Nguyên nhân rất nhiều tai họa mà đa số người dân Việt Nam hiện nay phải chịu, được quy về hai nhóm: Những sai lầm trong lãnh đạo và dân trí thấp. Hai nguyên nhân này phối hợp với nhau, cộng hưởng lẫn nhau, thể hiện ra dưới nhiều dạng khác nhau. Một trong các dạng thường được trình bày là sự kết hợp giữa những độc hại của chủ nghĩa Mác Lê và một số yếu kém trong văn hóa dân tộc. Sai lầm trong lãnh đạo là do chủ nghĩa Mác Lê, dân trí thấp, tạo ra một số yếu kém về văn hóa.
Bài viết này không bàn đến những sai lầm của lãnh đạo, chúng đã được nhiều người trình bày ở nhiều nơi và còn được tiếp tục. Chỉ xin bàn đến một phần nhỏ trong vấn đề dân trí.
Dân trí có ba loại, về khoa học, về nghề nghiệp và về chính trị.
Dân trí về khoa học là những kiến thức khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và những ứng dụng các kiến thức đó trong đời sống. Dân trí về nghề nghiệp là những hiểu biết, tình cảm, kỹ năng, kỹ xảo đối với nghề đang làm.
Dân trí chính trị là những hiểu biết về các loại chính quyền và quan hệ giữa chính quyền với người dân, về nhân quyền và dân quyền, về tự do, dân chủ, bình đẳng, về những biện pháp để thực thi nhân quyền và dân quyền, để tự bảo vệ và đòi được bảo vệ khi các quyền bị xâm hại, về sự hoạt động của các đảng phái chính trị v.v…
Ba loại dân trí không mâu thuẫn nhau, nhưng cũng không hoàn toàn thống nhất trong mỗi người. Đã từng có những người làm chủ bằng cấp cao về khoa học, nắm vững chuyên môn, giỏi trong nghề nghiệp, mà lại có hiểu biết không những mơ hồ mà con sai về dân trí, chính trị.
Ở Việt Nam, dưới thể chế hiện tại, không phải chỉ dân trí chính trị thấp mà “quan trí” càng thấp, hơn nữa chức quan càng cao thì trí tuệ càng thấp so với yêu cầu. Có ý kiến cho rằng: Dân trí thấp thì làm sao quan trí cao được, vì dân ấy sinh ra quan ấy. Nhưng cách nói ngược lại rằng “quan ấy sinh ra dân ấy” có thể đúng hơn.
Phan Chu Trinh đã rất đúng khi ra sức vận động “Nâng cao dân trí, Chấn hưng dân khí”. Sự hoạt động của nhiều người, nhiều tổ chức xã hội dân sự cũng nhằm nâng cao dân trí, chính trị, cho đấy là động lực của tiến bộ.
Nguyên nhân nào làm cho dân trí chính trị thấp? Phải chăng bản chất của nòi giống dân tộc Việt là có trí tuệ kém? Không, không phải thế. Có thể nêu ra hàng ngàn, hàng vạn dẫn chứng trong lịch sử, rằng về bản chất, dân tộc Việt có trình độ trí tuệ không hề thấp kém. Nhưng hiện nay, rõ ràng dân trí chính trị của đại đa số người Việt ở trong nước thấp hơn so với rất nhiều quốc gia, thấp hơn người Việt ở nước ngoài.
Nhận xét ở đoạn trên (dân trí thấp tạo ra quan trí thấp) nghe qua thấy có vẻ đúng về hình thức nhưng sai về bản chất, là người ta đổ lỗi cho dân, cho rằng dân trí thấp là tại dân. Phải chăng tại dân cam tâm chịu ngu dốt, không chịu giác ngộ về nhân quyền và dân quyền, tại vì dân chỉ chăm lo niêu cơm, manh chiếu mà không quan tâm đến văn hóa, chính trị, sẵn sàng chịu sai khiến v.v… Việc đổ lỗi cho dân là quá dễ nên một số người đã nghĩ và làm như thế. Không, không phải như thế. Những người tử tế không tán thành cách đổ lỗi như vậy.
Đúng là có hiện tượng một số người dân chỉ lo cho niêu cơm, manh chiếu nhà mình mà không quan tâm đến văn hóa, chính trị, cam tâm chịu sai khiến, nhưng đó là số ít, rất ít và chủ yếu họ bị bắt buộc, bị kìm kẹp, bị dọa nạt. Họ sợ chính quyền, sợ không giống những người xung quanh, sợ bị trừng phạt. Nhưng bản chất của dân Việt không phải như vậy.
Nguyên nhân chủ yếu của dân trí chính trị thấp bắt nguồn từ phía lãnh đạo. Về hình thức, ngoài mồm hoặc trong văn bản, lãnh đạo nói nhiều, nói mạnh đến phát triển văn hóa, giáo dục, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài v.v… nhưng thực tế họ cố nâng cao dân trí khoa học và dân trí nghề nghiệp một cách lệch lạch là nặng về dạy người ta làm theo mẫu, trả lời chủ yếu câu hỏi làm như thế nào, mà không dạy học khai phóng nhằm kích thích sáng tạo; trả lời câu hỏi tại sao, là tìm cách xa rời tính nhân bản nhằm đào tao con người tự do mà tránh việc đào tạo con người công cụ.
Còn dân trí chính trị thì bị làm cho lệch lạc bằng một số biện pháp sau: 1- Nền giáo dục phụ họa chính quyền, xa rời tính nhân bản, khai phóng. 2- Hệ thống tuyên truyền một chiều. 3- Ngăn cấm tự do ngôn luận. 4- Khống chế việc thống nhất tư tưởng và lòng trung thành với đảng; 5- Đàn áp các xu hướng khác biệt, ngăn cấm các phản biện và hoạt động của các tổ chức xã hội dân sự.
Kết quả của chính sách, đường lối trên dẫn tới dân trí chính trị càng ngày càng thấp. Sự kìm kẹp và dối trá đã buộc khá đông thành phần tinh hoa nhập vào dòng chảy chất xám. Số trí thức được đảng đào tạo hoặc tiếp nhận, phần lớn chỉ giỏi phụ họa, hữu danh vô thực, một số ít tuy có trình độ nhưng chỉ phát huy được trong lĩnh vực chuyên môn hẹp, hoặc vì trung thực nên bị vô hiệu hóa, một số khác vì phản biện mà bị tù đày.
Lãnh đạo có những chủ trương trên đây, chủ yếu là do đã bị Tàu Cộng xúi bẫy, bị mắc lừa mà cứ tưởng được dạy bảo thực lòng theo mười sáu chữ vàng.
Một số người tưởng nhầm là làm cho dân ngu để dân giữ một lòng trung thành, không còn ai phản biện, để cho một mình đảng, tha hồ kiên trì chủ nghĩa mà họ tôn thờ. Nhưng không phải như vậy, làm cho dân ngu một thì lãnh đạo nhận lấy ngu gấp hai, gấp ba lần. Thực tế chứng tỏ, rõ ràng càng về sau trình độ lãnh đạo ngày càng thấp là dẫn chứng, càng dễ bị lệ thuộc vào Trung Cộng.
Trong lúc dẫn dắt dân Việt làm cách mạng, làm chiến tranh để mang lại độc lập và thống nhất lãnh thổ, lãnh đạo đã phạm một số sai lầm, trong đó làm ngu dân về chính trị là thuộc loại khá nặng, một mặt nó góp phần tạo ra máu chảy đầu rơi, phá nát kinh tế. Mặt khác quan trọng hơn, nó hủy hoại nền văn hóa truyền thống, hủy hoại tinh thần bất khuất của nhân dân, làm suy yếu dân tộc, tạo cơ hội và điều kiện cho kẻ thù phương Bắc thao túng.
Đã bao giờ có ai hỏi bạn rằng tại sao người Công giáo lại tin có Luyện Ngục khi người đó vui vẻ nói rằng Luyện Ngục không có trong Kinh Thánh? Vậy tại sao tín nhân Công giáo có thể tin có Luyện Ngục khi không tìm thấy chữ “Luyện Ngục” trong Kinh Thánh?
Người đó đúng, trong Kinh Thánh không thấy chữ “Luyện Ngục” nào. Là người Công giáo, bạn trả lời thế nào? Có ba điều cần biết để trả lời.
DÙNG TÍNH LOGIC CỦA CÂU HỎI ĐỂ NÓI VỚI HỌ
Giả định trong câu hỏi là nếu điều gì đó không tìm thấy trực tiếp trong Kinh Thánh thì Kitô hữu chúng ta không nên tin điều đó. Kiểu suy nghĩ này là hệ quả của giáo điều Tin Lành về Sola Scriptura – Duy Kinh Thánh, họ cho rằng chỉ có Kinh Thánh là tất cả những gì tín nhân cần để xác định giáo lý và giáo điều đúng đắn. Họ cho rằng điều đó làm cho tín nhân Công giáo sai lầm khi tin có Luyện Ngục, bởi vì chữ “Luyện Ngục” không có trong Kinh Thánh.
Vậy làm thế nào để biến logic của họ chống lại họ? Tôi hỏi họ xem họ có bao giờ nghe nói bàn thờ trong nhà thờ của họ hay không. Nếu họ nói có, tôi yêu cầu họ chỉ cho tôi nơi các chỗ bàn thờ được đề cập trong Kinh Thánh. Nhưng họ không thể dẫn chứng. Sau đó, tôi hỏi họ có đến nhà thờ vào đêm thứ Tư hay không. Tôi không biết các nơi khác thế nào, nhưng ở miền Nam, đêm thứ Tư là đêm nhà thờ của những người theo đạo Tin Lành. Nếu họ nói có đến nhà thờ vào đêm thứ Tư, tôi yêu cầu họ chỉ cho tôi việc thực hành đó được đề cập ở chỗ nào trong Kinh Thánh. Họ không trả lời được. Cuối cùng, tôi hỏi họ có tin vào Chúa Ba Ngôi hay không. Tất nhiên họ tin vào Chúa Ba Ngôi. Vì thế, tôi hỏi: “Bạn có thể chỉ cho tôi chữ ‘Ba Ngôi’ ở chỗ nào trong Kinh Thánh?” Họ không trả lời được.
Tuy nhiên, chắc chắn họ sẽ nói rằng Chúa Ba Ngôi thực sự có trong Kinh Thánh. Chúa Cha được nhắc đến. Chúa Con được nhắc đến. Chúa Thánh Thần được nhắc đến. Khi Chúa Giêsu chịu Phép Rửa, cả ba ngôi vị của Chúa Ba Ngôi đều hiện diện. Tôi nói: “Vì vậy, mặc dù chữ ‘Ba Ngôi’ không được đề cập trong Kinh Thánh, nhưng khái niệm về Chúa Ba Ngôi vẫn có trong Kinh Thánh, điều này khiến các tín nhân tin được chứ?” Tôi luôn nhận được câu trả lời xác định. Đó là cách tôi lý luận để họ thấy khái niệm về Luyện Ngục trong Kinh Thánh.
SÁCH SAMUEL
Tôi thích bắt đầu từ 2 Sm 12:13-18. Sách này ghi: Bấy giờ vua Đavít nói với ông Nathan: “Tôi đắc tội với Đức Chúa.” Ông Nathan nói với vua Đavít: “Về phía Đức Chúa, Người đã bỏ qua tội của ngài; ngài sẽ không phải chết. Thế nhưng vì trong việc này ngài đã cả gan khinh thị Đức Chúa, nên đứa trẻ ngài sinh được, chắc chắn sẽ phải chết.” Rồi ông Nathan trở về nhà. Vua Đavít cầu khẩn Thiên Chúa cho đứa trẻ, vua ăn chay nhiệm nhặt, và khi về nhà ngủ đêm thì nằm dưới đất. Các kỳ mục trong nhà của vua nài nỉ xin vua trỗi dậy, nhưng vua không chịu và cũng chẳng ăn chút gì với họ. Đến ngày thứ bảy, đứa bé chết. Triều thần vua Đavít sợ không dám báo tin cho vua biết là đứa bé đã chết, vì họ bảo nhau: “Khi đứa trẻ còn sống, chúng ta đã nói với đức vua và người đã không nghe chúng ta. Bây giờ làm thế nào để nói với người là đứa bé đã chết? Hẳn người sẽ làm liều!”
Chúng ta thấy gì ở đây? Vua Đavít phạm tội – ngoại tình và giết người. Ông nhận ra mình đã phạm tội, ông ăn năn và được tha thứ – Chúa “xóa bỏ” tội lỗi của ông. Tuy nhiên, ông nhận hình phạt về tội lỗi của mình sau khi ông được tha thứ – đứa con chết.
Nguyên Tắc Kinh Thánh Công giáo 1 – có thể bị trừng phạt vì tội lỗi ngay cả khi người ta đã được tha thứ. Bây giờ chúng ta hãy chuyển sang Tân Ước. Kh 21:27 nói: “Tất cả những gì ô uế cũng như bất cứ ai làm điều ghê tởm và ăn gian nói dối, đều không được vào thành, mà chỉ có những người có tên ghi trong Sổ trường sinh của Con Chiên mới được vào.” Điều này đề cập Giêrusalem Mới – Thiên Đàng.
Nguyên Tắc Kinh Thánh Công giáo 2– không có gì ô uế, nói cách khác là không có dấu vết tội lỗi, sẽ được vào Thiên Đàng.
Dt 12:22-23 nói: “Nhưng anh em đã tới núi Sion, tới thành đô Thiên Chúa hằng sống, là Giêrusalem trên trời, với con số muôn vàn thiên sứ. Anh em đã tới dự hội vui, dự đại hội giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa, là những kẻ đã được ghi tên trên trời. Anh em đã tới cùng Thiên Chúa, Đấng xét xử mọi người, đến với linh hồn những người công chính đã được nên hoàn thiện.”
Nguyên Tắc Kinh Thánh Công giáo 3– có một cách, một quá trình, qua đó tinh thần của những người “công chính” được “hoàn thiện.”
Cuối cùng, tôi dùng 1 Cr 3:13-15:“Nhưng công việc của mỗi người sẽ được phơi bày ra ánh sáng. Thật thế, Ngày của Chúa sẽ cho thấy công việc đó, vì Ngày ấy tỏ rạng trong lửa; chính lửa này sẽ thử nghiệm giá trị công việc của mỗi người. Công việc xây dựng của ai tồn tại trên nền, thì người ấy sẽ được lĩnh thưởng. Còn công việc của ai bị thiêu huỷ, thì người ấy sẽ phải thiệt. Tuy nhiên, bản thân người ấy sẽ được cứu, nhưng như thể băng qua lửa.”
Sau khi chết, nơi nào người ta được thử nghiệm các công việc của mình, và có thể mất mát – như qua lửa, nhưng vẫn được cứu độ? Hỏa Ngục chăng? Không, một khi bạn ở trong Hỏa Ngục thì bạn không thể thoát ra. Thiên Đàng chăng? Không, bạn không mất mát như qua lửa trên Thiên Đàng. Vậy thì phải ở một nơi khác.
Nguyên Tắc Kinh Thánh Công giáo 4 – có một địa điểm, hoặc trạng thái tồn tại, không phải là Thiên Đàng hoặc Hỏa Ngục.
Bây giờ, chúng ta hãy tóm tắt bốn nguyên tắc Kinh Thánh Công giáo như sau: Có thể bị trừng phạt vì tội lỗi ngay cả khi người ta đã được tha thứ. Không có dấu vết tội lỗi sẽ được vào Thiên Đàng. Có một số cách, hoặc một quá trình, nhờ đó mà linh hồn của những người công bình được hoàn thiện. Có một nơi ngoài Thiên Đàng và Hỏa Ngục, nơi mà bạn có thể chịu mất mát sau khi chết, nhưng vẫn được cứu độ, nhưng chỉ như qua lửa. Bạn đặt tất cả các nguyên tắc đó lại với nhau, và về bản chất, bạn vừa mô tả giáo huấn của Công giáo về Luyện Ngục. Kết luận: Luyện Ngục có trong Kinh Thánh.
CHÚNG TA CÓ THỂ HOÀN HẢO NGAY BÂY GIỜ?
Vượt ra ngoài Kinh Thánh, bạn có thể thêm vào cái mà tôi gọi là viễn cảnh thông thường về Luyện Ngục – điều 3. Nó thế này: Hãy hỏi: Hiện tại bạn có hoàn hảo hay không? Về mọi mặt – thể chất, tinh thần, cảm xúc và tinh thần – bạn có hoàn hảo hay không? Bạn có vướng mắc tội lỗi gì hay không? Bạn chưa bao giờ có ý nghĩ xấu, nói lời xấu, làm điều gì đó không nên hoặc không làm điều gì đó nên làm? Bạn có bao giờ bị bệnh? Tôi đã hỏi rất nhiều người như thế và chưa bao giờ có ai nói với tôi rằng họ hoàn hảo!
Tôi nói: “Vậy là bạn không hoàn hảo. Giả sử bạn chết ngay lúc này và được lên Thiên Đàng. Bạn sẽ được hoàn hảo trên Thiên Đàng chăng?” Những người Tin Lành luôn trả lời: “Vâng, tôi sẽ hoàn hảo trên Thiên Đàng.”
Chắc chắn là vậy. Bạn sẽ hoàn toàn hiệp nhất với Thân Thể của Đức Kitô, không còn tội lỗi, không còn đau đớn, không còn đau khổ, không còn bệnh tật. Linh hồn của bạn sẽ không còn tội lỗi và thể xác của bạn – sau khi phục sinh từ cõi chết – sẽ ở trong trạng thái vinh quang. Bạn sẽ là người hoàn hảo trên Thiên Đàng.
