NGUYÊN TẮC LÀM NGƯỜI

Gieo Mầm Ơn Gọi

NGUYÊN TẮC LÀM NGƯỜI

  1. Làm người…

– Sống giản dị, không giở thủ đoạn, không mưu tính thiệt hơn, không nghị luận chuyện của người đời.

– Mở to mắt, nỗ lực làm việc; khép mi lại, say giấc ngủ ngon.

  1. Làm người…

– Cười, hãy cười tự nhiên; khóc, cứ khóc thoải mái, không cần ngụy trang, không làm ra vẻ.

– Vui mừng, không cần quá bận tâm hình tượng; đau thương , hãy cứ tự nhiên say sưa một hồi.

  1. Làm người…

– Đi được chính, đứng được ổn. Không gây gổ với tiểu nhân, không đồng hành cùng ác nhân.

– Kết giao một người bạn tốt, nên trân quý muôn phần; kết giao một người bạn xấu, nên lặng lẽ rời xa.

  1. Làm người…

– Trước sau như một, đã nói là làm. Nói khoác không biết ngượng, sẽ khiến người chán ghét. Miệng mật ngọt mà dạ gươm đao, sẽ khiến người oán hận.

– Đối xử với bằng hữu, ít một chút hoa mỹ, nhiều một chút chân thành.

– Đối xử với cộng sự, ít một chút qua loa lừa gạt, nhiều một chút tận lực tận tâm.

  1. Làm người…

– Làm việc cần thành thật, kiếm tiền nên dựa vào lương tâm; đừng vì tiền tài mà bày mưu tính kế với huynh đệ; đừng bởi danh lợi quyền thế mà bán đứng bằng hữu tri kỷ.

– Nội tâm không thẹn thì không sợ nửa đêm quỷ ma gõ cửa. Hành vi chính trực, thì không sợ có người nghị luận ở phía sau.

  1. Làm người…

– Không khinh dễ kẻ yếu, không a dua kẻ mạnh; không xem nhẹ người nghèo, không oán hận người giàu.

– Đối với người lớn, tôn kính một chút; đối với con trẻ, kiên nhẫn một chút; đối với bạn đồng hành, chân thành một chút, đối với cha mẹ, hiếu thuận một chút.

– Chữ nhân viết thì dễ, nhưng làm được lại rất khó. Làm người thiện lương sẽ sống được tự tại; làm một người không tranh quyền thế, thời thời khắc khắc sẽ an bình.

Nhân sinh muốn không muộn phiền, cần làm người đơn giản…

– Đơn giản là một loại tinh thần, một loại cao quý, cũng là một loại khí chất. Vậy nên, hãy đơn giản khi làm người, đơn giản khi làm việc, đơn giản khi sinh hoạt.

– Chịu được cô đơn lạnh lẽo, nhân sinh sẽ càng có nhiều tích lũy. Hồng trần một bước, nước mắt một lần rơi. Mỗi lần rơi lệ, là một bước trưởng thành.

– Cuộc sống có rất nhiều muộn phiền đều bắt nguồn từ việc chúng ta không thể cảm thông cho người khác. Quá để ý đến chủ kiến của mình, không chịu thấu hiểu người khác thì tâm hồn sẽ bị tổn thương rất lớn.

Làm người cũng như cây, không nhất định cành lá tốt tươi, nhưng cần phải kiên cường đứng thẳng.

Làm người cũng như núi, không cần cao lớn nguy nga, nhưng nhất định phải sừng sững trang nghiêm.

Làm người cũng giống với nước, không nhất định triều dâng sóng dậy, nhưng nhất định phải trong suốt thanh tịnh.

St

MIỀN BẮC GIÁ LẠNH, NHỚ ĐẾN NHỮNG TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM TRONG CHỐN LAO TÙ CỘNG SẢN

Chau Trieu is with Thi Khieu Vu 

Thêm một Giáng sinh buồn bị chia cách, chúc bình an cho các gia đình TNLT Việt Nam .

MIỀN BẮC GIÁ LẠNH, NHỚ ĐẾN NHỮNG TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM TRONG CHỐN LAO TÙ CỘNG SẢN

Thời tiết miền Bắc đang trong những ngày rét đậm rét hại, nhiệt độ trong ngày lạnh xuống dưới 10 độ. Đối với người bình thường có áo ấm, đệm êm cũng phải co ro trong cái không khí lạnh buốt đó. Thì những TNLT đang phải chịu cái lạnh thấu xương trong nhà tù của chế độ còn khủng khiếp hơn gấp bội.

Chắc chắn khi những thời điểm lạnh như thời gian này, chế độ quần áo cho TNLT sẽ không đủ ấm, nếu gia đình không gửi thêm quần áo vào thì phạm nhân rất rét. Không những thế, các TNLT còn phải nằm trên nền xi măng, cái lạnh từ dưới thấu lên trên thấm vào cơ thể lạnh buốt. Nhiều phòng giam còn bị giám thị cố tình làm hư hỏng cửa sổ để gió lạnh lùa vào trong phòng hành hạ phạm nhân.

Các TNLT phải sống trong tình cảnh mùa đông thì lạnh giá, mùa hè thì nóng nực. Ngoài ra họ còn phải chịu đựng sự tra tấn về mặt tinh thần bằng nhiều thù đoạn khác nhau của trại giam.

Vì phải sống trong điều kiện tồi tệ như trên mà nhiều TNLT đã bị mắc các chứng bệnh về hô hấp, lao phổi, tim mạch, các bệnh về tâm thần… nếu có ra tù thì tình hình sức khỏe cũng xấu đi trầm trọng.

Trong những thời điểm giá rét như ở miền Bắc như này, chúng ta không quên đến những TNLT đang phải chống chọi với cái lạnh trong chốn lao tù của chế độ CSVN.

Gia Minh


 

Sống trên đời cái gì cũng có giá của nó

Gieo Mầm Ơn Gọi

– Cái giá của của năng lực là trách nhiệm.

– Cái giá của lười biếng là bất tài.

– Cái giá của ỷ lại là yếu kém.

– Cái giá của chần chừ là trải qua mất mát.

– Cái giá của tự do là cô đơn.

– Cái giá của vượt trội là kỷ luật.

– Cái giá của thành công là trải qua thất bại và không bỏ cuộc.

– Cái giá của hạnh phúc viên mãn tuổi già là trải qua bao thăng trầm tuổi trẻ.

Vậy nên, dù bạn ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, hãy nghĩ đến cái giá phải trả. Xem nó có xứng đáng, bản thân có trả được không rồi hẵng quyết định.

– Quyết định sống lười biếng, thiếu mục tiêu thì bạn có sẵn sàng trả giá cho cuộc sống vô vị sau này không?

– Quyết định sống hời hợt với người khác thì bạn có sẵn sàng trả giá cho sự đơn độc sau này không?

– Quyết định an phận, không chịu học hỏi thay đổi thì bạn có sẵn sàng trả giá cho sự yên vị cả đời ở vị trí hiện tại không?

Mỗi người chỉ sống một lần, hãy sống sao cho đáng. Bởi một khi đã quyết định là bạn đang đánh cược chính tương lai của bản thân!

ST


 

 Xuất khẩu gian lận-Dương Ngọc Thái

 Ba’o Tieng Dan

Dương Ngọc Thái

25-12-2023

Ít người biết Microsoft, Google và Meta có một điểm chung: Họ đều có đội dành riêng chống gian lận từ người Việt.

Cách đây vài năm tôi kêu gọi các công ty ở Silicon Valley tài trợ tổ chức một hội thảo an ninh mạng. Khi tôi vừa nhắc hai chữ Việt Nam, Microsoft cho ngay 20.000 USD, cử đại diện từ Seattle sang dự.

Gặp ở Sài Gòn, tôi tò mò hỏi sao họ cho nhiều tiền, còn cất công đến dự. Đại diện Microsoft trả lời: “We want to know the enemy”, tức chúng tôi muốn biết kẻ thù là ai.

Trong phút chốc, tôi bần thần ngỡ Việt Nam và Mỹ lại sắp chiến tranh, nhưng không, họ giải thích vì có quá nhiều gian lận từ Việt Nam nên họ muốn đến tận nơi tìm hiểu.

Đó là chuyện 10 năm trước. Mới đây, Microsoft thông báo phát hiện ba người Việt tạo hơn 750 triệu tài khoản giả, gây thiệt hại hàng triệu USD.

Bạn tôi, không phải dân máy tính, nhắn tin hỏi, “Sao tụi nó có thời gian tạo nhiều tài khoản vậy, chắc mỏi tay lắm?”.

Giả sử mất một phút để tạo một tài khoản. Nếu học hết cấp hai (tôi có nhiều bạn là dân vô học giống tôi nên phải giả sử cho chắc ăn), bạn tôi có thể làm một phép tính đơn giản để thấy tạo 750 triệu tài khoản sẽ mất 1.426 năm.

Tức ba người Việt kể trên phải bắt đầu tạo tài khoản từ khi mới đẻ, tạo liên tục, không có thời gian bú sữa mẹ nên bị suy dinh dưỡng, chết yểu, đầu thai lại tiếp tục tạo tài khoản, lập đi lập lại 10 kiếp người thì mới mong hôm nay có đủ 750 triệu tài khoản.

Làm vậy hơi khó và cần một tầm nhìn xa ngàn năm. Người Việt chúng ta khôn hơn nhiều. Tôi đoán ba anh bạn ở trên viết chương trình máy tính để tạo tài khoản tự động. Mỗi giây tạo 100 tài khoản, chừng 100 ngày là xong.

Tạo từng ấy tài khoản để làm gì? Gian lận. Click quảng cáo giả, nhận tiền khuyến mãi, phục vụ nền kinh tế ảnh hưởng (influence economy) như cày view giả, bán like giả, bán người theo dõi giả, bán đánh giá, bầu chọn giả. Nếu giao cho người Việt quản lý, Michelin sẽ không chỉ có ba sao, mà phải có tám chục sao.

Tôi từng gặp đội chuyên chống gian lận từ Việt Nam ở Google, nghe họ kể khả năng lách luật của người Việt mà thấy hết sức thân thuộc. Chẳng hạn công ty khuyến mãi 100 USD cho khách hàng mới, ngay lập tức xuất hiện hàng loạt tài khoản giả.

Tôi cũng đã trực tiếp chứng kiến khả năng “sáng tạo” của người Việt. Hồi tháng trước, một khách hàng của tôi đã tốn hàng trăm ngàn USD phí SMS vì ai đó từ Việt Nam lừa hệ thống của họ nhắn tin hàng loạt đến các đầu số trả phí (SMS pumping).

Một người bạn kể trong lúc phỏng vấn, đại diện Meta rất phấn khích khi biết anh ấy là người Việt. Họ nói có dự án rất phù hợp. Khi vào làm, bạn tôi mới biết đó là dự án chống gian lận từ Việt Nam.

Năm 2018, khi nhiều nhà báo và người có ảnh hưởng bị Facebook khóa tài khoản, tôi có tìm hiểu các thủ thuật lừa Facebook khóa tài khoản bất kỳ.

Tôi rất bất ngờ khi các “tài năng” Việt Nam đã nghĩ ra những 5 cách khác nhau, với những “chiêu” khó đỡ như nộp giấy chứng tử giả, khiến Facebook tưởng nạn nhân đã qua đời, không cho cập nhật trang nhà nữa.

Voltaire sẵn sàng chết để bảo vệ quyền được nói của người khác, còn Facebook không thể ngờ, để ngăn người khác nói, một số người Việt dám cả gan làm giả cả hộ khẩu của Diêm Vương.

Ngoài gian lận bằng tài khoản giả, người Việt cũng khét tiếng thế giới với những mánh khóe cướp tài khoản (account takeover). Những ngày cuối năm 2021, Facebook khởi kiện bốn người Việt đã chiếm tài khoản quảng cáo của doanh nghiệp, gây thiệt hại 36 triệu USD.

Tháng 7 năm 2022, hãng bảo mật WithSecure công bố một nghiên cứu cho thấy một nhóm người Việt đã dày công “nghiên cứu” trong vài năm để tạo ra một mã độc có tên rất cắt tóc là ĐUÔI VỊT (DUCKTAIL). Để làm gì? Chiếm tài khoản Facebook để cướp tiền quảng cáo.

Hồi tháng 9 năm 2023, nhà báo Amanda Florian ở tạp chí Vox đã thực hiện một điều tra bỏ túi với gần 100 nạn nhân mất tài khoản Facebook từ 14 quốc gia. Các bằng chứng cho thấy thủ phạm là một nhóm người Việt tuổi đôi mươi từ Việt Nam.

Người bạn ở Meta của tôi nói: “Bọn nó giỏi thật anh à, nghĩ ra bao nhiêu cách mà chính tụi em cũng không nghĩ ra được. Mình mới sửa hôm nay, hôm sau chúng lại nghĩ ra cách [gian lận] mới”.

Những người Việt bị Microsoft hay Facebook điểm mặt chỉ tên có chút khả năng, nhưng họ không phải tài năng, những gì họ làm không phải sáng tạo. Tài năng thật, sáng tạo thật phải tạo ra giá trị thật cho thế giới.

Chiếm đoạt tài khoản người khác rõ ràng là phạm pháp. Tạo và dùng tài khoản giả để trục lợi bản thân cũng không đem lại ích lợi gì cho thế giới, ngoại trừ khiến chi phí làm ăn với Việt Nam cao hơn so với các nước, vì làm gì cũng phải tiền kiểm, hậu kiểm. Chi phí này cuối cùng đổ xuống đầu người dân và doanh nghiệp trong nước.

Gần đây khi tôi gửi một kiện hàng về Việt Nam, hải quan Mỹ buộc tôi phải trình hóa đơn, khiến công việc trễ nãi, việc trước đây chưa từng xảy ra. Lý do? Có quá nhiều giao dịch gian lận từ Việt Nam. Cũng vì lý do an ninh, nhiều tập đoàn công nghệ lớn thế giới cấm nhân viên làm việc từ Việt Nam. Ngồi ở đâu trong Đông Nam Á cũng được, trừ Việt Nam.

