh có biết cha cha cha là cái gì không?

Toán Xồm: – Dạ! Có ạ!! Đây là một nhịp điệu xuất xứ cũng tại nước bạn Cu Ba ạ!

Chánh án: – Thế còn Tango bleu chắc anh cũng đổ cho Cu Ba hết hả?

Toán xồm: – Dạ không! Tango là một điệu nhảy Ác-giăng-tin nhưng đã được quốc tế hoá. Vừa giờ Đoàn xiếc Tiệp Khắc sang ta và các nước XHCN đều xử dụng cả ạ!

Chánh án: – Nhưng người ta đánh khác, còn anh đánh khác. Đừng có ngụy biện!

Toán Xồm: – Dạ! Đánh y hệt ạ! Chỉ có thua họ về nhạc cụ họ tốt hơn… chứ nếu chúng con có đầy đủ nhạc cụ như họ thì chúng con chẳng thua gì họ cả ạ!

Chánh án: – Anh hãy im miệng! Đồ ngoan cố!

Và cứ như vậy, suốt phiên tòa Chánh án chỉ sử dụng câu “Im miệng! Đồ ngoan cố” để cắt lời người bị buộc tội. Không hề có ai bào chữa.

Cuối cùng, toà luận án và tuyên án :

“Việc làm của bọn này đã gây ảnh hưởng xấu cho phong trào trật tự trị an, phá hoại việc thực hiện một số chính sách của Nhà nước, nhất là chính sách lao động sản xuất, chính sách nghĩa vụ quân sự… xâm phạm nghiêm trọng đến hạnh phúc, phẩm giá của phụ nữ, đến đạo đức và đời sống của nhiều người, và tuyên truyền xuyên tạc lại chế độ xã hội chủ nghĩa trong lúc cả nước đang chiến đấu chống Mỹ xâm lược.

Do tính chất nghiêm trọng của vụ án nói trên, toà quyết định xử phạt Phan Thắng Toán 15 năm tù giam và sau đó 5 năm bị tước quyền công dân; Nguyễn Văn Đắc, 12 năm tù giam và sau đó 5 năm bị tước quyền công dân; Nguyễn Văn Lộc 10 năm tù giam và 4 năm bị tước quyền công dân …” (“Phan Thắng Toán và Đồng Bọn Đã Bị Xét Xử” – báo Hà Nội Mới 12/ 01/1971).

Với truyền thống ban phát án tù vô tội vạ như trên, của nền tư pháp công nông (hóa) ở Việt Nam, nên không có gì ngạc nhiên khi ông Lê Đình Lượng đã bị kết án đến 20 năm tù – vào ngày 16 tháng 8 vừa qua – chỉ vì “có nhiều bài viết với nội dung tuyên truyền, kích động, xuyên tạc, phỉ báng chủ trương, đường lối của Đảng.” L.S Đặng Đình Mạnh còn cho BBC biết thêm là “ông Lượng giữ quyền im lặng suốt phiên tòa, nên bị đánh giá là ngoan cố.”

Hơn ba tuần sau, vào hôm 14 tháng 9 năm 2018 – tại một phiên toà khác – ông Nguyễn Văn Túc bị kết tội “tổ chức phản động, hoạt động trái pháp luật, nhằm âm mưu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, lật đổ chính quyền nhân dân, thay đổi thể chế chính trị.” Khác với ông Lê Đình Lượng, ông Nguyễn Văn Túc không giữ im lặng mà bật tiếng chửi thề. Sự kiện này đã khiến nhà thơ Thái Bá Tân buông đôi câu cảm thán :

Hôm qua xử phúc thẩm
Y án mười ba năm
Với anh Nguyễn Văn Túc
Một tù nhân lương tâm.

Anh chấp nhận bản án,
Không van xin, kêu ca.
Nghe nói chỉ nhếch mép
Và chửi:“Địt mẹ tòa!”

FB Bùi Thị Minh Hằng bình phẩm : “Chắc chắn câu chửi thề này sẽ trở thành ‘dấu ấn ô nhục’ cho nền tư pháp cộng sản.”

Tôi thì nghĩ hơi khác, câu chửi thề này không phải là dấu ấn, mà là dấu chấm (hết) cho hệ thống tư pháp công nông mù loà và thô bạo của thể chế hiện hành. Từ nay, vẫn theo lời Thái Bá Tân:

Đừng nhắc đến công lý
Với tòa án nước ta.
Tôi, bị đem ra xử,
Cũng nói:” Địt mẹ tòa!”

Ai cũng đều nói thế cả thì kể như xong phim!


 

Làm gì có “văn hóa”- Trương Nhân Tuấn

Báo Tiếng Dân

Trương Nhân Tuấn

3-11-2023

“Văn hóa giao thông” của Việt Nam, đặc biệt miền Nam Việt Nam sau năm 1975, cũng như mọi thứ “văn hóa” khác, tất cả đều ảnh hưởng sâu đậm cái gọi là “văn hóa xã hội chủ nghĩa”. Cái khó là, bây giờ, nếu có ai (cắc cớ) biểu định nghĩa thế nào là “văn hóa xã hội chủ nghĩa”? Tui chịu thua. Bó tay thôi. Bởi vì “văn hóa XHCN” ở Việt Nam, trên thực tế mỗi nơi mỗi khác. Còn về “tiêu chí” hay “nội hàm” của văn hóa thì mỗi lúc, mỗi thời kỳ người ta diễn giải “văn hóa” một cách khác nhau, đôi khi đối nghịch với nhau.

Trong thành phố nhan nhản những “khu phố văn hóa”. Các khu phố này giống nhau cái gì và khác nhau cái gì (về văn hóa)? Đi vào trong xem thử “bản chất văn hóa” của từng khu phố, ta thấy gì? Phố nào cũng giống nhau ở chỗ nhếch nhác, rác rưới, bẩn thỉu, ồn ào, rách rưới… Ngoại lệ những lá cờ, những tấm biểu ngữ đỏ tươi phất phới ở trên là “vui vẻ”.

Văn hóa là lá cờ, là tấm biểu ngữ hay là thực trạng khốn cùng của người dân, những người sinh sống trong các hẻm nhỏ?

Về “nội hàm” văn hóa. Lâu lâu ta đọc báo thấy lời kêu gọi (hay thúc giục) các phong trào “xây dựng nền văn hóa mới, con người mới trong thời kỳ x, y, z…”. Xây dựng con người mới, xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa. Xây dựng con người mới, xây dựng nền văn hóa mới trong thời kỳ hội nhập, trong thời kỳ đổi mới, trong thời kỳ kinh tế thị trường định hướng XHCN…

Văn hóa Việt Nam dưới ánh sáng XHCN rõ ràng là thứ đổi màu, giống con kỳ nhông. Lúc trước “thời kỳ quá độ lên XHCN” tiêu chuẩn văn hóa phải là “đỏ”, càng đỏ càng “giác ngộ”. Thời kỳ “đổi mới”, văn hóa lúc đỏ lúc xanh, kiểu cá lia thia thua trận đổi màu “sọc dưa”. Thời kỳ bây giờ, văn hóa là gì, đố ai biết.

Văn hóa là “sản phẩm” phát sinh từ những con người cùng hấp thụ những “giá trị nền tảng” bất biến, trong một nền văn minh, trong một xã hội. Các giá trị nền tảng có thể là các tín điều tôn giáo, chính trị, kinh tế hay xã hội (từ bi, hỉ xả, yêu thương đồng loại, tình liên đới, tình bạn, tình cha con, chồng vợ, tôn thờ công lý, yêu chuộng tự do, tinh thần trọng luật, tinh thần đề cao cái đẹp “chân, thiện mỹ”, đề cao quyền con người v.v…). Văn hóa, vì vậy có tính “khai phóng”, trên căn bản những tín điều “bất biến”.

Các “giá trị nền tảng” xây dựng lên một cộng đồng xã hội, một quốc gia lúc đen, lúc trắng, kiểu Việt Nam bây giờ, thì làm gì có “văn hóa”?

Văn hóa giao thông của Việt Nam, nói ra bà con đừng buồn, theo tôi 90% người Việt Nam không có văn hóa giao thông. 90% người Việt Nam không biết lái xe!

