Thánh Phanxicô Assisi – Người nghèo của Thiên Chúa.

ĐỨC MẸ NÚI CÚI CẦU CHO CHÚNG CON

Joseph Võ Đình Thuần

 Thánh Phanxicô Assisi – Người nghèo của Thiên Chúa.

Có những vị thánh được gọi bằng nhiều tước hiệu cao sang, nhưng Phanxicô Assisi chỉ cần một tên gọi giản dị: Người nghèo của Thiên Chúa. Danh xưng ấy không phải là sự thiếu thốn, mà là lời tôn vinh cao quý nhất dành cho một tâm hồn đã biết trút bỏ tất cả, để chỉ còn lại duy một điều: tình yêu dành cho Thiên Chúa.

Ngày còn trẻ, Phanxicô là chàng trai hào hoa, mơ ước công danh và vinh quang. Nhưng khi gặp được ánh sáng của Đấng Tình Yêu, ngài đã chọn một lối đi ngược lại: rũ bỏ giàu sang, ôm lấy nghèo khó. Trước mặt mọi người, ngài cởi bỏ cả áo quần quý giá, đứng trần trụi như một trẻ thơ, để khởi đầu một cuộc đời mới – cuộc đời thuộc trọn về Thiên Chúa.

Từ ngày ấy, Phanxicô đi khắp các nẻo đường Assisi, tay không nhưng lòng tràn đầy bình an. Ngài gọi chim muông là anh em, gọi trăng sao là chị em, và coi cả vũ trụ như một gia đình. Trong cái nhìn trong veo của ngài, mọi sự đều chan chứa tình yêu, bởi tất cả được sáng tạo từ bàn tay Thiên Chúa. Chính sự nghèo khó đã làm trái tim ngài mở rộng, để yêu thương tuôn trào không biên giới.

Ngài nghèo không vì thiếu thốn, mà vì chọn nghèo như một lối sống, một lời đáp trả. Nghèo để được tự do, để trái tim không còn vướng bận bởi phù hoa chóng qua, mà hoàn toàn mở ra cho Đấng Vĩnh Cửu. Cái nghèo ấy không phải là trống rỗng, mà là viên mãn; không phải là từ khước sự sống, mà là gặp được mạch nguồn sự sống đích thực. Ngài bỏ tất cả để có thể ôm trọn bầu trời. Ngài tìm thấy kho báu trong từng giọt sương, tiếng chim, và cả những giọt lệ đau khổ của con người.

Nhìn vào gương mặt hiền hòa của Người nghèo Assisi, tôi tự hỏi: trái tim tôi đang thuộc về ai? Có phải danh vọng, tiền tài, lạc thú, hay cái tôi kiêu hãnh đang chiếm hữu tôi? Và tôi hiểu: chỉ khi biết “nghèo đi” – nghèo đi lòng ích kỷ, nghèo đi tham vọng, nghèo đi nỗi sợ mất mát – tôi mới có thể trở nên giàu có trong Thiên Chúa như Thánh Phanxicô.

Người nghèo của Thiên Chúa đã để lại cho nhân loại không chỉ một linh đạo, mà còn một bài ca sống động về tình yêu: bài ca của tự do, của đơn sơ, của hòa bình. Bài ca chan chứa ánh sáng ấy vẫn vang vọng qua nhiều thế kỷ, mời gọi ta cùng thưa lên một lời:

“Lạy Chúa, xin cho con biết chọn Ngài làm gia nghiệp, để trong sự nghèo khó, con tìm thấy kho tàng vô tận nơi tình yêu của Ngài.” Amen


 

VỀ VIỆT NAM KHI  TIẾP CHUYỆN NÊN GIẢ NGU CHO NÓ LÀNH

Phaolô Hiển NguyễnNguyễn Doãn Đôn

Tôi về phép VN khi ngồi nói chuyện với nhiều vị là tôi chỉ nghe là chính, để dò xem họ nhận thức ra sao. Thường thì tôi cứ giả vờ gật đầu, chứ rất ít khi phản bác lại họ, mặc dù mình muốn lắm và “điên” trong cái đầu lắm! Nghĩa là ừ ừ;  cạc cạc cho xong con mẹ nó đi; chứ cãi với người tăm tối là mình cũng vô tình mà thành ngu như họ. Rồi họ ghét mình và vu cho là thằng phản động…

Tốt nhất là cứ cười trừ cho qua ngày phép mà đi cho đỡ ấm ức. Đàn gẩy tai trâu phỏng có ích gì.

Cụ Nguyễn Du khi tả về tâm trạng này, thì cụ lấy tích ngày xưa viết ra  hai câu thơ lục bát trong Truyện Kiều rất tài tình là:

“Giường kia treo những hững hờ

Đàn kia ai gẩy ngẩn ngơ tiếng đàn”

Ví dụ người Dân ở quê họ khoe con cháu họ học giỏi, thế nọ,thế kia; Nhưng họ chả hiểu gì khi các cháu học xong Đại học có việc làm đâu. Họ đâu có biết rằng, như ở Đức này con cháu chúng ta chưa tốt nghiệp Đại học đã có bao Hãng họ sẵn sàng nhận vào làm rồi, mà không cần chạy chọt hay “phong bì”.

Rồi họ khoe là  làng xóm bây giờ so với ngày xửa, ngày xưa một trời, một vực; không phải thắp đèn dầu ma rút, không còn đường đất, bùn ngập đến cổ chân, xe ô tô vào được  tận sân v.v… Và họ cho rằng đó là nhờ ơn Đảng và Bác.

Họ không hiểu rằng đó là quy luật phát triển tất yếu, kể cả ở cả các nước chậm tiến và lạc hậu bên Châu Phi. Ở đây  không hề có yếu tố  Đảng và Bác đóng vai trò trong đó.

Họ không hiểu rằng với tốc độ phát triển bằng ấy năm trời thì ở các nước Tư bản dân chủ thì còn nhanh gấp 10 lần so với ở VN. Chúng ta cứ lấy ví dụ sự phát triển của cái Iphone nó nhanh như thế nào; Nó đâu có cần nhờ Bác và Đảng cài cấy co chíp lưu manh gái gú tùm lum, ăn cướp Chính quyền và tham nhũng vào để có Iphone 17 như bây giờ?

Họ không hiểu rằng lẽ ra một Đất nước như VN là bây giờ không những phải đảm bảo cho người Dân trong nước có đời sống sung túc ; mà còn phải có nguồn tiền của dồi dào gần như các nước G 7 để dang tay cứu giúp,  ủng hộ ra các nước ngoài nữa, để giúp họ khi họ gặp  chiến tranh, tai họa, hay vùng xích đạo không có thổ nhưỡng,khí hậu, tài  nguyên, khoáng sản phong phú như mình…  

Lẽ ra họ  phải nghĩ ngược lại mới đúng. Rằng, nếu Đảng và Bác không bảo thủ, không ngu dốt,  không độc tài toàn trị mà theo đường lối Dân chủ văn minh tiến bộ như Nhật, Nam Hàn, Singaphore hay Đài Loan thì bây giờ Dân Việt mình còn có đời sống rất có thể là hơn cả các nước kia.

Tại sao hơn?  Vì thổ nhưỡng, khí hậu, tài nguyên, vị trí địa lý của nước ta hơn hẳn họ. Thêm vào đó lại không có động đất và núi lửa thường xuyên đe dọa như ở Nhật.

Cái ấu trĩ của nhiều người Việt  chúng ta ở trong nước là cứ so sánh  thấy bây giờ hơn cách đây vài chục năm là họ sung sướng và ngạo nghễ.   Họ cho rằng được như thế là phải biết ơn Đảng và Bác.

Tôi sống ở Đức đã lâu thì thấy dân Đức họ không có cách nghĩ vớ vẩn nhố nhăng và u minh như thế. Họ chỉ nghĩ là họ bầu lãnh đạo lên làm việc là những người này phải có trách nhiệm và bổn phận làm việc cho nghiêm túc. Nếu không thì dân họ đòi phải từ chức, không bầu nữa.

Dân Đức quan niệm người lãnh đạo hay Nguyên thủ Quốc gia cũng hệt như họ  đi làm trong các hãng vậy.  Họ làm mà không tốt, thì sẽ bị chủ hãng cho nghỉ việc.

Cũng chính vì vậy mà nước Đức thiếu gì Nguyên thủ và lãnh đạo tài và có đạo đức tốt; nhưng họ không không có kiểu tôn sùng như nhà mình cho lên bàn thờ và xây lăng. Họ có bao nhiêu là đảng phái lãnh đạo, Nguyên thủ của họ tài hơn và có đạo đức hơn ông Hồ nhiều, nhưng họ đâu có cần phải há miệng ra cảm ơn và xây lăng cho ai.

Làm sao người dân VN phải nhận ra được rằng vì Đảng CS và ông Hồ đã mắc sai lầm  nghiêm trọng, khi tìm con đường cho Dân tộc theo đi, lại lạc vào con đường tăm tối – Con đường ngu ngốc, lỗi thời mà Nhân loại đã bỏ đi lâu rồi,  nên bây giờ Dân tộc  chúng ta mới ì ạch; ra nước ngoài lãnh đạo cũng hệt như dân, đi đâu để lại tiếng xấu đó;  thua chị, kém em đủ điều.

Nhân tài ở VN có quá ít ỏi, chỉ vì Thể chế kìm hãm, chứ không phải là do  dân mình ngu. Cũng là người Việt, nhưng họ sang Mỹ thì thành Tướng giỏi, thành các Nhà khoa học nổi tiếng; nhưng những người này mà ở VN chắc gì đã làm nên công trạng.

Cũng như cây cam sành trồng đất xứ Đoài thì cho ra trái ngọt, nhưng đem nó sang trồng nơi xứ Đông thì cho ra trái chua. Thể chế chính là mảnh đất, mà mỗi người Dân là một loài cây.

Chính vì thể chế ờ VN không chính danh và tăm tối đó, đã độc tài lại bất tài;  mà Dân ta nghèo khổ. Họ phải ra đi làm cu li khắp Năm châu, Bốn biển.

Nguyễn Doãn Đôn


 

Hội nghị về khí hậu ở Vatican quy tụ 1000 nhà hoạt động

Tổng hợp của Copilot

Tòa thánh Vatican đã mời Arnold Schwarzenegger giúp tăng cường các nỗ lực vận động về khí hậu trong hội nghị “Nuôi dưỡng hy vọng cho công lý khí hậu ”

Schwarzenegger thách thức Trump, ủng hộ sáng kiến ​​môi trường của Vatican

Arnold Schwarzenegger đang ủng hộ sáng kiến ​​môi trường của Vatican

Hội nghị được tổ chức tại Castel Gandolfo để kỷ niệm 10 năm thông điệp về môi trường Laudato Si’ của Đức Giáo hoàng Francis

Catholics Divided Over Global Warming | Pew Research Center

U.S. Catholics’ views on climate change and the environment | Pew ...