Tôi tin không ai thích đất nước mình bị thế giới e ngại. Ai cũng muốn Việt Nam giàu mạnh, được thế giới tin tưởng, nể trọng. Muốn vậy, Việt Nam phải tạo ra thứ thế giới cần, tức phải trở thành một phần của giải pháp cho các vấn đề toàn cầu. Lừa đảo, gian lận trực tuyến là một vấn đề nhức nhối, nhưng Việt Nam không những chưa giúp được gì, mà còn đang làm mọi việc tệ hơn.

Tôi không có giải pháp, chỉ có vài suy nghĩ.

Tôi nghĩ muốn giải quyết vấn đề trước tiên cần phải thừa nhận có vấn đề: Việt Nam đang xuất khẩu gian lận, nếu không sớm giải quyết, uy tín quốc gia càng suy giảm, chi phí giao thương làm ăn với các nước càng tăng.

Để hiểu gian lận từ đâu ra, chúng ta cần nhìn vào lịch sử. Vì vị trí địa chính trị, người Việt buộc phải rất giỏi chiến tranh. Không quốc gia nào khác từng đánh thắng ba thành viên thường trực Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc. Mà Tôn Tử đã nói, “All warfare is based on deception”, tức chiến tranh là lừa dối. Thành ra, dẫu thích hay không, chúng ta phải thừa nhận với nhau người Việt thạo và dễ chấp nhận những trò mánh mun, gian dối.

Thực tế cuộc sống hàng ngày cũng khiến người Việt phải rất linh hoạt. Một người bạn kinh doanh lâu năm tâm sự ở Việt Nam làm sai dễ hơn làm đúng. Câu nói nổi tiếng của Lỗ Tấn “Trên đời làm gì có đường, người ta đi mãi thành đường thôi” về đến Việt Nam đã trở thành “Trên đời làm gì có đường không được đi, chỉ có đường không đi được”. Khi lách luật, mánh lới là cách sinh tồn, gian lận đã âm thầm trở thành phản xạ.

Cuối cùng, tôi xin chia sẻ một chút về bản thân, vì tôi nghĩ câu chuyện của tôi có thể là một gợi ý.

Tôi sinh ra và lớn lên ở quận 4. Bây giờ quận nhà đã khác, nhưng, nhiều năm trước, đây là vùng đất mà nhiều người Sài Gòn không dám lui tới. Thầy giáo dạy văn cấp hai của tôi kể chuyện cười khách đi máy bay thò tay qua cửa sổ, thụt tay vào thấy mất chiếc đồng hồ thì biết đang bay ngang qua quận 4.

Ở đâu cũng có người tốt, kẻ xấu, nhưng từ nhỏ tôi đã quen biết nhiều người làm những “nghề” không giống ai như móc túi, giật đồ, ăn trộm vặt, cờ bạc bịp. Ở đấy, lúc bấy giờ, không có khái niệm gian lận, chỉ có khôn và ngu. Ai khôn thì được, ai ngu thì mất, ráng chịu. Lừa được người khác là một thành tích.

Tôi lớn lên với một “background” như vậy, nên mọi thứ luật lệ đều chỉ là “opt-in”. Tôi may mắn chọn được một nghề (hay nghề chọn người?) mà tôi được trả tiền để nghĩ ra những ý tưởng xấu xa nhất. Công việc hàng ngày của tôi là tìm cách lừa người khác, để giúp họ không bị lừa. Đội của tôi nghĩ ra những cách đánh lừa hệ thống phần mềm, để giúp thế giới xây dựng những hệ thống vững chãi hơn.

Gian lận và chống gian lận kỳ thực là hai mặt của một vấn đề. Không thể chống gian lận, nếu không biết cách gian lận. Vậy thì Việt Nam đang sở hữu những bộ não chống gian lận thuộc hàng tốt nhất thế giới. Đây là thứ mà nhiều người cần, là giá trị thật mà Việt Nam có thể đem lại cho cả thế giới.


 

 Cải cách ruộng đất: Một thời kinh hoàng

 Ba’o Tieng Dan

Phan Thuý Hà

23-12-2023

Trong một lần đến thăm Phan Tử Lăng ở khu gang thép Thái Nguyên, ông Phạm Văn Đồng hỏi ông Lăng có bà con gì với Phan Tử Dương không, Phan Tử Dương là bạn học với ông ở Trường Quốc học Huế.

Phan Tử Dương là anh ruột Phan Tử Lăng, bị bắn chết dưới chân núi Nài trong đợt 4 cải cách.

Phan Tử Dương là thư ký toà sứ, được ông Phan Đăng Tài (em của Phan Đăng Lưu) cũng trong toà sứ, giác ngộ cách mạng, trở thành đảng viên, làm uỷ viên thư ký, có lúc đã làm đến phó chủ tịch tỉnh. Năm 1953 phát động giảm tô, ông bị cho nghỉ việc, về nhà làm ruộng. Tháng 5/1955 ông Dương đang cấy lúa với vợ con ngoài đồng thì dân quân đến trói bắt đi. Một đêm tháng 10/1955, học sinh cấp ba Phan Đình Phùng bị bắt đi ra chân núi Nài hô hào đả đảo, chứng kiến vụ xử bắn.

Cha của ông Phan Tử Dương, Phan Tử Lăng… là Phan Tử Phong, làm quan trong Huế; mẹ là bà Ký Tá.

Bà Ký Tá không biết chữ. Bà làm ruộng giỏi, có đầu óc buôn bán. Từ buôn thóc, buôn gạo, mở xưởng ép dầu, xây nhà cho thuê, tậu ruộng, bà có hơn 100 mẫu ruộng.

Trước năm 1945 bà có hai ngôi nhà hai tầng, một ngôi nhà ba tầng trên phố Phan Đình Phùng và hai, ba ngôi nhà ngói ở con phố bên cạnh. Tiêu thổ kháng chiến, những ngôi nhà đó bị phá sạch. Còn mấy ngôi nhà tranh. Và nguyên vẹn khu nhà ở – 47 Nguyễn Công Trứ (nay là đường Lê Bình).

Có thể nói bà Ký Tá là người phụ nữ làm ăn giỏi giang nhất tỉnh Hà Tĩnh thời bấy giờ.

Ông và bà mất trước khi cải cách. Vì thế Phan Tử Dương – con cả, phải chịu tội thay cha mẹ, và tội trước đây làm thư ký toà sứ.

Tháng 5/1955, cả gia đình phải rời khỏi 47 Nguyễn Công Trứ. Như tất cả mọi gia đình địa chủ khác. Họ đến ở một túp lều, cứ mưa to là nước tràn vào lều.

Phan Tử Thụ lúc đó mới học lớp 7. Ông không nguôi nỗi nhớ về ngôi nhà xưa ở 47 Nguyễn Công Trứ. Ông đã vẽ lại ngôi nhà theo trí nhớ. Trên khu đất khoảng 1.000m2 là các dãy nhà ngang dọc, lợp mái ngói, 50 – 60 gian. Ông vẽ chi tiết căn phòng ngủ của cha, của bà nội, nhớ cả những cái chăn màn. Hai chục năm trước ông và các anh chị về thăm chốn cũ, không còn gì nữa sau khi 15 hộ nông dân đến ở, người ta chỉ cho ông một cái giếng quây kín lại, không ai dám làm gì vì sợ giếng địa chủ. Không biết giếng đó giờ còn không.

Khi cải cách ông Phan Tử Lăng không ở quê nhà, nếu ở nhà, không ai biết (và có thể chắc chắn biết) số phận ông như nào.

_____

*Ghi chú: Tựa đề do Tiếng Dân đặt.


 

TUỔI XẾ CHIỀU

Ước Mơ Việt Tân

Rồi ai cũng phải về với cát bụi, có ai sống mãi trên nhân thế này đâu.

Và thời gian càng ngày càng ngắn lại, sức khỏe càng ngày càng yếu đi.

Sao không bắt tay làm ngay những điều mình mong ước, sao không đi đến ngay những nơi mà ta thích thú, sao không sắm ngay những vật mà ta từng mơ tưởng khi trong túi vẫn đủ tiền.

Sao không chào mọi người bằng cái vẫy tay, bằng một nụ cười bởi nhiều khi đó là lần đầu tiên ta gặp họ nhưng có thể cũng là lần cuối cùng bởi không còn duyên gặp lại,

Tuổi già nên tạo cho mình một đam mê sáng tạo: chụp hình, vẽ tranh, nặn tượng, làm gốm, làm vườn, trồng cây, viết nhạc, làm thơ, đi đây đi đó…tất cả trở thành gia vị cho cuộc sống mà thời trẻ bận rộn với manh áo, miếng cơm, lo âu cuộc sống ta không thực hiện được. Gắng đọc sách, đọc báo, vào mạng, viết mail để rèn luyện trí nhớ. Sống lâu mà chẳng nhớ gì, chẳng biết gì đang xảy ra cũng phí một quãng đời.

Đoạn đường trước mặt của mọi người ngày càng ngắn lại, sao không thể tha thứ, bao dung cho nhau những tỵ hiềm, những đụng chạm của một thuở. Sao không siết tay nhau khi còn sống.Sao không kiếm miếng ngon để thưởng thức hương vị của cuộc đời khi túi còn đủ tiền để trả cho món ăn ngon, đã đến lúc không nên hà tiện, keo kiệt để làm khổ thân mình, bởi khi ta mất đi mà vẫn còn tiền cũng là điều bất hạnh.

Nếu con cháu ngoan hiền thành đạt, có tình cảm với ta, có chăm sóc, thăm hỏi ta cũng là điều hạnh phúc. Bằng không, nếu chúng quên tình cảm gia đình, thì cũng đừng lấy điều đó làm buồn mà thất vọng.

Con cái muốn đi theo con đường nào, chọn ngành nghề gì, yêu ai và muốn lập gia đình với ai, ta chỉ nên khuyên nhủ, định hướng, không nên bắt chúng phải theo ý ta, sống vì ta. Bởi chúng có cuộc đời riêng của chúng và chúng ta chắc chắn sẽ không sống mãi với chúng nên phải để chúng quyết định đời mình.

Cũng không nên quá tin tưởng vào con cái mà giao hết số tiền dành dụm suốt cuộc đời cho chúng. Vì đó là mở đầu cho những bất hạnh mà ta phải chịu đựng sau này. Nếu khi đến tuổi mà cứ ôm khư khư các cháu, ta đã phí phạm thời gian còn lại ngắn ngủi của mình.

Người biết lo xa là khi tuổi trung niên đã chuẩn bị cho tuổi già, chuẩn bị để khỏi lệ thuộc vào con cái về vật chất, được như thế những ngày của tuổi già không phải trông mong vào những đồng tiền chu cấp của các con, được thoải mái và tự do trong sinh hoạt.

Người ta bảo tuổi già buồn, nhưng thật ra nếu biết cách sống và có sức khỏe, tuổi già là tuổi vui. Đó là tuổi đã làm xong những phận sự, chẳng còn nhiều trách nhiệm với cuộc đời, mọi lo toan cũng chẳng còn mấy chút. Giàu cũng giàu rồi, nghèo cũng nghèo rồi, chẳng còn sức lực và thời gian để thay đổi số mệnh.

Đau khổ, lo âu hay hạnh phúc, hoan hỉ đều do tâm ta mà ra. Cuối con đường của cuộc sống, an lạc, an nhiên mà đi, chăm sóc bản thân, chấp nhận cái đích cuối cùng của loài người, không âu lo, chẳng sợ hãi cái chết, hãy xem cuộc đời chẳng có gì là quan trọng nữa và tận hưởng nó đến giây phút cuối cùng, âu đó chính là con đường hạnh phúc. -/-

* HuỳnhMinh Hằng (st)

#ƯớcMơViệtTân


 

HÃY SỐNG NHƯ HÔM NAY LÀ NGÀY CUỐI CÙNG CỦA CHÚNG TA

Gieo Mầm Ơn Gọi

Đừng tính toán quá chi li, bởi thời gian còn lại của chúng ta mỗi ngày một ít đi.

Đừng cứ mãi than phiền trách móc, được gặp nhau vốn đã là điều tốt đẹp.

Đừng chỉ biết tranh cãi hơn thua, cùng đi chung một đoạn đường cũng là duyên… biết đâu ngày mai thôi mỗi người đã một hướng.

Không cần so sánh thấp cao với người khác, miễn thấy mình tiến bộ hơn hôm qua là được.Cũng không nhất thiết phải lo lắng quá nhiều, nhiều việc sức người không thay đổi được nên tùy duyên, vui sống.

Nhớ đối xử với bản thân mình tốt một chút, dè sẻn cả đời không dám tiêu xài lỡ nhắm mắt, xuôi tay… Muốn xài cũng muộn.

Đối diện với hiện tại vui vẻ một chút, vì cuộc sống vốn đã có rất nhiều chuyện phải lo rồi…!!!

Hãy sống như hôm nay là ngày cuối cùng của chúng ta.Tha thứ và yêu thương vô điều kiện, đừng bao giờ ngừng mỉm cười bởi vì… Cuộc sống thật sự rất ngắn ngủi.

Qua một ngày, mất một ngày.

Qua một ngày, vui một ngày.

Vui một ngày lãi một ngày…

Hạnh phúc do mình tạo ra. Hạnh phúc, bình an là mục tiêu cuối cùng của đời người, niềm vui ẩn chứa trong những sự việc vụn vặt nhất trong đời sống, mình phải tự tìm lấy.

Hạnh phúc và vui sướng là cảm giác và cảm nhận, khi tâm có chất liệu của hạnh phúc thì hoàn cảnh đau khổ, trái ý nghịch lòng đều là ”chuyện nhỏ” so với dung lượng hạnh phúc hiện hữu trong tâm.