Sau đó, tôi yêu cầu họ suy nghĩ về những gì họ vừa thừa nhận. Bạn chết không hoàn hảo; nhưng bạn vào Thiên Đàng hoàn hảo. Làm thế nào mà điều đó xảy ra? Giữa lúc chết và lúc được vào Thiên Đàng, phải có một quá trình nào đó mà linh hồn của “những người công chính được nên hoàn thiện.” (Dt 12:23) N hững điểm không hoàn hảo của bạn được “thanh lọc” khỏi bạn.
Tôi bảo người Tin Lành gọi quá trình đó là bất cứ thứ gì họ muốn, nhưng quá trình đó là cái mà người Công giáo chúng ta gọi là “Luyện Ngục.”
John Martignoni
– Trầm Thiên Thu (chuyển ngữ từ CatholicExchange.com)
Đầu tuần tháng 11 này, tòa liên bang tại Washington DC tiếp tục xử những người gốc Việt tham gia vụ bạo loạn ở tòa nhà Quốc Hội.
Trước khi đi vào từng trường hợp, có thể nhắc lại bốn tội danh hình sự mà phần lớn những người tham gia vụ bạo loạn đã bị truy tố theo sau:
Xâm nhập và ở lại trái phép trong toà nhà và khuôn viên cấm – Khoản 18 U.S.C. § 1752(a)(1), án tù đến một năm tù giam hay 10 năm tù nếu có vũ khí hoặc gây thương tích cho người khác và phạt tiền.
Hành vi gây mất trật tự và quấy rối trong toà nhà và khuôn viên cấm – 18 U.S.C. § 1752(a)(2), án tù đến một năm và phạt tiền.
Hành vi gây mất trật tự bên trong Điện Capitol và trong khuôn viên Quốc Hội – 40 U.S.C. § 5104(e)(2)(D), án tù đến sáu tháng tù và phạt tiền.
Diễn hành, biểu tình hoặc cản trở nghị sự bên trong Điện Capitol – 40 U.S.C. § 5104(e)(2)(G), án tù đến sáu tháng tù và phạt tiền.
Ảnh trên mạng
Antony Võ (Case # 1:21-cr-00509), một bị cáo gốc Việt trong vụ án này là người đã cương quyết không nhận tội cho đến tận ngày xét xử và liên tục nộp hồ sơ khiếu nại trong suốt thời gian xét xử. Bị cáo này đã bị bồi thẩm đoàn 12 người đồng thuận là phạm tội với tất cả bốn tội danh vào ngày 22/9/2023. Antony đối diện bản án có thể đến 3 năm tù và sẽ bị Thẩm phán Tanya S. Chutkan tuyên án vào ngày 18/12/2023 tới đây.
Với Lê Ngọc Mai Nhi tại Illinois (Case # 1:23-cr-00317), bị cáo này không nhận tội 4 tội danh bị truy tố trong lần hầu tòa vào ngày 4/10/2023 và được sắp lịch hầu tòa vào ngày 8/11/2023 cũng với Thẩm phán Tanya S. Chutkan. Tuy nhiên vào ngày 20/10/2023, bị cáo này đã đồng ý nhận tội, hai tội danh 3 và 4 bên trên theo đề nghị thoả thuận nhận tội từ phía công tố, nhằm tránh bị đưa ra xét xử và có thể bị cả bốn tội danh như Antony Võ. Lê Ngọc Mai Nhi sẽ bị tuyên án vào ngày 26/2/2024.
Ảnh: Cô Lê Mai Ngọc Nhi bên ngoài tòa nhà Quốc Hội, chuẩn bị vào bên trong vào ngày bạo loạn 6/1/2021. Nguồn: Bộ Tư pháp Mỹ
Phía công tố đề nghị đến 6 tháng tù giam và $5,000 tiền phạt cùng 5 năm quản thúc cho mỗi tội danh, tức Lê Ngọc Mai Nhi có thể lãnh án đến một năm tù giam. Tuy nhiên bản án cuối cùng còn phụ thuộc vào thẩm phán của vụ án. Nữ thẩm phán Tanya S. Chutkan cũng là người đang xét xử vụ án Donald Trump, vốn là quan tòa rất nghiêm trong các vụ án 6/1, đã phạt phần lớn các bị cáo mức án tù bằng hay nặng hơn mức án do phía công tố đề nghị cho đến nay.
Cũng trong tuần này, một ngày trước đó là ngày 7/11/2023, cả hai bị cáo gốc Việt khác là Long Duong (aka Jimmy Hoang Duong) tại Massachusetts (Case # 1:23-cr-00219) và Julia Miller (aka Hong Ngo) tại Massachusetts (Case # 23-mj-00127) cũng đã nhận tội theo thỏa thuận với phía công tố trước thẩm phán Dabney L. Friedrich. Cả hai đã đồng ý nhận tội danh số 1 và sẽ đối diện bản án đến một năm tù và 100 ngàn đô la tiền phạt. Long Duong và Julia Miller sẽ bị tuyên án vào ngày 26/2/2024.
Một bị cáo gốc Việt khác là Fi Duong tại Washington DC (Case # 1:21-cr-00541) đã nhận tội hồi tháng 4 năm nay và sẽ bị Thẩm phán Paul L. Friedman tuyên án vào ngày 5/12/2023. Fi Duong bị truy tố với tội danh nặng hơn các bị cáo nêu trên, là do có hành vi cản trở, gây trở ngại cho nhân viên công lực trong cuộc quấy rối dân sự theo điều khoản hình sự 18 U.S.C. § 231(a)(3), người vi phạm có thể đối diện án tù đến 5 năm và bị phạt tiền đến 250,000 đô la. Tuy nhiên dựa vào hồ sơ tội phạm và thoả thuận nhận tội, phía công tố ước tính mức án có thể đến 6 tháng tù và $2,000-$20,000 tiền phạt. Nhưng, như đã nói ở trên, bản án cuối cùng phụ thuộc vào thẩm phán của vụ án.
Tưởng cũng nên nhắc lại, cựu cảnh sát viên tại Texas là Tâm Phạm (Case # 1:21-cr-00109) là người gốc Việt đầu tiên bị kết án 45 ngày tù trong vụ bạo loạn 6 tháng 1.
Đến Mỹ năm 1991, Tâm Phạm là viên cảnh sát có 18 năm thâm niên tại Sở Cảnh Sát Houston, Texas. Ông bị mất việc, mất cả các quyền lợi hưu trí sau hành động phạm pháp của mình, trong khi chỉ cần phục vụ thêm hai năm nữa là đủ điều kiện nhận quyền lợi hưu trí trọn đời.
Trong ngày bị tuyên án, Tâm Phạm đã gạt nước mắt trước toà, nhận mình đã “ngu xuẩn” và nói rằng: “Tôi đã đánh mất danh dự và sự nghiệp của mình, mang lại sự xấu hổ cho gia đình, nhất là các con tôi. Nước Mỹ đã cho tôi rất nhiều cơ hội. Tôi xin lỗi vì những việc tôi đã làm” (*).
Trầm cảm là căn bệnh thuộc tâm thần đặc trưng bởi sự rối loạn khí sắc. Bệnh do hoạt động của não bộ bị rối loạn gây nên, do một yếu tố tâm lý tạo thành những biến đổi bất thường trong suy nghĩ hành vi tác phong.
Số lượng phụ nữ thường gặp bệnh trầm cảm nhiều gấp đôi nam giới (2 nữ/ 1 nam) xảy ra ở nhiều lứa tuổi, đặc biệt là độ tuổi trưởng thành. Tỉ lệ mắc bệnh trầm cảm ngày một gia tăng, theo tổ chức Y tế Thế giới ước tính mỗi năm có khoảng 850 000 người chết do tự sát vì mắc bệnh trầm cảm, là một bệnh phổ biến ở trên toàn cầu. Tuy nhiên trong số đó những người được chẩn đoán và điều trị kịp thời còn rất thấp khoảng 25%. Trầm cảm do các nguyên nhân sau gây nên:
– Trầm cảm chưa rõ nguyên nhân: Có nhiều giả thuyết cho rằng do di truyền, yếu tố tự miễn, môi trường sống, xã hội nhưng chưa thực sự rõ ràng.
– Trầm cảm do căng thẳng: Do áp lực từ nhiều phía như công việc, gia đình, con cái, phá sản hay do những điều đột ngột xảy đến như mất đi người thân, mất tiền của,…
– Trầm cảm có thể xuất hiện các bệnh lý hay chấn thương tác động trực tiếp đến não bộ.
Triệu chứng trầm cảm khá đa dạng và khác nhau ở mỗi người, chẳng hạn khi bị trầm cảm có người sẽ ngủ nhiều, có người lại rất khó ngủ hoặc có người thì ăn nhiều, trong khi một số người lại mất cảm giác ngon miệng khi ăn. Tuy nhiên, vẫn có những dấu hiệu trầm cảm nhẹ thường xuất hiện như:
– Không thể tập trung.
– Cảm thấy vô cùng mệt mỏi.
– Cảm thấy buồn hoặc trống rỗng.
– Cảm thấy vô vọng, dễ bị kích động, lo lắng hoặc cảm thấy có lỗi.
– Mất hứng thú với việc quan hệ tình dục.
– Nhức đầu, đau bụng hoặc gặp các vấn đề về tiêu hóa.
– Trầm cảm nghiêm trọng có thể dẫn đến ý định tự tử, hoặc cố tìm cách tự tử.
Những thói quen sinh hoạt dưới đây sẽ giúp bạn hạn chế diễn tiến của bệnh trầm cảm:
– Đừng tự cô lập mình.
– Đơn giản hóa cuộc sống.
– Tập thể dục thường xuyên.
– Ăn uống đầy đủ dinh dưỡng.
– Học cách thư giãn và kiểm soát căng thẳng.
– Không nên quyết định quan trọng khi đang cảm thấy chán nản.
Nếu bạn cảm thấy bị trầm cảm với các dấu hiệu và triệu chứng kể trên, hãy hẹn gặp bác sĩ càng sớm càng tốt. Bạn có thể bị trầm cảm nặng nếu không được chữa trị. Trầm cảm không được chữa dẫn đến các vấn đề về thần kinh và thể chất, hay các rắc rối trong các mặt khác của cuộc sống, thậm chí dẫn đến liều lĩnh tự tử.
BUSAN, Nam Hàn (NV) – Sở Cảnh Sát Thành Phố Busan, Nam Hàn, hôm 8 Tháng Mười Một loan báo đã bắt giữ 42 người Việt với cáo buộc “tàng trữ, mua bán, sử dụng ma túy” tại hộp đêm, quán karaoke dành cho người ngoại quốc.
Báo VNExpress hôm 9 Tháng Mười Một dẫn tin từ Yonhap cho biết, Sở Cảnh Sát Thành Phố Busan cho hay sự việc được bắt đầu từ đợt khám xét hai quán karaoke dành cho người ngoại quốc tại Busan và Gyeongnam hồi Tháng Năm và Tháng Mười vừa qua.
Cảnh sát Nam Hàn phát hiện ma túy giấu trên trần nhà (trái) và thuốc lắc được bán, sử dụng tại quán karaoke. (Hình: VNExpress)
Khi cảnh sát đột kích, các nghi can đã khóa cửa, giấu ma túy trên trần nhà, bình nóng lạnh. Giới chức bắt 13 người Việt Nam, trong đó có chủ cơ sở và những người đang sử dụng ma túy bên trong.
Cảnh sát cho hay thuốc lắc, ketamin được bán tại quán karaoke này với giá 80,000-300,000 won (khoảng $60-$230).
Sau khi bắt người, cảnh sát đã thẩm vấn, tra dữ liệu từ điện thoại của các nghi can để điều tra nguồn gốc số ma túy trên, đồng thời mở rộng vụ án bắt thêm 29 người, nâng tổng số người Việt bị bắt trong đợt này lên 42 người. Trong số này có năm chủ cơ sở karaoke, 28 người bán, chín người sử dụng.
Trong 12 nghi can đã bị cảnh sát truy tố, hai người nhập cư bất hợp pháp đã được bàn giao cho cơ quan xuất nhập cảnh để chờ lệnh trục xuất về Việt Nam.
Cảnh sát Busan thông báo “sẽ tiếp tục trấn áp các hộp đêm, karaoke dành cho người nước ngoài tại thành phố này.”
Sự việc nêu trên khiến công luận nhớ lại vụ hai nữ tiếp viên hàng không Việt Nam bị Sở Cảnh Sát Thành Phố Incheon, phía Tây Seoul, Nam Hàn, bắt giữ vì buôn lậu ma túy giấu trong túi hành lý.
Bản tin đài MBC của Nam Hàn hôm 6 Tháng Chín dẫn tin từ Sở Cảnh Sát Thành Phố Incheon cho biết hai nghi can trên nằm trong số bốn tiếp viên quốc tịch Việt Nam.
Danh tính hai nghi can và tên của hãng hàng không Việt Nam không được tiết lộ. Song, được mô tả ở độ tuổi 20 và bị tình nghi mang tinh dầu cần sa trị giá 300 triệu won ($225,161) đến Nam Hàn hồi Tháng Tư bằng cách giấu chúng trong các hộp đựng mỹ phẩm.
Theo kết quả điều tra của cảnh sát, các nghi can thừa nhận họ nhận vận chuyển hàng hóa từ Việt Nam sang Nam Hàn để lấy 68,000 won ($51) cho mỗi đơn hàng.
Ngoài ra, hai nghi can khai với cảnh sát Nam Hàn: “Chuyện nhận vận chuyển hàng xách tay qua đường hàng không đã là thói quen” và họ “chỉ nhận vận chuyển hàng mà không biết đó là ma túy.”
Cũng theo đài MBC, cảnh sát Nam Hàn đang tiếp tục truy lùng hai tiếp viên còn lại liên quan sự việc, đồng thời mở rộng điều tra xem có thêm nghi can nào tham gia đường dây này hay không.
Bản tin của đài MBC Nam Hàn về sự việc bắt giữ hai tiếp viên của hãng hàng không Việt Nam vì buôn lậu ma túy giấu trong túi hành lý. (Hình: Chụp từ màn hình đài MBC)
Trong hội nghị ở Hà Nội hồi cuối Tháng Sáu, 2022, Bộ Công An cho biết tình trạng công dân Việt Nam phạm pháp ở nước ngoài vẫn “diễn biến phức tạp.”
Theo thông cáo của Ủy Ban Nhà Nước Về Người Việt Nam Ở Nước Ngoài, hiện có khoảng 5.3 triệu người Việt sinh sống, làm việc trên 130 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó hơn 80% là ở các nước phát triển. (Tr.N)
Chỉ cần nói “West Point”, ai cũng biết đó là chi rồi. West Point là cái tên…dân gian, nói ra ai cũng hiểu. Tên chính thức của ngôi trường này là United States Military Academy (Học Viện Quân Sự Hoa Kỳ). Nhưng nếu lười biếng, chỉ cần nói The Academy hay The Point thì cũng biết liền chính là hắn!
Được Tổng Thống Thomas Jefferson thành lập vào năm 1802, đây là học viện quân sự đầu tiên của Hoa Kỳ. Ngày nay mỗi năm trường thâu nhận khoảng 1300 sinh viên nhập học. Thời gian huấn luyện là 4 năm. Như vậy trong trường luôn luôn có 4 khóa tổng cộng khoảng trên 4 ngàn sinh viên. Chính ra con số này phải hơn nhưng vì mỗi khóa có khoảng 2% sinh viên bị loại mỗi năm, nên vào thì nhiều, ra thì ít, khoảng trên dưới một ngàn tân khoa mỗi khóa.
Đây là một quân trường nhưng muốn vào học còn khó hơn vào những đại học danh tiếng. Tỷ lệ được chọn chỉ khoảng 9%, có nghĩa là trong 100 lá đơn xin học, chỉ có 9 thí sinh được nhận. Sở dĩ khó như vậy vì West Point chọn lựa sinh viên không chỉ dựa vào thành tích học tập ở trung học mà còn chú ý vào tổng thể con người ứng viên. Dĩ nhiên thể lực là một yếu tố đánh giá quan trọng.
Không có sức khỏe tốt thì làm sao chịu được khi theo tiêu chí của trường là “trụng nước sôi 100 độ rồi trụng nước lạnh tiếp”! Thí sinh ứng tuyển phải qua kỳ thi đánh giá thể lực của trường (Candidate Fitness Assessement). Hồ sơ ứng tuyển còn phải kèm theo thư giới thiệu của một dân biểu, nghị sĩ hoặc Phó Tổng Thống hay Tổng Thống Hoa Kỳ.
Có đủ các món ăn chơi trên, Hội Đồng Tuyển Chọn mới xét hồ sơ của từng ứng viên. Ứng viên nào có thành tích lãnh đạo thời trung học như đại diện của trường, lớp trưởng, các vận động viên, chủ tịch các hội của trường được chú ý hơn. Tuổi phải trong hạn từ 17 đến 23, tính đến ngày 1/7 của năm học đó. Dĩ nhiên phải là công dân Hoa Kỳ, chưa kết hôn, không có thai hoặc chịu trách nhiệm pháp lý về việc nuôi dưỡng con cái. Trong khi theo học, sinh viên được nuôi ăn ở free, ngoài ra còn được 900 đô mỗi tháng dằn túi tiêu vặt. Khi ra trường với cấp bậc Thiếu Úy phải phục vụ trong quân đội ít nhất 5 năm.
Sản phẩm của trường là những công dân Mỹ hoàn hảo, xuất sắc trong bốn lãnh vực: trí tuệ, thể chất, quân sự và đạo đức. Chương trình học gồm 42 chuyên ngành và lãnh vực nghiên cứu nhằm mục đích: củng cố quan điểm lịch sử, nuôi dưỡng hiểu biết văn hóa, rèn luyện kỹ năng quân sự và phát triển khả năng lãnh đạo. Khi ra trường, ngoài bằng tốt nghiệp của trường, họ còn lãnh thêm văn bằng Cử Nhân. Tất cả sinh viên phải thề danh dự: “Sinh viên không nói dối, không lừa đảo, không ăn cắp và không khoan dung với những kẻ làm điều này”. Tuyển vào khó khăn là thế, vậy mà tỷ lệ tốt nghiệp chỉ 78%.