Earth May Have Already Surpassed 1.5°C Warming Threshold

Arnold là một người Công giáo và là người ủng hộ môi trường lâu năm , Schwarzenegger mang đến sự công nhận toàn cầu về biến đổi khí hậu và thông điệp của cộng đồng.

Effects | Facts – Climate Change: Vital Signs of the Planet

Các chủ trương của Giáo Hội Công Giáo bao gồm

  • Huy động mạng lưới rộng lớn của Giáo hội với 400.000 linh mục và 1,4 tỷ người Công giáo để hành động vì môi trường khí hậu.

  • Khuyến khích giáo sĩ lồng ghép các nguyên tắc của Laudato Si vào bài giảng thánh lễ.

  • Nêu bật mục tiêu của Vatican là trở thành quốc gia không phát thải vào năm 2050.

  • Chuẩn bị cho hội nghị thượng đỉnh COP30 sắp tới tại Brazil

Sự hợp tác này nhấn mạnh sự chuyển hướng chiến lược của Vatican sang truyền thông tác động mạnh mẽ và huy động cộng đồng vào việc bảo vệ môi trường khỏi biến động do khí hậu tạo ra.

Global Warming VS Climate Change. Planet earth ,ecology concept, global ...

Hàng chục nhà khoa học, nhà kinh tế và nhà thần học đã thảo luận về phát triển bền vững tại <a href="//www.casinapioiv.va/content/accademia/en/events/2014/sustainable.html">một hội thảo kéo dài bốn ngày tại Vatican.</a>

Cách nay 10 năm cũng đã có các hoạt động, Hàng chục nhà khoa học, nhà kinh tế và nhà thần học đã thảo luận về phát triển bền vững tại hội thảo kéo dài bốn ngày ở Vatican. Ảnh của Viện Hàn lâm Khoa học Giáo hoàng (15-5-2015)

Hội thảo này đáng chú ý vì đây chỉ là cuộc họp chung thứ hai của Viện Hàn lâm Khoa học và Khoa học Xã hội Giáo hoàng và vì sự đa dạng của những người tham gia: từ Tổng giám mục Roland Minnerath (Dijon, Pháp) đến nhà hải dương học 96 tuổi Walter Munk của Viện Scripps và Paulus Zulu , một nhà xã hội học người Nam Phi.

Tuyên bố này phân chia nhiệm vụ của nhân loại, một cách phù hợp, thành nhiệm vụ kỹ thuật và khoa học nhằm nuôi dưỡng xã hội loài người bằng các nguồn năng lượng sạch và thực phẩm bền vững — mà những người tham gia cho là “có sẵn hoặc trong tầm tay”, và thách thức lớn hơn nhiều là xây dựng cam kết đạo đức và các cấu trúc chính phủ và tài chính có thể giảm bất bình đẳng, đầu cơ trục lợi và các tệ nạn xã hội khác. Tuyên bố này gợi lại những bài viết của Đức Giáo hoàng Phanxicô:

Hành động của con người không tôn trọng thiên nhiên sẽ trở thành đòn phản công đối với con người, tạo ra bất bình đẳng và mở rộng cái mà Đức Giáo hoàng Phanxicô gọi là “sự toàn cầu hóa của sự thờ ơ” và “nền kinh tế loại trừ” ( Evangelii Gaudium ), bản thân chúng gây nguy hiểm cho tình đoàn kết với các thế hệ hiện tại và tương lai.

Hãnh diện là người vượt biển bất hợp pháp! – Đoàn Xuân Thu

Kimtrong Lam                                                   

Đoàn Xuân Thu –

26 tháng 9, 2025

Tháng Tư năm 1975, Sài Gòn thất thủ, và một cơn sóng di tản chưa từng có trong lịch sử dân tộc ập đến.

Những chiếc trực thăng Huey rung rinh hạ cánh trên boong các hàng không mẫu hạm Mỹ ngoài khơi; những tàu hải quân chở đầy người Việt chạy trốn CS. Cùng lúc, hàng nghìn người dấn thân vượt sóng biển bằng những chiếc thuyền nhỏ, liều mạng đối mặt với bão tố và hải tặc. Họ ra đi với một tâm thế chung: tìm tự do, tìm quyền sống còn, bất chấp mọi nguy hiểm.

Những người lên trực thăng và đáp xuống boong tàu Mỹ, theo luật quốc tế, đã tạm thời bước vào lãnh thổ Mỹ. Một chiếc tàu mang cờ Mỹ, theo nguyên tắc “extraterritorial jurisdiction,” được coi như mở rộng lãnh thổ quốc gia. Nhờ sự cho phép trực tiếp của thuyền trưởng, họ nhập cảnh một cách hợp pháp, mặc dù chưa có passport hay visa. Những giấy tờ này sau đó mới được các cơ quan di trú Mỹ cấp khi họ được ghi nhận là người tị nạn.

Trong khi đó, những người vượt biển bằng thuyền nhỏ, đối diện nguy cơ sinh tử, phải trôi dạt trên biển cả hàng tuần, thậm chí hàng tháng. Khi cập bến các nước Đông Nam Á, họ mới được xem xét tình trạng tị nạn, chưa có sự hợp pháp ngay từ đầu.

Cuộc hành trình của họ là hành trình phi thường của ý chí sống, một minh chứng sống động cho sự liều mạng tìm tự do. Không ít người gọi họ là “stateless” – không quốc tịch. Thực ra, họ vẫn là công dân VNCH, nhưng sau 30 Tháng Tư 1975, VNCH đã sụp đổ, lãnh thổ bị Cộng sản tiếp quản, nên họ không còn nơi nào để thực hiện quyền công dân. Đây là một trạng thái tạm thời, mang tính pháp lý thực dụng, giúp các quốc gia tiếp nhận bảo đảm quyền tị nạn.

Từ góc độ chính quyền CS, họ vượt biển bất hợp pháp, nhưng chính điều này lại trở thành niềm hãnh diện là di dân bất hơp pháp, vì họ liều mạng tìm tự do, vượt qua chế độ đàn áp và nguy cơ sinh tử.

Họ ra đi mà không có hộ chiếu hợp lệ, visa, hay giấy phép xuất cảnh chính thức.

Những người lên trực thăng, đáp tàu Mỹ, tạm thời được thuyền trưởng cấp quyền cư trú.

Những người vượt biển thì phải xin tị nạn tại trại hoặc cảng tiếp nhận. Trong mọi trường hợp, họ vượt ngoài mọi quy chuẩn giấy tờ, nhưng theo luật quốc tế họ là người tị nạn.

Đây là một thực tế khiến thế giới phải nhìn bằng sự ngưỡng mộ, bởi không phải ai cũng dám liều mạng để bảo vệ mạng sống và quyền tự do của mình.

Điểm đáng chú ý là hai nhóm người ra đi:

1.Nhóm trực thăng/đáp tàu: nhập cảnh hợp pháp nhờ sự cho phép đặc biệt của thuyền trưởng; giấy tờ tạm thời được cấp sau đó; dễ dàng hơn trong quá trình di trú.

2.Nhóm vượt biển bằng thuyền: sống trong nguy cơ cao, tạm thời chưa hợp pháp; khi đến bến, phải xin tị nạn, trải qua quy trình xét duyệt; sự sống và quyền tự do hoàn toàn phụ thuộc vào lòng can đảm và may mắn.

Xin nhấn mạnh. Còn đi có hộ chiếu của CS cấp, có chiếu khán nhập cảnh Hoa Ky sau tháng 9 năm 1995 lúc CS và Hoa Kỳ bình thường hoá bang giao thì trong trường hợp nầy họ là di dân hợp pháp họ được CS cho đi! Hợp pháp kiểu nầy hay ho gì đó mà khoe mà tự nhận chớ?

Tóm lại những chuyến đi vượt biển này không chỉ là sự liều mạng, mà còn là biểu tượng hùng tráng của quyền sống và quyền tự do.

Chính vì thế, dù bất hợp pháp với chính quyền CS, họ vẫn hãnh diện với lựa chọn của mình.

Họ không trốn tránh trách nhiệm hay chạy trốn khỏi lịch sử; họ đang viết lại lịch sử của chính mình bằng máu, mồ hôi và quyết tâm sống còn.

Với các nước tiếp nhận, họ được xem là người tị nạn, nhưng cũng không hoàn toàn hợp pháp theo nghĩa thông thường, vì không có thông hành (passport) hay visa khi rời Việt Nam.

Tuy nhiên, luật quốc tế và chính sách nhân đạo ưu tiên bảo vệ tính mạng con người, vì vậy họ được cấp tình trạng tị nạn, giấy tờ tạm thời, và dần trở thành công dân hợp pháp của nước tiếp nhận. Đây là sự hợp pháp mang tính nhân đạo, khác hẳn với khái niệm hợp pháp thông thường về giấy tờ xuất nhập cảnh.

Nhìn lại, người Việt 1975 ra đi bằng trực thăng, tàu hải quân hay vượt biển là một thế hệ phi thường, không giống bất kỳ hình thức di cư nào thông thường. Họ đã biến nguy cơ thành niềm hãnh diện, biến tình thế sống còn thành hành trình tìm tự do.

Họ bất hợp pháp với CS nhưng hợp pháp với đạo lý sống còn; họ không có passport hay visa nhưng hợp pháp theo luật tị nạn; họ liều mạng trên biển nhưng trở thành biểu tượng sinh động của ý chí sống.

Ra đi năm 1975 là một minh chứng lịch sử rõ ràng rằng quyền sống còn, sự liều mạng và tinh thần tìm tự do có giá trị pháp lý, đạo đức và tinh thần cao hơn bất cứ giấy tờ nào.

Chính nhờ lòng can đảm và quyết tâm ấy mà người Việt 1975 đã viết nên một trang sử hùng tráng, làm rạng rỡ niềm hãnh diện của dân tộc, bất chấp mọi chế độ, luật lệ hay hiểm nguy.

(Melbourne)


 

Lại suy nghĩ về sự chết – Phùng Văn Phụng

Phùng Văn Phụng

Đầu tháng 05 năm 2025, tin tức từ Việt Nam, ở quê nhà cho biết anh Tr mất, thọ 95, 96 tuổi. Nhưng khi nói đến anh Tr. chết, cháu trong nhà liền nói “đừng nói đến chuyện mất, chuyện chết, không tốt”. Cháu cũng đã 58 tuổi rồi nhưng vẫn sợ nói đến sự chết “vì cho rằng, nhắc đến sự chết là xui xẻo”. Không muốn nói, không muốn nghe nói đến sự CHẾT. Cháu không dám nghĩ rằng làm người ai ai cũng phải chết vì đó là qui luật của tạo hóa: Sinh Lão Bịnh Tử”. Không có ai thoát khỏi qui luật này.

