Công luận bàn tán khả năng Phạm Nhật Vượng bị bắt

Ba’o Dat Viet

February 27, 2024

Phạm Nhật Vượng và Phạm Bình Minh

Một số ý kiến suy đoán rằng Phạm Nhật Vượng “sớm muộn” sẽ bị bắt vì “phải có người chịu trách nhiệm chứ, đảng có sai bao giờ.”

Facebooker Hoàng Dũng cho biết: “Đảng cộng sản sẽ phải bắt Phạm Nhật Vượng. Vấn đề là thời điểm và làm sao để không sụp đổ hệ thống ngân hàng. Trễ nhất có thể là 2027, vài tháng sau khi chia ghế xong xuôi của nhiệm kỳ mới 2026-2031. Máu thì cuối năm nay, đầu năm sau bắt.”

Một số ý kiến khác đồng tình với suy đoán này, và cho rằng Vượng là “Trương Mỹ Lan 2.0”.

Luật sư Hà Huy Sơn cho rằng việc bắt Vượng là đúng, “nên học Trung Quốc”.

Facebooker Vinh Tran bình luận: “Vượng đang dùng để rửa tiền cho lũ thối nát, một khi tiền đã rửa hết thì sẽ vào lò làm bạn cùng với Trịnh Văn Quyết.”

Một ý kiến nói: “Biết là Vượng làm ăn tầm bậy tầm bạ đấy nhưng CSVN nhờ ông ta để rửa mặt cho mình, như xây các tòa nhà chọc trời, các khu đô thị hiện đại,xe hơi xuất khẩu… để ngửa mặt với thế giới Chứ CSVN làm được gì?”

Tuy vậy, cũng có lo ngại rằng Vượng đi tù thì Vin nô, bò đỏ ai sẽ chăn dắt?

Trong một diễn biến khác, báo đảng vẫn đang hăng say đưa tin tuyên truyền về Vinfast, phớt lờ tin hãng xe điện này lỗ ròng xấp xỉ 2,4 tỷ đô la dù giao gần 35.000 xe năm 2023. Từ 2017 đến nay, lỗ lũy kế hơn 7,2 tỷ đô la. Hãng nợ cả ngắn hạn lẫn dài hạn hơn 8,2 tỷ đô la trong toàn bộ năm ngoái, tăng hơn 30% so với năm kia.

Nếu đọc báo đảng, người ta sẽ chỉ thấy những tin đại loại như “Năm đầu niêm yết ở Mỹ, VinFast báo doanh thu 1,2 tỷ USD”, “Tăng trưởng mạnh, VinFast đạt doanh thu gần 1,2 tỉ USD năm 2023


 

Lên Thuyền “Một cuộc di tản giáo dục lớn khỏi VN ?”

Nguyên Ngọc

Cách đây mấy hôm, tôi có đến thăm một chị bạn, gặp cả chị và con trai chị. Chả là vài năm trước đây tôi có dạy cả hai mẹ con học một ít tiếng Pháp. Tôi hỏi thăm cháu năm nay lên lớp mấy rồi, chị bảo giờ đang nghỉ hè, vào năm học mới cháu sẽ lên lớp tám. Ngừng một chút, rồi chị nói tiếp: “Em cũng đang chuẩn bị ráo riết để cho cháu ‘lên thuyền’ thầy ạ.”

Tôi ngạc nhiên: “Lên thuyền?”. Thấy tôi ngơ ngác, chị cười bảo: “Hai chữ này bây giờ người ta nói phổ biến rồi mà thầy. ‘Lên thuyền’ tức là ra nước ngoài học, đi du học ấy mà.

 Em chuẩn bị cho cháu lên cấp ba thì sang học ở Mỹ. Bây giờ cũng đang có một phong trào ‘thuyền nhân’ chạy khỏi đất nước như hồi mấy mươi năm trước, ngày càng đông đảo. Hồi những năm 70, 80 là thuyền nhân chính trị, di tản chính trị. Bây giờ là thuyền nhân giáo dục, di tản giáo dục. Chạy trốn nền giáo dục này”.

Hóa ra tôi quá lạc hậu. Một cuộc di tản mới, sâu sắc chẳng kém gì cuộc di tản trước, mà nào tôi có biết. Hay đúng hơn, tôi không biết nó đã đến mức một phong trào “thuyền nhân” mới. Khẩn thiết chạy trốn khỏi cái nền giáo dục mà cha mẹ họ lo sợ cho con cái họ. Chắc dẫu sao cũng là chỉ những gia đình tương đối khá giả, và tôi nghĩ hẳn cũng chỉ ở thành phố, thậm chí phải là thành phố lớn.

Nhưng mấy hôm sau tôi lại gặp một chị bạn khác, vốn quê Thái Bình. Tôi đem kể với chị chuyện “Lên thuyền” tôi mới được nghe. Chị bảo: “Không chỉ ở thành phố đâu anh ơi, em mới về quê lên đây nè. Ngay ở quê Thái Bình, nhiều gia đình chẳng khá giả gì cũng lo chạy vạy hết nước, có khi bán cả nhà, cả ruộng, để cho con ra học nước ngoài, ngay từ phổ thông. Những bậc cha mẹ có ít nhiều hiểu biết đều rất lo sợ về nền giáo dục này cho con cái của họ. Người cắn răng ở lại chỉ là người đã cùng đường…”.

Vậy đó, Bộ Giáo Dục, nhà nước có biết điều này không? Tôi muốn hỏi. Chưa hề thấy Bộ Giáo Dục, là cơ quan chịu trách nhiệm về toàn bộ nền giáo dục và tình hình giáo dục nước nhà, nói gì về chuyện “Lên Thuyền” này cả. Bộ có biết một cuộc di tản giáo dục mới, rỉ rả, âm thầm, nhưng là đại di tản đang diễn ra, từng ngày, quyết liệt, một cuộc phản kháng âm thầm mà dữ dội bằng chân đối với nền giáo dục mà các vị đang áp buộc lên họ, con cái họ?

Cũng trên trang Văn Việt này cách đây ít lâu, tôi có đọc được bài viết của anh Đỗ Ngọc Thống trả lời những người muốn hỏi anh vì sao là người làm việc chính trong nền giáo dục này mà anh cũng lại cho con ra học nước ngoài, có phải anh cũng cho con di tản giáo dục không? Anh Thống bảo chẳng lẽ người hỏi điều đó không biết rằng anh cũng phải lo sợ cho con anh về ô nhiễm môi trường, ô nhiễm thực phẩm và bao nhiêu thứ ô nhiễm văn hóa xã hội nữa ở trong nước bây giờ mà anh hẳn không muốn con anh phải chịu.

Tôi đồng ý với anh Thống về các thứ ô nhiễm rành rành anh đã chỉ ra và vì chúng, anh phải quyết cứu con anh ra khỏi. Tuy nhiên tôi có ngạc nhiên thấy anh không hề nói gì về ô nhiễm cũng sờ sờ ra đó của chính nền giáo dục mà anh đang tham gia làm ra, nó nguy hiểm đến mức hầu như bất cứ bậc cha mẹ nào có thể thì cũng đều không muốn cho con họ phải chịu, và quyết làm mọi cách để cho con “lên thuyền” hôm nay.

Một cuộc di tản giáo dục lớn, sao không ai báo động?./-

Nguyên Ngọc.


Ta cần có nhau – Từ Thức 

Từ Thức 

 

Minh họa: luca-bravo-unsplash

Đọc báo, không ngày nào không có những buổi hội họp của các hội ái hữu cựu học sinh, sinh viên trường này, trường kia, những buổi hội ngộ của những người đồng hương tỉnh này, tỉnh nọ. Có người cho đó là chuyện tào lao, vô bổ, của những người vô công rồi nghề. Người Việt ta như vậy: Những gì mình không làm đều là tào lao, vô bổ.

Tôi nghĩ ngược lại. Không những chuyện gặp gỡ, trao đổi là một nhu cầu của con người, còn rất ích lợi cho chính người tham dự, trước khi hữu ích cho một cộng đồng. Không có những sinh hoạt “vô bổ”, con người trở thành người máy, cộng đồng trở thành một cộng đồng chết. Bài này ghi lại nội dung những buổi nói chuyện, thảo luận thân mật với anh chị em hội Cựu học sinh Petrus Ký ở Conneburg, với nhóm Anh Em Tôi, đa số rất trẻ, ở Frankfurt, Đức Quốc, từ ngày 14 đến 18 Tháng Bảy vừa qua.

CƠM NHÀ NGÀ VOI

Tôi sống một nửa thế kỷ ở ngoại quốc, gấp hai thời gian sống trong nước, nhưng ngày nay, nghĩ lại, chỉ nhớ những kỷ niệm ở Việt Nam, mặc dù những ngày đó không có một xu dính túi. Có thể giải thích điều đó: Quê hương là đẹp hơn cả. Hay: 20 năm đầu tiên trong đời quyết định tất cả.

Cũng có thể giải thích cách khác: Những năm 1960 ở miền Nam Việt Nam, các hoạt động xã hội, văn hoá của sinh viên, học sinh miền Nam phát triển rầm rộ. Ngoài những buổi lên đường xuống đường, những đêm không ngủ, các hội đoàn mọc ra như nấm: Nguồn Sống, Du Ca, Phong Trào Học Đường Phục Vụ Xã Hội, Thanh Niên Thiện Chí, Thanh Niên Chí Nguyện…

Chúng tôi sát cánh bên nhau ca hát, vào các xóm nghèo, về vùng quê, lên cao nguyên làm việc từ thiện, dạy học, chích thuốc, đào giếng, cất nhà. Có người tham gia ngày cuối tuần, có người hoạt động suốt ba tháng hè, hay bỏ học làm việc xã hội, ở những vùng còn tạm yên.

