Một cách dạy con của người xưa.- ĐẠP BÁNH TRÁNG

ĐẠP BÁNH TRÁNG

Khi ra đường người ta thường hay mang theo tiền dằn túi, nói để phòng hờ rủi ro ‘đạp bánh tráng’ thì có tiền mà trả. Ðây là một câu nói đùa nhưng ‘tai nạn’ này đã thật sự xảy ra với anh em chúng tôi.

Vào niên học 1955, Tuấn, anh tôi, học lớp Ba thầy Tươi, còn tôi học lớp Tư thầy Quang trường Tiểu học Tây Ninh. Năm ấy, học sinh trường chúng tôi có nhiều bạn mới di cư từ Miền Bắc đến học chung. Các bạn này thường mặc áo vải nâu. Tôi không rõ do chính phủ cứu trợ, phát cho đồng bào di cư vải màu này hay đó là màu được người quê Miền Bắc ưa chuộng. Thấy ngồ ngộ nên má tôi may cho anh em chúng tôi, mỗi đứa một cái áo sơ-mi màu nâu ‘di cư’ để mặc đi học.

Ðoạn đường trước trường Tiểu học Tây Ninh trong những năm ấy đầy dẫy những gánh hàng rong, xe cà-rem, xe nước đá … Học sinh phải đi qua chốn nhộn nhịp, lôi cuốn này trước khi đến trường.

Trưa hôm ấy, anh em chúng tôi đang tung tăng bước vào cổng trường bỗng dưng có ai túm áo chúng tôi từ sau lưng kéo lại. Ðó là một bà mặc áo túi, cũng một màu nâu như áo sơ-mi của chúng tôi nhưng đã bạc màu, đầu bà đội chiếc nón lá rách bươm.

Chúng tôi chưa kịp nói gì bà đã la lớn lên:

– “Chúng mày chạy đâu cho thoát? Ðạp vỡ bánh đa của bà thì phải đền!”

Anh em chúng tôi phân trần:

– “Ðâu có, anh em tui đâu có đạp bánh đa của ai !”

Nhưng bà không nghe, kéo anh em chúng tôi đến văn phòng Hiệu Trưởng.

Ba tôi là thầy giáo Sen, dạy lớp Tư. Ngày hai buổi đi dạy học ông chở chúng tôi theo luôn bằng xe mobylette.

Khi anh tôi lên lớp Ba ông mới cho phép anh dẫn tôi đi học, lội bộ từ nhà đến trường cùng với chúng bạn.

Hôm ấy, nhờ ai đó thông báo nên ba tôi đến ngay văn phòng Hiệu trưởng. Gặp ba, anh em chúng tôi mừng rỡ vì nghĩ rằng ông sẽ bảo vệ chúng tôi khỏi tội đạp bể bánh tráng mà bà bán hàng đã vu oan. Tuy nhiên, mặc dù chúng tôi nói không có đạp bể bánh tráng, ông nhìn bà bán hàng rồi không hiểu sao ông xin lỗi bà, hỏi bà bị thiệt hại bao nhiêu và ung dung móc bóp lấy tiền đền.

Bà ta đòi sáu đồng cho 12 bánh đa bị bể, mỗi cái giá năm cắc, nhưng bỗng nhiên bà lại chăm chú nhìn mặt anh em chúng tôi một lát, rồi lắc đầu nói:

– “Ôi, lạy Chúa tôi ! Tôi nhầm thầy ạ. Hai cậu này tóc cúp ngắn còn hai cậu học sinh chạy đùa, đạp vỡ bánh đa của tôi, cũng mặc áo màu này nhưng tóc để dài. Thôi, tôi xin lỗi thầy, tôi không dám nhận tiền của thầy đâu. Tội chết!”

“Vậy thì bà cho phép tôi đền giùm cho hai cậu học trò ấy nhen!”

Ba tôi vừa nói vừa đưa cho bà bán bánh đa tờ 10 đồng và ông xin bà giữ trọn số tiền, khỏi thối lại. Ông phải cố gắng thuyết phục bà ấy mới nhận số tiền.

Sau khi bà bán bánh đa đi rồi, ba tôi biểu:

– “Thôi, hai đứa đến lớp học đi!”

Nhưng anh em chúng tôi vẫn đứng lại, mặt mày ngơ ngác không hiểu vì sao ba lại đền bà bán hàng đến 10 đồng. Riêng tôi, trong lòng cũng có tiếc số tiền ‘lớn’ ấy vì thời đó mỗi ngày tôi chỉ được ba má cho năm cắc để ăn bánh mà thôi.

Chần chừ trong giây lát tôi mới dám hỏi ông.

Ba tôi không trả lời ngay mà dắt chúng tôi ra ngoài hành lang rồi ông ngồi xuống, một chân quỳ, một chân co gối, ôm cả hai chúng tôi vào lòng và nói:

– “Ba thấy bà ấy nghèo quá, phải đành đoạn bỏ nhà, bỏ cửa, chạy trốn cộng sản, di cư vào Nam tìm tự do, nên ba tặng cho bà chút tiền làm phước đó mà! Hai đứa về lớp học giỏi, ba thương.”

Ðó là bài học phước thiện đầu tiên ba dạy anh em chúng tôi.

Chiều hôm ấy, ba tôi đi dạy học về nhà với vài cái bánh đa cột trên ghi-đông xe. Ông kể chuyện ‘đạp bánh tráng’ cho má tôi nghe và nói rằng bà bán bánh đón ông ở cửa trường, biếu cho ông năm cái bánh bà mới nướng còn nóng hổi. Chiều hôm ấy, má tôi hái đu đủ làm món gỏi xúc bánh đa thay vì bánh phồng tôm, cả nhà ai cũng khen ngon.

Hai mươi năm sau, năm 1975, vào khoảng giữa tháng Năm, một hôm tôi nằm chèo queo, một mình trên chiếc ghế bố, trong căn lều trại tị nạn Orote Point ở đảo Guam. Hình ảnh ‘đạp bánh tráng’ năm xưa chợt đến với tôi, mang theo một nỗi buồn ray rứt. Tôi có ngờ đâu mình cũng phải bỏ xứ ra đi, không một đồng xu dính túi, như bà bán bánh đa năm ấy, và tôi tự hỏi lần này bà ta có cơ hội chạy trốn cộng sản, tìm tự do như năm 1954 hay không. Và… và tôi nhớ đến ba má tôi, anh chị em tôi còn kẹt lại ở quê nhà thật nhiều.

Nguồn: FB Kim Trương

LeVanQuy share từ FB chị Mai-Agnetha Pham 


 

NGƯỜI KHỎE TẠI SAO LẠI ĐỘT TỬ?…

Bài viết của Bác sĩ Hoàng Tuyên – bác sĩ chuyên khoa nội lồng ngực và y học bệnh hiểm nghèo]

“Đột tử” thường xảy ra vào đêm khuya hoặc sáng sớm. Khi gặp gió lạnh mùa đông tràn về chúng ta phải thay đổi thói quen sinh hoạt, đừng nghĩ rằng mình còn trẻ mà không phòng bệnh.

Hôm qua rất lạnh, toàn Đài Loan có khoảng 50 người bị đột tử, nếu cứ tiếp tục lạnh nữa e rằng sẽ có hàng trăm người bị đột tử.

Mọi người chắc sẽ rất hiếu kỳ muốn biết rằng với những người đang khỏe mạnh, tai sao lại đột nhiên qua đời? Đặc biệt với những người không có tiền sử bệnh về máu, lại luôn uống thuốc đúng giờ, cũng không hút thuốc, không thức đêm, không uống rượu, trước khi đột tử đều không có hiện tượng bất thường?

Trong điều trị lâm sàng thì những vấn đề này thường được đề cập tới, thì đúng rõ ràng là đã mặc áo ấm rồi, vậy tại sao vẫn bị đột tử? Tôi điều trị những bệnh nhân này trong phòng chẩn bệnh lý hiểm nghèo, phát hiện ra rằng thực tế thì nguy cơ này xuất phát từ trong những thói quen hàng ngày, chứ không phải là mặc bao nhiêu quần áo ấm:

 Khi tỉnh giấc là bật ngay dậy: Vào mùa đông khi tỉnh dậy, ta nên nằm nán lại trên giường một lát rồi từ từ nhỏm dậy chứ không phải chui luôn khỏi tấm chăn ấm, chẳng ai đọ tốc độ xuống giường với bạn nhé! Bạn cần biết rằng độ ấm trong chăn là để cứu mạng, đừng có đột nhiên kéo tuột đi cách giữ ấm này. Khi làn da không có phương pháp bảo vệ nào mà tiếp xúc ngay với không khí lạnh thì phản ứng là co lại khiến mạch máu trong cơ thể đương nhiên cũng sẽ co lại.

