Càng nghĩ càng thấy thấy bi hài-Thái Hạo

Ba’o Tieng Dan

Lê Vi

Càng nghĩ càng thấy thấy bi hài. Quốc bảo của người ta, họ bảo vệ còn hơn cả nhà băng Thụy Sĩ bảo vệ tài khoản ngân hàng, đựng trong 5, 7 lớp kim khí và châu báu, có người canh vòng trong vòng ngoài, đến yếu nhân của nước họ còn chẳng được tới gần để nhìn tận mắt, thế mà một anh sư cấp tỉnh ở đâu tới, âm thầm bàn bạc thế nào đó mà bê về được, còn cầm trên tay như cầm cọng chỉ rồi để tơ hơ trên bàn cho hàng vạn người ùa đến xem. Thế mà cũng tin được. Thật vi diệu!

Khi bị dân tình nghi ngờ và truy vấn thì hàng chục bài viết, video quảng cáo và kêu gọi kiểu “chỉ còn một đêm duy nhất, chỉ còn một đêm duy nhất” liền bị chỉnh sửa hoặc gỡ đi, không một lời “cáo bạch”. “Xá lợi” thì cũng “tự chuyển động” về cố quốc trước khi Ban trị sự GHPG tỉnh đến xác minh, còn “thầy” thì “hình như đi Lào”. Đúng là một giấc chiêm bao, “Nhất thiết hữu vi pháp/ Như mộng, huyễn, bào, ảnh/ Như lộ diệc như điện”. Thật là thậm thâm vi diệu pháp.

Nhìn cảnh lạy lục khóc lóc của hàng vạn con dân Việt trước cái “xá lợi ngọ nguậy” ấy mới bừng ngộ được câu “nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển cả”.

Rồi có người còn nói đó là tự do tôn giáo tín ngưỡng. Ừ, xưa nay có ai la ó gì chuyện hầu đồng, bói toán, thờ thần, cúng quỷ, lễ bái, cầu vãng sanh… đâu. Cái khiến người ta giận dữ là họ nghi có dấu hiệu lừa dối để mê hoặc dân chúng và mưu cầu lợi riêng. Cái đó là chuyện thật – giả, không liên quan chi đến vấn đề tự do tín ngưỡng cả.

Ai cũng có quyền có niềm tin của mình, kể cả tin vào những điều hoang đường, phi lý, thần bí. Và ai cũng có quyền không tin. Anh biểu lộ niềm tin của anh thì người khác cũng có quyền biệu lộ sự không tin của họ, bình đẳng mà. Giới hạn của vấn đề là tự do tư tưởng và tự do biểu đạt bằng thảo luận và tranh luận, chứ không được phép kêu gọi đàn áp và bách hại. Còn chuyện thật – giả (hoàn toàn có thể làm sáng tỏ được) là một vấn đề khác, không thể đem nhập nó vào với tự do tôn giáo tín ngưỡng để biện minh.

Nếu chấp nhận tự do ở mức độ cho phép bịa đặt để lừa dối thì cũng đồng như phá bỏ khái niệm tự do, nó [khái niệm tự do] trở thành một cái tên không bờ mé và hoàn toàn vô giá trị.

Thái Hạo


 

 Ma tăng, báo đảng, cặp đôi hoàn hảo lừa người, dối Phật

Ba’o Tieng Dan

Blog RFA

Gió Bấc

28-12-2023

”Theo thông tin từ chùa Ba Vàng, từ ngày 23.12 đã có hàng vạn người dân, Phật tử đổ về đây chiêm bái xá lợi tóc của Đức Phật được cho là có từ 2.600 năm trước.

Theo chùa Ba Vàng, xá lợi được trưng bày là một trong tám sợi tóc mà Đức Phật tự tay nhổ trên đầu mình, trao cho 2 thương buôn người Myanmar hơn 2.600 năm trước…..

Theo đại diện chùa Ba Vàng, xá lợi tóc của Đức Phật có khả năng chuyển động như một vật thể sống. Xá lợi tóc với hình dạng giống một sợi tóc bình thường nhưng lại uyển chuyển qua trái, qua phải, quay tròn, cong lên rồi cụp xuống mà không hề có một sự tác động nào. Thậm chí, khi gặp vật cản, sợi tóc còn có thể tự bật ra ngoài. Đến nay, khoa học vẫn chưa thể lý giải việc một sợi tóc mấy nghìn năm không hỏng lại có thể chuyển động như vậy” (1).

Đọc thông tin sặc mùi lá cải, phảng phất mê tín dạng ma vú dài, quỷ nhập tràng, thiên linh cái, … các bậc lão thành cách mạng, các đảng viên kiên trung với chủ nghĩa Mác Lê vô thần nhất định sẽ cho rằng, đây là thông tin bịa đặt xuyên tạc của “các thế lực thù địch” tuyên truyền mê tín dị đoan. Sợi tóc tồn tại 2600 năm lại biết tự chuyển động… hẳn nhiên là trò lừa đảo. Báo chí cách mạng, báo chí chiến đấu cho xã hội tiến bộ không thể nào là cái loa nhắm mắt đưa tin một chiều theo lời kể của chỉ một nguồn tin, chính là nơi tạo ra sự kiện hoang đường.

Khởi nguồn thông tin này chính là đồng chí ma tăng Thích Trúc Thái Minh, trụ trì chùa Ba Vàng một thời lừng lẫy hốt tiền “oan gia trái chủ” và sáng kiến khất thực thu tiền nhân đại lễ Vu Lan. Sau thời gian bị dư luận bóc mẻ, phải thực hành sám hối đại tăng, đình chỉ các chức vụ ở Trung ương Giáo hội Phật giáo quốc doanh. Thầy Thái Minh xảo ngôn trên Facebook, thúc giục đám con nhang móc túi cúng dường sợi tóc, hệt như trò “oan gia trái chủ” trước đây.

“Đại chúng được chiêm bái, đảnh lễ và cúng dường Xá lợi tóc của Đức Phật và Xá lợi thân của Ngài, đây là nhân duyên hy hữu thù thắng. Thầy Thái Minh tin rằng, nếu ai với tâm tin kính, hiểu được Đức Phật là một con người chân thật, là bậc vĩ nhân siêu việt với lòng từ bi rộng khắp thì dù chỉ một lần khởi tâm hoan hỷ, tán thán, CÚNG DƯỜNG cũng được vô lượng công đức phước báu, và được nhân duyên tu tập kéo dài nhiều kiếp (2).

Qua lời kêu gọi “thần thánh” đó và qua nhiều lần thúc giục Phật tử hãy tập trung đến chiêm bái theo thời hạn đã định, giống như lời rao “mại dô” của các gánh sơn đông mãi võ hay các em gái bán đồ lót online, mục đích chiến dịch sợi tóc xá lợi Phật lần này là rù quến Phật tử con nhang CÚNG DƯỜNG càng nhiều càng tốt.

Báo chí, mạng xã hội a dua theo Ba Vàng Thái Minh lừa dối người dân, quả là bọn xấu, phản động. Chắc chắn là như vậy. Các cụ cách mạng lão thành, các dư luận viên thế hệ kế thừa, nhất định sẽ xông lên, đập cho nó chết.

Nhưng … Xin thưa rằng trăm lần không! Vạn lần không! Không phải bọn xấu. Bài viết bơm hơi, cổ xúy cho trò lừa sợi tóc Phật 2600 năm là của báo Thanh Niên, thuôc Hội Liên Hiệp Thanh Niên Việt Nam.

Người ta không lạ gì báo Thanh Niên với “tiền án, tiền sự” năm 2007 từng làm cái loa cho Masan, tung tin nước tương truyền thống nhiễm chất 3 MCPD gây ung thư. Chiến dịch này tiêu diệt hàng loạt hương hiệu nước tương, giúp Chinsu tăng doanh thu hàng ngàn tỉ, độc chiếm thị trường.

Năm 2016, Thanh Niên phất cờ tung tin nước mắm truyền thống nhiễm Asen gây bão dư luận, suýt giết chết nước mắm lâu đời của Việt Nam, cũng để giúp nước muối pha hóa chất Nam Ngư của Masan độc chiếm thị trường. May là cộng đồng mạng, các nhà sản xuất nước mắm đấu tranh lật ngược thế cờ. Báo Thanh Niên đánh tráo khái niệm, Asen trong nước mắm truyền thống là đạm hữu cơ không độc hại, khác với Asen vô cơ. Nam Ngư không có Asen vì không làm từ cá, không có đạm hữu cơ. Phó Tổng Biên Tập, Tổng Thư Ký Tòa Soạn Báo Thanh Niên phải bị kỷ luật (3).

Nhưng một con én đâu làm cả mùa xuân, miếng ngon giữa đàng đâu thể xơi một mình một cổ. Vụ sợi tóc 2600 năm này, Thanh Niên đâu chỉ nuốt một mình. Đồng điệu, đồng thanh với Thanh Niên còn có Đại Đoàn Kết của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, Tiền Phong của Trung Ương Đoàn Thanh Niên Cộng Sản, Người Đại Biểu Nhân Dân của Quốc Hội và rất nhiều tờ báo quốc doanh khác cùng khuếch đại. Để bạn đọc không mất thời gian tra cứu link, chúng tôi xin gửi kèm hình ảnh một số trang báo online tiêu biểu.

Sau thời gian bị đình chỉ, hiện nay Thích Trúc Thái Minh đã được phục hồi, thậm chí còn thăng chức trong Trung ương Giáo hội Phật giáo quốc doanh, trong đó có chức vụ Phó Ban Truyền thông Trung ương. Tiếng nói Thái Minh chính là tiếng nói của giáo hội. Quyền lực, tiền bạc trong trong tay Thái Minh nên báo đảng và ma tăng đồng thanh, đồng hành, đồng lõa là chuyện bình thường.

Thông tin lừa dối hoang đường của Báo Thanh Niên lập tức bị dư luận phản ứng, phê phán về sự vô lý của sợi tóc 2600 năm, nhiều người chỉ ra rằng, mạng mua bán shopee hiện đang rao bán đầy loại cỏ có tính năng ngo ngoe y hệ sợi tóc xá lỵ Phật của Thái Minh. Báo Thanh Niên lập tức có bài đỡ gạt là: “Xá lợi tóc Đức Phật 2.600 năm trưng bày ở chùa Ba Vàng gây hoài nghi”.

Bài báo mượn lời chức sắc Phật giáo quốc doanh, quan chức địa phương Quảng Ninh kiểu không biết, không nghe, huề cả làng.

Việc chùa Ba Vàng trưng bày và đưa ra thông tin xá lợi tóc Đức Phật 2.600 năm khiến nhiều người hoài nghi. Một số người còn tìm thấy thông tin trên mạng xã hội bày bán xá lợi với hình dáng tương tự có giá 500.000 đồng/sợi (?).

Trước thông tin nói trên, Thượng tọa Thích Đạo Hiển, Phó chủ tịch Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Quảng Ninh, cho biết: ‘Chúng tôi chưa nắm được thông tin về việc chùa Ba Vàng trưng bày xá lợi tóc Đức Phật có từ 2.600 năm trước. Giáo hội cũng chưa nhận được thông tin liên quan’.

Trong khi đó, một lãnh đạo Sở VHTT tỉnh Quảng Ninh cho rằng, chùa Ba Vàng trưng bày xá lợi nói trên là việc nội tự không cần phải xin phép. Đơn vị cũng cử cơ quan chuyên môn để làm rõ thông tin sự việc trên” (4).

Bài báo này vẫn là một thái độ, thủ thuật lấp liếm, trí trá, vô trách nhiệm không thể chấp nhận được với nghề báo. Nhà báo trẻ Nguyễn Dân đã làm cuộc điều tra bỏ túi, vạch ra sự dối trá của thông tin từ chùa Ba Vàng và báo Thanh Niên.

Theo thông tin từ chùa Ba Vàng, “xá lợi tóc” của Phật Thích Ca được thỉnh từ chùa Parami của Myanmar. Nhưng mà mình đã đi Myanmar, chùa nổi tiếng nhất là chùa Shwedagon ở Yangon. Ngôi chùa này ngoài nổi tiếng vì được dát hàng tấn vàng và đá quý thì còn được biết đến là nơi cất giữ 8 sợi tóc của đức Phật Thích Ca. Mình cũng đã thử search thông tin về chùa Parami thì ngoài thông tin của trang thaythichtructhaiminh.com lẫn facebook nói về “xá lợi tóc” của Phật thì thông tin rất lõm bõm và không có kiểm chứng, đại khái năm 1979 có thầy Sayadaw trụ trì chùa Parami đã đi khắp các nước để thu thập các mẫu vật được tin là “xá lợi” của đức Phật và các đệ tử của ngài rồi sau đó thành lập ra “Bảo Tàng Xá Lợi” vào năm 2019 tại Malaysia để lưu giữ các “xá lợi” đó. Hoàn toàn không có thông tin “xá lợi tóc ngọ nguậy” của ông Thái Minh chùa Ba Vàng”.

Đáng nói là Nguyễn Dân đã nêu lên vấn đề cốt lõi của Phật Pháp là giáo lý giải thoát bằng sự giác ngộ của con người chứ không phải do phù phép siêu nhiên nào. Phật không yêu cầu lễ bái dù theo pháp môn nào cũng hướng Phật tử thực hành giới định tuệ chứ không phải chăm chăm vào việc CÚNG DƯỜNG.

“Nhưng nếu có “xá lợi tóc”, tức tóc của ông Thích Ca năm xưa thì sao? Thì chẳng sao cả. Di sản của Phật Thích Ca năm xưa là chỉ cho nhân loại con đường của sự giác ngộ. Bảo vật là PHÁP chứ không phải là các viên xá lợi hay nhục thân vô tri. Tay Phật chỉ trăng thì trăng mới là nơi hướng tới chứ không phải tay Phật. Cúng bái, lạy lục một sợi tóc ngo ngoe (thực ra là cỏ Lipi) thì đó là sự cuồng tín, ngu độn mà nói thẳng là do “thằng” Thích Trúc Thái Minh bày ra để làm tiền” (5).

Thâm thúy và nhẹ nhàng, nhà báo Tăng Bá Sên đã nêu câu nói quan trọng của Đức Phật trong Kinh Kim Cương, một kinh điển mẫu mực của Phật Giáo Đại Thừa, “này Tu Bồ Đề, “Cái thân tướng này, không phải thật là thân tướng của Như Lai!”(6)

Thật vậy, trong Kinh Kim Cương, đức Phật còn có bài Kệ làm rõ hơn tính sắc không của tạo vật

“Nếu thấy ta bằng sắc tướng

Nghe ta bằng âm thanh

Người này đi đường tà

Không thấy được Như-Lai” (7).

Như vậy đã quá rõ, chuyện sợi tóc 2600 của đức Phật vừa là trò lừa trẻ con, kính lễ cúng dường cho dù là với sợi tóc thật của đức Phật cũng là tà đạo. Tại sao chính quyền, “đảng quang vinh lãnh đạo toàn diện” lại nhắm mắt làm ngơ cho ma tăng Thái Minh đồng hành với báo đảng lừa bịp, móc túi dân?

Nhà báo Tâm Chánh, nguyên Tổng Biên Tập báo Sài Gòn Tiếp Thị lừng lẫy một thời đã có status ngắn, liên hệ việc chính quyền ngăn cấm triển lãm chân dung nhiều nhà văn hóa một cách vô lối và việc chính quyền buông tay nhắm mắt trước trò mê tín, lừa đảo công chúng công khai rầm rộ này. “Mấy bức tranh gò đồng triển lãm thì phải xét duyệt, còn cọng lông ngọ nguậy đem ra chiêm bái thì chỉ là chuyện của chùa. Nhà đương cục nào đúng đây?” (8)

Status của Tâm Chánh được đông đảo cộng đồng hưởng ứng. Câu hỏi này tự nó đã có sự trả lời. Vấn đề là thái độ. Liệu công chúng còn có thể im lặng chịu đựng sự lừa dối, sự ngu dân, sự trấn lột về vật chất và cả tinh thần cho đến bao giờ?