Đó là cơ hội khiến chúng tôi khám phá một đất nước gấm vóc, những văn hoá muôn dạng của đồng bào thiểu số, khiến chữ “yêu nước, thương đồng bào” không phải là những từ ngữ trống rỗng.

Sau này, gặp lại những người tích cực tham gia đời sống cộng đồng, kể cả khi về già, đều là những người đã ăn cơm nhà, vác ngà voi thời trẻ. Đã vác ngà voi một lần, sẽ vác suốt đời. Bởi vì chúng tôi khám phá ba điều.

Thứ nhất: Tìm thấy hạnh phúc trong cái hạnh phúc của người khác. Sau này, có phương tiện, có cơ hội hưởng thụ, không bao giờ tìm lại được sự xúc động như khi thấy mấy em nhà nghèo ê a đọc những trang sách đầu tiên trong đời. Hay buổi tối ngồi hát bên nhau, chào mừng một cái giếng vừa đào, một lớp học vừa cất.

Thứ hai: cảm thấy mình có ích. Không có gì buồn thảm hơn một người thấy mình vô ích, vô dụng.

Thứ ba: thấy mình không đơn độc, có bạn bè, mình là thành phần của một cộng đồng, một nhóm. Có cảm tưởng cùng nhau có thể làm bất cứ chuyện gì. Cái tình bạn thời trẻ đó đôi khi kéo dài cả đời người. Đó là tình bạn thực.

Những buổi sinh hoạt của cộng đồng người Việt hải ngoại (ảnh: tác giả gửi)

VÔ CẢM

Người ta vẫn trách tuổi trẻ ngày nay vô cảm, chỉ biết hưởng thụ, cá nhân chủ nghĩa, thờ ơ với xã hội, với đất nước. Tôi không nghĩ như vậy. Tôi nghĩ tuổi trẻ nào cũng có lý tưởng, cũng chống bất công, cũng muốn có ích cho xã hội, nhưng chế độ đã biến họ thành những người vô cảm, bởi vì không có gì tốt hơn cho độc tài bền vững hơn là những người dân vô cảm.

Người ta không sinh ra vô cảm, người ta trở thành vô cảm. Khi còn trang Facebook, tôi viết vài bài vớ vẩn, khô khan, tưởng không ai đọc, ngạc nhiên thấy nhiều bạn trẻ gởi mail, cho hay “nhờ chú mà cháu biết về di cư 54, về Tự Lực Văn Đoàn, về boat people, hiểu thêm về chiến tranh Việt Nam và những lý do đưa đất nước đến băng hoại…”, và muốn gặp để trao đổi thêm. Cái tò mò muốn hiểu hơn sự thực về đất nước mình chưa bị xoá, dù tuổi trẻ bị nhồi sọ, tẩy não.

CON VẬT CHÍNH TRỊ

Aristote, triết gia Hy Lạp, bốn thế kỷ trước Thiên Chúa giáng sinh, định nghĩa con người là một con vật xã hội ( l’homme est un animal social).

Hannah Arendt, triết gia Đức, sửa lại: Aristote muốn nói người là một con vật chính trị (l’homme est un animal politique), vì thời Aristote chưa có chữ xã hội.

Chính trị ở đây không có nghĩa là làm chính trị, lập đảng, tham gia chính quyền. Chính trị là tham gia vào đời sống cộng đồng.

Con vật cũng có đời sống xã hội, phân công trách nhiệm, đôi khi cực kỳ chặt chẽ, như loài ong, loài kiến, nhưng cái khác là con người, animal politique, tham gia đời sống xã hội (Aristote gọi là cité, thành phố), thảo luận, trao đổi để cải thiện đời sống. Từ sự sống chung đó đẻ ra những quy ước xã hội, phong tục, luật lệ, văn hoá.

Theo Aristote, tất cả đều là những con vật chính trị, có nhu cầu sống chung, trừ những người dưới loài người, coi như con vật (animal), hay hiếm hơn nữa, đứng trên loài người, là những bậc thánh (Dieu). Sống chung, tham gia vào đời sống cộng đồng là một nhu cầu, sau nhu cầu thở, ăn uống.

KIM TỰ THÁP MASLO

Nhà xã hội học Hoa Kỳ Abraham Maslow, từ 1943, nổi tiếng với thuyết về nhu cầu của con người (Theory of Human Motivation), tóm tắt những nhu cầu đó trong một mô hình cũng nổi tiếng không kém, gọi là Kim Tự Tháp Maslow (Pyramide de Maslow).

Kim tự tháp Maslow chia nhu cầu của con người ra năm tầng.

Tầng dưới cùng, những nhu cầu tối cần: Thở, ăn, uống, tình dục, ngủ…

Tầng thứ nhì: Sau nhu cần ăn, ngủ, con người tìm an ninh, công việc, tiền bạc, gia đình, sức khoẻ, tài sản, của cải.

Tầng thứ ba: Tình bạn, tình nghĩa gia đình (khác với có gia đình ở tầng hai), tóm lại, nhu cầu thuộc một nhóm, là thành phần của một cộng đồng.

Tầng thứ tư: Thành công trong xã hội, nhu cầu được người khác kính trọng, tự tin, tự trọng.

Tầng cao nhất: Nhu cầu luân lý, sống trong sự tử tế, nhu cầu sáng tạo (văn học, nghệ thuật), nhu cầu có khả năng giải quyết những vấn đề, mở mang trí óc, thoát khỏi những thành kiến.

Như vậy, nhu cầu thuộc một nhóm, đóng góp, tham dự, chia sẻ với một cộng đồng ở từng thứ ba.

Nếu chỉ biết ăn ngủ, làm tình, ăn xong lại nằm, là còn lẩn quẩn ở tầng thứ nhất, sống theo bản năng.

Nếu chỉ nghĩ, chỉ ham mê vật chất, kiếm tiền, mua nhà, mua xe hơi, mua hột xoàn, mua giầy Nike, sac Vuiton, là chưa thoát khỏi tầng thứ nhì.

Muốn leo lên tầng trên, cần đôi chút nỗ lực, cần tự đặt câu hỏi, tự xét lại. Khi lên tầng trên, sẽ tìm thấy một cuộc đời giầu có hơn là tiền bạc, phong phú hơn là cuộc sống chỉ có thú vui vật chất. Lúc đó, người ta sẽ hiểu những cái vô bổ, những thú vui tinh thần, không có ích lợi thực dụng, không ăn được, là những nhu cầu thiết yếu, để đời sống đáng gọi là đời sống.

Minh họa: kevin-delvecchio-unsplash

CẦN NHAU ĐỂ LÀM GÌ

Chúng ta cần có nhau để làm gì?

-Để tương trợ lẫn nhau. Từ thời thượng cổ, con người đã cần nhau sống còn, để săn bắn, để đương đầu với đe doạ của thiên nhiên.

-Để trao đổi, học hỏi lẫn nhau.

-Để đụng độ các ego, hiểu rằng có người nghĩ khác mình, sự thực chỉ tương đối, từ đó cởi mở hơn, không bị trói chặt trong các thành kiến như khỉ giữ ống.

-Cùng với người khác, ta sẽ mạnh hơn, sẽ lây sự nhiệt thành của người khác.

Không phải vô lý mà tất cả những chế độ độc tài đều sợ “tụ tập đông người”. Gặp gỡ nhau cũng là một cách chia sẻ những đau thương của chính mình. Cái gánh nặng đau buồn khi được chia sẻ sẽ nhẹ đi. Đó chính là lý do người Tây Phương tìm gặp các bác sĩ tâm lý.

Người Việt ta không có thói quen thổ lộ tâm tình, với người lạ, hay người quen, kể cả cha mẹ, anh em, con cái. Mỗi người Việt là một bi kịch biết đi. Một bi kịch câm lặng biết đi. Không người Việt nào không là nạn nhân của chiến tranh, chia ly, tang tóc. Cái thảm kịch của dân tộc, của mỗi người chúng ta khủng khiếp hơn bất cứ những trang tiểu thuyết bi thảm nhất.

Gói trọn cái thảm kịch đó trong đầu, ngồi một góc nhà, chúng ta không thể tìm thấy an bình, dù đã thành công trong đời. Gặp gỡ nhau là một cách chia sẻ cái gánh nặng ấy với người khác. Có chung một cảnh ngộ, chúng ta, một cách vô thức, chia sẻ bi kịch cá nhân, không cần lời nói, không cần tâm tình, không cần giải thích.

Một nghiên cứu cho hay một nụ cười, một khuôn mặt thân thiện tạo ra một phản ứng hoá học nơi người nhận, cũng như người cho, khiến người ta yêu đời hơn.

Ngày nay có rất nhiều “club de rire”, hay club de yoga du rire (laughter yoga), nơi người ta đến để cười chung với nhau. Nhìn từ bên ngoài, thấy lố bịch, nhưng những người đã tham dự nói sau một buổi cười với nhau, người ta thấy gần gũi nhau hơn, gánh nặng ưu phiền nhẹ hẳn đi.

THẾ GIỚI ẢO

Những tiến bộ kỹ thuật thông tin đáng lẽ làm chúng ta gần nhau hơn, đã đẩy chúng ta xa nhau. Nhà nhân chủng học Anh Robin Dunbar nói mỗi người chỉ có thể có tối đa năm người bạn thực là bạn. Sau này, với mạng xã hội, người ta có thể có hàng ngàn “friends”, nhưng đó là thế giới ảo. Có người nói nhiều bạn bè trên mạng cũng như tỷ phú trên Monopoly (một trò chơi ăn thua bằng tiền giả).