Hãy xác nhận rằng trước khi ra khỏi chăn ta đã mặc sẵn một cái áo khoác ấm để cơ thể và chân tay được ấm áp.

Lúc đánh răng rửa mặt: Sau khi thức dậy, mọi người sẽ vào nhà vệ sinh, hãy hòa nước nóng và lạnh để có nước ấm, rồi mới đánh răng rửa mặt tránh toàn bộ mặt và mạch máu bị cấp đông mà co lại.

Đừng nghĩ rằng khi đánh răng rửa mặt thì chỉ bị lạnh một lát trên mặt, phòng tắm vừa ẩm vừa lạnh chính là nơi cần phải chú ý nhất.

Lúc cởi đồ: Ngâm hay tắm bằng nước nóng thì rất thoải mái, nhưng bạn đừng quên rời khỏi nguồn nước nóng lúc đó ta chưa mặc đồ, khi những giọt nước ấm trên da đột nhiên tiếp xúc với không khí lạnh khiến cơ thể sẽ run lên bần bật.

Hãy để khăn tắm ở nơi tiện lấy nhất, lập tức lau khô nước trên người, và mặc quần áo ngay, mùa đông không nên cởi bỏ quần áo quá lâu!

Bỏ qua phần tai và cổ: Tôi chứng kiến rất nhiều bệnh nhân đột tử, trước khi chết cổ và tai đều không được bảo vệ, đừng nghĩ rằng mặc ấm cơ thể và chân tay là đã đủ ấm. Tai và cổ bị gió lạnh thổi qua, hai tai thiếu lớp mỡ để giữ ấm, cổ lại là nơi tập trung nhiều dây thần kinh giao cảm nhỏ và mạch máu của não và cơ thể, quàng khăn và bịt tai có thể bảo vệ bạn.

Mặc quần áo sai thứ tự: Có lần tôi cấp cứu cho một bệnh nhân đột tử do trụy tim, khi y tá cắt bỏ quần áo mới phát hiện ra, anh ta mặc 2 áo thun và áo khoác, tức là không mặc áo len ngoài áo thun.

Hãy mặc áo đúng kiểu “sandwich” với lớp trong cùng là lớp áo lót có thể thấm mồ hôi, rồi đến áo len để giữ thân nhiệt, bên ngoài mới là áo khoác chắn gió chống nước.

Khi mặc sai thứ tự thì không giữ ấm được cho cơ thể thì dễ đột tử do mạch máu co thắt.

Đột tử do tập thể dục: Tập thể dục là việc tốt, nhưng phải hiểu rõ sinh lý cơ thể của mình, nguyên nhân đột tử do tập thể dục thường thấy như:

– Không khởi động trước tập, dừng lại đột ngột khi tập thể dục với cường độ cao, thiếu ôxi tại những vùng núi cao, hoặc khi tập động tác không quen.

– Thông thường khi chúng ta đang ở trạng thái không vận động, máu sẽ chảy ngược về tâm nhĩ và chỉ cần “ co tĩnh mạch “ là đủ. Tuy nhiên khi tập thể dục, tim sẽ đập nhanh hơn 6- 17 lần so với lúc không tập, và lưu lượng máu tới cơ cũng tăng lên 25 lần.

– Khi tiếp xúc với môi trường lạnh, mạch máu của bạn sẽ phản ứng tiếp tục co lại, lúc này lượng máu về tim không đủ nên rất nguy hiểm dẫn đến đột tử.

– Ta cho rằng những trường hợp mặc áo ấm nhưng dễ bị đột tử vào đêm khuya và sáng sớm thì ngoài những người tập thể dục vào sáng sớm, thì đại đa phần đột tử tại nhà.

 Khi cái lạnh bao trùm, chúng ta thay đổi thói quen vẫn chưa đủ, cũng đừng lợi dụng sức trẻ mà không chú ý đến các biện pháp phòng tránh.

– Tỷ lệ đột tử tăng mạnh theo từng năm, độ tuổi phát bệnh càng trẻ hóa, lại dễ phát sinh ở những người có tình trạng sức khỏe tốt, ở độ tuổi trung niên, khiến người thân tiếc thương vô hạn.

Buổi sáng tốt lành! Hãy yêu thương gia đình, yêu thương bản thân. Khi trời chuyển lạnh, mọi người chú ý giữ ấm, đừng lơ là.

Bác sĩ Hoàng Tuyên

From: Huu Lam & NguyenNThu


 

Bài học từ cuộc đời ‘thất bại’ của người có IQ cao nhất thế giới

Bị xem là “thần đồng thất bại” vì từ bỏ công việc, sự nổi tiếng để sống một cuộc đời bình thường nhưng Kim Ung-yong vẫn cảm thấy hạnh phúc.

Có nhiều từ để miêu tả người đàn ông tài năng Kim Ung-yong: Thần đồng Hàn Quốc, nhà nghiên cứu của NASA, diễn giả và giáo sư đại học. Hành trình cuộc đời của ông Kim từ cậu bé thần đồng đến một người mong muốn cuộc sống bình thường có vẻ là một nghịch lý. Ngày nay, người Hàn Quốc vẫn nhớ tới thông điệp nổi tiếng của ông Kim: “Là người đặc biệt không quan trọng bằng việc sống một cuộc đời bình thường”.

Ông Kim Ung-yong, sinh năm 1962, từng được sách Kỷ lục Guinness ghi danh là người thông minh nhất thế giới với chỉ số IQ 210. Kim thể hiện tố chất thông minh ngay khi chào đời không lâu.

Chưa đầy 12 tháng, Kim biết nói và 24 tháng đã có thể đọc lưu loát tiếng Hàn Quốc, Nhật Bản, Đức và Anh. Những năm đầu đời, Kim còn làm thơ và vẽ tranh. Từ năm 3 tuổi đến năm 6 tuổi, Kim là sinh viên ngành vật lý tại Đại học Hanyang. Kim từng xuất hiện trên chương trình truyền hình Nhật Bản để giải phương trình phức tạp khi mới 7 tuổi.

Kim được Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Mỹ (NASA) mời về làm nghiên cứu tại đây năm 8 tuổi. Kim cũng có bằng tiến sĩ vật lý tại Đại học Colorado. Sau một thập kỷ làm việc ở NASA, Kim nghỉ việc để về Hàn Quốc. Kim gọi khoảng thời gian 10 năm ấy là những năm đơn độc.

“Thời điểm đó, cuộc sống của tôi giống như một cái máy: thức dậy, cân bằng phương trình, ăn rồi ngủ. Tôi thực sự không biết mình đang làm gì. Tôi cô độc và không bạn bè”, Kim tâm sự.

Với Kim, được ở gần mẹ là yếu tố quyết định khiến ông từ bỏ tất cả. Tuy nhiên, sự trở về của Kim thời đó được báo chí nước này rất quan tâm.

“Tôi phát ốm và mệt mỏi khi lại trở thành tâm điểm. Tôi cảm thấy mình giống như một con khỉ trong vườn thú. Khi ấy chưa có Twitter hay phần mềm chat yahoo nên báo giấy vẫn quyền lực hơn cả. Tôi đoán một số người thậm chí còn bắt đầu bảo tôi là tâm thần phân liệt. Tôi không muốn ai chú ý đến mình cả”, Kim cho hay.

Kim muốn có công việc ở Hàn Quốc nhưng cần phải có bằng tốt nghiệp các cấp. Vậy là thần đồng lại đi học từ đầu. Chỉ trong vòng một năm, Kim học xong chương trình cấp một và trung học cơ sở. Năm tiếp theo, ông hoàn thành bậc trung học phổ thông rồi sau đó học đại học tại một trường ở ngoại ô thành phố Seoul để tránh bị chú ý.

Quyết định rời NASA, học trường đại học ít danh tiếng và trở thành nhân viên công ty của Kim khiến nhiều người ngạc nhiên. Truyền thông Hàn Quốc gọi ông là “thần đồng thất bại”. Nhưng với thần đồng được gọi là thất bại, cuộc sống của ông là bất cứ thứ gì, trừ sự thất bại. Kim hạnh phúc khi được là nhân viên công ty bình thường. Thần đồng cho hay mọi người kỳ vọng ông trở thành nhân viên cấp cao trong chính phủ hay một công ty lớn nhưng Kim không nghĩ vậy.