________

Chú thích:

1- https://thanhnien.vn/hang-van-nguoi-chiem-bai-xa-loi-toc-duc-phat-tai-chua-ba-vang-18523122714370601.htm

2- https://www.facebook.com/ThayThichTrucThaiMinh/posts/pfbid02XrMit3xgvhKVTB1FLVov2iZo1fC5UxiNY3XPWXdfSzbmk1E4FeFFFbswD2y7PboT

3- https://www.sggp.org.vn/nuoc-mam-truyen-thong-duoc-minh-oan-post338367.html

4- https://thanhnien.vn/xa-loi-toc-duc-phat-2600-nam-trung-bay-o-chua-ba-vang-gay-hoai-nghi-185231227204301402.htm

5- https://www.facebook.com/ech.ao.7/posts/pfbid02FGKrKWru5bAyFTAVzRdfbppoc9bwpYQU3tY2S9usHbqG4F3nr98LLPqGpsqZn4bml

6- https://www.facebook.com/tang.b.sen/posts/pfbid06XGJrzAZw3m6UE6J8VaAQYSU7WQCXhHt7Qe2nQbXNz3cX3Lb4EX3Jw51Sa3MDT6kl

7- https://thuvienhoasen.org/a15622/kinh-kim-cang-bat-nha-ba-la-mat

8- https://www.facebook.com/chanh.tam.33/posts/pfbid02AgQA4VMtBPS5Ufw4K5JGfZGEQFLMK8Gq39vXaJiymKVMFYjrcQAP5YZeYfKUEsEHl


 

Cuốn Vòng tay học trò của Nguyễn Thị Hoàng dưới góc nhìn Phân Tâm Học

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả:  Nguyễn Văn Lục

29/12/2023

Đã có nhiều tác giả viết hoặc bình luận khen chê trực tiếp hay gián tiếp về cuốn tiểu thuyết Vòng tay học trò của nhà văn Nguyễn Thị Hoàng.

Trước đây, đề cập đến tình yêu, tình dục là do các thi sĩ, nhà văn nam mô tả, viết ra. Nhưng chỉ là cái nhìn một chiều mà có thể vắng bóng phụ nữ. Nhiều phần họ chỉ xuất hiện theo cảm quan và góc nhìn của người đàn ông viết về họ. Như thế góc độ chủ quan hẳn là có.

Nói đúng ra họ hiện diện mà như thể vắng mặt. Nay thì họ xuất hiện lộ liễu với cái tôi trong truyện với nhưng biểu lộ thân xác, thèm khát ham muốn ướt át không che đậy.

Khi chọn viết về Nguyễn Thị Hoàng qua cuốn Vòng tay học trò mà không chọn những tác phẩm khác của nữ sĩ chỉ vì lý do đây không phải một  toàn bộ biên khảo về một tác giả vốn ngoài mục đích và thẩm quyền của người viết.

Vì thế, chọn cuốn Vòng tay học trò ( VTHT) có nhiều lý do cá nhân như  người viết là sinh viên đại học Đà Lạt từ 1961 đến 1964- thời gian mà Nguyễn Thị Hoàng (NTH) đồng thời vốn là giáo sư trung học đệ nhất cấp tại trường trung học Trần Hưng Đạo năm 1962. Dù chưa hề gặp mặt một lần- và cũng chưa hề biết về “ tai tiếng” ở Nhatrang, nhưng những cảm tình cá nhân vẫn vượt lên trên tất cả qua dư luận đồn thổi về cô giáo trẻ bên Trần Hưng Đạo!!

Vì thế từ các nhân vật, con người trong truyện với tên tuổi thực đến khung cảnh địa lý, xã hội, đến môi trường sinh sống, không gian Đà Lạt với địa danh-sau này- đều là những chất liệu xúc tác-những con người thật – định hình cho tác phẩm VTHT. Tôi chỉ có dịp đọc tác phẩm VTHT vào khoảng năm 1970, khi NTH đã nổi lên như cồn. Dư vị còn đọng lại là một chút chia xẻ khó nói vì nghĩ rằng NTH đã bỏ lỡ cơ hội trưởng thành trong môi trường đại học và sách vở. NTH  ra đời quá sớm với những trải nghiệm đắt giá. Giả như được trang bị đầy đủ như một F.Sagan- đọc rất nhiều- truyện của cô với tài năng xử dụng ngôn ngữ tuyệt khéo có thể còn đi xa hơn nữa. Nào ai biết được số phận một nhà văn?

Lý do thứ hai, khi ra trường, người viết nhận nhiệm sở đầu tiên là trường trung học Võ Tánh, Nha Trang. Nơi đây, ngoài ý muốn, được gặp giáo sư Cung Giũ Nguyên và các câu chuyện tình sử của vị này vẫn còn là những dư âm sống động đã một thời gây ra “ chấn động” mối tình đầy sóng gió giữa NTH và ông thầy dậy Pháp văn tư- mối tình thầy-Trò vào năm 1958, mà tuổi cách biệt Thầy-Trò là 30 tuổi.( Cung Giũ Nguyên 1909-2008. Nguyễn Thị Hoàng 11-12-1939. Lần gặp gỡ đầu tiên CGN trong ngày khai giảng khi ông đứng nói chuyện với ông hiệu trưởng- xin thú thực lòng mình là một ác cảm-. Thái độ lạnh nhạt, tự phụ có vẻ như coi thường lớp đàn em với một khuôn mặt được coi là xấu và từ đó hầu như ít khi có dịp gặp CGN. Sau này, về Sài gon, tôi có dịp nói truyện với một bạn dạy học là NT Văn, tôi vẫn nêu ra thắc mắc, lý do gì đã khiến NTH rơi vào cái bãy tình này? Thật không hiểu được. Cuộc tình này  để lại một đứa con gái đặt tên Cung Giũ Nguyên Hoàng. Do bà Nguyên tình nguyện nuôi, vì bà không có con. Khi Cung Giũ Nguyên mất, chính con gái Cung Giũ Nguyên Hoàng cầm di ảnh bố đi đầu.

Có lẽ, đây là bước nhẩy khởi đầu liều lĩnh, bất cần của một cô gái Huế muốn thoát ly những ràng buộc khắt khe của Huế? Bất kể nhiều ràng buộc luân lý, xã hội và đạp lên tất cả của NTH- một cô gái 18 tuổi xuân thì.

Cá nhân tôi vẫn nghĩ thay cho NTH là một mất mát lãng phí, không đáng.

Tôi cũng không biết được nỗi buồn của cha mẹ NTH như thế nào?

Chắc là họ phải buồn. Tôi cũng không hiểu là có bao giờ NTH nghĩ tới điều ấy không?

Bước nhẩy thứ hai của NTH chỉ là một chuỗi kế tiếp khó tránh, kế thừa trong chặng đường tìm kiếm một thứ tình yêu mà tự nó sẽ kết thúc một cách chóng vánh.( Trong vòng vỏn vẹn một năm để lại cho cuộc tình một đứa con đặt tên Mai Quỳnh Chi, giao cho gia đình Mai Tiến Thành- nhân vật chính trong VTHT có tên là Nguyễn Duy Minh và cô giáo có tên Tôn nữ Quỳnh Trâm). Hình như nơi NTH, tình yêu nào cũng đầy ắp yêu đương, nhung nhớ, rồi chấm dứt bằng chia phôi, xa cách. Phải chăng đó là những tình lụy tính bằng tháng, bằng năm?

Lý do thứ ba, vào năm 2005-2006, người viết có dịp gặp chính Nguyễn Thị Hoàng trong một bữa tiệc khoản đãi, có mời cả gia đình Phạm Duy. Trong bữa ăn này, người viết có trêu chọc: Lưu đây! ( Lưu chính là Nguyễn Văn Lan, một giáo sư Triết trong một nhân vật khá chính diện trong VTHT. Lưu thường có vẻ ngang  tàng, lạnh nhạt dửng dưng, đôi khi dạy đời đối với Trâm. NVL).

Cô có vẻ giận, mặt xìu xuống, lảng tránh về câu nói đùa này. Tuy nhiên, chúng tôi cũng có một buổi hẹn bữa sau tại Brodard, Saigon. Còn nhớ nhà văn ăn mặc một chiếc áo tricot, mầu vàng nhạt. Do  lâu ngày, chiếc áo bèo nhèo như tố cáo sự “đã có một thời” sang trọng nay không còn nữa. Thật buồn. Tuy nhiên, nét kiêu xa vẫn còn. Dáng mảnh mai, lối ngồi chống tay, mắt nhìn xa vắng vẫn như thuở nào. Hình như NTH không muốn nói, có nói thì dấm dẳng. Hình như, Thái Kim Lan ngồi im lặng.

 NTH quyến rũ ngay cả trong nét buồn của bà.

Tôi chỉ xin nhắc tóm tắt một câu hỏi: Cô còn tiếp tục viết không? NTH đáp, vẫn viết nhiều, nhưng không được in. Khi chia tay, lòng tôi trùng xuống. Nghĩ tới những năm lận đận nuôi chồng Bửu Sum, chăm dạy các con. Sau 1975, bị  bỏ rơi, chắc cũng túng thiếu.. suốt 30 năm cho đến khi gặp tôi và Thái Kim Lan.

Ra xứ người, dù có vất vả, tôi vẫn có một tương lai và hai con tôi được ăn học đàng hoàng. Còn NTH, cho đến nay, 5 đứa con của NTH ra sao? Thật không biết.

Trên đây chỉ là những niềm riêng của người viết bài này mong được chia xẻ.

Nhưng cũng chính trong dịp này là cớ sự cho sự kết nối khéo léo của Thái Kim Lan với tùy bút nhan đề: “ Nghĩ từ thơ Thái Kim Lan”, đăng trên tạp chí Văn Hóa Phật giáo (số xuân Mậu Tí, 12-2007) .

Những cơn lốc xoáy đủ loại về dòng văn học phái nữ, trong đó có NTH dự phần.

Chính vì thế, đã có nhiều dư luận trái chiều, khen cũng có, chê trách cũng không thiếu. Sóng gió nổi lên từ nhiều phía với những lý do và động lực khác nhau. Xếp hạng đánh giá theo các tiêu chuẩn đạo đức, xã hội, tiêu chuẩn mới-cũ mất gốc, tiêu chuẩn miền như “ gái Huế đa tình” và ngay cả xu hướng chính trị cũng có.

Nhưng nhất là xếp hạng theo tiêu chuẩn tình dục mặn hay nhạt, biên giới giữa tình dục- hay dục tính? Biên giới thế nào là chuẩn, thế nào là không chuẩn, biên giới giữa tính dục và truyện khiêu dâm, kích dục?

  • Tình dục và các nhà văn nữ miền Nam 1955-1975.

Tiêu biểu cho quan điểm này là nhà văn Thế Uyên. Thế Uyên với Tình dục và các nhà văn nữ miền Nam 1955-1975 đăng trên tập san Hợp Lưu. Thế Uyên đưa ra bốn nhà văn phụ nữ gồm Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Trùng Dương và Nguyễn Thị Hoàng.

Tại sao chỉ chọn ra bốn nhà văn nữ mà không thể có 5, 6 hay nhiều hơn nữa? Tác giả đưa ra tỉ dụ tiêu biểu là truyện: Những sợi sắc không của nhà văn Túy HồngNhà văn Túy Hồng đã để cho một nhân vật nữ như cô Trầm, một nữ giáo sư ly dị chồng, sống độc lập, buông thả, phóng khoáng, “ trưởng thành” về thú vui tình dục:

Tại sao có nhiều buổi sáng, mình lại cảm thấy bên trên thân thể mình thì khô mà bên dưới lại ướt như thế này nhỉ? Và khi nhập cuộc làm tình, nàng đã biết hưởng thụ tối đa, kể cả khi chàng khẩu dâm cho mình: “ Sinh liếm môi cười rồi chợt nằm nhào ra giường, gối đầu lên đùi Trầm, Sinh ngửa mặt trông chiếc quạt điện một hồi ngắn rồi cầm vạt áo dài đắp để rúc vào vùng tối ám giữa  hai cột thịt đùi người đàn bà.”

Viết bạo trợn, can đảm, không biết ngượng nghịu như thế hầu như vượt xa các nhà văn nam giới như Lê Xuyên với chú Tư Cầu, ngay cả Kiệt Tấn.

Dù sao các nhà văn nam giới viết chỉ gợi ý mà không gợi dục. Nó chỉ thoang thoảng hoa nhài, ngôn ngữ ẩn dụ gián tiếp để trí tưởng tượng người đọc có dự phần.

Đi theo vết chân của các nhà văn nữ trên, các nhà văn nữ trẻ hơn một  bậc như Lê Thị Thấm Vân, Nguyễn Thị Thanh Bình, Lê thị Quỳnh Mai vv.. còn tiến xa hơn một bậc đến nỗi các bậc tiền bối chỉ còn biết thở dài.

Còn có thể nói, nó vượt cả hàng rào cấm kỵ của các xã hội Tây Phương vốn được coi là thành phần tiến bộ nhất về nhiều mặt, nhất là về mặt tính dục!! Với những giai đoạn phá rào và đột phá như thể nó mở đường cho những phong trào giải phóng phụ nữ thập niên 1960 trên toàn thế giới.

Sự phá rào và đột phá ấy phải được cắt nghĩa và giải thích như thế nào?

Nó như sự bùng nổ của người phụ nữ ngay từ tuổi dậy thì với màng trinh, lúc lấy chồng, cả lúc làm mẹ cho đến lúc về già vẫn phải thủ tiết theo gương một anh con buôn chính trị suốt đời lang bạt là Khổng Tử chăng?

Tôi còn nghe một phụ nữ gái Huế tâm sự là khi còn con gái, mẹ cấm không cho đi xe đạp, vì sợ rách màng trinh!! Vấn đề màng trinh trở thành biểu tượng đạo đức hay mất đạo đức?

Nó là một cảm nhận vô thức trở thành một thứ quán tính- một bản tính thứ hai- cần được phân tâm lại thành một tâm thức!!

Còn nhớ trong cuốn truyện nổi danh của Mario Puzo, The godfather( Bố già) có một đoạn viết về con gái của bố già sắp sửa đi lấy chồng. Khổ nỗi, con gái của Bố già đã mất màng trinh nên phải tìm một bác sĩ tín cẩn, kín đáo để vá lại cái màng trinh của cô con gái để khỏi mang tiếng hư hỏng. Trả lại cái màng trinh nguyên vẹn là khôi phục được đạo đức xã hội mà chỉ những người giầu có quyền thế mới thực hiện được. Vậy còn những người nghèo thì sao đây?

Trường hợp ở Ấn Độ còn nhiều hủ tục lạc hậu, nhưng vẫn có thể vá hay làm màng trinh mới( Hymenoplasty-treatment. Procedure and side effect.)

Cho nên về mặt xã hội- mà không kể đến mặt đạo đức- về mặt phân tâm học- thì có thể nói là nó lột trần, giải mã cái Libido. Tôi cũng có bài đăng  trên Hợp-Lưu: “Phụ nữ và vấn đề tình dục”, Hợp Lưu năm 2005.  “Trước đây, thập niên 60-70, đã có Túy Hồng viết rất bạo dạn, dữ dội Gái Huế đa tình.. như Túy Hồng, buông thả, mở toang. Và cuối cùng:

“ Cái âm hộ là con đường giải phóng phụ nữ ra khỏi những phong tục, đạo đức, xã hội vốn trá hình biến họ thành những kẻ phế tật, bị loại bỏ ra bên lề xã hội.” ( NVL)

Và cái âm hộ như một cánh cửa giải phóng phụ nữ, nhưng dồng thời nó lại là một bản cáo trạng về kinh nguyệt, màng trinh, mòng đóc và chuyện sinh đẻ.( dẫn trích bài Phụ nữ và vấn đề tình dục. Nguyễn văn Lục )

Mất cái màng trinh, mất cả đời con gái, mất cả tương lai.

Cái giường đêm tân hôn trải nệm trắng, thiếu chất máu đỏ là một thứ tòa án nhân dân định phận người con gái!!

Nhà văn Phạm Thị Hoài còn viết thẳng thừng như sau:

“ Không có gì thể hiện sự khinh bỉ đàn bà sâu sắc như tệ sùng bái gái trinh của đàn ông một số nước Châu Á, đặc biệt là Việt Nam và Trung Quốc. Ngẫm nghĩ về việc săn trinh những cô gái trẻ để lấy đó trong làm ăn, tôi từng sa vào những thắc mắc:  Trinh tiết đàn bà giúp gì cho business? Tăng nguồn đầu tư chăng? Phá trinh một em xong thì trúng truyển công chức chăng? Mấy em gọp lại thì đủ trúng thầu một cầu vượt?