Tần Thủy Hoàng (259 TCN-210 TCN) đã ra lịnh tìm thuốc trường sinh nhưng Tần Thủy Hoàng cũng phải chết.

******

Tôi đã in tất cả 15 tờ giấy có ghi chữ “Suy Ngẫm: Làm Sao Vui Để Đợi Chết”, tôi đã dán trong phòng ngủ cũng là phòng làm việc của tôi.

Ngồi đâu cũng thấy câu này, sáng thức dậy nhìn lên tường là thấy câu này để nhắc nhở tôi về SỰ CHẾT. Làm người ai cũng phải ra đi, sẽ CHẾT, nhưng làm sao trong lúc đang sống cho đến lúc chết, có cuộc sống VUI hơn là sống với tâm trạng buồn rầu.

Thánh Vịnh 90 câu 10 có viết: “Tính tuổi thọ trong ngoài bảy chục, mạnh giỏi chăng là được tám mươi, mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ, cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi”.

1-      Nhờ thường xuyên suy niệm về sự CHẾT, nên khi bị người khác mắng chửi, khinh chê, nói xấu, bịa đặt, vu khống làm ta tổn thương, ta ít bị ảnh hưởng hơn, ít tức giận hơn?

2-      Nếu bị cự nự, công kích ta xem như không có và nên tội nghiệp, thương xót người đó vì phải có lý do nào đó họ mới chửi bới, nói xấu mình.

3-      Cầu nguyện cho họ vì họ đã hiểu lầm. Tại sao phải cầu nguyện cho họ? Nếu ta bỏ qua, đừng để ý đến, đó chỉ là hình thức tiêu cực mà thôi. Còn tích cực ta phải thương xót họ, phải cầu nguyện cho họ để cho họ sáng suốt, để họ phân định đúng, sai và có hành động đúng đắn hơn. Nhờ đó ta không bị ảnh hưởng bởi lời phê bình, chỉ trích vô lý của người khác.

4-       Sự giận hờn làm tim ta đau nhói, làm cho ta mất bình an, làm cho ta khó ngủ. Vậy ta có nên giận hờn không?

Vài suy nghĩ lan man:

-Nếu đau bịnh nặng không tự ăn uống, tắm rửa được thì làm sao?

-Vào sống ở Nursing home; thường có hai ý kiến trái ngược:

  1. a) không thích vì buồn, nhớ nhà, không quen, lạ chỗ
  2. b) đầy đủ tiện nghi có bác sĩ, y tá lo về sức khoẻ.

Vài tháng sau khi ta mất chẳng có ai còn nhớ đến ta. Những người bà con xa gần, thân nhân, con cháu có nhớ đến ta chỉ vài năm mà thôi. Mười năm, hai mươi năm chẳng còn ai biết đến ta chứ đừng nói cả trăm năm sau.

 Kết:

Đến tuổi này rồi, tuổi 83, tôi đã soát xét lại đời mình, thăng trầm quá nhiều, tù cải tạo, lăn lộn làm nhiều nghề khác nhau để sống.

Cho nên tôi luôn tự nhắc nhở cho chính mình:

Tạ ơn Trời mỗi sớm mai thức dậy,

Cho con còn ngày nữa để yêu thương.

Và làm sao phải “Yêu Mến Sự Chết” như lời nói của cố Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận?

Tháng 05 năm 2025

*****

Xin được bổ túc nhân ngày sinh nhật 11 tháng 07

Có sinh thì phải có tử.

Sinh Lão Bịnh Tử đó là quy luật tất yếu ai cũng biết.

Mỗi một ngày trôi qua, ta gần đến cái chết nhiều hơn. Còn trẻ 50 tuổi trở xuống, không thấy hay không nghĩ đến sự chết, nhưng những người đã trên 60 tuổi rồi thường suy nghĩ về sự ra đi của mình.

Tuy nhiên, sự việc 8 người đã chết vì hoả hoạn tại khu cư xá Độc Lập, thuộc quận Tân Phú, Sài Gòn, sáng ngày 07 tháng 07 năm 2025, trong đó có gia đình 4 người, chồng 41 tuổi, vợ 39 tuổi và hai đứa con 11 tuổi và 8 tuổi.

Hàng trăm người đã chết vì lũ lụt ở Kerrville, Texas ngày 08 tháng 07 năm 2025 trong số đó có nhiều trẻ em từ 10 đến 14 tuổi.

Do đó, không ai có thể dám quả quyết rằng “ta hoàn toàn bình an vô sự” cho đến ngoài 90 tuổi??? 

Hôm nay, ngày 11 tháng 07, tôi bước vào đúng tuổi 83, quá thọ rồi phải không? Bây giờ nếu viết cáo phó mới được ghi là Hưởng Thọ 83 tuổi.

Tôi viết để tự nhắc nhở mình một lần nữa thân phận mỏng dòn, yếu đuối của bản thân mình.

Ngày 11 tháng 07 năm 2025

Phùng Văn Phụng

 


 

Duyên nợ với Bạc Liêu – Đoàn xuân Thu

 Đoàn xuân Thu

Chùa Quan Vân Trường của người Hoa tại Bạc Liêu xưa – Nghe cái tên thôi là đã thấy… nghèo! Một chữ “bạc” là đã lạt lẽo, nhạt nhẽo, lại thêm “liêu” nghe buồn hiu như quán rượu đầu sông vắng khách. Nói gì thì nói, ai đặt tên cho xứ này chắc lúc đó chưa trúng số. Ấy vậy mà lạ nha! Ở đời, có những cái tên nghe nghèo nhưng ở bên trong… giàu hết biết. Và Bạc Liêu chính là một trong những cái “giả bộ nghèo ”như vậy đó

  1. Cái tên nghe buồn… nhưng đầy duyên nợ.

Ai từng nghe câu này thì biết:

“Bạc Liêu là xứ quê mùa.

Dưới sông cá chốt, trên bờ Triều Châu.”

Nghe qua tưởng người Bạc Liêu tự chê mình quê mùa, nghèo xơ xác. Nhưng nếu bạn tin vậy, thì bạn bị người ta “gài độ” rồi đó nghen!

Câu này không phải tự ti, mà là một đòn “tự trào”, kiểu “giả ngu để thiên hạ tưởng thiệt”. Chứ thực ra, cái quê mùa đó là quê mùa sang chảnh, quê mùa có phong cách, quê mùa mà ăn cơm có người bưng, nước mắm riêng từng dĩa nhỏ

Bạc Liêu

2. Bạc Liêu – cái tên không có trong từ điển… tiếng Việt!

Nhiều người tưởng “Bạc Liêu” là chữ Hán Việt, kiểu như “Bạc” là bạc tiền, “Liêu” là nhà lều – nghĩa là nhà nghèo. Tưởng vậy thì… trật lất!

Sự thật là “Bạc Liêu” không có nghĩa gì trong tiếng Việt cả, mà là âm Việt hóa của tiếng Triều Châu (Chaozhou – người Hoa gốc ở miền Nam Trung Quốc). Gốc từ này là “Po-Liêu”, có nghĩa là dòng nước lớn, chảy xiết. Người Hoa đọc “Po-liêu”, người Việt nghe quen tai, đọc chệch thành… “Bạc Liêu”.

Chuyện đơn giản như đang giỡn vậy đó. Như kiểu ông Sáu nói “sà lang” thành “xà lạng”, hay bà Bảy gọi “champagne” là “chàm panh”. Miễn hiểu nhau là được.

 3. Dưới sông cá chốt.

Cá chốt – nhỏ xíu, mình tròn, da trơn, nhưng kho lên thì ngon bá chấy bù chét

Ở Bạc Liêu, cá chốt không chỉ là cá để ăn mà là ký ức, là chất mặn mòi của đồng, của ruộng!

Hồi đó, mưa xuống là cá chốt bầy kéo nhau lên đồng, bắt bằng tay không cũng được tuốt. Kho với me, kho tiêu, nấu canh chua, nướng mọi – ăn riết mà nhớ đời.

Vậy nên “dưới sông cá chốt” không phải chê nghèo, mà là tuyên ngôn mộc mạc của sự sống ngon, sống thật. Không cần yến sào, vi cá mập, tôm hùm gì ráo. Cá chốt kho tiêu ăn cơm nguội thôi cũng quá đã trong một buổi chiều mưa.

Bạc Liêu xưa.

4.Trên bờ Triều Châu.

Bạc Liêu là đất của người Triều Châu – dân buôn bán, làm ăn siêng năng, thức dậy lúc gà chưa gáy, đóng cửa lúc trăng đã nghiêng. Từ tiệm vàng đến quán tàu hủ, từ rạp chiếu bóng tới xưởng nước đá, đâu đâu cũng có người Triều Châu góp mặt.

Nhưng cái hay là họ giàu mà không khoe, ở nhà gạch bông, đội mũ cối, đi xe đạp sơn lại hai màu, nhưng trong túi có thể rút ra tờ giấy bộ lư như chơi.

Nói “trên bờ Triều Châu”! Tiều trên bờ đâu mà đông như cá chốt dưới sông vậy?

Có người còn nói giỡn “Bạc Liêu không có Triều Châu là… không còn Bạc!” Bạc là kim loại quý sau vàng.

5.Mưa, lý, và sự lâm râm của tâm hồn phương Nam**

Ở Bạc Liêu, trời mưa không phải để lạnh, mà để buồn. Mưa ở đây gọi bằng nhiều tên lắm: mưa lâm râm, mưa bong bóng, mưa dầm, mưa thúi đất, mưa gió chướng, mưa đầu mùa, mưa trái mùa… Nhưng dù tên gì thì mưa cũng ướt lòng chứ không chỉ là ướt áo.

Và mỗi lần mưa, người ta hát lý.

“Lý Con Sáo Bạc Liêu” bay ngang đồng vắng.”Lý Chiều Chiều” rớt vô quán cà phê đầu xóm. “Lý Bạc Liêu” ngân nga trong cải lương “Dạ cổ hoài lang”.

Mỗi điệu lý là một cách người ta nói chuyện tình mà không bị vợ ghen bóng, ghen gió. Vừa hát vừa tự nhiên như ngưòi “Hà Lội” ngó qua nhà vợ thằng hàng xóm. Gặp ai biết đàn guitar phím lõm cỡ con của Văn Vĩ thì thôi rồi Lượm ơi– lý tới sáng, lý tới khi trời mưa ngừng mà tim còn lâm râm không cho ai ngủ nghê gì hết ráo hè!