“Tôi cố gắng nói với mọi người rằng tôi hạnh phúc với con đường mình chọn. Tại sao mọi người lại gọi niềm hạnh phúc của tôi là một sự thất bại?”, Kim tâm sự.
Kim luôn xem cuộc sống của ông là một sự thành công. Không nhiều người làm những

thứ mà họ thực sự muốn làm, nhưng Kim thì có. Theo Korea Herald, ông Kim năm ngoái trở thành giáo sư tại Đại học Shinhan ở tỉnh Gyeonggi. Ngoài ra, ông còn là giảng viên bán thời gian của nhiều đại học danh tiếng, trong đó có Yonsei, Sunkyunkwan và KAIST.
“Tôi rất phấn khích khi dạy tại trường đại học, công việc từ lâu đã là giấc mơ của tôi. Tôi sẽ cống hiến hết mình để truyền đạt kiến thức cho thế hệ sau”, Kim nhắc tới công việc giảng dạy của mình.

Từng được ghi danh là người có chỉ số IQ cao nhất thế giới nhưng ông Kim nhận ra sự thành công về học vấn không phải là thước đo một con người. Ông Kim cũng đưa ra lời khuyên với các bậc phụ huynh, những người rất háo hức học cách nuôi dạy con mình trở thành thiên tài. Theo đó, điều tốt nhất bố mẹ có thể làm cho con cái, với tư cách là đấng sinh thành, là hỗ trợ và hướng dẫn chúng tự đạt được mục đích từng bước một.

Tự đi trên hành trình của mình, trẻ cuối cùng sẽ phát hiện ra chúng muốn đạt được điều gì trong cuộc sống. Cha mẹ nên dõi theo và để con tự tìm thấy ý nghĩa cuộc sống của chúng. Ngoài ra, theo quan niệm của mình, ông Kim cũng khẳng định cuộc sống thiếu các mối quan hệ sẽ thật vô ích.

Tỷ lệ tự tử của Hàn Quốc thuộc loại cao nhất thế giới. Theo ông Kim, đó là kết quả của thực tế. Chúng ta đang mất đi cảm giác hy vọng và quên cách mơ ước. Chúng ta cần tìm ra hạnh phúc thực sự và thay đổi cách suy nghĩ, không nên theo những quy tắc xã hội cố hữu mà hãy sáng tạo cái mới.

Cộng đồng mạng bày tỏ sự ủng hộ ông Kim, đồng thời giận dữ khi truyền thông và xã hội nói chung có cách hành xử sai lầm. Một người dùng mạng có tên Youn để lại bình luận trên Naver, một trong những trang xã hội nổi tiếng nhất ở Hàn Quốc: “Ông ấy không thất bại mà thành công hơn bao giờ hết khi tìm thấy hạnh phúc trong cuộc sống”.


 

Xin Đừng ăn cắp…

Một làng ở miền Tây bên bờ sông Hậu nam Việt Nam, có một thương gia nghèo. Ðời sống khó khăn, nạn áp bức,hối lộ quá đỗi lộng hành khiến bác ta sống không nổi, phải bỏ đi một xứ xa sinh sống. Sống nơi đất khách quê người lâu ngày, lòng riêng vẫn tủi. Lại thêm tuổi đà xế bóng, tính ganh đua, lòng ham muốn cũng mỏi mòn. Một hôm chạnh nhớ cố hương, bác quyết định trở về. Bán hết tài sản lấy tiền mua vàng, gói vào một túi vải giấu trong túi hành lý khoác vai, bác lên đường về quê hương.

Trong vùng quê người thương gia, giữa một cánh đồng, dân trong vùng xây một ngôi chùa nhỏ để các nông phu buổi trưa ghé vào lễ Phật và nghỉ ngơi. Một cây bồ đề lâu năm che bóng rợp xuống một sân nhỏ lát gạch, một cái giếng khơi, nước mát và trong vắt, cũng là nơi cho khách bộ hành ghé chân nghỉ ngơi, giải khát, hoặc đôi khi ngủ qua đêm trong chùa. Chùa không có người coi. Phật tử trong chùa đều là nông dân. Lúc rảnh việc thì tự ý tới làm công quả quét tước, dọn dẹp, chăm sóc cho đám cây cỏ sân chùa lúc nào cũng hương khói quanh năm.

Sau nhiều ngày lặn lội đường xa, người thương gia về gần đến làng cũ. Trời đã xế trưa, nắng gắt. Ði ngang qua chùa, bác ghé vào nghỉ chân dưới gốc bồ đề. Ra giếng nước giải khát, rửa ráy sạch sẽ xong, bác vào chùa lễ Phật. Trong chùa vắng lặng. Bác thắp hương quỳ trước bàn thờ Phật. Ngước nhìn lên, nét mặt đức Thế Tôn vẫn trầm mặc như xưa nay, hơn mười năm qua không có gì thay đổi. Cảnh vật như đứng ngoài thời gian. Lễ xong, người thương gia rời chùa. Thấy bóng chiều đã ngả, đường về còn khá xa, bác liền rảo bước, bỏ quên túi hành lý trong chùa.

Buổi chiều hôm đó, một nông dân nghèo khổ trở về làng sau một ngày làm việc ngoài đồng. Ngang qua chùa, ngày nào cũng vậy, bác ghé vào lễ Phật trước khi trở về nhà. Lễ xong, bác trông thấy một túi vải to để gần bàn thờ. Bác ta nghĩ thầm: “Không biết túi vải của ai đi lễ đã bỏ quên. Nhỡ có người tham tâm lấy mất thì tội nghiệp cho người mất của. Âu là cứ mang về nhà rồi bảng thông báo để trả lại cho người ta.

Về đến nhà, bác nông dân gọi vợ con ra, trỏ vào túi vải, nói:

– Ðây là vật người ta bỏ quên trong chùa. Nay mình cứ tạm kiểm kê rõ ràng, đầy đủ, mai mốt có người đến nhận đúng thì trả lại cho người ta.

Giở ra xem, thấy có gói vàng to, người nông dân nghiêm giọng dặn vợ con:

– Vàng của người ta là một vật rất nguy hiểm. Nó làm nảy lòng tham. Mọi điều bất chính, bất lương, mọi sự đau khổ cũng từ Tam Đại Ma Vương Tham Sân Si phát sinh. Mẹ con mày nhớ phải diệt chúng khi chúng thấp thoáng trong lòng. Đừng để chúng dẫn mà khốn !

Bác cất cẩn thận vào rương, khóa lại.

Người thương gia rảo bước về gần đến làng, nhìn xa xa ráng chiều êm ả, những làn khói bếp vương vấn trên rặng tre quen thuộc. Cảnh xưa vẫn còn trong trí bác so với nay như không có gì thay đổi sau hơn mười năm xa cách.

Vừa đến cổng làng, người thương gia mới sực nhớ đã bỏ quên túi hành lý ở chùa. Lo sợ, hốt hoảng, bác vội quay lại con đường cũ, vừa chạy vừa kêu:

– Khổ thân tôi! Thế là tôi mất hết cả sản nghiệp dành dụm từ hơn mười năm nay! Bao nhiêu công lao trôi sống trôi biển cả rồi! Khổ thân tôi chưa!

Người đi đường ai thấy cũng ngạc nhiên.

Tới chùa thì cảnh vẫn vắng tanh, bên trong chỉ có một cụ già đang lễ Phật. Người thương gia vội túm lấy cụ già, hốt hoảng hỏi:

– Túi đồ của tôi đâu? Vàng của tôi đâu?

Cụ già ngạc nhiên:

– Túi đồ nào của bác? Vàng nào của bác?

– Thì cái túi hành lý tôi để quên hồi xế trưa trong chùa này!

Cụ già vẫn bình thản:

– Quả thật lão không thấy túi đồ của bác. Lão đã sống thanh đạm cả đời, nỡ nào trong chốc lát vứt bỏ lương tâm mà tham của người. Bác cứ bình tĩnh. Của mất, có duyên còn có ngày lấy lại, vô duyên thì của cầm trong tay cũng mất. Túi đồ của bác đã thất lạc, bác lại mất luôn cả cái tâm công chính, đỗ vấy cho người là cớ làm sao?

Gần đây có một xóm làng, buổi chiều nông dân thường lễ Phật trước khi về nhà. Bác thử tới đó hỏi xem. Thói thường, thấy vàng là tối mặt lại. Nhưng cũng còn tùy. Cũng còn có nhiều người tốt.