Thật vậy, biết lái xe trước hết là phải biết “luật về giao thông”. Anh lái hay cách mấy, nhưng anh bất chấp luật lệ, hiển nhiên anh không biết lái xe. “Luồn lách” có thể là một cách sống nhưng không thể là văn hóa giao thông. Đâu phải thấy có chỗ trống là anh đút xe vào được đâu? Ai cũng tranh đi trước, tranh tiện lợi, muốn “tay trên”… thì đường xá ùn tắc thôi.

Tôi dám khẳng định là tài xế Việt Nam, nếu qua một xứ bất kỳ, kiểu Thái Lan hay Mã Lai (nói chi các quốc gia Âu, Mỹ), nếu họ lái theo “kiểu Việt Nam” của họ, chỉ 30 phút là họ bị cảnh sát tước bằng lái.

Bằng lái Việt Nam là “bằng quốc tế”.

Các bạn phải hình dung rằng chiếc xe của bạn đang lái, nếu lái đúng luật, thì nó là một phương tiện giao thông. Nhưng khi bạn phạm luật, thì chiếc xe của bạn có thể trở thành “phương tiện giúp cho bạn giết người”.

Trên đường cao tốc (trên hai làn xe), luật buộc mọi phương tiện giao thông, nhứt là xe tải, xe khách (không chạy quá 80 km giờ) phải đi bên làn phải.

Luật cấm, không cho phép bạn vượt (qua mặt) xe khác từ bên làn phải. Luật qui định bạn chỉ được phép qua mặt bên làn trái.

Trong thành phố, khi đèn đỏ, mọi phương tiện giao thông phải ngừng ở vạch trắng đúng qui định. Người bộ hành qua đường có “quyền tuyệt đối” trong thời gian đèn xanh dành họ qua đường, trên lề vạch trắng dành riêng cho họ. Mọi phương tiện xe cộ nào “chồm chồm” rú ga nhít lên, như muốn đe dọa người bộ hành, người tài xế này có thể bị truy tố về tội “sử dụng phương tiện giao thông đe dọa tính mạng người khác”. Nói chi những bạn chạy xe gắn máy trên lề dành riêng cho bộ hành.

Đâu phải anh có xe đẹp thì anh có quyền rú ga, lấn đường, gây nguy hiểm cho người khác?

Chuyện có thật bên Mỹ. Một người phụ nữ Việt Nam ở trong nhà, đang cầm dao băm thịt (hay để làm chuyện chi đó) trong bếp. Tình cờ vì một lý do nào đó cảnh sát khám nhà. Người phụ nữ kia nói chuyện với cảnh sát với tư thế cầm dao “giá giá” nhân viên công lực. Viên cảnh sát rút súng và bắn chết tại chỗ người phụ nữ kia. Bởi vì người cảnh sát này cho rằng cái cách cầm dao của người phụ nữ kia là hành vi đe dọa tính mạng của anh ta. Quyền tự vệ chính đáng.

Vì vậy, tôi thành thật khuyên quí vị hay có thói quen đến đèn đỏ mà không chịu ngừng hẳn ở vạch trắng, hành vi nhấn ga, cho xe chồm chồm nhích lên, nhích xuống, có thể xem là hành vi đe dọa bộ hành. Trường hợp này khá giống vụ người phụ nữ bị cảnh sát bắn chết. Chiếc xe không còn là phương tiện giao thông mà nó trở thành vũ khí đe dọa, hay chuẩn bị giết người. Người phạm tội này có thể bị tịch thu phương tiện giao thông, bị tước bằng lái và còn có thể bị truy tố hình sự, gỡ nhiều cuốn lịch.

Theo tôi, văn hóa giao thông của Việt Nam (hay của Nga, các xứ Đông Âu…) có ảnh hưởng từ lối sống “luồn lách” của con người dưới các chế độ độc tài. Các xứ Đông Âu, gần đèn thì sáng, vấn đề giao thông không còn là chuyện nhức đầu.

Giao thông Việt Nam, khi mà văn hóa luồn lách còn tồn tại, khi mà cảnh sát giao thông hoặc còn “a ma tơ”, không biết luật giao thông, hoặc không lo làm cảnh sát bảo vệ trật tự mà chỉ muốn trấn lột kiếm tiền, thì tình trạng giao thông của Việt Nam cũng mịt mờ như văn hóa XHCN.


 

NỖI ĐAU THÁNH – Lm. Minh Anh, Gp. Huế

Lm. Minh Anh, Gp. Huế

“Lòng tôi rất đỗi ưu phiền, và đau khổ mãi không ngơi!”.

Thomas Jefferson

Thomas Jefferson education quotes | ... injustice becomes law ...

Về hưu, cựu Tổng thống Thomas Jefferson lập Đại học Virginia; ông tin rằng, sinh viên sẽ học hành nghiêm túc. Nào ngờ, một cuộc bạo động dẫn đến đổ máu xảy ra; các giáo sư bị tấn công! Hôm sau, một cuộc họp được tổ chức, Jefferson có mặt; có cả các sinh viên nổi loạn. Jefferson nói, “Đây là một sự kiện đau đớn nhất trong đời tôi!”, và ông bật khóc! Giám thị yêu cầu những kẻ bạo động tiến lên; tất cả nhận lỗi. Sau đó, một trong các sinh viên ấy nói, “Không phải do lời của Jefferson, nhưng là nước mắt của ông ta!”.

University of Virginia Thomas Jefferson Statue Stock Image - Image of ...

Kính thưa Anh Chị em,

Jefferson đau đớn! Lời Chúa hôm nay cho thấy một nỗi đau còn lớn hơn. Đó là nỗi đau của Phaolô, một ‘nỗi đau thánh!’. Trước sự cứng lòng của những người anh em Do Thái giáo đương thời, những người nhất mực từ chối sứ điệp Phaolô mang đến, Phaolô thở than, “Lòng tôi rất đỗi ưu phiền, và đau khổ mãi không ngơi!”.

Một lý do khiến Phaolô vô cùng đau đớn, là việc những người anh em này từ chối Chúa Giêsu; ở một số nơi, họ mạnh mẽ chống lại các Kitô hữu, những người mà họ gọi là ‘phản bội’ hoặc ‘dị giáo’. Phaolô nhấn mạnh, đây không phải là một lời than phiền bình thường, nhưng là một nỗi đau thực sự đến nỗi ngài sẵn sàng tách khỏi Chúa Kitô theo nghĩa đen, nếu điều này có lợi cho đồng bào mình. Phaolô tự nguyện là tù nhân, bị nguyền rủa, loại trừ để anh em ngài nhận biết Chúa Kitô. Đây quả là một ‘nỗi đau thánh!’.

Paul in Prison

Tin Mừng hôm nay cho thấy một trải nghiệm tương tự nơi Chúa Giêsu. Một thủ lãnh biệt phái mời Ngài dùng bữa, họ dò xét Ngài. Một người phù thũng xuất hiện; đây có thể là một sắp đặt! Và dẫu đó là sự thật, Chúa Giêsu vẫn quyết đoán làm những gì phải làm để tỏ bày lòng thương xót của Ngài, không chỉ với người bệnh nhưng với cả những ai đang rắp tâm hại Ngài.

DAILY MASS, GOSPEL AND COMMENTARY. JESUS CURES A MAN WITH DROPSY ON ...

Ngài hỏi, “Có được phép chữa bệnh ngày Sabbat không?”. “Họ làm thinh!”. Chính sự làm thinh tố cáo ác tâm của họ. Và Ngài “đỡ lấy bệnh nhân, chữa khỏi và cho về”. Họ tiếp tục làm thinh, để lại cho Ngài một ‘nỗi đau thánh!’.

 

Trong một thế giới từ chối Thiên Chúa, tâm hồn các môn đệ Chúa Giêsu phải là nơi chịu giày vò bởi những nỗi đau. Thế giới với lý do này, lý do khác, từ chối Ngài và sứ điệp của Ngài; Giáo Hội cũng đang đối mặt với bao thách đố. Vấn đề chuyển giới, trợ tử, phá thai, đồng tính, di dân và nạn buôn người… tất cả đang thực sự nhức nhối. Thế nhưng, lập trường của Giáo Hội thật dứt khoát, phẩm giá và sự sống con người có giá trị vô song; và việc nâng con người lên, chữa lành nó, phải là ưu tiên hàng đầu!