St


 

MỘT QUỐC GIA KỲ LẠ

Posted by GLN

Một quốc gia mà chưa được ai nói CẢM ƠN nó, dù đa số ai ai cũng nhận ơn từ nó.
Một Quốc Gia Có 14 Điều Kỳ Diệu:
1- Tên quốc gia bắt đầu bằng chữ A và chấm dứt bằng chữ A. Một quốc gia độc nhất vô nhị của hành tinh này từ ngày sinh ra đã ĐỨNG ĐẦU, hiện ĐỨNG ĐẦU và có thể sẽ mãi ĐỨNG ĐẦU trong danh sách tên các nước trên thế giới.
2- Một quốc gia có số điện thoại bắt đầu bằng SỐ MỘT.
3- Một quốc gia chưa bao giờ bị nước nào XÂM LĂNG.
4- Một quốc gia tốn tiền nhiều nhất để BẢO VỆ các quốc gia khác.
5- Một quốc gia mà người cùng đường có thể TÁ TÚC và cư trú dù BẠN hay THÙ.
6- Một quốc gia khi lâm nạn không ai cứu trợ vì nó GIÀU NHẤT và là kẻ trước nhất cứu trợ khi các quốc gia khác lâm nạn.
7- Một quốc gia không ai nói CẢM ƠN dù đã từng nhận ơn từ nó.
8- Một quốc gia luôn bị miệt thị là ĐẾ QUỐC, nhưng chính nó là quốc gia thúc đẩy mạnh nhất để XÓA BỎ CHẾ ĐỘ THUỘC ĐỊA sau Thế Chiến Thứ 2.
9- Một quốc gia luôn bị gọi là KỲ THỊ CHỦNG TỘC, nhưng TÔN TRỌNG NHÂN QUYỀN lại được minh định trong Hiến Pháp.
10- Một quốc gia mà đa số các chính quyền ĐỘC TÀI trên thế giới đều buộc dân chúng họ phải lánh xa, nhưng chính bản thân giới cầm quyền đều có tài sản, nhà đất và con cái họ đang sống ở đó.
11- Một quốc gia bị coi là ĐỒI TRỤY nhưng sách báo khiêu dâm phải bọc bìa đen và phim ảnh phải phân loại rõ ràng, không cho trẻ em xem phim người lớn.
12- Một quốc gia có khả năng VỰC DẬY các quốc gia khác từ đống tro tàn, như nước Đức và nước Nhật sau thế chiến thứ 2.
13- Một quốc gia mà bất kỳ nước nào cũng muốn được buôn bán với nó và thế là đủ … GIÀU. Và khi nó quyết định không buôn bán với ai thì nước đó … LÊN ÁN.

14- Một con chim ưng CÔ ĐỘC trên đỉnh cao lẻ loi canh chừng giấc ngủ thế giới.
From: giang pham  & KimBang Nguyen


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Một gia đình nông dân

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả:  Tưởng Năng Tiến

Ngày 24/12/2021, chính quyền chọn ngày Giáng Sinh cho mở phiên tòa hình sự phúc thẩm, xét xử chị Cấn Thị Thêu và  Trịnh Bá Tư”. L.S Đặng Đình Mạnh – 19/12/23

Tôi vốn chả thiết tha hay mặn mà gì lắm với chuyện văn nghệ/văn gừng nên hoàn toàn không quan tâm chi đến những điều tiếng eo sèo, quanh mấy câu thơ (“hơi quá tân kỳ”) của Nguyễn Quang Thiều.

Theo Wikipedia, tiếng Việt, đọc được vào hôm 21 tháng 7 năm 2021: “Ngoài lĩnh vực chính thơ ca tạo nên tên tuổi, ông còn là một nhà văn với các thể loại tiểu thuyếttruyện ngắnbút ký và tham gia vào lĩnh vực báo chí. Ông hiện nay là Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam; Phó Tổng thư ký thứ nhất Hội Nhà văn Á – Phi.”

Thảo nào mà Nguyễn Quang Thiều thường xuất ngoại, và hay viết về những chuyến đi. Năm tháng mà Nguyễn Quang Thiều sống ở nước ngoài, có lẽ, ít hơn thời gian tôi ngồi lê la trong mấy cái bar rượu (nơi xứ lạ) nên đọc mấy trang du ký của ông không thấy có chi là hào hứng lắm.

Cũng theo Wikipedia: “Nguyễn Quang Thiều được coi là người cùng với nhà văn, trung tướng công an Hữu Ước sáng lập nên hai tờ báo là tờ An Ninh Thế giới cuối tháng và Cảnh Sát Toàn Cầu.”

Đã là một quan chức trong chế độ toàn trị, lại làm báo Cảnh Sát với một ông tướng công an (rất nhiều tai tiếng) nên thỉnh thoảng nhà thơ vẫn bị chê trách là lẽ tất nhiên. Tuy nhiên, khách quan mà xét thì khó có thể phủ nhận được rằng ông là một người cầm bút có tài (và cũng rất có tâm) khi viết về cuộc sống ở nông thôn.

Hãy xem qua đôi đoạn (“Thư Của Đứa Con Những Người Nông Dân”) đã được đăng nhiều kỳ trên trang Vietnamnet:

“Cảnh làm ruộng của những người nông dân của mấy chục năm trước kia và bây giờ chẳng khác nhau chút nào. Có khác thì chỉ khác một điểm. Đó là người nông dân đi sau đít con trâu mấy chục năm trước kia hiện ra trong ảnh đen trắng còn người nông dân bây giờ vẫn đi sau đít trâu nhưng là trong ảnh màu rực rỡ….”

Trong những tấm “ảnh mầu rực rỡ” này, Nguyễn Quang Thiều tìm ra được nhiều con số rất “kinh hoàng” – theo như nguyên văn cách dùng từ của chính ông:

“Khi tiếp xúc với những người nông dân, tôi thường xuyên hỏi về tổng thu nhập mỗi tháng của một khẩu trong một gia đình họ là bao nhiêu. Dù rằng tôi biết họ đang sống một cuộc sống vô cùng vất vả nhưng tôi vẫn kinh ngạc khi nghe một con số cụ thể:

‘Tổng thu nhập một tháng trên một khẩu của chúng tôi là 40.000 đồng …’ 40.000 đồng có giá trị như thế nào lúc này. Đó là giá của 2 bát phở, giá của 4 lít xăng, giá của hai xuất cơm trưa văn phòng, giá của một cuốc xe ôm trên đoạn đường 10km, giá của hơn một bao thuốc lá 555, giá của 3 ly cà phê…Tôi biết sẽ có rất nhiều người không thể tin rằng tổng thu nhập hàng tháng của một khẩu trong hầu hết những gia đình nông dân lại chỉ với một con số ‘kinh hoàng’ như thế.”

Nhà văn Nguyễn Khải còn cho biết thêm đôi ba sự việc còn “kinh hoàng” hơn thế nữa:

“Ai cũng giàu có hơn trước, nấu cơm bằng nồi cơm điện, tối xem tivi mầu, giờ rảnh thì xem phim bộ. Mỗi xóm đều có cửa hàng cho thuê băng vidéo, có gái điếm cho ngủ chịu đến mùa trả bằng thóc, có cờ bạc, có hút thuốc phiện và chích heroin, thành phố có gì ở làng quê đều có, cả hay lẫn dở, dở nhiều hơn hay.”

Dù “dở nhiều hơn hay,” làng quê Việt Nam vẫn tồn tại nhờ vào vô số những nông dân “đội sương nắng bên bờ ruộng sâu, vài ngàn năm đứng trên đất nghèo ” để nuôi nấng cho cả dân tộc này được sống “no lành” – theo như lời (Tình Ca) thắm thiết của Phạm Duy.

Câu hỏi đặt ra là liệu giới nông dân còn vẫn có thể tiếp tục “đứng” mãi như thế thêm bao lâu nữa, trước tình trạng nông thôn đang bị bức tử một cách thảm thương như hiện cảnh? Bi kịch mới nhất của giới nông dân Việt Nam vừa được RFA tường trình, vào hôm 22 tháng 6 vừa qua:

“Vụ án hai nhà hoạt động vì quyền đất đai là ông Trịnh Bá Phương và bà Nguyễn Thị Tâm bị cáo buộc tội danh ‘phát tán tài liệu nhằm chống nhà nước’ đã kết thúc giai đoạn điều tra vào hôm 15 tháng 6 năm 2021…

Bà Đỗ Thị Thu, vợ ông Trịnh Bá Phương, cho biết, gia đình chồng của cô có tổng cộng ba người bị bắt giữ, bao gồm ông Phương bị công an Hà Nội bắt giam một năm về trước – chỉ bốn ngày sau khi bà sinh con…

Luật sư Lê Văn Luân, người bào chữa cho cả hai nhà hoạt động thì cho hay trên Facebook cá nhân rằng, cả bà Nguyễn Thị Tâm và ông Trịnh Bá Phương đều bị đề nghị truy tố theo khoản 2, Điều 117 Bộ Luật Hình sự với khung hình phạt từ 10 đến 20 năm tù giam.”

FB Vũ Quốc Ngữ cho biết thêm: “Từ đầu năm đến nay, an ninh Việt Nam bắt giữ ít nhất 13 người theo cáo buộc ‘tuyên truyền chống nhà nước’ hoặc ‘lợi dụng quyền tự do dân chủ,’ và kết án 14 người cũng theo hai tội danh trên với mức án từ 4 năm đến 15 năm tù giam.”

Cả hai tội danh thượng dẫn đều rất mơ hồ – nếu chưa muốn nói là hàm hồ – chỉ để che đậy cho những sự thực (phũ phàng) liên quan đến việc tranh chấp đất đai ở xứ sở này:

Hiến pháp 1959 vẫn chưa “quốc hữu hóa đất đai” như Hiến pháp 1936 của Liên Xô mà nó được coi là một bản sao. Cho dù, từ thập niên 1960 ở miền Bắc và từ cuối thập niên 1970 ở miền Nam, ruộng đất của nông dân đã bị buộc phải đưa vào tập đoàn, hợp tác xã, đất đai chỉ chính thức thuộc về “sở hữu toàn dân” kể từ Hiến pháp 1980…

Chiều 18-1-2011, khi điều khiển phiên họp toàn thể của Đại hội Đảng lần thứ XI biểu quyết lựa chọn giữa “chế độ công hữu về tư liệu sản xuất” và “quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”, ông Nguyễn Phú Trọng hứa với Đại hội “thiểu số sẽ phục tùng đa số”. Nhưng, tháng 5-2012, Ban Chấp hành Trung ương mà ông Nguyễn Phú Trọng là tổng bí thư vẫn quyết định duy trì “chế độ công hữu” với đất đai, “tư liệu sản xuất” quan trọng nhất.” (Huy Đức. Bên Thắng Cuộc, tập II. OsinBook, Westminster, CA: 2013).

Chính cái được mệnh danh là “chế độ công hữu” này đã sản sinh ra vô số những “vụ cướp ngày” từ mấy thập niên qua:

“Chỉ đến thời đại của Internet và đặc biệt là mạng xã hội, những vụ cướp đất đầy tai tiếng mới được phơi bày, luôn luôn đầy bạo lực, máu, nước mắt, và tù tội. Những cái tên đất, tên làng đã đi vào… lịch sử cướp đất: Tiên Lãng, Văn Giang, Đồng Tâm, Dương Nội, Thủ Thiêm, và nhiều nữa… (Đoan Trang, Trịnh Hữu Long. “Chính Trị Việt Nam: Một Thập Kỷ Nhìn Lại.” Luật Khoa Tạp Chí 30/12/2009).

Tác giả Đỗ Thúy Hường tóm gọn:

“Luật ngày càng rườm, dài. Nhưng ‘tim đen’ của luật lại rất đơn giản. Nó nằm ở nội hàm của từ ‘quản lý’… Chỉ bằng một câu viết trên giấy ‘Đất đai (về hình thức) là sở hữu toàn dân, (nhưng thực chất) do nhà nước toàn quyền quản lý’… Thế là, lập tức 50-60 triệu nông dân đang có ruộng, phút chốc biến ngay thành tá điền của đảng.”

Phải cần thêm bao nhiêu dân oan, bao nhiêu mảnh đời bầm dập, và bao nhiêu gia đình nông dân tan nát nữa để cái nhà nước hiện hành có thể “hoàn thiện CNXH ở Việt Nam vào cuối thế kỷ này” ?


 

Bà cụ Texas 90 tuổi lấy bằng cao học, vẫn ‘muốn học tiếp’

 Ba’o Nguoi-Viet

December 19, 2023

DENTON, Texas (NV) – Bà cụ 90 tuổi trở thành sinh viên lớn tuổi nhất từ trước tới nay hoàn tất chương trình học tại đại học University of North Texas (UNT) khi nhận bằng cao học khoa học liên ngành (interdisciplinary studies) mới đây, trường này loan báo.

Bà Minnie Payne cho giới chức UNT hay bà chỉ học đại học một thời gian ngắn sau khi tốt nghiệp trung học năm 1950, nhưng quyết định đi học tiếp sau khi về hưu lúc 68 tuổi sau 30 năm làm nghề đánh máy và soạn thảo văn bản.

Bà Minnie Payne trong ngày nhận bằng cao học UNT mới đây. (Hình: University of North Texas)

Bà Payne từng học ba lớp báo chí tại Texas Women’s University và một lớp kinh doanh tại UNT.

Bà lấy bằng cử nhân nghiên cứu đại cương (general studies) năm 2006 rồi làm ký giả tự do cho nhiều tờ báo khắp Texas.

Bà dọn tới College Station để ở gần gia đình hơn, rồi trở lại UNT học cao học báo chí, nhưng chuyển sang môn khoa học liên ngành khi một số lớp trực tuyến của bà chuyển sang học trực tiếp ở trường.

Bà Payne cho hay bà nghĩ chuyện học hành của bà chưa xong.

