Tuổi 33 và tuổi 69

Ba’o Nguoi-Viet

January 7, 2024

Lê Tây Sơn / SGN

“Ở tuổi 33, chúng ta tưởng mình biết tất cả. Đến tuổi 69, chúng ta biết được một điều quan trọng hơn nhiều: Không biết gì hết!”.

Anne Lamott, một tiểu thuyết gia và nhà văn phi hư cấu người Mỹ đã nói như thế. Cuốn sách mới nhất của bà, “Somehow: Thoughts on Love” sẽ có mặt tại các cửa hiệu sách vào Tháng Tư, 2024.

Càng già càng thấy mình… chẳng biết gì!

Bạn thức dậy ở tuổi già 69 và cảm thấy có nhiều thứ khủng khiếp. Bạn chịu không nổi những tin tức thời sự máu me, nhưng không thể tắt nó đi, giống như một người bị rắn hổ mang thôi miên đến bất động.

Nào là xung đột Gaza-Israel, chiến tranh Ukraine, vụ xả súng ở tiểu bang Maine ở Mỹ và nhiều nữa. Thế giới tối tăm như một… con bọ hung!

Bạn có hai “sự kiện” quan trọng trong tuần này? Một người bạn thân đang chờ ghép gan hấp hối trong bệnh viện chờ bạn ghé thăm, nhưng bạn không đủ sức để lái xe 90 phút đến gặp bà ấy. Thứ hai là cơ thể bạn bỗng nhiên rất đau nhức khi bước ra khỏi giường và phải đi khập khiễng cho đến khi không còn thấy đau nữa, hay đã thích nghi được với nó.

Tệ hơn nữa, tâm trí bạn cũng đau theo, trái tim cũng đau và có lúc bạn ghét hết mọi người, trừ chồng, cháu trai và con chó cưng!. Cách đây 20 năm khi ở độ tuổi 30 bạn không nghĩ mình có thể chịu đựng được tất cả những rắc rối này và tưởng mình đã biết rất nhiều về cuộc sống. Nhưng khi chúng ta biết là mình “không biết nhiều” thì đó là lúc chúng ta đã già!

Tuổi tác chồng chất cho phép bạn làm điều gì đó mà không thể đoán trước nó sẽ diễn ra như thế nào và kết thúc ra sao, vì sức khỏe mỗi ngày mỗi khác. Trong nhiều bức tranh phương Tây của danh hoạ Albert Bierstadt, có bóng tối ở một bên, có thể là ngọn núi hoặc cái bóng của nó.

Sau đó, ở giữa là động vật ăn cỏ hay uống nước từ hồ hoặc suối. Và rồi ở ngoài cùng bên phải hoặc trên bầu trời, những tia sáng trông giống như những chiếc khăn choàng vắt ngang vai những ngọn núi. Bóng tối bao la có nói với bạn những điều mà những người già gặp phải? Bạn không thể biết.

Vụ xả súng ở Maine có ý nghĩa gì không? Bạn cũng không biết. “Không biết” chính là cánh cổng dẫn đến “sự giàu có tư duy” bên trong người già. Đó là một yếu tố thay đổi cuộc chơi của họ giúp họ đỡ phải suy nghĩ mệt óc để tìm câu trả lời.

Hai mươi năm trước, khi bạn cố gắng chăm sóc người mẹ mới mắc bệnh Alzheimer, để trả lời câu hỏi của bạn “không biết liệu mình có thể để mẹ ở nhà không, làm cách nào để giúp mẹ uống thuốc, làm cách nào để mẹ ăn ngon miệng hơn, khi mắc chứng hay quên”. Cô y tá nhẹ nhàng nói: “Làm sao biết được!”.

Rồi “liệu anh em mình có bị di truyền bệnh Alzheimer của mẹ? Cũng không thể biết chắc. Tuổi già là tuổi của những “không biết” do “không còn đủ sức và mất năng lực”.

Trong bóng tối của sức khỏe đang suy tàn, chúng ta hầu như không biết bắt đầu từ đâu. Vì vậy, người già có thể bắt đầu từ nơi họ đang sống, với những gì họ đang có, trong tâm thế “không biết”.

Ở trung tâm nhiều bức tranh của Bierstadt có những con vật trông an bình vì chúng là động vật. Một số động vật của Bierstadt xếp hàng trên mặt nước như thể chúng sắp hành quân lên Con tàu của Nô-ê (Noah’s Ark) để thoát cơn hồng thuỷ. Hoặc chúng rúc vào nhau như trên ghế đá công viên. Bạn phải tự hỏi liệu những con nai lớn tuổi có ngạc nhiên khi thức dậy vào mỗi buổi sáng mò mẫm tìm chiếc kính như con người không?

Ánh sáng và hoan ca trong sa mạc tuổi già

Các loài động vật dường như không có thắc mắc gì, trong khi người già lại có quá nhiều câu hỏi trong đầu. Tuổi già khi phải tự ra ngoài để làm việc này việc nọ thì đó thường là trường hợp khẩn cấp!

Lúc còn trẻ, khi có chuyện gì đó để ăn mừng, bạn thường đến một nhà hàng sang trọng để chia sẻ với người thân, bạn bè. Bây giờ, vui mừng là có sức khỏe đủ tốt để tập cho cái hông bớt đau nhức.

Trong những ngày còn trẻ, khi nghe một tin tức quá khủng khiếp, chúng ta sẽ cố tìm kiếm ý nghĩa của nó. Bây giờ, không nhiều lắm. Người già đã trải qua rất nhiều điều, đã tự chăm sóc lẫn nhau và vượt qua mọi khó khăn để nâng cao chất lượng sống, nhưng đều không hoàn hảo.

Người già vẫn khiêu vũ được, nhưng phải có những “trợ thủ” đi kèm và luôn trong tình trạng cảnh giác. Nghĩ đến chừng đó cũng đã đủ xót xa. Cánh cổng của tuổi tác luôn đi kèm theo mong muốn có cuộc sống dễ dàng hơn và bớt khó chịu hơn một chút. Nhưng người già đành phải chấp nhận sự thật: không còn sức để giải cứu hay sửa chữa cho bất kỳ ai, kể cả chính mình!

Người già vẫn khiêu vũ được, nhưng phải có những “trợ thủ” đi kèm và luôn trong tình trạng cảnh giác. (minh họa: Ardian Lumi-Unsplash)

Suy nghĩ như thế sẽ mang lại cho bạn cảm giác bình yên, thậm chí ngạc nhiên về cách chúng ta đi qua cuộc sống một cách nhẹ nhàng. Cái giá của sự lão hóa là rất cao. Đó là những cơn đau nhức liên tục và những mất mát hầu như không thể phục hồi. Nhưng mỗi lần chiếc hông đau của bạn dịu đi, nó nhắc nhở bạn cuộc sống này sẽ không kéo dài mãi mãi, và đó chính là điều làm cho cuộc sống trở nên quý giá vô cùng.

Một món quà khác của tuổi già là sự suy giảm nhanh chóng ảnh hưởng tiêu cực của các bi kịch. Cuộc sống của người già trở nên nhỏ bé hơn và trong không gian hẹp hơn nhưng vẫn có niềm vui và hạnh phúc. Vùng hoang mạc tuổi già trông cằn cỗi và có màu u ám có khi bỗng đẹp lạ lùng dù không còn nhiều sự sống mà chỉ còn những bông hoa sa mạc đa sắc nhỏ xíu.

Tất cả xâm nhập vào ý thức chúng ta và các sắc thái màu này bắt đầu mang lại sự ấm áp. Và chẳng bao lâu sau, sa mạc chết chóc trở nên sống động và tràn ngập những dòng màu năng động, chuyển dịch.

Đó là bức tranh minh hoạ của tâm lý tuổi già. Tất cả đều như ngầm nói: “Trong bóng tối sâu thẳm của tuổi già cũng có chút ánh sáng và hoan ca”. Vì vậy, đừng bao giờ nghĩ nhìn mọi thứ dưới góc độ quá đen tối. Có lúc bạn đỗ xe trước nhà, quên tắt động cơ và một người hàng xóm trẻ tuổi đến gõ cửa nhắc bạn. Bạn nói dối là đang sạc pin vì pin yếu. Không sao. Đó chỉ là cách bạn tự đánh lừa là mình “chưa già đủ để quên”.


 

Ngày 6 tháng 1 đã cho tôi thấy rõ điều gì

 Ba’o Tieng Dan

The Atlantic

Tác giả: Nancy Pelosi

Nguyễn Bình Phương, biên dịch

7-1-2024

Ảnh: Nancy Pelosi, cựu Chủ tịch Hạ viện Mỹ. Nguồn: Wikimedia

Ngày 6 tháng 1 là ngày được luật pháp Hoa Kỳ quy định để Quốc hội kiểm phiếu đại cử tri trong cuộc bầu cử tổng thống. Đây là một dịp đầy kịch tính với những yêu cầu cụ thể: Sự an toàn của những chiếc hộp gỗ chứa chứng chỉ Cử tri đoàn của các tiểu bang; thời điểm diễn ra phiên họp lưỡng viện Quốc hội, được triệu tập lúc 1 giờ chiều; các quy tắc chính xác quy định rằng cuộc tranh luận về sự phản đối việc kiểm phiếu nếu có, sẽ diễn ra “rõ ràng và chính xác”.

Vào ngày 6 tháng 1 năm 2021, con gái tôi là Alexandra đã đưa hai cậu con trai đến Điện Capitol để chứng kiến sự kiện lịch sử chuyển giao quyền lực một cách ôn hòa này. Các cháu ngoại tôi đã chứng kiến lịch sử ngày hôm đó, tiếc là không phải lịch sử mà mọi người mong đợi.

Cựu tổng thống từ lâu đã dự định hủy bỏ kết quả bầu cử, gieo rắc nghi ngờ về kết quả ngay cả trước khi những lá phiếu được bầu và rồi tranh tụng tại tòa về kết quả. Vì vậy, trước phiên họp chung, chúng tôi đã chuẩn bị cho khả năng xảy ra chuyện phản đối kết quả Cử tri đoàn của các thành viên Cộng hòa trong Quốc hội. Rõ ràng là kết quả từ Arizona, Nevada, Georgia, Pennsylvania, Michigan và Wisconsin sẽ là mục tiêu bị tấn công. Dân biểu Jamie Raskin của Maryland đã lên chiến lược với các thành viên Quốc hội từ các bang đó về cách chúng ta sẽ đối phó và đánh bại những phản đối tại Hạ viện, dựa trên dữ kiện và luật pháp.

Phiên họp chung ngày 6 tháng 1 được Phó Tổng thống triệu tập vào lúc một giờ. Sự phản đối đầu tiên của đảng Cộng hòa xảy ra với kết quả từ tiểu bang Arizona. Vào giữa cuộc tranh luận đó, vào khoảng 2:15 chiều, nhân viên an ninh của tôi chạy đến ghế Chủ tịch và nói với tôi rằng, tôi phải rời đi ngay lập tức. Chúng tôi rời đi quá nhanh đến nỗi thậm chí tôi không có thời gian mang theo điện thoại di động.

Thất bại trong việc lật ngược kết quả bầu cử tại tòa án hoặc tại Quốc hội, tổng thống đã dùng đến biện pháp dấy loạn tại Điện Capitol. Một đám đông bạo lực — bị kích động bởi cuộc biểu tình “Ngăn chặn Trộm cắp” (Stop the Steal) do cựu tổng thống tổ chức — đã kéo đến Điện Capitol, vượt qua hàng rào cảnh sát bên ngoài và tiến tới nhiều lối vào tòa nhà. Đập vỡ cửa sổ và phá cửa ra vào, họ xông vào bên trong, tìm cách cản trở quá trình chuyển giao quyền lực một cách ôn hòa.