 

Anh Chị em,

“Lòng tôi rất đỗi ưu phiền, và đau khổ mãi không ngơi!”. Trước những sự kiện đau lòng của thế giới và của Giáo Hội, liệu bạn và tôi có một cảm thức xót xa nào không? Cụ thể, trước sự cứng cỏi của những con người chúng ta yêu thương, khi họ từ chối niềm tin hay đang đắm chìm trong một nghiện ngập, một tội lỗi nào đó; thiết thực hơn, những người bỏ nhà thờ, bỏ đạo, chúng ta có nhức nhối không? Và quan trọng hơn, bạn và tôi đã làm gì?

The miracles of Jesus: Healing on the Sabbath – Front Royal Church of ... Chúng ta có cầu nguyện, hy sinh, thăm viếng, khuyên nhủ và cụ thể, có ra sức nêu gương sáng để làm những gì có thể hầu đưa những anh chị em đó trở về?

Chúng ta có thể cầu nguyện,

Lạy Chúa, trước những ‘thương tật’ của anh chị em con, giúp con cảm nhận một sự giày vò bên trong, hầu một ngày kia, con không phát hiện mình bị ‘thiểu năng!’”, Amen.

Lm. Minh Anh, Gp. Huế

From: KimBang Nguyen

SỰ THẬT VỀ BÓI TOÁN

Một ông thầy bói, (tướng số, tử vi) khi già yếu, trước lúc ra đi ông kêu cả đàn con, cháu đến bên giường nói ra tất cả những gì mà cả đời ông giấu kín:

– Hôm nay, đông đủ con, cháu trước khi về với ông bà, ta nói cho các con biết một điều mà bấy lâu ta giấu kín, ta định mang xuống tuyền đài, nhưng! Ta thấy không đành, thôi! Nay ta sẽ nói ra hết sự thật, dẫu sự thật sẽ làm cho các con lên án ta, phỉ nhổ ta, nhưng ta vẫn nói. Ta nuôi các con từ nhỏ tới lớn, ăn học thành người cũng từ những đồng tiền kiếm được bằng cái nghề coi bói cho thiên hạ, chuyện không ta nói thành có, chuyện có ta nói thành không, có nghĩa ta đã lừa dối thiên hạ, lừa những người yếu đuối về tinh thần, tư tưởng, lập trường không vững vàng, không tự tin vào bản thân, gởi mình vào số mệnh, vào cõi tâm linh. Họ tin tưởng ở ta, ở những ông thầy bói hơn tin vào đất trời. Này, các con nên nhớ những lời ta nói sau đây, ta nhắc lại một lần nữa, cũng là lời của một ông thầy bói cả đời kiếm tiền bằng cách nói láo. Thực ra, trên đời này, ngày nào cũng của đất, của trời, ngày nào mưa thuận, gió hòa là ngày đó tốt không có ngày, tháng, năm nào xấu cả, xấu chăng do ở con người họ tạo ra, họ làm cho cái năm, cái tháng, cái ngày đó xấu đi… các con hãy sống tử tế với nhau, kính trên nhường dưới, thì ngày nào cũng tốt cả. Nói tới đây, ông thầy bói trút hơi thở sau cùng.

Sưu tầm

From: Tu-Phung

Tản mạn cuối tuần: Thám thính tàu ngầm Trung Quốc ở đáy biển Thái Bình Dương

Theo VOA tiếng Việt và Báo Chí Hoa Kỳ

Tàu ngầm USS Pennsylvania tại căn cứ Hải Không quân Whidbey Island, tiểu bang Washington, ngày 20/7/2005.

Trên một hòn đảo lộng gió cách Seattle 80 km về phía bắc có một trạm giám sát của Hải quân Hoa Kỳ. Trong nhiều năm, trạm này luôn bận rộn theo dõi di chuyển của cá voi và đo nhiệt độ nước biển đang tăng cao. Tháng 10 năm ngoái, Hải quân đã đặt cho đơn vị một cái tên mới phản ánh rõ hơn nhiệm vụ hiện tại của đơn vị: Bộ Tư lệnh Giám sát Dưới biển.

Theo ba người hiểu biết trực tiếp về kế hoạch này, việc đổi tên trạm giám sát tại căn cứ hải quân đảo Whidbey là sự chấp thuận một dự án quân sự lớn hơn nhiều của Mỹ: tiến hành tái thiết lớn nhất chương trình gián điệp chống tàu ngầm của Mỹ kể từ khi chấm dứt Chiến tranh Lạnh.

Sự hồi sinh của nỗ lực trị giá hàng tỷ đô la, được gọi là Hệ thống Giám sát Tích hợp Dưới biển (IUSS), diễn ra khi Trung Quốc tăng cường các cuộc tập trận xung quanh Đài Loan, làm tăng mối lo ngại về một cuộc xung đột tiềm tàng trên lãnh thổ được cai trị dân chủ mà Bắc Kinh muốn đặt dưới sự kiểm soát của mình.

Dự án vực dậy IUSS chưa từng được báo cáo trước đây. Nó liên quan đến việc hiện đại hóa mạng lưới cáp gián điệp âm thanh dưới nước hiện có của Mỹ và trang bị thêm cho đội tàu giám sát những cảm biến tiên tiến và máy thu âm dưới biển, những động thái nhằm tăng cường khả năng do thám kẻ thù của quân đội. Hoa Kỳ đã đồng ý bán cho Úc công nghệ tương tự để giúp tăng cường khả năng phòng thủ của đồng minh ở khu vực Thái Bình Dương.

Sonar Systems | NAVAL | Defense | Hanwha Systems

Vào thời kỳ đỉnh cao vào những năm 1980, IUSS bao gồm hàng nghìn thủy thủ Hải quân và phân tích dữ liệu từ các tàu và cáp dưới biển tại 31 cơ sở xử lý khác nhau. Theo các tài liệu được giải mật của Hải quân, việc theo dõi các tàu của Liên Xô là trọng tâm của nhiệm vụ ban đầu. Với sự tan rã của Liên Xô vào những năm 1990, IUSS đã bị thu hẹp quy mô. Các nhà phân tích ngày càng được giao nhiệm vụ giám sát sinh vật biển và các trận động đất ngoài khơi.

Submarine Matters: US Navy's Seaweb Undersea Warfare Network

Thay đổi sáng tạo nhất trong hệ thống trinh sát đại dương của Hải quân là đầu tư vào công nghệ mới để thu nhỏ và toàn cầu hóa các công cụ giám sát hàng hải truyền thống. Ba nguồn tin cho biết, mạng lưới cáp gián điệp cố định ban đầu nằm ở những vị trí bí mật dưới đáy đại dương, được thiết kế để do thám các tàu ngầm của Liên Xô cách đây 7 thập niên.

Kế hoạch của Hải quân bao gồm việc triển khai một đội máy bay không người lái trên biển để lắng nghe tàu địch; đặt các cảm biến “vệ tinh dưới nước” di động dưới đáy biển để quét tìm tàu ngầm; sử dụng vệ tinh để định vị tàu bằng cách theo dõi tần số vô tuyến của chúng; và sử dụng phần mềm trí tuệ nhân tạo để phân tích dữ liệu gián điệp hàng hải chỉ trong một phần thời gian mà các nhà phân tích thường bỏ ra.

IUSS được chỉ huy bởi Đại tá Stephany Moore, một sĩ quan tình báo kỳ cựu của Hải quân. Chương trình hoạt động dưới sự chỉ huy của Lực lượng Tàu ngầm Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ, do Chuẩn đô đốc Richard Seif đứng đầu.

 

Trong khi đó, Trung Quốc đang thực hiện chương trình gián điệp hàng hải của riêng mình, được gọi là Vạn lý Trường Thành Dưới nước, hai nguồn tin của Hải quân Hoa Kỳ nói với Reuters.

Alt

“Mảng trên bờ bằng cáp quang” của Trung Quốc để phát hiện tàu ngầm (CCTV / video tĩnh)

Hệ thống đó đang được xây dựng, bao gồm các dây cáp được trang bị cảm biến nghe sóng siêu âm đặt dọc đáy biển ở Biển Đông, một đấu trường căng thẳng do tranh chấp lãnh thổ giữa Bắc Kinh và các nước láng giềng. Hai người này cho biết, Trung Quốc cũng đang xây dựng một đội máy bay không người lái trên biển và tàu không người lái dưới nước để truy tìm tàu ngầm của đối phương.