Phạm Thị Hoài viết tiếp về các cửa một cách mỉa mai và thâm độc:

Cửa Phật, cửa Thánh, Cửa Mẫu hay Cửa mình của chị em đều là chỗ để đặt niềm tin vào tài lộc do các thế lực siêu nhiên phát cho quota”.

Phạm thị Hoài kết luận:

Đằng sau hiện tượng sùng bái mấy giọt máu này mà không có gì huyền nhiệm mà thuần túy là một phép tính lạnh lùng. Nó bắt nguồn từ tập quán đàn ông đi nhà thổ để giải đen. Họ tin rằng toàn bộ sự xui  xẻo trong mình sẽ theo dòng tinh trùng mà xả ra. Sau cơn mây mưa, họ sẽ được tẩy trần, sạch dơ dớp nhơ nhớp của vận hạn”.

Đến lượt Võ Phiến trong cuốn văn học Tổng quan

Xem ra như thể Võ Phiến có ân oán giang hồ gì với nhà văn nữ Túy Hồng, trước khi Túy Hồng quyết định lấy Thanh Nam làm chồng?

Thoạt đầu, nhà văn Võ Phiến còn nhẹ nhàng cho rằng Văn học miền Nam  thời kỳ 1954-1975 càng ngày càng nghiêng về nữ giới. Thoạt đầu còn nghe tiếng ồm ồm, cuối cùng nghe ra eo éo. ( sách trang 47).

Đó là lối viết thật mỉa mai của Võ Phiến chẳng những đối với các nhà văn nữ mà còn cả các nhà văn nam giới nữa.

Nhưng ông tiếp tục gia tốc bằng những ngôn ngữ nguyền rủa mà chẳng còn chút kiêng dè khách quan, vơ đũa cả nắm của một người giữ vai trò ngự sử văn đàn. Ông viết tiếp:

“ Các nhân vật của Nhã Ca, Nguyễn thị Hoàng..  bằng  lối nói xông xổng, không kiêng nể bất cứ cái gì, cái tục tằn, cái thô bạo, cái xấc láo, cái hỗn xược mất dạy, độc ác, điên khùng..”

Ông tỏ ra bất công và võ đoán. Túy Hồng không phải Nhã Ca càng không phải Nguyễn Thị Hoàng. Nhiều lúc tôi không tin có thật là Võ Phiến không? Khi làm báo bên Cali, tôi thường xuyên đến nơi ông ở để thăm hỏi và tặng ông một số Tân Văn mỗi tháng. Ông lịch sự, nhún nhường và tránh né mọi chuyện có thể gây đụng chạm.

Và nếu quả thật ông đã nhận xét như thế thì thật bất công cho bất cứ nhà văn nữ nào, trong đó có Nguyễn Thị Hoàng. Họ không đáng nhận những lời chỉ trích như tát vào mặt một cách vô bằng như thế theo cái kiểu “ giận cá chém thớt”.

Sự bất công ấy hiểu được, vì bản thân nhà văn Võ Phiến có mối liên hệ ngoài hôn nhân với Túy Hồng. Theo tác giả Nguyễn Chính trong “ Nhà văn nữ trước 1975: Túy Hồng. Trong một bài viết mang tựa đề Võ Phiến, Túy Hồng viết: “ Đó là cái nghiệp của ít nhiều nhà văn và nhà thơ nữ miền Hương Ngự. Những kẻ tháo gỡ vòng dây trói Khổng Mạnh Huế để vào Nam hòa nhập với tự do  Sàigon. Những người viết nữ đều sa vào tay những kẻ đã có vợ và nhiều con. Nếu tôi là một ông thày tướng số mù( Thầy bói thì phải mù, chứ thầy bói mà hai mắt mở thao láo thì nói ai nghe), tôi sẽ tiên đoán vận mệnh của các nhà văn nữ: văn chương thì rạng rỡ, nhưng tình duyên thì trắc trở. Những nhà văn nữ thường thích sinh sống ở Sàigon hơn ở Huế, Vĩnh Long, Phan Rang. Sàigòn thông cảm tâm sự của họ hơn Huế và những nơi khác. Sàigon có đủ đàn ông để họ lãng mạn và làm bạn.”

Và ác liệt hơn: “Tôi tham vọng viết truyện dài, nhưng không có thực tài, khả năng chỉ đủ sáng tác truyện ngắn. Trong một truyện vừa, không ngắn, không dài, tôi miêu tả một tên đàn ông đểu giả gian dối, một kẻ ngoại tình với tôi và phụ tôi với vợ. Nhiều đêm dài mất ngủ, cùng với hoa quỳnh ngày tàn đêm nở, tôi trút giận hờn vào những câu văn ác ôn. Tình yêu là một giọt máu mang số 35.” ( Trich Nguyễn Chính như trên )

Túy Hồng vẫn có lối viết bạo trợn như một cá tính riêng như thế khi lấy Thanh Nam, 1966 làm chồng và mới chỉ quen nhau một tháng. Bà viết: “ Thanh Nam là một lực sĩ đuối sức trên hai vòng đua tình và tiền” ( trich Nguyễn Chính , như trên)

Tôi nghĩ trích dẫn về Võ Phiến đến đây cũng tạm đủ rồi.

Nguyễn thị Hoàng có chịu ảnh hưởng các thuyết hiện sinh và đặc biệt nhà văn nữ Francoise Sagan của Pháp?

  Người viết còn nhớ Francoise Sagan đứng bên cạnh chiếc xe Jaguar dài thòong. F.S mặc một chiếc măng tô dài chấm gót, lốm đốm như da con báo.

Thành thật mà nói, hầu hết giới trẻ Saigon chỉ biết F. Sagan qua những trang giới thiệu của nhà văn Nguyễn Nam Châu trong cuốn sách: Những nhà văn hóa mới. Kể từ đó, giới sinh viên trẻ mới có cơ hội tìm đọc nhà văn này. Mà muốn đọc, phải ở trong môi trường đại học và tiếng Pháp rành rẽ. Sau này những dịch giả như  Nguyễn Vỹ dịch Bonjour Tristesse  Buồn ơi, chào mi, 1959. Un certain sourire. ( Có một nụ cười do Nguyễn Minh Hoàng dịch và Dans un mois, dans un an( Một tháng nữa, một năm nữa. Bửu Ý dịch năm 1973)

  1. Sagan lúc bấy giờ được coi là một hiện tượng phá rào về mọi giá trị đạo đức, tôn giáo ngay trong văn giới Pháp.

Nhưng có một điều quan trọng là giọng văn của F. Sagan khinh bạc, bất cần, lối sống bừa bãi và làm ra vẻ chán chường và mệt mỏi. Cuộc sống đời thường được đưa vào văn chương như một sự phá sản qua các hình thức như ưa tốc độ, rượu, hộp đêm, làm tình một cách “ thản nhiên”. Một lối mô tả không phải là vô luân (immoral), mà là phi luân (amoral). Phi luân không phải theo nghĩa không có đạo đức luân lý, mà ở chỗ nó không đặt, hoặc ở chỗ nó không đếm xỉa đến vấn đề luân lý nữa.

Vì thế, tính cách nổi loạn là thực chất của đời sống họ. Người viết giới thiệu thêm bài đầy đủ về F. Sagan trên Webb Ngô Quyền của Nguyễn Văn Lục: “ Francoise Sagan, Adieu Tristesse. Con người cuộc đời và tác phẩm”.

Nhưng nó cũng lộ diện cho thấy, nó muốn lột trần tính cách giả dối, phỉnh phờ, đạo đức giả của thế giới người lớn.

Chẳng hạn, khi người phụ nữ ăn mặc thì tiết hạnh được cân đo đếm từng phân ly độ dài ngắn của chiếc váy!! Dài đến mắt cá chân. Ngắn đến đầu gối, ngắn nữa, ngắn nữa đến gần bẹn?

Độ ngắn nào còn được coi là đạo đức và độ ngắn nào thì không?

Và cũng nên nhớ rằng trước đó 10 năm, một xi căng đan chưa ráo mực về nữ tài tử Brigite Bardot gây xáo trộn nước Pháp qua cuốn phim: Et Dieu créa la femme.

Cứ như những điều trình bầy trên thì thực sự phải công bằng mà nói, ảnh hưởng của trào lưu tư tưởng hiện sinh ở Pháp chẳng có chút ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp gì đến các nhà văn nữ  như Nguyễn Thị Hoàng từ bút pháp, hoàn cảnh sáng tác, mục đích sáng tác đến nội dung tác phẩm cũng như nhu cầu sáng tác. Người Tây Phương với mức sống cao và văn hóa tiến bộ, họ coi nhẹ vấn đề trinh tiết, nhất là từ khi có cái bao cao su thì làm tình là chuyện  cơm bữa.

Nhiều người viết như phóng bút cho rằng NTH và các nhà văn nữ ảnh hưởng thuyết hiện sinh!! Lầm. Quá lầm. Tôi nghĩ rằng, ngay cả “ thứ Hiện sinh vỉa hè” cũng chỉ là một bắt chước giả tạo.

May là NTH cũng phủ nhận điều này.

Đông Phương và Tây Phương chưa có một điểm tựa đồng quy nào xứng tầm!!

Nữ sĩ Nguyễn Thị Hoàng- Cuộc đời và tác phẩm

(Tường thuật buổi nói chuyện của Nguyễn Thị Hoàng với sinh viên văn khoa Sài gòn tại giảng đường Đại Học Văn Khoa ngày 11-5-1971)

Đây là buổi nói chuyện do giáo sư Thanh Lãng mời để các sinh viên Văn Khoa có dịp nghe và trao đổi với một nhà văn về kinh nghiệm viết và hoàn cảnh sáng tác. Và cuối cùng có phần đặt câu hỏi của sinh viên. Chỉ xin tóm tắt một vài nội dung chính và ý tưởng của chủ đề.

Theo NTH: “ chính cuộc sống tự do nhưng nhiều khó khăn trên đã ảnh hưởng phần nào đến viết lách của tôi.(…) tác phẩm tôi không do một động lực nào bên ngoài xã hội hay ảnh hưởng từ văn chương ngoại quốc như một vài người đã lầm tưởng..”

NTH : “ Tôi ngạc nhiên khi có người đọc một bài phê bình nào đó về tôi và hỏi dò ý kiến hay phản ứng. Bởi vì tôi không hề theo dõi, trừ phi có người nhắc nhở hay tìm bài đem cho tôi đọc. Giữa những người phê bình và người viết luôn là một khoảng cách mênh mông. Tôi không thể nào đọc hiểu họ cũng như họ đã không đọc và hiểu tôi vậy”.

NTH : “ Tác phẩm tôi từ 1966 đến nay đã gần 30 cuốn, gồm 20 cuốn đã in và 10 cuốn đang in, hoặc đăng trên các báo. Tôi khởi đầu viết khoảng 25 tuổi với cuốn đầu tay là Vòng tay học trò. Đó chỉ là cuốn truyện tình cờ, ngoài những tác phẩm viết theo chương trình và dự định.

NTH:” Trước khi khởi đầu một truyện nào, tôi nuôi nấng một ý tưởng cho nó lớn dần, như mang thai đứa con. Nó lớn dần cho đến khi có đủ hình hài thành câu truyện ở vào cái thế không viết không được, cứ ấm ức như chịu đựng như một thứ mụt cương mủ, nhức nhối không được nặn chích đi cho vỡ toang nên đau đau đớn bứt rứt vô cùng. Khi câu truyện đã chín muồi trong ý nghĩ và ý muốn thực hiện ngay tức khắc, những ý tưởng và nhân và nhân vật như vậy.”

Bà đã ứng khẩu  từ lúc 16 g 20 và ngưng lúc 17 giờ 10.. Và sau đó sinh viên đặt câu hỏi mãi đến 18 giờ 10 mới thôi.  Sau đây là phần giải đáp thắc mắc.

  • Hỏi: Khi diễn tả một tâm trạng cũng như khi nhìn cảnh vật chung quanh, người viết có cho nhân vật sống hoàn toàn hay đã bị lệch lạc đôi chút vì dùng lối diễn tả viết văn mới?
  • Đáp: Không một lời dĩễn tả nào có thể làm lệch lạc tâm trạng nhân vật hay khung cảnh được. Nếu khung cảnh hay tâm trạng có thay đổi, hoặc khác biệt với sự thật, chỉ là do sự hứng khởi uyển chuyển của ngòi bút muốn thay đổi nó.
  • Hỏi: Nguyên nhân nào thúc đẩy viết tập “ Vào nơi gió cát” với giọng văn nức nở, ai oán?
  • Đáp: “ Vào nơi gió cát” không phải là tiểu thuyết hay một tác phẩm văn chương mà những bức thư từ đời sống thực, nước mắt và tiếng nói của tôi hay cũng là của đàn bà nào có hoàn cảnh tương tự, những bức thư tôi đã viết gửi cho nhà tôi. Tôi định in mấy trăm tập nhưng về sau nghĩ đau khổ của mình, nước mắt của mình cũng là những đau khổ, nước mắt chung của nhiều người khác nữa nên có thể tìm thấy bóng dáng họ trong “ Vào nơi gió cát”(Có thể đây mới là cuộc sống thực, đau khổ thực sau khi NTH lấy Bửu Sum. Bửu Sum trốn quân dịch nên không làm ăn gì được, lại có năm đứa con phải nuôi. Và NTH đã phải về lục tỉnh, trốn ẩn, đời sống cơ cực, phải nuôi năm con với một chồng. (Lần đầu tiên được nghe NTH chính thức gọi Bửu Sum là nhà tôi trong nghĩa tình có một gia đình và trách nhiệm chia xẻ ngọt bùi. Nguyễn Phúc Bửu Sum là người chồng chính thức của Nguyễn Thị Hoàng. Họ có với nhau năm mặt con. Thời VNCH, Bửu Sum trốn lính, rồi bị bắt, trở thành lao công đào binh, bị đầy ra Quảng Ngãi. (Nguyễn Thị Hoàng, ngoài việc nuôi chồng ẩn náu, còn phải  chăm sóc đàn con 5 đứa, lo việc nhà, việc cơm nước. Đó là những giai đoạn vất vả và đầy nước mắt. NVL)
  • Hỏi: Thưa , tôi trộm nghe người xưa nói: “ Làm thầy địa lý lầm giết một họ, làm thầy thuốc lầm giết một người, làm văn hóa lầm thì giết muôn đời” Thưa bà, có biết bây giờ có bao nhiêu hiện tượng “vòng tay học trò” xảy ra không?
  • Đáp: Ông bạn có ý trách tôi và đổ lỗi cho VTHT, gây ảnh hưởng tai hại. Làm sao kiểm chứng được có cô Trâm hay tên Minh một trường hợp tương tự nào đó của VTHT đã chịu ảnh hưởng của VTHT, hay nó xảy ra vì nó xảy ra như thế. Tôi chỉ trách nhiệm và sẽ nhận trách nhiệm khi tác phẩm ở trong dự định của tôi. Còn VTHT, thì như đã nói ở một câu giải đáp trên.”
  • Hỏi: Tình dục có phải là một trong những chủ đề chính để bà đào sâu và phô bày trong tác phẩm của bà không? Nhân vật nào đã được gói ghém con người của mình một cách đầy đủ nhất?
  • Đáp: Tất cả những cuốn đã viết, sẽ viết tôi không bao giờ xây dựng quanh vấn đề tình dục hay có chủ trương nào về tình dục.

Câu hỏi thứ hai, thật ra chưa có nhân vật nào gói ghém con người tôi một cách đầy đủ.Như ta thương mến.

( Trich dẫn: NgườI ghi Nhuệ Hương)

Vài nhận xét rời dưới góc nhìn phân tâm học về nhà văn Nguyễn Thị Hoàng qua cuốn truyện Vòng Tay Học Trò như một mẫu thức điển hình.

 

Hiện diện của thân xác trong tương giao người- người

Con người hiện diện ở đời qua không gian chính là hiện hữu qua thân xác. Vì thế, yếu tính của con người là hiện hữu, có mặt. Thân xác xác định tôi có mặt, tôi hiện hữu rồi nới rộng không gian hiện hữu ấy ra là cha mẹ, vợ con, thân thuộc, bằng hữu.