“Bằng cách này hay cách khác, tôi muốn học tiếp,” bà nói. (Th.Long)


 

Những kẻ bị khai trừ

Ba’o Đàn Chim Việt

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

20/12/2023

Lê Văn Bình (bìa trái) và các bị cáo bị đưa ra xét xử tại phiên tòa xét xử Cimexcol năm 1989. Nguồn phapluattp.vn

Kể từ khi thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam đến nay (1) đã có bao nhiêu cuộc thanh trừng nội bộ, hoặc thủ tiêu các đồng chí của chính họ?

Tạ Thu Thâu (1906-1944). Nguồn tusachnghiencuu.org

Câu trả lời là không kể xiết được. Bàn tay sắt của đảng cộng sản với bạo lực và lừa bịp đã kéo dài từ hơn nửa thế kỷ nay. Lúc mà người ta nhận diện ra được thế nào là chủ nghĩa cộng sản thì đã quá trễ… Sở dĩ có tình trạng khai trừ là vì chế độc độc đảng, độc tài đến nỗi con người nghĩ ngợi cũng cần phải xin phép. Con người luôn luôn ở trong tình trạng có tội, bị khai trừ. Đó là một thứ tù nhân trong tương lai.

Và mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn, mỗi lần thay đổi chính sách lại có thứ tù nhân mới, có kẻ bị khai trừ mới. Có thứ bị khai trừ trong “thời kỳ” theo đệ tứ hay theo đệ tam, khai trừ “thời kỳ” cải cách ruộng đất, khai trừ “thời kỳ” Nhân Văn Giai Phẩm, khai trừ “thời kỳ” chính sách theo Nga hay theo Tàu, khai trừ “thời kỳ” trong “vụ án chống đảng, chống nhà nước ta đi theo chủ nghĩa xét lại và làm tình báo cho nước ngoài”, khai trừ “thời kỳ” Mặt trận Giải phóng miền Nam, khai trừ “thời kỳ” những người cựu kháng chiến Nam bộ.

Và nay có thêm một thứ khai trừ mới: Phe phái tranh ăn tìm cách loại trừ nhau… Như mới đây, những người dính dáng trong vụ PMU nay bị bắt và bị điều tra. Tướng công an Phạn Xuân Quắc bị điều tra. Hai nhà báo Thanh Niên và Tuổi Trẻ bị bắt.

Tham Nhũng liên kết với đảng được dịp trả thù đối với những ai đòi công lý.

Thêm nạn nhân, thêm oán hận, thêm tủi nhục, thêm phân hóa, chia rẽ, thêm lãng phi nhân lực. Đã có biết bao gia đình tan nát lầm than trong cải cách ruộng đẩt. Phùng Quán đã diễn tả bản chất đảng cộng sản đối với dân:

Những con người tiêu máu của dân
Như tiêu giấy bạc giả

Chúng tôi, xin lược chọn một vài thời kỳ khai trừ chưa được nói tới nhiều mà thôi.

Đối với người cộng sản, họ chia dân chúng ra ba loại người và có ba cách đối xử. Hoặc dân phải “ngoan”, chữ dùng của Vũ Thư Hiên. Ngoan thì tạm yên thân Bảo biểu tình chống Mỹ, chống Tàu thì chống. Bây giờ bảo không được chống thì không đựợc chống. Nghĩa là bảo gì nghe nấy.

Nhưng nếu trong xã hội chẳng may có nmhiều người ngoan thì bướng trở thành một cái tội. Bướng, bất mãn, không “giáo dục” được, tức ngoan cố thì bị khai trừ. Nhưng nếu chống đối nữa thi trở hành phản động sẽ bị thanh trừng, bị tù tội hoặc thủ tiêu, ám sát..

Khai trừ nhóm đệ tứ, còn gọi là Trốt-kít

Vì thế, ngay từ cuối năm 1937, tại Nam phần, đã xảy ra liên tiếp các cuộc thanh trừng nội bộ giữa đệ tam và đệ tứ quốc tế do cộng sản Pháp như Duclos, Gitton giật giây những người cộng sản đệ tam như Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Tạo, Trần Văn Thạch, Nguyễn Văn Nguyễn. Gitton đã viết thơ cho Nguyễn Văn Nguyễn, đề ngày 19 tháng 5, 1957 như sau:

“Phải chấm dứt sự hợp tác với bọn Tạ Thu Thâu kể từ nay..Phải gấp rút ly khai”.

Chứng cớ là Daniel Guérin, bạn thân của ông Tạ Thu Thâu hồi ở Pháp đã viết như sau:

“Ngoài sự bắt bớ của chính phủ, bọn Stalinist quyết đồ sát Tạ Thu Thâu, vu cáo là Phát Xít. Ấy là, chính ở Paris mà bọn Stalinist mưu đồ sát hại Tạ Thu Thâu và các bạn của Thâu. Các bạn nên hiểu ràng, chính từ trong khám đường sâu thảm, Tạ Thu Thâu, người bạn của chúng ta chỉ còn trông cậy có chúng ta, hy vọng có chúng ta.

(trích dẫn Nguyễn Kỳ Nam, Hồi ký 1925-1964, từ trang 23-25, chưa xuất bản).

Ngoài Tạ thu Thâu, lần lượt đến Phan Văn Hùm, Huỳnh Văn Phương, Trần Quang An, Phan Văn Chánh, Nguyễn Bình hay những người có cộng tác với Việt Minh trong Mặt trận Quốc gia thống nhất như Huỳnh Phú Sổ, Dương Văn Giáo.

Họ đã lần lượt bị sát hại. Vì đối với cộng sản, đệ tứ là kẻ thù trên cả kẻ thù như thực dân Pháp.

Trong dịp Trần Văn Giàu đến Paris hồi tháng 10, 1989, hơn 100 nhân sĩ, trí thức VN ở Pháp đã chất vấn Trần Văn Giàu về vấn đề thủ tiêu ám sát đệ tứ. Theo bác sĩ Trần Ngươn Phiêu cho biết Trần Văn Giàu rất lúng túng. Việc họp này đã được thu băng và còn được lưu giữ. Trần Văn Giàu cũng hứa “rửa” tiếng cho Tạ Thu Thâu, nếu đảng cộng sản VN không “rửa”. Nhưng từ đó đến nay, chưa bao giờ thấy Trần Văn Giàu làm gì để “rửa” cả. (Trích Trần Ngươn Phiêu, Phan Văn Hùm, thân thế và sự nghiệp, trang 358). Ngoài các nhóm đệ tứ bị sát hại ở miền Nam, ngoài Bắc những trí thức miền Bắc như Trương Tửu, Phan Khôi, Nguyễn Hữu Đang, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường cũng bị tiếng oan là đệ tứ. Nhất là trường hợp Trần Đức Thảo, một trí thức thân với đệ tam.

Nhưng ai đã giết Tạ Thu Thâu?

Vào năm 1989, tại Pháp, hơn 100 nhân vật chính trị và văn hóa đòi phục hồi danh dự cho Tạ Thu Thâu bị giết tại ven biển Mỹ Khê, Quảng Ngãi vào tháng 9, 1945. Những người giết Tạ Thu Thâu kết tội ông làm Việt gian cho phát xít Nhật. Cuối năm 1939, chính Nguyễn Ái Quốc gửi báo cáo cho quốc tế cộng sản ghi rõ:

Đối với bọn Trốt Kýt, không thể có một thỏa hiệp hay nhân nhượng nào cả. Phải lột mặt nạ chúng như là tay sai của Phát xít, phải tiêu diệt chúng về chính trị.

Ông viết tiếp khi ở bên Tàu: “Bọn Trốt kít là một lũ bất lương, những con chó săn của chủ nghĩa Phát xít Nhật và chủ nghĩa Phát xít Quốc tế” (Trích Thành Tín, Mặt Thật, trang 112-113, Turpin Press 1994).

Theo ông Hoàng Hoa Khôi, thuộc nhóm đệ tứ trong tập hồ sơ: Nhìn lại sáu mươi năm tranh đấu cho Việt Nam, ông viết:

“Sau khi điều tra, chúng tôi biết được ba thủ pham. Họ đều là những người cộng sản. Người thứ nhất là Kiều Đức Thắng, trách nhiệm nghiệp đoàn, người thứ hai là Nguyễn Văn Trấn, đã từng được đi học tập ở Moscow, người thứ ba là Nguyễn Văn Tây, cựu bộ Trưởng chính phủ Trần Văn Giàu”.

(trích Hoàng Hoa Khôi, Hồ sơ đệ tứ, trang 228 ).

Cũng cần nói thêm ông Nguyễn Văn Trấn sau này đã phản tỉnh và viết cuốn: Viết cho mẹ và Quốc Hội. Trong sách, ông Trấn né tránh về vai trò sát thủ của ông trong việc thủ tiêu những người CS đệ tứ. Ông là cánh tay mặt của Trần Văn Giàu, người bị coi là có trách nhiệm trong các vụ ám sát nhóm đệ tứ. Ông mất năm 1998.

Cũng có nhiều tài liệu khác viết về cái chết của Tạ Thu Thâu như cuốn Việt Nam 1920-1945 của ông Ngô Văn hay tài liệu: Người Việt ở Pháp 1940-1954 của ông Đặng Văn Long.

Khai trừ nội bộ ở ngoài Bắc

Sau cuộc chiến 1954-1975, theo ông Bùi Tín, có đến hàng trăm vụ án chính trị gọi là “chống lại lãnh đạo”, “chống đảng”, “xét lại”, “phản động” vẫn không được thanh minh để giải tỏa nỗi oan ức. Những người trực tiếp trách nhiệm là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ. Mà Võ Nguyên Giáp sợ. Mà Hồ chí Minh im lặng. Sau đó, ông Bùi Tín trong bản kiến nghị của một công dân, ông đã đưa ra hằng trăm tên tuổi những người bị tù, bị oan ức, bị xỉ nhục. Gia đình họ bị điêu đứng. Có người đã chết oan ức và tủi nhục. Ông Bùi Tín đã đòi công lý cho các người sau đây: các tướng Đặng Kim Giang, Nguyễn Vinh, Lê Liêm; các đại tá Đỗ Đức Kiên, Nguyễn Minh Nghĩa, Nguyễn Hiếu, Phan Hoàng; các giáo sư: Bùi Công Trừng, Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh; các nhà báo: Hoàng Thế Dũng, Nguyễn Kiên Giang, Quang Hân, Mai Luân, Mai Hiển, Định Chân, Trần Thư, Khắc Tiếp, Hồng Văn; các văn nghệ sĩ Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần, Phùng Quán, Nguyễn Bính, Hữu Loan, Minh Giang, Quang Dũng, Trần Châu, Trần Đĩnh, Hà Minh Tuân, Việt Phương, Anh Chính, Sỹ Ngọc, Văn Cao, Tử Phác, Đặng Đình Hưng, Trần Lê Văn, Chu Ngọc, Trần Tích Linh; vụ trưởng Vũ Đình Huỳnh; các đại tá Ngọc Bằng, Cao Nham, Đỗ Trường, Nguyễn Trần Thiết bị giữ và vụ án ông Ta Đình Đề.

Trong cuốn Án tích cộng sản Việt Nam, tác giả Trần Gia Phụng đã đưa ra một danh sách trong “Thông Điệp xanh” mà nhiều tên tuổi phù hợp với danh sách của ông Bùi Tín. Xin được đưa ra:

Bùi Công Trừng, Bùi Ngọc Tấn, Dương Bạch Mai, Đào Phan tức Đào Huy Dếnh, Đặng Cần, Đặng Đình Cầu, Đặng Kim Giang, Đinh Chân, Đỗ Đức Kiên, Đỗ Văn Doãn, Hoàng Minh Chính, Hoàng Thế Dũng, Huy Vân, Lê Liêm Lê Minh Nghĩa, Lê Trọng Nghĩa, Lê Vinh Quốc, Lưu Động, Mạc Lân, Mai Hiến, Mai Lân, Minh Tranh, Nguyễn Cận, Nguyễn Gia Lộc, Nguyễn Hồng Sỹ, Nguyễn Kiến Giang, Nguyễn Minh Cần, Nguyễn Thị Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thẩm, NguyễN Văn Vịnh, Phạm Kỳ Vân, Phạm Quang Đức, Phạm Viết, Phan Thế Vấn, Phùng Văn Mỹ, Quảng Hân, Trần Châu, Trần Đĩnh, Trần Minh Việt, Trần Thư, Tuân Nguyễn, Ung Văn Khiêm, Vũ Đình Huỳnh, Vũ Huy Cương, Vũ Thư Hiên.

Đó là những nạn nhân ở phía Bắc mà ông Bùi Tín có giao tiếp, quen biết và biết rõ.

Trong số những người trên, nhà văn Vũ Thư Hiên cho biết bố ông là Vũ Đình Huỳnh bị bắt vì tội thành phần “xét lại”. Ông bị bắt ngày 18/10/1967 vì “chống đảng”. Theo bà Phạm Thị Tề, chồng bà bị còng tay bằng còng số 8, nhưng còng sắt không vừa, họ đã trói giật cánh khủy ông, một ông già đã về hưu. Hình ảnh đó cho đến chết tôi cũng không thể quên, vì nó tàn bạo và man rợ gấp bội phần so với thời thực dân” (trên Diễn đàn số 44).

Ít lâu sau đến lượt Vũ Thư Hiên theo bố vào tù. Bố đi tù thì theo lý lịch, theo luật tru di tam tộc, không tội trở thành có tội, con phải tù theo là phải rồi. Cũng nhờ đó mà sau này Vũ Thư Hiên viết cuốn Đêm giữa ban ngày.

Một cuốn sách làm nên tên tuổi anh.