Bạc Liêu ngày nay không còn quê mùa như xưa cách nay nửa thế kỷ nữa, (dĩ nhiên). Đèn đường sáng, cầu bê tông bắc tới ruộng, công viên có nhạc nước, quán nhậu mở tới 2 giờ sáng cho mày xỉn chết cha mày luôn. Nhưng cái tình của đất, cái lý của người, cái duyên của giọng nói, cái âm của con sáo thì vẫn còn nguyên.

Tên gọi “Bạc Liêu” là một minh chứng tuyệt vời cho triết lý sống của người miền Tây:

**Nghe thì tưởng nghèo, nhưng chơi thì hết biết. Thấy thì tưởng lạt, nhưng ăn thì đậm đà. Nói thì tưởng chơi, nhưng nghe kỹ… là triết lý.

Cuối cùng bạn hỏi tui: “Bạc Liêu là gì?”

Tui trả lời: “Bạc Liêu là một cái tên không có nghĩa rõ ràng, nhưng nghĩa tình thì rõ ràng quá chừng.”

Bạn muốn tìm nghĩa? Mời xuống miền Tây một bữa, đứng dưới mưa ướt dầm bông sói, nghe con sáo nó lý thử coi!

“Lý con sáo bay xa, lý con sáo bay về…”*

Còn tui xa Bạc Liêu đã 30 năm và tui xin bắt chước nhà thơ Nguyễn Bính:

Nói ra sợ mất lòng em,

Van em! Em hãy giữ nguyên quê mùa.

 Tác giả: Đoàn Xuân Thu 

From: Tu- Phung

Châu Mỹ và Christopher Columbus – Trần Lý Lê

Trần Lý Lê

Christopher Columbus. (Hình: Wikipedia.org)

13 Tháng Mười năm nay, niên lịch không còn ghi nhận ngày Columbus và không còn là một dịp “nghỉ lễ” nữa.

Người địa phương (ngày trước bị miệt thị là “thổ dân da đỏ”) phản đối suốt mấy chục năm mới thành công. Tôn vinh ông Columbus và cuộc xâm lăng châu Mỹ là một sự sỉ nhục cho tổ tiên họ. Đang sinh sống trên đất nước thì bị đám người tay súng tay dao kéo đến tàn sát và tròng lên cổ người địa phương [thua trận] cái ách nô lệ. Họ phản đối vì lịch sử méo mó “làm đẹp” cho chuyện ngày xưa dù biết bao nhiêu chi tiết về cuộc xâm lăng [của người châu Âu] vẫn còn rành rành chưa mất hết dấu vết. Vì “yếu sức” nên “yểu mạng.” Người địa phương thủa ấy sống phây phây, đâu cần ai khai phá, dạy dỗ nếp sống văn minh kiểu Âu Châu!

Chuyện ông Columbus “khám phá” ra châu Mỹ là chuyện khá cũ, lịch sử viết bởi kẻ chiếm đất. Ông ấy được xem như nhà thám hiểm hàng đầu trong sách vở Âu Mỹ. Thế rồi người đời sau cũng tìm ra ít nhiều chi tiết về chuyến vượt biển lạc đường của ông ấy và con cháu kẻ chiếm đất cũng phải nhìn nhận việc làm [bất nhân] của ông cha mà tạ lỗi với người địa phương. Đầu tiên là chấm dứt việc vinh danh kẻ dẫn đầu [dù hoàng gia Tây Ban Nha đứng sau tài trợ, cung cấp tiền bạc, binh lính, thuyền bè…] chuyến “thám hiểm.” Mãi đến năm nay, niên lịch Huê Kỳ mới vắng bóng chữ “Columbus Day” và một vài cuốn lịch đã dùng “Native American Day” để ghi nhận sự hiện diện của “chủ đất” dù rất muộn màng.

Tất nhiên tại quê nhà xứ Tây Ban Nha bên kia biển rộng, xứ sở ấy vẫn vinh danh ông Columbus. Ông qua đời năm 1506 tại Valladolid, Tây Ban Nha nhưng lại dặn dò con cháu là rinh hài cốt qua đảo Hispaniola, ngày nay là lãnh thổ chung của hai quốc gia Dominican Republic và Haiti.

Đến năm 1542 thì ông được như ý nguyện, nhưng rồi không hiểu tại sao mồ mả lại bị đào lên để chuyển sang Cuba năm 1975 và sau cùng năm 1898, lại đưa về Seville, Tây Ban Nha đặt trong nhà thờ chính tòa của thành phố. Có lẽ đây là thành phố đẹp nhất của Tây Ban Nha theo ý riêng, còn giữ được đầy đủ dấu vết của người xưa kể cả kẻ đã một thời chiếm giữ vùng đất ấy.

Hồi nẳm phe ta ghé qua Seville có đến nhà thờ và nhìn ngắm mộ nổi của Columbus, lần đầu thì vô cửa tự do nhưng lần thứ nhì ghé nhà thờ sau thánh lễ thì phải mua vé đàng hoàng!

Lăng mộ đặt trên bệ cao có những bức tượng “canh gác” chung quanh, cung cách lưu trữ hài cốt ngang hàng với vua chúa thì ta hiểu rằng người Tây Ban Nha nhớ công ơn ông.

Là người dẫn đầu các cuộc khám phá châu Mỹ của người Âu Châu nên cư dân ở bển có khuynh hướng nhận người sang làm họ. Kẻ nói rằng ông Columbus gốc gác từ Genoa, Ý; người lại cãi là ông là người Hy Lạp, Tây Ban Nha gốc Do Thái, gốc Bồ Đào Nha, hoặc gốc Anh?

Tranh luận mãi nên sau cùng, người ta lấy ra một mảnh xương từ quan tài tại Seville đem đi thử nghiệm di tính, DNS. Theo truyền thống Á Châu, ông Columbus là người bất hạnh, thân xác cứ bị đào xới, cắt cứa lu bù cả mấy trăm năm sau ngày qua đời. Mãi không yên. Nổi danh quá cũng … khổ?

Nhóm chuyên viên Tây Ban Nha, sau 22 năm nghiên cứu, Miguel Lorente, người dẫn đầu chương trình tìm kiếm, so sánh DNA từ hậu duệ, mới công bố kết quả qua chương trình truyền hình “Columbus DNA: The true origin.” Qua DNA của người con trai, ông  Hernando Colón, các di tính của họ tương đồng với nguồn gốc Do Thái.

Trong thế kỷ XV, khoảng 300,000 người Do Thái sinh sống tại Tây Ban Nha cho đến khi triều đại Isabella & Ferdinand ép buộc di dân Do Thái và tín đồ Hồi giáo cải đạo, phải theo Thiên Chúa giáo bằng không chịu trục xuất. Nhóm người “tân tòng” này được gọi “Reyes Catolicos.” Những người Do Thái [từ Tây Ban Nha] tản mát khắp nơi để duy trì đức tin và giòng dõi có tên “Sefarad” (Spain theo Hebrew); gốc của chữ “Sephardic,” Sephardic Jews.

Ông Lorente còn nói thêm rằng sau khi thẩm định kỹ lưỡng các chi tiết về nơi ra đời, khoảng 25 địa phương được cho là nơi sinh của nhà hàng hải, và cuối cùng, vùng Tây Âu được chọn, nghĩa là không gọi đích danh một nơi nào.

Sự say mê (hay tò mò?) về nhà thám hiểm không ngừng ở nơi sinh, gốc gác mà còn kéo theo nhiều thứ khác như thư từ của ông ấy cũng được sưu tầm, lưu trữ và buôn bán.

Năm 2020, cơ quan di trú và quan thuế (Immigration and Customs Enforcement – ICE) và bộ Tư Pháp Huê Kỳ công bố đã tịch thu được một lá thư (bản in) của ông Columbus gửi cho các chức sắc Ý trong thế kỷ XV. Lá thư này nằm trong bộ sưu tập của Biblioteca Nazionale Marciana tại Venice, Italy; bị đánh cắp trong thập niên 80 của thế kỷ trước. Lá thư qua tay nhiều người sưu tầm và cuối cùng trong tay của một nhà sưu tầm cổ thư tại Hoa Kỳ. Ông này mua lại lá thư vào năm 2003.

Tháng Bảy năm 2023, giám đốc ICE, ông Patrick J. Lechleitner, “khiêng” lá thư qua Rome, hoàn trả chính phủ Ý theo thỏa thuận quốc tế, không giữ vật bị đánh cắp. Của Cesar trở về với Cesar. Theo ông Lechleitner, trong mấy chục năm qua, đây là lần thứ tư Hoa Kỳ tịch thu được các bản in của lá thư đã bị đánh cắp. Các bản in khác đã được hoàn trả thư khố Vatican City năm 2018, thư viện của thành phố Florence, Ý và Library of Catalonia, Tây Ban Nha.

Lá thư viết bằng chữ La Tinh năm 1493, là một trong 30 lá thư còn sót lại của ông Columbus gửi vua Ferdinand và hoàng hậu Isabella (hoàng gia Tây Ban Nha) kể chuyện khám phá đất mới. Đây là bản in Plannck I edition, theo tên gọi của nhà in nổi danh Stephan Plannck người đã phát hành hai bản in của lá thư [gốc] trên 500 năm về trước. Cổ thư và phó bản rất quý hiếm, được sử gia và những người sưu tầm tìm kiếm nên thường bị đánh cắp [để bán buôn]. Bản in kể trên trị giá khoảng $1.3 triệu.

Những “cái quạt” xem ra bị thu hút mạnh mẽ bởi người nổi tiếng, bất kể tiếng thơm hay tiếng không thơm, rồi mày mò tìm kiếm cũng như thu nhặt di vật liên quan đến người nổi tiếng nọ. Ông cụ Columbus cũng không ngoại lệ, mồ mả bị đào xới, di hài bị cưa cắt săm soi, vật dụng cá nhân bị (được) truyền tay, con cháu được phỏng vấn (hay bị căn vặn?) đến nơi đến chốn để tìm ngọn ngành mà viết thành lịch sử và những câu chuyện bên lề.

Phe ta cũng là người khá tò mò, khách hàng của những câu chuyện lịch sử, đã tiếp tay phần nào cho những… đào xới kể trên nên có chút áy náy. Các câu chuyện lịch sử về thổ dân châu Mỹ từ những chuyến đi Peru, Guatemala, El Salvador, Berlitz, Honduras xem ra vẫn chưa đủ… cân bằng.

Trần Lý Lê

 – 21 tháng 9, 2025

From: taberd & NguyenNThu

Sức mạnh của im lặng và lòng nhân ái

 Gieo Mầm Ơn Gọi

Trong cuộc sống, ai cũng có lúc muốn lên tiếng, muốn thể hiện quan điểm, muốn chứng minh mình đúng. Nhưng đôi khi, sự thật đơn giản và sâu sắc nhất lại nằm ở chỗ: nếu không thể nói điều gì tốt đẹp, thì hãy im lặng.