Nói chung là bao gồm cả thế giới bên ngoài.

Thân xác không phải chỉ là thân xác, nhưng thân xác còn là một ý thức để tri giác thế giới bên ngoài. Cho nên thân xác còn là cách thức biểu lộ bằng ngôn ngữ. Thân xác chính là cách thức biểu lộ những ham muốn, những chờ đợi  và những mong đáp trả đền bù.

Đó là một thứ ngôn ngữ bằng chính thân xác mình. Thân xác như thế còn là tiền đề của những giá trị tinh thần.

Trong cái mối tương giao ấy, cái giao ngộ trực tiếp và gần kề trực tiếp là thân xác như cầu nối giữa người -người, hay giữa đàn ông-đàn bà là một điều không thể chối bỏ.

Tương giao ấy do những hoàn cảnh xã hội,tôn giáo,phong tục, địa phương có thể kiềm chế đè bẹp, miệt thị con người.

Và cá nhân trong từng cá thể tìm cách thoát ra, trỗi dậy, thoát ly.

Chi li thì là sự hé mở của vùng đồi nhú lên, căng cứng, trượt xuống, đi xuống, xuống nữa là tới vùng cỏ non rậm rị, ẩm ướt và đụng phải hang ổ của cái Libido réo gọi, nỉ non..

Cái điều như thế mở đầu ngay trong chương Một của VTHT, tác giả soi gương chỉ thấy mình.. từ mái tóc đến thân hình on ả, õng ẹo như sửa soạn cho bữa tiệc sắp tới trong sự chờ đợi.. Tiếng nói của Libido là như thể tiềm thức mà là thức.

Trong truyện của NTH, thân xác luôn là nền, là đối tượng để NTH viết truyện.

Và những điều như thế, phải chăng đều có trong VTHT? Có chứ ạ. Nhưng nó đã được thăng hoa, huyễn diệu bằng một kỷ năng ngôn ngữ tuyệt xảo, hay và hấp dẫn. Một thứ ngôn ngữ mà đi quá một chút có thể thành uỗn ẹo, son phấn, giả tạo giữa hư và thực..

Và có thể kết luận về trường hợp truyện của NTH. Sự thành công của tác phẩm phần VTHT phần lớn nằm trong thứ ngôn ngữ body language này.

Chất Huế trong Nguyễn Thị Hoàng

Người nào đã có dịp sống nhiều năm tháng, hoặc tiếp xúc nhiều về gái Huế mới cảm nghiệm được điều này. Họ có một phong cách riêng, một lối sống âm thầm- như vườn ở Huế-, sống che đậy mà mở ra và những ước mơ thoát ra khỏi khung cảnh Huế- dù phong cách Huế đẹp-dù những cơn mưa thối đất-dù nhiều kỷ niệm thân thương!

Cái mâu thuẫn nội tại vẫn là dùng dằng giữa ở và đi.

 Nó cũng giống như chiếc nón Huế là một biện chứng khép-mở. Khép khi nào và mở khi cần là phong cách xử dụng của từng cô gái Huế.

Con đường vào các cuộc tình ở Huế cũng đi theo một lộ trình tương tự. Xem ra khó mà rất dễ. Miễn là ta nắm bắt được chìa khóa của những giấc mơ đầu đời của gái Huế.

Giấc mơ của người con gái Huế là một ngày nào đó rời xa Huế, ra khỏi đời sống tiện tặt, chật vật cũng như ràng buộc lễ giáo gia đình.

Mặc dầu vậy, Huế không ồn ào, không náo nhiệt, nhưng sâu đậm. Nhưng âm thầm lặng lẽ cũng đành bỏ mà đi trong nuối tiếc.

Đó có thể là ý nghĩa cuộc đời trong hành trình nhân thế, đi tìm những phương trời xa xôi, mới lạ và đầy hứng thú.

Nhiều gái Huế đi tìm những hình bóng các người tình như sĩ quan quân đội cũng như đa phần các nhà văn nữ đều đã đi theo lối mòn cách này cách khác.

Minh Đức Hoài Trinh, Linh Bảo, Băng Thanh đã là một lẽ của một thời.

Tiếp nối là Nhã Ca, Túy Hồng, Phùng Thăng, Phùng Thắng, Thái Kim Lan và Nguyễn Thị Hoàng.

Mà kết cục là điểm Omega chỉ là kiếm tìm một Libido!!

 

Nguyễn Thị Hoàng khởi đầu sự nghiệp văn chương phải chăng là thoát ly khỏi khung trời nhỏ hẹp xứ Huế? Có chứ ạ. Không Huế không phải nguyên vẹn hình hài là NTH?

 

Nha trang khung trời mở rộng như một sự phá rào?

Năm 1957, cha Nguyễn Thị Hoàng là ông Nguyễn Văn Hoằng, một công chức thuộc bộ giáo dục được chuyển đổi về Nhatrang. Nguyễn Thị Hoàng vừa 18 tuổi vào học tại trường Võ Tánh, Nhatrang.

Cũng tại nơi đây, Nguyễn Thị Hoàng học thêm tiếng Pháp tại nhà do ông Cung Giũ Nguyên(1909-2008) đảm nhận. Việc phá rào cuộc đời con gái với việc dan díu với Cung Giũ Nguyên mà kết quả là nàng sinh được một con gái đặt tên là Cung Giũ Nguyên Hoàng, sau do bà Nguyên vốn không con nên nhận nuôi. Cuộc tình ngang trái được giàn xếp giữa Cung Giũ Nguyên và gia đình Nguyễn Thị Hoàng qua trung gian ông biện lý Nguyễn Hữu Thứ.

Phần Nguyễn Thị Hoàng đứng ra nhận trách nhiệm là không bị dụ dỗ.

Qua câu truyện tình gây dư luận này cho thấy Nguyễn Thị Hoàng như thách đố lại tất cả, không trốn tránh được chính mình để cho những đam mê “ tội lỗi” chế ngự và như thể bất chấp những tủi nhục của những người thân.

Phải chăng, đó là một cuộc phá rào về tình dục nhân danh cái cửa mình?

Mặc dầu vậy, sau này, tôi có cảm tưởng  Nguyễn Thị Hoàng né tránh giai đoạn đầu đời con gái này và rất kiệm lời như trong buổi nói chuyện tại Đại học Văn Khoa năm 1971. Cũng ít khi nào, người ta được biết về mối liên hệ với đứa con do bà Nguyên nuôi? Tình già đã là một lẽ, còn đứa con rơi?

Dù sao, đây cũng là một bước đi đầy phiêu lưu mạo hiểm ít ai làm được- bước khởi đầu mà chưa phải là chấm dứt?

Năm 1960, bỏ Nhatrang vào Saigon, một bước thử dầy dạn và chán chường?

Ít khi nào NTH tỏ bày một cách rõ rệt về hai năm bước thử này!  (1960-1962)Nó có thể chỉ là những hẹn hò, chóng qua, tạm bợ  và phai tàn nơi môi trường Đại Học Văn Khoa, luật khoa và nhất là bên ngoài cổng trường Đại học. Kiến thức không đem lại điều gì. Nhưng nhất là nó đã gặp những con người mà thực chất thiếu một cái gì không phù hợp với một NTH- một thứ “ngựa chứng trong sân trường”- .

Nó rất có thể đem lại những dư vị không mấy ngọt ngào như lòng mong đợi- “một thứ của trong một tháng, một năm và có thể từng ngày”-. Có lúc đi làm, có lần xin về Nhatrang dạy học, nơi đây từ chối và vì thế quyết định lên Đà lạt.

Một lần nữa NTH rũ áo ra đi, tìm một nơi trú ẩn an toàn trong đơn độc. Nhưng một NTH luôn có những “nổi loạn nội tâm” khát khao những ham muốn ngoài khuôn khổ, liệu sẽ đi về đâu?

Như lời tự sự của NTH: “ Truyện mình viết thường là những truyện tình bế tắc và đi xuống. Trong đó vai nữ bao giờ cũng khát khao đi tìm một đời sống thật của mình, nghĩa là tìm kiếm chính mình. Những nhân vật nữ lang thang bất định, và xa rời với phận sự gia đình.

Chất liệu lấy từ những năm bất ổn lênh đênh trong cuộc đời đã qua của mình, đôi khi được ráp nối với những câu chuyện thời sự, cộng với một phần tưởng tượng, phóng tác, vẽ vời.. rồi ráp thành chuyện..”(trích dẫn : Một án phẩm của NTH. Viên Linh)

Câu truyện Vòng tay học trò

  Đây là một câu truyện thật, người thật, việc thật, khung cảnh thật lấy bối cảnh là trường Trần Hưng Đạo.

Vì một lẽ nào đó, NTH đều lấy chất liệu từ những người thật. Như nhân vật Minh-học trò- tên thật là Mai Tiến Thành, học đệ ngũ trên Ban Mê Thuột.

Xin trích lời Nguyễn Ngọc Chính, một người bạn với Mai Tiến Thành. Theo lời Chính: “Thành thuộc loại quý tử, tư chất thông minh nhưng sức học trung bình. Riêng việc ăn chơi, Thành được sếp vào loại suất sắc…Thành có khuôn mặt không được đẹp trai cho lắm. Trong lớp thường gọi đùa hắn là Fernandel!! Chân đi chữ bát.. được gọi là Thành  đẹo. Có kể hết cái xấu của Thành mới làm nổi bật lý do tại sao cậu học trò Nguyễn Duy Minh lại được cô giáo Tôn nữ Quỳnh Trâm để mắt đến và thành công trong truyện tình cảm… Thành luôn là kẻ thích “chơi trội”.( Trích Sư phạm áo nâu Đàlạt. Nguyễn Ngọc Chính: Đọc lại vòng tay học trò Nguyễn Thị Hoàng).

Đọc VTHT cũng được NTH mô tả Minh trong một cuộc đánh lộn:

“ Gần đến nhà, dưới chân đồi, Minh bị một bọn choai choai chận :
đường. Một thằng trong bọn nghênh chiến trước:

  • Ê Minh, mày bao nhiêu tuổi?

Minh ném sách vở xuống bãi cỏ, tóm lấy ngực thằng kia:

Bằng tuổi cha mày.

Minh tát thằng kia một bạt tai và rút cái khóa xe bằng sắt quay vù vù:

Tao làm gì kệ tao, mắc gì đến tụi bây? Đồ chó săn.

Câu hỏi là Trâm cần gì ở Minh? Có lần cô nói với Ngữ, một người bạn mê Trâm lên Đà Lạt: “ Tôi đã nói, tôi không cần gì cả. Địa vị, tiền bạc. Bề ngoài. Không. Tôi chỉ cần một thứ, một thứ tìm mãi không hề có, hoặc có mà không thể giữ được với mình. Tình thương.

Những nhân vật thật ấy đều tràn lan trong VTHT. Tỉ dụ Thức chính là Trương Sĩ Thực, em ruột của TV Hoàn lên ở trọ học. Rồi những Lan đổi ra Lưu, ông Tổng Giám Thị Dụ, tên thật là ông Bửu Vụ và rất nhiều tên khác không tiện nêu ra đây, vì họ còn sống..Các khung cảnh địa lý của Đàlạt như Trạm Hành, Trại Mát, Cầu Đất.. vv

Rồi người ta cũng không thực sự biết được điều gì xảy ra trong những cơn mê trận ấy. Chỉ có một điều là có một đứa con đã ra đời được đặt tên là Mai Quỳnh Chi do gia đình Thành nuôi nấng tại Ban Mê Thuột. Mai Quỳnh Chi lớn lên, trưởng thành ở Mỹ, nó có biết mẹ nó là ai? Hay chỉ là một cuộc tình và nay đã rơi vào quên lãng!! Đã có ai và bao giờ nghe NTH nhắc nhớ tới  “đứa con rơi” đó không? Hay nó sẽ có cơ may trở thành “ Kẻ dư thừa”?

Tôi cũng xin mạn phép không trích dẫn nhiều đoạn mô tả bước chân lãng mạn, vu vơ, kiếm tìm, ham muốn, giận hờn, nhớ nhung, gian dối, chiếm đoạt với kỹ thuật ngôn ngữ chuẩn xác mà hoang tưởng.

Tôi cũng xin thú nhận rất mệt mỏi, kiên nhẫn đọc lại cuốn truyện VTHT của một người đã ngoài cái tuổi đọc những truyện tình như thế.

Và tôi có thể chỉ giúp bạn đọc tóm gọn trong vài dòng về cuốn VTHT.

Nó chỉ là một thứ “ Độc thoại của âm hộ”.( Monologue vaginal)

Điều này nhiều người trẻ ở trong cơn mê trận tưởng rằng nó mới mẻ, nó cách tân, nó hấp dẫn thần kỳ trong những cơn lốc tình cảm ngoài vòng kiểm soát.

 

Thật ra nó là chuyện đời thường trong tứ khoái của con người như : Ăn, ngủ, Đ.., ỉa từ đời hồng hoang lịch sử con người để lại qua những phúc trình, nghiên cứu đáng tin cậy. Chẳng biết NTH có cơ hội đọc nhữn tài liệu bóc trần này không? Đọc thì có thể ngòi bút sẽ chuyển hướng?

Có thể NTH chỉ có vốn sống mà thiếu vốn đọc!!

Như phần đông các nhà văn nữ khác vốn sống có thể tích lũy từ chính cuộc sống bản thân, gia đình, xã hội. Nhưng vốn kiến thức thu lượm được qua sách vở, truyện của những thế hệ đi trước, nhất là kiến thức của thế giới nói chung- như từ Pháp, Mỹ- thì rất mỏng và hạn chế!! Trong đó ngoài văn chương còn có các tài liệu về tình dục học, xã hội học, nhân chủng học, sử họcvv..

Chẳng hạn, theo Yuval Noah Harari:

“ Một người mẹ tốt sẽ quan hệ tình dục cùng thời điểm với nhiều nam giới khác nhau, đặc biệt là khi cô ta đang mang thai, do đó con của cô sẽ được hưởng những phẩm chất ( và cả kỹ năng chăm sóc con cái ) không chỉ đơn thuần từ các thợ săn tốt nhất mà từ người kể chuyện hay nhất và những người tình chu đáo nhất. Nếu điều này nghe có vẻ ngớ ngẩn, hãy nhớ rằng trước khi các nghiên cứu hiện đại về phôi thai phát triển, người ta không có bằng chứng chắc chắn rằng các em bé luôn  được sinh ra bởi một người cha duy nhất hơn là bởi nhiều người”.  (Yuval Noah Harari, bản dịch Sapiens. Lược sử loài người . Nguyễn Thủy Chung dịch. Võ Minh Tuấn hiệu đính. Nxb Trí thức, trang 58)

 

Nhưng kể từ khi có Adam Evà “ biết xấu hổ”, nguồn gốc của tội lỗi thì tình dục đã biến thái đi. Libido vẫn còn đó, nhưng con người đã từ bỏ trạng thái tự nhiên của vườn địa đàng, giai đoạn bình minh của nhân loại để bước từ giai đoạn hái lượm, săn bắn sang trồng trọt, tích lũy tư hữu, kế thừa của cải. Đã hàng triệu năm  trả dài như thế.

Tù đó, rất nhiều tiêu chí đạo đức được đặt để cho con người bất kể đến cái Libido.

Do hai dẫn chứng vừa kể, người viết cảm thấy không dễ gì mang các tiêu chuẩn tính luân lý để phê phán truyện VTHT của NTH. Chính tác giả NTH cũng  xác nhận về VTHT một cách ỡm ờ:

Nếu bảo rằng thực thì không hẳn là thực, nhưng bảo là không thực.. thì cũng không phải là thế.”

Và nếu bảo rằng thực thì sao? Và nếu bảo rằng chỉ là hư cấu thì sao?

Ai ai cũng có thừa cái lý lẽ ở đời (La raison d’être) để tự biện hộ cho chính mình, cho cách hành xử của mỗi người.

Tôi là người có chút may mắn, có chút học vấn và đã có cơ hội đọc Rapport de Kinsey với các bản thống kê, các cuộc phỏng vấn. Tác giả qua đó đã bóc trần đời sống tình dục của con người dưới các hình thức thủ dâm, ngoại tình, đồng tình luyến ái, lạm dụng trẻ con vv..