Mặt trận giải phóng miền Nam

Dươnng Quỳnh Hoa tự Bảy Hồng. Nguồn roninfilms.com.au

Phần đông những người của MTGPMN đều là trí thức, chuyên viên. Có tất cả khoảng 30 người vào khu. Chỉ có ba cặp vợ chồng, còn tất cả đi một mình. Có thêm 6 thanh niên chưa quá 30 tuổi. Vào khu rồi bà Dương Quỳnh Hoa mới thành hôn với kỹ sư Huỳnh Văn Nghị. Ngay sau 1975, chừng một tháng, Hà nội đã xóa sổ MTGPMN. Từ đó phần đông những người đã theo Mặt trận bất mãn, chống đối và ly khai. Họ là những người như Lữ Phương, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Nguyễn Trọng Văn, (ba người này không vào khu, vẫn ở thành phố) Trương Như Tảng, Dương Quỳnh Hoa. Trước đây, họ bị coi là bù nhìn, sau họ cảm thấy bị phỉnh gạt trắng trợn. Phần lớn âm thầm, nuốt nhục rút lui, hoặc trốn ra ngoại quốc như bộ trưởng Trương Như Tảng.

Dù sao, bỏ quên là một hình thức khai trừ nhẹ nhàng nhất mà họ may phúc được hưởng.

Hoặc xin ra khỏi đảng như vợ chồng bác sĩ Dương Quỳnh Hoa.

Bà Dương Quỳnh Hoa mất ngày 25/02/2006, tại Sài gòn. Sinh thời, bà theo học ngành thuốc tại Sài gòn và nhất là tại Pháp, gia nhập đảng cộng sản Pháp vào những năm 1948-1954. Với tư tưởng xã hội và cấp tiến như thế, bà tham gia MTDTGPMN. Sau này bà đã thú nhận, đó là một ảo tưởng chính trị trong đời.

Ông Huỳnh Văn Nghị, chồng bà đã phản đối quyết định thống nhất ngay lập tức Mặt trận giải phóng miền Nam và Liên minh các lực lượng dân chủ và hòa bình. Họ bị loại trừ. Bà xin ra khỏi đảng, nhưng thời đó, thủ tướng Phạm Văn Đồng đồng ý với điều kiện bà phải giữ im lặng. Nhưng sư im lặng đó không kéo dài được lâu khi bà phải chứng kiến quá nhiều điều “phản cách mạng” từ khi đảng cộng sản Việt Nam ‘thực thi’ cái lý tưởng mà bà đã hy sinh cả đời sống cho nó. Khi được tờ báo Far Eastern Economic Review (FEER) phỏng vấn vào ngày 17/10/1996: Quel est l’évènement le plus marquant pendant les 50 années passées? Bà trả lời: L’effondement du mur de Berlin qui mit un terme à la “grande illusion” (Tạm dịch. Biến cố nào được kể là nổi bật nhất trong 50 năm qua? DQH: Sự sụp đổ bức tường Bá Linh và chấm dứt một “ảo tưởng” lớn.

Nhất là khi được Stanley Karnow phỏng vấn về sự thất bại của cộng sản Việt Nam (The Failure of Communism in Vietnam, Nguyen Phuc Buu Chanh, Online: http://snipurl.com/29phe [www_freerepublic_com], May 19, 2008) bà Dương Quỳnh Hoa đã trả lời rằng:

Tôi đã là người cộng sản cả đời tôi. Nhưng bây giờ khi chứng kiến những sự thật về chủ nghĩa cộng sản và sự thất bại của nó, quản trị kém, tham nhũng, đặc quyền, áp chế, lý tưởng của tôi đã không còn. (“I have been a Communist all my life, but now I’ve seen the realities of Communism, and it is a failure—mismanagement, corruption, privilege, repression. My ideals are gone.”)

Chủ nghĩa cộng sản là tai họa. Những cán bộ đảng cộng sản không hề hiểu biết về sự cần thiết của việc phát triển một cách hợp lý. Họ bị mê hoặc bởi những khẩu hiệu của Mác Xít đã không còn giá trị nữa, nếu không muốn nói rằng chúng không bao giờ có giá trị. Họ là những kẻ (tàn ác) quá độ. (“Communism has been catastrophic. Party officials have never understood the need for rational development. They’ve been hypnotized by Marxist slogans that have lost validity—if they ever were valid. They are outrageous.”)

Người ta tự hỏi rằng nếu bà Dương Quỳnh Hoa không phải là một khuôn mặt nổi tiếng, một trí thức hàng đầu của MTGPMN thì bà có được bình yên, không bị tù tội sau khi tuyên bố những lời như trên với một ký giả Hoa Kỳ? Nhưng điều này có thể giải thích phần nào vì khi nhà cầm quyền cộng sản nộp đơn kiện chính phủ và một số công ty hoá chất Hoa Kỳ tại toà án New York về những thiệt hại về nhân mạng và nhất là ảnh hưởng tai hại phụ nữ Việt Nam ở những vùng ô nhiễm thường bị xẩy thai hay sinh ra trẻ dị dạng. Một trong ba người đứng tên trong đơn kiện này lại là bà bác sĩ Dương Quỳnh Hoa.
Những dữ kiện về bà Dương Quỳnh Hoa trong đơn kiện do phía cộng sản đưa ra trước toà án New York đọc được như sau:

Người đi kiện DUONG QUYNH HOA
Điều thứ 135. Năm 1964, plaintiff Duong Quynh Hoa là một người Việt Nam và là một y sĩ cư ngụ tại thành phố Saigon thuộc miền Nam Việt Nam
Điều 136. Trong thời gian này, bà thường đi lại tỉnh Biên Hoà và vùng Sông Bé là những nơi bị nhiễm thuốc độc do những bị cáo trên đây sản xuất.
Điều 137. từ 1968-1976, Dr. Hoa là Bộ Trưởng Y tế cuả CPLT MNVN và sinh sống tại tỉnh Tây Ninh.
Điều 138. Trong thời gian ở Tây Ninh, bà được chỉ thị nhiều lần phải bao đầu bằng bao Plastic vì quân đội Hoa Kỳ sẽ rải hoá chất độc. Trong thời gian này, bà đã trông thấy một thùng đựng chất độc da cam sản xuất bởi những bị cáo được thả xuống từ máy bay quân đội Hoa Kỳ.
Điều 139. Tháng 5, 1970, Dr. Hoa sinh hạ một bé trai tên là Hùynh Trung Son. Plaintiff Huynh Trung Son sinh ra bị dị tật và bị tàn phế.
Điều 140. Plaintiff Huynh Trung Sơn chết khi được 8 tháng tuổi.
Điều 141. Sau chiến tranh, Dr. Hoa bắt đầu có triệu chứng ngứa ngáy và bị lở ngoài da.
Điều 142. Năm 1971, Dr. Hoa có thai và bị sẩy thai vào tháng 7, 1971 sau 8 tuần lễ có thai.
Điều 143. Dr. Hoa có thai lần nữa nhưng lai sầy thai sau sau tuần vào tháng 1 năm 1972.
Điều 144. Sau khi mất đứa con đầu lòng và sầy thai hai lần, Dr. Hoa quyết định sẽ không có con nữa.
Điều 145. năm 1985, sau khi bị ngất xỉu và chóng mặt nhiều lần, Dr. Hoa bị khám phá là bị bệnh tiểu đường.
Điều 146. Năm 1998, Dr. Hoa bị bệnh ung thư vú và phải giải phẫu cắt bỏ ngực.
Điều 147. Năm 1999, Dr. Hoa thử máu và khám phá ra nồng độ chất độc da cam dioxin trong máu bà cao hơn độ bình thường rất nhiều.
Điều 148. Cả hai cái chết của hai người đi kiện, plaintiff Duong Quynh Hoa con trai của ba là Huynh Trung Son là do chất độc da cam do những bị cáo nêu ra ở trên sản xuất.

(trích từ phán quyết cuả toà UNITED STATES DISTRICT COURTEASTERN DISTRICT OF NEW YORK vụ VN xin kiện vụ chất độc da cam)

Năm 2004, mặc dù chi rất nhiều tiền cho các tổ hợp luật sư danh tiếng cuả Hoa Kỳ toà án ờ New York đã bác đơn xin kiện của chính phủ Việt Nam về vụ chất độc da cam. Từ đó đến nay, tuy phía Việt Nam cho biết sẽ kháng án nhưng vấn đề này không còn được đề cập tới sôi nổi như trước đây. Ghi chép lại dài dòng về những chi tiết của đời sống riêng của bà Dương Quỳnh Hoa để thấy rằng dù không bị cộng sản thanh trừng, bà cũng đã phải trả cái giá quá đắt. Bà là một điển hình cho trí thức miền Nam khi chọn sai lý tưởng để theo đuổi và nhất là khi đó lại là chủ nghiã cộng sản. Ít ra thì khi có phán quyết này của toà án Hoa Kỳ, bà Dương Quỳnh Hoa đã qua đời, khỏi phải thêm một lần thất vọng

Trong Hồi ức Nguyễn Thị Bình, một người còn được trọng dụng, dày đến 700 trang, người đã một thời là đồng chí với nhau ở trong bưng là bà Dương Quỳnh Hoa đã không được bà Bình nhắc đến một lần.

Những người khác như quý ông Trịnh Đình Thảo (1901-1982), vợ là bà Ngô Thị Phú, quê quán Sóc Trăng. Ông Lâm Văn Tết ( 1896-1982) Ông bà Phùng Văn Cung, vợ là Lê Thoại Chi. Giáo sư Nguyễn Văn Kiết, Nhà văn Thanh Nghị, Hoàng Trọng Quỳ, vợ là nghệ sĩ Tâm Vấn. Ông bà Trần Kim Bảng, bút hiệu Thiên Giang, vợ là nữ sĩ Vân Trang, thân sinh ra gs địa chất Trần Kim Thạch. Em gái bà Vân Trang là nghệ sĩ Mộng Trung, vợ Trần Văn Khê. Giáo sư Nguyễn Văn Chì, vợ là là bà Nguyễn Đình Chi, Chánh án Phạm Ngọc Thu, Võ Ngọc Thành, dược sĩ Hồ Thu, kỹ sư Cao Văn Bổn, kỹ sư Tô Văn Cang, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, chức sắc Cao Đài Nguyễn văn Ngỡi, bà Bùi thị Nga (vợ của ông kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát.)

Sau 1975, sau “ngày giải phóng”, họ làm gì? Họ ở đâu ? Họ chẳng làm gì cả Họ tiếp tục ngồi chơi xơi nước với danh hão? Họ tiếp tục ăn bánh vẽ dù chẳng còn muốn ăn. Bà Bùi Thị Nga có thay chồng viết cuốn Huỳnh Phát, cuộc đời và sự nghiệp, dày trên 600 trang cùng không một chữ cho bà Dương Quỳnh Hoa.

Hồi đó quý vị được đảng bố trí ở biên giới Việt Nam-Campuchia, khoảng giữa bót Tà Xúa tới Chợ Giữa, Kà tum. Nhưng vì vấn đề an ninh,quân sự, chỗ ở cũng bị thay đổi nhiều lần để tránh phi cơ Mỹ ném bom.

Nhiều vị được dẫn đến “Trung ương” MTGPMN, phải vất vả lắm.Trước hết, phải vượt qua kinh Đìa Vàng, đến Ba Thu trong vùng Mỏ Vẹt. Nhà ở là mấy chục nóc nhà ni lông. Ai cũng ngủ võng cả. Nghe tiếng máy bay là lăn từ võng xuống hầm ngay đó. Nhà ăn tập thể thì nóc lợp lá trung quân, chung quanh có nhiều hầm đào sẵn để tránh bom. Nhà này vừa dùng làm chỗ ăn uống đồng thời là chỗ hội họp chính tri. Hằng ngày, Huỳnh Tấn Phát, linh hồn của Mặt trận, họp để đọc tin tức, nghe bá cáo và học tập. Nhất là nhanh chóng “để các vị ổn định tư tưởng và đời sống riêng tư.”

Nhiều vị ra đi tưởng chỉ vài tuần là “Giải phóng xong miền Nam”. Nay nhớ nhà, nhớ cơm, nhớ phở, nhớ điện, nhớ nước, nhớ cầu tiêu, nhớ tiện nghi Sài Gòn Nhiều khi không biết làm gì thì gs Nguyễn Văn Kiết mang triết học của Kant, Hegel ra giảng cho các quý vị nghe đỡ buồn. Vấn đề ăn uống chắc không có trở ngại gì. Chỉ sợ kiến rừng. Đồ ăn dư phải để trong một bát nước, nếu không kiến bò vào bát xơi trước. Nhưng vấn đề tắm rửa cho mấy vị phụ nữ thì thật phiền hà. Người như bác sĩ Dương Quỳnh Hoa mà nay phải ra tắm suối cởi truồng thì coi sao được. Bảo vệ phải làm nhà tắm, đi khuân nước về, rồi phải đun sôi cho vị nữ bác sĩ tắm cho đỡ lạnh. Đối vị nữ lưu như bà, thế là cực khổ lắm rồi.
Công việc chính là ngồi chơi xơi nước. Biết mình bị lợi dụng, biết bị làm cảnh, biết bị lừa.

Nhưng, như nhạc TCS, Tiến thoái lưỡng nan, đi… về… lận đận.

Muốn về cũng không có đường về.

Huỳnh Tấn Phát (1913-1989).Nguồn wikimedia.org

Quý vị thì nhàn, không có việc gì làm, họp hành đưa ra nghị quyết, tuyên bố rồi biên bản bị vứt vào sọt rác, vì Trung ương đã soạn sẵn. Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch Hội đồng cố vấn chính phủ cũng nhàn. Ngồi chơi xơi nước đến hai lần. Trong khi đó theo Trần Thanh Quốc, thư ký riêng của Huỳnh Tấn Phát – chủ tịch Phát làm chủ tịch chính phủ cách mạng lâm thời cộng Hòa miền Nam VN – với chức vụ đó ông “không có một chút thì giờ để nghỉ ngơi. Chỉ có thể nói những phút giây rảnh rỗi là khi anh lên yên con ngựa sắt để đi họp. Đó là thời gian nghỉ ngơi thanh thản nhất.” Bận thế đấy.

Trước 1975, 4 vị thanh niên là Trần Quang Long, Trần Triêu Luật, Lê Hiếu Đằng, và Trần Thiên Tứ sang công tác ở tuyên huấn R. Trần Quang Long và Trần Triệu Luật đã chết sau ba đợt bom tại đây.