Chúng ta nói chuyện với những người xa lạ bên kia địa cầu, quên cả bạn bè, người thân bên cạnh. Hình ảnh quen thuộc ngày nay là một bữa cơm gia đình, mỗi người chúi mũi trên smart phone, sống trong thế giới ảo. Gặp gỡ, tham dự những sinh hoạt cộng đồng là một cách hữu hiệu để bớt cô đơn, để tìm lại chính mình. Với điều kiện gặp nnhau không phải chỉ để khoe hột xoàn, xắc Chanel, xe mới.

TIẾNG VIỆT CÒN…

Người Việt ở hải ngoại gặp nhau cũng là cơ hội để tiếng Việt khỏi bị quên lãng, để văn hoá Việt khỏi bị chôn vùi. Phạm Quỳnh nói: Truyện Kiều còn, tiếng Việt còn; tiếng Việt còn, nước Việt còn.

Ngôn ngữ là sợi dây nối những người đồng hương với nhau. Khi sợi dây đứt, dân tộc tan vỡ thành những mảnh vụn. Chuyện bảo vệ tiếng Việt càng quan trọng, khẩn cấp hơn khi tiếng Việt bị tra tấn, hành hạ bằng những từ ngữ mới, ngây ngô, vô nghĩa, những cách diễn tả lai Tàu, lai Tây, lai Mỹ…

Những tệ hại đó nhan nhản, chỉ cần mở một tờ báo, một đài truyền hình, nghe một video. Đôi khi vì ngu dốt, đôi khi vì vô ý thức, nhưng nguy hiểm hơn, đôi khi vì một chế độ muốn xoá bỏ văn hoá cũ, con người cũ, để đào tạo con người mới, sản phẩm của chế độ, dùng ngôn ngữ của chế độ, suy nghĩ như chế độ. Không phải vô tình mà người Cộng sản đốt sách, đốt nhạc, bỏ tù văn nghệ sĩ, khi chiếm miền Nam năm 1975.

TỪ GIA ĐÌNH TỚI XÃ HỘI

Một đặc điểm của xã hội Việt Nam là tinh thần gia đình, cực mạnh. Vì gia đình, người ta quên mình, quên cả sống, hy sinh vô bờ bến. Cái tôi không có, chỉ có con cái, anh chị, bố mẹ, ông bà. Gia đình là thành trì cuối cùng trong một xã hội băng hoại. Thành trì đạo đức, nhân phẩm, thành trì văn hoá, thành trì của tình người.

Không có gia đình mạnh, xã hội Việt Nam đã tan rã, dân tộc Việt đã giải thể từ lâu. Vấn đề là cái văn hoá gia đình cực mạnh đó khiến chúng ta sao lãng, thờ ơ với xã hội. Một quốc gia đúng nghĩa không thể chỉ là những ốc đảo lẻ loi, là hàng triệu gia đình, sống bên cạnh nhau, nhưng không có nỗ lực chung để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn. Tham dự đời sống cộng đồng chính là “nối vòng tay lớn” với xã hội.

VĂN HOÁ

Milan Kundera, văn hào Pháp gốc Tiệp, vừa từ trần, đặt câu hỏi: Tại sao các nước Âu Châu đứng vững, tồn tại ngàn thu, không thế lực nào xoá bỏ được, mặc dù chỉ là những quốc gia rất nhỏ, ít người, biên giới bị các “bên thắng cuộc” trong lịch sử vẽ đi vẽ lại?

Kundera trả lời: cái giữ vững Âu Châu là văn hoá. Âu Châu là một vùng văn hoá cực kỳ phát triển. Với nền tảng văn hoá đó, những chế độ độc tài từ Nazi tới Cộng Sản, dù tàn bạo tới đâu, cũng chỉ là dấu ngoặc của lịch sử. Tham dự, đóng góp cho đời sống cộng đồng là một cách, ít hay nhiều, đóng góp cho việc bảo tồn văn hoá Việt.

From: Tu-Phung

Alexei Navalny bị Poutine giết, hết chống đối hay có người nối tiếp?-Tác Giả: Nguyễn Thị Cỏ May

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Thị Cỏ May

Alexei Navalny và vợ. Ảnh REUTERS/Tatyana Makeyeva

Sau gần một tuần tranh đấu quyết liệt với Poutine, đòi Poutine phải giao trả ngay lập tức xác của con, không trả phải chăng vì muốn phi tang tội giết người, bà Lioudmila Navalnia, mẹ của Alexei Navalny, bị  Poutine ám sát hôm 16 tháng 2/2034 trong nhà tù biệt giam ở Bắc cực, đã thắng được một phần quan trọng. Poutine đã chịu cho bà nhìn xác con trong nhà thương của Thành phố Salekhard thuộc Quận Iamalo-Nénétsie, nơi có nhà tù nhốt Alexei Navalny.

Bà tố cáo Poutine sở dĩ cho bà nhìn thấy xác con là để buộc bà chấp nhận mai táng Alexei Navalny một cách âm thầm, bí mật tuyệt đối, không tang lễ, ở bên lề một nghĩa trang, bên cạnh một nắm mồ mới, và một nhơn viên trong  Ban điều tra về cái chết của Alexei Navalny nói với bà « Nơi đây con của bà yên nghỉ » . Bà phản đối.

Nhơn viên ấy liền dọa bà «Nếu bà không  đồng ý chôn cất ngay như chúng tôi đề nghị, thì xác con của bà sẽ thối rữa» .

Từ chối cho bà Lioudmila Navalnia tổ chức tang lễ cho con, phải chăng vì Poutine sợ? Poutine sợ Alexei Navalny chống đối nên đã ám hại Navalny. Nay Poutine lại sợ cả cái xác  của kẻ chống ông ta nữa!

Nhưng sau Alexei Navalny còn ai nối tiếp để chống Poutine và chế độ ác ôn ỡ Kremlin không?

Hi vọng về một nước Nga khác mai một

Ai cũng thấy cái chết của Alexei Navalny đã thật sự làm cho Poutine cực kỳ lo sợ về tương lai của chế độ ở Nga. Theo nhà chánh trị học chuyên về Nga, Giáo sư Nikolai Petrov, giải thích thì gần đây nhiều quyết định của Poutine, nhứt là quyết định thanh toán nhà chống đối số 1  Alexei Navalny, là do sợ hãi. Poutine lo sợ trước bầu cử vào giữa tháng ba tới sẽ bị xáo trộn tuy ông ta biết chắc sẽ thắng cử. Xưa nay chế độ độc tài không bao giờ được yên ổn. Poutine lo sợ thắng cử sẽ không  đạt số phiếu tối đa trên 90% và sẽ có chuyện bất ngờ không hay xảy ra trong bầu cử.

Về cái chết của Alexei Navalny, ông Nikolai Petrov quả quyết là do  Poutine ám sát. Ông nhấn mạnh trong mọi trường hợp Poutine vẫn là thủ phạm. Nên thấy từ sau khi xâm chiếm  Ukraine, Poutine không còn quan tâm tới một giới hạn nào nữa hết. Không thắc mắc tới phản ứng của Tây Âu hay phản ứng của dân chúng Nga. Điều đó có nghĩa là Poutine chi quan tâm tới sự mất còn của chế độ mà thôi. Đó đúng  là lý do tại sao Poutine đày Alexei Navalny lên nhốt ở cực Bắc, cắt đứt hết mọi liên lạc với luật sư và với thế giới bên ngoài.

Mặc dầu áp lực mạnh của dư luận từ khắp nơi và sức ép chánh trị, Poutine vẫn không tin chắc là Alexei Navalny sẽ không ảnh hưởng xấu tới cuộc bầu cử Tổng thống vào tháng ba tới. Từ khi từ Đức trở về, ảnh hưởng của Alexei Navalny đối với phần lớn dân chúng và những người theo ông rất lớn. Nhiều người trong số này đã bị Poutine cho lệnh bắt hoặc đã kịp chạy thoát ra ngoại quốc nên ngày nay không  nên chờ đợi những cuộc biểu tình lớn xảy ra ở Nga để phản đối cái chết oan ức của Alexei Navalny. Còn biểu tình chống  Poutine thì càng khó xảy ra hơn.

Nhưng không vì thế mà nói là sự bất mảng trong dân chúng không có cách nào để bùng phát được. Nhiều chuyện biết đâu sẽ nổ bùng ngay trong  ngày cử tri đi bầu? Poutine không thể nào hoàn toàn kiểm soát chặt chẽ hết dân chúng cử tri được. Nhà đối lập khác ở hải ngoại, ông  Mikhaïl Khodorkovski, đang tung ra lời kêu gọi cử tri nga khi đi bỏ phiếu, hãy viết tên Alexei Navalny lên lá phiếu. Cách phản khán này rất dễ thi hành mà nhà cầm quyền của Điện Kremlin lại khó kiểm soát và ngăn chặn.