Sự đẩy mạnh thăm dò đáy biển của Trung Quốc kéo dài đến tận Thái Bình Dương. Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc do nhà nước điều hành cho biết vào năm 2018 họ đã vận hành hai cảm biến dưới nước: một ở Challenger Deep ở rãnh Mariana, điểm sâu nhất được biết đến trên trái đất; cái còn lại gần Yap, một hòn đảo trong Liên bang Micronesia. Các nguồn tin Hải quân cho biết, mặc dù Trung Quốc nói những cảm biến này được sử dụng cho mục đích khoa học nhưng chúng có thể phát hiện các chuyển động của tàu ngầm gần căn cứ hải quân Mỹ trên đảo Guam, một lãnh thổ của Mỹ tại Thái Bình Dương.

Bộ Quốc phòng Trung Quốc không trả lời yêu cầu bình luận về bất kỳ khía cạnh nào của câu chuyện này. Bộ Ngoại giao Trung Quốc từ chối bình luận.

Ông Brent Sadler, cựu sĩ quan tàu ngầm của Hải quân Mỹ, nói với Reuters rằng việc nâng cấp của Mỹ đáng ra đã phải làm từ lâu và tiến triển quá chậm vì Ngũ Giác Đài vẫn tập trung vào việc chế tạo các tàu chiến và tàu ngầm khổng lồ.

“Chúng ta phải đầu tư nhanh hơn vào khả năng thế hệ tiếp theo. Chúng ta đang mất vị trí dẫn đầu và người Trung Quốc đang nhanh chóng bắt kịp”, ông Sadler, hiện là chuyên gia về hải chiến tại The Heritage Foundation, một tổ chức nghiên cứu có trụ sở tại Washington, cho biết.

Thêm vào sự cấp bách đó: nhu cầu bảo vệ các tuyến cáp internet dưới biển trải dài dưới đáy đại dương, một mạng lưới toàn cầu vận chuyển 99% lưu lượng truy cập internet xuyên lục địa. Reuters đưa tin vào tháng 3 rằng những dây cáp này là trung tâm của cuộc cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa Mỹ và Trung Quốc nhằm kiểm soát các công nghệ tiên tiến.

Vào tháng 2, hai tuyến cáp internet dưới biển đã bị cắt vốn nối Đài Loan với Quần đảo Mã Tổ, một cụm đảo do Đài Loan quản lý nằm gần lục địa Trung Quốc. Phải mất nhiều tuần để khôi phục hoàn toàn dịch vụ Internet cho khoảng 14.000 cư dân trên đảo. Chính quyền Đài Loan vào thời điểm đó cho biết họ nghi ngờ hai tàu Trung Quốc là thủ phạm nhưng không đưa ra bằng chứng trực tiếp và không gọi đây là hành động có chủ ý.

Vào tháng 5 năm nay, nhóm Quad – liên minh giữa Australia, Nhật Bản, Ấn Độ và Mỹ – cho biết bốn nước sẽ hợp tác để bảo vệ và xây dựng các tuyến cáp quang tốc độ cao dưới biển ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.

 

Tàu đi vào bóng tối

Theo hai nguồn tin của Hải quân có hiểu biết trực tiếp về hệ thống này, viên ngọc quý của các hoạt động giám sát dưới biển của Hoa Kỳ vẫn là mạng lưới cáp nghe toàn cầu lần đầu tiên được lắp đặt trong Chiến tranh Lạnh, vẫn là cơ sở hạ tầng do thám dưới biển tốt nhất trên thế giới.

Các nguồn tin cho biết những sợi cáp này là công cụ giúp giải quyết bí ẩn xung quanh chiếc tàu lặn Titan thuộc sở hữu tư nhân đã phát nổ hồi tháng 6, khiến 5 người thiệt mạng trong hành trình đi xem xác tàu Titanic có niên đại hàng thế kỷ.

Hai người cho biết, trong ba năm qua, một số mạng cáp này đã được mở rộng và thay thế bằng các loại cáp tiên tiến được trang bị cảm biến và máy thu âm dưới nước hiện đại để xác định chính xác hơn vị trí của tàu địch.

Những người này nói phần lớn công việc này được thực hiện bởi tàu USNS Zeus 40 năm tuổi, tàu cáp đầu tiên và duy nhất đang hoạt động được chế tạo đặc biệt cho Hải quân Hoa Kỳ. Hỗ trợ là CS Dependable và CS Decisive, hai tàu cáp thuộc sở hữu của công ty tư nhân SubCom của Hoa Kỳ, họ cho biết. SubCom đã trở thành nhân tố chủ chốt trong cuộc chiến công nghệ với Trung Quốc, Reuters đưa tin vào tháng 7.

Theo hai nguồn tin của Hải quân và phân tích của Reuters về dữ liệu theo dõi tàu, để giữ bí mật về vị trí của các dây cáp gián điệp dưới nước của Hoa Kỳ, ba con tàu này đã che giấu vị trí của chúng, được ngành vận tải biển gọi là “đi vào bóng tối”.

DEFENSE STUDIES: U.S. Government Approves Sale of SURTASS-E Mission ...

Các tàu thương mại được yêu cầu theo luật pháp quốc tế phải luôn bật bộ tiếp sóng nhận dạng để ngăn ngừa va chạm và giúp chính quyền chống lại tội phạm hàng hải. Nhưng các quốc gia có thể đảm bảo miễn trừ đối với một số tàu tư nhân, đặc biệt là những tàu làm việc trong các dự án an ninh quốc gia, theo luật sư hàng hải Stephen Askins có trụ sở tại London.

Các nguồn tin cho biết hiện Hải quân đang chế tạo các phiên bản di động thu nhỏ mới có thể được triển khai mà không bị phát hiện. Các mô-đun này, được gọi là SURTASS viễn chinh, hay SURTASS-E, có thể được đặt trong các container chở hàng được chất lên bất kỳ tàu sàn phẳng nào, cho phép các tàu thương mại thực hiện giám sát cho Hải quân, hai nguồn tin am hiểu về dự án cho biết.

Các nguồn tin nói, trong ba năm qua, Hải quân đã thử nghiệm hệ thống này từ một tàu cung cấp ngoài khơi ở Đại Tây Dương và kể từ đó nó đã được sử dụng trong các hoạt động tích cực tại các địa điểm bí mật.

Vào tháng 5 năm nay, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho biết trong một tuyên bố rằng họ đã phê duyệt việc bán hệ thống SURTASS-E trị giá 207 triệu đô la cho chính phủ Úc.

Australia Getting U.S. Containerized Submarine-Tracking Sonar System

Nhật Bản cũng vận hành một hạm đội gồm ba tàu giám sát đại dương, được trang bị cáp SURTASS của Mỹ, hai nguồn tin của Hải quân Mỹ cho biết.

Hải quân Nhật Bản, được gọi là Lực lượng Phòng vệ Hàng hải, cho biết trong một tuyên bố rằng họ đang phối hợp với các đồng minh để chống lại mối đe dọa hải quân ngày càng gia tăng của Trung Quốc; lực lượng này từ chối bình luận cụ thể về hoạt động giám sát.

Drone biển ‘tai thính’

Hải quân đang thử nghiệm những cách mới để theo dõi tàu ngầm ở những khu vực mà tàu chiến của họ bị Trung Quốc giám sát chặt chẽ, bao gồm eo biển Đài Loan và Biển Đông, hai nguồn tin am hiểu về những nỗ lực đó cho biết.

Điều này có nghĩa là sử dụng các phương pháp lén lút hơn như gửi máy bay không người lái nhỏ, được trang bị camera hồng ngoại và máy thu âm dưới nước cũng như thả thiết bị nghe lén di động từ tàu thương mại.

Những nguồn tin am hiểu vấn đề cho biết, một trong những nỗ lực thành công đầu tiên nhằm tạo ra một đơn vị giám sát dưới biển tự động là Hệ thống Đường dẫn Âm thanh Đáng tin cậy Chuyển đổi (TRAPS), được phát triển bởi Leidos, một công ty quốc phòng có trụ sở tại Virginia. Hải quân đã trao cho Leidos một hợp đồng trị giá 73 triệu đô la để phát triển hệ thống này vào năm 2019.

TRAPS bao gồm một hộp xử lý gắn liền với các cảm biến dưới đại dương sâu. Nó được thiết kế để đặt dưới đáy biển và lắng nghe tiếng tàu ngầm trên đầu, giống như một vệ tinh dưới nước.

Ông Chuck Fralick, giám đốc công nghệ của Leidos và một sĩ quan Hải quân đã nghỉ hưu, nói với Reuters rằng các đơn vị gián điệp dưới nước này có thể được lén lút thả ra khỏi mạn tàu đánh cá hoặc tàu kéo trong lãnh thổ đối phương.