Hơn 2.000 kẻ bạo loạn đã tiến vào bên trong tòa nhà. Một số người trong đám đông đã hét lên “Hãy treo cổ Mike Pence” – tức giận vì phó tổng thống đã từ chối tuân theo mệnh lệnh quái đản của cựu tổng thống nhằm lật ngược kết quả bầu cử. Cùng lúc đó, một đám đông khổng lồ tụ tập bên ngoài văn phòng của tôi và hô vang “Nancy, Nancy, Nancy”, thậm chí còn la hét muốn bắn một viên đạn vào đầu tôi.

Tôi rất nể phục lòng can đảm của Cảnh sát Điện Capitol và Cảnh sát Thủ đô, bảo vệ ngôi đền dân chủ của chúng ta và bảo vệ những người dân bên trong. Đáng buồn thay, 140 cảnh sát đã bị những kẻ bạo loạn gây thương tích. Nhiều người chịu những vết sẹo lâu dài về thể chất và tinh thần. Một số sĩ quan sau đó đã mất mạng.

Tôi lo sợ cho những anh hùng thực thi pháp luật đó, cũng như lo sợ cho các thành viên của mình, các nhân viên quốc hội, những nhân công làm việc tại Điện Capitol, giới báo chí và những người khác hiện diện ngày hôm đó. Những câu chuyện của họ thật đau lòng — và thể hiện lòng dũng cảm phi thường.

Vì COVID, không phải tất cả các thành viên đều có thể tham gia trực tiếp tại phòng họp của Hạ viện. Dân biểu Jason Crow của Colorado đang ở trong phòng trưng bày cùng một nhóm dân biểu và các nhà báo vào lúc tòa nhà bị xâm nhập. Từng là Biệt động quân, anh ta lập tức hành động, bảo họ bỏ lại đồ đạc, nằm rạp xuống sàn và bò về phía một ô cửa an toàn nơi có lối thoát. Khi đám đông bên ngoài đập cửa – một số người nói rằng nó nghe như tiếng búa nện – anh ta thậm chí còn chuẩn bị cho họ sử dụng những cây bút làm vũ khí nếu cần. Tất nhiên, Jason là người cuối cùng rời khỏi phòng trưng bày.

Tôi được nghe lại một cách chi tiết đến đau lòng về những gì nhóm nhân viên của riêng tôi đã phải chịu đựng vào ngày hôm đó. Những nhân viên trẻ này – một số người có tinh thần công dân và yêu nước nhất mà bạn có thể gặp – suýt phải đối mặt với những kẻ bạo loạn. Trong hai tiếng rưỡi, họ thu mình trong một phòng họp nhỏ sau cánh cửa khóa và vật chắn, đèn tắt và hoàn toàn im lặng. Khi những kẻ man rợ cố gắng xông vào, nhân viên của tôi buộc phải liên tưởng đến khả năng họ có thể không bao giờ gặp lại những người thân yêu của mình nữa.

Các lãnh đạo của Quốc hội được đưa đến Fort McNair. Khi rời Điện Capitol, tôi liên tục hỏi liệu Vệ binh Quốc gia có được triệu tập hay không, một thẩm quyền dành riêng cho nhánh hành pháp. Trong khi thống đốc của mọi tiểu bang có quyền huy động Lực lượng Vệ binh Quốc gia của riêng họ thì Lực lượng Vệ binh Quốc gia của Thủ đô nằm dưới sự kiểm soát của Bộ Quốc phòng — và tận cùng là của tổng tư lệnh.

Khi tôi đến Fort McNair, rõ ràng là chưa có ai triển khai Lực lượng Vệ binh Quốc gia đến Điện Capitol. Khi Thượng nghị sĩ Chuck Schumer cùng tôi xem truyền hình đưa tin về cuộc nổi dậy đang diễn ra, chúng tôi bắt đầu thực hiện các cuộc gọi khẩn cấp tới chính quyền.

Tôi đã liên lạc với Bộ trưởng Lục quân Ryan McCarthy, và nhận ra ông quá sức bình thản. Đáp lại lời khẩn cầu tiếp cứu của chúng tôi, ông ta nói: “Thôi, tôi phải báo cáo với sếp. Điều đó cần có thời gian. Tôi không biết chúng tôi có thể làm gì”. Một câu trả lời thật kinh hoàng.

Trong khi Ngũ Giác Đài tỏ ra lề mề, Chuck, Dân biểu Steny Hoyer và tôi đã gọi điện cho các thống đốc tiểu bang Virginia và Maryland để yêu cầu họ giúp đỡ. Lực lượng công lực và Vệ binh Quốc gia Virginia bắt đầu đến Thủ đô vào khoảng 3:15 chiều, và Maryland cũng hợp tác.

Chuck, Thượng nghị sĩ Mitch McConnell, và tôi sau đó liên lạc với cấp trên của Ryan McCarthy, Quyền Bộ trưởng Quốc phòng Christopher Miller, để xin thêm quân tiếp viện. Mitch khẩn khoản rằng Lực lượng Vệ binh Quốc gia “cần đến đó thật nhanh chóng, bạn hiểu không?” Tôi yêu cầu một câu trả lời: “Cứ giả dụ là Ngũ Giác Đài hoặc tòa Bạch Ốc hoặc một thực thể nào khác đang bị bao vây”. Tuy nhiên, Miller vẫn trì hoãn.

Vài giờ sau, Điện Capitol cuối cùng đã được phục hồi an ninh. Mặc dù có đề nghị rằng chúng tôi tiếp tục buổi chứng nhận kết quả bầu cử từ Fort McNair vì lý do an ninh, nhưng chúng tôi vẫn giữ mục tiêu là quay trở lại Điện Capitol vào đêm hôm đó để hoàn thành việc kiểm phiếu. Cả thế giới đã chứng kiến nọc độc “Stop the Steal” (“Ngăn chặn Trộm cắp”) hèn hạ mà tổng thống đang thúc đẩy và chuyện bạo động mà nó đã gây ra. Điều quan trọng là chúng tôi phải tiếp tục thực hiện nhiệm vụ của mình tại Điện Capitol của Hoa Kỳ để người dân Mỹ, cũng như thế giới có thể nhìn thấy.

Khoảng 9 giờ tối, tôi quay lại ghế Chủ tịch, cầm búa (*) và ra lệnh cho Hạ viện tái họp. Tôi đọc một tuyên bố ngắn gọn: “Những kẻ đã hả hê tham gia vào việc xúc phạm ngôi đền dân chủ này của chúng ta… công lý sẽ được thực thi”. Và tôi đã thề rằng Quốc hội sẽ “là một phần của lịch sử cho thế giới thấy nước Mỹ được tạo nên như thế nào.”

Hạ viện tiếp tục tranh luận về sự phản đối trên kết quả của Arizona, đang diễn ra trước khi chuyện kinh hoàng kia ập đến. Ngay cả sau khi trải qua việc tự lập rào phòng thủ trong văn phòng của mình, trốn chui dưới bàn ghế và chứng kiến quá nhiều đau đớn và tổn thương, đại đa số đảng viên đảng Cộng hòa tại Hạ viện vẫn bỏ phiếu chống lại kết quả bầu cử ở Arizona—bao gồm Kevin McCarthy và Steve Scalise, những người đã lắng nghe tại Fort McNair khi Mitch, Chuck và tôi cầu xin Lực lượng Vệ binh Quốc gia.

Rất may, 303 Dân biểu Hạ viện đã bỏ phiếu chống lại sự phản đối và nó đã thất bại. Bạn có thể tin được không, kế đến đảng Cộng hòa lại quyết định đưa ra thách thức đối với kết quả từ Pennsylvania. Thượng viện bác bỏ phản đối của Pennsylvania mà không cần tranh luận, nhưng Hạ viện phải trải qua thêm hai giờ tranh luận trước khi cuối cùng bỏ phiếu bác bỏ được phản đối đó.

Khuya hôm đó, Phó Tổng thống Pence chính thức ghi nhận số phiếu bầu từ tất cả các bang và tuyên bố Joe Biden là người chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2020. Khi chúng tôi cùng đứng ở bục phát biểu tại Hạ viện trong phiên họp chung, tôi đã cảm ơn và khen ngợi Pence vì đã can đảm làm những điều đúng đắn, vì đã tôn trọng lời tuyên thệ nhậm chức của ông ấy là “ủng hộ và bảo vệ Hiến pháp Hoa Kỳ”. Tôi cũng ghi nhận lòng dũng cảm và sự cam kết của các thành viên và nhân viên, những người đã quay trở lại phòng họp vào đêm hôm đó và ở lại cho đến khoảng 4 giờ sáng, là lúc chúng tôi hoàn tất phiên họp ngày 6 tháng 1.

Tôi vẫn nhớ như in, lần đầu tiên tôi nhìn thấy Tòa nhà Quốc hội Hoa Kỳ. Lúc đó tôi 6 tuổi và gia đình tôi đang trên đường tới Washington để chứng kiến bố tôi tuyên thệ nhậm chức nhiệm kỳ thứ năm tại Quốc hội. Khi chúng tôi gần đến nơi, các anh trai tôi cười rạng rỡ khi nói: “Nancy, nhìn, nhìn kìa, Điện Capitol kìa!” Và nó đây: Một mái vòm trắng lộng lẫy, cao chót vót và uy nghi, tỏa sáng dưới ánh mặt trời.

Nhưng quan trọng hơn vẻ đẹp của tòa nhà là sự uy nghi của những gì nó thể hiện. Từ lâu được coi là biểu tượng của tự do và dân chủ trên toàn cầu, mái vòm Điện Capitol được xây dựng bởi Abraham Lincoln giữa cuộc Nội chiến. Khi một số người đề nghị ông dừng xây dựng để tiết kiệm thép và nhân lực cho chiến tranh, Lincoln đã nói không. Ông biết rằng việc hoàn thiện tòa nhà mái vòm sẽ thể hiện sức mạnh và quyết tâm của nước Mỹ.

Ngày 6 tháng 1 là một thời điểm hiểm nghèo khác đối với nền dân chủ của chúng ta. Đó không đơn thuần là một cuộc tấn công vào tòa nhà Điện Capitol mà còn vào tấn công vào Hiến pháp của chúng ta. Và một số người thực hiện cuộc tấn công dưới mái vòm của Lincoln đã mang theo lá cờ của Liên minh miền Nam. Nhưng trong đêm đen tối đó, Quốc hội lại một lần nữa thể hiện sức mạnh và quyết tâm của nước Mỹ. Bây giờ, ba năm sau, chúng ta được kêu gọi làm điều tương tự.

Mối đe dọa đối với nền dân chủ của chúng ta là có thật, hiện hữu và cấp bách. Dụ ngôn ngày 6 tháng 1 nhắc nhở chúng ta rằng, các thể chế dân chủ quý giá của chúng ta chỉ mạnh mẽ khi có lòng can đảm và sự dấn thân của những người được phó thác để gìn giữ chúng. Tất cả chúng ta đều có chung trách nhiệm bảo vệ nền dân chủ Mỹ, nền dân chủ mà Lincoln gọi là “niềm hy vọng tốt nhất cuối cùng trên trái đất”.

______

Ghi chú của Tiếng Dân: (*) Chiếc búa mà bà Pelosi nói tới trong bài, tương tự như chiếc búa của thẩm phán tòa án, là biểu tượng quyền lực của chủ tịch Hạ viện hay thẩm phán tòa án.