Sinh viên tốt nghiệp West Point là vốn quý của đất nước. Có người làm Tổng Thống như Ulysses Simpson Grant và Dwight D. Eisenhower. Nhưng trong những hoạt động thương mại hay kỹ nghệ, họ cũng ăn trùm thiên hạ. Rất nhiều doanh nghiệp loại bự có CEO là dân West Point như Johnson & Johnson, 7-Eleven, Foot Locker. Khi một công ty cần tuyển nhân viên lãnh đạo, nếu có các ứng viên tốt nghiệp West Point tham dự, coi như họ sẽ được thâu nhận trước. Theo thống kê, tỷ lệ CEO là dân West Point trên số sinh viên tốt nghiệp cao hơn các trường Harvard, Stanford hay Yale!
West Point thoạt kỳ thủy chỉ tuyển nam sinh viên có quốc tịch Hoa Kỳ. Nhưng ngay từ năm 1816, học viện đã có sinh viên quốc tế tới học. Tuy vậy, mãi tới năm 1884 chương trình thâu nhận sinh viên quốc tế mới chính thức thành hình một cách quy mô. Trong số các sinh viên ngoại quốc tốt nghiệp West Point có ba vị tổng thống: Tổng Thống Nicaragua, ông Anastasio Somoza Jr., tốt nghiệp năm 1946; Tổng Thống Phi Luật Tân Fidel Valdez Ramos, tốt nghiệp khóa 1950; Tổng Thống Costa Rica, ông Jose M. Figueres, khóa 1979.
Theo thời gian, số sinh viên quốc tế theo học ngày càng nhiều. Theo thống kê, thì từ năm 2013 đến 2018, mỗi năm có từ 53 tới 57 sinh viên ngoại quốc. Phí tổn đào tạo các sinh viên quốc tế này do các quốc gia liên hệ chi trả.
Năm 1970, Việt Nam có sinh viên đầu tiên theo học West Point. Đó là anh Phạm Minh Tâm, sanh năm 1949 tại Sài Gòn. Khi đó, Hoa Kỳ dành mỗi năm một chỗ tại West Point cho các nước vùng Đông Nam Á. Vì vậy cuộc tranh đua rất vất vả. Cuối năm 1969, anh Tâm, lúc đó đang là sinh viên khóa 25 của trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam và được nhà trường chọn đi dự thi. Anh thi ngay tại Hội Việt Mỹ, Sài Gòn. Các môn thi gồm: Toán, Lý Hóa, Anh văn, Sử và Địa Lý nước Mỹ. Sinh viên Tâm đã xuất sắc dành được chỗ duy nhất cho vùng Đông Nam Á, khóa 1970.
Ngày 1/7/1970, anh Tâm tới Hoa Kỳ nhập học. Vì sự kiện trọng đại này nên chỉ vài tháng sau, tháng 11 năm 1970, Trung Tướng Lâm Quang Thi, Chỉ Huy Trưởng Trường Võ Bị Đà Lạt đã qua thăm trường West Point. Năm 1970, anh cáo già nhiều mưu mô Henry Kissinger đã đi đêm với Trung Quốc để bán Việt Nam. Nhưng chuyện này lúc đó còn là bí mật. Sinh viên West Point dĩ nhiên cũng chẳng biết. Tâm ở chung phòng với anh Patrick McBrayer. Quê quán vùng Forest City ở tiểu bang North Carolina, McBrayer đã quyết định vào West Point từ năm học lớp sáu!
Khi đó anh nhóc có mái tóc màu cát này coi phim “The Long Grey Line” nói về West Point và mê ngay bộ đồng phục màu xám. McBrayer và Tâm như hình với bóng, sẵn sàng bảo vệ nhau. Châm ngôn của cặp đồng phòng này là: “Cùng hợp tác để cùng tốt nghiệp”. Tâm gà McBrayer môn toán trong khi McBrayer giúp Tâm trong môn bơi vì Tâm bơi rất kém. Lần đầu tiên Tâm phải đứng trên cầu nhảy cao cỡ của hồ bơi Thế Vận Hội, lao xuống với đôi giầy dã chiến và chiếc ba lô chất đầy gạch nặng chình chịch trong trạng thái mệt mỏi, McBrayer…cầu nguyện: “Trồi lên đi! Trồi lên đi nào!”. Khi thấy cái đầu Tâm trồi lên khỏi mặt nước, McBrayer mừng như bắt được vàng. Anh kể lại: “Trông hắn giống như một con chuột lột!”.
Vậy mà con chuột lột này cũng thuộc hạng chì. Tuy vóc người bé nhỏ giữa những tên bạn khổng lồ nhưng Tâm là người thành thạo môn võ karate nên không lép vế. Có lúc anh còn chơi ngông hẹn hò với con gái của một vị tướng! Năm 1974, anh McBrayer đinh ninh sẽ phải qua chinh chiến ở Việt Nam nhưng khi đó Mỹ đã rút quân, cả khóa không ai phải qua Việt Nam trừ anh Tâm. Thực ra anh Tâm lúc đó còn độc thân, có thể ở lại Mỹ dễ dàng, nhưng anh đã không đào ngũ ở lại.
Sinh viên West Point Phạm Minh Tâm
Sau bốn năm học tập vất vả, anh Tâm ra trường vào ngày 5/6/1974 với văn bằng Bachelor of Science và cấp bậc Thiếu úy. Nhưng anh không mang lon Thiếu úy quân đội Mỹ mà mang lon quân đội Việt Nam. Để hình dung sự vất vả của anh Tâm, chúng ta nhìn vào con số. Trong tổng số 1300 khóa sinh nhập học, chỉ có khoảng 800 sinh viên tốt nghiệp.
Tình hình Việt Nam khi đó đã rất xấu, nhưng anh vẫn trở về phục vụ tại Trường Võ Bị Đà Lạt ngay sau khi mãn khóa. Đúng theo tôn chỉ của West Point được khắc trên nhẫn ra trường: Bổn Phận, Danh Dự, Tổ Quốc. Anh về chưa đầy một năm, Sài Gòn sụp đổ, anh bị đưa vào lò “học tập cải tạo”. Anh mất chiếc nhẫn ra trường trong những ngày chộn rộn đó. Mãi tới năm 1981, anh mới được thả về.
Khi có chương trình HO đưa các sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa qua Mỹ, trớ trêu thay, anh Tâm không được chấp thuận. Lý do rất bi hài: giấy ra trại của anh bị ghi lộn là “thành phần chống đối nhà nước” thay vì sĩ quan cải tạo. Em gái của anh đang sống ở Mỹ đã liên lạc với các bạn học của anh ở West Point để cứu bồ. Sau nhiều khó khăn vất vả, cuối cùng, trường hợp của anh được Tướng John Vessey, cựu Chủ Tịch Tham Mưu Liên Quân, lúc đó đang đại diện Tổng Thống George H.W. Bush thương thuyết về bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, đích thân can thiệp. Anh Tâm được qua Mỹ vào ngày 31/5/1991, đợt HO7.
Qua tới Mỹ, Anh Tâm có job cũng khá. Đầu tiên anh làm phụ giáo cho trường trung học Cardozo ở thủ đô Washington, sau đó làm cho hãng TRW và cuối cùng với hãng Northrop Grumman. Chị Tâm cũng làm assembler cho hãng Huge Network System nên họ đã có thể mua được nhà, đời sống khá dễ chịu. Năm 2012, anh bị mất việc, gia đình sa sút. Anh chị Tâm đã phải bán xe và tới năm 2017, nhà bị tịch thu mang bán đấu giá. Họ sống trong hoàn cảnh thiếu thốn tới mức thiếu ăn.
Bà Kim Chi sụt sùi kể lại: “Tiền thuê nhà không đủ, tiền lương thì ít, tôi và cháu Kristy chỉ dám mua một phần McDonald’s, hai mẹ con chia nhau. Gia đình tôi ăn mì gói, hột gà là chuyện thường, vì chỉ có thế! Tôi xót xa khi cháu than đói bụng. Nó ở Mỹ mà ốm nhom. Khi bạn nó rủ đi ăn, nó nói không có tiền. Tôi muốn nuốt nước mắt!”. Túng thiếu tận cùng như vậy nhưng anh Tâm không than van, không cho bạn bè biết vì tính khẳng khái và lòng tự trọng không cho phép anh lợi dụng lòng tốt của người khác.
Ngày 10/2/2019, anh Tâm bị tai nạn giao thông tại Montgomery Village và mất vào ngày 1/3. Chị Kim Chi lo cuống cuồng. Nhà không còn tiền nên không biết xoay sở ra sao. Cuối cùng chị phải báo tin cho bạn bè trường Võ Bị Đà Lạt. Họ chung tay giúp đỡ tổ chức tang lễ cho anh. Xác anh sẽ được hỏa thiêu nên tang gia chỉ để anh trong quan tài tạm bợ bằng giấy cạc-tông. Trong số người tới dự tang lễ có bốn bạn đồng khóa West Point với anh trong đó có anh bạn đồng phòng McBrayer. Chính anh bạn này là người lo cho tro cốt của anh Tâm được để trong nghĩa địa của West Point.
Sinh viên West Point toàn là đực rựa. Mãi tới năm 1977 trường mới nhận nữ sinh viên. Ngay khóa đầu tiên đã có 62 bóng hồng thấp thoáng trong sân trường. Năm 2020 này, số nữ học viên là 263 trên tổng số khoảng một ngàn tân sinh viên. Từ 1977 tới nay đã có cả thảy 4100 nữ lưu khoác áo West Point. Từ năm 2000 tới nay, trường có khoảng 20% sinh viên là nữ.
Nữ sinh viên gốc Việt tại West Point khoảng vài người mỗi khóa.
Khóa ra trường năm 2014, có một nữ sinh viên gốc Việt rất đặc biệt của West Point: cô Amanda Nguyễn. Cô không nộp đơn xin học nhưng West Point đã phải mời cô vào trường! Khi theo học bậc trung học tại trường J. Frank Dobi ở Houston, tiểu bang Texas, Amanda Nguyễn là Tổng thư Ký hội Latin, Phó Chủ Tịch hội Debate chuyên về tranh luận. Nhưng cô rất xuất sắc trong môn thể thao soft ball của trường.
Trong năm chót tại trường, cô được bầu là tuyển thủ giỏi nhất của tiểu bang Texas trong vị trí “second base”.Đừng hỏi tôi về vị trí này vì tôi mù tịt môn soft ball. Với thành tích này, nhiều trường Đại học đã mời cô về học và chơi cho đội bóng của trường. Cô còn treo giá ngọc, chưa quyết định về trường nào trong các trường Đại học ở Colorado, Louisiana hay Texas thì bà Michelle Depoto, huấn luyện viên của đội bóng soft ball của West Point, điện thoại thỉnh cô về West Point. Bà cho biết đã chú ý tới cô khi coi các trận đấu tại Houston nên bà đã xin trường J. Frank Dobi cho coi điểm học và thành tích lãnh đạo của cô.
Coi xong bà “thấy vừa ý quá”. Bà mời cô tới quan sát trường. Bất ngờ trước lời mời, cô bối rối. Cô không có ý gia nhập quân đội và cũng chẳng biết West Point là gì nên hỏi mẹ. Mẹ đùn cho cha là ông Nguyễn Ngọc Vinh. Cha “không biết nghĩ sao” nên đá trái banh qua cho ông nội. Ông nội hồi ở Việt Nam đã tốt nghiệp trường Quốc Gia Hành Chánh và năm 1962 là “đồng thủ khoa” khóa 3 Sĩ Quan tại trường Đồng Đế. Khi nghe thấy tên West Point, ông nội reo lên: “Cháu không nên bỏ lỡ cơ hội tốt này!”.
Tháng 1 năm 2010, cả gia tiểu tới thăm West Point. Bà Depoto tiếp rước rất trọng hậu và nói: “Xin ông bà đợi một chút, chúng tôi có một ngạc nhiên bất ngờ cho gia đình”. Điều ngạc nhiên đó là lá thư của trường chấp nhận cô Amanda Nguyễn nhập học với hai điều kiện: qua được cuộc khám sức khỏe và xin được thư giới thiệu của một dân biểu hay nghị sĩ. Họ thăm viếng trường trong ba ngày, quan sát sinh hoạt và nơi tập thể thao, tiếp xúc với các nhân viên điều khiển của trường. Chấm dứt cuộc thăm viếng, Amanda Nguyễn nói với cha mẹ: “Con không muốn thăm một trường nào khác vì trường này coi trọng kỷ luật nên con muốn chơi soft ball ở đây!”.
Ngày 28/6/2010, Amanda Nguyễn nhập học và đụng ngay chuyện huấn nhục trong 6 tuần. Cô tâm sự: “Thời gian đầu nhớ nhà không thể nào chịu nổi. Từ trước tới giờ em sống trong một đại gia đình, mỗi cuối tuần các cô các chú luôn tới nhà thăm ông bà nội, các em quấn quýt chung quanh, rồi đùng một cái không còn người thân nào bên cạnh”.
Phôn cũng không được dùng trong thời gian huấn nhục nên nỗi nhớ càng thăm thẳm. Ngoài nỗi nhớ nhà, quân trường không phải là chốn thích hợp với phụ nữ nên Amanda trải lòng: “Người ta nhìn em với những ánh mắt ái ngại rằng làm sao một cô gái nhỏ bé có thể chịu nổi những khó nhọc mà cả những thanh niên lực lưỡng cũng phải…ngán! Em chỉ cao 5’2”, nặng 110 pounds nhưng vẫn phải chạy bộ 14 miles với ba-lô nặng 30 pounds giống y như những chàng trai lực lưỡng cao hơn 6’.
Nhưng tất cả tùy thuộc vào tinh thần và sự quyết tâm. Thật ra chúng ta mạnh mẽ hơn mình nghĩ nhiều.
Có nhiều nam sinh viên không chịu nổi khóa huấn luyện và cũng có những phụ nữ rất xuất sắc. Sức mạnh đến từ một ý chí mạnh mẽ!”.
Tân Thiếu Úy Amanda Nguyễn
Khóa ra trường năm 2020, các tân sĩ quan gốc Việt có tất cả 7 người. Đó là các tân Thiếu úy Andy Vũ, Chris Đào, Travis Lee, Kenny Lê, Ty Đặng, Thomas Weatherford và Austin Nguyễn. Năm nay các khóa sinh ra trường trong một hoàn cảnh không giống những năm trước. Hơn một ngàn niên trưởng trong các khóa trước đây đã cùng ký tên gửi cho các em một tâm thư.
Tân Thiếu Úy Amanda Nguyễn được cha mẹ gắn lon sau lễ tốt nghiệp.
Một đoạn trong bức tâm thư này như sau:“Các bạn đang khởi đầu binh nghiệp của mình tại một thời điểm xáo trộn. Hơn 110 ngàn người dân Mỹ đã chết vì COVID-19, hơn 40 triệu người thất nghiệp và đất nước chúng ta đang bị thương tổn từ bất công chủng tộc, xã hội và con người. Hiện hữu trong đời sống thường nhật của quá nhiều người dân là sự tuyệt vọng, nỗi sợ hãi, lo lắng, sự phẫn nộ và bất lực. Đây là thời điểm khó khăn nhưng chúng tôi tin tưởng rằng, các bạn sẽ vượt qua thách đố này để làm tròn vai trò là những người lãnh đạo trong quân lực chúng ta…Hành trình huấn luyện West Point đã đưa các bạn đến giây phút này, khi mà các bạn đưa tay phải lên để tuyên thệ sẽ “bênh vực và bảo vệ Hiến Pháp Hoa Kỳ trước mọi kẻ thù trong cũng như ngoài nước”. Lời tuyên thệ này có giá trị vô thời hạn. Gánh nặng trách nhiệm sẽ đặt lên vai và ảnh hưởng trong suốt cuộc đời các bạn. Những lời thề long trọng, cam kết với đồng bào, mang ý nghĩa quan trọng và có sức nặng của đạo đức. Khi chúng bị phá vỡ, tổ quốc bị tổn thất!”.
Cầu chúc tất cả các tân thiếu úy West Point, nhất là các con em gốc Việt, chân cứng đá mềm. Chúc là chúc vậy thôi. Có cần thiết không? Khi những đôi chân đã bước ra từ cổng trường West Point!
“Đừng cho cảnh sát một lý do để kéo bạn qua lề. Đó là một đất nước xa lạ, bạn biết đấy,” Carson Redd nói với anh trai mình, Tanner.
Tanner cười và trả lời: “Em không ở đây lâu, còn tôi ở đây đã lâu rồi.”
“Ừ, anh đã từng nói thế rồi. Cậu đang gặp ai ở dưới đó thế?”
“Những người làm việc ở kho của tôi. Tôi đã nói với họ rằng chúng ta có thể đến bãi biển trong ba giờ nữa.”
“Phoenix tới Rocky Point trong ba giờ nữa? Không đời nào.”
“Nhìn tôi.”
“Đừng làm điều gì ngu ngốc mà bạn không thể nói ra được.”
“Tôi khá giỏi nói chuyện. Bằng tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha.”
**********************************
Carson đã từng liều lĩnh gần như anh trai mình. Đó là trước khi anh kết hôn và có đứa con đầu lòng. Giai đoạn liều lĩnh của Carson bao gồm một loạt trò đùa phức tạp. Anh ta đã từng mời Tanner tham gia một chuyến nhảy dù và sau đó nhờ người bạn phi công của anh ta giả vờ hạ cánh xuống sa mạc. Anh thuyết phục anh trai rằng họ phải đối mặt với một chuyến đi bộ nguy hiểm đến tính mạng đến nơi an toàn, hóa ra chỉ cần đi bộ vài dặm là đến được một chiếc xe jeep đang chờ sẵn.