Fralick nói: “Bạn có thể có được khả năng nghe ngóng hoặc giám sát ở hầu hết mọi nơi trên thế giới mà bạn muốn”.

Hải quân cũng đang thử nghiệm các drone nhỏ trên biển, bao gồm thuyền buồm không người lái và tàu ngầm thu nhỏ tự động trị giá từ 800.000 đến 3 triệu đô la để chế tạo – một thay đổi tương đối nhỏ trong thế giới hệ thống phòng thủ.

Những chiếc tàu này chưa mang theo vũ khí. Nhưng chúng có thể được trang bị camera độ phân giải cao, máy thu âm dưới nước, đường truyền vệ tinh và các thiết bị do thám khác, mang lại cho Hải quân một phương tiện chi phí thấp để mở rộng hoạt động giám sát một cách đáng kể, phát ngôn viên Hải quân Hawkins nói.

Navy’s NUWC-4 is Unmanned Drone Boat that Shoots Missiles | Heavy.com

Hai nguồn tin Hải quân cho biết, trong tương lai, những tàu này có thể được sử dụng để bắn ngư lôi đánh chìm tàu ngầm, thả mìn dưới nước hoặc kích hoạt các thiết bị mồi nhử tạo ra tiếng động lớn dưới mặt nước nhằm gây nhầm lẫn cho kẻ thù.

 


 

Hoa Kỳ không sao nhãng trọng tâm Châu Á – Thái Bình Dương trong chính sách An Ninh Quốc Phòng cho dù đang có chiến tranh ở Ukraine và Trung Đông

Theo VOA tiếng Việt

Mỹ vẫn tập trung vào Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương bất chấp những thách thức khác trên toàn cầu


Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken phát biểu với các phóng viên tại căn cứ không quân Andrews ở Maryland, ngày 2/11/2023, trước khi lên máy bay đến Trung Đông và châu Á.
Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken phát biểu với các phóng viên tại căn cứ không quân Andrews ở Maryland, ngày 2/11/2023, trước khi lên máy bay đến Trung Đông và châu Á.

 

Hoa Kỳ vẫn tập trung vào Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương bất chấp những thách thức toàn cầu khác, các nhà ngoại giao hàng đầu của Hoa Kỳ cho biết ngày 2/11 khi Ngoại trưởng Antony Blinken chuẩn bị tới châu Á sau chuyến đi Trung Đông trong bối cảnh xung đột Israel-Hamas.

Ông Blinken tới Israel trong tuần này để đàm phán về xung đột Trung Đông và sẽ dừng chân ở Jordan trước khi tới Nhật Bản để gặp các đối tác G7 và đàm phán song phương với các quan chức Nhật Bản cũng như dừng chân ở Hàn Quốc và Ấn Độ. Chuyến đi kéo dài đến ngày 10/11.

What Is Exercise MPX 2022? [Indian Navy Exercise]

“Chuyến đi của Ngoại trưởng tới khu vực thể hiện cam kết lâu dài và tập trung vào khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của chúng ta, ngay cả trong bối cảnh có những thách thức toàn cầu khác”, nhà ngoại giao hàng đầu của Hoa Kỳ về Đông Á, ông Daniel Kritenbrink, nói với các phóng viên.

Ông Kritenbrink cho hay ông Blinken sẽ tham dự cuộc họp của các ngoại trưởng G7 ở Tokyo và có cuộc hội đàm riêng với Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida và Ngoại trưởng Yoko Kamikawa.

Ông nói: “Chúng tôi dự đoán rằng các cuộc thảo luận trong các cuộc họp đó sẽ tập trung vào các sự kiện ở Trung Đông, hỗ trợ cho Ukraine, hợp tác ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, một loạt vấn đề song phương và tất nhiên là hợp tác ba bên với (Hàn Quốc)”.

India set to participate in Naval Exercise Malabar 21 with Quad nations today

Tàu chiến của hải quân Ấn trong cuộc tập trận chung Malabar 21. Ảnh của ZeeNews.

 

Ông Kritenbrink cho biết Nhật Bản từng là chủ tịch G7 “xuất sắc” và đã “giúp G7 tập trung cao độ vào các vấn đề cấp bách nhất cả trên toàn cầu lẫn khu vực.”

Ông không trả lời khi được hỏi liệu ông có tin tưởng G7 có thể đồng ý một tuyên bố mạnh mẽ về cuộc xung đột Israel-Hamas hay không.

Khi được hỏi ông Blinken sẽ nói gì với các nước châu Á về cuộc đàm phán tuần trước với Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị, ông Kritenbrink cho biết ông tin rằng họ muốn thấy Washington “quản lý sự cạnh tranh của chúng tôi với Trung Quốc một cách có trách nhiệm”.

Ông nói: “Cam kết của chúng ta đối với Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương vẫn lâu dài”. “Và trọng tâm cơ bản trong chính sách ngoại giao của chúng ta ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương vẫn là tăng cường mối quan hệ của chúng ta với các đồng minh, đối tác và bạn bè, đồng thời phát triển năng lực tập thể của họ, năng lực chung của chúng ta để hỗ trợ trật tự quốc tế dựa trên luật lệ.”

Image result for india us navy exercise

Nhà ngoại giao hàng đầu của Hoa Kỳ về Nam Á, Donald Wu, nói “những nỗ lực thúc đẩy dân chủ và nhân quyền” sẽ nằm trong chương trình nghị sự trong các cuộc đàm phán giữa Bộ trưởng Ngoại giao và Bộ trưởng Quốc phòng của Hoa Kỳ và Ấn Độ “cũng như sự hợp tác mở rộng của chúng ta về năng lượng sạch, chống khủng bố, trí tuệ nhân tạo, không gian và sản xuất chất bán dẫn.”


Kẻ Đi Tìm trích thông tin VOA ngày 26-9-2023

Lễ khai mạc Hội nghị Tư lệnh Lục quân Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tại New Delhi, Ấn Độ, ngày 26/9/2023.

Lễ khai mạc Hội nghị Tư lệnh Lục quân Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tại New Delhi, Ấn Độ, ngày 26/9/2023.
 

Tư lệnh lục quân Ấn Độ ngày 26/9 nói nước này cam kết duy trì một khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và ổn định, nơi chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của tất cả các quốc gia được tôn trọng, trong bối cảnh toàn cầu ngày càng lo ngại về ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực.

Tướng Manoj Pande đưa ra nhận xét này tại Hội nghị Tư lệnh Lục quân Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương do Ấn Độ và Mỹ tổ chức, tập trung vào việc thúc đẩy ngoại giao và hợp tác quân sự cũng như thúc đẩy hòa bình và ổn định ở khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương. Các tư lệnh lục quân và các phái đoàn từ 30 quốc gia sẽ tham dự sự kiện kéo dài hai ngày, kết thúc vào 27/9.

Khi được hỏi về sự bành trướng của Trung Quốc, tại một cuộc họp báo, Tướng George cho biết khu vực này là một ưu tiên quan trọng đối với Hoa Kỳ. “Đó là lý do tại sao chúng tôi có mặt ở đây và tại sao chúng tôi tập trận nhiều hơn bất kỳ nơi nào khác ở Thái Bình Dương, để xây dựng tất cả những điều này. Điều mà hội nghị này chứng tỏ… là sự đoàn kết và cam kết của (chúng ta)”, Tư lệnh Lục quân Hoa Kỳ nói.


 

Ông Diệm và nền Đệ nhất Cộng hòa bị lật đổ là ‘món quà cho cộng sản’

Theo VOA tiếng Việt

Tổng Thống Ngô Đình Diệm là người sáng lập nền Đệ nhất Cộng hòa ở miền Nam Việt Nam. Ông bị ám sát vào ngày 2/11 năm 1963
Tổng Thống Ngô Đình Diệm là người sáng lập nền Đệ nhất Cộng hòa ở miền Nam Việt Nam. Ông bị ám sát vào ngày 2/11 năm 1963

 

Việc Tổng thống Ngô Đình Diệm bị đảo chính khiến nền Đệ nhất Cộng hòa sụp đổ có nguyên nhân từ nội tình Việt Nam Cộng hòa lúc đó và sai lầm của chính ông Diệm, một sử gia ở Mỹ nói với VOA và cho rằng sự kiện này ‘làm lợi cho’ cộng sản vì đã mất đi một chính quyền chống Cộng hiệu quả.