 

Học nhiều để làm gì?- Dương Quốc Chính

Ba’o Tien Dan

Dương Quốc Chính

7-1-2023

Vụ tân thạc sĩ Đại học Thủ Dầu Một quỳ lạy mẹ nhân ngày nhận bằng khiến dư luận xôn xao, đa số cho rằng hình ảnh quỳ lạy mẹ là cải lương, diễn, không phù hợp với văn hóa Việt Nam. Lúc mới chỉ xem bức ảnh, mình cũng cho là vậy, nhưng sau khi đọc bài báo thì lại nghĩ khác. Chuyện quỳ lạy không phải là vấn đề, mà cũng không ảnh hưởng tới ai, điều cần bàn là chuyện khác và có ảnh hưởng tới nhận thức của đám đông.

Theo thông tin từ bài báo, bạn thạc sĩ này sinh ra trong một gia đình nghèo, mẹ đơn thân làm nghề bán bún ở chợ. Bạn này vốn không có nền tảng học giỏi, từng thi trượt cấp 3, sau đó học trung tâm giáo dục thường xuyên, rồi học Đại học Thủ Dầu Một. Đây là 1 đại học nhỏ cấp tỉnh, mà tỉnh nhỏ, chắc mới được độ lên đại học từ thời bộ trưởng Thiện Nhân, chứ không phải trường lớn, có truyền thống. Có nghĩa là thi vào đại học chắc là rất dễ, gần như đỗ tốt nghiệp phổ thông là được vào thôi? Luận văn thạc sĩ Luật kinh tế được 8,5 điểm, không phải là cao so với cách cho điểm càng lên cao càng dễ hiện nay của đại học công.

Ảnh: Tân thạc sĩ Hoàng Anh quỳ lạy mẹ sau khi nhận bằng. Nguồn: Báo Tuổi Trẻ

Nhưng bạn Hoàng Anh này rất “hiếu học” và tham vọng làm PGS TS và giảng viên Đại

học Thủ Dầu Một (đang xin, chưa được nhận), bạn đang là giảng viên mấy trường trung cấp ở tỉnh.

Đặc biệt nữa, bà mẹ không biết thạc sĩ nghĩa là gì, nhưng vẫn quyết tâm khuyên con học, học nữa, học mãi! Và bà sẵn sàng gửi tiền cho con ăn học dù không biết con học gì. Theo bà hiểu, cứ học cao và đi xa quê là thoát nghèo.

Ảnh: Hai mẹ con bà Nguyễn Thị Kim Chung và Nguyễn Hoàng Anh sau khi con trai nhận bằng thạc sĩ. Nguồn: Báo CAĐN

Theo mình thì nhận thức như mẹ con bạn Hoàng Anh này khá là sai lầm, nhưng sai lầm hơn là báo Tuổi Trẻ lại ca ngợi với toàn những lời có cánh. Một cá nhân sai lầm thì chỉ người đó bị hại, nhưng tuyên truyền cho sai lầm sẽ làm nhiều người bị hại.

Như status trước về bất bình đẳng mình đã viết, việc học nhiều, học cao, chưa chắc đã là cách thoát nghèo hiệu quả. Việc ca ngợi và tuyên truyền khuyến khích một cá nhân bất kỳ học thật cao, thật nhiều một cách vô tri, bất chấp hoàn cảnh của người ta, thoạt nhìn tưởng là hay, vì theo đúng truyền thống ham học, nhưng thực tế là làm hại người ta, vì không phù hợp với hoàn cảnh của họ.

Mình thấy đa số người Việt vẫn có tư duy rất vô tri tương tự. Cắm đầu học, nhưng không tự trả lời câu hỏi: Học cái này để làm gì? Nhiều người thất nghiệp thì đi học sau đại học. Học cao vì bố mẹ muốn. Học cao lấy bằng cấp cao và nhiều cho rạng danh dòng tộc, cho nó oai. Đúng tâm lý vinh quy bái tổ ngày xưa. Rồi hy vọng học cao để làm quan, để làm thầy thiên hạ.

Thực tế, việc học cao nó phải gắn liền với định hướng nghề nghiệp. Với xã hội hiện tại, bằng cấp cao sẽ có lợi cho công việc giảng dạy, nghiên cứu chuyên nghiệp và để làm quan (rất vớ vẩn nhưng là sự thật). Chắc không nước nào có nhiều chính trị gia là giáo sư, tiến sĩ, nhà giáo nhân dân như Việt Nam! Bộ trưởng Công an cũng giáo sư, tiến sĩ mới hài. Nhưng thạc sĩ đi làm Grab còn bi hài hơn nhiều.

Định hướng nghề nghiệp phải cân nhắc về năng lực, năng khiếu, nhu cầu xã hội, quan hệ, truyền thống gia đình. Bạn Hoàng Anh này không hề có gia đình có hoàn cảnh, truyền thống để học cao, để nghiên cứu giảng dạy. Bạn ấy không học giỏi nên không phù hợp với nghề nghiên cứu, giảng dạy. Công việc này cũng không hot ở xã hội, phải cạnh tranh nhiều với các bạn khác học giỏi hơn, bằng cấp xịn hơn, quan hệ gia đình tốt hơn. Vậy tại sao lại tuyên truyền, ca ngợi bạn ấy lao đầu vào cửa khó như vậy?

Để làm PGS TS như bạn ấy mơ ước thì chắc mất thêm ít nhất 5-10 năm nữa với mức lương ba cọc ba đồng của giảng viên trung cấp hay đại học mới đi dạy. Có khi lương thấp hơn giáo viên cấp 1 dạy thêm. Vậy bạn ấy có còn khả năng nuôi sống bản thân và báo đáp người mẹ già có đứa con duy nhất? Để mẹ già chê’t trong nghèo khó còn là tội ác, quỳ lạy để làm gì đâu? Oai gì với bằng thạc sĩ cấp tỉnh, mà oai được bao lâu?

Tất nhiên vẫn có khe cửa hẹp để Hoàng Anh học tiếp, thậm chí du học tiến sĩ ở một trường danh tiếng, nhưng xác suất quá thấp. Trong khi rủi ro nghèo khó thêm 5-10 năm nữa là rất cao. Con nghèo thì mẹ con có vui được không?

Chuyện này làm mình nhớ tới một câu chuyện tương tự. Có một bạn, (có lẽ follow FB mình), có hẹn mình cafe một buổi. Bạn ấy muốn tham khảo mình về việc “trồng cây gì, nuôi con gì”. Mình có hỏi về bản thân thì bạn ấy bảo là gia đình bần nông ở tỉnh lẻ, nhưng bạn ấy đã cố gắng để học Đại học Bách khoa Hà Nội và đang làm tiến sĩ tại một đại học lớn ở Nhật. Tức là về tố chất, bạn này hơn bạn Hoàng Anh kia nhiều. Gia đình có lẽ tương đương.

Bạn ấy bảo là, muốn về nước cống hiến trong bộ máy hành chính công và xin ý kiến mình. Mình hỏi các điều kiện nói trên, rồi góp ý là: Nếu em muốn làm công chức với bằng tiến sĩ xịn thì chắc không khó lắm. Nhưng em phải xác định là nếu gia đình không có chút quan hệ và tiền tệ nào thì sẽ rất vất vả. Em sẽ phải chấp nhận làm culi cho COCC, tự gây dựng quan hệ bằng năng lực học vấn, chấp nhận nhịn nhục lâu dài để tự gây dựng quan hệ cá nhân. Thời gian đó chắc khó mà ít hơn 10 năm. Nếu may mắn lấy được vợ con quan to thì đỡ hơn. Nhưng điều quan trọng nhất là em cần có tố chất làm công chức là nhịn nhục, hòa nhập với việc kiếm tiền bẩn và đút lót để gây dựng quan hệ. Nếu thiếu một vài tố chất đó là sẽ rất khổ và có khi phải bỏ ngang, mà cơ hội là hữu hạn, nên tính xa một chút.

Muốn cống hiến cho đất nước, không nhất thiết phải làm công chức, làm quan, mà có thể làm cho doanh nghiệp ở Việt Nam, làm doanh nghiệp nhà nước cũng đỡ hơn làm công chức chút.

Mình thấy bạn ấy ngẩn người ra suy nghĩ, tâm tư, có lẽ trước đây bạn ấy cũng chưa từng tìm hiểu nghiêm túc về hướng nghiệp. Chắc vẫn nghĩ học cao và về nước cống hiến, phấn đấu làm quan là con đường tất yếu, y như suy nghĩ thời phong kiến? Từ đó đến giờ không thấy bạn ấy liên hệ nữa nên mình không rõ bạn ấy đã chọn con đường nào. Mình không cho rằng quan điểm của mình là tuyệt đối đúng, nhưng mình đã lựa chọn theo cách đó.

Nhà mình và mình có truyền thống và điều kiện để làm nghiên cứu và giảng dạy hay công chức nhà nước, nhiều bạn thiện lành mơ không được. Thậm chí có nhiều người còn thắc mắc là sao mình không học sau đại học và làm nghiên cứu? Vì họ bảo người như mình sẽ dễ dàng làm điều đó.

Mình chỉ bảo là mình không thích làm nghiên cứu, giảng dạy, cũng không hợp với việc học hành và công chức ở Việt Nam. Do cách học của mình nó như lạc loài với giáo dục Việt Nam. Mình đã để tuột cơ hội du học từ lúc còn trẻ, nên bây giờ mình sẽ không học tiếp ở Việt Nam vì quá chán nếu bị trộn lẫn với những kẻ mua bằng, mua điểm ở Việt Nam.

Mình tuy có nhiều lần tranh luận với những người thuộc giới hàn lâm, nhưng mình không kỳ thị họ. Mình chỉ kỳ thị lối “học giả” bằng cấp cao mà không thực tế. Tiếc là thành phần đó hơi đông, nên mình bị mang tiếng là hay tấn công giới hàn lâm, rất đau lòng vì sự hiểu nhầm!

Tóm lại, truyền thông và xã hội nên ngừng lại việc khuyến học một cách vô tri. Việc học hết phổ thông là nên bắt buộc, nhưng học đại học và sau đại học là nên phải cân nhắc theo hoàn cảnh và năng lực mỗi người. Mình đánh giá cao một người đi làm thợ sớm, rồi phấn đấu để tự mở doanh nghiệp, cửa hàng, kiếm được tiền sạch sẽ và sớm, phù hợp với năng lực bản thân. Người giỏi dù làm thợ sớm người ta vẫn tìm được cách phấn đấu để vươn lên. Không có bằng cao vẫn làm thầy người ta được.

Còn thành phần cử nhân, kỹ sư, thạc sĩ học rõ lắm rồi cũng đi làm thợ, làm xe ôm… công việc chả cần tới bằng cấp, thì đã làm lãng phí mấy năm cuộc đời, rồi tự ảo tưởng về bản thân làm hại xã hội.


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Lê Trí Anh

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Thuở ấu thơ tôi đã được nghe nói đến “giường Hồng Kông” nhưng không hình dung ra được là nó thoải mái hay êm ái hay ra sao cả? Lớn thêm chút xíu thì có dịp chiêm ngưỡng dung nhan nguyên đám tài tử Hồng Kông (Miêu Khả Tú, Trịnh Phối Phối, Lý Tiểu Long, Địch Long, Khương Đại Vệ, Vương Vũ …) trên màn ảnh nhưng cảm thấy ái ngại hơn là ái mộ!