Thế là trả được mối thù vì hổi trước trong khi Carson vắng nhà vào cuối tuần, Tanner đã cho một gia đình 8 người thuê căn nhà của anh. Đến khi Carson quay về, thì thấy cả gia đình xa lạ đang chen chúc bên trong và họ dự kiến sẽ ở lại thêm ba ngày nữa. Tanner đã luôn mong đợi có dịp chơi lại một vố, bất kể Carson tuyên bố đã ân hận đến mức nào.
***********************************
Vào buổi chiều nọ trong chuyến đi thám hiểm mới, dự định tới Rocky Point ở Mexico, Tanner đã chất lên Scion xB Wagon của mình những vật tư và bốn đồng nghiệp của anh ấy từ Amazon Warehouse. Zach cưỡi ngựa lên phía trước. Trevor, Emily và Alexa ngồi ở phía sau. Họ dự kiến sẽ gặp 10 người khác vào buổi tối hôm đó để đi phiêu lưu qua đêm trên bãi biển.
Tanner đã có khoảng thời gian vui vẻ qua Sa mạc Sonoran. Giao thông thông thoáng và đường sá thông thoáng. Sau khi vượt qua trạm kiểm soát Biên giới Hoa Kỳ, Tanner phóng nhanh qua thị trấn biên giới Sonoyta.
Tăng tốc qua một thị trấn biên giới
“Có lẽ bạn nên giảm tốc độ vì chúng ta đang ở Mexico,” Zach nói, nhìn qua đồng hồ tốc độ.
“Đừng căng thẳng,” Tanner trả lời. “Sẽ không có ai làm phiền chúng ta đâu.”
Khi những lời đó vừa thốt ra khỏi miệng Tanner, ánh đèn hiệu lệnh dừng lại nhấp nháy trên đầu một chiếc ô tô nhỏ màu đen phía sau họ. Zach nhận thấy đèn ở gương bên phải và nói với Tanner rằng anh nên tấp vào lề.
Tanner trả lời: “Tôi có thể chạy nhanh hơn họ.”
“KHÔNG! Kéo qua!” mọi người ngồi ở hàng ghế sau đều khóc.
Tanner chế giễu và nói, “Được rồi, thư giãn đi.” Anh ta giảm tốc độ rồi dừng lại bên đường cao tốc và nói: “Hãy xem tôi xử lý việc này nhé”.
Hai người đàn ông mặc đồng phục đen bước ra từ chiếc ô tô màu đen nhấp nháy. Tanner quan sát từ gương chiếu hậu và thuật lại chuyển động của họ khi họ đến gần. Anh ấy gọi một trong hai người là “anh chàng béo” và người còn lại là “anh chàng gầy”.
“Chào!” Tanner gọi khi gã béo lê bước đến cửa sổ.
Anh chàng béo giải thích rằng Tanner đang chạy quá tốc độ. Tanner trả lời bằng tiếng Tây Ban Nha thô lỗ rằng anh ấy bối rối, xin lỗi và sẽ lái xe chậm hơn. Anh chàng béo nói Tanner và những người bạn của anh ta cần phải ra khỏi xe để khám xét.
Một nụ cười hiện lên trên khuôn mặt Tanner. Đây hẳn là một trong những trò đùa của anh trai anh. Tại sao cảnh sát thực sự lại muốn khám xét một chiếc ô tô chỉ vì chạy quá tốc độ? Tanner bước ra ngoài và khuyến khích những hành khách còn lại của mình làm điều tương tự.
Anh béo và anh gầy bắt tay vào kiểm tra. Chỉ mất vài giây, gã béo đã thò tay xuống dưới ghế lái và lôi ra hộp đạn 9mm đã vơi một nửa.
Tanner mỉm cười và giơ tay lên. “Tôi thích đến trường bắn. Tôi quên mất là tôi đã để nó dưới gầm ghế.”
“Còn súng của anh?” Anh chàng béo hỏi.
“Nó ở nhà.”
Anh chàng béo và anh chàng gầy nhìn nhau rất nghiêm túc, lắc đầu và tiếp tục tìm kiếm.
Tanner lại cười và nói, “Tôi biết anh trai tôi đã xúi giục bạn làm việc này, nhưng chúng ta phải đến Rocky Point. Hay là tôi đưa cho bạn một số tiền và chúng ta dừng việc này lại ngay bây giờ nhé?”
Tên mập lắc đầu, cau mày.
“Vui lòng ư. Tôi sẽ đưa thêm cho bạn 200 đô la.”
“Việc này nghiêm trọng hơn nhiều so với 200 đô la,” gã béo nói. “Khi tìm thấy vũ khí, chúng tôi phải đưa các bạn về đồn.”
“Bạn chỉ tìm thấy những viên đạn. Họ không có ích gì nếu không có súng.”
“Chúng ta phải đến nhà trạm Cảnh Sát.”
Tanner nhăn nhó và nói bằng tiếng Anh, “Tôi sẽ giết thằng Carson vì kiểu chới xỏ này.”
Chiếc xe cảnh sát màu đen quá nhỏ để chở hết mọi người nên Tanner, Zach và Trevor chen chúc ở trong đó cùng với anh chàng béo trong khi anh chàng gầy gò chở các cô gái trong xe của Tanner đến một tòa nhà gạch một tầng có sơn chữ “Policia” trên đó. Mặt của nó. Tanner và những người khác được dẫn vào một căn phòng ngột ngạt chứa đầy bàn và tủ hồ sơ. Họ được lệnh ghi lại số điện thoại liên lạc khẩn cấp và móc hết đồ trong túi ra. Một vài người mới xuất hiện, một số mặc đồng phục và một số mặc thường phục. Họ đều rất quan tâm đến người Mỹ.
Đồn cảnh sát chật chội và đầy đồ đạc.
“Cái này là cái gì? Lẽ ra anh phải bắt chúng tôi phải không?” Tanner hỏi, vẫn tiếp tục đùa giỡn với anh trai mình. “Nếu đó là một phần của trò chơi, tôi cần phải gọi điện.”
Một trong những người mới mặc đồng phục trả lời rằng đó không phải là một trò chơi.
“Nào, nơi này thậm chí còn không giống một đồn cảnh sát thực sự,” Tanner cười nói.
Khi Tanner tranh luận qua lại bằng tiếng Tây Ban Nha, bạn bè của anh ngày càng lo lắng. Emily cuối cùng cũng hoảng sợ và kêu lên, “Chuyện gì đang xảy ra vậy? Chúng ta không thể bị bắt được!”
“Đây chỉ là một trò đùa của anh trai tôi,” Tanner trấn an. “Nó sẽ kết thúc trong một giây nữa.” Đúng lúc đó điện thoại của anh reo lên. Đó là Carson. “Thấy chưa, chính là anh ấy đấy.”
“Chuyện gì đang xảy ra vậy?” Carson hỏi với giọng hoảng sợ. “Tôi vừa nhận được cuộc gọi từ một luật sư Mexico. Anh ấy nói anh đang gặp rắc rối lớn.”
“Thật là nực cười cho anh. Tôi biết anh đã sắp đặt tất cả chuyện này. Nơi này thậm chí còn không giống đồn cảnh sát. Hiện tại cậu đang ở ngoài à?”
“Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra.”
“Chắc chắn rồi,” Tanner trả lời một cách mỉa mai. “Hãy bảo họ dừng lại ngay. Chúng ta đã trễ giờ đến Rocky Point rồi.”
Tanner chưa kịp nói gì nữa thì một viên cảnh sát đã giật lấy điện thoại của anh. Có người nhắc lại rằng anh ta đang gặp rắc rối nghiêm trọng vì buôn lậu vũ khí trong nước.
“Chúng chỉ là những viên đạn. Và tôi cá là anh trai tôi đã đặt chúng dưới gầm ghế,” Tanner trả lời. “Anh ta ở đâu?”
Nhân viên cảnh sát cho biết họ không biết Tanner đang nói đến ai. Họ tịch thu toàn bộ tài sản rồi đẩy Tanner, Zach và Trevor xuống một hành lang tối tăm. Nó dẫn đến một phòng giam duy nhất có sàn bê tông, nhà vệ sinh và khung giường bằng kim loại được phủ một lớp xốp mỏng.
Phòng giam không mong muốn
“Tôi sẽ không vào đó!” Tanner phản đối.
Anh và hai người bạn bị đẩy về phía trước. Các thanh kim loại đóng lại và khóa lại.
“Chào! Chuyện này đã đi quá xa rồi! Nói với Carson chuyện này không còn buồn cười nữa!”
Ở lối vào hành lang, người ta đang thảo luận xem phải làm gì với Emily và Alexa. Các sĩ quan cảnh sát quyết định không thể đưa họ vào phòng giam cùng với ba kẻ này, vì vậy họ chỉ còng tay vào ghế trong phòng xử lý.
“Nếu chuyện này là thật thì sao?” Trevor hỏi. “Điều gì sẽ xảy ra nếu họ thực sự nghĩ rằng chúng ta đã cố buôn lậu thứ gì đó? Chúng ta có nên gọi luật sư hay đại sứ quán không nhỉ?”
Tanner cười khúc khích. “Điều này trông quá nghiệp dư. Tôi chắc chắn có ai đó ở đây đã bắt đầu dịch vụ bắt cóc giả và anh trai tôi đã phát hiện ra việc đó. Những vụ bắt giữ thực sự không xảy ra như thế này.”
“Không phải ở Mỹ Nhưng đây là Mexico.”
“Nó không khác lắm đâu.”
“Chúng ta làm gì bây giờ?” Zach thắc mắc.
“Đợi cho đến khi nó kết thúc. Carson có lẽ đã trả tiền cho họ để giữ chúng tôi trong một khoảng thời gian nhất định. Không thể hơn một giờ.” Tanner hét xuống hành lang với Emily và Alexa. “Mọi chuyện đều sẽ ổn thôi! Chúng ta chỉ cần đợi cho đến khi nó kết thúc! Không lâu nữa!”
Tanner ngồi xuống sàn xi măng và nói, “Chúng ta sẽ có một câu chuyện tuyệt vời khi cuối cùng chúng ta cũng đến được Rocky Point. Chúng ta đừng nói bất cứ điều gì về cách anh trai tôi sắp đặt nó.”
Tanner đã cố gắng hết sức để giữ tinh thần cao độ. Anh ấy cười lớn về những trò đùa thực tế khác của Carson. Anh ấy hát mọi bài hát hiện ra trong đầu. Anh ấy duy trì năng lượng trong giờ đầu tiên. Anh ấy bị tụt lại trong lần thứ hai.
Emily và Alexa hét lên rằng họ có thể nhìn thấy qua cửa sổ rằng bên ngoài trời đang tối dần. Cả hai đều bắt đầu nức nở.
“Tôi không thể qua đêm nằm trên xi măng được,” Zach nói thêm.
Tanner không có lời an ủi nào nhưng anh hứa với họ rằng anh sẽ làm cho anh trai mình sẽ bị trả đũa cách đau khổ khi mọi chuyện kết thúc.
Sự kiệt sức cuối cùng đã ập đến với các tù nhân và họ ngủ trong tư thế không thoải mái. Các cô gái là những người thức dậy đầu tiên vào sáng hôm sau và họ la hét dọc hành lang về những người mới đến văn phòng. Tanner hét lên bằng tiếng Tây Ban Nha, yêu cầu được biết chuyện gì đang xảy ra. Không ai trả lời. Điểm nổi bật trong ngày bao gồm việc giao đậu và bánh ngô nhạt nhẽo và các cô gái không bị còng để sử dụng phòng tắm.
Sự hài hước vui vẻ của Tanner chuyển sang giận dữ. Anh ta đá, đập vào song sắt của phòng giam và la hét về anh trai mình. Thật không công bằng khi Carson khiến người khác đau khổ. Tanner ngã xuống sàn và xin lỗi những người khác rằng anh ấy đã không nói với Carson qua điện thoại rằng anh ấy đang đi du lịch cùng một nhóm.
Những cuộc trò chuyện trở nên im lặng. Những bài hát sôi động ngày hôm trước đã được thay thế bằng những tiếng vo ve, rên rỉ ảm đạm. Một đêm nữa trôi qua. Tanner tỉnh dậy với tư thế tựa đầu vào nền bê tông cứng. Anh thì thầm một cách mê sảng về việc họ sẽ làm gì khi ra ngoài.
*************************************
Chiều hôm đó, một gương mặt mới xuất hiện trong tòa nhà. Anh ta cạo râu sạch sẽ, mặc một chiếc áo sơ mi và cà vạt không có nếp nhăn. Anh ta bước đến phòng giam chật chội và hỏi Tanner bằng tiếng Anh. “Tôi là Sergio, một người bạn mới của anh trai bạn.”
Luật sư thân thiện
Tanner nhảy cẫng lên vì phấn khích. Anh cười lớn trước khi trở nên tức giận. “Chuyện này đã đi quá xa rồi!”
“Tôi đã sắp xếp việc trả tự do cho anh. Bạn chỉ phải ký một số văn bản pháp luật ”. Sergio mở túi xách và đưa giấy tờ qua song sắt phòng giam.
“Cái gì đây?” Tanner vừa hỏi vừa lật trang. “Tất cả đều bằng tiếng Tây Ban Nha.”
“Nó nói rằng bạn thừa nhận hành vi sai trái của mình. Bạn không phải là mối đe dọa cho đất nước. Bạn sẽ không làm điều đó một lần nữa. Hãy ký vào trang cuối cùng và bạn có thể đi.”
“Tiếng Tây Ban Nha của tôi không đủ tốt để hiểu tất cả những điều này.”
“Bạn có thể tin tưởng vào tôi.”
“Và sau đó chúng ta có thể đi?”
“Ừ, và sau đó cậu có thể đi.
“Tôi đang ký nó bằng tiếng Tây Ban Nha,” Tanner nói khi ký “Tanner Rojo” trên dòng chữ ký. Anh ấy đưa bản sao cho Zach và Trevor và họ cũng ký tên. Sau đó anh ấy hét lên để Emily và Alexa ký.
Sergio cất tất cả giấy tờ vào túi và gọi cảnh sát đến giải cứu bạn bè anh. Một ông già với túi đầy chìa khóa bước tới phòng giam và mở song sắt. Tanner bước vào hành lang và duỗi lưng và đôi chân đau nhức của mình. Anh và những người khác đi theo Sergio đến nơi các cô gái đang được giải thoát khỏi ghế.
“Hãy ra khỏi đây. Và anh trai tôi đâu?” Tanner yêu cầu.
“Chậm lại. Trước tiên bạn phải gặp Công tố viên Liên bang. Sau đó bạn có thể đi.
“Tôi không muốn chơi trò chơi này nữa. Bây giờ tôi đang đi ra ngoài.”
Sergio lo lắng nhìn về phía Zach và Trevor với hy vọng làm Tanner bình tĩnh lại. Zach nói: “Hãy làm theo những gì anh ấy nói. Hãy ngậm miệng lại cho đến khi mọi chuyện thực sự kết thúc.”
Sergio mỉm cười biết ơn và dẫn cả nhóm đi dọc theo một hành lang chưa từng được nhìn thấy trước đó và vào một căn phòng có máy lạnh, được chiếu sáng rực rỡ. Ông ra hiệu cho khách hàng ngồi vào những chiếc ghế thoải mái xếp dọc theo bàn. Sau đó anh ta đưa ra những chai nước lạnh. Một phút sau, một người đàn ông trung niên xuất hiện. Anh ta đeo một chiếc đồng hồ vàng và nhếch mép khinh bỉ.
Sergio giới thiệu người đàn ông này là Công tố viên Liên bang. Khi công tố viên nói nhanh bằng tiếng Tây Ban Nha, Sergio đã dịch sang tiếng Anh. Tanner nhếch mép cười giống như công tố viên khi nghe bài giảng về mức độ nghiêm trọng của tội ác của họ cũng như lý lịch và gia đình của họ đã được điều tra như thế nào. Sau đó công tố viên đột ngột biến mất.
“Được rồi, bạn có thể tự do đi,” Sergio mỉm cười nói. Anh ta dẫn cả nhóm quay trở lại đồn cảnh sát, nơi tài sản của họ, ngoại trừ điện thoại, được trả lại. Họ bước ra ngoài vào ban đêm.
“Giờ thì sao? Xe hơi của tôi ở đâu?” Tanner hỏi Sergio.
“Tôi khuyên bạn đừng lo lắng về điều đó bây giờ. Tìm một khách sạn và bắt taxi tới biên giới vào buổi sáng. Gia đình cậu sẽ đợi cậu.”
Tanner tiếp tục tranh cãi về chiếc xe của anh ta, nhưng những người khác bằng lòng đi theo Sergio đến một khách sạn. Họ thuê một phòng đơn và nói lời tạm biệt với Sergio mà không một lời cảm ơn. Khi vào phòng khách sạn, họ tắm rất lâu trước khi ngã xuống sàn trải thảm hoặc trên một trong những chiếc giường. Đầu họ nhẹ nhõm rời khỏi âm thanh và mùi hôi của đồn cảnh sát.
Cả nhóm bắt một chiếc taxi minivan đến biên giới vào sáng hôm sau mà không thèm ăn sáng. Họ đi qua trạm kiểm soát và quỳ xuống khi nhận ra mình đã quay trở lại đất Mỹ. Tanner mong đợi sẽ nhìn thấy khuôn mặt tươi cười của anh trai mình và chiếc xB Wagon của anh ấy đang đậu ở đâu đó. Anh ta giơ nắm đấm lên, dự đoán sẽ đấm Carson, có thể vào mũi nhưng ít nhất là vào bụng.