Với Poutine, chiến tranh ở Ukraine làm tốn kém rất lớn vì xua quân đánh Ukraine là một quyết định không hợp lý. Poutine đang trả giá chiến tranh Ukraine quá đắc về tài chánh mà cả về mạng sống của dân Nga, mà về tương lai gần đây, kinh tế Nga sẽ bị ảnh hưởng mà suy sụp hơn. Nhưng Poutine chỉ quan tâm kiểm soát hệ thống cầm quyền cho chặt chẽ, giữ tư cách người lãnh đạo chánh trị và quân sự cẩn thận. Vì Poutine chỉ muốn sử dụng chiến tranh để kiểm soát sát xao hơn nữa hệ thống cầm quyền và xã hội như quản lý cả những nhà tài phiệt. Nên đối với Poutine, việc kết thúc chiến tranh với sự thắng lợi thật sự không phải quan trọng. Poutine muốn kéo dài chiến tranh. Kết thúc, Poutine phải giải thích với dân chúng chiến tranh Ukraine đem lại được gì trong khi Nga đã phải trả giá quá đắt về nhơn mạng và tài chánh. Điều này chắc chắn sẽ không mấy gì hay cho Poutine!

«Còn chờ đợi gì nữa  đây?». Câu hỏi mỉa may của một nhơn viên Điện Kremlin được tờ báo độc lập Meduza tường thuật. Thật vậy, một chế độ độc tài ác ôn tuy không cộng sản đảng trị nhưng do một tên gốc cộng sản mà lại được truy rèn trong lò KGB nên mọi chống đối đều bị nghiền nát hết.

Khi nghĩ trở về xứ, đem thân cho Poutine bắt tù đày, Alexei Navalny hi vọng đánh thức tinh thần tranh đấu cho một nước Nga khác của dân chúng Nga và nhờ đó làm sụp đổ chế độ của Poutine . Nhưng ba năm sau, cái chết của anh chỉ đủ đánh dấu mọi hi vọng cho một nước Nga khác của những người chống đối không còn nữa .

Chỉ có, ở khắp nơi trên xứ Nga, những nhóm nhỏ người Nga, vô danh, can đảm, cầm những cánh bông Cẩm chướng đỏ tới đặt ở chơn tượng tưởng niệm những nạn nhơn bị chế độ ác ôn Liên-xô sát hại. Ơ Nga, những chuyện xảy ra trước đây, ngày nay không có thể xảy ra được nữa.

Ai sẽ thay thế Alexei Navalny chống Poutine?

Hiện nay có ông Boris Nadejdine đang động viên hàng ngàn dân Nga để yểm trợ ông ứng cử Tổng thống, tranh cử với Poutine vì hồ sơ ứng cử của ông đã bị Ban Bầu cử từ chối do không đủ điều kiện. Nay ông Boris Nadejdine tranh cử với tư cách người nối tiếp sự nghiệp Alexei Navalny.

Ông Boris Nadejdine biết nay «niềm hy vọng  một nước Nga tự do đã hoàn toàn tan biến. Nhưng không phải như vậy là mình xuôi tay, bất lực, đầu hàng  tình thế. Tôi sẽ làm mọi cách để thực hiện nguyện vọng của Alexei và của hằng nhiều triệu công dan xứ Nga của chúng tôi. Nước Nga sẽ hòa bình và tự do».

Nhưng ông tuyên bố như vậy được, không bị Poutine bắt, vì ông chỉ là một người muốn làm chánh trị lớn mà cái may mắn nhận được số phiếu bầu cho lại quá nhỏ. Trong lúc đó hy vọng hồ sơ ứng cử của ông sẽ được Hội Đồng Bầu cử chấp thuận cũng quá mong manh.

Nhung Nadejdine ứng cử còn vì có ý kêu gọi chấm dứt chiến tranh ở Ukraine. Ngay trong  họ «Nadejdine» của ông, đã có «nadejda», trong tiếng Nga, có nghĩa là «hy vọng», đủ nói lên ông là ứng cử viện duy nhứt sẽ cổ động cho chấm dứt chiến tranh như ông hằng mong muốn: «Không có chiến tranh. Poutine hay cút đi chỗ khác».

Thật sự phải nói là sau Alexei Navalny, sự chống đối Poutine là một tương lai quá mờ mịt.

Trong lúc ở Paris, cũng như ở nhiều Thủ đô khác, Đại sứ của Nga bị triệu tập, ông Josep Borrell, Trưởng Ban Ngoại giao của Liên Âu đề nghị Liên Âu nên gởi một thông điệp ủng  hộ sự chống đối ở Nga sau khi Alexei Navalny bị Poutine ám hại. Lời đề nghị này được đưa ra trước khi bà Ioulia Navalnaïa, vợ của Alexei Navalny, tới.

Vấn đề tiếp nối sự nghiệp của Alexei Navalny vẫn còn mơ hồ. Trong một vidéo phát hành trên mạng xã hội, Ioulia Navalnaïa, 47 tuổi, tuyên bố bà sẽ tiếp nối nỗ lực chống tham nhũng của chồng. Tỵ nạn ở Âu châu, cho tới nay, bà vẫn từ chối một vai trò chánh trị nhưng nay, bà chấp nhận lên tiếng kêu gọi mọi sự ủng hộ đoàn kết để đập Poutine một cái cho xong.

Trên thực tế ai cũng biết mọi kêu gọi tập họp đông đảo không phải dễ. Cái giá của phản kháng luôn luôn cao. Đi biểu tình, một người bình thường sẽ bị tù từ 5 tới 9 năm. Ngay cả viết một lời phê bình chế độ trên mạng cũng có thể bị công an bắt nhốt.

Như ở Việt Nam tội chống đảng và Nhà nước. Vì Poutine học theo Nguyễn Phú Trọng!

Nguyễn thị Cỏ May


 

CÁI TÔI GIÀY VÒ VÀ QUÁ ĐỖI PHỨC TẠP CỦA CHÚNG TA – Rev. Ron Rolheiser, OMI

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Nói cho cùng, cuộc đời chúng ta đâu phải chỉ có bình yên và thanh thản.  Có thể nói, chúng ta luôn phần nào thê thảm.  Nhưng chuyện đó không nên làm chúng ta sợ hãi.  Thê thảm không phải là một từ miệt thị.  Từ này có gốc Hy Lạp là pathos, nghĩa là đau đớn.  Thê thảm nghĩa là sống trong đau đớn, và chúng ta đều như thế bởi vì chúng ta được tạo nên như thế.

Có lẽ các bạn sẽ nghĩ như thế thì chẳng hợp lý gì cho lắm.  Chúng ta được tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa, nên chẳng phải mỗi người chúng ta, dù cuộc sống có thảm đến đâu thì vẫn mang một phẩm giá đặc biệt và tính thần thiêng nào đó trong người sao?  Chúng ta có phẩm giá đặc biệt đó thật.  Tuy nhiên, bất chấp những chuyện này, và phần lớn lại là do những chuyện này, cuộc sống của chúng ta có khuynh hướng phức tạp cũng như đầy đau đớn.  Tại sao lại như vậy?

Không dễ để mang lấy sự thần thiêng.  Sự vô hạn trong chúng ta không dễ tương hợp với cái hữu hạn.  Chúng ta mang trong mình một ngọn lửa quá thần thiêng, đến nỗi khó mà tìm được sự bình an trong đời này.

Sự đấu tranh đó đã bắt đầu có từ đầu đời.  Để tạo cái tôi cho một đứa bé còn rất nhỏ, chúng ta cần một loạt truyền thụ về tinh thần và đến cuối cùng, nó lại hạn chế ý thức của chúng ta.  Trước hết, chúng ta cần phân biệt bản thân và người khác (kia là mẹ, đây là mình), rồi chúng ta cần phân biệt giữa cái có sự sống và cái không có sự sống (con chó thì sống, con búp bê thì không), tiếp theo, chúng ta cần phân biệt giữa cái vật chất và cái ý thức (đây là cơ thể mình, nhưng tâm trí mới giúp mình suy nghĩ).  Cuối cùng, và quan thiết nhất, khi làm mọi chuyện này, chúng ta cần chia ra cái mà chúng ta có thể xử lý một cách có ý thức và cái vượt quá tầm xử lý có ý thức của mình.  Từ đó, chúng ta tạo nên cái tôi, nhưng chúng ta còn tạo nên một cái bóng, cụ thể là một vùng trong chính mình, tách biệt khỏi ý thức của mình.

Và chúng ta phải lưu ý, cái bóng của chúng ta, trước hết và trên hết, không phải là bóng tối lẩn khuất.  Đúng hơn, nó là mọi sự sáng và sinh lực trong bản thân mà chúng ta không thể xử lý một cách có ý thức.  Tôi cho rằng hầu hết chúng ta đều quen thuộc với những lời của bà Marianne Williamson, đã được Nelson Mandela trích dẫn trong bài diễn văn nhậm chức: Nỗi sợ thâm sâu nhất của chúng ta không phải là sợ chúng ta bất đạt.  Nỗi sợ thâm sâu nhất của chúng ta là sợ chúng ta mạnh quá mức.  Chính ánh sáng, chứ không phải bóng tối, mới là điều làm chúng ta sợ nhất.

Ánh sáng trong chúng ta làm chúng ta sợ, vì nó chính là điều không dễ mang lấy.  Nó cho chúng ta phẩm giá cao quý và sự thâm sâu vô hạn, nhưng nó cũng cho chúng ta sự phức tạp và khắc khoải thảm thê.  Bà Ruth Burrows, một trong những ngòi bút thiêng liêng hàng đầu của thời chúng ta, đã mở đầu tự truyện của bà như sau: Tôi được sinh ra trong thế giới này với sự nhạy bén bị giày vò và cuộc sống của tôi chẳng dễ dàng gì.  Các bạn sẽ không ngờ một nhà thần nghiệm, một nữ tu bền đỗ hơn 70 năm cuộc đời, lại nói câu này.  Các bạn cũng sẽ không ngờ rằng trong cuộc sống bà phải đấu tranh ánh sáng bên trong mình không khác gì đấu tranh với bóng tối bên trong và bao quanh mình.  Điều này cũng đúng với mỗi chúng ta.