Mãi cho đến lúc già, tình cờ đọc bài báo ngắn (“Hong Kong’s ‘rebel’ tycoon Jimmy Lai has no regrets”) của Jerome Taylor mới chợt phát hiện ra là mình có tình cảm chứa chan đối với một vị phú gia Hương Cảng:

Ông trùm truyền thông triệu phú Jimmy Lai biết rằng sự ủng hộ của ông đối với các cuộc biểu tình ủng hộ dân chủ ở Hồng Kông có thể sớm đưa ông đến sau song sắt, nhưng ông tự hào mô tả mình là “kẻ gây rối” nói rằng ông không hối tiếc.

“Tôi chuẩn bị sẵn tinh thần vào tù”, người đàn ông 72 tuổi nói với AFP từ văn phòng của Next Digital, tập đoàn truyền thông dân chủ lớn nhất và rầm rộ nhất Hồng Kông. “Nếu nó đến, tôi sẽ có cơ hội đọc những cuốn sách tôi chưa đọc. Điều duy nhất tôi có thể làm là suy nghĩ thật tích cực.”

 Câu chuyện cuộc đời của Lai là điển hình của nhiều cuộc hành trình làm giàu từ cơ hàn của các ông trùm Hồng Kông. Ông sinh ra ở tỉnh Quảng Đông của Trung Quốc đại lục trong một gia đình giàu có, người đã mất tất cả khi cộng sản lên nắm quyền vào năm 1949.  Vượt biên đến Hồng Kông khi 12 tuổi …

 Nhưng con đường của ông đã tách khỏi những người cùng thời vào năm 1989, khi Trung Quốc điều xe tăng đến đè đè bẹp các cuộc biểu tình ủng hộ dân chủ ở Quảng trường Thiên An Môn của Bắc Kinh. Ông đã thành lập ấn phẩm đầu tiên của mình ngay sau đó và các bài viết thường xuyên chỉ trích các nhà lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc. (“Ngạo Khí Của Một Nhà Triệu Phú.” Bản dịch của ThesaigonPost – 6/18/2020).

Cái giá mà Lê Trí Anh phải trả cho “ngạo khí” của mình – tất nhiên – không rẻ, theo tường trình của thông tín viên Florence de Changy (RFI) từ Hương Cảng :

Năm người có trách nhiệm của Apple Daily bị bắt tại nhà, đều vào khoảng 7 giờ sáng nay. Họ bị cáo buộc “âm mưu thông đồng với các thế lực nước ngoài”, một tội danh được xác định theo điều 29 của luật an ninh mới, có hiệu lực tại Hồng Kông từ ngày 30/06 năm ngoái…

Đằng sau Apple Daily, rõ ràng là nhà sáng lập tờ báo bị nhắm đến. Tỉ phú Lê Trí Anh 73 tuổi, là một trong những người chỉ trích đảng Cộng Sản Trung Quốc dữ dội nhất. Ông bị khởi tố với một loạt tội danh, và bị giam giữ từ tháng 12. Tháng trước, cảnh sát đã phong tỏa nhiều tài khoản ngân hàng của Lê Trí Anh liên quan đến các công ty của ông, trong khi ai cũng biết rằng sự tài trợ của nhà tỉ phú rất cần thiết cho sự sống còn của Apple Daily.

Nhà báo Đào Trường Phúc (phonhonews) cho biết thêm đôi ba tình tiết:

Tất cả các hãng thông tấn và cơ quan truyền thông quốc tế đều gọi Thứ Năm 24 tháng 6-2021 là một ngày đau buồn của 7.5 triệu người dân Hồng Kông, khi Apple Daily – tờ báo ủng hộ phong trào dân chủ có nhiều độc giả nhất – phát hành số báo cuối cùng và quyết định đình bản sau khi bị chính quyền phong tỏa toàn bộ tài sản và vốn liếng…

 Tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới (Reporters Sans Frontières) cử hành “tang lễ tờ Apple Daily” trước sứ quán Trung Cộng tại Paris để thể hiện thái độ phản đối. Tổng Thống Hoa Kỳ Joe Biden gọi ngày Thứ Năm 24 tháng 6 là “một ngày đau buồn cho tự do báo chí tại Hồng Kông và toàn thế giới.”

Cùng thời điểm này, Vietnamnet cũng có một mẩu tin ngăn ngắn (“6 tỷ phú Việt Nam sở hữu gần 17 tỷ USD”) cập nhật về tình trạng tài chánh của những người giầu nhất hiện nay:

Dẫn đầu danh sách là chủ tịch Vingroup Phạm Nhật Vượng xếp vị trí 344 với 7,3 tỷ USD. Đây là năm thứ 9 liên tiếp ông Vượng có tên trong top người giàu của Forbes. Năm ngoái, doanh nhân này xếp hạng 286 với tài sản 5,6 tỷ USD.

Đứng thứ 2 và thứ 3 lần lượt là CEO Vietjet Nguyễn Thị Phương Thảo (2,8 tỷ USD) và Chủ tịch Hòa Phát Trần Đình Long (2,2 tỷ USD).

Ba tỷ phú còn lại của Việt Nam là Chủ tịch Techcombank Hồ Hùng Anh (1,6 tỷ USD), Chủ tịch Thaco Trần Bá Dương (1,6 tỷ USD) và Chủ tịch Masan Nguyễn Đăng Quang (1,2 tỷ USD).

Trong số 6 tỷ phú của Việt Nam, có 4 người lập nghiệp tại Đông Âu gồm ông Vượng, bà Thảo, ông Quang và ông Hùng Anh. Chỉ duy nhất tỷ phú Trần Bá Dương là chưa đưa doanh nghiệp chủ chốt của mình lên sàn.

“Các ‘đại gia’ đó đã trở về Việt Nam từ thập niên 1990 khi đất nước bắt đầu mở cửa để đổi mới. Họ đầu tư chủ yếu vào bất động sản và xây dựng quan hệ là hai thứ tài sản có lợi nhất trong thời quá độ. Với túi tiền và kinh nghiệm tham nhũng ở Liên Xô và Đông Âu cũ, họ là những người cơ hội (như ‘carpetbaggers’) đặc trưng của thời kỳ tích tụ tư bản hoang dã.

Đó là vắn tắt bối cảnh thời kỳ quá độ của kinh tế thị trường và chủ nghĩa thân hữu ở Việt Nam. Hầu hết các tập đoàn tư nhân đầu tư vào bất động sản, tuy một số đa dạng hóa đầu tư vào lĩnh vực khác như ngân hàng (VP, VIB, Liên Việt), hàng không (Vietjet), thực phẩm (Masan), siêu thị (Vinmart), y tế (Vinmec), giáo dục (Vinschool), và xe hơi (Vinfast).

Các tập đoàn này đã đóng góp đáng kể vào xây dựng hạ tầng, đặc biệt là bất động sản (property development). Từ các triệu phú, nay một số đã nhanh chóng trở thành tỷ phú đầu tiên của Việt Nam. Nhưng có một nghịch lý đáng buồn là trong khi họ làm giàu nhanh thì đa số người dân nghèo đi, và đất nước vẫn tụt hậu, với năng xuất lao động càng thấp.” (Nguyễn Quang Dy. “Chủ Nghĩa Thân Hữu Ăn Sâu Bám Rễ và Đầu Tư Nước Ngoài Chệch Hướng.” Bauxite Việt Nam 06/20/2020).

Nói thế sợ chưa hết lẽ. Giới tài phiệt ở đất nước này hiện đang tạo ra vô số “nghịch lý,” chứ nào chỉ một mà thôi:

Chả trách thiên hạ không ít lời ta thán:

  • Đoan Trang & Trịnh Hữu Long: “Truyền thông chính thống dường như không có bất kỳ bản tin bất lợi nào cho các tập đoàn lớn như Vingroup, Sungroup, hay FLC, mặc dù mạng xã hội luôn có nhiều tin đồn và nghi vấn về các vụ tai nạn, hỏa hoạn hay các vụ thâu tóm đất đai của các tập đoàn này.”
  • Tạ Phong Tần: “Chẳng có quốc gia nào mà dân chúng lại thù ghét người giàu như Ðông Lào, khoảng cách giàu – nghèo càng ngày càng lớn. Hễ ai giàu đều bị nghi là ‘cấu kết nhà nước làm ăn bất chính, cướp đất của dân,’ giàu nhờ lừa đảo.”
  • Trần Hoan : “Tui nói thật dưới xã hội cộng sản tất cả các đại gia tỷ phú đều giàu lên từ buôn bán bất động sản, từ việc phá tài nguyên thiên nhiên như rừng núi, khoáng sản, làm ô nhiễm sông, biển.. hay từ lừa đảo, làm ăn phi pháp…chứ có đại gia tỷ phú nào sáng chế ra được cái gì để giúp dân bớt khổ hay cống hiến được gì cho nhân loại chưa?”
  • Xuyên Việt: “Một trăm thằng đại gia thì có 99 thằng lừa đảo và làm ăn phi pháp.”

Nói thế e có hơi quá lời chăng? Chả lẽ một dân tộc với cả trăm triệu dân lại không xuất hiện được một vị tỷ phú nào ráo trọi mà chỉ có lác đác dăm ba ông (hay bà) trọc phú, chuyên thừa nước đục thả câu, thôi sao?


 

 3 người bị bắt ở Florida liên quan tới bạo loạn Quốc Hội

 Ba’o Nguoi-Viet

January 6, 2024

GROVELAND, Florida (NV) – Cơ Quan Điều Tra Liên Bang (FBI) bắt được ba bị cáo trong vụ bạo loạn Quốc Hội hôm Thứ Bảy, 6 Tháng Giêng, đúng kỷ niệm ba năm sự kiện lịch sử này, FBI loan báo, theo CBS News.

Ba bị cáo Jonathan Daniel Pollock, Olivia Michele Pollock và Joseph Daniel Hutchinson III bị FBI bắt ở Florida sau thời gian dài truy nã.

Ủng hộ viên cựu Tổng Thống Donald Trump xô xát với cảnh sát và bảo vệ để cố xông vô Quốc Hội hôm 6 Tháng Giêng, 2021, ở Washinton, DC. (Hình minh họa: Roberto Schmidt/AFP via Getty Images)

Bị cáo Jonathan Pollock, 23 tuổi, bị cáo buộc tấn công hàng loạt cảnh sát viên bằng vũ khí sát thương vào ngày bạo loạn 6 Tháng Giêng, 2021. Anh Pollock bị truy nã từ Tháng Chín, 2022, theo thông báo của FBI.

Bị cáo Olivia Pollock, chị của anh Pollock, và bị cáo Hutchinson từng bị bắt năm 2021 sau khi bị truy tố tội tấn công nhân viên công lực và nhiều tội khác. Tháng Ba năm ngoái, cả hai tháo thiết bị theo dõi đeo ở cổ chân rồi bỏ trốn trước khi chuẩn bị hầu tòa, CBS News đưa tin trước đây.

Ba bị cáo này bị bắt khi đặc vụ FBI ở Tampa thi hành lệnh bắt giữ của liên bang tại trang trại ở Groveland, Florida, sáng sớm Thứ Bảy, FBI ra thông báo cho hay.

FBI không nói rõ họ bắt được ba người này như thế nào, hay lý do FBI biết ba bị cáo ở đó.

Cả ba sẽ ra tòa liên bang ở Ocala, Florida, Thứ Hai tuần tới, theo FBI.

FBI vẫn đang truy nã hơn 80 người bị nghi dính líu tới vụ bạo loạn Quốc Hội, ông Matthew Graves, công tố viên liên bang ở Washington, DC, nói với CBS News.