Người thương gia nghe ra, nhận thấy mình vô lý, bèn xin lỗi cụ già rồi theo lời chỉ dẫn, tiếp tục đi tìm. Tới làng, ông ta hỏi nhiều người mà không ai biết. Nghĩ rằng sản nghiệp dành dụm trong mười năm của mình nay phút chốc như chiếc lá vàng rơi theo gió đưa, biết đâu là bờ bến mà tìm! Ðành phó mặc cho bước chân tình cờ may rủi. Khi tới cuối làng, giữa vườn cây cối um tùm có một căn nhà lá nhỏ tồi tàn. Trước cửa treo một tấm bảng đen, với hàng chữ trắng viết to: “Tôi có nhặt được một túi vải bỏ quên trong chùa. Ai là chủ xin tới nhận lại.”

Người thương gia mừng quýnh đập cửa, gặp anh nông dân ra mở hỏi:

– Bác là chủ túi đồ bỏ quên trong chùa?

– Vâng, chính tôi. Tôi đã để quên trong chùa hồi xế trưa nay. Xin cho tôi nhận lại.

– Nếu đó là của bác thì bác phải nói xem túi đồ của bác như thế nào? Trong đựng những gì?

Người thương gia trả lời:

– Ðó là túi vải, trong đựng một ít lương khô đi đường.

Người nông phu nói:

– Thế thì không phải túi đồ của bác.

– Thú thật với bác, cũng còn một số vàng trong một gói vải khác màu đỏ.

Người nông phu nghe tả đúng các đồ vật và số lượng vàng đựng trong túi vải, biết chắc người tới hỏi là chủ nhân bèn mở rương ra, nói với người thương gia:

– Quả thật đó là túi đồ của bác. Xin mời vào nhận.

Người thương gia nhận đủ số vàng, lòng vui khôn tả. Bác thấy cảnh nhà người nông dân nghèo nàn mà lại không có lòng tham, để tỏ lòng biết ơn, bác chia đôi số vàng gói vào một miếng vải đưa cho người nông dân. Bác nói:

– Vàng của tôi tưởng đã mất, may sao lại gặp tấm lòng quý của bác. Tôi xin biếu bác một nửa để tỏ lòng thành thật biết ơn.

Người nông dân ngạc nhiên:

– Trả lại món vật không phải của mình chỉ là một việc bình thường, có ơn gì mà được đền?

– Bác đã làm một điều thiện. Ðược đền ơn là đúng lẽ.

– Làm việc thiện là nghĩa vụ tự nhiên. Đạo lý xưa nay vẫn dạy như vậy. Đó không phải là cái cớ để đòi hay nhận tiền thưởng. Cũng như lòng yêu dân tộc, yêu tổ quốc không phải là cái cớ để được trả công. Vàng của bác do công sức làm ra thì bác hưởng. Tôi có góp công lao gì vào đó mà chia phần? Thôi, xin bác hãy để tôi được sống yên vui trong cái nghèo của tôi hơn là sống giàu có nhờ vào của cải người khác. Như thế cũng là một cách ăn cắp.

 From: Do Tan Hung & KimBang Nguyen


 

Chữa lành một tâm hồn đau khổ

Gieo Mầm Ơn Gọi

  • 1. Chấp nhận những giới hạn của mình

Nhiều người không thể chịu được việc mình có khuyết điểm. Điều này khiến người ta đau khổ cùng cực. Nhưng thật ra, có khuyết điểm là hoàn toàn bình thường. Thiên Chúa không bao giờ chê ai đó, vì Ngài yêu thương bản thân họ như chính họ là. Chúa yêu thương trước để mời gọi chúng ta trở nên tốt hơn. Nếu cứ mãi dằn vặt bản thân thì con người sẽ không bao giờ bình an. Chấp nhận chính mình là bước khởi đầu của quá trình chữa lành những vết thương.

  • 2. Yêu thương bản thân

Sau khi chấp nhận bản thân, con người được mời gọi nhìn nhận những điểm tốt nơi mình. Có người chẳng thấy mình tốt gì cả. Điều này cũng không ổn. Thiên Chúa yêu thương con người, nên con người được mời gọi yêu thương và tôn trọng chính mình. Khám phá thấy bản thân có những điểm tốt đẹp, dù là rất nhỏ chính là bước tiếp theo của quá trình đó.

  • 3. Kiên nhẫn và cầu nguyện

Việc chờ một vết thương lành đòi hỏi thời gian. Chúa rất kiên nhẫn với con người – nên con người cũng hãy kiên nhẫn với chính mình. Và điều quan trọng là: hãy dựa vào Chúa. Chỉ có Chúa và tình yêu của Ngài mới là liều thuốc chữa lành tâm trí chúng ta.

*** Nếu không thể tin bản thân – hãy tin Chúa, Chúa làm được hết.

Nguyên Nhật

ĐẤT NƯỚC CHƯA BAO GIỜ CÓ CƠ ĐỒ NHƯ HÔM NAY…

Chau Trieu

Thoạt nhìn cứ tưởng họ đem cặp vợ chồng rao bán con ra xét xử là để bảo vệ đứa trẻ bị rao bán, rốt cuộc lại làm khốn khổ cả 4 đứa trẻ khi mà cả cha lẫn mẹ bị tuyên phạt tổng cộng hơn 20 năm tù, bỏ lại 4 đứa con thơ không ai nuôi dưỡng. Đúng là…phạt dân là bổn phận của các quan, còn hậu quả khốn khó thế nào thì dân ráng mà chịu.

Ngẫm nghĩ…cái “tiền đồ” của chị Dậu thời phong kiến vẫn “sáng lạng” hơn chị Dậu thời xã nghĩa vì ít ra thời phong kiến chị Dậu đã không bị bỏ tù vì tội túng quẫn đem bán con. Mà cái trớ trêu là thời kiến thì do có “thực dân đô hộ”, còn thời nay tràn ngập khẩu hiệu “độc lập tự do” mà vẫn xuất hiện đầy rẫy những Lão Hạc, chị Dậu, Vợ Nhặt…

Thương cho thảm cảnh của những người cùng khổ. Vì đâu nên nỗi…hỡi những chị Dậu thời 4.0…

Amy Truc Tran


 

VẾT THƯƠNG LÒNG – Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Ai chưa từng trải qua cơn đau, người ấy thật sự chìm sâu trong cõi đời này.  Người nào chưa hề có một vết trầy xướt trên cơ thể thì chưa hoàn toàn đi vào cõi hiện sinh nhân thế.  Vết thương ngoài da đã đau đớn, vết thương lòng còn nhức nhối biết chừng nào.  Vết thương bên ngoài có thể được nhìn thấy, có thể dễ dàng tìm thuốc chữa trị, chứ vết thương lòng thì ai biết phải xoay sở ra sao.  Chẳng ai biết nó nông sâu thế nào, chẳng ai đo lường được mức tác hại của nó, cũng chẳng ai có thể biết một phương dược chính xác chữa lành, lại càng chẳng biết đến bao giờ thì sẽ không còn vết thương ấy nữa.

Tôi mang trong mình một vết thương, một kiểu đau nhức chẳng diễn tả được thành lời, một nỗi buồn không tên, một nỗi uất ức chôn kín.  Đó là khi tôi đã từng yêu da diết, đã từng trao gửi tất cả nỗi niềm và trọn vẹn con tim cho một người với một niềm hy vọng vô cùng lớn lao.  Để rồi, cái mà tôi nhận được là một sự hụt hẫng vô ngần vô hạn.  Tôi trách người nhưng trách luôn cả mình.  Trách người sao quá vô tâm và tàn nhẫn; trách mình sao quá vội vã, quá cả tin.  Tôi đau một nỗi đau hơn dao cứa, cơn nhức nhối cứ làm cả con người muốn nổ tung.  Tôi muốn chôn vùi nó, dùng sự quên lãng để lấp nó, nhưng đâu đó, những sục sôi trong tâm cảm vẫn cứ trở về.  Máu vẫn cứ rỉ ra từng giọt.  Tôi khóc cho vơi nhẹ tâm can.  Tôi tìm về cô đơn để trốn tránh thực tại.  Tôi cố tưởng tượng là mọi chuyện đã qua đi.  Nhưng tôi không đủ quyền năng để quay ngược thời gian, để biến mọi chuyện như chưa từng xảy đến.