Tròn 60 năm trước, vào ngày 2/11 năm 1963, ông Ngô Đình Diệm, tổng thống đầu tiên và là người sáng lập ra nền Đệ nhất Cộng hòa, cùng với em trai là Cố vấn Ngô Đình Nhu đã bị các tướng lĩnh dưới quyền sát hại ở Sài Gòn trong một cuộc đảo chính làm thay đổi tiến trình lịch sử miền Nam Việt Nam.

Cac binh si tham gia cuoc dao chanh 1-11-1963 | VIETNAM History in ...

Cuộc đảo chính và cái chết của anh em ông Diệm đã chấm dứt nền Đệ nhất Cộng hòa sau 9 năm xây dựng, mở đường cho các tướng lĩnh lên nắm quyền, tiến đến thành lập nền Đệ nhị Cộng hòa vào năm 1967 vốn tồn tại cho đến ngày miền Nam thất thủ trước quân cộng sản vào năm 1975.

Nhiều nguyên nhân đan xen

Nhìn lại sự kiện lịch sử này, Giáo sư Tường Vũ, nhà nghiên cứu về lịch sử Việt Nam Cộng hòa tại Đại học Oregon ở Eugene, bang Oregon, Hoa Kỳ, cho rằng đó là kết quả của nhiều nhân tố đan xen nhau xảy ra cùng một lúc.

Thứ nhất, hoàn cảnh của Việt Nam Cộng hòa lúc đó là một đất nước hậu thuộc địa và không tránh khỏi số phận bị đảo chính như các nước hậu thuộc địa khác trong khu vực như Hàn Quốc, Indonesisa, Philippines, Miến Điện…, Giáo sư Tường Vũ phân tích.

undefined

“Sau thời gian dài thuộc địa thì có những thế lực khác nhau muốn tranh giành quyền lực trong đất nước. Thành ra khó mà giữ được sự ổn định bền vững trong thời gian dài,” ông nói và cho rằng ông Diệm giữ được ổn định trong vòng 9 năm đã là ‘một điều tương đối khó khăn’.

Ông chỉ ra ở miền Nam lúc đó vẫn còn nhiều thành phần trung thành với cộng sản ‘gây khó khăn cho ông Diệm’ và ‘quân đội Việt Nam Cộng hòa do người Pháp thành lập nên không phải toàn bộ đều trung thành với ông Diệm’.

“Chế độ của ông Diệm không có đủ sự khéo léo để có thể kết nối tất cả các thành phần của dân tộc,” ông chỉ ra nguyên nhân thứ hai.

Buddhist Monk's Self-Immolation: The Flame that changed the World ...

Ông Tường Vũ cho rằng biến cố Phật giáo trước đó vốn được xem là một trong những nhân tố dẫn đến sự bất mãn với chính quyền ông Diệm một phần là do ‘một số nhân vật trong chính quyền, chẳng hạn như Tổng giám mục Ngô Đình Thục, có hành động gây cảm giác là chính quyền thiên vị Thiên chúa giáo’ chứ bản thân ông Ngô Đình Diệm ‘không kỳ thị tôn giáo’.

Ngoài ra, chế độ gia đình trị của ông Diệm với các anh em ruột của ông như Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Thục, Ngô Đình Cẩn.. có vai trò lớn trong chính quyền ‘cũng là một khiếm khuyết’, cũng theo lời sử gia này. Khi đó, nhiều thành phần đối lập đã yêu cầu loại ông Nhu ra khỏi chính quyền nhưng ông Diệm không nghe.

“Nếu ông Diệm là người nhìn xa hơn, hay cẩn thận hơn thì có lẽ ông ấy phải tìm cách để cho công chúng thấy ông đã giảm bớt vai trò của những người đó hoặc là tạo ra cơ sở hợp pháp để họ có thể đóng góp cho chính quyền mà không bị dân chúng dị nghị,” ông nói.

Chịu trách nhiệm ‘rất quan trọng’ trong cuộc đảo chính này còn có chính quyền Mỹ lúc đó của Tổng thống John F. Kennedy, vị giáo sư này nhận định. “Nếu không có Mỹ bật đèn xanh thì vẫn có thể xảy ra đảo chính như đã từng xảy ra trước đó (vào năm 1960) nhưng xác suất thành công sẽ rất thấp vì vào lúc đó ông Diệm kiểm soát khá chặt chẽ đất nước,” ông giải thích.

Tuy nhiên, một phần lỗi cũng do ông Diệm ‘thiếu sự khéo léo về ngoại giao trong quan hệ với Hoa Kỳ’, ông nói, dẫn đến mối quan hệ căng thẳng giữa chính quyền Việt Nam Cộng hòa và Mỹ vào những năm 1962-1963.

Image result for tong thong diem cong du hoa ky

“Chính phủ của ông Diệm là chính phủ có tinh thần dân tộc, tinh thần độc lập rất cao, thành ra họ không muốn lệ thuộc vào Hoa Kỳ. Thành ra khi Hoa Kỳ gây sức ép buộc ông Diệm phải cải tổ chính trị thì ông Diệm nhất quyết không đồng ý,” ông chỉ ra và cho biết thêm rằng khi đó ông Diệm đã liên lạc với Cộng sản Bắc Việt để nói chuyện nhằm tìm cách hóa giải phần nào áp lực từ Mỹ và điều này càng khiến chính quyền Kennedy muốn lật đổ ông Diệm.

Chính quyền ông Diệm lúc đó cùng lúc đối diện với nhiều nguy cơ từ quân đội của ông, thái độ của người Mỹ, phong trào đấu tranh của Phật giáo, cộng sản Bắc Việt… trong khi ông không kịp thời nhận ra để điều chỉnh nên ‘việc bị lật đổ là tất yếu dù sớm hay muộn’.

Khi được hỏi tại sao hai ông Diệm-Nhu không nhận thấy nguy cơ, Giáo sư Tường Vũ trả lời rằng do khi đó họ ‘phải tập trung vào quốc sách ấp chiến lược để chống cộng sản’ nên ‘không thể suy nghĩ cách để giải quyết những vấn đề chính trị trong nước một cách thỏa đáng’.

“Ông Diệm vẫn có thể tránh được kết cục đảo chính nếu ông tỉnh táo hơn,” ông nói.

Tác động của đảo chính

Mặc dù có những thiếu sót, nhưng nền Đệ nhất Cộng hòa trong 9 năm xây dựng đã có một số thành tựu, vị giáo sư này cho biết và chỉ ra ông Diệm ‘đã xây dựng được chính quyền khá vững mạnh, tập trung được quyền lực khá tốt mặc dù nền tảng nông thôn còn yếu’.

undefined

Mặt khác, những chính sách về kinh tế, văn hóa, giáo dục của ông Diệm đã ‘đặt Việt Nam Cộng hòa trên nền tảng rất vững vàng để mở cửa với thế giới, đóng vai trò khai phóng cho dân trí’, cũng theo lời sử gia này, và điều này đã giúp cho nền văn hóa-giáo dục-nghệ thuật ở miền Nam Việt Nam dưới thời Đệ nhị Cộng hòa ‘nở rộ’.

Văn hóa Việt Nam Cộng Hòa là gì? | Tiếng Dân

“Cuộc đảo chính đã tạo nên một xã hội mở rộng hơn ở miền Nam Việt Nam sau đó cho các thành phần dân chúng khác trong xã hội, các phe nhóm Phật giáo, các phe nhóm Công giáo, các tôn giáo khác như Cao Đài, Phật giáo Hòa hỏa. Các đảng phái chính trị cũng nổi lên trở lại và hoạt động rất tích cực tạo nên một xã hội rất năng động ở miền Nam Việt Nam,” Giáo sư Tường Vũ nhận định với VOA về tác động của cuộc đảo chính năm 1963.

Theo lời ông thì trong nền Đệ nhị Cộng hòa được thành lập sau đó vào năm 1967, ‘ý muốn của người dân là mở rộng dân chủ’ cho nên nhiều thành phần như sinh viên, trí thức, công nhân đều xuống đường ‘tạo ra sự thay đổi lớn lao cho xã hội dân sự miền Nam vào lúc đó’ so với thời Đệ nhất Cộng hòa.

VĂN NGHỆ: Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu(4)

Tuy nhiên, nền Đệ nhị Cộng hòa vẫn không tránh khỏi kịch bản đảo chính như nền Đệ nhất Cộng hòa vì các tướng lĩnh trong quân đội có sẵn quân lính trong tay nên ‘khá dễ nếu họ muốn đảo chính một khi họ không còn trung thành với chế độ’.