Tính tới nay, hơn 1,200 người bị truy tố liên quan tới vụ bạo loạn, theo hồ sơ tòa án mà CBS News đọc được. Trong số bị cáo đó, hơn 700 người nhận tội và hơn 100 người bị kết tội. (Th.Long)


 

 “Gọi tên gì cho cuộc chiến Việt Nam – Campuchia 1979”?

Ba’o Tieng Dan

Trương Nhân Tuấn

6-1-2024

Trên RFA có bài phỏng vấn GS Vũ Tường bên Mỹ về chủ đề “Gọi tên gì cho cuộc chiến Việt Nam – Campuchia 1979?”.

Theo nhận xét của tôi thì bài này có [rất] nhiều sự kiện cần được bàn luận lại. Hiện thời trong nước có rất nhiều sử gia, nhiều nhân chứng “có tham dự” cuộc chiến Việt Nam – Campuchia. Dĩ nhiên có rất [nhiều người] thông thạo về cuộc chiến này. Hy vọng họ sẽ lên tiếng để “rộng đường dư luận”.

Cá nhân tôi, “chuyên gia nghiệp dư về biên giới và lãnh thổ”, cũng có một số kiến thức về cuộc chiến này. Theo tôi thì Việt Nam gọi cuộc chiến này là “Chiến tranh biên giới Tây Nam”. Một số học giả quốc tế gọi đây là “chiến tranh ủy nhiệm. Khmer đỏ đánh Việt Nam là đánh cho Trung Quốc. Việt Nam lấy danh nghĩa ‘tự vệ chính đáng’ nhưng khi đánh qua Campuchia là đánh cho Liên Xô”.

Cá nhân tôi cho rằng cả hai cái tên này đều đúng. Nhưng nguyên nhân sâu xa khiến chiến tranh xảy ra là vấn đề lãnh thổ. Trung Quốc luôn lợi dụng mâu thuẫn giữa Việt Nam và Campuchia về lãnh thổ để ngư ông đắc lợi. Bài viết sau đây trích lại từ một khảo luận của tôi về biên giới Việt Nam – Campuchia từ hai thập niên trước. Đăng lại cũng để “rộng đường dư luận”.

***

Biên giới Việt-Miên từ năm 1862 đến năm 1945:

Năm 1856, vua Khmer là Norodom (Nặc Ông Dương) thỉnh cầu được sự bảo hộ của Pháp. Ngày 11 tháng 8 năm 1863 hai bên ký hiệp định, vương quốc Khmer, lúc đó có tên mới là Cambodge, được đặt dưới quyền bảo hộ của Pháp. Từ đó Pháp đại diện cho vương quốc Khmer trong các lãnh vực đối ngoại và đối nội.

[Trong] nội dung kết ước này vua Norodom không hề nói tới lãnh thổ, biên giới của vương quốc mình có từ đâu tới đâu.

Lãnh đạo Pháp ở địa phương, đô đốc Pierre-Paul de La Grandière, quyết định phân định biên giới (Việt Nam – Campuchia và Campuchia – Thái Lan), mục đích xác định lãnh vực thuộc quyền quản trị của Pháp. Nhưng sự mù mờ của biên giới, cùng với sự thiếu hiểu biết tình hình địa chính trị của khu vực, ông này đã làm cho phía Thái Lan hưởng lợi.

Pháp (đại diện bên Campuchia) ký kết hiệp ước với Xiêm vào ngày 15 tháng 6 năm 1867, theo đó Xiêm cam kết từ bỏ quyền “thuợng quốc” của Xiêm đối với Khmer. Đổi lại, Pháp phải nhượng cho Thái lãnh thổ Khmer vùng hữu ngạn sông Cửu Long, tức ½ lãnh thổ Campuchia hiện nay, gồm các tỉnh Battambang, Sisophon và Siemreap hiện nay.

Việc phân định biên giới Thái Lan – Khmer phù hợp với thực tế “biên giới hiện trạng”. Trước khi Pháp vào Campuchia, vương quốc Khmer phải chịu thần phục cả hai bên Việt Nam và Thái Lan. Tả ngạn sông Cửu long thuộc ảnh hưởng triều đình Huế và hữu ngạn thuộc Thái Lan.

Lập trường ở Paris, khi ký hiệp ước 1862 với triều đình nhà Nguyễn, nước Pháp có thẩm quyền thay thế nhà Nguyễn về quyền thượng quốc ở vương quốc Khmer. Kết ước giữa Pháp với Nặc Ông Dương ký năm 1863, chỉ có ý nghĩa tượng trưng chứ không mang tính bó buộc của pháp lý. Tức là có hay không có kết ước 1863 thì lãnh thổ Khmer vẫn chịu sự bảo hộ của Việt Nam. Việt Nam chịu bảo hộ của Pháp thì Khmer cũng chịu sự bảo hộ này. Điều này hoàn toàn phù hợp với “luật lệ quốc tế” trong thời kỳ.

Về lãnh thổ của Khmer nhượng cho Thái theo hiệp ước 1867, Pháp sửa chữa lại nhân ký hiệp ước Pháp – Xiêm 1893 phân định lãnh thổ. Các tỉnh của Campuchia nhượng cho Thái trước kia được Pháp lấy lại.

Biên giới Việt – Miên được phân định qua hai thời kỳ: Năm 1870 và năm 1873. Cuộc phân định năm 1870 có sự hiện diện của quan chức Khmer, cắm được 60 mốc. Vùng đất gọi là “Mỏ vịt” (tỉnh Sveyrieng) thuộc về Việt Nam. Sau đó phía Miên phản đối, đòi lại vùng đất này. Pháp đồng ý vạch lại biên giới, trả lại vùng này cho Campuchia. Cuộc phân định năm 1873 gồm 64 mốc.

Năm 1887, khối Đông Dương được thành lập. Campuchia là một thành phần, cùng với Cochinchine (Nam Kỳ), An Nam (Trung Kỳ) và Tonkin (Bắc Kỳ). Quốc gia Lào chỉ được thành lập năm 1893, do yêu cầu của ông August Pavie.

Đường biên giới giữa Cochinchine (miền Nam) và Campuchia trở thành đường biên giới hành chánh, nội bộ của Đông Dương, thuộc thẩm quyền của quan Toàn Quyền người Pháp.

Vùng Darlac thì được sáp nhập vào Việt Nam năm 1895. Điều này xảy ra do việc trao đổi đất đai: Việt Nam nhượng đất Trấn Ninh cho Lào, đồng thời Lào nhượng vùng đất phía nam nước này cho Campuchia. Năm 1923, vùng Kontum cũng được nhập vào Darlac, đồng thời với vùng đất đỏ phía nam là Buôn Mê Thuộc.

Về lãnh thổ trên biển thì được xác định năm 1939, do nghị quyết của Toàn quyền Brévié. Đó là một đường thẳng 140° so với bờ biển, theo đó các đảo phía bắc đường này thuộc Campuchia và các đảo phía nam thuộc Việt Nam, trong đó bao gồm đảo Phú Quốc.

Đến năm 1939, biên giới trên đất liền hai bên Việt – Khmer được phân định hoàn tất. Biên giới này là biên giới thuộc địa, thuộc nội bộ của nước Pháp, chứ không phải là đường biên giới quốc tế giữa quốc gia với quốc gia.

Một số học giả Campuchia hiện nay cho rằng, Pháp đã thiên vị Việt Nam lúc phân định biên giới. Vì vậy họ có khuynh hướng không nhìn nhận đường biên giới này. Dĩ nhiên điều này không phù hợp với các luật lệ cũng như tập quán quốc tế.

Theo nguyên tắc “Uti possidetis” của công pháp quốc tế, áp dụng cho lãnh thổ các nước thuộc địa sau khi lấy lại được nền độc lập. Trong thời kỳ thuộc địa, lãnh thổ đó do bên này quản lý, thì sau khi dành được độc lập, vùng đất đó sẽ tiếp tục do bên này quản lý.

Vì vậy, lập luận của một vài học giả Campuchia hiện nay, khi lên tiếng đòi lại đất của VN, như đảo Phú Quốc, vùng lãnh thổ gọi là Khmer Krom (tức là vùng đất hiện nay thuộc tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu…), đều không thuyết phục, nếu không nói là trái ngược với luật lệ và tập quán quốc tế.

Thử tưởng tượng, ai cũng có thể đòi lại đất như vậy, thì nước Mỹ, nước Úc, Canada v.v… sẽ biến mất, vì đất đó là của người dân bản địa, chứ không phải của dân da trắng hiện nay. Cũng như nhiều nước Nam Mỹ, các nước Châu Phi… sẽ không còn tồn tại. Nên biết là đường biên giới các nước Phi Châu là do hai đế quốc thực dân Anh và Pháp phân định. Để ý thì thấy là đường biên giới ở đây thường đi theo đường thẳng, đường kinh tuyến, vĩ tuyến… nguyên nhân vì hai bên phân định trong văn phòng, trên bản đồ. Hậu quả của việc phân định như thế làm cho nhiều dân tộc không có quốc gia, hay một dân tộc bị chia cắt ra, mỗi phần ở trên một quốc gia khác nhau. Và ta thấy rằng các đường biên giới đó vẫn còn giá trị pháp lý cho đến hôm nay.

Vì thế, đòi hỏi của các học giả Khmer đi ngược lại tinh thần của quốc tế công pháp. Điều cần nhấn mạnh là các cuộc phân giới, mặc dầu do quan người Pháp điều khiển, nhưng các quan chức người Miên và người Việt đều có hiện diện. Vấn đề là họ không phản đối lúc phân định mà chỉ phản đối khi phân định đã hoàn tất. Sau này ta sẽ thấy, lập luận của Sihanouk về biên giới luôn thay đổi. Ông này lúc thì dựa vào Nhật, lúc thì dựa vào Trung Quốc để yêu sách Việt Nam về lãnh thổ.

Năm 1945, khi Nhật đến thì Sihanouk lập tức nhảy sang Nhật. Khi thấy thế lực Trung Cộng nổi lên, Mao Trạch Đông thắng Tưởng Giới Thạch tháng 10 năm 1949, Sihanouk lại có khuynh hướng dựa vào Trung Cộng. Trong thời gian hội nghị Genève 1954, Sihanouk nghĩ rằng sẽ được Trung Quốc giúp đỡ lấy lại đất, do đó đưa ra những yêu sách rất phi lý. Trong thời chiến tranh Việt Nam, Sihanouk lại thiên về phía CSVN, giúp phe này, hy vọng khi họ chiến thắng sẽ trả lại đất đai. Rồi sau 1975, các phe Campuchia, kể cả Sihanouk, cũng lại chống Việt Nam vì họ cho rằng lãnh đạo CSVN không giữ lời hứa trả lại đất.

Từ đó cho đến nay, vấn đề biên giới, lãnh thổ, hải phận… giữa Việt Nam và Campuchia, lúc nóng, lúc lạnh tùy thuộc vào sự tốt lành quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Biên giới Việt-Miên 1945-1954

Sau khi Nhật đảo chánh Pháp ngày 9 tháng 3 năm 1945, Sihanouk đơn phương tuyên bố Campuchia độc lập.

Tháng 6 năm 1945, Sihanouk đưa kiến nghị lên lãnh đạo Nhật, xin Nhật trả lại Nam Kỳ cho Campuchia, thay vì trả cho triều đinh Huế.

Nên biết, lúc đó Nam Kỳ có quy chế là thuộc địa của Pháp, tương tự các lãnh thổ hải ngoại của Pháp hiện nay như Calédonie, Gyuane hay Réunion.