  1. Lời nói – con dao hai lưỡi

Lời nói có thể nâng con người ta lên, cũng có thể kéo người ta xuống tận cùng đau khổ. Một lời động viên đúng lúc có thể vực dậy cả một trái tim đang tuyệt vọng. Ngược lại, một lời cay nghiệt, một câu châm chọc, có thể khiến ai đó gục ngã.

Thế nên, im lặng không phải là yếu đuối. Im lặng là sự lựa chọn của người biết cân nhắc, biết rằng một lời nói sai có thể gây thương tổn lâu dài hơn cả một vết thương trên thân thể. Người trưởng thành không phải là người nói nhiều, mà là người biết khi nào nên nói, khi nào nên im lặng.

  1. Không giúp được thì ít nhất đừng hại

Trong hành trình đời, không ai bắt buộc chúng ta phải luôn giúp đỡ người khác, vì đâu phải lúc nào mình cũng có khả năng. Nhưng có một nguyên tắc cơ bản của nhân cách: nếu không thể giúp, thì đừng làm tổn hại.

Một người buôn bán, thấy hàng xóm khó khăn, nếu không chìa tay giúp, thì cũng đừng vì ganh ghét mà tìm cách chèn ép. Một người đồng nghiệp, nếu không thể nâng đỡ, thì chí ít cũng đừng đạp người ta ngã xuống.

Bởi vì, khi ta làm tổn thương người khác, cái ta gieo ra không chỉ là nỗi đau cho họ, mà còn là một hạt giống xấu trong tâm mình, đến lúc nào đó sẽ quay lại. Nhân quả vốn không bỏ sót một ai.

  1. Giá trị của sự tử tế giản đơn

Đừng nghĩ tử tế là những điều to tát. Đôi khi, chỉ cần im lặng đúng lúc cũng là một sự tử tế. Chỉ cần không làm tổn thương người khác, cũng đã là một dạng nhân đức.

Xã hội sẽ nhẹ nhàng hơn biết bao, nếu mỗi người kìm lại một câu nói xấu, một hành động gây hại. Bởi sống tử tế chưa chắc đã khiến mình giàu có, nhưng chắc chắn sẽ khiến mình thanh thản.

  1. Lời nhắn nhủ cuối cùng

Cuộc đời vốn ngắn ngủi, thời gian gặp gỡ nhau cũng chỉ là thoáng qua. Vậy thì thay vì gieo những vết thương, ta hãy để lại những kỷ niệm đẹp. Thay vì làm tổn hại nhau, ta hãy cùng nhau tạo nên một môi trường sống đầy nhân ái.

Nếu bạn có thể nói lời tử tế, hãy nói. Nếu bạn có thể giúp đỡ, hãy giúp. Còn nếu không, hãy chọn im lặng, và đừng làm tổn thương bất cứ ai. Đó đã là một sự cao quý.

Tú Tony


 

Tiểu Tử, những giọt nước mắt, những tiếng thở dài

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Từ Thức

26/09/2025

Nhà văn Tiểu Tử Võ Hoài Nam (1930-2025)

 LTG: Nhà văn Tiểu Tử, 95 tuổi, vừa từ trần tại Noisy le Grand, ngoại ô Paris, ngày 18/9/2025, sau nhiều năm chống chọi với bệnh tật.

Với lối hành văn ‘’miệt vườn’’, đặc biệt miền Nam, ông ghi lại một cách sống động những màn kịch vừa bi thảm vừa khôi hài ở miền Nam sau 1975. Ông nói thay hàng triệu người cái u uất, cái đau buồn một buổi sáng thấy mình mất quê hương, mất dĩ vãng.

Để tưởng niệm tác giả, xin gởi lại dưới đây bản ghi lại bài nói chuyện nhân dịp ra mắt sách Tiểu Tử trước đây tại Paris, Pháp

 *****

André Gide nói ‘’ Cest avec les beaux sentiments quon fait de la mauvaise littérature ‘’ (Với những tình cảm tốt, người ta làm văn chương dở) (1).

Tiểu Tử là một nhà văn đã chứng minh ngược lại, có thể viết hay với những tình cảm tốt. Trong tác phẩm của ông, hầu như chỉ có những tình cảm tốt , chỉ có tình người.

Một nhân vật nói về một nhân vật khác trong truyện ngắn ‘’Made in Vietnam’’ : người chi mà tình nghiã quá héng ? ‘’ . Độc giả nghĩ tới câu đó mỗi lần đối diện với những nhân vật của Tiểu Tử. Người chi mà tình nghiã quá héng.

Độc giả chai đá tới đâu , đọc Tiểu Tử cũng không cầm được nước mắt. Người ta khóc, nhưng sau đó thấy ấm lòng, vì thấy trong một xã hội đảo lộn, vẫn còn đầy tình người, vẫn còn đầy thương yêu, vẫn còn nghiã đồng bào, vẫn còn những người tử tế . Và thấy đời còn đáng sống.

Một nhà văn Pháp nói văn chương, trước hết là xúc động. Trong truyện ngắn của Tiểu Tử, sự xúc động hầu như thường trực, chan chứa.

MIỆT VƯỜN

Tiểu Tử là một nhà văn miền Nam điển hình, con đường nối dài của những Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam.

Văn của ông là lối kể chuyện của người miền Nam, bình dị nhưng duyên dáng, duyên dáng bởi vì bình dị, tự nhiên.

Tiểu Tử không ‘’ làm văn ‘’.

Không có chữ thật kêu, không có những câu chải chuốt. Với cách viết, với ngôn ngữ chỉ có những tác giả miền Nam mới viết được. Không hề có cường điệu, không hề có làm dáng. Người đọc đôi khi có cảm tưởng tác giả không mấy ưu tư về kỹ thuật viết lách. Ông viết với tấm lòng. Không có ưu tư văn chương, đó là một nhận xét gây tranh cãi sôi nổi về các nhà văn miền Nam trên một tờ báo văn học Sài Gòn trước 75. Nhưng nếu Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc viết như kể chuyện, Sơn Nam – với Hương Rừng Cà Mâu- và sau này, Nguyễn Ngọc Tư- với Cánh Đồng Bất Tận –có văn phong riêng, độc đáo.

Văn chương, trước hết là ‘’ style ‘’. Toni Morrison, nhà văn nữ Hoa Kỳ, Nobel văn chương, nói: nếu tôi đánh rơi vài tờ bản thảo, người lượm được sẽ nói: đây làn ăn thảo của Toni Morrison.

Có hai loại nhà văn : có văn phong hay không . Tiểu Tử thuộc loại nhà văn thứ nhất. Đọc vài câu, người ta biết là văn Tiểu Tử.

Ngay cả tên những nhân vật cũng đặc miền Nam, không có Lan, Cúc, Hồ Điệp , Giáng Hương, như trong tiểu thuyết miền Bắc, không có Nga My, Diễm My , Công Tằng Tôn Nữ như Huế, chỉ có những con Huê, con Nhàn, con Lúa, thằng Rớt, thầy Năm Chén, thằng Lượm , bà Năm Chiên, bà Năm Cháo lòng…

Các địa danh cũng đặc Nam kỳ, không có Cổ Ngư, Vỹ Dạ, Thăng Long, chỉ có những Nhơn Hoà, Cồn Cỏ, Bò Keo, Bình Quới, những tên, những địa danh rất ‘’miệt vườn’’, chỉ đọc cũng đã thấy dễ thương, lạ tai, ngồ ngộ. Âm thanh như câu vọng cổ ai ca bên bờ rạch.

Tiểu Tử , 88 tuổi, kỹ sư dầu khí, tác giả nhiều tập truyện ngắn ( Những Mảnh Vụn, Bài ca Vọng Cổ, Chuyện Thuở Giao Thời ) học ở Marseille, hiện sống ở ngoại ô Paris, nhưng văn của ông không lai Tây một chút nào. Rất Việt nam, đúng ra rất Nam Việt, với lối viết như người ta kể chuyện bên ly la de, bên tô hủ tíu, với những chữ nghen, chữ héng, chữ nghe..’’. ‘’ Cần gì cứ nói nghe cô Hai, đừng ngại. Mình với nhau mà ..’’.

Dưới ngòi bút của một tác giả người Bắc, người Trung, gọi người đàn bà là con Huê, con Nhàn có vẻ hỗn, ở Tiểu Tử, nó chỉ có sự thân ái. Ở ngoài đời cũng vậy, nghe ông gọi ‘’ con nhỏ ” này, con nhỏ kia, người nghe chỉ thấy chỗ thân tình

Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Tiểu Tử đã chứng tỏ ngôn ngữ địa phương, cách diễn tả địa phương làm giầu cho văn hoá dân tộc. Cố gắng bắt chước lối diễn tả Hà Nội là một lầm lỗi, nó chỉ làm cái vốn văn hoá của ta nghèo đi. ( Và đó là nói về Hà Nội ngày xưa, HN của ngàn năm văn vật. Hà Nội ngày nay không còn gì là nơi văn vật, cái gì cũng ‘’ đéo ‘’, như câu đối thoại ở một sạp báo, không biết có thực hay chỉ là chuyện tếu: ”Còn báo Nhân Dân không ? – Đéo còn nhân dân, chỉ còn Người Hà Lội ” )

NHỮNG GIỌT NƯỚC MẮT

Văn chương là hư cấu, nhưng đọc Tiểu tử, người ta thấy cái chân thực, có cảm tưởng không có chi tiết nào là kết quả của tưởng tượng.

Tất cả đều là những chuyện tác giả đã sống, hay đã nghe kể lại . Vả lại, ở Việt Nam, thực tế vượt xa tưởng tượng. Cái đau đớn, cái thảm kịch mỗi người Việt Nam đã, đang sống, không có người viết văn nào, giầu óc tưởng tượng tới đâu, có thể bịa ra. Orwell, Kafka sống dậy cũng chào thua, thấy óc tưởng tượng của mình có hạn.

Trong ‘’ Thầy Năm Chén ‘’, ông thầy thuốc, suốt đời làm việc nghiã, bị cách mạnh hành hạ, chuẩn bị cho con vượt biên. Khi giã từ con, ông đưa cho con, thằng Kiệt, ‘’ một cái gói mầu đỏ đã phai màu, cột làm nhiều gút’’ , nói : ‘’cho con cái ni. (ông già người gốc Huế ). Con giữ trong người để hộ thân.’’ Kiệt đến Cannada an toàn, một ngày dở cái gói của cha cho ngày vượt biển. Trong đó có … ba cái răng vàng. Thầy Năm Chén, nhờ ơn cách mạng, trở thành vô sản, đã cạy ba cái răng vàng cho con làm của hộ thân đi tìm đường sống ở xứ người. Độc giả hiểu tại sao từ ngày con đi, ông Năm Chén chỉ húp cháo.