Hầu hết những vị này, sau 30/04/1975 đều cho ngồi chơi xơi nước. Đó là cách đãi lọc kiểu cộng sản. Chỉ riêng những người đã từng chiến đấu dưới hàng ngũ cộng sản như Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Thị Bình còn được giữ chức vụ ngồi chơi nước như Phó Thủ tướng chính phủ. Ông Phát sau này chỉ lo vụ tiêp tân, đón tiếp khách ngoại quốc hoặc có nhiệm vụ đi ra nước ngoài thay mặt chính phủ.

Đó là số phận dành cho những kẻ chạy cờ. Một cách khai trừ “ êm dịu”

Vụ án Cimexcol-Minh Hải: Khai trừ vì tranh ăn

Đối với phe cánh của ông Võ Văn Kiệt thì vụ án Cimexco chỉ là “cơ chế cũ đánh cơ chế mới” hay “ kinh tế bao cấp đánh kinh tế mở cửa”. Trong phiên tòa xử vụ Cimexcol, người ta nhận xét là: Phiên tòa này lấy cái cũ xử cái mới, không đúng pháp luật, không được lòng dân. Tôi tự hỏi lòng dân liên quan gì đến việc các quan lớn “chơi” nhau, giữa cánh Nam với cánh Bắc?

Vụ án xảy ra vào tháng 7/1997. Kết quả vụ án là Dương Văn Ba, lãnh án chung thân khổ sai từ ngày 25/12/1987. (DVB, cựu dân biểu đối lập đệ nhị cộng hòa, miền Nam, thành phần thiên tả, thân cộng sản. Anh ta chỉ bị giam mấy năm và sau đó được thả do sự can thiệp của cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt). Bên cạnh Dương Văn Ba có đồng lõa là Trịnh Thị Tuyết Sương, kế toán trưởng mà theo lời khai của đương sự là: Thị Sương bị Dương Văn Ba, (hồi còn sinh viên quen gọi DVB là Ba gà) mưu mô xảo quyệt mua chuộc bằng tiền tài vật chất, tình cảm, dần dần biến thành tay sai đắc lực, mù quáng thực hiện mệnh lệnh của DVB . Thị Sương tỉnh ngộ và đã thành thật khai báo nên cần xem xét giảm nhẹ đặc biệt đối với Thị Sương.

Những người khác cùng bị ra tòa với Dương Văn Ba là Nguyễn Quang Sang, Trương Công Miên, Huỳnh Văn Ngươn, Thạch Phen (cựu dân biểu đối lập, đệ nhị cộng hòa), Lâm Thành Đại, Dương Thị Nhung, Trần Công Thức, Huỳnh Kim Báu, Đặng Hữu Hiền, Trang Trung Trí, Phan Thị Hương Trang, Lương Công Trà, Nguyễn Duy Thưởng, Nguyễn Thanh Hòa, Lê Phương, Tạ Khắc Quyền, Lê Văn Bình. Tất cả là nhóm lãnh đạo miền Nam cộng một số “ngụy quân” , ngụy quyền” cũ. Nhất là con số 2000 công nhân viên mà một số không nhỏ là cựu sĩ quan chế độ miền Nam.

Sau này, vào ngày 9/3/1994, có vụ “làm việc” lại về vụ án Cimexcol, tỉnh Minh Hải với sự có mặt của:

– Bộ chính tri: Có anh Đỗ Mười, anh Võ Văn Kiệt, anh Đào Duy Tùng, anh Lê Phước Thọ ( Sáu Hậu), anh Đỗ Quang Thắng, anh Nguyễn Hà Phan.

– Đại diện các cơ quan pháp luật trung ương có: Viện Kiểm soát nhân dân: Anh Lê Xuân Dục.Tòa án: Anh Phạm Hưng, chánh án TANDTC, người đã xử vụ án, anh Tư Thắng, Phó chánh án TANDTC. Thanh Tra: Anh Tám Thẩm.

– Các ban Đảng: Ban Tổ chức: anh Nọ, anh Ba Niềm. Ban Kiểm tra: anh Sáu Kiến, phó chủ nhiệm và một số cán bộ phụ trách phía Nam. Ban Văn hóa tư tưởng : Anh Lê Thanh Nhàn ( Ba râu)

– Ban Thường vụ tỉnh Minh Hải: Đặng Thành Học, bí thư Tống Kỳ Hiệp, phó bí thư; Ngô Vân, chủ tịch tỉnh, Nguyễn Hoa, trưởng ban tuyên giáo; Nguyễn Văn Út, trưởng ban tổ chức. Trọng Nam, giám đốc sở công an…

– Và Đoàn Thanh Vị, nguyên Ủy viên trung ương đảng, bí thư tỉnh uỷ Minh Hải Phạm Văn Hoài, Phó bí thư, chủ tịch UBND tỉnh, Lê Văn Bình, nguyên phó bí thư, chủ tịch UBND tỉnh.

– Tổng số khoảng 40 người, trong đó có 6 anh Ủy Viên Bộ chính trị, và 8 anh trong Ban chấp hành TU đảng. Lời bình: Toàn thứ chóp bu để giải cái án này cho Dương Văn Ba, một thứ “sâu mọt” bị kẹt giữa hai lằn đạn. Vai trò của ông Võ Văn Kiệt là bênh vực cánh miền Nam, ngay cả “ngụy quân, ngụy quyền” cũ.

Nhận xét: Đây chỉ là một vụ án tranh chấp giữa phe cánh với Võ Văn Kiệt. Khi đọc hồ sơ vụ án, tôi thấy có lời phê duyệt của Nguyễn Văn Linh như sau: Hồ sơ tội trạng đã rõ ràng, cứ thế mà thi hành.

Cứ thế mà thi hành, vậy mà sau đó, vụ án bị đem ra mổ xẻ, xét lại dưới trào Võ Văn Kiệt.

Trong vụ án này có vài việc đáng ghi và viết ra đây:

Thứ nhất, có bị cáo là Ngô Vĩnh Hải, tổ trưởng tổ Kiều hối của Cimexcol. Anh bị truy tố về tội mua bán hàng cấm. Được biết Ngô Vĩnh Hải, trước 1975 là ký giả của tờ Điện Tín. Thẩm phán đã tra vấn anh là có phải anh có người anh là giáo sư đại học ở Mỹ (2) và anh đã được bảo lãnh không? Việc có người anh ở Mỹ có liên quan gì đến vụ án?

Anh đã không nhờ luật sư biện hộ và tự biện hộ trước tòa. Anh phủ nhận các lời khai do công an thẩm vấn anh trước đây. Anh khai:

“Thưa quý tòa, lời khai đó của tôi, nhưng tôi khai theo sự hướng dẫn của An ninh điều tra. Nếu tôi chịu khai như thế thì An ninh sẽ thả tôi về xum họp gia đình trước tết 1988 – tôi bị bắt cuối năm 1987.”

Cả hội trường đều xôn xao. Trên ghế chủ tọa, người ta thấy ông tòa nổi giận nói: “Anh đâu là trẻ con mà người khác bảo anh khai thế nào, anh khai thế nấy”.

Thưa quý tòa, bởi lẽ tôi không là trẻ con, tôi mới làm vậy, vì tôi muốn được thả ra. Nhưng an ninh điều tra không thực hiện lời hứa ấy với tôi, như vậy người thực hiện lời hứa đâu là trẻ con, thưa quý tòa!

Cuối cùng tòa xử Ngô Vĩnh Hải được trắng án. Nhưng ai có thể đền bù cho Ngô Vĩnh Hải bị 16 tháng tù giam trước khi xử trong đó có 10 tháng biệt giam?

Người thứ hai là bị cáo thứ 21, Lê Văn Bình, người duy nhất trong ban Lãnh đạo tỉnh Minh Hải “được chọn” đưa ra xét xử. Ông Bình chỉ bị “một năm tù cho hưởng án treo. Giao cho UBND Phường 1, thị xã Bạc Liêu theo dõi, giáo dục”. Nhưng trước tòa, ông không đóng vai bị cáo mà buộc tội tòa án như sau: “ các anh chỉ biết xử chứ không biết xét, biết kết tội chứ không biết giải oan, chỉ vì mình hơn vì công lý.” Cả phòng im lặng, “tôi không thể hiểu nổi các anh, các anh không đủ tư cách.” Ông Lê Văn Bình mạnh miệng như thế, bởi vì ông còn là nguyên đại biểu Quốc Hội khóa 8 kiêm chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Minh Hải.

Ông mạnh miệng như thế là phải rồi. Một năm tù treo là lối xử mà không xử. Vậy mà ông Lê Văn Bình uất ức mãi. Trong suốt 4 năm ròng, ông Lê Văn Bình phải chịu đựng nỗi oan Khiên và cũng 4 năm đó, ông đội đơn gõ cửa khắp nơi kêu oan, nhưng đến nay nỗi oan khiên vẫn còn đó!

02.04.2008 Võ Văn Kiệt đến Bệnh viện Bạc Liêu thăm hỏi Năm Hạnh Lê Văn Bình (chết ngày 01.5.2008). Nguồn phapluattp.vn

Ông Lê Văn Bình mà còn phải chịu đựng như vậy thì dân chúng thấp cổ bé miệng phải chịu đựng ra sao? Sau này khi có cơ hội, ông đã làm cho to chuyện. Lúc Dương Văn Ba bị bắt ra tòa thì ông đang bận họp ở Quốc Hội.

Riêng Dương Văn Ba, thời làm dân biểu VNCH, ăn to nói lớn, miệng hùm gan sứa, trong tòa nhà Quốc Hội đập bàn đập ghế, đánh bạc xì phé như ranh ngay từ thời sinh viên nên chuyện gì cũng dám làm. Chuyện tầy trời cũng không ngại. Nay, biết thân phận mình, anh tỏ ra hiền lành, tịnh khẩu… Anh nhũn như con chi chi.

Người thứ tư là ông Trang Thanh Khả, giám đốc công ty gỗ. Bi kịch của Trang Thanh Khả là ông đã tự sát bằng cách: Trang Thanh Khả “tự cắt lưỡi mình, vì lưỡi để nói mà không được nói. Cắt hai động mạch chủ ở hai tay, để chứng minh hai bàn tay sạch. Mổ bụng, kéo ruột ra cắt một khúc, chứng tỏ lòng dạ tốt mà lãnh đạo không tin.” Sau này thì người ta ca tụng đồng chí Trang Thanh Khả là người can đảm đã dám “lấy cái chết đau thương thảm khốc để cảnh tỉnh người lãnh đạo”, một hành động có một không hai trong lịch sử cận đại, để mà tôn vinh cho xứng đáng.

Bên cạnh đó còn việc chết đuối của Lâm Thành Sự ở Laksao khi công tác ở bên Lào? Có thể là chết đuối là việc tự nhiên, nhưng việc gì cũng có thể là dối trá thì tại sao không nghi ngờ?

Dù sao thì đồng chí Trang Thanh Khả không còn nữa. Nói chi cũng bằng thừa.

Người thứ năm lên tiếng: Quyết định công khai ý kiến là ông Nguyễn Quốc Sử, nguyên viện trưởng, viện kiểm soát nhân dân, tỉnh Minh Hải.

“Trong cuộc đời tham gia làm cách mạng của tôi đến thời điểm này còn 3 tháng 26 ngày nữa là tròn 40 năm, chưa lúc nào tôi hay suy tư hơn lúc này, kể cả những năm tháng tôi bị lưu đầy và lúc được tin những người thân của tôi ngã xuống, mặc dù rơi nước mắt, nhưng ý chí căm thù lại thúc tôi đứng thẳng để trả thù”.

Còn bây giờ làm sao vô tư được?

Sau này, tờ tuần báo Tuần Tin Tức, số 38, ra ngày 19/09/1993 có đưa ra chứng cớ về tiền bạc thiếu hụt của công ty. Theo cáo trạng thì Cimexcol có thiếu hụt 4,62 triệu đô la, nợ nước ngoài 5,1 triệu đô la không có khả năng thanh toán. Nhưng theo kết luận của đoàn Thanh tra của tỉnh Minh Hải thành lập thì đã đưa ra con số nợ chỉ vỏn vẹn có 807.813, 48 đô-la . Mức chênh lệch tới 3,826 triệu đô la. Như vây số hơn 3 triệu đô la đi đâu?

Sau này, nhóm người của ông Võ Văn Kiệt (3) còn đòi truy cứu những ông lãnh đạo Trung ương và địa phương chủ đạo vụ án như ông Trần Kiên, bí thư Trung ương đảng,Trần Đình Hương (Mười Hương), bí thư trung ương đảng; Nguyễn Việt Thắng, Phó chánh án tòa án nhân dân tối cao; Trần Quyết, Viện trưởng viện KSNDTC và những ông thanh tra như Nguyễn Thanh, Đoàn Minh Thuần, Nguyễn Quang Thanh, Lê Xuân Đục, chủ tọa phiên tòa. Ở Minh Hải có Nguyễn Văn Đáng, Đặng Thành Học, Tống Kỳ Hiệp. Những người trong ban giám đốc kế nhiệm bi. tố cáo là đã làm thâm hụt hằng triêu đô la sau vụ án. Những người đứng đơn trong việc kiện ngược lại là quý ông Đoàn Thành Vị, Phạm Văn Hoài, Lê Văn Bình.

Nhưng hồi sau ngã ngũ ra sao thì không ai được biết? (trích theo hồ sơ tài liệu của Hồ Ngọc Nhuận, Chuyện một vụ án).

Đây chỉ là một hình thức thanh trừng nội bộ dựa trên pháp lý để tranh ăn.

(Trích tài liệu in photopy của cựu dân biểu đối lập Hồ Ngọc Nhuận. Sách không được ông Trần Bạch Đằng cho xuất bản)

Vụ án những người kháng chiến cũ

Sau 1975, những kháng chiến cũ cho thành lập một hội lấy tên là: Hội truyền thông kháng chiến thành phố Hồ Chí Minh. Hội đã được Bí thư thành ủy thành phố HCM lúc bấy giờ là ông Nguyễn Văn Linh cho phép hoạt động vào năm1985. Chuyển hồ sơ về Trung Ương. Không ai dám quyết định. Một năm sau,16/05/1986, Lê ĐứcThọ mới cho quyết định hoạt động.