‘Điều đáng tiếc’

Dưới thời Đệ nhị Cộng hòa, do nhu cầu cuộc chiến mà quy mô và vai trò quân đội cũng được mở rộng lên nhiều lần so với nền Đệ nhất Cộng hòa, Giáo sư Tường Vũ chỉ ra, và chính quyền Đệ nhị Cộng hòa phải đối phó với quân Cộng sản mạnh hơn nhiều so với dưới thời ông Diệm do họ có sự ủng hộ của Trung Quốc.

Cuộc đảo chính năm 1963 là ‘điều đáng tiếc’ nếu nhìn trên góc độ chống cộng sản, ông Tường Vũ nói và giải thích rằng nó ‘đã làm sụp đổ một chế độ khá vững mạnh, có quyền lực khá tập trung và mở con đường cho cộng sản có thể chiếm được miền Nam Việt Nam’.

“Cộng sản thấy rằng khi ông Diệm bị lật đổ họ mất đi một kẻ thù mạnh mẽ thì họ có thể tập trung sức mạnh để tấn công miền Nam,” ông lập luận và dẫn ra nhận định của ông Nguyễn Hữu Thọ, chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam khi đó, rằng cuộc đảo chính ông Diệm là ‘món quà trời cho’ đối với phe cộng sản của ông.

“Chính quyền ông Diệm đã tỏ ra rất hiệu quả trong việc đối phó cộng sản qua các chiến dịch tố Cộng, diệt Cộng và quốc sách ấp chiến lược,” ông nói.

Sau 60 năm, với dữ kiện mới từ phía chính quyền cộng sản đã cho thấy rằng cuộc đảo chính ông Diệm và lật đổ nền Đệ nhất Cộng hòa là ‘sai lầm lớn về quân sự và chính trị’, Giáo sư Tường Vũ cho biết.

“Nếu mà ông Diệm và ông Nhu nhận ra được vấn đề của họ và tìm cách sửa chữa và họ thành công trong việc sửa chữa đó thì nó (tiến trình lịch sử miền Nam) sẽ hoàn toàn khác.”


 

Con Người và Tàn Bạo

Ba’o Quyen Duoc Biet

Huế 1968 – nguồn Internet.

Vũ Hoàng Anh Bốn Phương

Sự tàn bạo của con người luôn luôn xảy ra ở bất cứ thời điểm nào trong lịch sử. Khi mà Liên Hiệp Quốc chỉ là sân chơi của 5 cường quốc có quyền phủ quyết thì cái quyền phủ quyết này đã làm mất đi giá trị và mục tiêu của sự hình thành Liên Hiệp Quốc. Từ đó, sự tàn bạo của con người tiếp tục xảy ra mà cả thế giới không làm được gì bởi không muốn tham dự và chấm dứt sự tàn bạo đó.

Sự tàn bạo khởi đầu từ đâu? Ở phạm vi tổ chức, quốc gia thì sự tàn bạo khởi đầu từ những người lãnh đạo. Tham vọng của lãnh đạo đã làm cho họ mất đi nhân tính để rồi họ sẵn sàng đưa ra những chính sách, chủ trương đi ngược lại nhân tính của con người và họ kêu gọi những người bên dưới thực hiện chính sách tàn bạo đó.

Hình ảnh tết Mậu Thân tại Huế với những hầm chôn tập thể do sự sát hại của cộng sản miền Bắc đối với thường dân tại Huế. Hình ảnh con tố cha, anh em tố họ hàng thân thuộc trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất tại miền Bắc để giết hại những người dân đã từng đóng góp tiền bạc, che chở những người gọi là Việt Minh thời kháng chiến chống Pháp. Hình ảnh Học Tập Cải Tạo sau khi miền Nam lọt vào tay cộng sản miền Bắc để giết hại những người lính, công chức tại miền Nam sau 1975, khi cuộc chiến chấm dứt. Gần đây nhất, hình ảnh những người Hamas vượt biên giới của người Do Thái để bắn giết người dân vô tội Do Thái, đồng thời bắt cóc người dân và hăm dọa sẽ thực hiện chuyện giết người bị bắt cóc qua mạng để mọi người chứng kiến sự tàn bạo này.

Tạm thời gác bỏ nguyên nhân trong cuộc chiến giữa người Do Thái và dân tộc Palestine mà nhìn vào hình ảnh những người dân vô tội bị giết trong cuộc chiến này. Trên lãnh vực chiến tranh, điều có thể chấp nhận là lính hai bên giết nhau để tranh giành lãnh thổ, tài nguyên hay vì lý do nào đó. Nhưng hành động bắt, giết người dân là hình ảnh đi ngược lại đạo lý nhân bản, nhân tính của con người.

Không phải ai cũng có khả năng làm lãnh đạo. Và ngay cả những người có khả năng làm lãnh đạo thì không phải ai cũng có cái nhìn tổng thể trên nhiều lãnh vực mà cái nhìn tổng thể đó dựa vào Nhân Tính, Nhân Sinh, Nhân Bản (tạm gọi là Nhân Bản Cương Thường) làm kim chỉ nam cho mọi quyết định trong chính sách đối nội cũng như đối ngoại. Tiếc rằng thế giới hôm nay, lãnh đạo chỉ dựa vào quyền lợi của tổ chức, quốc gia mà không dựa vào Nhân Bản Cương Thường để có những chính sách mang tính người, phục vụ xã hội và con người.

Lãnh đạo Hamas sẽ đạt được gì sau cuộc tấn công đột ngột vào lãnh thổ Do Thái gồm cả hành động giết những người dân vô tội? Dĩ nhiên ai ủng hộ Hamas sẽ hoan hô hành động này. Đây là sự ủng hộ mù quáng, xem thường Nhân Bản Cương Thường. Những ai xem thường Nhân Bản Cương Thường thì là một tập thể nguy hiểm cho nhân loại nói chung và cho một đất nước nói riêng.

Một điều khẳng định rằng, cuộc tranh chấp giữa người Palestine và Do Thái bằng sức mạnh bạo lực sẽ không giải quyết được vấn đề. Lịch sử đã chứng minh từ khi quốc gia Do Thái được hình thành đến nay, bạo lực từ khối Ả Rập đối với người Do Thái hay người Do Thái đối với người Palestine hoàn toàn không giải quyết được tranh chấp đang xảy ra.

Sự cố gắng của quốc tế, gồm cả Liên Hiệp Quốc, cố gắng dàn xếp sự tranh chấp này không thành công bởi sức mạnh của Liên Hiệp Quốc hoàn toàn vô giá trị trong những cuộc tranh chấp giữa các quốc gia. Chưa kể lãnh đạo của hai bên, dân tộc Palestine và Do Thái đã không cố gắng tìm ra phương án tốt hầu chấm dứt sự tranh chấp này. Đối với dân tộc Palestine, người lãnh đạo ở khu vực West Bank và Gaza có hai chủ trương khác nhau. Lực lượng Hamas quản trị khu Gaza chủ trương bạo động. Các quốc gia trên thế giới (khối Tây phương) đánh giá lãnh đạo Hamas là lực lượng khủng bố. Đánh giá này đúng bởi lực lượng khủng bố mới xem thường mạng sống của thường dân và sẵn sàng bắn giết để thực hiện thú tính của bản thân hay của tổ chức.

Nhu cầu sống tối thiểu của Con Người hôm nay là phải có điện, nước, thức ăn, và nơi cư trú. Khi chiến tranh xảy ra và người lãnh đạo ra lệnh phá hủy hệ thống điện, nước, nhà cửa, và thức ăn của người dân tức là lãnh đạo đã không có Nhân Bản Cương Thường. Hành động của lực lượng Do Thái cúp điện, nước của người dân Palestine sống tại khu Gaza đi ngược lại Nhân Bản Cương Thường. Thái độ tàn bạo của lực lượng Hamas đối với người dân Do Thái trong cuộc vượt biên giới tuần vừa qua và thái độ trả đũa của lãnh đạo Do Thái trong việc cúp điện, nước của khu vực Gaza đều đáng lên án cho dù quyết định đó được che đậy với bất cứ hình thức nào.

Người Việt, những người quan tâm về một Việt Nam tự do dân chủ, có bao giờ đặt Nhân Bản Cương Thường cho mọi hành động trong sinh hoạt đấu tranh hay vì mục đích bất chấp thủ đoạn như người cộng sản?