‘’ Chiếc Khăn Mùi Xoa ‘’ có thể coi là điển hình cho truyện ngắn Tiểu Tử , trong đó có sự xúc động cao độ, đẫm nước mắt, với những nhân vật nhân hậu, giầu tình nghiã, những chi tiết éo le như một cuốn phim tình lãng mạn, nhưng đơn giản, chân thực.

Một người Việt tị nạn ở Pháp về thăm nhà, gặp những người bạn học cũ, trong đó có nhân vật chính, ‘’ con Huê ‘’, sự thực là một người đàn bà đã đứng tuổi. Ông ta kể lại : ‘’Con Huê tiễn tao ra cổng, đứng ngập ngừng một lát rồi bỗng nói một mạch, là lạ, như tụi mình trả bài thuộc lòng thuở nhỏ : Anh qua bên Tây , gặp anh Cương nói em gởi lời thăm ảnh . Nó nói rồi bỏ chạy vội vào trong, tao thấy nó đưa tay quệt nước mắt mấy lần. Tao đứng chết trân, nhớ lại lời con Nhàn, em con Huê, nói với tao : Anh biết không, chị Huê thương anh Cương từ hồi còn nhỏ lận . Người con gái ở quê mình nó thật thà, trung hậu đến mức độ mà khi trót thương ai thì thương cho đến chết. Họ coi đó là tự nhiên , phải có nước lớn nước ròng ‘’.

Tiểu Tử viết chuyện tình âm thầm của người đàn bà từ ngày còn đi học, tới ngày nay đã bạc đầu, với người bạn trai ngày xưa tên là Cương, nhưng sóng gíó 75 đã khiến người đàn ông bỏ nước đi lánh nạn. Người con gái của ông Cương, đang sống ở Bruxelles, đọc truyện, cho tác giả hay bố mẹ đều đã qua đời. Trước khi chết, Cương dặn con gái : ‘’ Con ráng tìm cách về Nhơn Hoà, Cầu Cỏ, trao cái này cho cô Hai Huê, nói ba không quên ai hết ‘’. Chữ ” ai ”, đặc Nam kỳ, dễ thương chi lạ. ‘’Cái này ‘’ là một bao thư, trong đó có chiếc khăn mùi xoa cô Huê đã tặng Cương thời trẻ. Người con gái thấy thương bố , thương cô Hai Huê không cùng. Cô gái đi Việt Nam, một xứ xa lạ, tìm về Nhơn Hoà, Cầu cỏ, tìm người đàn bà tên Huê để trao lại kỷ vật của người đã qua đời. Cô Hai Huê xỉu đi khi nghe tin người bạn xưa đã chết. Hai người đàn bà, một già, một trẻ ôm nhau khóc. Cô gái mang cô Hai Huê sang Bỉ, sống với nhau như mẹ con. Người chi mà…

Nếu bạn là người tưởng mình có tâm hồn sỏi đá vì đã sống, đã chứng kiến đủ mọi thảm kịch của đời sống, nhất là đời sống của một người Việt Nam, bạn sẽ ngạc nhiên thấy mình đang lau nước mắt.

KHÔNG ĐIÊN CŨNG KHÙNG

Thế giới truyện ngắn của Tiểu Tử xoay quanh hai đề tài chính: những kỷ niệm về một Miền Nam hiền hoà, chất phác, nhân hậu ngày xưa, với những trò vui đùa, nghịch ngợm của đám bạn bè trẻ, những mối tình mộc mạc của những người dân quê và, sau đó, những đảo lộn sau 75, khi tai họa trên trời giáng xuống. ‘’ Tất cả đều bị xáo trộn, bị nghịch lý đến nỗi tao sống trong đó mà lắm khi phải tự hỏi : làm sao có thể như vậy được ‘’. Một xã hội vô tư, kể cả vùng quê, hiền hòa, trở thành địa ngục. Chỉ còn hận thù, phản trắc, gian sảo, cướp đoạt, dối trá.

Những nhân vật của Tiểu Tử không còn cười đuà, vui chơi, dễ dãi nữa. Đó là những nhân vật đầy ưu phiền như ông Tư, như bà Hai, như thầy Năm Chén, như anh Bẩy, như bà Năm Cháo lòng. Một xã hội đổ nát, rách bươm. ‘’Những người ‘’cách mạng’’ xông vào nhà, ngang nhiên hùng hổ, như một bọn cướp. Họ ‘’bươi ‘’ từ dưới lên trên, từ trên xuống dưới, từ trước ra sau, từ sau ra trước…giống như gà bươi đống rác.Gặp gì kiểm tra nấy. Vậy rồi…hốt hết. ‘’

Sau 75 , người ta truyền nhau một câu ca dao mới : Thằng khôn thì đã vượt biên. Những thằng ở lại không điên cũng khùng.

Các nhân vật của Tiểu Tử, vốn là những người miền Nam hiền lành, dễ tin, yêu đời, nhiều người đã hết lòng với ‘’kháng chiến ‘’, sau ”cách mạng’’, đều bị đàn áp, gia sản bị cướp đoạt trắng trợn trong những chiến dịch ‘’ đánh tư sản mại bản ‘’ trở thành không điên cũng khùng.

Ông Tư ( trong IM LẶNG ) là người có gia sản ở Saìgòn, đã bí mật đóng góp tài chánh cho ‘’Giải Phóng’’. Khi Cộng Sản chiếm miền Nam, không những không được trả ơn, mà bị hành hạ, gia sản bị cướp sạch. ‘’ Bỗng nhiên ông Tư nhận thức rằng tất cả những gì thuộc về ông bây giờ chỉ còn lại người vợ cuả ông đang chờ đợi ông ở nhà ‘’. Nhưng bà vợ tiếc cuả, uất hận vì bị cách mạng lưà gạt, suốt ngày đay nghiến, trách móc chồng. Rốt cuộc hai vợ chồng tìm được cách chạy sang Pháp, nơi con trai ông đã được bố mẹ gởi đi du học, đã thành đạt, có nhà cưả sang trọng. Ông con hỏi bố ở chơi bao nhiêu ngày. Ông Tư nói ở lại luôn. Ông con nói, giọng đặc ‘’Việt kiều yêu nước’’ : ‘’ Ủa, sao lại ở luôn. Bây giờ nước nhà độc lập rồi, không còn thằng nào ngồi trên cổ mình hết; vậy mà ba má bỏ qua đây luôn. Thiệt là vô lý ‘’. Ông Tư trở thành một người câm, không nói gì với ai nưã. Cho đến một hôm ông lầm lũi lội xuống biển cho nước cuốn đi. Ông Tư là một ‘’ thằng khôn’’ đã vượt biên, nhưng cái đau đớn bám ông già cho dù có trốn ở cuối chân trời, cuối cùng chỉ có nước biển mới rửa sạch.

Bà Hai ( trong Thằng Đi Mất Biệt ), con cái chết, gia tình tan nát, suốt ngày ngồi chờ đưá con trai còn lại bị đưa đi cải tạo. ‘’ Khi trời nắng ráo, bà đi tuốt ra ngoài vàm rạch, lên ngồi trên môi đất có thể nhìn thẳng qua bên kia sông. Như vậy, khi nào thằng nhỏ nó về, mình thấy nó từ đằng xa, nó có đi đò, trong đám đông, mình cũng nhìn ra đươc nó liền hà ‘’.

Thầy Năm Chén, phòng mạch bị chiếm, con trai phải bỏ đi vượt biển. ‘’Chia tay nhau mà hai cha con không dám ôm nhau. Sợ người ta để ý. Thầy không đưa con ra cổng nghiã trang. Sợ người ta để ý. Thầy không dám để rơi một giọt nước mắt. Sợ người ta để ý. Thầy chỉ thở dài. Thời buổi bây giờ chỉ thở dài là không ai để ý. Bởi vì ai cũng thở dài hết ‘’.

Ông già bới rác ( truyện cùng tên ) là một ông già có công với ‘’cách mạng’’, bi cách mạng cướp hết không còn manh giáp, trở thành khùng, suốt ngày lang thang ngoài đường bới rác, ‘’ tao bới rác để kiếm mấy thằng Việt Cộng tao đã nuôi trong nhà ‘’

Trong Những Mảnh Vụn , người yêu ‘’ đi chui bán chánh thức ‘’, nghiã là đi vượt biển do cán bộ tổ chức, biệt tăm, chắc mất xác vì tầu quá cũ bị chìm , anh Bâỷ suốt ngày, như một người mất hồn, đi qua lại tất cả những nơi ngày xưa hai người vẫn hẹn hò. ‘’ Bẩy không biết mình đang đi lượm những những mảnh vụn của cuộc tình. Nếu không có cái ‘’ngày cách mạng thành công ‘’ đã thật sự thành công trong nhiệm vụ đập nát tất cả những gì của miền Nam, kể cả những gì nhỏ bé nhứt, tầm thường nhứt như tình yêu của chàng trai và cô gái đó ‘’.

Bà Năm cháo lòng ‘’ vẫn bán cháo lòng, lâu lâu vẫn chửi thằng con mà giống như bà chửi cả nước ‘’

Mỗi truyên ngắn Tiểu Tử thể hiện sống động một giai đoạn lịch sử, tóm tắt trong câu thơ mà người ta gán cho Bùi Giáng, vì trong cái điên loạn của xã hội, người điên tỉnh hơn cả người tỉnh : Đánh cho Mỹ cút, Ngụy nhào. Đánh cho chết mẹ đồng bào miền Nam.

NHỮNG NỤ CƯỜI

Đọc Tiểu Tử, người ta không thể không xúc động. Nhưng văn Tiểu Tử cũng đầy nét khôi hài, những nhận xét ngộ nghĩnh. Phòng mạch của Thầy Năm Chén ‘’bịnh nhơn cũng vắng. Làm như người ta sợ quá rồi…quên bịnh. Trái lại, bên phía chùa thì lại đông người lui tới và ngày nào cũng có người. Làm như người ta chỉ còn biết …dựa vào Phật ‘’.

Qua vài nét chấm phá, ông ghi lại những cảnh trái tai gai mắt, những cảnh lố bịch của những người thắng trận. Những cảnh không biết nên cười hay nên khóc diễn ra trước mắt, mỗi ngày, chỉ cần ghi lại, không cần thêm thắt, bình luận. André Gide : Plus un humouriste est intelligent, moins il a besoin de déformer la réalité pour le rendre significative ( Một nhà khôi hài càng thông minh, càng không cần bóp méo sự thực để làm cho nó có ý nghiã ).

Tiểu Tử không cần bóp méo sự thực, chỉ việc cúi xuống lượm, ghi lại những cái lố lăng, đảo lộn luân thường diễn ra mỗi ngày, trước mắt. Nói như vậy, sự thực không dễ. Phải tinh tế, nhạy cảm mới biết ‘’ lựa ‘’ cái gì, trong một cửa hàng ê hề là xã hội VN những năm sau 75.