Vết thương ấy làm tôi đau đã đành, nó còn làm cho tôi mất đi niềm tin vào tất cả.  Tôi chẳng còn dám mở con tim mình ra với ai.  Tôi sợ rằng vết thương kia sẽ bị xé toạc một lần nữa, và lần này, nếu chuyện đó xảy ra thật, thì chắc tôi sẽ chết mất thôi.  Người ta nói thời gian sẽ chữa lành tất cả.  Tôi cũng tin vậy, nhưng chẳng biết là sẽ đến bao giờ.  Tôi bỗng nhận ra là thế gian này chẳng có gì đáng mong đợi, chẳng có ai là đáng để cậy nhờ.  Tôi sống một cuộc đời bất chấp.  Ai muốn yêu thì cứ yêu; còn tôi, cứ khép mình là an toàn nhất, để khỏi bị phản bội, khỏi phải thất vọng, khỏi phải dùng nước mắt để xoa dịu vết thương.

Tôi cũng dùng lý trí để tự trấn an mình.  Rằng vết thương ấy làm tôi lớn lên, giúp tôi nhận biết rõ ràng hơn sự phũ phàng của cuộc sống.  Rằng lỗi một phần cũng do bản thân ta, chứ trách ai bây giờ.  Rằng tôi đã sai, tôi hối tiếc lắm.  Rằng tôi phải thật mạnh mẽ để cho người khác biết rằng chẳng có gì có thể quật ngã được tôi…  Nhưng khi đối diện với lòng, tôi chẳng thể che giấu được một con người yếu đuối, mềm mỏng.  Tôi không thể giả vờ như chưa từng có chuyện gì xảy ra.  Cái giả vờ mà tôi đang cố gắng thể hiện càng chứng tỏ cho tôi thấy mình đang đau biết chừng nào.  Tôi vẫn phải tự nhủ với bản thân “vết thương ơi, cứ tạm thời chợp mắt đi nhé!”

Vết thương lòng là một kiểu vết thương rất kỳ lạ.  Nó làm người ta đau nhức vô cùng, nhưng người ta, trong một phút tủi thân, lại cứ thích nghĩ về nó.  Và cứ mỗi lần nghĩ về, vết thương lại bị khoét thêm một chút nữa.  Ta muốn giải bày ra tất cả những nỗi niềm, nhưng chẳng biết nói cùng ai.  Liệu rằng trên thế gian này, có ai đó trân trọng tình cảm của ta, sẽ lắng nghe, sẽ cảm thông và không bỡn cợt niềm tin của ta như người trước không?  Có ai đó sẵn sàng giang rộng vòng tay đón tiếp ta, ôm lấy ta, ôm lấy cả vết thương trong lòng ta, cùng ta khóc, cùng ta cười, cùng đau chung với ta không?  Nhiều câu hỏi đặt ra như thế, âu cũng chỉ là muốn nói lên khát vọng yêu và được yêu của một hữu thể nhỏ bé giữa dòng đời vạn biến vô thường này.

Một ngày nào đó, tôi lôi vết thương trong lòng ra, nhìn vào nó cách trực diện.  Tôi không trốn tránh nó, không giả vờ quên nó, không cất giấu nó âm ỉ trong lòng.  Tôi không nhìn về nó như một kiểu khơi lại những ký ức nuối tiếc.  Tôi không khoét sâu nó bằng những cảm xúc ủy mị với hai chữ “giá như.”  Tôi không tiếp tục nuôi dưỡng nó bằng một kiểu suy nghĩ trách móc.  Tôi biết rằng thời gian đã trôi qua và dù thế nào chăng nữa, mọi cái cũng chẳng thể quay trở về như trước.  Có biết bao nhiêu khả thể trong cuộc sống này mà tôi không dự đoán được, nhưng cái hiện thể mà tôi biết chính là vết thương mà tôi đang mang đây.  Nó là một phần của tôi, là cái làm nên cuộc đời tôi, là nơi tôi gặp được chính mình, thấy rõ mình, biết mình đang ở đâu, tìm gì, đi đường đúng hay sai.

Lâu lâu gợi nhớ về vết thương ấy, tôi thấy mình chơi vơi đắm chìm giữa dòng chảy thời gian, thấy nhân tình thế thái đổi dời như cơn lốc và tôi chỉ là một phần nhỏ giữa những quay cuồng này.  Tôi ôm vết thương lòng như một hành trang, một chút kỷ niệm, một cái gì nhỏ bé để gợi nhớ cho thời cuồng điên thiếu tự chủ.  Dầu vết thương có lành, nó cũng để lại sẹo.  Cái sẹo ấy trở thành dấu chứng cuộc đời, là cái giúp tôi nhớ rằng mình không phải thần thánh.  Nhìn về cái sẹo ấy, tôi mỉm cười về một thời đã qua, dù đớn đau nhưng cũng ngọt lịm vô cùng.  Tôi đã không sai khi chọn yêu.  Ít là tôi cũng đã được cảm nếm một chút niềm hạnh phúc không trọn vẹn.  Vết thương lòng không còn làm tôi đau nữa, vì tôi đã sẵn sàng chấp nhận cái giá của tình yêu tôi chọn lựa.  Tôi yêu và tôi không hối tiếc, vết thương lòng chẳng qua chỉ là bằng chứng của tình yêu thôi!

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

From: Langthangchieutim


 

 Văn Hóa Đốt Sách – Học giả Nguyễn Hiến Lê

 Học giả Nguyễn Hiến Lê sinh ngày 8 tháng 1 năm 1912 và mất ngày 22 tháng 12 năm 1984.

Trước 75 trong Nam không học sinh nào không đọc sách Nguyễn Hiến Lê. Ưu điểm của cụ Lê là cụ giản lược những đề tài rộng lớn, phác thảo những đại cương trong khuôn khổ một cuốn sách dễ đọc, dễ hiểu, nhờ vào lối văn giản dị không cầu kỳ như bản thân đời sống của cụ. Sách Nguyễn Hiến Lê hầu hết viết cho ban Tú tài nhưng không phải vì vậy đã không có những công trình lớn: Lịch Sử Văn Minh Ấn Độ, Lịch Sử Văn Minh Trung Hoa, Lịch Sử Văn Minh Ả Rập, Kinh Dịch, Bách Gia Tranh Minh… là những tập sách dày công nghiên cứu, đã đem đến vô vàn kiến thức cho thanh niên miền Nam buổi ấy. Chính vì sau hai thập niên Việt hóa học đường, không còn một học sinh nào, từ Nam ra Bắc đọc thông một quyển sách chữ Hán cũng như chữ Pháp. Thế hệ Nguyễn Hiến Lê là chiếc cầu nối tuổi trẻ Việt Nam với kho tàng thế giới. Trên 120 đầu sách, Nguyễn Hiến Lê cống hiến sở học của mình.

Sau 75 cụ Lê còn là nhân chứng của công cuộc giải phóng thô bạo trên nửa phần đất nước. Vào ngày giỗ muộn màng thứ 39, hãy cùng đọc lại ghi chép của Nguyễn Hiến Lê về nạn đốt sách của phía chiến thắng. Là những trang chữ bị kiểm duyệt.

[Trần Vũ]

*******

Một trong những công việc đầu tiên của chính quyền là hủy tất cả các ấn phẩm (sách, báo) của bộ Văn hóa ngụy, kể cả các bản dịch tác phẩm của Lê Quí Ðôn, thơ Cao Bá Quát, Nguyễn Du; tự điển Pháp, Hoa, Anh cũng bị đốt. Năm 1976 một ông thứ trưởng Văn hóa ở Bắc vào thấy vậy, tỏ ý tiếc.

Nhưng ông thứ trưởng đó có biết rõ đường lối của chính quyền không, vì năm 1978, chính quyền Bắc chẳng những tán thành công việc hủy sách đó mà còn cho là nó chưa được triệt để, ra lệnh hủy hết các sách ở trong Nam, trừ những sách về khoa học tự nhiên, về kỹ thuật, các tự điển thôi; như vậy chẳng những tiểu thuyết, sử, địa lý, luật, kinh tế, mà cả những thơ văn của cha ông mình viết bằng chữ Hán, sau dịch ra tiếng Việt, cả những bộ Kiều, Chinh phụ ngâm… in ở trong Nam đều phải hủy hết ráo.

Năm 1975, sở Thông tin văn hóa thành phố Hồ Chí Minh đã bắt các nhà xuất bản hễ sách nào còn giữ trong kho thì phải nạp hai hay ba bản để kiểm duyệt: sau mấy tháng làm việc, họ lập xong một danh sách mấy chục tác giả phản động hay đồi trụy và mấy trăm tác phẩm bị cấm, còn những cuốn khác được phép lưu hành.