Tác giả đưa ra bằng chứng mà không phê phán tốt xấu chỉ cho thấy sự thực ấy nó như thế nào?

Năm 1976, lại có thêm  phúc trình của Shere Hite nhan đề: Le rapport Hite ( Phúc trình Hite) trong đó tác giả đưa ra một cuộc điều tra ở bên Mỹ với 3000 phụ nữ tuổi từ 14 đến 78 với 10.000 câu hỏi. Các câu trả lời cho phép bộc lộ sự thầm kin về vấn đề tình dục, trong đó đặc biệt là vấn đề thủ dâm.

Sụ tiết lộ ấy- dù ở nước Mỹ- có tính cách thuyết phục mà không thể có lời biện bạch và phản bác được. Một phụ nữ đã phát biểu:

“ Để lên đỉnh đạt khoái cảm cực điểm. Tôi phải tập để biết yêu mình và thành thực hơn nữa. Tôi phải hoàn toàn yêu thân xác tôi, yêu tâm hồn tôi, tinh thần tôi.. Tôi cũng phải có có được mối liên hệ nóng bỏng và tham dự một cách hòa điệu bằng vào  nhiều kinh nghệm với người đối ngẫu của tôi.”

(Shere Hite, Ibid, trang 220).

Phải chăng trong trường hợp NTH có điều gì trùng hợp, bà ấy chỉ biết yêu mình, chỉ biết o bế cái thân xác mình, cho riêng mình và chỉ biết thỏa mãn cho mình mình bất kể đối tượng là ai xét về mặt lý luận?

 Cụ thể như trường hợp Cung Giũ Nguyên xét về nhiều mặt, từ nhân dạng- dưới mắt tôi gặp ông năm 1964- là xấu xí, chân đi khập khiễng, ăn mặc cảnh vẻ với áo vét, mặc dầu trời Nha Trang nóng bức.. Đời sống tình dục không mấy bình thường. Tuổi tác lớn không cân xứng vẫn bị cuốn hút vào vong tục lụy, bất kể tai tiếng và một đứa con ra đời “ ngoài ý muốn”.

Nhưng điều tôi kinh ngạc là không hề- dù chỉ một lần-  được nghe từ đồng nghiệp, học trò xì  xào về ông.

Nhưng tai tiếng thì ồn ào, dư luận khắp chốn giang hồ!!

Trường hợp Minh càng rõ nét hơn-  thân hình thấp bé, khuôn mặt Fernandel, chân đi vòng kiềng. Ăn nói bạo trợn, đánh lộn chửi thề, bạt mạng, bia rượu, thuốc lá theo đúng như lời mô tả của Nguyễn Ngọc Chính lại hợp “gu” NTH.

Điều ấy làm sao lý giải được ngoài cái Libido ra?

Và phải xóe tạc nó ra bằng phân tâm học, lôi nó ra từ tầng  vô thức, tiềm thức sang tầng ý thức.

Cuốn sách tự nó chỉ là một cuộc tình ngang trái có gửi một thông điệp tư tưởng gì không?

Tôi khẳng định là không. Nội dung là rỗng ruột. Không là không.

Nhưng về ngữ cảnh ngôn ngữ thì chuyển tải được sự chiều chuộng vuốt ve người đọc như những người đi trên mây, mộng tưởng. Đến độ nó biến cuộc tình trở thành ngẫu tượng được thanh cao hóa, được quyến rũ trong êm dịu, trong những giây phút nhớ nhung, giận hờn, ghen tuông trong một khung cảnh thần tiên của Đà Lạt. Nhiều đoạn văn làm dáng, uốn éo như một Mai Thảo hồi nào.

Tất cả sự thành công của cuốn VTHT nằm ở đó và không là gì khác.

Dù gì đi nữa thì NTH có một chỗ đứng trong văn học không thể chối bỏ. Chỗ đứng ấy có thể vượt trội hơn các nhà văn nữ khác cùng thế hệ. Bà có quyền hãnh diện về điều này.

Ngày hôm nay, bà được đền bù cho bõ những lúc hoạn nạn, đói khổ. Sách được in lại 4,5 cuốn, có tác quyền. Điều mà vào năm 1975, sách của bà cũng như nhiều nhà văn khổ lụy trăm chiều: không phản động thì đồi trụy. Tôi có trước mặt Phần phụ lục IV, nhan đề: Về sách tiếng Việt bị cấm lưu hành, ở trang 631 trong bộ sách của Trần Trọng đăng Đàn. Tôi đếm được 20 đầu sách của NTH.

Nhưng ngược chiều thay. Nay những đầu sách được coi là đồi trụy trở thành sách hiếm và quý. Theo nghĩa, đổi mới chỉ là phục hồi cái cũ đã bị xóa bỏ.

Vinh dự thay cho bà mà cũng không lấy gì làm vinh dự thay cho bà!!  Ngoài một số tiền nhuận bút để cuộc sống bót cơ cực.

Tuy nhiên, ngoài lãnh vực văn chương, NTH có những bài thơ “ rất Huế” “rất tình” để lại trong tôi nhiều dư vị khó quên.

 Chi lạ rứa, chiều ni tôi muốn khóc,

Ngó chi tui đồ cỏ mọn, hoa hèn.

Nhìn chi tui hình đom đóm đêm đen

Cho tui tủi bên ni bờ cô tịch.

 

Tôi ao ước có bao giờ tuyệt đích

Tui van xin răng mà cứ làm ngơ.

Rồi ngó tui, chi lạ rứa hững hờ.

Ghét, yêu, mến, vô duyên và trơ trẽn!

 

Bài thơ sau đây nhắn gửi ai?

“ Đã ba mùa cách trở

Nửa năm rồi ly biệt

Áo mầu không thắm nữa

Thưở tàn phai xuân thì.. “

(Niềm đau chia phôi)

Sau đây là mấy bài thơ làm mùa hè năm 1963( BK, số 161, 15-9-1963)(khi đã chia tay Đà lạt. NVL)

Khi em về giữa vòng tay

Trong yêu dòng nước mắt này lại khô

 Vết hôn ngày cũ chưa mờ

Phút giây đầm ấm bao giờ nữa em”

( Yêu)

“ Không ai về thăm chiều nay

Cho tôi chết giữa vòng tay một người

Tiếng hôn khép kín môi cười

 Gối chăn mùa lạnh rã rời thú xưa”

(Nhớ)

Đọc những dòng thơ này, lòng tôi trùng lại và không còn biết phải nói gì? Nói năng chi cũng bằng thừa? Tôi ghen với cuộc đời!!!

Phần còn lại tôi đã làm, đó là công việc phân tích Phân tâm học của bài viết này về cuốn VTHT của NTH? Nó có khô cằn và đắng cay! Đành chịu!!


 

VIỆT NAM ĐỨNG TỐP 3 THẾ GIỚI VỀ TỰ DO BÁO CHÍ

Hoang Le Thanh

NĂM 2023, THẬT LÀ VẺ VANG – VIỆT NAM ĐƯỢC XẾP HẠNG 178/180 VỀ TỰ DO BÁO CHÍ.

Nguồn: BBC

VIỆT NAM CÓ TỰ DO BÁO CHÍ HƠN CẢ TRUNG QUỐC & BẮC TRIỀU TIÊN

Rõ ràng chúng ta có tự do báo chí. Chúng ta hơn hẳn và xếp trên cả Trung Quốc lẫn Bắc Triều Tiên.

Thế mà mồm thối của bọn phản động, các thế lực thù địch cứ ra rả rằng Việt Nam ta là kẻ thù của “tự do ngôn luận”, là sát thủ giết sạch báo chí tư nhân, cường quyền bịt miệng dân chúng?

Khin Ngu Teo

 Đưa Thái tử Đảng lên ngôi

 Ba’o Tieng Dan

Blog RFA

Gió Bấc

28-12-2023

Một ông phó quận chuyển công tác sang tỉnh khác cách nhau chưa đầy 50km bỗng trở thành sự kiện thời sự của quốc gia, quốc tế. Hơn 800 tờ báo lề đảng trong nước đồng loạt đưa tin, từ lễ ra đi đến lễ tiếp nhận, bình luận pháp lý thủ tục, cơ chế, quy định pháp luật. Cả báo Sputnik của Nga cũng quên chuyện phi quân sự Ukraine để tường thuật, bình luận.

Chuyện khác thường ở đây do ông quan quận này không phải người thường, mà là Thái tử Đảng, đúng nghĩa đen. Trước nay mãi vui chơi, giờ phải tăng tốc, khẩn trương, thần tốc đi đường vòng để kịp vô nhà đỏ trước khi quá tuổi.

Ông Trương Tấn Sơn, Phó Chủ tịch UBND quận Tân Bình, chuyển về Tỉnh ủy Long An. Nguồn: Báo Công thương

Trong hai tuần lễ cuối cùng của năm, dù không khí Giáng sinh đầy sắc màu, âm thanh lan tỏa, dù đại án “Chuyến bay Giải cứu” được xét xử phúc thẩm với tình tiết bất ngờ rượu vang đã biến thành tiền nhưng cái tên tràn ngập báo chí lề đảng không phải là ông già Noel hay điều tra viên Hoàng Văn Hưng, mà là cái tên lạ hoắc: Ông Trương Tấn Sơn, Phó Chủ tịch quận Tân Bình của thành Hồ.

Sự kiện báo chí rầm rộ, long trọng đồng loạt đưa tin cũng cực kỳ nhạt nhẽo, vô lý: “Ông Trương Tấn Sơn được điều chuyển về tỉnh Long An cách trung tâm thành Hồ đúng 45 km”. Thời đương chức Phó Chủ tịch Tân Bình, ông Sơn không làm được trò trống gì gây tiếng vang với công chúng như chuyện ông Hội Đồng Khoa móc cống, hay ông Phó Chủ tịch quận 1 Đoàn Ngọc Hải đi dẹp lòng lề đường để khi nghỉ việc trở thành sự kiện.

Nếu bình quân mỗi quận có ba Phó Chủ tịch thì chỉ tại thành Hồ có đến trên nửa trăm, cả nước phải có đến con số ngàn. Chưa nói đến chiến lược luân chuyển cán bộ “thần thánh”, ảo diệu của Tổng bí thư ba nhiệm kỳ Nguyễn Phú Trọng, trong mọi nền hành chính, cai trị việc hoán chuyển công chức cấp tỉnh, huyện là hết sức bình thường. Nếu quan quận nào hoán chuyển cũng đăng tin, bài rầm rộ, báo chí phải tăng trang mới đủ chỗ in.

Theo nguyên tắc, với viên chức cấp quận như ông Sơn, sự quan tâm cao nhất là người được điều chuyển nhận các quyết định, văn bản từ đơn vị cũ và được xe công đưa đón về đơn vị mới là xong. Theo hồi ký của ông Đào Văn Hội, một công chức cao cấp thời Pháp thuộc và đệ nhất cộng hòa, khi được bổ nhiệm làm quận trưởng, ông tự lực lái xe đưa cả gia đình về đơn vị mới, chẳng lễ lạc, chẳng ai đưa đón.

Ấy vậy mà chuyện ông Phó Sơn về Long An lại được báo chí đua nhau đưa tin, bình luận long trọng, như chuyện Càn Long du Giang Hạ, hay trạng nguyên vinh quy bái tổ.

Không chỉ do báo chí mà có ai đó đã cố ý long trọng hóa chuyện điều chuyển 45km này bằng hai cái lễ, hai ngày khác nhau, ngày 18-12 là lễ trao quyết định ở đầu đi quận Tân Bình và ngày 22-12 là lễ công bố quyết định tiếp nhận tại Long An. Đặc biệt, lễ tại Long An có đủ mặt cả ban Thường vụ Tỉnh ủy, có quay phim tường thuật thật hoành tráng. Mỗi tờ báo đăng về sự kiện này có ít nhất ba bài, một bài lễ đi, một bài lễ đón và khoảng giữa có ít nhất một bài bình luận.

Khệnh khạng nhất là báo Pháp Luật TP.HCM, đã đăng bài “Lý giải về quy trình điều động ông Trương Tấn Sơn từ TP.HCM về Long An” của Tiến sĩ Vũ Trung Kiên, như một công trình khoa học đoán mò!!! Ông Tiến Sĩ rất thông minh này đã long trọng đoán rằng “Thứ nhất, để điều động ông Trương Tấn Sơn về công tác tại Tỉnh uỷ Long An chắc chắn Ban Thường vụ Thành uỷ TP.HCM và Chủ tịch UBND TP.HCM không thể tự quyết định (tức Ban Thường vụ Thành uỷ thống nhất ý kiến và Chủ tịch UBND TP.HCM ra quyết định) nếu không có công văn xin cán bộ của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Long An.

Để xin ông Trương Tấn Sơn về công tác tại Tỉnh uỷ Long An, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Long An trước hết sẽ gặp riêng ông Sơn đặt vấn đề và phải nhận được sự đồng ý của ông Sơn.

Sau khi ông Sơn đồng ý về công tác tại tỉnh Long An, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Long An sẽ họp, bàn, thống nhất và có văn bản gửi Ban Thường vụ Thành uỷ TPHCM xin cán bộ về tỉnh công tác” (1).

Thực tế hơn, báo Thanh Niên có bài dẫn nguồn cụ thể từ người trong cuộc “Tỉnh ủy Long An có đề nghị ông Trương Tấn Sơn về quê nhà công tác”. Đó là khẳng định của ông Nguyễn Văn Được, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Long An, tại buổi tiếp nhận ông Trương Tấn Sơn (2).

Vui nhất là không chỉ báo ta mà cả báo Tây, từ nước Nga xa xôi đang ì xèo chiến dịch quân sự đặc biệt phi phát xít hóa Ukraine, báo Sputnik tiếng Việt cũng có bài viết dài tựa đề “Lý do ông Trương Tấn Sơn về Long An”. Tổng hợp thông tin từ báo chí lề đảng Việt Nam cũng khẳng định rằng tỉnh ủy Long An đã xin ông Sơn về quê nhà (3).

Báo Lao Động nói rõ hơn kỳ vọng của Long An. “Phát biểu tại buổi công bố quyết định, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Long An Nguyễn Văn Được mong muốn, ông Trương Tấn Sơn tiếp tục phát huy sở trường, kiến thức, kinh nghiệm; phát huy tinh thần đoàn kết, thống nhất trong nội bộ; không ngừng phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Từ đó, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị tại địa phương, đơn vị” (4).

Ông Sơn là ai? Ông Sơn giỏi đến mức nào, đã làm được gì mà Tỉnh ủy Long An kỳ vọng vào ông nhiều như vậy? Thật khó có câu trả lời. Trong cả rừng thông tin na ná nhau về ông Trương Tấn Sơn chỉ có thể lọc ra một ít thông tin cụ thể như sau.

Trong chế độ cộng sản ngày vào đảng, số năm tuổi đảng là quan trọng, nhưng không thấy báo chí đưa tin ông Sơn vào đảng năm nào. Ông Trương Tấn Sơn năm nay 39 tuổi, quê ở Long An. Ông có trình độ chuyên môn là Thạc sĩ Kinh doanh quốc tế, Kỹ sư Xây dựng – địa chính; Cao cấp Lý luận chính trị.

Trước đây, Trương Tấn Sơn là Phó Tổng giám đốc Tổng Công ty Du lịch Sài Gòn TNHH một thành viên (Saigontourist).

Đầu năm 2020, khi đang là Phó Tổng giám đốc Tổng Công ty Du lịch Sài Gòn, ông Trương Tấn Sơn được UBND TPHCM điều động đến nhận công tác tại UBND quận Tân Bình (5).

Tháng 3-2020, kỳ họp thứ 13 (kỳ họp bất thường), nhiệm kỳ 2016-2021, ông Trương Tấn Sơn được HĐND quận Tân Bình, TP.HCM, bỏ phiếu bầu chức vụ Phó Chủ tịch UBND quận Tân Bình với tỉ lệ 100% tán thành.