Quan chức Nhật chưa quyết định gì thì thua trận Đại chiến trước Đồng minh.

Pháp vào lại Việt Nam, gặp nhiều sự kháng cự của kháng chiến Việt Nam, trong khi chính phủ của ông Hồ tuyên bố thành lập nước VNDCCH ngày 2-9-1945 ở miền Bắc. Pháp vào lại Việt Nam, tổ chức lại các nước Đông Dương trở thành Khối liên hiệp Pháp.

Về phía Việt Nam, Bảo Đại được Pháp đề nghị trả lại lãnh thổ mà nhà Nguyễn đã ký giao cho Pháp trước kia. Bảo Đại hứa đồng ý nếu Pháp trả Nam Kỳ và Pháp nhìn nhận nước Việt Nam là một nước thống nhất ba miền Bắc, Trung, Nam. Pháp đồng ý nguyên tắc này và điều này được lập lại trong Hiệp định Genève 1954.

Quốc gia Việt Nam được thành lập vào năm 1949, đúng với thể thức quốc tế công pháp. Việt Nam cùng với Lào và Campuchia, trở thành những “quốc gia liên kết” trong khối Liên hiệp Pháp.

Phái đoàn của Campuchia được gởi qua Paris điều trần ngày 2 tháng 4 năm 1949, mục đích thuyết phục quốc hội Pháp trả lại Nam Kỳ cho Campuchia. Lý lẽ của phái đoàn Campuchia là lúc ký hiệp định bảo hộ với Pháp năm 1863, nội dung kết ước không nói đến số phận của Nam Kỳ vì vương quốc này nhường đất này cho Pháp sử dụng. Bây giờ Pháp không cần đến lãnh thổ này nữa, hợp lý là phải trả lại cho Campuchia chớ không thể trả cho triều đình Huế.

Lý lẽ này không thuyết phục được chính giới Pháp vì lẽ, các tỉnh Nam Kỳ là do triều đình Huế nhượng cho Pháp theo các hiệp ước 1862 và 1874. Trong khi hiệp định 1863 giữa Pháp và Miên thì không hề có một điều bảo lưu nào về lãnh thổ.

Quốc hội bác yêu sách này với đa số. Nhưng yêu sách về lãnh thổ của Campuchia thì được một số dân biểu cánh tả của quốc hội Pháp ủng hộ.

Thấy đòi nguyên cả Nam Kỳ không xong, ngày 2-5-1949 Quốc hội Campuchia cho ra một kiến nghị yêu cầu nhà nước Pháp phân định lại biên giới. Những người này cho rằng, biên giới giữa Nam Kỳ và Campuchia chưa bao giờ được phân định. Các cuộc phân định trước hoàn toàn mang tính cách thiên vị, gây thiệt hại cho Campuchia. Kiến nghị này cũng bị quốc hội Pháp bác bỏ.

Căm hận Pháp đã không thỏa mãn các yêu sách của mình, Sihanouk có khuynh hướng nghiêng về Trung Cộng, là một thế lực đang lên, đứng sau chính phủ Hồ Chí Minh, đối đầu với Pháp trong vấn đề Việt Nam. Ông này nghĩ rằng TQ sẽ dùng chính phủ của ông chống lại Pháp ở mặt trận phía tây.

Hội nghị Genève 1954, Sihanouk công bố trước các đại cường yêu sách về lãnh thổ của Campuchia gồm 6 giải pháp, nội dung dẫn lại sơ lược như sau:

Hoặc trả lại cho Campuchia toàn vùng đất phía hữu ngạn sông Hậu Giang, bao gồm thêm các tỉnh Trà Vinh, đảo Phú Quốc và vùng đất giới hạn giữa kinh Tân Châu và sông Tiền Giang, đồng thời tàu bè Campuchia có quyền quá cảnh ở Sài Gòn.

Hoặc là trả lại các vùng lãnh thổ trải dài cho tới hữu ngạn sông Tiền Giang, gồm các tỉnh Hà Tiên, Châu Đốc, Long Xuyên, Cần Thơ, Sóc Trăng, Trà Vinh, Vĩnh Long, Sa Đéc và đảo Phú Quốc, quyền được quá cảnh ở Sài Gòn đồng thời dân Khmer sống trên đất Việt Nam phải được bảo vệ.

Hoặc phải “quốc tế hóa Nam Kỳ”, kinh Vĩnh Tế và hải cảng Sài Gòn có quy chế tự do, bãi miễn thuế quan. Còn không là phải đặt Nam Kỳ và đảo Phú Quốc dưới sự quản trị của LHQ.

Các đòi hỏi phi lý này không được nước nào ủng hộ. Tuy vậy, kết cuộc hội nghị nhìn nhận Campuchia được quyền thông lưu trên sông Cửu Long để ra biển cũng như được quyền sử dụng thương cảng Sài Gòn. Nhưng các điều này bị VNCH bảo lưu, lý do cần xem xét lại luật lệ quốc tế để xem rằng Campuchia có chính đáng được hưởng các quyền này hay không? Cuối cùng thì các quyền này của Campuchia bị Việt Nam bác bỏ dưới thời ông Diệm.

Biên giới Việt Nam – Campuchia 1954 đến 1975

Sau thất bại ở hội nghị Genève 1954, Sihanouk nuôi dưỡng ý định trả thù. Ông này dung dưỡng mọi thế lực chống lại chính phủ Bảo Đại, sau này là Ngô Đình Diệm.

Một số thí dụ, các lực lượng tôn giáo chống ông Diệm được Sihanouk cho phép lập sào huyệt trên đất Miên. Vì vậy để tảo thanh, quân VNCH buộc phải đi vào đất của Campuchia. Các xung đột này bắt đầu từ năm 1955. Dĩ nhiên, Sihanouk lợi dụng các việc này vừa tố cáo Việt Nam, trong khi trên thực địa thì cho người dời cột mốc phân giới sang phía Việt Nam. Để trả đũa, ông Diệm tuyên bố hủy bỏ mọi “quyền lịch sử” của Campuchia trên lãnh thổ Việt Nam.

Đến năm 1960 lực lượng Mặt trận Giải phóng Miền Nam (MTGPMN) được thành lập. Tổ chức này cũng xây dựng sào huyệt trên lãnh thổ Campuchia, dĩ nhiên dưới sự đồng ý ám thị của Sihanouk. Theo một số tài liệu, phía VNDCCH “nhìn nhận đường biên giới hiện trạng của Campuchia”, trong khi MTGPMN, cũng như nhiều cán bộ cấp cao của CSVN, thì hứa hẹn, nếu thắng được VNCH thì sẽ thương lượng lại với Campuchia về vấn đề lãnh thổ.

Vì các hứa hẹn này các đường mòn gọi là đường mòn Hồ Chí Minh được Sihanouk đồng ý cho thiết lập. Con đường huyết mạch tiếp tế lương thực và vũ khí cho quân MTGPMN cũng như quân chính quy miền Bắc sau này.

Quan hệ giữa Sihanouk và VNDCCH thân thiết đến mức độ vào tháng 8 năm 1963, Campuchia tuyên bố chấm dứt ngoại giao với VNCH.

Sau khi ông Diệm bị đảo chánh ngày 1-11-1963, quan hệ hai bên VNCH và Campuchia vẫn không ấm áp trở lại, mà còn tệ hai hơn. Nguyên nhân, người Mỹ chính thức đổ quân vào Việt Nam, các cuộc hành quân, càn quét, dội bom trên đất Campuchia nhằm phá hoại đường mòn Hồ Chí Minh… các việc này gây ra những thiệt hại đáng tiếc cho phía thường dân Campuchia.

Tháng 7 năm 1965, Sihanouk kiện VNCH lên LHQ về việc xâm phạm lãnh thổ. LHQ có điều tra nhưng chỉ kết luận rằng VNCH có vào lãnh thổ Campuchia sau đó rút về, vì lý do bên Campuchia có dung chứa các lực lượng đối kháng, chứ VNCH không có xâm chiếm lãnh thổ của Campuchia.

Không hài lòng kết quả điều tra của LHQ, Sihanouk lên tiếng kêu gọi quốc tế ủng hộ Campuchia, nhìn nhận “đường biên giới hiện trạng” của nước này. Một số nước ủng hộ, trong đó có Pháp. Năm 1966, Pháp ủng hộ Campuchia “trung lập”. Nhưng việc này không thuyết phục vì trên lãnh thổ Campuchia vẫn còn nguyên các sào huyệt của MTGPMN cũng như các con đường tiếp tế từ bắc vào nam gọi là đường mòn Hồ Chí Minh.

Cuối cùng thì Sihanouk bị tướng Lon Nol lật đổ năm 1970. Sau khi lên nắm quyền, Lon Nol yêu cầu tất cả các lực lượng của CSVN rút khỏi Campuchia. Cũng như bất kỳ một người Campuchia nào khác, Lon Nol cũng rất bài Việt.

Trong khi đảo chánh xảy ra, các cuộc thảm sát thường dân Việt Nam đã diễn ra, thây người thả đầy trên sông Cửu Long. Một số lớn người Việt phải hồi hương. Việc này càng tạo thêm gánh nặng và sự bất ổn trong xã hội miền Nam.

Lực lượng Khmer đỏ được thành lập dưới sự yểm trợ và huấn luyện của CSVN. Trên thực tế, vùng phía bắc lãnh thổ Campuchia hoàn toàn do quân đội CSVN kiểm soát. Nhưng trong nội bộ của Khmer đỏ lại có nhóm có khuynh hướng bài Việt. Những nhóm này cũng giết chóc, khủng bố, đồng thời trục xuất người Việt, như những lãnh đạo không cộng sản khác của Campuchia.

Tóm lại, thời kỳ này đường biên giới, cũng như kiều dân Việt Nam sống trên đất Campuchia, trở thành con tin bị các phía Campuchia trao đổi quyền lợi chính trị. Trong thời chiến, vấn đề biên giới không kiểm soát được, nhưng dân chúng Việt Nam là nạn nhân trực tiếp của các tranh chấp này.

Từ năm 1975 đến nay

Từ năm 1975 cho đến 1990, ta có thể nói rằng khu vực Đông Dương vừa là một chiến trường, vừa là một bàn cờ địa chiến lược của các thế lực quốc tế, gồm có các nước liên hệ trong khu vực và các đại cường Trung Cộng, Liên Xô và dĩ nhiên là Mỹ.

Vấn đề biên giới, Campuchia không chỉ có tranh chấp với Việt Nam mà còn có tranh chấp với Thái Lan về chủ quyền ngôi đền Préah Viheart, cũng như ranh giới ngoài biển, từ sau khi lấy lại độc lập năm 1953. Trong thời gian này vấn đề biên giới giữa các bên không chính thức đặt ra, nhưng nó luôn là cái cớ để chiến tranh bùng nổ. Nhất là đối với hai nước Việt – Miên.

Sau khi quân Pol Pot tiến vào Nam Vang, cũng như quân miền Bắc chiếm Sài Gòn, tháng 6 năm 1975, một phái đoàn của Khmer đỏ gởi đến Hà Nội để nhắc lại những cam kết của CSVN: “Nhìn nhận đường biên giới hiện trạng của Campuchia” trong thập niên 1960 về vấn đề lãnh thổ của Campuchia. Những người này, theo dự kiến là sẽ ký kết ước với Hà Nội để bảo đảm sự “toàn vẹn lãnh thổ” của hai nước.