Trong sách Giảng viên, có một câu nhiều người biết, nói rằng Thiên Chúa làm cho mọi thứ trở nên đẹp đẽ vào đúng thời đúng điểm của nó.  Tuy nhiên, đoạn đó không kết thúc theo một cách êm đềm.  Đoạn kết nói rằng trong khi Thiên Chúa làm cho mọi thứ trở nên đẹp đẽ vào đúng thời đúng điểm của nó, Ngài cũng đưa sự vô tận vào tâm hồn con người, nên từ đầu đến cuối, từ bẩm tính, chúng ta cứ lạc nhịp với thời gian và các thời.  Cả phẩm giá đặc biệt và sự phức tạp bệnh hoạn của chúng ta đều có nguồn gốc nơi sự bất thường trong bản tính chúng ta.  Chúng ta cưu mang quá nhiều, vượt quá cuộc sống đời này.

Thánh Augutinô diễn tả một cách kinh điển: Lạy Chúa, Ngài đã tạo thành chúng con cho Ngài, và tâm hồn chúng con khắc khoải mãi cho đến khi được nghỉ yên trong Ngài.  Câu này tóm gọn cả nhân học và linh đạo.  Phẩm giá và sự khắc khoải luôn mãi của chúng ta có cùng một nguồn gốc.

Vì thế chúng ta cần tự cho mình sự chấp thuận thần thiêng để có một tâm hồn hoang dại, khắc khoải, vô độ, phức tạp và đầy xung lực.  Cả tâm lý học và linh đạo quá thường xuyên phụ lòng chúng ta khi cho chúng ta ấn tượng mình nên sống mà không có những hỗn loạn và khắc khoải.  Phải thừa nhận rằng khi chúng ta bất đạt về tinh thần thì những thứ này có thể bủa vây chúng ta dữ dội hơn nữa, nhưng dù cho chúng ta có sống tốt thế nào đi nữa, thì nó vẫn cứ bủa vây chúng ta.  Sự thật là, nếu chúng ta là người nhạy cảm sâu sắc, thì có lẽ chúng ta sẽ cảm nhận sự phức tạp của mình rõ ràng hơn một người thiếu nhạy cảm hoặc đã làm tê dại sự nhạy cảm bằng những thứ xao lãng khác.

Một người bạn từng viết thư cho Karl Rahner, phàn nàn rằng mình đã không tìm được sự viên mãn mà ông mong mỏi trong đời.  Ông bày tỏ sự thất vọng với chính mình, với cuộc hôn nhân và công việc của mình.  Rahner mới viết thư khuyên rằng: Trong nỗi giày vò của sự thiếu hụt tất cả mọi thứ có thể đạt được, đến tận cùng, chúng ta học biết rằng, trong đời này, tất cả mọi hòa âm đều phải dang dở.  Trong đời này, không thể có hòa âm trọn vẹn, và lý do không phải bởi linh hồn của chúng ta khiếm khuyết, mà là bởi chúng mang trong mình sự thần thiêng.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: Langthangchieutim


 

Đằng sau là cái gì?-Đoàn Bảo Châu

Ba’o Tieng Dan

23/02/2024

Đoàn Bảo Châu

23-2-2024

Ở đây tôi không nói tới chuyện cổ tích một gói mì mà muốn nêu lên những câu hỏi đằng sau những tài sản của những Đỗ Hữu Ca trên đất nước này.

Một nô bộc như Ca có tới 40 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cùng lượng lớn tiền, vàng, ngoại tệ, trang sức. Tôi không tin Ca tài năng tới mức buôn bán bất động sản để có được tài sản này.

2 căn biệt thự “khủng” của gia đình cựu Giám đốc Công an Hải Phòng Đỗ Hữu Ca nằm ở xã Kênh Giang (Thủy Nguyên, Hải Phòng) và đường Lê Hồng Phong (phường Đằng Lâm, quận Hải An).

Cổng vào hoàng tráng của ngôi biệt thự khủng của gia đình cựu Giám đốc Công an Hải Phòng Đỗ Hữu Ca nằm ở xã Kênh Giang (Thủy Nguyên, Hải Phòng).

Khu đất của gia đình cựu Giám đốc Công an Hải Phòng Đỗ Hữu Ca nằm ở xã Kênh Giang (Thủy Nguyên, Hải Phòng) có diện tích rất rộng.

Tại căn biệt thự của gia đình cựu Giám đốc Công an TP Hải Phòng Đỗ Hữu Ca tại phường Đằng Lâm, quận Hải An, Cơ quan điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh từng khám xét, tạm giữ nhiều tài sản. 

Vậy những doanh nghiệp nào liên quan để Ca có được khối tài sản này? Số tài sản các doanh nghiệp có được nhờ sự liên kết ấy gấp bao lần số tài sản của Ca?

  1. Loại trừ ngành sản xuất thì trong buôn bán, móc ngoặc, câu kết, tài sản không tự nhiên sinh ra mà chỉ chuyển từ túi người này sang túi người khác. Vậy số tài sản của Ca cùng các doanh nghiệp liên quan đã khiến thất thoát bao tài sản công hay tài sản tư? Bao giọt nước mắt của dân oan đã đổ xuống vì số tài sản khó có thể định lượng được ấy?
  2. Trên dải đất hình chữ S này, có bao nhiêu Đỗ Hữu Ca? Và cứ thế nhân lên thì sẽ có bao tiếng khóc, bao giọt nước mắt của dân oan?
  3. Cái mà chúng ta nhìn thấy chỉ là phần nổi của tảng băng chìm. Vậy phần chìm không thể nhìn thấy kia to đến đâu và nó tạo ra sự đau khổ của người dân đến chừng nào?
  4. Toàn bộ ý nghĩa của cuộc cách mạng vô sản là để “do dân” “vì dân”, tức là phục vụ cho tầng lớp lao động. Coi giai cấp lao động là lực lượng nòng cốt của cách mạng, của xã hội. Vậy sau mấy chục năm, tại sao vẫn tồn tại những số phận như Chị Dậu, phải bán con vì khó khăn?

Nhóm Dân Oan là một lực lượng có thật ở Hà Nội và các tỉnh khác. Họ liên quan tới những “ông quan” kiểu Đỗ Hữu Ca như thế nào? Và chính quyền giải quyết được bao nhiêu phần trăm những lá đơn kêu cứu của họ?

__________

Bài liên quan: Cận cảnh 2 ngôi biệt thự ‘khủng’ của cựu Giám đốc Công an Hải Phòng Đỗ Hữu Ca (VNF). – Khối tài sản ‘khủng’ của gia đình cựu giám đốc Công an Hải Phòng Đỗ Hữu Ca có từ đâu? (TT). – Tài sản ‘khủng’ thu giữ tại nhà ông Đỗ Hữu Ca được tách xem xét riêng (TN).


 

ĐÊM GIAO THỪA CỦA NHỮNG NGƯỜI LÍNH MẤT NƯỚC – Phạm Thành Châu

Phạm Thành Châu

1.

Năm 1981, tôi được gọi tên ra khỏi nhà tù Cộng Sản. Hơn sáu năm tù là tiêu chuẩn thấp nhất cho tù quân, cán, chính, đảng phái, tôn giáo Việt Nam Cộng Hòa.

Thông thường, tù được thả về vào những dịp lễ, tết. Tôi ở tù vùng núi rừng tây bắc Việt Nam, được thả về trước Tết âm lịch. Ði xe lửa Hà Nội – Sài Gòn, về đến ga Bình Triệu thì đúng vào 29 tháng chạp âm lịch. Tôi đi bộ từ ga Bình Triệu về đường Võ Duy Nghi, Phú Nhuận (Sài Gòn). Khi đi tù, tôi có gửi thư về nhà cha mẹ vợ, ở đường Võ Duy Nghi, là nơi vợ tôi và hai đứa con tá túc, nhưng không thấy trả lời cũng chẳng được thăm nuôi trong mấy năm đi tù. Nhờ sức trai, tôi chịu đựng được chứ mấy ông lớn tuổi mà không có thăm nuôi, bệnh hoạn, đói lạnh, chết gần hết. Tôi từng thấy nhiều ông tù chết, được bó bằng cái chăn rách của ông ta, bỏ lên xe cải tiến, kéo đi trong sân, ra cổng. Hai cái chân khô đét, xanh lét thò ra khỏi xe, nhịp lên nhịp xuống theo bánh xe gập ghềnh, tưởng như người chết nằm rung chân khoái trá được vĩnh viễn ra khỏi nhà tù, lên gò nằm ngủ khỏe, khỏi phải “lao động là vinh quang”!

Khi tôi đến nhà bên vợ, mới bước lên thềm, tôi đã dội ngược. Nghe giọng Bắc Kỳ 75, tôi biết gia đình cán bộ đang ở trong đó. Như vậy, gia đình bên vợ tôi đã bị đánh tư sản, tài sản bị tịch thu, cả nhà bị đưa lên kinh tế mới. Chẳng biết vợ con tôi bây giờ ra sao? Tôi ôm gói đồ tù, gồm quần đùi, khăn lau mặt và bàn chải đánh răng. (Người tù, khi được thả về, tất cả áo quần, mùng màng, lương thực thăm nuôi, thuốc men… đều để lại cho bạn tù, chỉ đem theo vật dụng đi đường) đi lang thang mà chẳng biết về đâu? Anh em ruột thịt chưa chắc đã dám chứa “tù ngụy” trong nhà vì sẽ bị công an các cấp đến hạch sách, hăm dọa thường xuyên, nên tôi chẳng hy vọng gì ở từ tâm của bà con, bạn bè. Có lẽ phải sau Tết, tôi đến hàng xóm của gia đình bên vợ hỏi thăm tin tức thì họa may.