Người thân của Zach, Tevor, Emily và Alexa đang đợi ngoài trạm kiểm soát và lao tới ôm lấy người thân của họ. Tanner nhanh chóng nhận ra anh trai mình. Anh không cười, đôi mắt mệt mỏi và đỏ ngầu. Tanner hỏi, “Làm thế nào gia đình của mọi người đến được đây? Chuyện gì đang xảy ra thế?”
“2 ngày rưỡi vừa qua thật điên rồ. Khi tôi nhận được cuộc gọi từ luật sư, ông ấy nói chúng tôi chỉ có 48 giờ để đưa anh ra ngoài trước khi anh bị đưa đến nhà tù liên bang. Nếu điều đó xảy ra, bạn sẽ phải ở trong đó tối thiểu 3 tháng.”
“Bạn đang nói về cái gì vậy? Bạn đã thiết lập tất cả điều này. Nếu cảnh sát giả ngăn chúng tôi lại.”
Carson lắc đầu. “Thậm chí còn không gần gũi. Tôi đã huy động được 60.000 đô la để trả phí pháp lý và hối lộ công tố viên. Tôi đã tìm thấy tất cả gia đình bạn bè của bạn từ bức ảnh cuối cùng bạn đăng trên Instagram.”
Tanner nhìn quanh những người bạn đang khóc lóc của mình, vẫn đang ôm gia đình họ. “Anh đang nói với tôi đó là sự thật à? Cảnh sát thực sự? Súng thật à?”
“Thời gian ở tù thực sự.”
“Tôi liên tục nói với họ rằng đó chỉ là một trò đùa. Tôi đã bảo họ đừng hoảng sợ.” Đôi chân của Tanner trở nên yếu ớt khi anh nhận ra sự thật. Ngực anh phập phồng vì sốc giả. Giọng anh chuyển sang thì thầm. “Tôi không biết mình sẽ xử lý thế nào nếu tôi nghĩ đó là sự thật.”
Carson liếc nhìn những cuộc đoàn tụ khác đang diễn ra. “Thật tuyệt vời khi mọi người cùng tụ lại giúp đỡ nhau.”. Trong khi đó Tanner tiến lại cảm ơn luật sư
“Tôi làm phí thời giơ của ông nhiều, nợ ông khoản này.”
“Bạn nợ chính xác 60.000 USD. Bạn cần phải trả lại số tiền này cho tất cả những người đã bỏ tiền ra để cứu. Hãy nói cho tôi biết bạn đã học được điều gì đó từ tất cả chuyện này đi.”
Tanner trịnh trọng gật đầu. Sau đó, anh trở nên trầm ngâm… trước khi nụ cười vô tư thường ngày nở rộng trên khuôn mặt. Anh ta lại oang oang, “Nhưng bạn biết đấy, toàn bộ việc bắt giữ chỉ là một trò đùa tuyệt vời. Chúng ta có thể sắp xếp tất cả. Hãy nghĩ đến một người thực sự đáng phải chịu đau khổ là anh Tanner của tôi.”….
Vào ngày đầu tiên của năm học cuối cấp, Ivan Nebeker bước vào lớp học cuối cùng của mình. Anh chọn một chiếc bàn ở cuối phòng, cạnh một số người bạn. Lịch trình của anh ấy chỉ gọi đơn giản là lớp học “Tiếng Anh”. Nhìn xung quanh, anh có thể thấy nó chứa đầy những đứa trẻ đang cố gắng vượt qua bất cứ thứ gì.
Cô giáo, bà Reed, cũng để bàn của mình ở cuối phòng, nhưng ở góc đối diện với bàn Ivan đã chọn. Anh chưa bao giờ học trong lớp của cô, nhưng trường trung học Spaulding đủ nhỏ để anh biết danh tiếng của mọi giáo viên. Bà Reed được cho là một người dễ bị thuyết phục. Cô ấy không bao giờ la hét. Tất cả những gì cô quan tâm là sách. Bên trong lớp học của cô đúng như những gì Ivan mong đợi. Hình ảnh của các tác giả được treo trên mọi bức tường. Sách bìa mềm tràn ngập tủ sách và xếp thành từng tòa tháp trên sàn nhà.
Lớp học tiếng Anh trung học
“Tôi là Carly Reed,” cô nói sau khi chuông reo. “Có lẽ em nên gọi tôi là bà Reed.”
Ivan nhanh chóng quyết định rằng không có gì đáng sợ ở cô ấy cả. Cô ấy thấp và đeo kính đọc sách trên mái tóc bồng bềnh. Cô ấy mỉm cười khi nói bằng một giọng nghe như đang đọc thơ.
“Tôi xin dạy Thể dục nhưng hiệu trưởng bảo tôi với cái tên như cô Reed, tôi phải dạy tiếng Anh.” Cô cười khúc khích trước câu nói đùa của mình nhưng không có học sinh nào trong lớp đáp lại.
“Tôi đã làm công việc này suốt 25 năm nên tôi đã nhìn thấy mọi thứ. Tất cả những gì tôi yêu cầu là sự chú ý của bạn. Hãy cất điện thoại của bạn đi. Bạn có thể ngồi bất cứ nơi nào bạn thích. Bạn sẽ học cách thể hiện bản thân, cảm nhận và hiểu các quan điểm khác. Đây sẽ là những điều quan trọng nhất trong cuộc đời bạn.”
Sau đó, cô Reed yêu cầu hai học sinh ngồi phía trước phát bản sao của một cuốn sách từ một trong các chồng sách của cô. Ivan đã sớm cầm trên tay một cuốn sách có tựa đề “The Cure”.
Bà Reed tiếp tục: “Đây là một cuốn sách tương đối mới. “Đó là một câu chuyện về tương lai. Chúng ta sẽ cùng nhau đọc to. Đừng lo lắng nếu bạn không phải là người đọc nhanh hoặc bạn không biết một số từ. Chúng tôi không ở đây để phán xét bạn. Chúng tôi ở đây để cùng làm việc với nhau.”
Cả lớp lật trang đầu tiên. Mỗi học sinh lần lượt đọc một đoạn văn, cô Reed dừng lại để hỏi tên các em và sau đó khen ngợi điều gì đó mà bà thích trong bài đọc của các em. Việc này tiếp tục cho đến khi gần hết giờ học, còn năm phút cuối.
“Hãy dừng ở đó để tôi kể cho bạn nghe về nhiệm vụ lớn đầu tiên của bạn. Tôi muốn bạn viết một bài luận 500 từ về tương lai. Hãy cho tôi biết thế giới sẽ như thế nào sau 20 năm nữa. Việc này sẽ đáo hạn vào ngày 15 tháng 9 . Bạn sẽ có hơn hai tuần để viết nó. Nhiều thời gian. Tôi muốn bạn yêu ngôn ngữ như tôi. Tôi muốn nhìn thấy những điều tốt đẹp ở bạn.”
Các bản sao của cuốn “The Cure” được xếp lại thành chồng và lớp học kết thúc khi chuông reo. Ivan và những người bạn lê bước ra khỏi cửa, háo hức muốn về nhà.
“Tại sao chúng ta phải học tiếng Anh? Lãng phí thời gian”, một người trong số họ nói.
“Ít nhất chúng ta có thể làm bất cứ điều gì chúng ta muốn ở đó. Giáo viên không biết chuyện gì đang xảy ra trong thế giới thực.”
Ivan đã trở lại bàn làm việc đó vào ngày hôm sau. Cả lớp tiếp tục đọc “The Cure” từ nơi họ đã dừng lại. Cô Reed đã ghi nhớ tên của mọi người và cô dừng đọc để hỏi học sinh tại sao các từ trong sách lại được sắp xếp theo một cách nhất định.
“Nghe có tự nhiên không? Bạn sẽ viết chúng như thế nào?”
Ivan giữ im lặng, nhưng một số học sinh khác đề nghị thay đổi lời thoại giữa các nhân vật. Bà Reed khuyến khích họ đặt câu hỏi liệu giọng nói đó có chân thực hay không.
“Đôi khi có sự khác biệt giữa cách bạn nói điều gì đó và cách bạn viết nó. Giọng nói của bạn có thể thay đổi, miễn là nó là của bạn. Nhưng đừng bao giờ cố gắng ăn trộm văn của người khác.”
Mỗi tiết học mới đều theo cùng một khuôn mẫu. Họ bắt đầu bằng việc đọc từ cuốn sách và bà Reed ngày càng dành nhiều thời gian hơn để đặt câu hỏi và phân tích từ ngữ. Cô ấy cũng nói rất nhiều về bài luận sắp tới. Một tuần trước khi đến hạn, cô tạm dừng việc đọc sách của các em và yêu cầu cả lớp lập danh sách những điều sẽ khác trong tương lai.
Khi thu thập các danh sách, cô ấy nói: “Hãy sử dụng những ý tưởng này khi bạn viết bài luận của mình. Tôi muốn nghe giọng nói và ý tưởng của bạn. Đừng mượn hay ăn trộm của người khác.”
Ivan lập danh sách tương lai của mình và nộp nó. Anh ấy bao gồm ô tô điện và màn hình video ba chiều. Anh ấy thấy ổn khi làm những bài tập nhỏ như vậy trong giờ học. Bài tập về nhà ngoài giờ học lại là một câu chuyện khác. Anh ấy không có động lực làm bài tập về nhà. Anh ấy không quan tâm đến điểm số và không quan tâm đến bất kỳ môn học nào mà giáo viên của anh ấy cho là rất quan trọng.
Khi bà Reed lần đầu tiên đề cập đến bài luận dài 500 từ, lời nói của bà đã xoáy vào đầu Ivan mà không hề chậm lại. Tuy nhiên, cô càng nói về chuyện đó, những mảnh vụn bắt đầu dính chặt vào trí nhớ của anh, như thể những từ ngữ đó đã ném ra những cái móc nhỏ xíu trên đường đi xuyên qua đầu anh. Anh bắt đầu tin rằng bà Reed thực sự hào hứng khi đọc những điều anh sắp nói.
Dần dần, Ivan chuyển từ hoàn toàn thờ ơ sang có thể muốn thử. Anh không thể giải thích tại sao. Trước đây anh chưa bao giờ quan tâm đến bài tập về nhà và bài tập này nghe có vẻ không khác mấy so với những bài anh đã từng thổi bay trong quá khứ. Vì lý do gì đó, vào tối thứ Năm trước khi đến hạn nộp bài luận, anh ấy ngồi trước máy tính của mẹ và định viết gì đó.
Ivan dành mười phút gõ đi gõ lại trước khi kết thúc bằng câu sau: “Tương lai hai mươi năm sau sẽ khác. Chúng ta sẽ lái xe ô tô điện. Rất nhiều người sẽ ăn côn trùng để làm thức ăn.”
Anh nhìn chằm chằm vào màn hình máy tính và cảm thấy mệt mỏi. Anh đếm từng chữ Hai mươi ba. Để đạt được 500 sẽ mất cả đêm. Anh ấy có còn gì để nói nữa không? Liệu tất cả những suy nghĩ của anh ấy về tương lai có cộng lại thành 500 từ nếu anh ấy đủ sức lôi chúng ra khỏi đầu?
Thiếu niên đang cố gắng viết một bài luận
Ivan nhận ra mình đã tận dung hết ý tứ rồi. Anh ấy đã viết nhiều nhất có thể và có thể viết được 23 từ hoặc không viết được gì hết. Có lẽ nếu anh ta lật lại 23 từ, bà Reed sẽ thấy chúng đại diện cho một thành tựu lớn đối với anh ta. Hoặc có thể cô sẽ cười và nghĩ rằng tốt hơn hết là anh nên im lặng.
Trong lúc đấu tranh nội tâm, Ivan nhớ ra điều gì đó có thể cứu anh khỏi bối rối. Có lẽ mẹ anh ấy có vẻ hào hứng với trí tuệ nhân tạo. Cô ấy đã nói điều gì đó về ChatGPT và cách nó có thể viết tốt hơn con người ngay lập tức. Ivan quên mất 23 từ của chính mình và tìm kiếm ChatGPT trên internet. Anh đã tìm đúng trang web, tạo một tài khoản và gõ hướng dẫn để ChatGPT viết một bài luận 500 từ về tương lai. Những từ đó ngay lập tức xuất hiện.
Ivan mỉm cười đọc hai câu đầu tiên: “Thế giới là một nơi không ngừng phát triển, không ngừng được định hình bởi những tiến bộ công nghệ, sự thay đổi văn hóa và những thay đổi xã hội. Khi chúng ta nhìn vào quả cầu pha lê của tương lai, hình dung về cuộc sống trong 20 năm tới, một tấm thảm đầy những khả năng sẽ mở ra trước mắt chúng ta.”
Những lời đó nghe thật tuyệt vời. Bà Reed sẽ đánh giá cao họ. Điều này sẽ tốt hơn nhiều so với 23 từ hoặc không có gì cả. Ivan sao chép và dán văn bản, thêm tên của mình lên trên rồi in ra. Anh ấy đưa nó cho bà Reed vào thứ Sáu khi bà thu bài luận vào cuối giờ học. Đó là bài tập về nhà đầu tiên ở trường trung học mà anh ấy từng làm.
Lớp học ngày thứ Hai thì khác. Thay vì phát bản sao cuốn “The Cure”, bà Reed đứng lên trình bày tất cả các bài luận. “Thật là một điều thú vị vào cuối tuần này khi tôi được biết bạn qua lời nói của bạn. Không phải tất cả các bạn đều đạt được con số 500, nhưng đó là một khởi đầu tuyệt vời.”
Cô đọc các đoạn trích, nói về những điều cô thích và sau đó đề cập đến những cải tiến có thể thực hiện được. Ivan đợi cô đọc bài luận của anh, nhưng cô không bao giờ làm vậy. Anh ấy là người duy nhất bị bỏ rơi.
Khi chuông reo, bà Reed nói với giọng thờ ơ: “Ivan, tôi có thể nói chuyện với bạn sau giờ học một phút được không?”
Cô bước đến bàn làm việc ở cuối phòng và ngồi xuống. Ivan đi theo. Anh nhận ra bài luận của mình nằm trên chồng giấy ở một góc bàn. Bà Reed mỉm cười nhặt bài luận lên.
“Tôi muốn nói riêng với bạn rằng đây là công việc đáng chú ý. Nó mang lại nhiều thông tin, thú vị khi đọc và nó cho thấy sự trưởng thành thực sự.”
Ivan đứng trước bàn làm việc của cô và cười toe toét. Anh cố gắng không tỏ ra quá tự hào về bản thân. Anh không muốn cô nhận ra anh đã hoàn toàn lừa dối cô. Chỉ cần cô ấy vui, anh ấy có thể tiếp tục cho cô ấy đọc các bài luận ChatGPT trong thời gian còn lại của năm.
Bà Reed tiếp tục: “Tôi thích sự so sánh đẹp đẽ của bạn. “Và những trích dẫn và trích dẫn của bạn là những thứ chúng tôi sẽ không dạy trong lớp cho đến học kỳ sau.”
Ivan gật đầu và chìm đắm trong lời khen ngợi.
“Rõ ràng là bạn có một tài năng văn chương. Vì việc viết lách đến với bạn rất tự nhiên nên tôi muốn thay đổi lịch trình của bạn và mời bạn tham gia lớp học cấp tốc của chúng tôi.”
Ivan ngừng gật đầu.
“Ở lớp khác, bạn sẽ viết suốt. Nhiều câu chuyện và bài tiểu luận mỗi tuần. Đôi khi chúng tôi dành cả tiết học để viết và sau đó bạn nộp lại những gì bạn đã soạn. Nghe có vẻ vui phải không?”
Nụ cười của Ivan biến mất. Miệng anh há hốc vì sợ hãi. Anh ấy thì thầm, “Tôi không biết liệu mình đã sẵn sàng cho những việc như thế chưa.”
“Tôi có thể thấy bạn là một nhà báo hoặc một tiểu thuyết gia. Có thể là một luật sư nơi bạn viết những ý kiến dài. Rất nhiều sự nghiệp phụ thuộc vào khả năng viết tốt.”
“Tôi không nghĩ lớp học kia là dành cho tôi.”
“Là một giáo viên, tôi sẽ cảm thấy không ổn nếu không cho các bạn thêm cơ hội để phát triển. Tôi không thể sống với chính mình nếu tôi không khuyến khích tài năng của bạn.
“Tôi thích lớp học này. Tôi sẽ ở đây.”
“Có lẽ tôi hơi ích kỷ nhưng tôi muốn nghe nhiều hơn từ bạn. Nếu bạn học lớp khác, hầu như ngày nào tôi cũng có thể đọc được thứ gì đó của bạn.”
Ivan bồn chồn di chuyển. Mặt anh ta đanh lại như sắp nhận một cú đấm. Không có cách nào anh ấy có thể đồng ý di chuyển. Đó là tất cả một sai lầm. Làm sao bà Reed có thể không hiểu chuyện gì đã xảy ra? Có phải cô ấy không biết gì đến mức thực sự tin rằng anh ấy là một nhà văn vĩ đại?
Khi toàn thân Ivan co rúm lại trước những đau khổ trong tương lai mà bà Reed đã lên kế hoạch cho anh, bà tiếp tục đưa ra những ý tưởng từ bài luận của anh mà anh có thể khám phá trong lớp nâng cao. Cô muốn nghe những suy nghĩ sâu sắc của anh về công nghệ.
Ivan không thể chịu đựng được nữa. Anh ấy buột miệng, “Tôi không viết nó, được chứ? Tôi đã sử dụng ChatGPT. Tôi đã gõ nội dung bài luận và nó đã tạo nên toàn bộ nội dung.”