Muốn hiểu lịch sử, hay xã hội trong một giai đoạn lịch sử, không gì hơn là đọc các nhà văn. Hơn là những sử gia, những nhà biên khảo, nhà văn, trong vài chữ, vài nét, cho thấy mặt thực của xã hội.

Salman Rusdhie nói ông viết văn, bởi vì đó là cách hay nhất ông tìm thấy để hiểu thế giới chung quanh.

Văn chương đi vào trái tim, trong khi biên khảo chỉ đi vào trí óc. Không có xúc động, rất khó có cảm thông. Không có cảm thông, không sống với người trong cuôc, làm sao hiểu được ?. Staline : ‘’ một người chết là một bi kịch, một triệu người chết chỉ là một con số thống kê ‘’.

Nhà văn không làm thống kê, chỉ ghi lại bi kịch của mỗi nhân vật, của tôi, của anh, của mỗi người. Mỗi câu chuyện là một bi kịch ; hay bi hài kịch – farces tragiques-của một thời đảo điên.

KÝ ỨC CỦA MỘT XÃ HỘI TỬ TẾ

Truyện ngắn Tiểu Tử, với lối hành văn bình dị, linh động là một cuốn tự điển sống của ngôn ngữ miền Nam thời chưa loạn. Đó là kho tàng quý; trong khi ở hải ngoại, chữ Việt càng ngày càng lai Tây, lai Mỹ; trong nước càng ngày càng lai Tầu, với những chữ, những lối nói ngớ ngẩn, đôi khi kỳ quái, khiến tiếng Việt không còn là tiếng Việt, báo hiệu một ngày người Việt không còn là người Việt. Và, từ đó, nước Việt không còn là nước Việt. Nguyễn Văn Vĩnh : tiếng Việt còn, nước Việt còn.

Truyện ngắn Tiểu Tử là những giọt nước mắt, những tiếng thở dài, nụ cười đùa cợt trong những ngày bình an và ngay cả, nhất là, trong cơn đớn đau cùng cực. Ông là một nhân chứng quý báu của một giai đoạn bi thảm của một thuở giao thời. ‘’Chuyện Thuở Giao Thời ‘’ là tựa một tập truyện của tác giả. Nhưng chữ thuở giao thời còn nhẹ quá. Phải nói là một cuộc đổi đời ghê rợn nhất trong lịch sử dân tộc Việt, một dân tộc vốn đã quen ăn nằm với máu và nước mắt .

Độc giả trân trọng với truyện ngắn Tiểu Tử , có lẽ bởi vì đó là một tài liệu quý . Một cuốn phim sống động về một xã hội tử tế đang phá sản, đặc biệt là phá sản về luân lý , về tình người.

Cái xã hội tử tế tử tế đó càng xa dần, càng biệt tăm, rã rời, và biến mất, người ta càng xúc động, như một chiều rảnh rỗi, không cầm được nưóc mắt khi coi lại những tấm hình cũ, thật đẹp, thật thơ mộng, của chính mình ngày xưa.

TƯ THỨC. Paris

1 . A.Gide muốn nói viết văn, phải đi vào tận cùng tâm khảm của con người. Và nếu đi tới cùng, sẽ thấy nhiều cái xấu, cái lở lói. Bản chất con người phức tạp, đời sống phức tạp, cái xấu cái tốt lẫn lộn. Văn chương phải lột trần được cái sự thực đó.

  1. Trên đây là bài nói chuyện của tác giả nhân dịp ra mắt sách của Tiểu Tử ở Paris, ngày 03/01/2015 . Những đoạn văn được trích dẫn từ ba tuyển tập truyện ngắn : Những Mảnh Vụn , Tiếng Ca Vọng Cổ, ChuyệnThuở Giao Thời.

 

BÀ TIẾN HAY ÔNG LÙI CŨNG RỨA THÔI.

Nguyễn Hoành 

 Bài viết hơi dài “đụng chạm đến nhiều người” xin mọi người hãy chịu khó đọc hết nhé!

BÀ TIẾN HAY ÔNG LÙI CŨNG RỨA THÔI.

Câu chuyện như sau:

Năm 2008 tôi về Quảng Ngãi tìm tư liệu và chuẩn bị làm phim về cụ Huỳnh Thúc Kháng. Khi đang chụp ảnh phần mộ của cụ trên núi Thiên Ấn thì một bác già khả kính đến nói với tôi:

– Anh làm ơn chụp cho đoàn bác vài kiểu ảnh kỷ niệm. Máy bác hết phim ( hồi đó còn chụp bằng phim).

Nói rồi ông gửi tôi cái danh thiếp và hẹn gặp lại ở nhà khách UBND tỉnh Quảng Ngãi gần đường Hùng Vương.

Nhìn tấm danh thiếp tôi khoái ngay và chỉ sau một giờ tôi đã đem đến nhà khách biếu quý khách một bộ ảnh rất đẹp, không lấy tiền.

Cảm kích vì nghĩa cử đó và nhận ra mình là đồng hương, quê tôi ở Cẩm Khê, nhà ông ở Xuân Huy, Lâm Thao một làng nhiều Tiến sỹ nhất Việt Nam từ năm …1970 chỉ cách nhau hơn chục cây số, ông tiếp tôi rất nồng hậu.

Khi tôi khéo léo hỏi ông (có ghi âm) về chuyện Y đức thì vị giáo sư bạc đầu này nhận ra ngay.

Ông nói:

-Tôi không trả lời anh đâu, nhưng tôi kể cho anh nghe câu chuyện của chính gia đình tôi, rồi anh làm gì thì làm.

Tôi nghe xong câu chuyện mà xúc động. Câu chuyện này có lẽ đủ tư cách giải thích tất thảy những chuyện vui buồn của ngành y tế, từ chuyện tiêm vacxin chết người đến chuyện Cát Tường, chuyện dịch sởi v.v…

Dưới đây là câu chuyện của GS Võ Như Lành.

-Một lần tôi về phép đúng vào dịp người em tôi bị đau vùng bụng cấp, rất nguy kịch, phải đi bệnh viện ngay ban đêm.

Là nhà nghề tôi leo lên xe đi cùng. Vào khu vực phòng cấp cứu, tôi vui mừng nhận ra vị trưởng phòng cấp cứu là BS Huy, một học trò giỏi của tôi trong trường y.

Khi khiêng băng ca vào phòng, hai lần tôi giáp mặt với BS Huy nhưng tôi chợt nhận thấy hình như anh ta không muốn chào tôi.

Anh đeo khẩu trang nhưng làm sao tôi quên được vầng trán, ánh mắt, dáng đi của một SV đặc biệt đã học tôi 6 năm trời.

Và đêm ấy, theo gợi ý của cô y tá và sự chỉ dẫn của một người lạ, người nhà tôi phải chi ra 2 triệu bôi trơn cho kíp mổ.

Một tuần sau em tôi ra viện.

Tôi cầm tiền lên thanh toán viện phí và chủ trương đối diện với tay sinh viên xưa, nay đã trở thành kẻ bất trị này.

Khi tôi vào phòng y vụ, vừa chìa giấy tờ ra thì cô nhân viên chừng 30 tuổi đứng bật dậy, giọng nói trầm ấm, thân tình:

-Mời thầy đi theo em.

Mặc dù tôi chưa dậy cô này ngày nào nhưng nghe giọng nói thân thiện, tác phong rất chân tình, tôi vô thức bước theo cô.

Cô đưa tôi lên thẳng phòng …cấp cứu. Đến cửa, cô nói:

-Mời thầy vào, Xếp em đang chờ thầy!.

Cô mở cửa ấn tôi vào căn phòng mát rượi và đi ra.

Khi chỉ còn hai người, BS Huy ôm chầm lấy tôi. Anh nói ngay:

-Thầy ngồi đi, em biết là thầy giận em lắm. Rồi em sẽ giải thích ngay đểthầy hiểu.

Tôi lắng nghe.

Vẫn con người ấy, thông minh, lanh lợi, tin cậy và thân tình.. Anh ta nói:

…………..

“ Và nếu hôm đó, thầy trò mình nhận nhau, tay bắt mặt mừng thì có thể, người nhà thầy…chết!.

Nếu kíp mổ nhận thấy họ đang phải thức ba tiếng đồng hồ giữa đêm khuya để mổ một ca không – phong – bì thì chất lượng chuyên môn, các biện pháp hỗ trợ sẽ chạy theo kiểu không – phong – bì thầy ạ.

Bởi vậy, khi gặp thầy, em làm lơ, tính sau kíp mổ sẽ gặp lại thì Thầy đã về nhà rồi.

Hôm nay, em xin tạ tội cùng thầy và em phải nói rằng, em có được như ngày hôm nay là nhờ thầy, Xin thầy đừng từ chối món quà này của em, coi như vài thang thuốc bổ để chăm sóc thầy khi không được gần thầy” .

Huy nói rồi lấy một gói giấy mỏng, gói ghém chu đáo sẵn nhanh tay nhét vào túi trong áo veston của tôi.

Tôi hoàn toàn mất tự chủ.

Sự thể diễn ra hoàn toàn ngoài suy đoán, dự cảm của tôi. Huy vẫn như cậu sinh viên hiếu hạnh, chu đáo và giỏi giang năm xưa.

Cuối cùng, tôi hỏi:

– Tôi có dạy các anh làm thế không?.

– Dạ, thưa thầy, cái lỗi chính nằm ở chỗ ấy ạ. Cái chính là vì các thầy đã không dạy những cái đó, những cái cần – phải – dạy.

Tôi ớ ra, hỏi cho rõ thì BS Huy nhẹ nhàng:

-Ngày làm luận văn tốt nghiệp, các thầy cho một câu hỏi: Người BS chế độXHCN khác với người BS tư bản ở chỗ nào? Nếu ai trả lời rằng, điểm khác biệt đó là người BS XHCN không cần tiền bạc vẫn làm tốt chức phận của mình thì được điểm cao.

Thực tế không phải thế!

Tôi bắt đầu hiểu ra vấn đề. Hình như toàn bộ bi kịch là ở đây. Hình nhưchúng tôi có lỗi. Không có BS nào là không cần tiền cả. Tôi ngậm ngùi thăm hỏi hoàn cảnh BS Huy. Anh nói:

“ Sau khi ra trường, con về phục vụ tại một bệnh viện chuyên ngành chăm sóc cán bộ tại Hà Nội. Bệnh nhân của BV này toàn loại VIP.