Tôi cứ đi lòng vòng trên đường Võ Duy Nghi, Hai Bà Trưng, Hiền Vương với cái bụng trống rỗng, nhìn ngơ ngáo mấy chậu bông Tết người ta bày bán trước nhà thờ Tân Ðịnh, chứ không dám nhìn vào mấy tiệm bánh, hủ tiếu, phở. Ðói bụng nên mũi rất thính. Mùi thơm của thức ăn từ các tiệm đó làm chảy nước miếng. Khoảng mười giờ tối, đi rả chân, tôi nằm đại vào một hiên nhà người ta, trên đường Hai Bà Trưng, bên kia đường là nghĩa trang Mạc Ðỉnh Chi. Hai bên lề đường Hai Bà Trưng, giăng đầy mùng của dân kinh tế mới. Họ là dân Sài Gòn, sau năm 1975 bị đánh tư sản. Nhà nước Cộng Sản tịch thu tài sản, đẩy lên kinh tế mới với hai bàn tay trắng, nơi rừng núi hoang vu khai phá đất đai sinh sống, nhưng bịnh và đói, chết dần, họ bỏ về Sài Gòn, ngủ lề đường cùng với dân bụi đời, vô gia cư, cầu bơ cầu bất.

2.

Vừa thiu thiu ngủ, tôi bỗng bị đá vào người rồi có tiếng nạt “Ông nầy. Chỗ của tụi tôi, ai cho ông nằm đây?”. Tôi giật mình, lồm cồm ngồi lên, ôm gói đồ tù “Xin lỗi. Tôi tưởng không có ai”. Qua ánh đèn đường, tôi thấy hai cậu trung niên, khoảng bốn mươi tuổi, tướng bặm trợn, đứng chống nạnh nhìn tôi. Khi tôi bước xuống thềm, đi được mấy bước thì bị gọi giật lại:

– “Chú!”

Tôi dừng lại, yên lặng quay nhìn.

– “Chú có phải đi tù về không?”

– “Phải. Mà sao?”

– “Chú cứ ngủ đây đi. Tụi nầy ngủ lề đường cũng được”

– “Sao cũng được. Cám ơn”.

Làm phật lòng mấy tay nầy chỉ thêm phiền nên tôi phải vâng lời, quay lại, nằm xuống hiên, gối đầu lên bọc tù, nhắm mắt để đó chứ không ngủ tiếp được. Hai tay giang hồ nầy, lẽ ra, có thể nằm phần còn lại của hiên nhà nhưng lại giăng mùng ngủ trên lề đường, gần nơi tôi nằm. Cách giăng mùng của họ cũng đơn giản. Mấy cái túi hay xách, bị gì đó chắn trên đầu và dưới chân, đình mùng cao độ hai gang tay, không chạm mặt người nằm bên trong, thật nhanh và thuận tiện. Hai cậu nằm trong mùng vừa chuyện trò vừa chửi thề rồi cười hắc hắc nghe thật ngang tàng.

Tôi nằm nhìn thiên hạ qua lại. Xe gắn máy chạy vù vù, người đi bộ lê dép lẹp xẹp. Tôi không biết ngày mai đi đâu với cái túi trống trơn và cái bụng xẹp lép? Mấy năm tù đã làm cho đầu óc tôi mụ mẫm, chẳng thèm lo nghĩ. Ðến đâu hay đó. Trong tù, sáng nghe kẻng báo thức, dậy ra ngồi trước cửa nhà tù để cán bộ coi tù đếm tù, lãnh mấy củ khoai mì hay trái bắp, ăn xong chờ kẻng để sắp hàng ra cổng, lao động. Chiều về, lại mấy củ khoai, trái bắp gì đó, ăn xong, ngồi cho cán bộ đếm tù rồi vô nhà tù nằm chờ giấc ngủ. Cán bộ khóa cửa nhà tù, bỏ đi. Khuya lại thường có bộ đội (vệ binh) mang súng đi tuần rỏn bên ngoài các nhà tù. Tù kiệt sức sau một ngày lao động, đói và mệt rã rời nên ngủ vùi, có thao thức mà nghĩ đến gia đình cũng vô ích.

Trong tù, chẳng ai biết ngày giờ, chỉ khi nào được chén cơm trắng với chút mỡ heo hoặc miếng thịt trâu mới biết là ngày lễ lớn hoặc tết nhất. Nghỉ một ngày lao động, ăn chén cơm là biết một năm đã đi qua nhưng không bao giờ tự hỏi mình đã bao nhiêu tuổi rồi? Càng suy nghĩ càng mau chết vì mất ngủ. Nhiều ông lớn tuổi, bệnh hoạn, tối nhắm mắt để rồi sáng hôm sau không thèm mở mắt. Cứ thế mà vào cõi hư vô…

Ðang suy nghĩ linh tinh thì có hai ông xuất hiện, dừng lại trước hiên, nơi tôi nằm. Thấy mỗi ông một gói đồ tù trên tay, tôi biết ngay là bạn “đồng tù” nhưng làm thinh. Một ông thấy tôi nằm lõ mắt nhìn, bèn hỏi:

– “Anh ơi. Chỗ nầy còn trống, cho tụi tôi nằm đỡ. Ðược không?”

– “Ðây đâu phải nhà của tôi. Mấy anh cứ tự nhiên”.

Hai ông bèn bước lên thềm, ngồi xuống, tựa lưng vào tường, duỗi chân, ẹo mình coi bộ mệt mỏi. Họ nói chuyện rù rì nhưng tôi nghe rõ và biết họ cũng từ ngoài Bắc về chung một chuyến xe lửa cuối năm với tôi. Họ đối đáp nhát gừng nhưng vẫn đậm đà tình thân. Họ kể về các trận đánh trong đó có bạn bè, người còn, người mất. Khi nhắc đến người bạn nào đã ngã gục ngoài chiến trường, họ tặc lưỡi, thì thầm “…Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”.

Tôi cũng tốt nghiệp sĩ quan nhưng về bộ binh, nghe họ chuyện trò, tôi biết hai ông là lính dù, một ông là đại đội trưởng, ông kia là sĩ quan pháo binh tiểu đoàn dù. Hình như họ cùng tiểu đoàn nên chuyện trò rất thân mật. Trong câu chuyện, chẳng ai nhắc đến bóng hồng nào mà toàn chuyện lính tráng, đánh đấm. Tuổi trẻ miền Nam lớn lên, vừa xong trung học, buông bút là vào quân trường cầm súng. Họ, đa số chưa có người yêu. Ba lô, súng đạn như người bạn đời, sinh mạng phó mặc cho viên đạn nhỏ bằng mút đũa hay mảnh pháo có khi chỉ bằng cái móng tay quyết định…

Tôi may mắn, có vợ con, nhưng bây giờ cũng như không. Tôi yên lặng nghe hai ông bạn đồng tù trò chuyện và nghĩ vẩn vơ. Khi Cộng Sản miền Bắc phát động chiến tranh, đánh chiếm miền Nam, hàng triệu thanh niên trai trẻ lên đường chiến đấu để chống xâm lăng, bảo vệ tự do, an lành cho đồng bào miền Nam với sự trợ giúp của nước Mỹ. Nước Mỹ giúp miền Nam Việt Nam để “be bờ” Cộng Sản. Ðột nhiên, từ năm 1973, viện trợ Mỹ giảm dần rồi đến con số không. Một đô la cũng không có. “Nước Mỹ không có bạn, không có thù. Chỉ có quyền lợi của nước Mỹ”. Nghe nói họ bắt tay với Trung Cộng, để miền Nam Việt Nam cho Cộng Sản, đổi lấy gì đó. Thế là miền Nam bị bó tay. Súng không có đạn, máy bay, xe cộ, thiết giáp, tàu bè không có xăng, trong khi đó, cả một khối Cộng Sản quốc tế khổng lồ viện trợ tối đa cho Cộng Sản miền Bắc, để họ kéo vào, thoải mái bắn giết quân dân miền Nam. Người nào sống sót thì đưa đi tù cải tạo, không có ngày về… Thủ tướng Việt Cộng Phạm Văn Ðồng ra lịnh, đại ý “Không giết tên nào cả. Ðưa hết bọn chúng lên vùng rừng thiêng nước độc, bắt làm thật nhiều, ăn thật ít, chúng sẽ chết dần, thế giới không thể biết được”. (ngay cả khi tù chết, họ cũng cho vùi xác rải rác trong rừng chứ không chôn một nơi nhất định).

3.