Bà Reed đánh rơi bài luận và ngước nhìn anh với ánh mắt thất vọng. Ivan nghĩ cô ấy có thể khóc. Đó là vẻ mặt anh từng thấy trên khuôn mặt của những nạn nhân bị bọn hành hạ trêu chọc. “Đó không phải là lời nói của anh à?” cô ấy nói nhỏ. “Nhưng anh làm tôi nghĩ đó là lời nói của anh.”
Ivan thở dài thảm hại. Chỉ vài phút trước đó, anh đã đắm chìm trong lời khen ngợi của cô. Cô nghĩ anh thông minh và muốn nghe nhiều hơn từ anh. Bây giờ cô nghĩ anh là một kẻ nói dối vô dụng.
“Tôi không quen làm bài tập về nhà,” Ivan lẩm bẩm. “Đó là bài tập về nhà đầu tiên tôi nộp. Tôi cần sự giúp đỡ.”
Ivan mong đợi bà Reed sẽ phản ứng giận dữ và đe dọa sẽ đánh anh hoặc gọi cho mẹ anh. Anh đã từng nghe những lời đe dọa đó trước đây và sẵn sàng phớt lờ chúng. Nhưng thay vì đe dọa, bà Reed lại im lặng và buồn bã. Khi những giây phút im lặng trôi qua, Ivan ước gì cô sẽ nổi giận. Điều duy nhất cuối cùng cô ấy nói là, “Tôi thực sự nghĩ bạn có điều gì đó muốn nói.”
“Tôi làm. Tôi làm. Tôi không chỉ là một kẻ lừa đảo. Hãy để tôi thử lại. Lần này tôi sẽ làm thật.”
“Làm sao tôi biết bạn sẽ không sử dụng ChatGPT nữa?”
“Em hứa. Lần này em sẽ làm bài. Lời hứa chắc của em, sẽ chứng mình cho Cô thấy ạ.”
Bà Reed chậm rãi gật đầu. “Nếu tôi cho em thêm một tuần nữa
thì sao? Thời gian như vậy có đủ không?”
“Chắc chắn. Em sẽ bắt đầu ngay tối nay. Em sẽ không làm cô phải thất vọng. Em xin hứa.”
Cô Reed nở nụ cười quen thuộc và Ivan rời khỏi lớp học với quyết tâm viết được 500 từ ngay cả khi anh phải mất 50 giờ.
Khi anh ấy đi rồi, Carly Reed đọc lại hai câu đầu tiên của bài luận ChatGPT mà Ivan đã nộp. Cô ấy cười thầm một mình. Giống như Ivan, cô chỉ mới đọc được hai câu đầu tiên là đã biết tỏng bài đạo văn. Cô quay ghế lại và ném bài luận vào thùng rác tái chế.
…Như cô ấy đã nói vào ngày đầu tiên của niên khóa, cô ấy đã làm công việc này suốt 25 năm và đã từng chứng kiến tất cả các vụ tương tự trước đây.
Ngày 27 tháng 1 năm 2023 – Texarkana, Texas, Hoa Kỳ
Khi cặp song sinh chào đời, chúng được đặt tên theo loài hoa yêu thích của mẹ chúng: Hoa tím và Hoa hướng dương. Theo giấy khai sinh, Violet đến trước. Theo bác sĩ nhi khoa, hai bé gái này là những đứa trẻ giống hệt nhau nhất mà cô từng thấy. Không có dấu hiệu hoặc đặc điểm phân biệt.
Cha mẹ của cặp song sinh từ chỗ không có ai khóc ở nhà đến hai cái miệng liên tục kêu khóc. Trong hai tháng đầu tiên, việc sống sót và tranh giành thời gian ngủ là ưu tiên duy nhất của bố mẹ. Họ vô vọng không biết đứa bé nào đã chào đời trước và luôn gọi chúng là “những bông hoa”.
“Có lúc chúng ta phải sử dụng tên thật của họ,” mẹ nói vào một ngày nọ trong khoảnh khắc yên bình.
“Được rồi. Cái nào là cái nào?” Bố hỏi.
“Tôi không có ý kiến. Bạn thấy con nào trông giống hoa Tím hay Hoa Hướng Dương hơn?”
“Không thể nhìn thấy sự khác biệt.”
“Tính cách thì thế nào? Một trong hai người hành động theo một cách nhất định nào đó chứ lại?”
Bố nhún vai. “Tôi nghĩ từ bây giờ chúng ta chỉ cần nói một trong số họ là Violet và một trong số họ là Sunflower. Hãy quyết định như vậy đi.”
“Vậy Violet là ai?”
“Nó sẽ không tạo ra sự khác biệt lớn. Một trong hai người có thể là Violet.”
Mẹ tìm thấy những dải ruy băng màu tím và màu vàng. Dải ruy băng màu tím được buộc quanh chân em bé nằm bên trái giường. Bé còn lại có dải ruy băng màu vàng và từ đó được phân biệt thành Violet và Sunflower. Cha mẹ của họ cảm thấy xấu hổ vì việc đặt tên con tùy tiện bằng hai dải ruy băng màu, họ sẽ phải giữ kín điều này.
Cặp song sinh mặc quần áo khác nhau
Khi những dải ruy băng được gắn lần đầu tiên, cha mẹ hoàn toàn có ý định đối xử với mỗi cô con gái giống hệt nhau. Bất chấp ý định đó, những khác biệt nhỏ vẫn vô tình xuất hiện. Màu sắc của ruy băng có liên quan nhiều đến nó. Dải ruy băng màu vàng là tín hiệu cho thấy Sunflower nên mặc trang phục có màu sắc tươi sáng hơn. Cô ấy mặc đồ màu vàng và hồng. Violet mặc quần áo sẫm màu hơn – tím, xanh và xám.
Gia đình chuyển đến một ngôi nhà lớn hơn và có đủ không gian cho mỗi cô gái có phòng ngủ riêng. Hướng Dương được bố trí căn phòng tràn ngập ánh sáng hướng về phía Nam. Nó được sơn màu phấn hạnh phúc. Violet chuyển vào căn phòng râm mát hơn hướng về phía bắc với những bức tường mờ ảo. Cả hai cô bé đều chơi những món đồ chơi giống nhau, nhưng đến lúc mặc quần áo cho búp bê, Sunflower có xu hướng cho búp bê mặc trang phục đi biển ngộ nghĩnh trong khi Violet chọn váy dài hơn.
Chim đầy màu sắc và hay nói
Cặp song sinh trở thành những người ham đọc sách và là khác hâm mộ của thư viện lớn, và khi chọn sách, Sunflower đương nhiên chọn những chiếc bìa ngộ nghĩnh, đầy màu sắc phù hợp với căn phòng của mình. Violet có vẻ thích những câu chuyện cổ tích có cốt truyện và kết thúc phức tạp hơn. Vào ngày sinh nhật thứ năm của mình, cặp song sinh được phép chọn một con vật cưng. Sunflower chỉ vào một con chim đang nói chuyện mà mẹ cô nói rằng nó sẽ cảm thấy được chào đón dưới ánh nắng ngoài cửa sổ nhà cô. Violet chọn một con cá vàng yên tĩnh có vệt đen khắp cơ thể.
Sau khi các cô gái bắt đầu đi học và gặp một nhóm trẻ em và người lớn mới, cha mẹ các cô bắt đầu mô tả Sunflower là một người vui vẻ và tự phát. Violet là người có suy nghĩ nghiêm túc và sâu sắc hơn. Sunflower cắt tóc ngắn. Mái tóc của Violet để dài, vẻ ngoài mà cô ấy đã giữ trong nhiều năm sau đó.
Sunflower và Violet kết bạn dễ dàng. Khi lớn lên, Sunflower có xu hướng hướng tới những đứa trẻ quan tâm đến các đội khiêu vũ và thể thao. Bạn bè của Violet là những người thành đạt, chơi nhạc cụ và diễn kịch. Khi lên cấp ba, cặp song sinh thường được hỏi làm thế nào mà chúng có thể được nuôi dưỡng trong cùng một gia đình và trở nên khác biệt đến vậy. Sunflower là một hoạt náo viên điển hình, vui tính. Violet là đứa trẻ thông minh nhất lớp và chắc chắn là đứa có nhiều khả năng thành công nhất.
Trong năm cuối cấp, Sunflower đã mong chờ cảm giác phấn khích khi xa nhà để đi học đại học. Cô và những người bạn của mình dự định tham dự Texas A&M và tận hưởng party vào mỗi tối và cuối tuần. Violet có khát vọng mạnh mẽ hơn. Cô thu hẹp lựa chọn đại học của mình xuống còn một nơi, đó là đại học Harvard . Nếu phải theo học bất kỳ trường khá nào khác, cô sẽ cảm thấy mình thất bại.
Violet đã nộp đơn đăng ký vào Harvard và được một cựu sinh viên Harvard chọn để phỏng vấn trực tiếp. Một người đàn ông tên Pierce Belliston gọi phone từ Dallas. Anh ấy nói thay vì yêu cầu Violet đi du lịch với anh ấy, anh ấy sẽ ghé qua và gặp cô ấy khi anh ấy đang trên đường đi thăm một vài ứng viên khác sống ở Arkansas.
Violet thường bình tĩnh và tính toán, nhưng tin tức về cuộc phỏng vấn khiến cô lo lắng điên cuồng. Cô đọc mọi thứ có thể về việc chuẩn bị. Cô bắt bố mẹ thực hành các câu hỏi mẫu với mình. Cô dọn dẹp nhà cửa và chà sạch mọi vết bẩn trên tấm thảm ở phòng trước.
Là một học sinh trung học bận rộn và đầy tham vọng, Violet dự kiến sẽ tham dự một cuộc họp hội đồng sinh viên qua đêm một ngày trước cuộc phỏng vấn ở Harvard. Cuộc họp cách đó 200 dặm, nhưng lẽ ra cô phải quay lại vào buổi sáng với nhiều thời gian trước khi Piers Belliston đến. Sáng hôm đó cô gọi cho mẹ trong tâm trạng hoàn toàn kích động.
“Xe buýt hỏng, không biết khi nào mới sửa được! Nếu họ phải gửi một chiếc xe buýt khác thì không đời nào tôi có thể đến kịp được!”
“Bình tĩnh. Tôi chắc chắn rằng bạn có thể sắp xếp lại cuộc phỏng vấn nếu có trường hợp khẩn cấp.”
“Không, Mẹ không thể làm vậy vì Họ đang tìm lý do để loại bạn!
“Mẹ không tin điều đó.”
“Đúng là có cách rồi!” Violet im lặng vài giây trước khi nói, “Nhờ Hướng Dương nói thay con trên điện thoại.”
Sunflower biết từ biểu hiện của mẹ rằng cô sắp bị ném vào giữa cơn khủng hoảng. Cô miễn cưỡng nói: “Xin chào.”
“Chị ơi, phải làm gì đó cho em. Chị phải giả vờ là en và thực hiện cuộc phỏng vấn.
“Cuộc phỏng vấn ở Harvard? Chi sẽ không biết bất kỳ câu trả lời đúng nào, không được đâu.”
“Không có câu trả lời đúng hay sai. Chi đã nghe em luyện tập với bố mẹ rồi, chỉ cần nói những điều em sẽ nói. Chị biết tâm tư và suy ngĩ của em rõ hơn bất cứ ai.
“Em sẽ ghét tôi nếu tôi làm hỏng nó.”
“Không, em sẽ không làm vậy. Hãy mặc quần áo của em nếu điều đó có ích. Vui lòng giúp em, chị phải làm điều này. Em biết điều này thật kỳ cục, nhưng chị luôn có thể xử lý những thứ kỳ lạ. Shmoogies.”
Mặc dù tính cách của họ có vẻ rất khác nhau nhưng họ vẫn là anh em sinh đôi và có chung ngôn ngữ riêng. Shmoogies là một từ bịa đặt mà họ dùng để chia sẻ những cảm xúc đáng sợ hoặc những cảm xúc sâu sắc. Nó có thể có nghĩa là “để anh yên” hoặc “anh yêu em” tùy theo hoàn cảnh. Chỉ có họ mới có thể thông dịch cho nhau. Sunflower kết thúc cuộc gọi vì biết mình phải giúp đỡ cho Violet.
“Chuyện gì đang xảy ra vậy? Cô ấy có định dời lại lịch không?” Mẹ Hướng Dương hỏi với giọng bối rối.
Sunflower lắp bắp: “Cô ấy vẫn đang tìm hiểu,” rồi vội vã vào phòng Violet. Cô lấy hàng chục bộ trang phục từ tủ của Violet và đặt chúng lên giường. Cô chọn chiếc áo khiến cô nhớ đến chị gái mình nhất và mặc nó vào. Sau đó, cô ấy sửa lại mái tóc của mình thành một trong những kiểu tóc nhàm chán hơn mà Violet ưa thích.
Giường phủ đống quần áo không được chọn mặc
Sự thay đổi về quần áo và kiểu tóc khiến Sunflower bình tĩnh lại. Cô cũng ngồi trong tủ tối để cố gắng truyền năng lượng cho người em song sinh của mình. Mãi đến nửa tiếng trước khi Pierce Belliston đến dự kiến, cô ấy mới xuất hiện.
“Sao con lại ăn mặc giống chị gái mình thế?” mẹ cô yêu cầu.
“Con đang thực hiện cuộc phỏng vấn cho chị ấy.”
“Cái gì? Mày không thể làm điều đó! Thật là không trung thực! Anh ấy sẽ nhìn thấu con là người đóng giả! Còn tệ hơn cả việc phải dời lại lịch trình!”
Mẹ của Sunflower lo lắng cho đến khi chuông cửa reo đúng giờ hẹn của Pierce Belliston. Sunflower và mẹ cô cùng mở cửa thì thấy một người đàn ông có râu, tóc bạc, đeo cà vạt đỏ và áo khoác xám. Anh ấy nở một nụ cười nghiêm túc và đáng sợ với cả hai rồi nói, “Tên tôi là Pierce. Tôi tin rằng bạn đang mong đợi tôi.”
Sunflower ngay lập tức trả lời: “Rất vui được gặp ông. Tôi là Violet. Xin mời vào.”
Người phỏng vấn nghiêm nghị
Khi Pierce bước vào trong, mẹ của Sunflower như tan chảy và bắt đầu ba hoa không ngừng về thời tiết, giao thông, ngôi nhà, quần áo bà mặc và gia đình opossum hiện đang xâm chiếm sân sau của họ. Sunflower lạnh lùng dẫn Pierce vào phòng trước và anh ngồi xuống một chiếc ghế có lưng cao trông hơi giống một chiếc ngai vàng. Sunflower ngồi cạnh mẹ trên ghế dài khi câu chuyện về thú có túi của mẹ cô tiếp tục.
“Chúng tôi rất vinh dự khi có bạn trong nhà,” mẹ của Sunflower lo lắng nói. Cô ấy quay về phía Sunflower và nói thêm, “Violet là một cô gái ngoan và rất thông minh. Tôi không chắc bạn có biết cô ấy có một người anh em sinh đôi tên là Sunflower hay không. Chúng tôi đặt tên chúng theo loài hoa tôi yêu thích.”
Vào lúc đó, có một sự tạm dừng khó xử. Pierce tỏ ra không sẵn sàng trả lời và mẹ của Sunflower quyết định một cách kỳ lạ rằng đây là thời điểm thích hợp để chia sẻ bí mật mà bà đã giấu kín suốt 17 năm.
“Các cô gái giống nhau đến mức chúng tôi không thể phân biệt được. Một ngày nọ, chúng tôi phải quyết định xem ai sẽ đi với cái tên nào. Chúng tôi đặt ruy băng lên chúng. Violet nhận được dải ruy băng màu tím. Hướng dương đã vàng.”
Hướng Dương há hốc miệng nhìn mẹ mà quên mất thử thách mạo danh vô cùng quan trọng của bà. Pierce cuối cùng cũng quan tâm đến điều mà mẹ của người được phỏng vấn anh nói.
“Có phải chị kia cũng nộp đơn vào Harvard không? Có lẽ một trường Ivy khác? Tôi cho rằng cô ấy là người đạt thành tích cao.”
“Ôi không. Cô ấy không giống Violet.” Mẹ của Sunflower nhanh chóng nhận ra mình đã dồn mình vào chân tường. Bà đỏ mặt nhìn con gái và nói trấn an: “Hướng Dương cũng là người đạt thành tích cao. Chỉ là ở những thứ khác nhau. Cô ấy là người của mọi người hơn là người hạng A.”
“Bà có nghĩ rằng sự lựa chọn tên của con ảnh hưởng đến họ không?” Pierce nhướng mày hỏi. “Khi bà đặt tên cho ai đó là Sunflower, có vẻ như cô ấy phải là người của mọi người.”
“Ồ không, tôi không nghĩ những cái tên đó có liên quan gì đến chuyện đó. Chúng tôi thật may mắn vì họ phù hợp với tính cách của họ.”
Pierce mỉm cười như thể anh ta không bị thuyết phục. Sau đó anh ấy nói, “Bà có phiền nếu tôi dành chút thời gian ở riêng với Violet không? Căn phòng này có vẻ là một nơi hoàn hảo.”
Mẹ Hướng Dương xin lỗi với giọng ngượng ngùng rồi bỏ đi. Nụ cười lạnh lùng trên khuôn mặt Sunflower khiến cô có vẻ điềm tĩnh. Nhưng bên trong, tâm trí cô đảo lộn khi biết rằng cô rất dễ dàng được đặt tên là Violet. Cuộc sống sẽ khác đi như thế nào? Liệu cô ấy có phải là người nộp đơn vào Harvard không?
Pierce nhìn cô bằng ánh mắt sâu sắc và hỏi, “Với tất cả những cơ hội sẵn có ở Texas, tại sao lại phải đến Harvard và Boston?”