Đến bữa trưa, con đem cặp lồng cơm đã nguội hắt có vài cọng rau muống đen xì và nửa quả trứng kho mặn vợ chuẩn bị ra ăn trong khi những bệnh nhân kia chơi gà luộc nửa con, giò chả ngập chân răng và họ luôn có quyền bắt ne bắt nét chúng con.

Đến một lúc, con nghĩ: tại sao cùng là người sao họ sướng thế. Sao mình ra sức phục vụ, ăn học từng ấy năm, tận tụy, hiểm nguy mà khổ thế. Phải “chặt”!.

Lần đầu con chặt, cầm cái phong bì hơi cũng run tay nhưng về sau quen dần, càng chặt càng bén, chặt nhát nào ra nhát ấy.

Về sau con cũng đứng lớp, cũng dạy học trò nghề y cao quý này, ra trường chúng cũng biết chặt, chúng chặt giỏi hơn con, chặt nhát nào ra nhát ấy”.

Tôi không biết nói gì lúc này nữa.

Trong không gian này, tôi không biết ai là thầy, ai là trò nữa. Hình như BS Huy đang dạy cho tôi bài học vỡ lòng về sự bất hợp lý trong những vận động xã hội đã xảy ra, đang xảy ra.

Trên đường về, tôi giở phong bì ra, đếm được mười triệu. Tôi lẩm cẩm nghĩ: Lãi 8 triệu và một bài học quý từ cuộc sống, thôi thì….

Câu chuyện của GS Lành đến đây là hết. Không gian nhà khách UBND tỉnh Quảng Ngãi trầm hẳn xuống. Tôi cũng chẳng biết bình luận gì thêm.

Phải chăng, chúng ta đã tạo ra một không gian để phát triển một loại mâu thuẫn xã hội đằng đẵng dăm chục năm và rồi hôm nay ta đắm mình trong bi kịch đó, bi kịch mà một nhà văn đã nói:

Cái lò xo bị nén xuống ba tấc, khi bật lên, nó sẽ bật lên chín tấc.

Những tiêu cực trong ngành y tế sẽ còn dài chứ không dừng lại ở đây kể cảkhi thay ba bộ trưởng.

Bao giờ cái thiết chế y tế, từ đào tạo đến các nguyên tắc về phúc lợi, nhân đạo, chính trị thay đổi theo hướng tích cực, có lý có tình thì tình hình sẽ tựnó tốt lên, các bạn ạ.

st có chỉnh sửa

Cóp từ FB Nguyễn Khang


Khi nào bong bóng AI sẽ vỡ

Theo báo WSJ và AI

Chi tiêu cho AI đang ở mức kỷ lục. Liệu nó có bao giờ mang lại hiệu quả như ý không?

Các công ty công nghệ đổ hàng trăm tỷ vào các trung tâm dữ liệu, gánh khoản nợ lớn, nhưng doanh thu hiện tại tương đối nhỏ; gợi nhớ đến bong bóng dot-com vào những năm 1990-2000

Những người theo dõi hoạt động của Thung lũng Silicon lo ngại rằng sự nhiệt tình với AI đã trở thành một bong bóng , tiếng cảnh báo ngày càng lớn về  một cơn sốt xây dựng cơ sở hạ tầng giống như thời kỳ bong bóng internet vào cuối những năm 1990. 

Hồi đó, các công ty viễn thông đã chi hơn 100 tỷ đô la để phủ kín cả nước bằng cáp quang với niềm tin rằng sự phát triển của internet sẽ bùng nổ đến mức hầu hết mọi khoản đầu tư đều hợp lý. Kết quả là một cuộc xây dựng ồ ạt, khiến viễn thông trở thành ngành chịu ảnh hưởng nặng nề nhất trong cuộc khủng hoảng dot-com. Các gã khổng lồ trong ngành sụp đổ như chuỗi cờ domino, bao gồm các hãng,  Global Crossing, WorldCom và 360Networks.

Ngày nay, trong thế giới chip, các trung tâm dữ liệu vốn tẻ nhạt đã trở thành chiến trường khốc liệt trị giá hàng trăm tỷ đô la, nơi những gã khổng lồ ở Thung lũng Silicon cạnh tranh nhau về các cam kết chi tiêu và xướng lên những danh xưng của khoa học viễn tưởng chẳng hạn như cổng sao – stargate của hãng OpenAI và Oracle. 

Ảnh chụp từ trên cao trung tâm dữ liệu Wisconsin của Microsoft đang được xây dựng.

Microsoft cho biết trung tâm dữ liệu Wisconsin trị giá 3,3 tỷ đô la của họ sẽ đi vào hoạt động vào đầu năm 2026 và ban đầu được sử dụng để đào tạo các mô hình OpenAI. Ảnh: Microsoft

Trong chuyến tham quan cùng các phóng viên báo chí hôm thứ Ba, các giám đốc điều hành của Oracle và OpenAI đã giới thiệu khu phức hợp rộng 1.100 mẫu Anh (khoảng 450 ha), gọi đây là tổ hợp siêu máy tính AI lớn nhất thế giới. Bên ngoài, các công nhân đeo khẩu trang chống bụi và kính râm di chuyển trên những chiếc xe đẩy, cố gắng che chắn bản thân khỏi cái nóng 38 độ C. Một trong những chiếc xe đẩy treo một lá cờ có dòng chữ “Jesus Is the Answer” (Chúa Jesus là Câu trả lời).

Anuj Saharan, người làm việc trong nhóm máy tính OpenAI, cho biết: “Cách đây một năm, nơi đây thực sự chẳng có gì cả”. 

Ảnh chụp từ trên không về quá trình xây dựng đang diễn ra tại một cơ sở hạ tầng AI.

Công ty OpenAI hiện đang hợp tác với các đối tác để xây dựng một khu phức hợp điện toán rộng lớn ở phía tây Dallas. Ảnh: daniel cole/Reuters

OpenAI cũng công bố kế hoạch cho năm trung tâm dữ liệu mới trên khắp Hoa Kỳ

Chúng sẽ được xây dựng cùng với công ty Oracle và tập đoàn công nghệ Nhật Bản SoftBank. Các cơ sở mới này sẽ giúp đưa gần 7 gigawatt điện vào hoạt động, lượng điện này tương đương với khả năng cung cấp năng lượng cho gần tám triệu hộ gia đình.

Các giám đốc điều hành công ty khẳng định rõ ràng rằng cơ sở Abilene chỉ là bước khởi đầu, lưu ý rằng theo tính toán, họ sẽ cần có tới hơn 20 gigawatt năng lực tính toán để đáp ứng nhu cầu bùng nổ của ChatGPT, hiện có hơn 700 triệu người dùng hàng tuần.

Mỗi gigawatt công suất dự kiến ​​sẽ tiêu tốn khoảng 50 tỷ đô la, nghĩa là công ty đang đặt nền móng cho ít nhất 1 nghìn tỷ đô la chi tiêu cho cơ sở hạ tầng. Một giám đốc điều hành của công ty cho biết nhu cầu cuối cùng có thể đạt gần 100 gigawatt, tương đương 5 nghìn tỷ đô la. Con số này vượt quá GDP hàng năm của Nhật Bản hoặc Đức.

Các tòa nhà trung tâm dữ liệu đang được xây dựng tại trung tâm dữ liệu của OpenAI ở Abilene, Texas.

Trong khi các trung tâm dữ liệu cung cấp nhiều việc làm xây dựng (ngắn hạn), thì nhu cầu về nhân lực lại giảm đi rất nhiều sau khi chúng được xây dựng xong. Ảnh: shelby tauber/Reuters

 Một giám đốc điều hành của Oracle cho biết sẽ có khoảng 1.700 việc làm cố định tại chỗ sau khi việc xây dựng kết thúc. Khu phức hợp trung tâm dữ liệu này  nằm cách trung tâm thành phố Abilene gần 6 dặm.

Cơn sốt xây dựng thực chất là một canh bạc đầu cơ lớn, với hy vọng rằng công nghệ sẽ nhanh chóng được cải thiện, chuyển đổi nền kinh tế và bắt đầu tạo ra lợi nhuận ổn định. “Tôi hy vọng chúng ta sẽ không mất đến 50 năm”, CEO Microsoft Satya Nadella phát biểu tại một hội nghị hồi tháng 5 với CEO Meta Mark Zuckerberg , “Đúng vậy, chúng ta đều đang đầu tư như thể việc này sẽ không mất đến 50 năm”, Zuckerberg trả lời.


20 VIỆC ĐƠN GIẢN TÍCH PHÚC LÀNH MỖI NGÀY

Gieo Mầm Ơn Gọi

20 VIỆC ĐƠN GIẢN TÍCH PHÚC LÀNH MỖI NGÀY (Càng âm thầm, càng chân thành phúc càng lớn)

  1. Mỉm cười với người khác – gieo năng lượng tích cực.
  2. Nói lời tử tế, chân thật – lời lành chữa lành tâm hồn.
  3. Giúp đỡ người gặp khó khăn – dù là việc nhỏ.
  4. Đừng vứt rác bừa bãi – bảo vệ môi trường là giữ phúc cho đời sau.
  5. Chăm sóc cha mẹ, người thân – hiếu đạo là gốc phúc đức.
  6. Không sân si, nói xấu người khác – giữ miệng là giữ phúc.
  7. Đọc sách thiện lành, truyền cảm hứng – nuôi dưỡng tâm hồn trong sạch.
  8. Chia sẻ thức ăn cho người thiếu thốn – bố thí là một hình thức bác ái.
  9. Tha thứ cho người làm mình tổn thương – buông bỏ là một cách nhẹ lòng.
  10. Thành tâm cầu nguyện, hướng thiện – tâm sáng thì đường đi cũng sáng.
  11. Tôn trọng mọi người, không phân biệt giàu nghèo.
  12. Không sát sinh, ăn chay khi có thể – gieo lòng từ, nhận bình an.
  13. Tình nguyện, giúp đỡ cộng đồng – góp sức nhỏ, mang ý nghĩa lớn.
  14. Giữ lời hứa, sống có uy tín – một chữ “tín” giữ ngàn phúc lành.
  15. Chăm sóc động vật, không hành hạ chúng.
  16. Biết ơn những gì mình đang có – người biết đủ là người hạnh phúc.
  17. Không tham lam, không chiếm đoạt của người khác.
  18. Khuyên người khác sống thiện, sống đúng – truyền phúc cho người lành.
  19. Tránh tranh cãi vô ích, giữ tâm an tịnh.
  20. Làm việc bằng cả cái tâm, không gian dối – mỗi việc làm đều ghi dấu phúc lành.

Phúc lành không đến từ việc lớn, mà đến từ cái tâm khi làm việc nhỏ. Bạn có thể chọn 1–2 việc mỗi ngày, lặp lại với tâm chân thành, thời gian sẽ chứng minh mọi điều. Chúc bạn một đời an vui – trong tâm có phúc, ngoài đời có may

ST