Nhưng nhóm Khmer đỏ thân Trung Quốc trong phái đoàn bất đồng ý kiến với nhóm thân Hà Nội. Phe thân Bắc Kinh lên tiếng đòi Việt Nam trả lại cho họ vùng lãnh thổ gọi là “Khmer Krom”.

Điều nên biết, chiến thắng ngày 30-4-1975 của CS miền Bắc đã làm cho lãnh đạo Bắc Kinh tức tối. Chủ trương của Trung Quốc từ xưa nay là chống lại Việt Nam thống nhất, cũng như chống lại việc Việt Nam quá thân thiện hay lệ thuộc vào Liên Xô. Phía bắc, áp lực của Liên Xô đã trầm trọng, quân Liên Xô đóng dài dài trên biên giới gây áp lực. Biển Hoa Đông thì bị Nhật, Đài Loan án ngữ. Biển Đông thì hạm đội Liên Xô đã có mặt tại Cam Ranh. Nếu Campuchia hòa hoãn hay thân thiện với Việt Nam thì Trung Quốc sẽ không có cách gì để phá vỡ thế cô lập.

Mặt khác, quyền lợi của Mỹ cũng bị đe dọa, các nước chung quanh như Thái Lan, Mã Lai v.v… sẽ sụp đổ, theo như thuyết Domino của Mỹ. Vì vậy Bắc Kinh, cũng như “đồng minh bất đắc dĩ” của Trung Quốc là Mỹ, chắc chắn phải tìm cách đẩy hai bên Việt Nam và Campuchia vào thế đối đầu. Vì thế, cả hai đại cường, Mỹ và Trung Quốc, một tư bản, một cộng sản, do cùng mục tiêu ngăn chặn Liên Xô bành trướng, lại hợp tác với nhau, ra mặt ủng hộ Pol Pot chống lại Việt Nam.

Dĩ nhiên, nguyên nhân bên ngoài là tranh chấp đất đai, nhưng bên trong là sự tranh giành ảnh hưởng địa chiến lược trong khu vực của các đại cường. Vì vậy, như đã nói, lãnh thổ trong quảng thời gian này là cái cớ để chiến tranh bùng nổ.

Để kích thích Việt Nam vào vòng chiến, trong lúc phái đoàn Khmer đỏ còn ở Hà Nội thì quân Khmer đỏ đã đánh chiếm cù lao Poulo Wai trong vịnh Thái Lan. Dọc biên giới thì quân Khmer đỏ đã sẵn sàng dàn quân ứng chiến. Như thường lệ, những người dân Việt Nam sinh sống ở Campuchia lại trở thành nạn nhân. Trên 150.000 người bị ngược đãi, trục xuất về Việt Nam. Con số bị giết không biết là bao nhiêu, nhưng chắc chắn không nhỏ.

Tháng 6 năm 1976, Việt Nam gởi sứ giả sang Nam Vang hy vọng làm dịu tình hình, nhưng phía Khmer đỏ đòi phải phân định lại biên giới, thay đổi đường biên giới theo các bản đồ của Sở địa dư Đông Dương ấn hành năm 1954, trong khi phía Việt Nam thì nhìn nhận đường biên giới hiện trạng là đường biên giới thể hiện trên bộ bản đồ này. Mặt khác, hai bên cũng không đồng thuận về biên giới trên biển.

Phía Khmer đỏ gia tăng khiêu khích, từ năm 1975 đến 1978, bọn này đã tiến sang Việt Nam đánh phá và tàn sát dân chúng ở 25 huyện và 96 xã, gây ra trên 257.000 nạn nhân màn trời chiếu đất. Trong năm 1977, Pol Pot cho quân lính tiến sang Tây Ninh tàn sát dân chúng sinh sống ở đây, nhưng sự phản ứng của quân Việt Nam, do thiện chiến hơn, đã làm cho quân Khmer thiệt hại nặng. Và cũng để trả đũa những vụ tàn sát dân lành vô tội sinh sống các tỉnh dọc biên giới, tháng 12 năm 1977, Việt Nam mở một cuộc hành quân thần tốc vào tỉnh Svay Rieng, khiến quân Khmer đỏ thiệt hại nặng nề. Cuối năm, Pol Pot tuyên bố chấm dứt quan hệ ngoại giao với Việt Nam.

Chiến tranh Việt – Miên bùng nổ. Dưới sự quan sát của các học giả quốc tế, cuộc chiến này là một cuộc chiến “ủy nhiệm”. Pol Pot đánh Việt Nam là đánh cho Trung quốc. Còn Việt Nam đánh [Khmer đỏ] là đánh cho Liên Xô.

Tháng 12 năm 1978, quân Việt Nam tiến vào Nam Vang, đánh đuổi Pol Pot và thành lập chính phủ thân Việt Nam ở đây. Cùng với chính phủ này, Việt Nam đã ký kết các hiệp định “các nguyên tắc giải quyết các vấn đề biên giới”. Trên đất liền ký năm 1982, trên biển ký năm 1983.

Trả lời phỏng vấn báo chí, Nguyễn Cơ Thạch cho rằng, Việt Nam tôn trọng đường biên giới hiện trạng theo bộ bản đồ Đông Dương 1/100.000. Nhưng Sihanouk, năm 1984, tố cáo trước dư luận, qua thủ tướng Thái Lan, rằng Việt Nam đã chiếm vùng “mỏ vịt”, tức là tỉnh Svay Rieng.

Về biên giới trên biển, theo nội dung các văn bản tham khảo được thì hai bên cùng đồng ý “lấy đường Brévié được vạch ra năm 1939 làm đường phân chia các đảo trong khu vực này”, hai bên đồng thuận về “vùng nước lịch sử” trong khu vực đảo Phú Quốc và “sẽ thương lượng vào thời gian thích hợp… để hoạch định đường biên giới biển giữa hai nước”.

Đảo Wai được Việt Nam trả lại cho Campuchia

Tháng 12 năm 1985 hai bên ký lại “Hiệp ước hoạch định biên giới”. Ngày 10-10-2005 ký thêm “Hiệp ước bổ sung” về biên giới. Hai bên bắt đầu cắm mốc từ năm 2006. Ta thấy tỉnh Svay Riêng, tức vùng Mỏ vịt, vẫn thuộc lãnh thổ của Campuchia. Tức là lời tố cáo của Sihanouk là không đúng.

Điều nên biết, sau khi quân Pol Pot vào Nam Vang thành lập chính quyền thì Sihanouk được mời về làm quốc trưởng. Nhưng liền sau đó thì bị bạc đãi, tính mạng bị đe dọa. Bắc Kinh tìm cách can thiệp và đưa ông này đi Trung Quốc. Ở Bắc Kinh, Sihanouk được đối đãi như là một thuợng khách. Bởi vì lãnh đạo Trung Nam Hải biết được giá trị ở con cờ Sihanouk. Ông vua này có thể làm bất cứ điều gì để chống lại Việt Nam.

Cũng vì lý do này mà đất nước Campuchia điêu linh, thần dân của ông bị nhà nước Khmer đỏ tiêu diệt gần 1/3, trong đó có họ hàng thân thích của ông. Điều trớ trêu là, nhà nước này do Trung Quốc dựng lên, lúc đó ông là một thành phần của nhà nước này.

Tuy vậy, hiện nay Trung Quốc vẫn là một đồng minh được ưa chuộng tại Campuchia. Người Việt ở đây bị kỳ thị bao nhiêu thì người Hoa được ưu đãi bấy nhiêu. Toàn thể huyết mạch kinh tế Trung Quốc hiện nay là do 10 dòng họ người Hoa nắm giữ. Liên minh Trung Hoa – Khmer hứa hẹn sẽ bền chặt lâu dài mà chất keo hàn gắn hai bên là tinh thần bài Việt. Vấn đề lãnh thổ luôn được các bên sử dụng như là một cái cớ để khích động dân chúng chống đối Việt Nam.


 

Sắp hầu tòa vụ ‘diễn xiếc trên mô tô,’ người mẫu Ngọc Trinh ‘xin khoan hồng’

Ba’o Nguoi-Viet

January 6, 2024

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Công An ở Sài Gòn loan báo vừa hoàn tất bản kết luận điều tra và lệnh truy tố cô Trần Thị Ngọc Trinh, 34 tuổi, tức người mẫu Ngọc Trinh, với cáo buộc “gây rối trật tự công cộng.”

Ngọc Trinh được công luận biết đến là người mẫu nội y và những phát ngôn gây tranh cãi như “Yêu mà không có tiền thì cạp đất mà ăn à?” Cô cũng từng khiến công luận bàn tán khi có quan hệ yêu đương chóng vánh với “đại gia” Việt kiều Mỹ Hoàng Kiều.

Hình ảnh mới nhất của người mẫu Ngọc Trinh trong trại giam. (Hình: Dân Trí)

Theo báo Dân Trí hôm 6 Tháng Giêng, cùng bị truy tố với cô Ngọc Trinh trong vụ án nêu trên là ông Trần Xuân Đông ở quận 4, Sài Gòn, nhưng ông này được tại ngoại hậu tra.

Bản tin cho biết, sau thời gian bị bắt tạm giam, cô Ngọc Trinh “đã nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật” và “bày tỏ mong muốn nhận được sự khoan hồng của pháp luật.”

Hồ sơ của công an cho hay, hôm 8 Tháng Mười năm ngoái, mạng xã hội lan truyền đoạn video clip ghi lại cảnh cô Ngọc Trinh “diễn xiếc” khi lái mô tô tại khu vực hầm Thủ Thiêm: Cô được nhìn thấy trình diễn một loạt động tác nguy hiểm như quỳ, bò, ngồi hai chân một bên, dang cả hai tay khi chạy xe với tốc độ cao…

Video clip này được hiểu là nhằm để quảng cáo cho một thương hiệu xe mô tô.

Sau khi đoạn clip gây tranh cãi, Công An Thành Phố Thủ Đức, Sài Gòn, đã triệu tập và xử phạt hành chính đối với cô Ngọc Trinh về hành vi chưa có bằng lái xe A2 nhưng vẫn lái mô tô phân khối lớn với các động tác nguy hiểm.

Tuy vậy, việc Công An ở Sài Gòn sau đó bắt giam cô Ngọc Trinh hôm 19 Tháng Mười cùng năm khiến công luận dấy lên chỉ trích về chuyện áp đặt tội danh “gây rối trật tự công cộng” trong lúc hành vi của nữ người mẫu là đăng tải video clip trên mạng xã hội.

Người mẫu Ngọc Trinh đã bị bắt tạm giam gần ba tháng. (Hình: Dân Trí)

Đề cập về tội danh nêu trên, Luật Sư Đặng Đình Mạnh bình luận trên trang cá nhân: “…Việc nới rộng, bành trướng khái niệm ‘nơi công cộng’ bao gồm cả không gian mạng đã thể hiện tham vọng lẫn ý đồ không hề đơn giản của cơ quan an ninh. Họ sẽ vươn đôi tay trừng phạt dài hơn, sâu rộng hơn để bảo đảm trấn áp mọi tiếng nói, nhất là tiếng nói đang thu hút sự quan tâm của đông đảo quần chúng. Theo đó, cô Ngọc Trinh, một nhân vật đầy lý tưởng cho vai trò nạn nhân đầu tiên để mở màn cho sự bành trướng của cơ quan an ninh.”