Nhưng đó chỉ là những sách còn ở nhà xuất bản, những sách tuyệt bản còn ở nhà tư nhân thì nhiều lắm, làm sao kiểm duyệt được? Cho nên sở Thông tin văn hóa ra chỉ thị cho mỗi quận phái thanh niên đi xét sách phản động, đồi trụy trong mỗi nhà để đem về đốt. Bọn thanh niên đó đa số không biết ngoại ngữ, sách Việt cũng ít đọc, mà bảo họ kiểm duyệt như vậy thì tất nhiên phải làm bậy. Họ vào mỗi nhà, thấy sách Pháp, Anh là lượm, bất kỳ loại gì; sách Việt thì cứ tiểu thuyết là thu hết, chẳng kể nội dung ra sao. Họ không thể vào hết từng nhà được, ghét nhà nào, hoặc công an chỉ nhà nào là vô nhà đó…

Lần đó sách ở Sài Gòn bị đốt kha khá. Nghe nói các loại đồi trụy và kiếm hiệp chất đầy phòng một ông chủ thông tin quận, và mấy năm sau ông ấy kêu người lại bán với giá cao.

Lần thứ nhì năm 1978 mới làm xôn xao dư luận. Cứ theo đúng chỉ thị “ba hủy”, chỉ được giữ những sách khoa học tự nhiên, còn bao nhiêu phải hủy hết, vì nếu không phải là loại phản động (một hủy), thì cũng là đồi trụy (hai hủy), không phải phản động, đồi trụy thì cũng là lạc hậu (ba hủy), và mỗi nhà chỉ còn giữ được vài cuốn, nhiều lắm là vài mươi cuốn tự điển, toán, vật lý… Mọi người hoang mang, gặp nhau ai cũng hỏi phải làm sao. Có ngày tôi phải tiếp 5,6 bạn lại vấn kế.

Mấy bạn tôi luôn nửa tháng trời, ngày nào cũng xem lại sách báo, thứ nào muốn giữ lại thì gói riêng, lập danh sách, chở lại gởi nhà một cán bộ cao cấp (sau đòi lại thì mất già nửa); còn lại đem bán kí lô cho “ve chai” một mớ, giữ lại một mớ cầu may, nhờ trời.

Một luật sư tủ sách có độ 2,000 cuốn, đem đốt ở trước cửa nhà, chủ ý cho công an phường biết. Rồi kêu ve chai lại cân sách cũng ngay dưới mắt công an.

Ông bạn Vương Hồng Sển có nhiều sách cổ, quý, lo lắng lắm mà cũng uất ức lắm, viết thư cho sở Thông tin văn hóa, giọng chua xót xin được giữ tủ sách, nếu không thì ông sẽ chết theo sách.

Một độc giả lập một danh sách các tác phẩm của tôi mà ông ta có trong nhà, đem lại sở Thông tin hỏi thứ nào được phép giữ lại, nhân viên Thông tin chẳng cần ngó tên sách, khoát tay bảo: Hủy hết, hủy hết.

Bà Ðông Hồ quen ông Giám đốc thư viện thành phố, bán được một số sách cho thư viện, tặng thư viện một số khác với điều kiện được mượn đem về nhà mỗi khi cần dùng tới.

Tôi nghe lời khuyên của một cán bộ Văn hóa, làm đơn xin sở Thông tin văn hóa cho tôi giữ tủ sách để tiếp tục làm việc biên khảo, đơn đó ông bạn cán bộ đem thẳng vô ông chủ sở, ông này chỉ đáp miệng rằng tôi là nhân sĩ thành phố, cứ yên tâm. Họ có thói việc lớn, việc nhỏ gì cũng không trả lời bằng thư, sợ lưu lại bút tích mà chịu trách nhiệm.

Ít tháng sau tình hình dịu lần rồi yên, không nhà nào bị kiểm kê, Chính quyền bảo để xét lại và một năm sau, nạn “phần thư” kể như qua hẳn. Tủ sách của tôi không mất mát gì cả, nhưng từ đó tôi không ham giữ sách nữa, ai xin tôi cũng cho.

Ngành báo chí và ngành xuất bản, chính quyền nắm hết vì coi đó là những công cụ giáo dục quần chúng, ở Sài Gòn chỉ thấy bán vài tạp chí Nga, Ba Lan, tư nhân muốn mua dài hạn phải đăng ký trước ở sở Bưu điện. Một người cháu tôi từ Pháp gởi về cho tôi một tờ Nouvel Observateur (của khối thân Cộng), số đó bị chặn lại. Nghe nói tờ Humanité của đảng cộng sản Pháp cũng không được bán trong nước. Tôi chưa thấy một cuốn sách Nga hay Trung Hoa nào bán ở Sài Gòn, trừ mấy cuốn về Lénine, về khoa học đã được dịch ra tiếng Việt, ở các thư viện Hà Nội có thể có sách bằng Nga văn hay Hoa văn nhưng chỉ cán bộ mới được phép coi, mà cán bộ trong ngành nào chỉ được coi về ngành đó thôi. Cũng có người đọc lén được.

Sau ngày 30-4-75, tôi muốn tìm hiểu cách mạng Nga từ 1917 đến 1945, nhờ mấy bạn cách mạng tìm sách cho, họ bảo chính họ cũng không được đọc vì không thấy một cuốn nào cả. Sau tôi mới biết rằng loại đó ngay ở Nga cũng không ai được phép viết. Như vậy kiến thức hạng trí thức ngoài đó ra sao, ta có thể đoán được. Một nhà văn hợp tác với viện khoa học xã hội lại nhờ tôi giới thiệu cho mươi nhà văn, học giả giỏi tiếng Anh và tiếng Việt để dịch cho viện bộ Bách khoa tự điển Anh gồm 25 cuốn, mà phải dịch gấp vì đó là chỉ thị của một ông “bự”. Tôi bảo có 50 nhà dịch cũng không nổi vì phải tạo hằng ức danh từ mới (riêng ngành Informatique trong 30 năm nay đã có một vạn thuật ngữ rồi); mà ví dụ có dịch nổi thì cũng phải mất ít nhất mười năm mới xong; xong rồi lại phải dịch lại hoặc bổ túc rất nhiều vì lỗi thời mất rồi: ở Anh, mỗi năm người ta sửa chữa, bổ túc, in lại một lần; rồi lại phải bỏ cả chục năm nữa, không biết có in xong được không. Xong rồi, bán cho ai, ai đủ tiền mua? Cán bộ Văn hóa vào hàng chỉ huy mà dốt tới mức đó!

Tháng 4-1980, có một thông cáo cấm kiều bào hải ngoại gởi một số đồ nào đó về cho thân nhân trong nước, như quần áo cũ, các thực phẩm đóng hộp, các thuốc tây không có propriétés cho biết cách dùng, trị bệnh gì… mà chỉ cho người ta một thời hạn không đầy một tháng để thi hành. Kẻ nào thảo thông cáo ra quyết định đó không hề biết rằng những gia đình có thân nhân là kiều bào ở những nơi xa xôi, hẻo lánh khắp thế giới, phải viết thư cho họ thì họ mới biết mà thi hành chỉ thị được; và ở thời này, thư máy bay từ Sài Gòn ra Hà Nội mất có khi một tháng (trường hợp của tôi), từ Sài Gòn qua Pháp, Gia Nã Ðại mất 2 tháng, có khi 4 tháng. Báo chí vạch điểm đó ra cho chính quyền thấy, họ mới gia hạn cho thêm 5 tháng nữa. Trị dân mà không biết một chút gì về tình cảnh của dân cả. Họ có vận dụng trí óc của họ không?

Còn hạng nông dân ngoài Bắc thì khờ khạo, ngớ ngẩn so với nông dân trong này không khác gì một người ở rừng núi với một người ở tỉnh. Mấy anh bộ đội bị nhồi sọ, trước 1975 cứ tin rằng miền Nam này nghèo đói không có bát ăn, sau 30-4-75, vô Sài Gòn, lóa mắt lên, mới thấy thượng cấp các anh nói láo hết hoặc cũng chẳng biết gì hơn các anh.

Một anh bộ đội đi xe đò từ Long Xuyên lên Sài Gòn nghe hai chị bình dân miền Nam nói với nhau lên Sài Gòn sẽ mua xe tăng, máy bay, tàu chiến … mỗi thứ vài chục cái; anh ta hoảng hồn, tới trại kiểm soát vội báo cho kiểm soát viên hay có gián điệp trên xe. Chiếc xe phải đậu lại 3,4 giờ để kiểm soát, điều tra rất kỹ, sau cùng mới hay rằng hai chị hành khách đó đi mua máy bay, xe tăng, tàu chiến bằng mủ về bán cho trẻ em chơi. Hành khách trên xe nổi đóa, chửi thậm tệ anh bộ đội; khi xe tới bến Phú Lâm, họ còn đánh anh ta tơi bời nữa. Kết quả của nền giáo dục miền Bắc như vậy. Chính một cán bộ nói với tôi: “Càng học càng ngu. Thầy ngu thì làm sao trò không ngu? Nhồi sọ quá thì làm sao không ngu? Có được đọc sách báo gì ngoài sách báo của chính quyền đâu thì còn biết chút gì về thế giới nữa?”