Hâu hết họ là người có gốc gác miền Nam.

Hội viên danh dự có Nguyễn Văn Linh, bí thư thành Ủy TPHCM, Võ Văn Kiệt, phó chủ tịch Hội đồng Bộ tưởng, Nguyễn Hữu Thọ, chủ tịch quốc hội và Huỳnh Tấn Phát, phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng.

Cố vấn: Thượng tướng Trần Văn Trà, ông Trần Bạch Đằng. Ban chấp hành có: Chủ tịch Nguyễn Hộ.

Các phó chủ tịch: Huỳnh Văn Tiếng, Nguyễn Đức Hùng,Tạ Bá Tòng, Phạm Chánh Trực, Ngô Liên, Nguyễn Thị Tấn, Lê Hồng Tư, Lê Trung Nghĩa.

Các ủy viên: Lê Đình Vũ, Lê Quỳnh Vân, LM Chân Tín, bác sĩ Võ Cương, đại tá Thái Doãn Mẫn, Trần Văn Thơm, Ni sư Huỳnh Liên, HT Thích Thiện Hào, Võ Anh Tuấn, bà Ngô Bá Thành, Phan Kim Phụng, Nguyễn Trọng Xuất, Nguyễn Đăng Nguyệt, Ls Trần Ngọc Liễng, Vũ Hải Sơn.

Có lúc số hội viên Câu Lạc Bộ Những Người Kháng Chiến Cũ (CLNNNKCC) đã lên tới con số trên 20 chục ngàn người, 90% là đảng viên đảng cộng sản. Họ có một số xí nghiệp như phân xưởng nhựa, phân xưởng bột giấy, phân xưởng cơ khí và cơ giới khai thác lâm sản.

Khi Hội đã tạm vững mạnh thì đề ra hai mục tiêu: Đấu tranh đổi mới và chống tham nhũng quan liêu.

Ngày 03/06/1988, họp tại nhà Hữu nghị, 31 đường Lê Duẩn, quận 1 mong Đảng đổi mới. Có khoảng 100 chữ ký. Đặc biệt có chữ ký của Lý Chánh Trung. Tôi dò tìm, nhưng không thấy tên của bất cứ người nào trong ban chủ nhiệm như quý ông Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng. Kiến nghị gửi đi, chắc không được trả lời.

Ngày 11/06/1988, tống thêm một bản kiến nghị yêu cầu kiểm điểm Bộ chính trị với 44 chữ ký. Lần này, đặc biệt có chữ ký của ông Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng và Thượng tướng Trần Văn Trà, chủ tịch Ủy ban Quân quản Sài Gòn.

Trước khi gửi kiến nghị, xin ghi lại mấy lời phát biểu rất thẳng và cứng rắn sau đây.

Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, người đã từng ăn bánh vẽ MTGPMN , ông nói: Nhân dân ai cũng thích cái bánh thật chứ chẳng ai thích cái bánh vẽ. Giáo sư Lý Chánh Trung, phó chủ tịch UBMTTQ thành phố, phó Trưởng đoàn Quốc Hội TPHCM nói:

Trước hết, chúng ta nên dứt khoát trục xuất chủ nghĩa hình thức. Không thể dân chủ hóa, nếu không công khai hóa mọi sự. Mà không thể công khai hóa nếu không có tự do báo chí và tự do ngôn luận.

Bùi Văn Nam Sơn, học Triết ở Đức về mạnh dạn:

Chỉ có đổi mới triệt để bộ máy tổ chức và nhân sự đây lùi xu hướng bảo thủ trì trệ mới có thể phát triên. Một tình trạng tha hóa về chính trị có thể nào quan niệm được trong một chế độ xã hội lấy tinh chân thật và tính nhân dân viết trên ngọn cờ của mình.

Trần Văn Giàu nhận xét:

Càng sống lâu, càng hư, làm quan lâu càng hư. Cách mạng là phải trẻ, phải tiến bộ. Phải tống cổ bọn tham nhũng và quan liêu ra khỏi đảng. Lập pháp trường cát ở Tao Đàn, Bến Thành để xử băn bọn đó.

Đặc biệt có câu hỏi của ông La Văn Lâm chất vấn bà Ngô Thị Huệ (Bảy Huệ), vợ ông Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh:

Tại sao không kiểm điểm ông Đỗ Mười về những sai phạm trong cải tạo Công Thương nghiệp ở miền Nam? Bà Huệ nói ông Lê Duẩn hồi đó bảo bỏ qua. Còn ông Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh lại bị ông Lê Đức Thọ vô hiệu hóa. Ông Lê Đức Thọ tiết lộ toàn bộ ban chấp hành trung ương đảng cộng sản VN khóa 6, trừ 6, 7 người bị đánh rớt, còn lại hầu hết là người do ông chọn lựa, người của ông do ông sắp xếp. Ông Nguyễn Văn Linh chỉ làm trái độn, sẽ bị gạt đi. Rồi tung tin ông Nguyễn Văn Linh bị bệnh sắp chết, sắp bị từ chức!

Đảng kiểu đó là bè phái, Đảng vô Kỷ luật, Đảng ngồi trên đầu dân, bất chấp ý nguyện của dân.

Đây là những phát biểu mạnh mẽ nhất như cho rằng đảng: Nặng về đổi mới kinh tế, coi nhẹ đổi mới về chính trị. Hay Đảng không thể đứng trên Hiến pháp và luật pháp được.

Đảng viên đã gửi không biết bao nhiêu kiến nghị, nhưng chưa bao giờ được thư trả lời và giải quyết của Trung ương. Chỉ ra mệnh lệnh và biện pháp hành chánh quyền lực và cả vũ khị Thật vậy, dang đã dùng roi điện, chó béc giê, súng đạn để đàn áp các sự kiện xảy ra tại thôn Cộng Hòa (Thanh Hóa), thôn Tú Trình (Thái Bình), ở làng Chuối Nước – Đồng chó ngáp và Đầm Dơi của tỉnh Minh Hải và sự kiện Hồ Kỳ Hòa, Tp. HCM. Bản kiến nghị này mang 76 chữ ký có tên Nguyễn Hộ và Lý Chánh Trung.

Tờ Truyền Thông kháng chiến, cơ quan của Câu lạc bộ kháng chiến đòi Dân Chủ hóa và công khai hóa.

Trước những đòi hỏi, kiến nghị của CLBNNKCC, Trung ương đảng nổi giận và gọi đây là: Đây là vụ chống Đảng sau Nhân Văn giai phẩm.

Nếu nhân văn giai phẩm sau 54 là do các nhà văn đòi tự do tư tưởng, tự do báo chí cho người cầm bút. CLBNNCKCC sau 1975 là do các cựu cán bộ cs đòi tự do chính trị, xét duyệt lại đảng.

Bộ chính trị lậ p tức có biện pháp:
– Cấm CLBNNKCC tổ chức hội thảo.
– Cấm ra Đặc san Truyền thống kháng chiến
– Chỉ thị đấu tranh nội bộ, lọai những phần tử quá khích như Nguyễn Hộ và Tạ Bá Tòng
– Giải thể các tổ chức phụ thuộc như ban liên lạc
– Dẹp Bản tin liên lạc

Phần ông Nguyễn Hộ, không chấp nhận ý kiến của Bộ chính trị. Không chịu quay về thành phố theo lời khuyên của ông Võ Văn Kiệt Ông viết như sau trong tập tài liệu của ông: Quan điểm và cuộc sống (Tin nhà, Paris, xuất bản). Ngay lúc ấy, Trung ương đảng cộng sản Việt Nam đứng đầu là Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và bí thư thành ủy Võ Tần Chí cùng nhiều cán bộ khác kể cả Trần Văn Trà (thượng tướng), Trần Bạch Đằng đã họp bàn kế hoạch tỉ mỉ nhằm đàn áp CLBNNKCC thành phố và nhiều nơi khác. Ý kiến phát biểu lên án, buộc tội CLB kháng chiến thành phố của Trần Văn Trà, Trần Bạch Đằng trong cuộc họp nói trên được in ra và phát hành khắp nước… Ông viết tiếp: Sau hơn 70 năm thể nghiệm ở Liên Xô, chủ nghĩa cộng sản đã hoàn toàn thất bại. Trong một bài tham luận khác, ông viết: “Tư bản chủ nghĩa – Con đường không thể đảo ngược được. (trích dần từ trang 11 đến trang 21, sách trên)

Thế là Bão tố xảy ra.

Nguyễn Văn Linh đổi giọng: “Chúng ta không cho phép mọi hành động lợi dụng dân chủ để phục vụ cho ý đồ xấu của một cá nhân hoặc một nhóm người chống chế độ xã hội chủ nghĩa.”

Nguyễn Văn Linh là anh hèn nhất trong đám. Ông cố đấm ăn xôi để hy vọng ở lại nắm quyền lực, ông được cử làm Tổng Bí thư Trung ương đảng sau này.

Vô số các biện pháp thanh trừng tiếp theo ngay sau đó.

Lần lượt cách chức, khai trừ đảng, thuyên chuyển, hoặc ngồi chơi xơi nước các ông Nguyên Ngọc, TBT báo Văn Nghệ, Bùi Minh Quốc, TBT báo Langbian, Tô Hòa, TBT báo Sàigòn giải phóng, Tô Nhuận Vỹ, TBT tạp chí Sông Hương, Kim Hạnh, TBT báo Tuổi Trẻ, Hoàng Phủ Ngọc Tường, TBT báo Cửa Việt, Kim Tinh, phó TBT báo Ấp Bắc, Nguyễn Xuân Quang, TBT báo Sông Bé, Lê Phúc, TBT báo Đối Thoại.

Trần Văn Trà trở cờ bảo ông Nguyễn Hộ là “người nối giáo cho giặc”. Trần Bạch Đằng: “Đáng đời”.

Phạm Khải sau này thay thế ông Nguyễn Hộ nhận định: “Anh Năm Hộ muốn làm một Trung tâm lãnh đạo cả nước”.

Ngày 21/03/1990, ông Nguyễn Hộ bỏ Sài gòn về vùng Sông Bé và tuyên bố: Ly khai đảng Cộng Sản VN. Võ Văn Kiệt đã có lần đi gặp Nguyễn Hộ để thuyết phục ông Nguyễn Hộ. Nguyễn Hộ từ chối tất cả.

Cũng cần hiểu rằng nhiều người sợ quá mà đành lòng phải nói như thế.

Nhưng dù sao cũng ít ra ra vắng bóng một Tố Hữu, một đồ tể trong Nhân Văn Giai phẩm 1955.

Ngày 27/07/1990, Thành Ủy Tp. HCM khai trừ khỏi đảng các ông Tạ Bá Tòng, Đỗ Trung Hiếu, Hồ Hiếu và bác sĩ Đỗ Thị Vân, vợ ông Đỗ Trung Hiếu. Các ông Lê Đình Mạnh, Đỗ Ngọc Long, Luật sư Đoàn Thanh Liêm bị bắt giam. Luật sư Liêm bị xử 8 năm tù liên quan đến một vụ án chính trị khác.

Kể từ đấy, cai tên CLBNNKCC dần dần không còn ai nhắc tới nữa. Những kẻ có lòng với đất nước, có lý tưởng mong đất nước mỗi ngày mỗi khá hơn không còn cơ hội cất tiếng nói nữa.

Đảng trở lại nguyên hình là một tên độc tài bất khả xâm phạm. (Tài liêu do ông Đỗ Trung Hiếu, một cán bộ cộng sản trẻ của CLBNNKCC cũ viết từ trong cuộc tuồn ra bên ngoài và đã được nhóm Tin Nhà ở Paris cho in toàn bộ tài liệu lại)

Đôi lời kết luận

Khai trừ, thanh trừng là chuyện thường tình trong thế giới cộng sản bởi lẽ có độc tài là có thanh trừng. Liên Xô những thập niên 30, 40, 50, Stalin đã giết và đưa đi lưu đầy hằng triệu người. Bên Trung Cộng, những năm 50, 60 trong cuộc Cách mạng Văn hóa, trong việc thành lập công xã nhân dân (Đại nhảy vọt, Great Leap) Mao Trạch Đông, Giang Thanh và lũ tay sai đã giết hại tra tấn, tù đày hàng triệu người dân Trung cộng vô tội. Ngay cả những cán bộ đảng viên kỳ cựu từng sát cánh với Mao Trạch Đông cũng bị thanh trừng sát hại như Lưu Thiếu Kỳ, Bành Đức Hoài, La Thụy Khanh, Hạ Long. Và cũng không thể quên được biến cố đàn áp dã man sinh viên, học sinh trong biến cố Thiên An Môn ngày 04/06/1989 tại quảng trường Thiên An Môn. Cũng vậy, Pol Pot, Ieng Sary đã phạm tội diệt chủng, giết hại hàng triệu người dân vô tội Kam pu Chia trong những năm sau 1975.

Chúng ta không có hy vọng gì người Cộng sản Việt Nam làm khác hơn. Họ không tệ hơn đã là một điều tốt rồi. Một chế độ độc tài không có chỗ cho người tử tế. Làm người tử tế trong một chế độ xã hội cộng sản là điều không dễ.

Rất nhiều người lương thiện ở VN bây giờ cảm thấy cô đơn, lạc lõng trong một xã hội xô bồ, vô đạo đức, tranh dành như ăn cướp giựt.

Ông Đỗ Trung Hiếu, một thành viên tích cực trong CLBNNKCC thất vọng đưa ra lời nhận xét:

“Té ra cái gì cộng sản chống là cái Đảng làm. Cái gì đảng luôn luôn nói đến là cái không có trong thực tế. Đảng cộng sản là người họa sĩ đại tài luôn luôn vẽ bánh vẽ cho nhân dân ăn để riêng mình ung dung ăn bánh thật.”