Đây là một trong những câu hỏi rõ ràng nhất mà Violet đã thực hành và Sunflower đã nghe được. Sunflower biết câu trả lời đúng là về việc Violet sống đúng với tiềm năng của mình và vây quanh cô là những người thông minh nhất có thể. Sunflower muốn giải thích theo cách đó, nhưng cô không thể làm được. Có lẽ não cô ấy vẫn còn mơ hồ và đang cố gắng xử lý tin tức rằng ngay từ đầu cô ấy đã gần như là Violet. Câu trả lời của cô ấy là Sunflower nhiều hơn là Violet.
“Tôi nghĩ những người ở Harvard cần tôi hơn những người ở Texas.”
Pierce tỏ ra ngạc nhiên. “Là vậy sao? Tại sao bạn lại nghĩ như vậy?”
“Một trong những món quà của tôi là làm cho mọi người hạnh phúc. Giúp họ nhìn vào mặt tích cực của mọi việc và thấy được điều tốt nhất ở bản thân họ. Rất nhiều người thông minh cần sự thúc đẩy nhỏ đó. Họ hành động như thể họ không làm vậy, nhưng nếu bạn muốn đạt được bất cứ điều gì, trước tiên bạn cần tìm thấy niềm vui trong đó.”
Pierce gật đầu và mỉm cười. Đó là một nụ cười thân thiện thay vì một nụ cười phán xét. Anh ấy hỏi thêm câu hỏi và Sunflower trả lời như thể cô ấy và Violet có chung tính cách lai. Cô ấy có thể nghe giống phần kết hợp của Sunflower hơn một chút.
Khi cuộc phỏng vấn kết thúc, Pierce đứng dậy và cảm ơn cô. “Tôi rất thích bản thân mình. Bạn thành thật và khác biệt một cách mới mẻ.”
“Vậy tôi sẽ gặp cậu ở Harvard nhé?” Hướng Dương tinh nghịch hỏi.
“Chắc là không. Tôi sống ở Dallas, nhớ chứ?” Pierce trả lời một cách tinh nghịch.
Violet trở lại vào đêm hôm đó và yêu cầu tóm tắt từng chữ về cuộc phỏng vấn. Sunflower quan tâm nhiều hơn đến bí mật được tiết lộ về tên của họ.
“Bạn có thể là tôi và tôi có thể là bạn.”
“Tên của bạn không thay đổi con người bên trong của bạn,” Violet lập luận.
“Tôi chắc rằng ít nhất nó cũng quan trọng một chút.”
Violet lắc đầu, nhưng kể từ ngày đó, cả hai chị em không còn thấy sự khác biệt rõ rệt nào trong tính cách cũng như lựa chọn cuộc sống của mình. Và mặc dù Violet đánh giá cao hơn về em gái mình nhưng nhiều ngày trôi qua mà không nhận được phản hồi từ Harvard, cô tin rằng Sunflower đã làm hỏng cuộc phỏng vấn. Trước khi nộp đơn, Violet đã nói về cuộc phỏng vấn như thể nó chỉ ảnh hưởng đến quyết định nhập học 10%. Bây giờ cô ấy khẳng định nó giống như 50%. Cô chưa bao giờ nói to như vậy, nhưng trong thâm tâm cô biết thật không công bằng khi cô không có cơ hội để tự mình lên tiếng. Cô bị kẹt ở trường chuyên vì một chiếc xe buýt bị hỏng.
Violet thật bồn chồn và khó khăn cho đến khi có thư báo được nhận vào học ở Harvard. Câu đầu tiên lá thơ bắt đầu bằng “Xin chúc mừng” và mọi sự thất vọng đều biến mất. Violet ngay lập tức quên hết mọi chuyện về trường học chuyên và vai trò của Sunflower trong cuộc phỏng vấn.
Khi đến lượt Sunflower chúc mừng em gái, cô ấy nói: “Không phải em đã nói gì đó về việc cuộc phỏng vấn chỉ đáng giá một nửa đơn đăng ký sao?”
“Em không hoàn toàn nghiêm túc. Nhưng em nợ chị. Chắc hẳn chị đã làm rất tốt.”
“Ồ, tôi đang nghĩ Harvard muốn cả hai chúng ta. Một phần màu tím và một phần hướng dương. Ngoài ra, chúng tôi có thể hoán đổi cho nhau một chút.”
Violet lắc đầu và cười. “Chúng ta không thể thay thế cho nhau được.”
“Hay là tôi đi nửa năm còn bạn đi nửa năm còn lại thì sao?”
“Thật ra đó không phải là một ý tưởng tồi. Bất cứ khi nào tôi cần động lực, bạn có thể thế chỗ tôi. Shmoogies, em gái.”
“Em không cần nói điều đó nữa. Hãy nhớ rằng, Chị có thể luôn là một người chị gái biết ủng hộ em mình.”
Squealer sử dụng nhiều thủ đoạn khác nhau để thao túng cảm xúc và nhận thức của động vật. Hắn ta thường đánh vào nỗi sợ hãi và bất an của họ, thuyết phục họ rằng những thay đổi là cần thiết không gì ngoài lợi ích lớn hơn của trang trại. Hắn ta có thể sử dụng ngôn ngữ cao cả để gây nhầm lẫn hoặc thuyết phục các con vật, khiến họ nghi ngờ trí nhớ của chính họ về các điều răn nguyên thủy. Bằng cách đó, hắn ta tạo ra một mối liên hệ cảm xúc giữa lòng trung thành của động vật đối với trang trại ví dụ như ‘Yêu nước là yêu đảng’. Với những thủ đoạn lưu manh ấy, Squealer dễ dàng được sự chấp nhận của họ đối với những thay đổi, bất kể chúng có thể mâu thuẫn như thế nào.
Với bản chất lưu manh sẵn có, Squealer, kẻ đóng vai trò là trưởng bộ phận tuyên truyền của Napoléon, sử dụng những thủ đoạn thao túng cảm xúc để bảo vệ các vi phạm trong giáo điều do động vật đặt ra. Dưới đây là một vài trường hợp:
Uống Rượu: Ban đầu, các Điều Răn cấm uống rượu. Tuy nhiên, khi tộc lợn bắt đầu tiêu thụ nó, Squealer biện minh cho điều này bằng cách nói rằng những con lợn cần rượu , bia, thuốc lá.. (những chất gây nghiện) để có sức khỏe và trí thông minh. Hắn ta thao túng cảm xúc bằng cách khiến những con vật cảm thấy tội lỗi vì đã đặt câu hỏi về sức khỏe của những con lợn.
Ngủ trên giường: Khi những con vật phát hiện ra rằng tộc lợn đang ngủ trên giường, điều này đi ngược lại các Điều răn, Squealer giải thích rằng sự kiệt sức của những con lợn vì quản lý trang trại biện minh cho “sự điều chỉnh” này. Anh ta kêu gọi sự thông cảm của các loài động vật đối với công việc khó khăn của tộc lợn, suốt đời tận tụy không vợ không con, để thao túng cảm xúc của họ.
Buôn bán với con người: Bất chấp các Điều răn cấm tương tác với con người, những con lợn vẫn tham gia buôn bán với họ. Squealer tuyên bố rằng những giao dịch này là cần thiết cho sự sống còn và thoải mái của động vật. Hắn ta đánh vào nỗi sợ hãi khi phải bị bóc lột tận xương tủy trong chính sách tập thể hóa cưỡng bức, nỗi hãi hùng to lớn nhất trong cảm xúc của những con vật, khiến họ tin rằng buôn bán là một sự hy sinh cần thiết.
Đi bằng hai chân: Hành vi vi phạm trắng trợn nhất xảy ra khi những con lợn bắt đầu đi bằng hai chân, tượng trưng cho sự biến đổi của chúng thành hình người. Squealer dùng thủ đoạn thao túng cảm xúc của những con vật bằng cách khẳng định rằng sự thay đổi này là một hình thức phân biệt đối với tộc lợn, những người có công, nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của chúng. Hắn ta làm cho nó giống như một đặc ân mà chúng đã kiếm được.
Hành quyết những con vật khác: Khi những con lợn hành quyết những con vật khác mà chúng cho là đang âm mưu chống lại trang trại, Squealer lại dùng thủ đoạn thao túng cảm xúc bằng cách mô tả những hành động này là cần thiết cho sự an toàn và ổn định của những con vật. Anh ta kêu gọi nỗi sợ hãi về các thế lực đe dọa bên ngoài để biện minh cho hành động độc tài độc đoán của tộc lợn ác ôn.
Squealer liên tục sử dụng thao tác cảm xúc để bóp méo nhận thức của động vật về thực tế, sử dụng sự đồng cảm, khủng bố, nỗi sợ hãi và lòng trung thành của họ với Napoléon để duy trì quyền kiểm soát. Những trường hợp này làm nổi bật bản chất quỷ quyệt của tuyên truyền độc tài độc đảng và cách nó được sử dụng để biện minh cho bất kỳ hành động nào, bất kể chúng mâu thuẫn với các nguyên tắc ban đầu như thế nào.
Năm 2006, vợ tôi về Việt Nam lo ma chay cho má tôi. Sau đó, bả được mấy đứa cháu chở đi Châu Đốc viếng Chùa Bà.
Cúng vái xong, ra đến cổng chùa thì có một đám bé gái độ mười hai mười ba tuổi bu lại chen lấn nhau xin tiền. Một đứa đứng gần vợ tôi, có vẻ lanh lợi nhứt, xè tay nói một hơi có ca có kệ: “Ngoại ơi ngoại! Ngoại cho con 5000 đồng, con cầu nguyện Bà cho con gái ngoại lấy được chồng Đài Loan! Ngoại ơi ngoại! Ngoại cho con 5000 đồng, con … ”
Trên đường về, vợ tôi miên man suy nghĩ về mấy đứa nhỏ đó: Không có tiền để đi học, còn quá nhỏ để có một cái nghề, và chắc nhiều đứa – rất nhiều đứa – chỉ ước ao lấy được chồng Đài Loan khi mình lớn lên một chút! Rồi vợ tôi thở dài…
Nghe kể mà tôi thấy thương quê hương tôi vô cùng. Trước đây, dù có nghèo đi mấy cũng chưa bao giờ tệ đến như vậy! Viết lại chuyện này mà tôi nghe rát từ đáy lòng rát lên khóe mắt …
Vừa qua, Đài VOA đưa tin: Hàng trăm người kêu gọi tổng bí thư và chủ tịch nước Việt Nam điều tra lại 3 vụ ‘án oan’. Bài viết nêu sự kiện “Hàng trăm người đã ký tên vào một thỉnh nguyện thư do các luật sư thảo ra để yêu cầu các lãnh đạo cao nhất của Việt Nam cùng các cơ quan có thẩm quyền xem xét và điều tra lại các vụ án mà họ cho là oan sai đối với các tử tù Hồ Duy Hải, Nguyễn Văn Chưởng và Lê Văn Mạnh, trong đó ông Mạnh đã bị hành quyết” (1).
Đây là Thỉnh Nguyện Thư được Luật sư Lê Văn Hòa, Giám đốc “Công ty Luật TNHH VH và Cộng sự” – Đoàn luật sư TP. Hà Nội, nguyên Vụ Trưởng Ban Nội Chính Trung Ương khởi thảo. Tính đến 22 giờ ngày 6-11-2023 đã có 399 người ký “Thư Thỉnh Nguyện” về 3 vụ án oan Nguyễn Văn Chưởng, Hồ Duy Hải và Lê Văn Mạnh, và 609 người chia sẻ bài viết này (2).
Trong nền tư pháp mù lòa, chuyên chế của những điều luật 331 Bộ luật Hình sự, việc lên tiếng và ký tên hưởng ứng này là hành động dũng cảm, trách nhiệm, dấn dân vì công lý, hết sức trân quý.
Nội dung Thư Thỉnh Nguyện khái quát khá đầy đủ dấu hiệu oan sai của ba vụ án. Riêng trường hợp Hồ Duy Hải, sau phiên tòa Giám Đốc Thẩm đầy tai tiếng, nhiều thông tin, chứng cứ mới đã được tiết lộ, cho thấy Hồ Duy Hải hoàn toàn ngoại phạm. Đặc biệt là sự kiện có bảy nhân chứng đã cung cấp thông tin, chứng cứ xác định thời gian xảy ra vụ án, Hồ Duy Hải tham dự đám tang ông Tư Lan, trước sự chứng kiến của nhiều người.
Ngày 21 tháng 07 năm 2021, Luật sư Trần Hồng Phong đã có Đơn Trình Bày & Cung Cấp Chứng Cứ Ngoại Phạm của bị án Hồ Duy Hải & Tố Giác Hành Vi Làm Sai Lệch Hồ Sơ Vụ Án, Đề Nghị Xem Xét Lại Quyết Định Giám Đốc Thẩm & Kiến Nghị Kháng Nghị Tái Thẩm, gởi các cơ quan chức năng, lãnh đạo đảng nhà nước. Xin trích giới thiệu một phần nội dung đơn.
“Tháng 5/2021 vừa qua chúng tôi đã tiếp nhận được những tài liệu, chứng cứ có nội dung đặc biệt quan trọng và mới, thể hiện việc tối ngày 13/1/2008, bị án Hồ Duy Hải không hề vào bưu cục Cầu Voi mà đi dự đám tang ông Hồ Chi (tên gọi khác là Tư Lan), một người hàng xóm cách nhà Hải 500m. Thời điểm Hải có mặt tại đám tang là từ lúc 19h50 đến 21h – trùng với thời điểm mà từ trước đến nay Hồ Duy Hải bị CQĐT công an tỉnh Long An quy kết đã vào Bưu cục Cầu Voi (khoảng 19h30) và sau đó sát hại hai nữ nạn nhân lúc khoảng 20h30’.
Những chứng cứ mới này cũng phù hợp với 2 bản lời khai của Hồ Duy Hải có trong hồ sơ điều tra. Cụ thể là: Bản tường trình do Hải tự viết tay và Biên bản ghi lời khai của Hồ Duy Hải ngày 20/3/2008. Đây là tài liệu được VKSNDTC xác định là “lời khai ban đầu của Hồ Duy Hải”, có trong hồ sơ điều tra, nhưng đã bị CQĐT công an tỉnh Long An rút khỏi hồ sơ vụ án. Vấn đề này được nêu rõ trong QĐ kháng nghị giám đốc thẩm số 15/QĐ-VKSNDTC-V7 ngày 22/11/2019 của VKSNDTC (Trang 9) và Quyết định giám đốc thẩm số: 05/2020/HS-GĐT ngày 8/5/2020 của HĐTP TANDTC (Trang 19, 20).
Đó là các đơn trình bày, xác nhận và cam kết của các nhân chứng có tên sau đây đều khẳng định tối 13/1/2008, khoảng từ 19h50 đến 21h, họ đã gặp và nhìn thấy Hồ Duy Hải có mặt tại đám tang ông Tư Lan. Mọi người đều thấy Hải có hành động phụ giúp gia đình bà Tư Lan: rót trà mời khách tại đám tang. Các nhân chứng đều bày tỏ mong muốn sự thật được làm sáng tỏ, không để oan cho Hồ Duy Hải.
Cụ thể các nhân chứng đã trình bày và xác nhận như sau (trích từ đơn của các nhân chứng):
Lời trình bày và xác nhận của bà Nguyễn Thị Tư (Tư Lan), sinh 1952 – ngày 16/5/2021
“Chồng tôi mất tối ngày 12/1/2008, khi xe chở xác về nhà đã tối (khoảng 23h), xe bị tắt máy 2 lần. Gia đình tẩm liệm, nhập quan và báo tang ngày hôm sau 13/1/2008.
Tối 13/1/2008, cháu Hồ Duy Hải có đến phụ giúp đám tang chồng tôi, tại đám tang cháu Hải phụ bưng bê chén đĩa, rót nước trà mời khách. Tôi nhận ra cháu Hải vì cháu là người rất nổi bật, dáng cao, da trắng.
Qua sáng hôm sau (14/1/2008), khi đưa chồng tôi đi chôn, cháu Hải là người khiêng quan tài chồng tôi khi hạ huyệt. Tôi biết rõ cháu Hải vì cháu là người trong xóm, thường mua bánh mì của tôi. Thường ngày cháu Hải gọi tôi là dì, tính hiền, rất lễ phép”.
Từ trái qua: Nhà báo Nguyễn Đức, bà Tư Lan và LS Trần Hồng Phong. Nguồn: CTV TD
Trình bày và xác nhận của ông Võ Phi Hùng (sinh 1957)
Đơn trình bày v/v xác nhận và cung cấp thông tin việc Hồ Duy Hải có mặt trong đám tang ông Hồ Chi (Tư Lan) đêm 13/1/2008 – ngày 23/4/2021.
“Tôi xác nhận từ 13/1/2008 chưa có cơ quan chức năng nào đến phỏng vấn hỏi tôi về việc Hồ Duy Hải có ở đám tang ông Hồ Chi (nêu trên) hay không. Nay có một số việc liên quan tôi muốn xác nhận và cung cấp cho cơ quan chức năng như sau:
Tối 13/1/2008 tôi đến viếng đám tang ông Hồ Chi vào lúc 18 giờ. Đến gần 20 giờ thì thấy cháu Hải (con cô Loan) đến phụ đám tang ông Hồ Chi (Tư Lan).
Hải phụ bưng dọn trà, nước, bánh … đãi khách. Hơn 20 giờ tôi về (Khoảng 20h15 phút) tôi về (lúc đó cháu Hải đang phụ đám). Sau đó tôi không biết cháu Hải đi đâu và làm gì. Tôi cam đoan sự việc trình bày trên là đúng sự thật. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung trên”.