Tháng 8-2022, Ban Thường vụ Thành ủy TP.HCM đã trao quyết định công nhận Ủy viên Ban Thường vụ Quận ủy quận Tân Bình nhiệm kỳ 2020 – 2025 đối với ông Trương Tấn Sơn, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ, Phó Chủ tịch UBND quận Tân Bình (6).

Có người thạo tin cho rằng, chức danh Phó tổng Giám đốc Tổng công ty Saigontourist chỉ là hàm cho vui, công việc thực tế của ông là Giám đốc Khách sạn Majestic sang trọng. Di sản văn hóa nổi tiếng từ thời Pháp thuộc nằm ở Bến Bạch Đằng vị trí đắc địa nhất Sài Gòn. Được quản lý nhà hàng khách sạn ấy quả là chuột sa hũ nếp. Các chức vụ tiếp theo Phó Chủ tịch UBND quận Tân Bình được bầu trong kỳ họp bất thường, công nhận thường vụ quận ủy là rõ ràng có cơ duyên, hồng ân nào từ trên đưa xuống.

Lần này cũng vậy, tự dưng Tỉnh ủy Long An đặt kỳ vọng vào tài năng, trách nhiệm, tinh thần đoàn kết của ông Phó Chủ tịch quận vô danh, chìm lỉm trong hàng ngàn ông Phó khác và long trọng tiền hô hậu ủng xin về là sự việc lạ lùng. Càng lạ lùng hơn nữa, dù đã dày công xin người, long trọng làm lễ tiếp nhận, nhưng Tỉnh ủy Long An vẫn chưa công bố sẽ giao ông Sơn trọng trách gì.

Hoàn toàn không có gì lạ nếu biết thêm Trương Tấn Sơn là Thái tử Đảng đúng nghĩa, đen nghĩa bóng. Đó là trưởng nam của nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang. Những quan chức, Tỉnh ủy Long An ai cũng biết ông Sơn về Long An để được bầu bổ sung vào Tỉnh ủy và sẽ được cơ cấu làm Bí thư Tỉnh ủy trong đại hội tới đây, vào năm 2025.

Có người thắc mắc, tại sao không để Trương Tấn Sơn yên vị, thăng tiến ở thành Hồ, mà phải vòng vo kéo về Long An? Cần lưu ý đến đại hội tới, Sơn đã 42 tuổi. Để bảo đảm có cửa lọt vô Bộ Chính trị theo tiêu chuẩn hiện hành của Tổng Trọng là (hai khóa là Ủy viên Trung ương và đủ tuổi làm Ủy viên đủ trọn một nhiệm kỳ) Sơn phải lọt vào Trung ương ngay trong khóa này.

Thành Hồ vốn là đất dữ, lắm người nhiều ma. Năm 2011, Nguyễn Tấn Dũng đang trong đỉnh cao quyền lực, Thủ tướng Chính phủ, Ủy viên Bộ Chính trị, thế nhưng tại đại hội đảng thành Hồ, Nguyễn Thanh Nghị bị rớt cả Thành ủy viên lẫn đại biểu dự đại hội đảng toàn quốc. Tại đại hội đảng toàn quốc, Dũng phải vận dụng quyền lực thỏa hiệp để Nghị được bầu vắng mặt, được một chân Ủy viên Trung ương dự khuyết.

Hiện nay đã về hưu hơn 2 nhiệm kỳ, dù có lèo lái đến mức nào, quyền lực, uy thế của Trương Tấn Sang vẫn không thể bằng Nguyễn Tấn Dũng năm 2011, đưa Trương Tấn Sơn từ Thường vụ Quận ủy lên Thành ủy viên đã khó, huống chi một vai vế cộm cán, chủ tịch hay Phó Bí thư Thường trực Thành ủy được cơ cấu vào Trung ương là chuyện hái sao trên trời.

Con đường vòng về Long An để lọt vào Trung ương lại là con đường thẳng. Ông Nguyễn Văn Được, Bí thư Long An, đến khóa sau đã hết tuổi. Trương Tấn Sang có quá nhiều “ân tình” sâu nặng, đã dành nhiều tâm lực đầu tư cho Long An. Về bề nổi, thông qua Tổng hội Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, ông đã đem về cho Long An hàng trăm cây cầu nông thôn ở các huyện biên giới, nhiều chương trình phúc lợi khác.

Khu công nghiệp Tân Đức, Đại học Tân Tạo của Đặng Hoàng Yến, đều nằm trên đất Long An. Trong đại án Việt Á, Long An bị thanh tra nhưng vững như bàn thạch, không ai bị truy tố.

Trương Mỹ Lan có hơn 60 dự án đầu tư ở Long An trong đó có trên 30 dự án đã triển khai, hầu hết đều là cướp đất của dân. Có dự án, cả ban bệ Ủy ban Nhân dân Tỉnh phải chạy lên trụ sở Vạn Thịnh Phát họp hành, ký kết. Có dự án thanh tra đã kết luận sai, Ủy ban Tỉnh ra quyết định đình chỉ nhưng huyện vẫn cứ làm bừa. Nhiều quan chức tỉnh Long An dính chàm vụ Vạn Thịnh Phát nhưng đến nay vẫn an toàn là nhờ ai, nếu không có bàn tay che trời của …

Theo gương và được sự che chở của Trương Tấn Sang, các Thái tử Đảng cấp tỉnh, cấp huyện ở Long An cũng đã sẵn sàng thay ghế cha anh. Đại hội đảng thực chất là cuộc truyền ngôi, chuyển giao chức vụ. Còn hai năm nữa mới đến đại hội, nhưng người dân Long An đã biết ông L con ông cựu Phó Chủ tịch P sẽ là chủ tịch, ông L con ông cựu Bí Thư T sẽ là Phó Chủ tịch…

Với từng ấy quan hệ, Trương Tấn Sang là Thái Thượng hoàng, quyền lực tuyệt đối ở Long An. Con đường bước lên ghế Bí thư tỉnh Long An của Trương Tấn Sơn đã trải thảm nhung.

Cơn bão báo chí lề đảng trong vụ điều chuyển Trương Tấn Sơn hoàn toàn không phải tình cờ mà là chiến thuật, bước đi trong chiến lược đưa Thái tử Đảng lên ngôi.

Thái tử Nguyễn Thanh Nghị và Nguyễn Minh Triết của Ba Dũng đã yên vị ngôi cao thì Thái tử Trương Tấn Sơn lẽ nào chịu kém!

Con cái lãnh đạo tiếp tục làm vua đó là “hồng phúc của đảng”, đồng thời cũng là thảm họa của dân tộc.

Đảng kiên trì độc quyền lãnh đạo, kiên trì mục tiêu XHCN thực chất là giữ ngai vàng cho các Thái tử Đảng.

_________

Chú thích:

  1. https://plo.vn/ly-giai-ve-quy-trinh-dieu-dong-ong-truong-tan-son-tu-tphcm-ve-long-an-post768117.html
  2. https://thanhnien.vn/tinh-uy-long-an-co-de-nghi-ong-truong-tan-son-ve-que-nha-cong-tac-185231222163203826.htm
  3. https://sputniknews.vn/20231222/ly-do-ong-truong-tan-son-ve-long-an-27257706.html
  4. https://laodong.vn/thoi-su/cong-bo-quyet-dinh-tiep-nhan-ong-truong-tan-son-ve-ban-to-chuc-tinh-uy-long-an-1283344.ldo
  5. https://dantri.com.vn/xa-hoi/ong-truong-tan-son-duoc-dieu-dong-den-nhan-cong-tac-tai-tinh-uy-long-an-20231222104736727.htm
  6. https://plo.vn/pho-chu-tich-quan-tan-binh-truong-tan-son-duoc-dieu-dong-ve-tinh-uy-long-an-post767833.html

 


 

 Mục đích của pháp luật là gì?

 Ba’o Tieng Dan

Trương Nhân Tuấn

28-12-2023

Nguyên tắc từ thời xa xưa, đến bây giờ không đổi: Luật pháp là nghệ thuật của cái thiện và (là nghệ thuật thực hiện) sự công bằng – “Jus est ars boni et aequi”.

Luật pháp Việt Nam hiện thời là một phương tiện chớ không phải là một nghệ thuật. Pháp luật Việt Nam không nhằm mục đích “hướng thiện” và nó cũng không có mục tiêu thực hiện sự công bằng.

Luật pháp Việt Nam là phương tiện để nhà cầm quyền lực trấn áp, răn đe, trả thù, cưỡng đoạt… Vụ bắt bà Ngọc Trinh về cái tội “gây rối trật tự công cộng”, rõ ràng pháp luật Việt Nam, nhứt là bộ Luật An ninh mạng, là một “nghệ thuật” biến đổi cái ảo thành cái thực. Bắt bà Ngọc Trinh nhà cầm quyền chỉ có mục đích trấn áp (và triệt tiêu) những kẻ có khả năng hướng dẫn quần chúng. Bà Phương Hằng cũng vậy.

Luật pháp Việt Nam là luật pháp thể hiện cho cái ác.

Ở Việt Nam, ta có “Tòa án nhân dân”, “viện Giám sát nhân dân”, “công an nhân dân”… Tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân… không có quyền xét xử đảng hay đảng viên.

Mục đích của Tòa án nhân dân, như cái tên gọi, chỉ nhằm xử án “nhân dân”. Viện giám sát chỉ nhằm giám sát nhân dân. Công an cũng vậy, chỉ nhằm còng tay và trấn áp nhân dân.

Các vụ án “các chuyến bay giải cứu” hay vụ “Việt Á” đang xử, hay tất cả các vụ án đã xảy ra trước đây, ta thấy các đối tượng bị xét xử không có ai là “đảng viên” hết cả.

Những đảng viên phạm tội, trước khi ra tòa xét xử, họ đã bị kỹ luật và bị trục xuất ra khỏi đảng. Tức là họ đã trở thành” nhân dân” rồi.

Tòa xét xử và tuyên án bọn họ mức án luôn tùy thuộc vào “nhân thân” tốt hay xấu, vào “thiện chí” có “thành khẩn” hay không?

Pháp luật Việt Nam vì vậy cũng không có mục đích thiết lập sự công bằng. Vì vậy cái gọi là “nhà nước pháp quyền” của Việt Nam không phải là “Etat de Droit” hay “the Rule of Law” của Tây phương. Pháp luật ở các mô hình (xây dựng quốc gia) trên đây đặt nền tảng trên nguyên tắc “Jus est ars boni et aequi”.

Việt Nam nói là “hoàn thiện nhà nước pháp quyền”. Ngay cả cái tên gọi đã thể hiện sự “quyền biến”, tức lưu manh, thì làm gì có thể xây dựng một quốc gia lành mạnh?

Luật pháp tồi tệ như vậy mới có vụ thầy chùa đem cọng lông d@i (hay lông lol) vào chùa rồi khiến Phật tử vào chiêm bái.

Ảnh: Dòng người đổ xô về chùa Ba Vàng để chiêm ngưỡng cái gọi là “xá lợi tóc”. Nguồn: Báo Công Thương

Thử coi luật pháp của cái “nhà nước pháp quyền” này xử vụ bái lạy cọng “lông d@i” như thế nào?


 

Nam Phương – Hoàng hậu cuối cùng

 

Nam Phương – Hoàng hậu cuối cùng
By Ái Thư • 19 Dec 2023 • 
View in browser
Ảnh bìa sách: Nhà xuất bản Perrin. Đồ họa: Luật Khoa.
Bạn nhận được thư này vì đã đăng ký nhận thư tin của Luật Khoa, một tạp chí độc lập về pháp luật và chính trị. Bạn có thể quản lý tài khoản tại đây.

______

Cuốn sách “Nam Phuong – La dernière impératrice du Vietnam” (tạm dịch: Nam Phương – Hoàng hậu cuối cùng của Việt Nam) của nhà sử học người Pháp François Joyaux chuyên nghiên cứu về Viễn Đông, là một nỗ lực mô tả chân dung người “quốc mẫu” Việt Nam mang quốc tịch Pháp trong những ngã rẽ lịch sử. Nam Phương hoàng hậu không chỉ là một nội tướng cai quản hậu cung, mà bà còn đóng vai trò quan trọng trong các quyết định của vua Bảo Đại.

Tác phẩm được phát hành vào năm 2019, có lời đề tựa của hoàng tử Nguyễn Phúc Bửu Sao. Cuốn sách này nổi bật hơn cả khi mà hầu hết các công trình nghiên cứu lịch sử khác chỉ tập trung vào đàn ông với những câu chuyện kẻ thắng và người thua.

Hoàng hậu – người phụ nữ của gia đình trâm anh Nam Kỳ

Phần đầu cuốn sách mô tả lịch sử lãnh thổ Việt Nam dưới thời Pháp thuộc, mà ở đó người dân Nam Kỳ được hưởng quốc tịch Pháp.

Jeanne Mariette Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan, còn được biết đến với tên thân mật Mariette, xuất thân từ một trong những dòng tộc Công giáo có ảnh hưởng nhất ở Nam Kỳ, một nơi vốn đã có sự giao lưu văn hóa của các thương nhân châu Âu. Bà sinh ra vào thời điểm Công giáo không ngừng được mở rộng tại Việt Nam nhưng cũng liên tục bị chính quyền nhà Nguyễn đàn áp.

Trong khi những phong trào chủ nghĩa dân tộc đầu tiên bùng nổ ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, thì ở miền Nam lại hình thành tầng lớp tiểu tư sản Tây hóa, đi cùng với đó là một nền kinh tế phát triển. Theo lời của tác giả, gia đình Mariette không ngần ngại chào đón những nhà thực dân. Sự giàu có của gia đình hoàng hậu đến từ ba yếu tố: người Pháp, Công giáo, và việc thực dân hóa An Nam ở vùng đồng bằng.

Một tiểu thư lá ngọc cành vàng mang quốc tịch Pháp 

Gia đình của hoàng hậu được du học từ sớm, không chỉ ở Pháp mà còn ở các nước Đông Nam Á. Từ khi sinh ra, bà đã mang quốc tịch Pháp do đặc thù lịch sử. Cha của bà Nam Phương thành thạo tiếng Pháp, một lòng với Công giáo, và có năng lực xuất chúng, nên đã trở thành cánh tay phải của một địa chủ lớn và rồi trở thành con rể của ông ấy. Ông ngoại bà là người có công xây dựng nhiều nhà thờ cũng như tài trợ cho các trại trẻ mồ côi, trường học, các công trình từ thiện, v.v.

Bà lớn lên cùng vú em người Senegal trong một môi trường giáo dục kiểu Pháp, bà ăn mặc và sống trong ngôi nhà mang phong cách châu Âu.

Năm 1925, vua Khải Định băng hà. Điều này chẳng ảnh hưởng gì lắm đến Sài Gòn, nhưng rồi sẽ tác động rất lớn tới cuộc đời bà Nam Phương trong tương lai. Thời điểm này, phu quân tương lai của bà là thái tử Vĩnh Thụy chính thức lên ngôi vua.

Năm 1927, bà sang Paris theo học tại tu viện Oiseaux, nơi người chị gái ruột Agnes từng theo học. Gia đình mong muốn bà học ở môi trường thành thị và phải nói được tiếng Pháp hoàn hảo. Tu viện này là một ngôi trường của giới tinh anh, đòi hỏi học viên phải có tính kỷ luật cao. Gia đình người chú Lê Phát Vĩnh góp phần chăm sóc Mariette trong khoảng thời gian này.

Mariette say mê lịch sử, hội họa, và âm nhạc. Tuy vậy thính giác của bà không được tốt. Điều này dẫn tới việc bà gặp khó khăn khi kết giao bạn bè. Bà là một người có phần rụt rè, song lại hiếu thuận, thông minh, và sống tình cảm. Cho dù là một con chiên của Thiên Chúa giáo, bà vẫn thấm nhuần những giá trị Nho giáo. Khi ở Roma, bà mặc trang phục Việt, giữ gìn những nét Việt nhiều nhất có thể.

Thời điểm đó, thái tử Vĩnh Thụy cũng đang theo học ở Paris. Ông được vua cha cử cho một giáo viên dạy Hán Nôm riêng. Bà Mariette và ông Vĩnh Thụy cùng rời Pháp vào năm 1932 sau khi kết thúc chương trình học, lúc này bà 19 tuổi.