Ông nhận xét tiếp: “Từ việc nhỏ đến việc lớn, từ suy nghĩ đến hành động, cách đối xử thì thấy rằng: Cuộc sống sao mà khó chịu đến cái quần áo, giày dép, đến cái răng, cái hòm cũng có cấp.”

Thật là một nhận xét chua xót.

Ở Việt Nam, kẻ nào bị thanh trừng, kẻ nào bị gán ghép là kẻ có tội. Thì kẻ đó là người liêm chính, là người tử tế. Tội của đệ tứ chỉ vì bọn đệ tam thời Stalin thắng thế nên hết đệ nhất, đệ nhị rồi đến đệ tam. Dừng lại ở đệ tam thì được. Sang đệ tứ là bị thanh trừng ám sát. Thời Andropov và Gorbachev thì Stalin bị lên án, là có tội. Việt Nam là con đẻ của Stalin và Mao Trạch Đông. Nên tội tính theo mùa, theo thời kỳ.

Tội của CLBNNKCC cũ là đi nhanh quá, tội đòi đổi mới khi chưa cho phép đổi mới. Tội đòi đa nguyên, đa đảng trong khi cộng sản muốn độc quyền. Họ là thứ hình thức tự thực dân hóa (autocolonisation) trên chính đất nước của mình.

Trong tương lai, chúng ta còn được chứng kiến nhưng cuộc thanh trừng, đánh đấm, tranh giành giữa bọn họ.

Nhưng nay, họ chỉ còn đánh đấm nhau vì tiền. Và chúng ta sẽ chứng kiến cái cảnh thằng ăn cướp xử thằng ăn cắp dài dài… dài… dài… dài…


 

Bộ Trưởng Thông Tin & Truyền Thông Nguyễn Mạnh Hùng nhận định mạng xã hội lề trái đang lấn át báo chí lề phải

Theo Viet Nam Net và Báo Lề Phải

Đối mặt với những khó khăn về kinh tế, bị mạng xã hội cạnh tranh quyết liệt, nguy cơ đi sau về công nghệ…, báo chí cách mạng Việt Nam vẫn cần gìn giữ và phát huy giá trị cốt lõi; và cũng cần được hỗ trợ để giải các bài toán của mình. VietNamNet giới thiệu một số ý kiến của Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng khi trò chuyện với Tổng biên tập các cơ quan báo chí.

Quản lý báo chí “ba chân” là điều rất đặc biệt của Việt Nam; trong đó Ban Tuyên giáo chỉ đạo nội dung, Bộ TT&TT quản lý Nhà nước còn Hội Nhà báo thì quản lý về đạo đức, tiêu chuẩn nghề nghiệp. Biết vận dụng khéo “ba chân” này sẽ rất tốt; khéo là ở chỗ khi nào thì dùng chân nào làm chính.

Hiện nay, báo chí đang phải đối mặt với một số vấn đề lớn.

Về kinh tế báo chí: Nguồn thu giảm đi do bị mạng xã hội (MXH) lấy mất thị phần, số lượng báo lại nhiều. Thị phần quảng cáo trực tuyến chỉ còn khoảng 30-35%, do MXH chiếm thị phần. Số lượng báo chí lại nhiều. Đa số các báo phải tự chủ, bươn chải thị trường, đời sống khó khăn. Công nghệ thay đổi, báo chí chưa theo kịp.

Khi xã hội hoá, tự chủ báo chí, ngân sách nhà nước hạn chế nên phó mặc cho thị trường, nhưng phó mặc cho thị trường hết cũng không đúng vì là báo chí cách mạng.

Về các nguồn thông tin: MXH phát triển thì ai cũng làm báo được. Trong khi đó, xã hội vẫn nhận thức rằng tin giả là do báo chí, kể cả là tin giả của MXH. Quản lý nội dung xuyên biên giới cũng còn nhiều thách thức.

Hiện tượng buông lỏng quản lý của cơ quan chủ quản báo chí, của Tổng biên tập hay việc quản lý PV, PV thường trú tại các địa phương còn lỏng lẻo. Đạo đức báo chí, tiêu chuẩn nghề nghiệp xuống cấp. Không chỉ đối mặt nguy cơ đi sau về công nghệ, trong làng báo còn tồn tại hiện tượng “báo hoá” tạp chí, trang tin, MXH…

Có một số cách thức tháo gỡ khó khăn cho báo chí.

Về thuế, cần xác định rằng công ty truyền thông khác cơ quan báo chí cách mạng. Nên giảm thuế cho báo chí xuống 10%, còn công ty truyền thông thì giữ ở mức 20%.

Cơ chế đặt hàng báo chí cũng là một giải pháp hiệu quả để tháo gỡ khó khăn. Ngân sách tăng thêm giúp báo chí 0,1%. Đặt hàng là định hướng. Đặt hàng chứ không phải bao cấp. Đây là cách giúp trong lúc báo chí đã bị mất 50% doanh thu quảng cáo vào tay MXH. Trong kinh tế báo chí, bao cấp 100% thì không đúng nhưng 100% tự chủ cũng không đúng. Tỷ lệ ngân sách/tự chủ nên là 30/70. Vì là báo chí cách mạng có phần định hướng, nên phải có tỷ lệ 30% ngân sách.

bao chi.jpg
Ngoài đưa tin, báo chí nên phân tích nhiều hơn, điều tra phóng sự nhiều hơn, những bài viết xã luận nhiều hơn.  Trong ảnh: Phóng viên tác nghiệp tại một cuộc họp báo. Ảnh: Hoàng Hà.

Về công nghệ mới, Bộ TT&TT đứng ra đào tạo, giúp đỡ các cơ quan báo chí. Về nhân lực, cần đảm bảo lương cho PV phải theo cơ chế thị trường. Các báo có “phần thị trường” để có thể trả lương theo thị trường.

 

Về công nghệ mới, Bộ TT&TT đứng ra đào tạo, giúp đỡ các cơ quan báo chí. Về nhân lực, cần đảm bảo lương cho PV phải theo cơ chế thị trường…

Chúng ta cũng cần thẳng thắn nhìn nhận một số tồn tại của báo chí.

Báo chí phải đi đầu trong những vấn đề lớn, vấn đề mới của đất nước và của Đảng. Báo chí cũng phải đi đầu trong việc bảo vệ những nền tảng giá trị của chế độ ta. Trong thời đại thông tin như ngày nay, đi sau nghĩa là không còn giá trị.Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng

Việc sách nhiễu doanh nghiệp, gây thiệt hại cho doanh nghiệp cũng là thiệt hại cho nền kinh tế. Hiện tượng giật tít, đưa tin giật gân còn nhiều. Khai thác quá sâu đời tư, chi tiết. Đưa nhiều tin tiêu cực, tạo nên bức tranh xã hội màu xám.

Trong khâu đánh giá chất lượng, chỉ bám vào view (lượng truy cập) để đánh giá bài viết cũng không tốt. “Báo hoá” tạp chí, “báo hoá” trang tin, “báo hoá” mạng xã hội. Quản lý phóng viên lỏng lẻo. Vai trò của cơ quan chủ quản báo chí, của Tổng biên tập chưa cao. Vai trò một số chi hội nhà báo yếu. Đấu tranh phản bác các sai trái yếu. Một số báo chưa bám sát tôn chỉ, mục đích.

Muốn đi xa thì phải về gần. Báo chí muốn đi tiếp thì phải quay về hơn 90 năm trước đây, khi báo chí cách mạng ra đời, để tìm lại những giá trị cốt lõi của mình. Đó là tính cách mạng và tính tiên phong. Báo chí phải đi đầu trong những vấn đề lớn, vấn đề mới của đất nước và của Đảng. Báo chí cũng phải đi đầu trong việc bảo vệ những nền tảng giá trị của chế độ ta. Với thời đại thông tin như ngày nay thì đi sau nghĩa là không còn giá trị.

Báo chí phải thể hiện dòng chảy chính của xã hội Việt Nam. Dòng chảy chính của xã hội ta là tốt đẹp, công cuộc đổi mới của đất nước đang làm Việt Nam thay đổi từng ngày, hơn 30 năm qua, tốc độ tăng trưởng luôn ở mức cao, Việt Nam từ một nước nghèo, chậm phát triển đã trở thành nước có thu nhập trung bình. Báo chí phải phản ánh trung thực dòng chảy chính đó. Không thể để dòng phụ của xã hội thành dòng chính trên mặt báo.

Báo chí, truyền thông phải tạo đồng thuận, niềm tin xã hội. Dù viết gì, dù khen hay chê, dù đưa tin tốt hay xấu, thì đều phải vì lợi ích cộng đồng, lợi ích của đất nước, lợi ích của đại cục. Không thể làm xói mòn niềm tin xã hội. Những gương người tốt, việc tốt, doanh nghiệp tốt phải nhiều hơn trên báo chí.

bao chi 1.jpg
Báo chí phải thể hiện những giá trị cốt lõi của mình về đưa tin có kiểm chứng, vì lợi ích chung. Trong ảnh: Phóng viên phỏng vấn đại biểu Quốc hội bên hành lang hội nghị. Ảnh: Hoàng Hà.

 

Báo chí tạo nên khát vọng dân tộc thịnh vượng, hùng cường. Tài nguyên vật chất rồi cũng cạn kiệt, chỉ còn tài nguyên trong não mỗi người Việt Nam là vô hạn. Nhưng điều gì để kích hoạt được tài nguyên vô hạn đó? Đó là khát vọng về một Việt Nam hùng cường. Khát vọng Việt Nam thành nước công nghiệp phát triển, thịnh vượng vào năm 2045, khi đất nước tròn 100 năm giành được độc lập. Báo chí phải góp phần tạo nên và nuôi dưỡng khát vọng đó.

Báo chí phải thể hiện những giá trị cốt lõi của mình về đưa tin có kiểm chứng, vì lợi ích chung. Cuộc đấu tranh chống lại tin xuyên tạc và xấu độc là sứ mạng mới của báo chí. Cuộc đấu tranh này sẽ khẳng định lại vai trò của báo chí trong giai đoạn mới. Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng

Sự xuất hiện của MXH, bên cạnh mặt tích cực thì tin thiếu kiểm chứng, tin xuyên tạc, tin xấu độc gây hại cho người dân, doanh nghiệp và chế độ đang ngày càng gia tăng. Tiếng ồn đó đang có nguy cơ lấn át báo chí.

Hơn lúc nào hết, báo chí phải thể hiện những giá trị cốt lõi của mình về đưa tin có kiểm chứng, vì lợi ích chung.

Cuộc đấu tranh chống lại tin xuyên tạc và xấu độc là sứ mạng mới của báo chí. Cuộc đấu tranh này sẽ khẳng định lại vai trò của báo chí trong giai đoạn mới.

Báo chí ngoài đưa tin thì nên phân tích nhiều hơn, điều tra phóng sự nhiều hơn, những bài viết xã luận nhiều hơn. Ngoài đưa tin về những tồn tại thì nhiều hơn những đề xuất góp phần cho đất nước phát triển. Là những cái mà MXH không làm được.

Cái xấu, cái tồn tại luôn có ở ngoài kia. Nhưng chỉ ra cái xấu, cái tồn tại và đấu tranh với nó luôn tạo động lực cho sự phát triển bền vững của chúng ta. Báo chí cách mạng phải luôn tiên phong trong cuộc đấu tranh này.

Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên số, khi mà công nghệ, nhất là công nghệ số đang len lỏi vào mọi lĩnh vực của kinh tế – văn hoá – xã hội. Báo chí phải áp dụng công nghệ nhiều hơn, thậm chí đi đầu trong áp dụng công nghệ mới. Vì chính công nghệ sẽ giúp báo chí giải quyết được các vấn đề của mình, cả vấn đề cũ và vấn đề mới.

Chính phủ sẽ tạo các cơ chế mới cho báo chí phát triển: Tự chủ báo chí phải được hiểu theo nghĩa cái nào tự chủ được thì phải tự chủ hơn, cái nào cần hỗ trợ, đặt hàng, giao nhiệm vụ thì vẫn phải làm. Chính phủ phải có thêm ngân sách để đặt hàng báo chí. Xem xét thuế cho các cơ quan báo chí cách mạng. Đào tạo nhân lực cho báo chí cách mạng phải là một phần trách nhiệm của Chính phủ. Chính phủ sẽ tạo điều kiện để hình thành một số cơ quan báo chí có qui mô lớn, làm đầu tàu cho báo chí Việt Nam. Hỗ trợ công nghệ, CSDL chia sẻ dùng chung. Các công ty cung cấp nội dung, nền tảng xuyên biên giới sẽ phải hoạt động theo luật pháp Việt Nam, giống như các công ty trong nước để đảm bảo sự công bằng cho các công ty trong nước.

Lời Bàn của Kẻ Đi Tìm

  • Hóa ra Báo Chí lề phải đang thua Truyền Thông lề trái, thậm chí có khi đưa tin trễ sau khi Lề Trái đã loan báo rồi.
  • Tin giả là từ Báo Lề Phải, đó là niềm tin của Dân, được ông Hùng xác nhận.
  • Từ nay Báo Chí lề phải cần phải giảm bớt hay dấu hẳn tin xấu cho Đảng.
  • Báo chí có một cổ nhưng đeo tới 3 vòng kim cố kiểm duyệt nội dung của tuyên huấn Đảng, quản lý thẻ nhà báo và lương bổng cơ quan bởi Bộ Thông Tin, và theo dõi hành vi của đồng nghiệp Hội Nhà Báo.
  • Đưa tin theo đơn đặt hàng của Đảng chứ không phải là theo sự thật hay tình trạng thực tế cho dù tham những đang là quốc nạn có tính sống còn của chế độ, nhà nhà cán bộ tham nhũng, rồi uy hiếp của nước lạ, tàu lạ cũng đang là vấn đề hết sức bức xúc ở Phi Luật Tân và Đông Nam Á.