Hiện chưa rõ thời điểm cô Ngọc Trinh sẽ phải hầu tòa cùng với đồng phạm Trần Xuân Đông. Tuy vậy, theo thủ tục tố tụng ở Việt Nam, từ lúc có lệnh truy tố bị can đến khi mở phiên tòa thường là khoảng một tháng. (N.H.K)


 

Ăn mặc không kín đáo

PHỞ TUẤN – 250, Giếng Đồn, TP Hạ long – Những câu chuyện vui

Một cô gái ăn mặc không được kín đáo đi vô tiệm. Ông chủ tiệm là một người nghiêm nghị, uyên bác; ông nhìn cô xong bèn mời cô ngồi.

Ông nhìn thẳng vào mắt cô và nói đôi điều mà suốt đời cô không bao giờ quên:

“Cô à, mọi thứ thật giá trị do thượng đế tạo ra đều được che đậy, khó tìm kiếm. Ví dụ:

1/ Hột xoàn được tìm thấy ở đâu?

Trong lòng đất, được bao phủ, lấp kín.

2/Ngọc trai được tìm thấy ở đâu?

Dưới lòng biển sâu được che chở bảo bọc bởi hai vỏ cứng đẹp đẽ.

3/ Vàng được tìm thấy ở đâu?

Dưới lòng đất, dưới nhiều lớp đất đá, muốn lấy được vàng ta phải đào xới khổ nhọc.

Ông nhìn vào cô lần nữa và phán “Cơ thể cô là bất khả xâm phạm là độc nhất vô nhị của thượng đế.

Giá trị của cô quá quí báu hơn cả vàng, kim cương hay ngọc trai, thế nên cô cũng cần phải che đậy nữa chứ. Nếu cô giữ kỹ các mỏ đá quí như vàng, kim cương hay ngọc trai…thì những người chuyên đào mỏ với nhiều máy móc cần thiết sẽ làm việc/khai thác cả nhiều năm trời:

1/Trước hết, họ phải xin phép chánh quyền (cha mẹ)

2/Thứ hai, họ phải ký hợp đồng hẳn hoi (hôn thú)

3/Thứ ba, họ phải biết khai thác quặng mỏ một cách chuyên nghiệp và biết tinh luyện để lấy những phẩm chất quí giá đó (hạnh phúc trong hôn nhân).

Nhưng nếu cô cứ để “những mỏ quí” của cô nằm khơi khơi trên mặt đất (khoe khoang với mọi người), thì cô đã khuyến khích những người khai thác mỏ bất hợp pháp đi vào. Họ sẽ tìm tòi, đào xới bất hợp pháp và sẽ lấy đi những thứ quí giá mà thượng đế ban tặng.

Nhớ nhen, các cô là tài sản quí báu.


 

TỰ NHỦ LÒNG…

Gieo Mầm Ơn Gọi

Tự nhủ lòng học cách sống bình yên

Chẳng hơn thua chuyện thiệt hơn trần thế

Bởi cuộc đời vốn chông chênh dâu bể

Cãi tranh chi để vướng bận trong lòng?

 

Cứ bình thản đón nhận những bão giông

Xuân muốn đến cần trải đông giá lạnh

Nếu có lỡ gặp khổ đau bất hạnh

Chớ nản lòng cứ mạnh mẽ vượt qua.

 

Rồi ai cũng đến tuổi bóng xế tà

Thác về đất thân hòa vào cát bụi

Chén canh đắng quên muộn sầu buồn tủi

Nơi thế nhân chẳng nhung nhớ điều gì.

 

Xa tranh giành chen lấn chốn thị phi

Như những cánh thiên di không ngừng nghỉ

Cứ bay đến khắp vùng trời thiên ý

“Bĩ cực rồi” cũng tới lúc ” thái lai”.

 

Tự nhủ mình một kiếp dẫu ngắn dài

Chân thiện sống như ngày mai sẽ chết

Buông bỏ hết muộn phiền không cần thiết

Để tâm hồn thật vui vẻ an nhiên.

ST


 

Vụ Việt Á: Toàn bộ quan chức đều nhận hối lộ bằng đô la Mỹ

Ba’o Nguoi-Viet

January 5, 2024

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Một tình tiết bên lề trong phiên tòa xử vụ Việt Á khiến công luận chú ý là toàn bộ quan chức, từ bộ trưởng, thứ trưởng đến bí thư tỉnh, chủ tịch thành phố đều nhận hối lộ của doanh nghiệp này bằng đô la Mỹ, chứ không phải tiền đồng.

Theo báo VNExpress hôm 5 Tháng Giêng, tại phiên tòa, khi được hỏi về nguồn tiền đô la Mỹ dùng trong các lần “lót tay” cho quan chức từ trung ương đến địa phương, bị cáo Phan Quốc Việt, tổng giám đốc công ty Việt Á, khai mình thường rút tiền mặt tại ngân hàng đổi sang ngoại tệ.

Bị cáo Phan Quốc Việt (giữa), tổng giám đốc công ty Việt Á, bị dẫn giải đến tòa vào sáng hôm 5 Tháng Giêng. (Hình: Ngọc Thành/VNExpress)

Chẳng hạn, trong lần hối lộ ông Phạm Công Tạc, cựu thứ trưởng Khoa Học và Công Nghệ Việt Nam $50,000, bị cáo Việt khai khi đó mình đang ở thành phố Đà Nẵng, “ra ATM rút 5.1 tỷ đồng,” rồi đem số tiền này đi đổi được $200,000 rồi đưa người phó, Vũ Đình Hiệp cất giữ để “khi nào cần ‘ngoại giao’ thì dùng dần.”

Bị cáo Hiệp sau đó xác nhận điều Việt khai, khẳng định các lần “đi ngoại giao” quan chức đều sử dụng đô la Mỹ.

Tuy vậy, bị cáo Phạm Công Tạc phủ nhận con số $50,000 và khai rằng mình chỉ nhận 100 triệu đồng ($4,103).

Trong số 38 bị cáo của vụ án Việt Á, ông Nguyễn Thanh Long, cựu bộ trưởng Y Tế Việt Nam, bị cáo buộc nhận nhiều tiền nhất từ Việt Á – $2.2 triệu, để “can thiệp, chỉ đạo” giúp công ty Việt Á được Bộ Y Tế cấp số đăng ký lưu hành bộ kit xét nghiệm COVID-19 với giá cao gấp 3.5 lần giá thực tế.

Cũng tại phiên tòa Việt Á, theo báo ZNews hôm 5 Tháng Giêng, một chi tiết gây bàn tán là bị cáo Chu Ngọc Anh, cựu chủ tịch thành phố Hà Nội, cựu bộ trưởng Khoa Học và Công Nghệ, khai rằng mình đã làm “thất lạc” khoản tiền $200,000 mà Phan Quốc Việt hối lộ.

“Túi quà của Phan Quốc Việt đưa, ban đầu bị cáo [tôi] không biết bên trong có tiền. Nhận xong, bị cáo để trên sàn nhà trong phòng làm việc, mãi sau này mở ra xem mới thấy có tiền và bị cáo suy nghĩ việc nhận này dù thế nào cũng là sai lầm,” ông Ngọc Anh được dẫn lời.

Bị cáo Nguyễn Huỳnh (giữa), thư ký của ông Nguyễn Thanh Long, cựu bộ trưởng Y Tế

Việt Nam, là người kết nối khoản hối lộ $2.2 triệu của Phan Quốc Việt. (Hình: Ngọc Thành/VNExpress)

Cựu chủ tịch thành phố Hà Nội nói thêm rằng mình đã bỏ số tiền nêu trên vào một chiếc vali nhờ người chở về nhà riêng và sau đó, do “bận đi công tác lâu ngày” nên không nhớ rõ cái vali để ở đâu.

Ông Ngọc Anh đưa ra lý do này để giải thích chuyện mình đã nộp tiền “khắc phục hậu quả” bằng khoản tiền đồng tương đương $200,000, hòng được cho bản án nhẹ khi tòa công bố phán quyết. (N.H.K)


 

Nếu luật pháp không nghiêm minh thì tất yếu sẽ loạn

Ba’o Tiengg Dan

Thái Hạo

5-1-2024

Sáng dậy thấy một loạt báo đưa tin, đọc, nhưng không biết vì sao ông Thích Trúc Thái Minh bị kỷ luật, cũng không hiểu vì sao ông này phải sám hối! Đây cũng là các câu hỏi tràn ngập mạng xã hội từ đêm qua đến giờ, và hầu như ai cũng tỏ ra khó hiểu, thất vọng.

Xin hỏi lại, ông Thích Trúc Thái Minh phạm vào tội lỗi gì? Nếu vì tổ chức hoạt động trưng bày trái quy định thì chủ yếu là vi phạm pháp luật, mà vi phạm pháp luật thì phải bị chế tài theo luật nhà nước, chứ sao lại chỉ bị Giáo hội kỷ luật và chỉ “sám hối”?

Rốt cuộc, cái cọng ngọ ngậy kia là gì, có đúng là xá lợi tóc phật như ông Thích Trúc Thái Minh tuyên truyền không? Hoặc ít nhất, nó có đúng là một trong tám “sợi tóc xá lợi” thuộc quốc bảo của Myanmar không, hay ông Thích Trúc Thái Minh mua ở một cửa hàng kinh doanh đồ thờ được gọi là “bảo tàng xá lợi”? Điều này nhà chức trách hoàn toàn có thể làm sáng tỏ trong một nốt nhạc.

Và nếu nó là giả mạo, không đúng như lời tuyên truyền, lại thêm sự hợp tác với người nước ngoài để lừa dối Phật tử thì phải chịu trách nhiệm thế nào trước pháp luật?

Có hay không sự lừa dối để trục lợi? Và những người bị thiệt hại về vật chất lẫn tinh thần sẽ phải được trả lại công bằng như thế nào?

Việc bên giáo hội thì chiếu theo giáo luật, việc xã hội thì chiếu theo pháp luật, không thể qua loa chiếu lệ cho xong chuyện.

Rồi lại hỏi: Sau khi nhận lỗi (không biết lỗi gì!), ông Thích Trúc Thái Minh sẽ nói gì với Phật tử chùa Ba Vàng? Hay ông lại nói như các đệ tử của ông đang lang thang “tác chiến” trên khắp các mặt trận, rằng những kẻ kỷ luật và phê phán ông là vô minh và phải chịu quả báo? Ông sẽ tiếp tục tuyên truyền, bơm thổi gì vào đầu óc tín đồ?

Đây không phải lần đầu tiên ông Thích Trúc Thái Minh vi phạm và bị xử lý. Với tư cách là một tu sĩ Phật giáo, trụ trì một ngôi chùa lớn, nếu cứ vi phạm hết lần này đến lần khác và chỉ bị phạt một cách hời hợt như thế, xin hỏi trách nhiệm của Giáo hội đã đầy đủ chưa và ông Thích Trúc Thái Minh có xứng đáng đứng trong tăng đoàn nữa không?

Luật (cả giáo luật và pháp luật) nếu không NGHIÊM MINH thì loạn là tất yếu, không gì cứu vãn được.


 

TẬP….

Gieo Mầm Ơn Gọi

TẬP….

Tập cảm thông tha thứ
Trước lỗi lầm đắng cay
Vì đời cần biết mấy
Yêu thương trong tim này

Tập điềm nhiên tĩnh lặng
Trước điều tiếng thị phi
Sóng gió dù đủ kiểu
Rồi cũng sẽ tan đi

Tập khiêm nhường nhẫn nhịn
Trước giành giật hơn thua
Lá xanh dù thắm mấy
Cũng vàng phai theo mùa

Tập lắng lòng tĩnh táo
Trước thế sự đảo điên
Có nhiều khi em ạ
Mọi sự để tùy duyên