Ngay cả khi được sinh ra và được giáo dưỡng trong một gia đình Tây hóa giàu có, có kết quả học tập rất xuất sắc, và vô cùng quyến luyến với Paris, thì người phụ nữ ấy cũng không có cơ hội theo đuổi giáo dục bậc cao mà buộc phải về nước.

Khi Mariette trở về nước, Đông Dương đã có nhiều sự đổi thay. Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929 đã gây ra những hậu quả trầm trọng, cuộc nổi dậy ở Yên Bái năm 1930 đã khiến mảnh đất thuộc địa đảo điên. Bất chấp như vậy, Sài Gòn vẫn chẳng hề có biến động gì. Hầu như chẳng có sự kết nối giữa Sài Gòn và kinh thành Huế.

Cuộc hôn nhân Công giáo – Phật giáo sắp đặt

Người Pháp kiểm soát việc thành thân của Bảo Đại. Lịch sử trước đó đã khiến người Pháp cảnh giác với những ông vua Nguyễn “nổi loạn” như Hàm Nghi, Duy Tân. Việc chọn hoàng hậu vì thế mà vô cùng quan trọng.

Người chị của Mariette kết hôn với một thuyền trưởng người Pháp. Gia đình trông mong Mariette cũng sẽ cưới được một doanh nhân hay một người Pháp, nhưng rồi bà trở thành hoàng hậu.

Toàn quyền Đông Dương Pierre Pasquier cho rằng kết hôn sẽ khiến hoàng tử ổn định. Theo tác giả, việc người Pháp chọn Mariette cũng là để phần nào hiện thực hóa công cuộc “Thiên Chúa hóa” mảnh đất Đông Dương của người Pháp.

Bà gặp Bảo Đại tại một bữa tiệc ở Đà Lạt, một khung cảnh hào nhoáng không phù hợp với tính cách của bà, nhưng do người chú một mực yêu cầu có mặt nên Mariette không thể nào từ chối.

Mariette và thái tử Vĩnh Thụy nói chuyện bằng tiếng Pháp. Bà cũng không ngại ngần nói với vị thiên tử, rằng bà có vấn đề về thính giác. Họ không chỉ môn đăng hộ đối, mà còn tâm đầu ý hợp. Đặc biệt, vị toàn quyền Đông Dương Pasquier hài lòng với việc lựa chọn Mariette bởi gia đình bà trung thành với chính quyền Pháp. Hoàng gia thì không hoàn toàn hài lòng vì người con gái ấy mang tôn giáo khác với gia đình.

Cuộc hôn nhân này phải hỏi ý kiến từ phía Vatican. Tòa Thánh chỉ chấp thuận với hai điều kiện: vua phải tôn trọng tự do tôn giáo của hoàng hậu, và con cái của họ phải được nuôi dạy theo cách Công giáo. Phía Vatican đặt nặng yêu cầu tôn giáo do họ từng mất nước Anh cũng vì lý do hôn nhân tôn giáo vào thế kỷ 16.

Hoàng gia ở Huế không thể nào chấp nhận việc cải đạo của nhà vua. Hoàng thái hậu Từ Cung kịch liệt phản đối. Bà không chỉ khó chịu vì vấn đề tôn giáo, mà đó còn là vì một người nữ Tây học, mang quốc tịch Pháp, giàu có và không biết gì tới những lễ tắc hoàng cung. Sự thiếu thiện cảm của gia đình đi theo hoàng hậu suốt cuộc đời.

Các quan lớn trong triều đình cũng tỏ ý phản đối, trong đó có thể kể đến Thượng thư Bộ Lễ Tôn Thất Hân. Ông cảnh báo về sự can thiệp của tôn giáo vào chính trị sẽ khiến hoàng gia không trụ vững.

Từ Paris hoa lệ tới Tử Cấm thành

Vua Bảo Đại cuối cùng tuyên bố phá bỏ những rào cản truyền thống để tiến hành hôn lễ với Mariette vào năm 1934. Cái tên Nam Phương mang ý nghĩa hương thơm của xứ Nam, là do vua Bảo Đại đặt cho. Với việc sắc phong Mariette Nguyễn Hữu Thị Lan là hoàng hậu, vua còn phá bỏ quy định từ thời Gia Long: chỉ phong hoàng hậu cho người mẹ của vị vua kế tiếp. Trước đó, chỉ khi người vợ của vua có con trai nối dõi mới được phong. Minh Mạng có 142 người con từ 30 phi tần. Nam Phương là người vợ chính tắc duy nhất của vua. Như vậy Bảo Đại dám phá bỏ chế độ đa thê của hoàng gia. Điều đó cũng có nghĩa là con của Mariette sẽ lên ngôi. Năm 1936, thái tử Bảo Long ra đời.

Chính vua đã gửi thư tới Giáo hoàng, cho rằng cần phải xóa bỏ những rào cản Đông – Tây. Cuối cùng thì đôi vợ chồng hoàng gia cũng nhận được lời chúc phúc của Giáo hoàng. Qua mô tả và phân tích của tác giả, người phụ nữ thuộc dòng họ thế phiệt Mariette Nguyễn Hữu Thị Lan không hề có tiếng nói trong cuộc hôn nhân này.

Là người yêu thiên nhiên, hoàng hậu gắn bó với Đà Lạt. Quan chức phong kiến không quen với việc nhìn thấy một bà hậu chơi tennis, chơi golf, và bắn súng Tây.

Hoàng hậu hạn chế lễ nghi Phật giáo, lại thường xuyên trò chuyện với thái tử bằng tiếng Pháp, rồi còn cùng cầu nguyện mỗi ngày. Hoàng hậu nỗ lực để Bảo Long sớm chính thức thành thái tử, danh hiệu ấy giúp củng cố vị thế của chính bà.

Đóng góp của Nam Phương

Hoàng hậu không chỉ tham gia các hoạt động vốn được xem là dành cho nữ giới như y tế, giáo dục, mà còn tích cực tham vấn cho chồng về các chính sách dân sinh. Tuy nhiên, vai trò và ảnh hưởng của bà thường khá lu mờ.

Bà muốn thoát khỏi cái bóng cai quản hậu cung, khao khát được vi hành. Theo tác giả, bà có vai trò lớn trong việc xây dựng những trung tâm Công giáo tại Đà Lạt.

Việc bà cùng vua Bảo Đại tiếp đón vua Norodom Sihanouk của Campuchia hay vua Sisavang Vong của Lào ở Huế là những điều chưa từng có trong tiền lệ ở An Nam – vốn chưa bao giờ cho phép phụ nữ diện kiến cùng nhà vua trong những dịp như vậy.

Tác giả mô tả hoàng hậu qua cái nhìn của những chính khách và nhà báo Pháp. Các con của họ vừa được hưởng giáo dục truyền thống của hoàng gia, vừa được Nam Phương chỉ dạy theo lối Pháp.

Trong những thời khắc gian truân nhất, hoàng hậu vẫn luôn ưu tiên che chở cho những người con của mình. Bảo Đại tuyên bố độc lập khỏi Pháp và lấp đầy bộ máy bằng những nhân vật theo Nhật. Điều khiến hoàng hậu lo ngại có lẽ đó là một thứ rượu cũ bình mới: chỉ là thay tên gọi “bảo hộ” bằng “độc lập”.

Trở thành cựu hoàng hậu

Hoàng hậu không do dự chấp nhận mình là phu nhân của cố vấn chính phủ cách mạng Vĩnh Thụy, tự nguyện đóng góp trang sức của mình cứu trợ đồng bào nạn đói theo tiếng gọi của Việt Minh, nhưng đâu ngờ rằng của cải ấy được dùng để mua vũ khí. Và nhanh chóng sau khi nắm quyền, những người mà cựu hoàng hậu ủng hộ đã bắt giữ mục sư Công giáo. Ở cung An Định, bà sống trong sự kiểm soát của những người mà bà hết lòng ủng hộ. Và khi ngay cả không phải là đất bảo hộ của Pháp, hay đất độc lập theo cách của Nhật, thì tự do hay an toàn vẫn chưa thực sự đến.

Kể từ năm 1946, cựu hoàng hậu tự mình đạp xe trên những con đường Huế, trở nên thân cô thế cô hơn bao giờ hết. Người phụ nữ đã sống những năm gian truân nhất của cuộc đời vào cuối năm 1945, nhất là khi vua Bảo Đại đã tị nạn tại Trung Quốc năm 1946, để lại bà và năm người con ở Huế. Gia đình lớn của hoàng hậu, cũng giống như biết bao gia đình khác trên đất Việt, cũng tan đàn xẻ nghé vì những lý tưởng chính trị khác nhau, mà cụ thể là theo hay không theo Việt Minh. Những người bạn của bà, cũng bị Việt Minh bỏ tù hoặc biến mất.

Lựa chọn sống lưu vong

Là một tín đồ Công giáo, bất kể tình huống gì bà cũng nghĩ tới và tìm đến nhà thờ. Bà chấp nhận trở thành cố vấn cấp cao của Liên bang Công giáo miền Trung.

Trái với nhiều tài liệu của Đảng Cộng sản Việt Nam sau này, vị hoàng hậu cuối cùng và người thân không hề cảm thấy an tâm và an toàn trước sự có mặt của Việt Minh.

Cựu hoàng hậu là linh hồn của kế hoạch Công giáo nhằm cứu vãn tình thế. Tuy thất bại, nhưng Nam Phương muốn phục hồi lại nền quân chủ với sự hậu thuẫn của giới Công giáo và với con trai bà là hoàng đế kế nhiệm.

Bất chấp sự phản đối của thái hậu về việc đi tị nạn ở nước ngoài, hoàng hậu đã tự cứu mình. Những người truyền giáo Quebec nói tiếng Pháp tại Huế đã cứu giúp gia đình Nam Phương. Thái tử Bảo Long đi trước, hoàng hậu và bốn người con còn lại đi sau. Sáu mẹ con đã an toàn rời khỏi Huế khi cuộc chiến Việt Minh và Pháp nổ ra.

Tháng 4 năm 1947, quân đội Pháp hộ tống bà tại Đà Nẵng, bà được đưa tới Đà Lạt bằng máy bay quân sự. Bốn tháng sau, bà được đưa tới Hồng Kông, bà gặp Vĩnh Thụy rồi qua Pháp sống lưu vong.

Từ năm 1948, Bảo Đại và người Pháp thương lượng rất nhiều về tương lai của Việt Nam. Bà đồng hành với chồng ở Geneve. Dù không thể về lại Việt Nam, bà vẫn hàng ngày cầu nguyện cho nền hòa bình của nước nhà, theo dõi sát sao tình hình chính trị Đông Dương. Bà vẫn là người chịu trách nhiệm cho việc nuôi dạy các con, đồng thời bắt đầu đầu tư tại châu Phi.

Khi Bảo Đại trở thành quốc trưởng sau hiệp ước Vịnh Hạ Long năm 1948 và trở về Đông Dương năm 1948, bà Nam Phương vẫn ở lại Pháp cùng các con. Trong những tháng ngày tại Pháp, bạn bè của cựu hoàng hậu chủ yếu người Pháp và rất hiếm có người Việt.

Bà sống cô đơn, nhất là khi cuộc sống đa thê cũng theo Bảo Đại sang Pháp. Khi Thái tử Bảo Long tham chiến ở Algeria, cựu hoàng Bảo Đại sống ở vùng Alsace, còn Nam Phương sống tương đối ẩn dật ở vùng Chabrignac, Corrèze, cách thủ đô Paris khoảng 500 km.

Nhưng bà vẫn không xa rời chính trị Việt Nam và thường xuyên gặp gỡ các chính khách trong và ngoài nước khi họ tìm gặp bà ở Pháp. Theo lời tác giả, tài trí và nhân cách của có được sự nể trọng của những chính khách mày râu, như anh em Ngô Đình Diệm hay Cường Để. Nguyện ước của bà là một ngày nào đó sẽ lại thấy An Nam phục hồi và phục sinh (Annam ressuscité et rajeuni). Do đó, cựu hoàng hậu kịch liệt phản đối sự dựa dẫm vào Mỹ của nhà Ngô.

Tác giả kết luận rằng lịch sử cần phải có cái nhìn công bằng với cựu hoàng hậu tài sắc vẹn toàn và yêu nước. Bản thân bà cũng là một người lãnh đạo thực thụ, một chính khách nữ đáng khâm phục. Bà nên phải được phong là một người hùng của đất nước Việt Nam đương đại. Những người viết sử ngày nay cũng cần nỗ lực đòi lại công bằng cho những người phụ nữ bị lép vế trong lịch sử.

Bạn có thấy nội dung của Luật Khoa hữu ích?

Luật Khoa làm báo trung thực và không kiểm duyệt. Chúng tôi nói không với quảng cáo để bạn có trải nghiệm đọc báo tốt nhất. Và chúng tôi làm báo phi lợi nhuận.

Nếu bạn thấy Luật Khoa có ích, hãy cân nhắc ủng hộ các tác giả bằng cách nâng cấp lên gói Member ($2/tháng) hoặc Supporter ($5/tháng) để đọc tất cả các bài, nhận các số báo tháng (PDF, EPUB) và truy cập vào Thư viện Luật Khoa.

Còn nữa: Luật Khoa trích 1% số tiền của bạn để đóng góp cho chương trình bảo vệ môi trường của Stripe.


From: Bang Uong

Côn An bị tù vì hành hình làm chết tù nhân tại trại giam

Theo Đài RFA tiếng Việt

Ba cựu công an tỉnh Thái Bình vào ngày 28/12 nhận tổng cộng hơn 22 năm tù giam vì đã sử dụng nhục hình đối với người bị giam giữ.

Cụ thể ông Phạm Quang Hùng- nguyên Đội trưởng Đội Cảnh sát thi hành án hình sự & hỗ trợ tư pháp, Phó Trưởng Nhà tạm giữ Công an huyện Vũ Thư bị án 11 năm tù; ông Trịnh Thanh Hùng- nguyên Phó Đội trưởng Đội Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp, Công an huyện Vũ Thư bị án 10 năm tù; ông Nguyễn Trọng Giáp- cán bộ Nhà tạm giữ Công an huyện Vũ Thư bị án 15 tháng tù.

Phiên xử ba cựu công an vừa nêu được Tòa án tỉnh Thái Bình tiến hành công khai.

Hai ông Phạm Quang Hùng và Trịnh Thanh Hùng bị khởi tố và bị bắt vào tháng 11/2022.

Ba cựu công an Thái Bình bị án tù vì tội “dùng nhục hình”

Lúc đó Công an Thái Bình cho biết hai người bị bắt do liên quan đến việc một nam nghi phạm tên Bùi Văn Bích sinh năm 1974, trú tại xã Trung An, huyện Vũ Thư chết bất thường tại nhà tạm giữ công an huyện Vũ Thư hồi cuối tháng 2/2022.

Sự việc được phát giác khi vợ ông Bích gửi đơn tố giác tội phạm đến các cơ quan tố tụng Trung ương, tỉnh Thái Bình về việc chồng bà là người đang bị tạm giam đã chết bất thường tại Công an huyện Vũ Thư. Đơn tố cáo nêu vào ngày 19/9/2021, Công an huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình đến nhà và yêu cầu hai vợ chồng bà đến trụ sở để điều tra về việc chồng bà. có dấu hiệu của tội môi giới mại dâm.

Sau khi Công an lấy lời khai, bà vợ được cho về nhưng ông Bích bị giữ lại cho đến tháng 2/2022. Trong suốt sáu tháng bị tạm giữ tại đồn công an, gia đình bà không được gặp ông Bích lần nào. Đến ngày 20/2/2022 bà vợ nhận được cuộc gọi từ Công an xã Trung An và được người này chuyển cho số điện thoại của một cán bộ Công an huyện Vũ Thư. Bà gọi cho người cán bộ này và được cho biết chồng ba bỏ ăn, ngất xỉu và được đưa đến Bệnh viện Đa khoa huyện Vũ Thư để cấp cứu và yêu cầu bà đến chăm sóc. Bà lập tức đến bệnh viện nhưng nhận được tin chồng bà đã tử vong.