Một cán bộ khác cho tôi hay ở Hà Nội người nào có được 50 cuốn sách là nhiều rồi. Anh ta mới thấy 3 trong số 9 tủ sách của tôi đã bảo nhà tôi nhiều sách như một thư viện. Nhà bác học Sakharov trong một bài báo tôi đã dẫn, bảo ở Nga không có đời sống tinh thần (vie intellectuelle). Chúng ta có thể tin lời đó được.

Trước 1975, thấy cuốn nào in ở Bắc cũng từ 10,000 bản trở lên, có thứ 30,000, 100,000 bản, tôi và các bạn tôi phục đồng bào ngoài đó ham đọc sách. Bây giờ tôi hiểu lý do. Hà Nội mỗi năm xuất bản không biết được 100 nhan đề không (trong này, thời trước được khoảng 1,000 nhan đề); sách được gởi đi khắp nơi không có sự cạnh tranh, mà ai cũng “đói sách”; lại thêm nhiều sách có mục đích bổ túc cho sách giáo khoa, nhất là loại dạy chính trị, như vậy in nhiều là lẽ dĩ nhiên. Sách bán rất rẻ, nên cuốn nào viết về văn học, sử học mới ra cũng bán hết liền. Mấy năm nay, giấy khan, in ít, sách vừa phát hành đã bán chợ đen ở Hà Nội, không vào được tới miền Nam; những cuốn như lịch sử tỉnh Vĩnh Phú, ngay cả bộ Hồ Chí Minh toàn tập, ở Long Xuyên không làm sao kiếm được một bản, các cơ quan giáo dục cũng không mua được. Trái lại bộ Lê- Nin toàn tập giấy rất tốt, thì ở khắp miền Nam bán chạy veo veo; người ta mua về để bán kí lô.

Tóm lại, chính sách là chỉ cho dân được nói theo một chiều, trông thấy một hướng; nên chỉ một số rất ít giữ được tinh thần phê phán, nhưng chẳng thi thố được gì, sống nghèo khổ, bất mãn.

NHL

From: TU-PHUNG


 

NGỌC TRINH VÀ NGỌC ANH…

 8 SÀI GÒN

Ngọc Trinh, cũng được gọi là mỹ nhân của nước nhà trong cái thời buổi nhiễu nhương hương sắc tình tiền, với thành tích chẳng có gì đặc biệt ngoài việc khoe tiền khoe hàng khoe cặp đại gia, cùng nhiều hành động và phát ngôn ngông cuồng.

Ngọc Anh (Chu), cũng được gọi là quan chức lớn (từng ngoi lên đến ghế Chủ tịch Hà Nội, rồi Bộ trưởng), với thành tích cũng chẳng có gì đặc biệt, nếu không muốn nói là dưới cả mức trung bình kém cùng nhiều phát ngôn, hành động chẳng giống ai.

Giới tính, địa vị và nhiều thứ khác nhau nhưng chung quy họ đều “nổi tiếng” trong cái xã hội này và chung một đích đến những ngày này.

Và họ cùng trở nên khác biệt trong xã hội, với một điều rất dễ hiểu: như trò cười của thiên hạ, cuối cùng thì thành “nghệ sĩ” và diễn với cuộc đời bằng những trò cười ấy, bất chấp luật pháp và nhân phẩm.

Khác là, trò cười của Ngọc Trinh có phần ngông nghênh nhưng không thể không nói là có sự ngây ngô. Còn trò cười của Chu Ngọc Anh là giả điên, giả ngây để vác tiền mà chạy.

Khi bị bắt, Ngọc Trinh tỏ vẻ ăn năn hối lỗi, vẫn có chút hồn nhiên nên dù có giận cô, nhiều người cũng tỏ ra xót thương thật sự.

Còn Ngọc Anh (Chu), khi bị bắt, tiếp tục giả ngây giả ngô, bảo không biết tiền là tiền hối lộ, cứ nghĩ là quà, và giờ…không biết nó ở đâu. Cuối cùng, mức án cho sự ngây ngô, cũng nhè nhẹ.

Giờ thì không biết cô Ngọc Trinh là showbiz hay ông Chu Ngọc Anh là showbiz. Ngọc Trinh không còn diễn nữa, còn ông Chu Ngọc Anh thì diễn đến siêu phàm, với vai diễn quá kinh điển, chắc chắn muôn đời sau vẫn nhớ.

Ngọc Trinh hút tiền của đại gia, suy cho cùng cũng là đánh đổi hương sắc; nhưng những kẻ như ông Chu Ngọc Anh, hút máu của nhân dân mà vẫn cười hề hề, vài trăm nghìn đô cứ nghĩ là “quà”, rồi “không biết để đâu”, nhẹ nhàng rỏn rẻn đến vậy, thì không có gì đánh đổi cả, mà đó là ăn cướp, là trấn lột, nhơn nhơn vô l.iêm sỉ.

Tôi chẳng muốn so sánh Ngọc Trinh và ông Chu Ngọc Anh làm gì vì suy cho cùng, chỗ bẩn nhất của Trinh có khi còn sạch hơn vạn lần chỗ sạch nhất của những kẻ như ông Chu Ngọc Anh. Nhưng nhắc ra để thấy, xã hội này đang trở thành một vở tuồng từ những kẻ như thế này, ở các cấp độ nào.

Và dù khác nhau đến thế nào, thì Ngọc Trinh và Ngọc Anh cũng chỉ là “kịch sĩ” của cái vở diễn này, mà thôi…

HOÀNG NGUYÊN VŨ


 

NHỮNG SUY NGẪM CUỐI ĐỜI

– Có những chia ly… chưa kịp chuẩn bị đã không còn gặp lại.

– Có những cuộc tình… chưa chạm hạnh phúc đã cảm nhận niềm đau.

– Có những lời hứa… chưa kịp thực hiện đã không còn cơ hội.

– Có những quyết định… chưa kịp đưa ra đã không còn giá trị.

– Có những lỗi lầm… chưa kịp sửa chữa đã quá muộn màng.

– Có những sự việc… chưa kịp buông bỏ đã không còn tồn tại.

– Có những chân lý diệu huyền, chưa một lần tỏ ngộ đã tắt nắng hoàng hôn.

– Có những kiếp nhân sinh, khi đánh mất thân người đã không còn cơ hội trở mình, rơi vào trong khổ đau, đọa xứ .

Thời gian, vốn dĩ là không dừng lại và cơ hội chỉ đến vào một thời điểm nhất định. Ai người tỉnh thức thì sẽ nắm lấy, không để cuộc đời của mình là những chuỗi ngày chìm trong nuối tiếc mênh mang.

    – “Khi còn khỏe mạnh, ai cũng nghĩ rằng ngày tháng còn dài, cơ hội tương phùng không thiếu. Nhưng ai biết chăng đời người như ánh chớp giữa hư không, nhân sinh vốn là cơn ảo mộng. Cuộc đời người ta nguyên là một phép trừ, gặp nhau một lần cũng chính là trừ bớt đi một lần…”

– Ngày đi, tháng chạy, năm bay

Thời gian nước chảy chẳng quay được về.

From: dominhtam9238 & NguyenNThu


 

Tổng Biên Tập Báo Thanh Niên chuyên tố tham nhưng nay cũng vào lò, đấu đá nội bộ hay trả thù nhau?

Báo Thanh Niên từng có những bài điều tra tham những khá liều như vụ “Quây Vịnh Hạ Long làm nhà kinh doanh”

Đấu tranh chống tham nhũng được bao lâu thì phải vào “Lò”. Số phận của Phó ban Dân Nguyện QH, Lưu Bình Nhưỡng và Ông Biên Tập Công Khế đã biết trước.