Trình bày và xác nhận của ông Huỳnh Văn Thanh (sinh 1968, còn gọi là Bảy Thanh)
Đơn trình bày xác nhận và cung cấp thông tin – ngày 23/4/2021
“Vào tối ngày 13/1/2008 khi tôi đóng cửa tiệm tạp hóa xong thì đi vào đám ma anh Tư Lan (Hồ Chi) ở xóm chùa.
Đến đám tang lúc đó khoảng 19h30, tôi thăm hỏi và ngồi nói chuyện một lúc khoảng 30 phút sau thì thấy có cháu Hồ Duy Hải con của chị Loan có đến phụ bưng dọn trà nước ở đám tang anh Tư Lan (Hồ Chi) và cháu Hải có đến bàn của tôi ngồi, cháu Hải có nói là, chào cậu Bảy, đến dự đám tang hả. Và tôi cũng có chào cháu Hải. Trong đám tang lúc đó có rất đông người đến dự. Tôi thì vẫn thấy cháu Hải bưng trà nước vô tiếp cho mấy bạn khác cùng với đám.
Đến khoảng hơn 21h thì Hải có đến hỏi đi về. Còn tôi thì còn ở lại trò chuyện cùng với mấy anh em trong xóm đến hơn 22h thì tôi mới đi về.
Lời trình bày của tôi là sự thật, tôi xác nhận và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Trong suốt thời gian qua, tôi không thấy ai là người đại diện đến hỏi và xác nhận ở tôi”.
Trình bày và xác nhận của ông Nguyễn Thế Vinh (sinh 1979)
Bản tường trình sự việc và cung cấp thông tin – ngày 10/5/2021
“Khoảng 19h00 đêm 13/1/2008 tôi từ nhà vợ ở thị trấn Thủ Thừa vào đám tang ông Tư Lan (ông Hồ Chi), tôi vào viếng tang và ngồi vào bàn cùng mấy người trong xóm, ngồi uống trà và cùng nhâm nhi với mấy người bạn cùng xóm như: Bé Tư (tên Hiển), Cu Anh, cậu Hải em, Tín, cậu Thu, Măng, Hà Tuyền chung bàn cạnh bàn Thi Ân.
Trong đám tang tôi còn thấy người: Bảy Tèo (Bảy Thanh), Ba Thẹo, cậu 2 Hùng, tôi ngồi khoảng gần 20h00 thì thấy Hải vào dự đám tang có gật đầu chào tôi và mấy anh em ngồi chung.
Tôi thấy Hải vào có phụ đám bưng bê trà nước và đồ ăn trong đám. Khoảng 20h30 tôi chuẩn bị về có Hải lại ngồi chung bàn có nói chuyện nhau vài câu, tôi đứng dậy chào bàn đi về và có vỗ vai Hải nói (có chơi thì đừng khuya quá để về nghỉ ngơi). Tôi tranh thủ về phụ vợ chăm lo sữa uống, ru con, tã ướt vì con tôi còn nhỏ và nghỉ ngơi sáng mai để đi làm (chạy xe ôm).
Từ đêm dự đám tang ông Tư Lan đến ngày hôm nay tôi xác thực rằng không có cơ quan nào đến hỏi tôi có gặp Hải đêm 13/1/2008 trong đám tang đó hay không.
Những lời trình bày trên hoàn toàn đúng sự thật. Tôi cam đoan và chịu trách nhiệm trước pháp luật”.
Ảnh: Nhân chứng Nguyễn Thế Vinh cầm tờ giấy ghi lời khai. Nguồn: CTV TD
Xác nhận và trình bày của ông Huỳnh Thế Hiển (sinh 1983)
Bản tường trình v/v gặp Hồ Huy Hải trong đám tang ông Tư Lan đêm 13/1/2008 – ngày 11/5/2021
“Tôi đến phụ đám tang ông Tư Lan vào lúc hơn 06h30 tối. Trên đường đi tôi gặp Hải khúc gần chùa. Tôi có nói chút (nữa) lại phụ đám, khách đông lắm. Hải nói đi trước đi, tắm xong tao lại. Khoảng hơn một tiếng đồng hồ sau tôi thấy Hải đến (khoảng 7h50). Chúng tôi phụ việc trong đám như: dọn bàn, chén đũa, nước đá …
Khoảng 9h tối Hải đi về (tôi không biết Hải đi đâu) tôi tiếp tục phụ dọn dẹp đến gần 5h sáng mới về nhà. Trong đám tang tôi thấy rất nhiều người đi dự như: anh Thanh (7 Tèo), anh Tín, Cu Anh, anh Măng, Hà Tuyên, chú Hải EM, cậu Thu, anh Ba Thẹo …
Tôi nhớ khoảng ngày 22 hoặc 23-3-2008, anh Nguyễn Thanh Hải (công an xã Nhị Thành) có đến gặp tôi nói lên xã Nhị Thành có chút việc. Khi đến tôi được lấy lời khai bởi một anh không mặc đồ công an. Anh hỏi tôi và ghi biên bản: là có thấy Hải có đi dự đám tang ông Tư Lan hay không và tôi đã trình bày là tôi có gặp Hải ở đó. Và tôi có ký biên bản và ra về. Và từ đó đến nay không có cơ quan chức năng nào hỏi tôi nữa.
Đây là trình bày của tôi đúng sự thật xin gửi tới quý cơ quan giúp vụ án mau sáng tỏ. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm với trình bày trên trước pháp luật”.
Đơn trình bày của ông Lê Tiến Dũng (sinh 1953, còn gọi là Út Ca)
Đơn trình bày về việc xác nhận và cung cấp thông tin Hồ Duy Hải có mặt trong đám tang ông Hồ Chi đêm 13/1/2008 – ngày 22/5/2021.
“Tôi xác nhận từ ngày 13/1/2008 chưa có cơ quan chức năng nào phỏng vấn, hỏi tôi về việc Hồ Duy Hải có mặt ở đám tang ông Hồ Chi hay không.
Nay có một sự việc tôi muốn xác nhận và cung cấp thông tin cho cơ quan chức năng như sau: Tối 13 tháng giêng năm 2008 tôi đến viếng đám tang ông Hồ Chi vào lúc 19h đến gần 20h thì thấy Hồ Duy Hải con chị Loan đến phụ đám tang ông Hồ Chi. Đến khoảng 21h tôi về còn Hồ Duy Hải về khi nào thì tôi không biết.
Trên đây là sự việc tôi đã thấy và xác nhận là đúng sự thật. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật nội dung trên”.
Trình bày và xác nhận của bà Nguyễn Thị Len (sinh 1967)
Tờ tường trình – ngày 16/5/2021.
“Sáng ngày 14/1 2008 tôi đi đám ma ông Hồ Chi (Tư Lan), tôi hỏi Hồ Huy Hải tối con đi đám ma đã cúng tiền điếu cho mẹ con chưa, nếu chưa Út (tôi) cúng dùm. Hồ Duy Hải nói tối này con cũng cúng dùm mẹ rồi, Út khỏi cúng nữa.
Sau khi Hồ Duy Hải bị bắt sau vài ngày có điều tra viên Trần Quang Tiến và ông Nguyễn Công Đỉnh lên hỏi tối hôm 13/1/2008 Hồ Duy Hải làm gì, tôi nói Hồ Duy Hải đi đám ma, hai điều tra viên nói Hồ Duy Hải đâu nói đi đám ma mà bà nói và không ghi lời khai tôi vào giấy gì cả.
Tôi cam đoan lời khai trên là đúng sự thật, có gì sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật”.
Ảnh: Nhà báo Nguyễn Đức, Luật sư Trần hồng Phong cùng gia đình Hồ Duy Hải. Nguồn: CTV TD
***
Sau khi xem xét nội dung và cẩn trọng đánh giá, chúng tôi cho rằng 100% những thông tin do các nhân chứng cung cấp nêu trên là sự thật. Đó là tối ngày 13/1/2008, từ lúc khoảng 19h50 đến 21h, Hồ Duy Hải có mặt tại đám tang ông Tư Lan, phụ giúp việc bưng bê, rót nước. Nhiều người nhìn thấy và nói chuyện với Hải.
Việc Hồ Duy Hải có mặt tại đám tang ông Tư Lan, không hề vào Bưu cục Cầu Voi tối 13/1/2008 cũng hoàn toàn phù hợp với những tình tiết ngoại phạm của Hồ Duy Hải và hàng loạt điểm mâu thuẫn khác trong hồ sơ vụ án mà chúng tôi đã phân tích và nêu ra trong các đơn kêu oan cho Hồ Duy Hải đã gửi trong suốt hơn 10 năm qua.
Nếu những chứng cứ mới này được kiểm tra, điều tra lại và làm rõ, thì đủ cơ sở để khẳng định Hồ Duy Hải đã bị kết án tử hình oan. Toàn bộ những chứng cứ và lý lẽ kết tội của CQĐT công an tỉnh Long An sẽ hoàn toàn bị “sụp đổ”, và đồng thời làm rõ được hành vi cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án của những người có liên quan….”
Đáng tiếc trước những chứng cứ quan trọng và rõ ràng ấy, hai năm qua, các cơ quan chức năng hoàn toàn im lặng. Báo chí nhà nước cũng hoàn toàn bị bịt miệng về thông tin này. Trong 800 tờ báo, chỉ duy nhất báo Dân Việt đăng thông tin “Nhân chứng mới nói rõ những việc Hồ Duy Hải đã làm ở đám tang đúng đêm xảy ra án mạng”. Trong đó báo ghi nhận “Những nhân chứng đều viết giấy cam kết nhìn thấy Hồ Duy Hải có mặt tại đám tang ông Hồ Chi (tên gọi khác là Tư Lan) từ khoảng 20h đến 21h, tối 13/1/2008 ở Ấp 1 xã Nhị Thành, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An. Hải cùng những người khác bưng nước trà mời khách…”. (3)
Hơn thế nữa, trước đây, Luật sư Trần Hồng Phong có blog cá nhân Dan Den có mục cập nhật tất cả thông tin tài liệu vụ án Hồ Duy Hải, trong đó có cả Đơn Trình Bày mà chúng tôi trích dẫn, nhưng sau đó, blog này cũng không truy cập được (4).
Có thể ai đó đã hack hoặc dùng quyền lực an ninh mạng để khóa miệng dân đen. Phải chăng không thể giải đáp nên cơ quan tố tụng đã “cấm khẩu” trước chứng cứ ngoại phạm này?
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này: “Nước trời giống như mười trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể. Trong số đó có năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan. Năm cô khờ dại mang đèn mà không đem dầu theo; còn những cô khôn ngoan đã mang đèn lại đem dầu đầy bình. Vì chàng rể đến chậm, nên các cô đều thiếp đi và ngủ cả.
“Nửa đêm có tiếng hô to: Kìa chàng rể đến, hãy ra đón người. Bấy giờ các trinh nữ đều chỗi dậy, sửa soạn đèn của mình. Những cô khờ dại nói với các cô khôn ngoan rằng: ‘Các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em đã tắt cả’. Các cô khôn ngoan đáp lại rằng: ‘E không đủ cho chúng em và các chị, các chị ra (nhà) hàng mà mua thì hơn’. Song khi họ đang đi mua, thì chàng rể đến. Những trinh nữ đã sẵn sàng thì theo chàng rể cùng vào tiệc cưới, và cửa đóng lại.
Sau cùng các trinh nữ kia cũng đến và nói: ‘Thưa Ngài, xin mở cửa cho chúng tôi’. Nhưng Người đáp lại: ‘Ta bảo thật các ngươi, ta không biết các ngươi’. “Vậy hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày nào, giờ nào”.
“Khôn ngoan”, trong từ điển Tiếng Việt được định nghĩa là “khéo léo trong việc cư xử với mọi người.” Từ điển Wikipedia lại giải thích dài hơn như sau: “Sự khôn ngoan hay sự thận trọng (tiếng Latinh: prudentia, tiếng Anh: prudence) là khả năng quản trị và kỷ luật bản thân thông qua việc sử dụng lý trí. Sự khôn ngoan được coi là một đức hạnh, và đặc biệt là một trong bốn đức hạnh cốt yếu (cùng với Can đảm, Công bằng và Tiết độ).” Đối với thánh Tô-ma A-qui-nô, ngài coi khôn ngoan là nguyên nhân, phương pháp và hình thức của mọi đức hạnh.
Lời Chúa trong cuốn sách mang tên “Sách Khôn Ngoan” của Chúa nhật 32 hôm nay lại định nghĩa “khôn ngoan” theo một ý hướng khác. Xin lưu ý là chữ “Khôn Ngoan” tác giả đặt ở chữ viết hoa. Điều này cho thấy “Đức Khôn Ngoan” ở đây không theo nghĩa thông thường. Dưới lăng kính Ki-tô giáo, Đức Khôn Ngoan chính là Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa nhập thể làm người. Người có từ thuở ban sơ, hiện diện cùng với Thiên Chúa, để cùng Chúa Cha sáng tạo muôn loài. Những ai có thiện chí tìm kiếm Đức Khôn Ngoan thì Người sẽ cho gặp. Đức Giê-su đã quả quyết: “Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi” (Mt 11,28). Hôm nay, Đức Giê-su, tức là Đức Khôn Ngoan, vẫn đang không ngừng tìm kiếm chúng ta. Người sẽ tỏ mình ra cho chúng ta, nếu chúng ta trở nên nghĩa thiết với Người. Người soi sáng cho chúng ta, nhờ đó chúng ta nhận ra lẽ phải để biết đối nhân xử thế một cách hài hòa.
Hiểu như thế, chúng ta sẽ nhận ra, lý tưởng đời sống Ki-tô hữu là tìm kiếm Đức Khôn Ngoan, tức là Đức Ki-tô, đồng thời cố gắng mỗi ngày để nên giống như Người. Danh xưng “Ki-tô hữu”, vừa có nghĩa “người được xức dầu”, vừa khẳng định chúng ta thuộc về Đức Ki-tô, tin vào Đức Ki-tô và phấn đấu để nên giống Đức Ki-tô trong tư tưởng, lời nói và việc làm.
Một khi có Đức Khôn Ngoan hướng dẫn, chúng ta sẽ biết nhìn xa trông rộng, để sống tốt hiện tại và chuẩn bị cho tương lai. Trên đời, có những người đạt được Đức Khôn Ngoan; nhưng cũng có người không được như vậy. Dụ ngôn “Mười trinh nữ” được thánh Mát-thêu đặt vào văn mạch những bài giảng của Chúa Giê-su về cánh chung, tức là vào lúc tận thế. Người ta có thể khôn ngoan trong những suy tính thế gian, nhưng chưa chắc đã khôn ngoan khi lo liệu hạnh phúc vĩnh cửu. Những cô khờ dại chỉ nhìn trước mắt. Họ chú ý đến trang điểm và làm duyên cầu kỳ, mà không nghĩ đến sự thận trọng và vẻ đẹp tâm hồn. Một điều cần lưu ý là cả người khôn và người dại cuối cùng đều phải trình diện trước nhan Chúa, nhưng tương lai của họ thì hoàn toàn khác nhau.
Như chúng ta đã biết, hình ảnh tiệc cưới được Chúa Giê-su sử dụng nhiều lần trong Tin Mừng, hầu hết đều mang nội dung giáo huấn về ngày cánh chung. Sống ở đời, chúng ta đang chuẩn bị cho ngày đó. Dù sớm hay muộn, ngày ấy cũng sẽ đến. Nhiều người lập luận rằng: những người Công giáo cứ nói đến cánh chung từ hàng ngàn năm nay rồi, mà ngày ấy đâu có đến. Quả thật, ngày cánh chung chưa đến, nhưng Chúa Giê-su nói với chúng ta trong câu kết của bài Tin Mừng hôm nay: “Anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào giờ nào” (câu 13). Hơn nữa, nếu ngày cánh chung hay tận thế hiểu theo nghĩa phổ quát chưa đến, thì đối với mỗi chúng ta, lúc kết thúc cuộc đời dương thế, mà chúng ta vẫn gọi là giờ chết, thì đó chính là tận thế và là ngày phán xét riêng Chúa dành cho chúng ta. Đó là lý do vì sao chúng ta phải luôn khôn ngoan chuẩn bị cho tương lai đời mình. Năm trinh nữ khờ dại đã không nghĩ đến chuyện đó, nên các cô đã bị lỡ.
Qua dụ ngôn “Mười trinh nữ” Chúa Giê-su cũng dạy chúng ta về sự sống sau khi chết. Chết là biến đổi sang trạng thái khác. Đối với những ai tín trung với Chúa, chết là gặp gỡ Chúa, và là dự tiệc vui muôn đời. Thánh Phao-lô trong thư gửi tín hữu Thê-xa-nô-ni-ca đã đưa ra lời giải thích về sự chết, để người tín hữu không còn buồn phiền bi quan. Chúng ta kẻ trước người sau, ai cũng phải đến lúc kết thúc cuộc đời. Nếu sống thánh thiện thì sẽ được gặp nhau mãi mãi trên quê trời.
Tháng Mười Một hằng năm được dành riêng để tưởng nhớ và cầu nguyện cho những người đã khuất. Dụ ngôn “Mười trinh nữ” cũng thường được đọc trong thánh lễ an táng và cầu hồn, như một lời mời gọi những ai đang sống hãy tỉnh thức và sẵn sàng.
Khi cầu nguyện cho người đã qua đời, chúng ta cũng nghĩ đến thân phận mình. Hãy tìm kiến Đức Khôn Ngoan.
Hãy theo học với Người.
Tác giả Thánh vịnh (Đáp ca) đã thưa với Chúa:
“Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, ngay từ rạng đông, con tìm kiếm Chúa.”
Ước chi mỗi chúng ta cũng khởi đầu ngày mới bằng việc tìm kiếm Chúa, tìm kiếm Đức Khôn Ngoan, để chúng ta cũng được nên khôn ngoan giống như Người.