Cáo trạng cho biết khi ông Bích bị giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Vũ Thư, hai quản giáo Trịnh Quang Hùng, Trịnh Thanh Hùng trực từ ngày 27/1/2022 đến 5/2/2022 không báo cáo lãnh đạo để xử lý theo quy định mà tự ý chỉ đạo các bị can, phạm nhân khác cưỡng bức ông Bích. Còn ông Nguyễn Trọng Giáp, quản giáo ca trực ngày 4/2/2022 đã dùng tay đánh nhiều lần vào mặt, vào đầu ông Bích khi ông này đang bị khóa cố định trên ghế để thẩm vấn.

Tình trạng người dân chết khi đang bị giam tại nhà tạm giữ công an vẫn thường xuyên xảy ra. Theo con số thống kê mà RFA tổng hợp được dựa trên thông tin được công bố bởi truyền thông nhà nước, từ năm 2018 đến hết năm 2021, có ít nhất 16 trường hợp người chết trong đồn công an hoặc trại giam.

Việt Nam đã ký Công Ước Chống Tra Tấn của Liên Hợp Quốc vào ngày 7/11/2013 và được Quốc Hội Việt Nam phê chuẩn vào ngày 28/11/2014. Đây được cho là một trong chín công ước cốt lõi về quyền con người của Liên Hợp Quốc.

Nhiều năm gần đây, các tổ chức xã hội dân sự và nhân quyền quốc tế lên án tình trạng công an sử dụng bạo lực đối với người dân đang trở nên ngày càng nhiều tại Việt Nam. Tuy vậy, tại phiên điều trần với Ủy ban Chống Tra tấn của Liên Hiệp Quốc tại Geneva, Thụy Sĩ hôm 15 tháng 11 năm 2018, đại diện chính phủ Hà Nội đã bác bỏ các cáo buộc về những vụ nhục hình trong các trại tạm giam và đồn công an.

Trung Quốc nhấn mạnh tầm chiến lược của cộng đồng chung tương lai với Việt Nam

Theo Đài VOA tiếng Việt

Bộ Quốc phòng Trung Quốc hôm 28/12 cho biết rằng tuyên bố chung giữa Bắc Kinh và Hà Nội về việc xây dựng “cộng đồng chia sẻ tương lai” mang “ý nghĩa chiến lược”, theo Reuters.

Người phát ngôn của Bộ này, ông Ngô Khiêm, nói như vậy tại một buổi họp báo khi đề cập tới tuyên bố chung mà Trung Quốc và Việt Nam đưa ra trong chuyến thăm của Chủ tịch Tập Cận Bình tới Hà Nội giữa tháng này.

Người phát ngôn Bộ Quốc Phòng Trung Quốc Ngô Khiêm tại một cuộc họp báo ở Bắc Kinh hôm 31/8.

Tuyên bố chung, được công bố hôm 13/12, nói rằng hai quốc gia Cộng sản láng giềng nhất trí xây dựng “cộng đồng chia sẻ tương lai có ý nghĩa chiến lược, nỗ lực vì hạnh phúc của nhân dân hai nước, vì sự nghiệp hòa bình và tiến bộ của nhân loại.”

“Cộng đồng chia sẻ tương lai”, còn được Trung Quốc gọi là “cộng đồng chung vận mệnh”, là một khẩu hiệu chính trị được Đảng Cộng sản ở Bắc Kinh sử dụng để mô tả mục tiêu chính sách đối ngoại của Trung Quốc.

Ông Tập cho biết trong bài xã luận đăng trên tờ Nhân Dân của Việt Nam, ngay trước khi tới Hà Nội, rằng ông đề xuất khái niệm “Cộng đồng chia sẻ tương lai nhân loại” cách đây 10 năm.

Sách Trắng về “Cộng đồng chia sẻ tương lai toàn cầu”, do Bộ Ngoại giao Trung Quốc công bố hồi tháng 9 vừa qua, nói rằng đề xuất này của ông Tập nhằm “soi sáng con đường phía trước khi thế giới loay hoay tìm giải pháp” và “thể hiện sự đóng góp của Trung Quốc trong nỗ lực toàn cầu nhằm bảo vệ ngôi nhà chung của chúng ta và tạo ra một tương lai thịnh vượng tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người.”

Sách Trắng còn nói rằng “tầm nhìn này ngày càng được củng cố” trong một thập kỷ qua. Trong khi một số nước trong khu vực được cho là đã tham gia cộng đồng này nhưng Việt Nam luôn chần chừ vì không muốn quá phụ thuộc vào Trung Quốc, nước mà Việt Nam có tranh chấp chủ quyền, theo các nhà quan sát.

Trước chuyến thăm của ông Tập tới Việt Nam, các lãnh đạo Trung Quốc đã nhiều lần nói về việc Bắc Kinh sẵn sàng xây dựng cộng đồng này với Việt Nam. Trong chuyến thăm tới Hà Nội đầu tháng này để chuẩn bị cho chuyến thăm của ông Tập, Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị nói với lãnh đạo ở Hà Nội rằng Trung Quốc và Việt Nam có chung khát vọng và vận mệnh.

Các chuyên gia nói rằng Việt Nam chấp thuận tham gia “cộng đồng chia sẻ tương lai” với Trung Quốc thay cho tầm nhìn “cộng đồng chung vận mệnh” do tính nhạy cảm của ngôn từ và do tâm lý chống Trung Quốc ở trong nước.

Còn Thạc sỹ Hoàng Việt, chuyên gia nghiên cứu Biển Đông và tranh chấp quốc tế, nói với VOA tuần trước rằng đây là một thỏa hiệp của Việt Nam với Trung Quốc để cân bằng mối quan hệ sau khi nâng cấp hai bậc với Mỹ thành đối tác chiến lược toàn diện.

Sau khi Việt Nam và Trung Quốc thống nhất xây dựng “Cộng đồng chia sẻ tương lai”, Bộ Ngoại giao Mỹ nói với VOA rằng Hoa Kỳ và Việt Nam cùng “chia sẻ mục đích và tầm nhìn về một khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương an toàn, thịnh vượng và rộng mở.”

Mỹ đã ủng hộ mạnh mẽ Việt Nam trong việc duy trì trật tự trên Biển Đông theo luật pháp quốc tế và chống lại những hoạt động quân sự hóa của Trung Quốc trên vùng biển đầy tranh chấp này.

Diễn giải về “Cộng đồng chia sẻ tương lai” với Trung Quốc, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Thu Hằng hôm 14/12 cho biết hai bên nhất trí rằng phát triển quan hệ hai nước cần tuân thủ Hiến chương Liên Hợp Quốc, luật pháp quốc tế và chuẩn mực cơ bản trong quan hệ quốc tế. Bà Hằng còn nói rằng Trung Quốc và Việt Nam thống nhất “tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, kiên trì giải quyết các bất đồng thông qua biện pháp hòa bình.” Theo người phát ngôn Việt Nam, đó là “tương lai chung mà hai bên chia sẻ và hướng đến.”

Tại cuộc họp báo ở Bắc Kinh hôm 28/12, ông Ngô nói rằng Trung Quốc và Việt Nam sẽ tăng cường trao đổi về nghĩa vụ quân sự và vũ khí, theo Reuters. Tuy nhiên, người phát ngôn Bộ Quốc phòng Trung Quốc không cho biết thêm chi tiết về những sự trao đổi này.

Bộ Quốc phòng ở Bắc Kinh hôm 13/12 cho biết Trung Quốc và Việt Nam đã nhất trí tăng cường hơn nữa hợp tác quốc phòng. Tuyên bố của Bộ này, đưa ra cùng ngày ông Tập kết thúc chuyến thăm Hà Nội, nói rằng Trung Quốc và Việt Nam “sẽ tiếp tục tăng cường hợp tác phòng thủ biên giới, tiếp tục thực hiện các cuộc tuần tra chung ở Vịnh Bắc Bộ và các chuyến thăm lẫn nhau của các tàu chiến, đồng thời tăng cường cơ chế hợp tác và trao đổi giữa hải quân và lực lượng bảo vệ bờ biển của hai nước.”


 

Hang đá

Lê Vi

Hôm nay đúng ngày 24.12, tối nay có lễ trọng của người theo đạo Thiên chúa – lễ Noel.

Cứ theo lịch sử Thiên Chúa giáo (còn gọi là đạo Gia Tô) thì Đức Chúa Jesus (Giê Su) sinh ngày 25.12, cách nay 2023 năm. Ngày sinh của ngài đã được cả nhân loại thừa nhận là khởi thủy, mở đầu cho công lịch, dù rằng thế giới cũng tồn tại song song Phật lịch (Phật đản) hoặc lịch Hồi giáo (ngày của thánh Muhammad)…

Dẫu trong đám chúng ta theo hay không theo đạo Gia Tô, không thờ Đức chúa Jesus thì đạo của ngài vẫn gắn bó với mỗi người, ít nhất là ngày tháng năm sinh được ghi trong giấy khai sinh, chứng minh thư, thẻ căn cước, hộ chiếu, lý lịch, v.v.. đều căn theo lịch tính ngày tháng năm liên quan tới ngày sinh của ngài.

Hôm nay lễ Giáng sinh, mừng ngày ngài ra đời. Sinh có nghĩa là sinh đẻ, sinh ra; giáng nghĩa là từ trên hạ xuống, bay xuống. Tiên giáng trần là tiên từ trên trời hạ xuống trần gian, xuống cõi trần tục của người đời. Vua (bệ hạ) giáng lâm để nói về con người có uy như thần thánh xuống chốn nhân gian vậy. “Giáng thế” nghĩa là thánh thần tiên phật bụt xuất hiện trên thế gian cứu giúp chúng sinh. Chúa Jesus sinh ra ở trên đời bởi được Đức Chúa Trời cử xuống che chở cho con người, nên gọi cuộc sinh nở vĩ đại này gọi là Giáng sinh.

Ngày ngài Giáng sinh, 25.12, là lễ trọng, lớn nhất, đặc biệt nhất của người theo đạo Gia Tô. Ngày này, người ta còn gọi bằng những cách gọi khác như “lễ Thiên chúa giáng sinh”, “lễ Noel”, “Christmas”… Có lẽ do quan niệm và phong tục, nhưng cũng có thể do sốt ruột chờ đón lễ trọng, nên ngay từ tối 24.12 bên đạo đã làm lễ vọng, Noel diễn ra vào tối 24 chứ không phải 25 chính vì vậy.

Tương truyền, sau khi Đức mẹ Maria sinh ra ngài, ngài được nuôi nấng trong hang đá, nằm trong máng cỏ, có những con dê, cừu tới dâng sữa nuôi ngài. Hang đá đã trở thành thứ biểu tượng linh thiêng phổ biến nhất trên toàn thế giới. Hầu như mọi nhà thờ trên quả địa cầu này, dù thánh địa to hay nhỏ, đều có hang đá. Tháp chuông uy nghi để cứu rỗi linh hồn con người, còn hang đá là nơi để người ta tới chiêm bái, biết ơn, tưởng nhớ một vĩ nhân đã ra đời.

Tôi sống ở Sài Gòn đã gần nửa thế kỷ, mấy chục năm ở gần khu vực đặc biệt của đạo Gia Tô, đường Phạm Thế Hiển, nơi cộng đồng Thiên chúa giáo dày đặc, chứng kiến nhiều lễ Giáng sinh thật vui tươi, sống động.

Cũng cần nói thêm, năm 1954, sau khi cộng sản chiến thắng ở miền Bắc, hiệp định Geneve được ký kết, hơn 1 triệu người, hầu hết là tín đồ Công giáo đã bỏ quê hương bản quán để vào miền Nam. Đó là cuộc di cư vĩ đại chưa từng có kể từ thời Lạc Long Quân đem con xuống biển sinh sống. Nó chỉ sau cuộc di cư vĩ đại hơn với gần 3 triệu người bỏ nước ra đi những năm sau 1975. Lý do duy nhất của cả hai cuộc là chạy trốn cộng sản. Tất nhiên, theo người cộng sản tuyên truyền, việc người miền Bắc, nhất là giáo dân Thiên chúa chạy vào Nam là bởi sự xúi giục của các thế lực phản động, âm mưu của CIA… nhưng về sau này thì cả người đi lẫn người ở lại hiểu rằng đi là thượng sách. Cách đối xử của người cộng sản vô thần đối với đạo Thiên chúa, với giáo dân, với nhà thờ, cơ sở thờ tự, v.v.. sau năm 1954 cũng như sau 1975 đã cho người ta thấy nếu ở lại cũng không khác gì bỏ đạo, không khác gì bị chính quyền rút phép thông công.

Dân di cư 1954 vào Nam tập trung chủ yếu ở 2 khu vực: Miền Đông Nam Bộ, nhiều nhất là vùng Xuân Lộc, Biên Hòa, Gia Kiệm (đều thuộc tỉnh Đồng Nai) và Sài Gòn. Tại thành phố này, người di cư hầu như dồn về vùng ven kênh Đôi, phía tây nam thành phố, sống dọc theo đường Phạm Thế Hiển, và khu vực quận Gò Vấp, chỗ đường Thống Nhất, Phạm Văn Chiêu bây giờ, cứ vài trăm mét lại có một nhà thờ bề thế, hoành tráng. Phạm Thế Hiển là một trong số ít con đường dài nhất thành phố, bắt đầu từ cầu chữ Y kéo qua quận 4, quận 8 nối xuống tít huyện Bình Chánh. Tôi có lần đã sửng sốt khi chạy xe máy dọc con đường để khám phá nó, giời ạ, dài tới mức nhà đánh số tới hơn 3.000. Chưa có đường phố nào mà số nhà tới 4 con số, như Phạm Thế Hiển.

Cộng đồng giáo dân ở Phạm Thế Hiển quận 8 sống rất yên bình, ít tệ nạn xã hội, khác hẳn so với bên quận 4 lừng tiếng dữ dằn, chém người như ngóe. Cứ đi vài trăm mét lại có nhà thờ, lớn nhỏ khác nhau nhưng đều tạo cảm giác cuộc sống an yên, tâm hồn được giải thoát khỏi những vướng víu trần tục, đau khổ. Cứ mỗi mùa Giáng sinh, vùng đạo Phạm Thế Hiển sinh sắc hẳn lên, trở thành nơi cuốn hút người từ mọi nơi đổ về, nhất là đám trẻ. Suốt cả tuần trước ngày Giáng sinh, cứ nườm nượp nườm nượp, ngựa xe như nước áo quần như nêm, vui trong hồng ân của Thiên chúa. Hồi cầu Nhị Thiên Đường chỉ mỗn cây cầu cũ, có đêm tôi đi làm về không tài nào lách nổi qua cầu, đành phải quay lại ngủ bàn cơ quan, muỗi đốt một phen nhớ đời.

Nét đặc biệt nhất của khu đạo Phạm Thế Hiển là hang đá. Dẫu biết trong tâm hồn mỗi con chiên của Chúa đã có hang đá linh thiêng rồi nhưng mùa lễ trọng, người ta thi nhau trổ tài xây hang, làm hang. Không phải để ganh đua, hơn thua, con gà hơn nhau tiếng gáy (người theo đạo không mang thói tục tầm thường ấy như thường thấy ở người vô đạo) mà để cùng nhau tô điểm nước Chúa đẹp đẽ rộn ràng hơn. Nhà thờ có hang đá, tất nhiên rồi, nhưng hầu như mỗi nhà, gia đình mặt tiền phố, hoặc vài nhà liền nhau, đều làm hang đá, cùng nhớ ngày Chúa chào đời, tạo nên phố hang đá thật ấn tượng.

Trên những hang đá hoặc vòm cao mặt tiền nhà thờ thường có dòng chữ latin “Emmanuel”, tôi người ngoại đạo nên không hiểu nghĩa, có lần mạo muội hỏi vị linh mục nhà thờ Bình Thái đường Phạm Thế Hiển, quận 8, Sài Gòn nghĩa là gì. Ông đang bận chuyện trò với mấy giáo dân khi lễ đã tan, giải nghĩa rằng đó là “Chúa ở cùng chúng ta”. Chúa luôn hiện hữu trong mọi con người, trong cuộc sống hằng ngày.

Bài này chỉ nói tới hang đá nhà thờ, chứ nước ta cũng còn thứ hang đá nữa, đang dần dần phai nhạt, chả mấy người quan tâm. Mộ đá lại càng không bàn, nhất là khi lòng ta đang kính cẩn hướng về Chúa, nhà thờ, hang đá, Noel, Giáng sinh.

– Nguyễn Thông

Hình minh hoạ