Tôi nhớ, sau tháng Tư năm 1975. Ngụy quân, ngụy quyền (quân, cán, chính Việt Nam Cộng Hòa) phải trình diện ủy ban quân quản để được học tập cải tạo trong một tháng. Mấy tháng đầu chỉ lên hội trường học tập, nghe các cán bộ thuyết trình “mười bài”. Một lần, trong một buổi “lên hội trường”, cán bộ đứng trên bục chỉ tay xuống bọn tù ngồi phía dưới chửi “Các anh là rác rưởi của rác rưởi…” Chửi xong cán bộ hỏi “Có ai có ý kiến gì không?” Một ông tù xin phát biểu “Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia riêng biệt, có lãnh thổ, có dân, có chính quyền do dân bầu lên, được quốc tế công nhận, không gây thù chuốc oán gì với miền Bắc, vì sao các ông vào bắn giết chúng tôi, bỏ tù chúng tôi còn bảo rằng chúng tôi có nợ máu với nhân dân?…”

Nghe đúng bài mình đã thuộc, cán bộ vui vẻ giảng rằng “Chúng tôi vào giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ. Các anh tiếp tay với đế quốc Mỹ, làm tay sai cho chúng để đàn áp, đánh phá sự nghiệp cách mạng, thống nhất đất nước của đảng và nhân dân ta. Các anh đáng bị xử bắn hàng trăm lần cũng chưa hết tội. Nay đảng và nhà nước khoan hồng, tập trung các anh vào đây để cách ly các anh khỏi bị nhân dân căm thù, đòi nợ máu các anh đồng thời tạo cơ hội để các anh nhận biết tội lỗi của mình mà lập công chuộc tội, ra sức lao động, học tập để tiến bộ thành công dân tốt xã hội chủ nghĩa, được đảng và nhà nước khoan hồng cho về sum họp với gia đình. Các anh hiểu chưa? Có ai ý kiến gì nữa không?”

Ông tù đó lại giơ tay, đứng lên “Theo như tài liệu cán bộ cho học tập thì. Năm 1959 miền Bắc đã mở đường “Trường Sơn 59”, đưa quân vào Nam. Năm 1960 đã lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, mãi đến năm 1964, Mỹ mới đổ quân vào Ðà Nẵng. Như vậy, trước khi Mỹ vào Việt Nam, các ông đã nhận lệnh của Nga, Tàu, nhận súng đạn của Nga, Tàu vào bắn giết, giật mìn xe đò, pháo kích vào trường học, chôn sống đồng bào vô tội miền Nam. Như thế thì ai có nợ máu với nhân dân?…”

Nghe chưa dứt câu, cán bộ giận xanh mặt rít lên “Ðem nó đi cùm!” Ông ta bị công an võ trang bao vây quanh đấy lôi đi. Tối đó ông ta bị công an thay phiên nhau đánh đến chết, vất xác trong rừng… (Sau nầy, trước đền thờ tổng bí thư Lê Duẩn có khắc câu mà Lê Duẩn thường nói “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô Trung Quốc”. Câu nói khiến cho quân đội nhân dân Việt Nam (Việt Cộng) ngỡ ngàng. Cựu đại tá Tư Cúc (Lê Cúc) phải kêu lên “Hóa ra quân đội nhân dân Việt Nam là lính đánh thuê cho Liên Xô, Trung Quốc”.

Lúc đó đã về khuya, đường phố vắng tanh, hai cậu bụi đời đã im tiếng, hình như đang nằm lắng nghe hai ông bạn tù của tôi trò chuyện. Bỗng cái mùng động đậy và hai cậu chui ra, đứng dưới thềm, trước hai ông bạn tù, người thẳng đơ, đưa tay lên chào theo kiểu nhà binh. Một cậu nói lớn “Trung sĩ nhất Nguyễn Văn…, đại đội…, trung đội…, trình diện đích thân”. Cậu kia cũng đứng nghiêm xưng tên họ, cấp bậc, đơn vị nhưng lại “Trình diện thẩm quyền”.

Thông thường, lính gọi sĩ quan cấp trên trực tiếp bằng cấp bậc hoặc các chức danh tùy ý “Ông thầy, đích thân hoặc thẩm quyền…”. Thì ra các cậu đều là lính dù. Như một phản xạ, hai ông bạn tù cũng chào tay “Chào hai anh. Hai anh ngồi xuống!”. Hai cậu ngồi trên hiên nhà, chân thòng xuống lề đường. “Tụi em nằm nghe mấy ông thầy nói chuyện mới biết là sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa đi tù về”. Một cậu ngậm ngùi “Từ ngày mất nước, các cấp chỉ huy đi tù, tụi em tan hàng, bơ vơ, buồn muốn chết. Tụi em nhớ đơn vị, nhớ cấp chỉ huy, nhớ súng đạn, ba lô… nhớ đủ thứ. Lúc nãy, nằm nghe hai ông thầy nói chuyện, tụi em mừng quá, tưởng như còn đang ở đơn vị”.

– “Bộ mấy cậu không bị tù cải tạo sao?”

– “Có, nhưng ở địa phương, tụi em bị tập trung một thời gian để nghe chửi là tay sai đế quốc Mỹ, rồi bắt đi nông trường làm thủy lợi, sau đó được đưa sang Căm Bu Chia vác đạn cho bộ đội làm nghĩa vụ quốc tế, đánh nhau với Khờ Me đỏ. Tụi em bỏ trốn về Sài Gòn”

Tôi ngồi lên:

– “Mình nói chuyện có làm phiền chủ nhà không?”

– “Ông thầy khỏi lo. Họ ngủ trên lầu. Hai ông bà chủ nhà có con là đảng viên làm lớn, được cấp nhà tịch thu của tư sản. Tụi em ngủ ở đây, giữ gìn sạch sẽ, khỏi sợ trộm cắp nên họ để yên”.

Hình minh họa.

Hai cậu bụi đời thì thầm với nhau rồi cậu trung sĩ đứng lên, trịnh trọng thưa:

– “Thưa, mấy khi thầy trò được gặp lại nhau, tụi em có ý kiến như thế nầy. Tụi em đi kiếm rượu và mồi nhắm để mấy ông thầy và tụi em lai rai đón giao thừa…”.

Một ông cười khan:

– “Nghe văn chương của cậu là hiểu ý rồi đó. Tụi nầy vô sản, mấy cậu kiếm xị đế là đủ rồi, khỏi mồi miết phiền phức, tốn kém”

– “Không bao nhiêu đâu. Mấy tiệm phở sắp đóng cửa, họ bán xí quách rẻ đui. Mình không lấy họ cũng đổ bỏ”

– “Khuya rồi, ai mà còn bán rượu nữa?”

– “Ông thầy khỏi lo. Tụi em là mấy con ma, chỗ nào không biết!”.

4.

Buổi “tiệc đón giao thừa” gồm hai xị đế và thau xí quách (xương bò, xương gà) với một cái ly nhỏ để trên một tờ báo được trải ra. Người nầy “dzô” xong một ly thì rót cho người kế tiếp, cứ thế xoay vòng. Nhờ hơi men, những câu nói nhát gừng đã thành rôm rả. Những người lăn lộn chiến trường thường lầm lì, ít nói, chỉ khi có tiếng súng nổ mới kích động được họ xông lên phía trước. Trong chiến trận, chính những người trực tiếp chỉ huy trung đội, đại đội mới là người quyết định chiến trường. Sống chết bên nhau, họ thương yêu nhau còn hơn ruột thịt. Giờ đây, chiến trường đã im tiếng súng, họ là kẻ chiến bại, là kẻ mất nước, bị đối phương khinh miệt, tù đày, hành hạ để trả thù. Người lính Việt Nam Cộng Hòa đã biến mất, chỉ còn lại những con người sống ngoài lề xã hội, vất vưởng, bơ vơ. Nhưng trong tâm tưởng người dân miền Nam, người lính Việt Nam Cộng Hòa vẫn là những người con thân yêu của đồng bào. Lòng biết ơn không hề phai nhạt.

Buổi “tiệc” cuối năm càng về khuya càng thân mật, thỉnh thoảng có tiếng cười. Trong cái gia đình nhảy dù nhỏ đó với bốn thầy trò cùng nhắc lại những ngày chiến đấu đầy gian khổ, sát cánh bên nhau, giúp đỡ, che chở nhau trong những giây phút hiểm nguy, đối diện với kẻ thù… Tất cả đã là dĩ vãng, đã là những kỷ niệm mà họ cố quên. Cả cuộc đời với tuổi thanh xuân đẹp đẽ, sung sức nhất, họ đã dâng cho Tổ Quốc để rồi thành kẻ mất nước. Họ hỏi thăm nhau, ai còn, ai mất, những “ông thầy” trong đơn vị nầy, đơn vị kia. Cấp chỉ huy không thể nhớ hết binh sĩ dưới quyền, nhưng lính thì không bao giờ quên những “thẩm quyền” đã chỉ huy mình.

Ngoài đường đã vắng bóng người. Ðường phố như ngủ say dưới ánh đèn vàng vọt. Lúc đó đã vào khuya. Ðột nhiên, trong đêm vắng, vài tiếng pháo nổ lẻ tẻ, vang đến từ chợ Tân Ðịnh. Rồi như cùng hẹn trước, tiếng pháo đồng loạt nổ vang khắp nơi. Giờ giao thừa. Mọi người đón mừng chúa Xuân bằng những tràng pháo và lễ vật trên bàn thờ, trước cửa nhà.

Bọn lính tráng chúng tôi, trước đây không bao giờ biết đến năm mới, năm cũ vì thường xuyên hành quân nơi rừng sâu, núi thẳm, họa hoằn đi ngang qua một xóm làng xơ xác nào đó, nhìn đồng bào nghèo khổ vì chiến tranh, thấy họ chẳng có gì để đón xuân mà ngậm ngùi, nay bỗng nhiên nghe tiếng pháo mà tưởng như thời còn chiến tranh, nhất là mùi thuốc súng mà người ta lấy thuốc đạn ra làm thuốc pháo.