Nhân Bản Cương Thường là gì? Đây là chủ đề sẽ được bàn thảo trong đầu năm 2024 để mổ xẻ trên từng lãnh vực dính dáng đến đời sống của Người từ xưa cho đến nay.

Đôi khi chỉ có thảm kịch -Nhã Duy, chuyển ngữ

Ba’o Tieng Dan

Steady

Tác giả: Dan Rather  Elliot Kirschner

Nhã Duy, chuyển ngữ

1-11-2023

Chiến tranh là địa ngục. Luôn luôn. Và đó là một loại địa ngục đặc biệt khi nó bẫy những thường dân vô tội, đặc biệt là trẻ em vào.

Bất cứ ai có tâm trí và lương tâm đều phải đối mặt với những gì đang xảy ra trên dải Gaza và những gì đã xảy ra vào ngày 7 tháng 10 tại Do Thái bằng một con tim nhói đau. Những câu chuyện. Những bức ảnh. Sự chồng chất của mất mát và thống khổ. Không thể kham nổi.

Mọi bản năng của con người thông thường chúng ta đều mong muốn cuộc đổ máu chấm dứt. Ngay lập tức. Hòa bình luôn được ưu tiên.

Những tình cảm này lẽ ra không mang điều kiện gì nhưng thật đáng buồn là thế giới bất toàn và méo mó của chúng ta bị đày đọa bởi lịch sử, bất công và hận thù, đôi khi tạo ra những tình huống chỉ có bi kịch. Không phải mọi vấn đề đều có câu trả lời dễ dàng, hoặc thậm chí là có được câu trả lời.

Nó là vậy với câu chuyện huyền thoại nút thắt Gordian tại Trung Đông. Từ hàng ngàn năm qua, khu vực này rối bời với chiến tranh điêu tàn trong tham vọng và hận thù. Nó từng là ngã tư của các lục địa, là cái nôi của tôn giáo và mồ chôn của những đế chế muốn xưng hùng. Đây là những yếu tố tạo ra xung đột.

Bước lên vùng đất này là bước qua hàng hàng lớp lớp của những nền văn minh đã biến mất từ ​​lâu và phần lớn bị quên lãng. Những tàn tích dạy những bài học xương máu về sự ngạo mạn, khúc khải hoàn và tàn bại. Chúng là những câu chuyện đan chéo mà thường khởi đầu và kết thúc bằng chiến tranh. Bạn không thể kể một câu chuyện về Trung Đông mà không kể đến những gì xảy ra trước đó. Lịch sử luôn dự phần.

Trong cuộc xung đột hiện tại này, một lần nữa chúng ta có thể nghe âm vọng thét gào của quá khứ. Chúng ta bắt đầu từ đâu? Đó là một câu mơ hồ dễ hỏi, nhưng sự lựa chọn của mỗi người sẽ định hình mọi điều tiếp theo. Chúng ta có bắt đầu từ hàng thế kỷ trước không? Hoặc gần đây hơn? Chúng ta có nhắc đến diệt chủng Holocaust không? Phân vùng lãnh thổ? Nhà nước Palestine? Những thỏa thuận hòa bình bị thất bại? Các vùng định cư? Những vụ ám sát? Vai trò của các quốc gia Ả Rập? Iran? Hezbollah? Những thất bại của chính phủ Do Thái? Chủ nghĩa bài Do Thái? Tiêu chuẩn kép? Và cứ tiếp tục như vậy.

Dù chúng ta chọn thứ tự nào thì luôn có điều gì đó quan trọng vượt ngoài tầm nhìn của chúng ta. Nhưng có thể chắc chắn rằng bất kỳ giai đoạn nào chúng ta chọn nhắm vào đều sẽ bao gồm xung đột và chết chóc. Và chúng ta có thể đoán chắc gấp đôi là, nó sẽ được nhìn qua những lăng kính hoàn toàn khác nhau, tùy thuộc vào người chúng ta hỏi.

Hãy thận trọng với bất cứ ai nói về Trung Đông một cách tuyệt đối, đặc biệt với niềm tin xác quyết của họ. “Nên làm những gì?” là một câu hỏi gợi lên sự tự suy gẫm chứ không phải những giáo điều khoa trương. Những nhà lãnh đạo quân sự và chính trị tài ba nhất cố gắng thách thức những định kiến và thành kiến của chính họ. Họ liên tục tự hỏi: “Mình còn đang thiếu điều gì?”.

Chúng ta có thể nói một cách dứt khoát rằng, không quốc gia nào chấp nhận những tên khủng bố sát nhân trong biên giới của mình. Và chúng ta biết rằng sự dã man của Hamas không thể được  phép tiếp tục nếu chúng ta muốn có một thế giới hòa bình.

Chúng ta cũng biết rằng, việc Do Thái cố gắng loại trừ Hamas bằng bom và xe tăng trong chiến tranh đô thị có nghĩa là mức độ tử vong, đặc biệt là dân thường là khủng khiếp và sẽ càng tồi tệ hơn. Họ là những người dân không có nơi nào để trốn chạy. Sự mất mát này là sự đau đớn về mặt đạo đức. Nó cũng có thể gây bất ổn hơn cho khu vực bằng cách châm ngòi cho các cuộc chiến tranh mới và vòng xoay trả thù.

Đối với những người nói rằng Do Thái nên dừng lại, chúng ta nên hỏi điều đó có ý nghĩa gì đối với Hamas. Anh có thể nói là một quốc gia có quyền tự vệ nhưng lại nói rằng họ không thể làm những gì mà họ tin là cần thiết để bảo vệ người dân của mình khỏi bị khủng bố?

Đối với những người cho rằng Do Thái cứ tiếp tục đánh tới, chúng ta nên hỏi điều đó có ý nghĩa gì đối với tất cả những người dân bị kẹt tại Gaza. Còn cuộc sống của họ thì sao? Anh có thể nói rằng anh đang chống khủng bố để rồi có nguy cơ kích động sự cực đoan hơn từ nhiều người bằng cách sát hại những người thân yêu của họ không?

Chúng ta có thể mất đi sự hiểu biết trọn vẹn về sự khủng khiếp của một cuộc chiến một khi nó nhòa dần trong sử sách. Tính thời cuộc và sự khủng khiếp có thể bị bôi sạch theo thời gian. Tử vong chỉ là những con số tròn trịa và người ta thường chú ý nhiều hơn đến tầm ảnh hưởng của địa chính trị hơn là các chi tiết trên chiến trường. Một vài thế hệ trôi qua, chúng ta mãi mãi mất hẳn nhận thức về việc sống qua các cuộc chiến tranh trong quá khứ là như thế nào. Mà ngay cả những cuộc chiến mà chúng ta xem lại, như cuộc chiến chống lại Đức Quốc Xã cũng dẫn đến những cái chết hàng loạt của dân thường. Cũng như các cuộc chiến tiêu diệt Al Qaeda và ISIS. Những cuộc chiến được gọi là “cần thiết” vẫn đầy rẫy thảm kịch.

Ngoài ra còn những bài học từ những chiến trường như Afghanistan và Iraq, chưa kể đến Việt Nam, những nơi mà chúng ta có thể thấy rằng quyết định tiến hành một cuộc chiến tranh toàn diện xem ra lại phản tác dụng cho nền an ninh Hoa Kỳ.

Điều tốt nhất mà chúng ta có thể hy vọng trong thời điểm mà chẳng có lựa chọn nào là tốt cả là, những nhà lãnh đạo nên hiểu rằng, chúng ta đang sống trong một thế giới xung đột mà sự thỏa hiệp là khó khăn nhưng cuối cùng lại là điều cần thiết. Sự sáng suốt đòi hỏi phải liên tục tái thẩm định và điều chỉnh chiến lược của mình nhằm phục vụ các mục tiêu dài hạn.

Chiến dịch quân sự kết thúc. Khi chấm dứt, tổn thất sẽ là bao nhiêu? Điều gì sẽ xảy ra kế tiếp? Điều gì còn lại? Điều gì sẽ mãi mãi thay đổi? Hiện chưa thể biết được câu trả lời cho những câu hỏi này, nhưng chúng sẽ là cách để đánh giá thời kỳ này.

Những cuộc chiến tranh diễn ra ở thì hiện tại nhưng hệ lụy của chúng chỉ nằm ở tương lai. Trong lúc này, thường thì chỉ có thảm kịch.