Công Khế có thể đáng bị bắt giống như dân biểu phó ban Dân Nguyện Lưu Bình Nhướng, ông đã từng nói như sau:

  • Nguyên nhân của việc báo chí không dám động chạm vào những lĩnh vực nhạy cảm, đặc biệt là chống tham nhũng: do cơ chế, do các tổng biên tập sợ bị khiển trách, mất chức và cả do lãnh đạo mở quá rộng vùng gọi là nhạy cảm và vùng cấm.[1]
  • Trong cuộc phỏng vấn với Mặc Lâm, đài RFA vào ngày 19 tháng 11 năm 2014 về tự do báo chí ở VN:
    “ “con đường, chính sách minh bạch thông tin và tự do báo chí trước sau gì nó cũng đến và dứt khoát mình phải làm thôi. Không có cách nào khác, không có lựa chọn nào khác.”
  • Nói với BBC vào ngày 20 tháng 11, 2014: Việc cởi trói cho báo chí được tự do bày tỏ quan điểm của mình “chỉ có lợi” cho chính quyền chứ “không làm mất chế độ”.[3]

Tổng hợp Báo Lề Phải

Một đời ăn cơm Quốc Gia thờ ma Cộng nay đã phải vào tù,

Tối 16-1, Cơ quan An ninh điều tra Công an TP HCM cho biết đang điều tra vụ án “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát lãng phí”.

Đồng thời, Công an TP HCM đã ra lệnh bắt để tạm giam ông Nguyễn Công Khế – Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần tập đoàn Truyền thông Thanh Niên, nguyên Tổng Biên tập Báo Thanh Niên và Nguyễn Quang Thông – nguyên Tổng Biên tập Báo Thanh Niên.

Vì sao Công an TP HCM bắt 2 ông Nguyễn Công Khế và Nguyễn Quang Thông? - Ảnh 1.

Ông Nguyễn Công Khế (áo trắng)

Vì sao Công an TP HCM bắt 2 ông Nguyễn Công Khế và Nguyễn Quang Thông? - Ảnh 2.

Công an đọc lệnh bắt ông Nguyễn Quang Thông

Năm 2008, Báo Thanh Niên có chủ trương mua Khu đất của Nhà máy Thuốc lá Sài Gòn (địa chỉ số 151-155 Bến Vân Đồn, phường 6, quận 4) để xây dựng trụ sở tòa soạn.

Ông Nguyễn Công Khế lúc này là Tổng Biên tập Báo Thanh Niên đã ký Hợp đồng hợp tác với Công ty Cổ phần Tập đoàn Truyền thông Thanh Niên (Báo Thanh Niên chiếm 51% vốn điều lệ) và một doanh nghiệp thành lập Công ty Cổ phần Bất động sản Thanh Niên.

Mục đích nhằm triển khai thực hiện Dự án cao ốc văn phòng, trung tâm thương mại và căn hộ cao cấp tại khu đất nói trên.

Báo Thanh Niên góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng Khu đất 151 – 155 Bến Vân Đồn. Quá trình thực hiện, Nguyễn Công Khế và Nguyễn Quang Thông đã ký các hợp đồng chuyển nhượng cổ phần tại Công ty Cổ phần Bất động sản Thanh Niên không qua đấu giá theo quy định.

Sau đó đã ký Biên bản thoả thuận chấm dứt hiệu lực Hợp đồng hợp tác đã ký vào ngày 10-1-2008; dẫn đến toàn bộ khu đất 151 – 155 Bến Vân Đồn đã chuyển nhượng cho tư nhân, gây thất thoát tài sản Nhà nước.

Hiện vụ án đang được Cơ quan An ninh điều tra Công an TP HCM tập trung khẩn trương mở rộng điều tra để làm rõ sai phạm, trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức khác có liên quan, thu hồi tài sản cho Nhà nước.

 

Nguyễn Công Khế sinh năm 1954 tại Quảng Nam, là nhà báo, đồng sáng lập báo Thanh Niên và Tổng Biên tập Báo Thanh Niên từ năm 1988 đến năm 2008. 

Năm 1986 ông cùng Huỳnh Tấn Mẫm được Đảng phân công, họ sáng lập báo Thanh Niên – diễn đàn của Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam, ông giữ vai trò phó Tổng biên tập. Từ 1988 đến nay ông làm Tổng biên tập báo này, được coi là tổng biên tập thâm niên nhất trong làng báo Việt Nam.

Ông đã đưa Thanh niên từ một báo nhỏ xuất bản một kỳ/tuần trở thành một trong những báo lớn nhất và có nhiều độc giả nhất tại Việt Nam hiện nay.

 

Trước 1975 ông hoạt động trong phong trào sinh viên, học sinh tại Đà Nẵng và Sài Gòn chống chính quyền miền Nam (cũ). Sau 1975 ông công tác tại Thành đoàn TP Hồ Chí Minh, sau đó chuyển sang công tác tại báo Phụ nữ Việt Nam.

Ngoài công tác báo chí, ông hiện là Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam và tham gia nhiều hoạt động văn hóa, nghệ thuật. Ông là Trưởng ban Giám khảo nhiều cuộc thi như: Siêu mẫu Việt Nam, Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam 2008. Đồng thời, ông từng là thành viên Ban Giám khảo các cuộc thi Hoa hậu Trái Đất 2007Hoa hậu Hoàn vũ 2008 và Hoa hậu Trái Đất 2011.

Công Khế đã biết trước hậu quả của đấu đá tham nhũng và mua nhà cho con ở California.

Người “chiến sĩ cách mạng” năm xưa từng biểu tình chống chế độ VNCH và phục vụ đảng CSVN cả cuộc đời, giờ sắm cả loạt nhà bên Mỹ cho con cái ở. 
• 3565 Seven Hills Rd, Castro Valley, CA 94546-2045
• 3657 Seven Hills Rd, Castro Valley, CA 94546-2047
• 4648 Mia Cir, San Jose, CA 95136-2325
• 3427 Salisbury St, Oakland, CA 94601-3133
• 4 Captain Dr Apt E203, Emeryville, CA 94608-1715
– (Bùi Thanh Hiếu FB)
Tiền ở đâu ra mà nhiều vậy? Khế kinh doanh đất của dân?

SỰ KHÁC BIỆT CỦA NGƯỜI ĐỌC SÁCH VÀ KHÔNG ĐỌC SÁCH

Gieo Mầm Ơn Gọi

Người thường xuyên đọc sách toát lên vẻ đẹp “tri thức”

Nói chuyện với những người đọc nhiều sách bạn sẽ thấy kiến thức của họ rất rộng, lập luận rất chặt chẽ. Khí chất, cách nói năng, quan điểm, hành động hay cách xử lý của những người đọc sách có sự khác biệt hơn nhiều so với những người chẳng bao giờ đọc một cuốn sách nào.

Tầm nhìn của người đọc sách sẽ được tích lũy tăng dần theo số sách mà họ đã đọc.

  1. Người thường xuyên đọc sách có sự ham học hỏi

Bên cạnh mục đích đọc để nâng cao chuyên môn thì phần lớn những người thường xuyên đọc sách đều rất thích đọc, thích tìm hiểu và khám phá một thế giới khác trong sách.

  1. Người thường xuyên đọc sách rất khách quan

Bản chất con người luôn là chủ quan, ích kỷ, coi trọng lợi ích bản thân. Nhưng người đọc sách nhiều sẽ thấu tình đạt lý hơn, có góc nhìn khách hơn và dễ đồng cảm hơn. Ngược lại, người không đọc sách nhiều có xu hướng bảo thủ, cố chấp trước quan điểm của người khác.

  1. Người thường xuyên đọc sách sẽ nhìn thấu được sự việc

Đọc nhiều giúp ta hiểu được những nguyên lý xuất hiện phía sau một hiện tượng nào đó. Bởi có một số chuyện nhìn có vẻ bình thường nhưng ẩn sau đó là những nguyên lý kinh tế học, tâm lý học… Nếu bạn đọc nhiều sách tâm lý học, bạn sẽ nhận ra những “cái bẫy” tâm lý và các phương thức thao túng đang được áp dụng trong cuộc sống.

Đọc một cuốn sách tốt chẳng khác nào trò chuyện với một người thông minh. Vì vậy, hãy biết cách chọn lọc thể loại sách phù hợp với nhu cầu và nhận thức của bạn.

Không đọc sách thì cũng chẳng phải là chuyện gì xấu xa cả và việc đọc nhiều cũng không đảm bảo khiến bạn thành công. Nhưng chắc chắn rằng đọc sách giúp bạn mở mang tri thức, rèn luyện khả năng đọc nhanh, tư duy ngôn từ và cải thiện trí nhớ rất hiệu quả.

Đọc sách một thời gian ngắn sẽ không có nhiều sự khác biệt. Nhưng đọc sách một năm, 2 năm, 3 năm và thêm nhiều năm nữa, khác biệt ắt rõ ràng.

S.T.