Suốt dọc hai bên đường Hiền Vương, đường Hai Bà Trưng tiếng pháo nổ liên tục chen lẫn với tiếng pháo tống, pháo đại khiến bản năng người lính bị kích động. Chúng tôi tưởng như mình đang bị bao vây bởi kẻ thù với những họng súng đang hướng về chúng tôi mà khạc đạn. Từ trên lầu, nơi chúng tôi đang ngồi, chủ nhà thòng xuống một dây pháo dài, nổ rang, những viên pháo đại rơi xuống đất, nổ chát chúa, xác pháo bắn vào chúng tôi, khói pháo mịt mù, nồng nặc mùi thuốc súng. Mùi thuốc súng khiến thần kinh những người lính chúng tôi càng thêm căng thẳng.

Hai cậu cựu binh như bị đồng nhập, tay nắm lại, cằm bạnh ra, mắt trừng trừng nhìn hai ông cựu sĩ quan. Một cậu chồm tới, thét lên trong tiếng nổ hỗn loạn “Ðích thân! Ðích thân ban lệnh đi. Chả lẽ nằm đây chịu chết sao?”. Tôi quay nhìn. Hai ông cựu sĩ quan dù lắc đầu, mắt nhìn trừng trừng vào khoảng không trước mặt. Rồi nước mắt họ ứa ra, trào xuống gò má xương xẩu, long lanh ánh chớp của pháo nổ. Bỗng, một ông (sĩ quan dù) kêu lên, giọng điềm tĩnh.

– “418, đây 314, xin tác xạ, hết”

Ông ngồi bên cạnh (sĩ quan pháo binh), trả lời.

– “314, đây 418, xin tác xạ, hết”.

Thế rồi cuộc trao đổi truyền tin diễn ra.

– “Lệ Hằng, phải 1.5, lên 2.3 một khói nổ chạm. Bắn khi sẵn sàng, hết”

– “Lệ Hằng, phải 1.5 lên 2.3, một khói, hết”

– “Hướng 800, gần lại 100, một khói, hết”.

– “Hướng 800, gần lại 100, một khói, hết”.

– “Hỏa tập cận phòng. Năm tràng, bắn hiệu quả, hết”.

– “Năm tràng, bắn hiệu quả, hết”.

Giọng hai ông bạn tù của tôi vẫn mạch lạc, điều động nhịp nhàng pháo binh yểm trợ như trong một trận chiến sắp nổ ra. Tôi hình dung một đại đội dù đóng quân trên một ngọn đồi, địch quân theo dõi, bao vây và tìm cách tràn ngập. Các toán tiền đồn gọi về báo động. Toàn đơn vị đã sẵn sàng chờ địch. Hai ông cựu sĩ quan dù như đang cùng hồi tưởng lại một kỷ niệm chiến đấu nào đó đã xảy ra và hai cậu cựu binh cũng là những người đã từng tham dự những trận đánh đẫm máu…

5.

Cuộc trao đổi truyền tin trong tiếng pháo giao thừa vẫn tiếp tục. Hỏa tập như càng lúc càng kéo gần vị trí đóng quân trong khi tiếng pháo vẫn chát chúa, khi xa, khi gần. Rồi tiếng pháo cũng lơi dần. Người chủ nhà trên lầu đã đốt hết dây pháo, nhưng ông ta lại gắn thêm một dây pháo nữa, lần nầy ba bốn phong pháo được chập vào với nhau nên pháo nổ càng dữ dội, và như cao hứng, những căn nhà kế bên cũng đem pháo ra đốt tiếp. Tiếng nổ càng dồn dập, khói súng càng mịt mù. Ông bạn tù lại cao giọng:

– “Các hỏa tập cũ đều kéo vào 50, sẵn sàng bắn, vị trí sắp bị tràn ngập, hết”.

– “Hỏa tập cũ kéo vào 50, bắn, hết”…

Cuộc trao đổi trở nên căng thẳng, gấp rút khiến tôi nhớ lại những trận tấn công biển người của đối phương. Hỏa tập thường được kéo vào sát vị trí phòng thủ để chặn địch tràn ngập. Hai cậu cựu binh ngồi chết sửng, thỉnh thoảng cựa quậy như không chịu đựng được các bắp thịt và thần kinh đang căng lên hết mức.

Vẫn giọng bình tỉnh:

– “418, đây 314, địch tràn ngập vị trí. Hỏa tập tối đa, nổ chụp ngay trên đầu tôi, hết”.

– “Xin 314 nhắc lại, hết”.

– “418, đây 314, địch tràn ngập vị trí, hỏa tập tối đa ngay trên đầu tôi, hết”.

Giọng ông pháo binh khàn khàn, nghẹn ngào:

– “Bắn trên đầu bạn ư?”

– “418, đây 314. Có bao nhiêu ông phang hết lên đầu tôi. Ðó là lời cuối cùng”.

– “314, đây 418, xin xác nhận lại. Nghe tôi không?”

– Xin 314 trả lời… Vâng, hỏa tập tối đa trên đầu bạn. Vĩnh biệt 314”…

Tiếng pháo giao thừa đã dứt. Cả thành phố im lặng như đang mặc niệm tử sĩ. Vẳng lại từ xa vài tiếng nổ lẻ tẻ, rời rạc rồi lịm dần, tưởng chừng như chiến trường đã bị kéo trôi đi xa, chỉ còn lại cảnh bình địa hoang tàn.

Phạm Thành Châu.


 

TRÂN TRỌNG GIÂY PHÚT CÒN ĐANG SỐNG!

 Thao Teresa

100 năm sau, năm 2124, tất cả chúng ta sẽ ở bên gia đình và bè bạn trong một thế giới khác, những người lạ sẽ sống trong ngôi nhà của chúng ta và ai đó sẽ sở hữu mọi thứ ta có ngày hôm nay.

Hầu hết đồ đạc của chúng ta bị vứt đi hoặc bị phá hủy. Ngay cả chiếc xe đắt tiền của chúng ta cũng có thể nằm ở một bãi phế liệu.

Con cháu chúng ta những lớp sau có lẽ sẽ không biết về chúng ta hay nhớ đến chúng ta.

Có bao nhiêu người trong chúng ta biết tên của cụ cố chúng ta?

Sau khi chúng ta qua đời, nhiều năm sau đó nữa, chúng ta chỉ là một bức ảnh trên tường. Vài thập niên sau, những bức ảnh, những thành tựu học vấn, công danh và tác phẩm làng nhàng của chúng ta… trở thành quá khứ và bị lãng quên.

Nếu chúng ta dừng lại giây phút và suy nghĩ về điều này, chúng ta có thể nhận ra rằng 95% những lo lắng trong tâm trí chúng ta hàng ngày là khá vô nghĩa.

Nếu chúng ta ghi nhớ điều này thì những suy nghĩ và hành động của chúng ta có thể trở nên hữu lý và tốt hơn… Chúng ta sẽ trân trọng từng phút giây mình sống, trân trọng bạn bè, người thân và mọi người chung quanh, trân trọng phước duyên mình được có mặt trên thế gian này…

FB

Quá giỏi!-Đoàn Bảo Châu

Ba’o Tieng Dan

22/02/2024

Đoàn Bảo Châu

22-2-2024

“Quá trình khám xét nơi ở của cựu giám đốc Công an TP Hải Phòng Đỗ Hữu Ca, lực lượng chức năng phát hiện trên 40 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cùng lượng lớn tiền, vàng, ngoại tệ, trang sức…”

“Tại cơ quan điều tra, bị can Đỗ Hữu Ca cùng vợ là bà V.T.L. (66 tuổi) cho biết, số đồ vật, tài sản nói trên có được là nhờ tiết kiệm từ tiền lương trong quá trình công tác trong lực lượng công an cũng như của bố mẹ để lại, quà lễ, Tết của các đơn vị và từ việc kinh doanh dự án, bất động sản của hai vợ chồng”.

Muốn vào ngành công an thì phải có lý lịch tốt, tức là phải là thành phần lao động như công nhân, nông dân, “cao quý” và “tiên phong” hơn nữa phải là bần cố nông.

Hải Phòng, cùng với Hà Nam Ninh, Hà Nội, TP.HCM là những nơi được áp dụng chỉ thị miệng z30 để tịch thu tài sản của những gia đình có nhà hai tầng trở lên, bất chấp tài sản ấy từ đâu ra.

Điều này chứng tỏ rằng chế độ mới không cho phép tư nhân sở hữu tài sản lớn, vậy bố mẹ của Ca làm cách nào mà để lại được tài sản cho con? Lương cán bộ trong ngành công an thấp, Ca tiết kiệm kiểu gì?

Vậy chỉ có thể từ quà biếu của doanh nghiệp, lợi nhuận từ buôn bất động sản như vợ chồng Ca khai nhận.

Hệ thống luật pháp lỏng lẻo ở Việt Nam được phép khai là quà biếu, nhưng “quà biếu” mà giá trị cao thực chất chỉ là một hình thức tham nhũng.

Vậy những dự án bất động sản nào Ca đã tham gia? Làm “đày tớ” của nhân dân, làm tới trưởng công an thành phố mà vẫn có thời gian buôn bán bất động sản tới mức thành công như vậy. Quả thật, Đỗ Hữu Ca quá giỏi!

Có người nhận xét rằng, không đánh người ngã ngựa, nhưng hãy nhớ rằng tôi viết về Ca từ “trận đánh đẹp”, đến nỗi có cậu em hỏi, anh có họ hàng gì với Đoàn Văn Vươn không?

Người có lương tri là người lên tiếng vì những bất công không liên quan tới mình, đâu phải cứ đụng đến nồi cơm của mình thì mới lên tiếng?


 

TRÊN ĐỜI NÀY, NHỮNG THỨ QUÝ GIÁ NHẤT ĐỀU LÀ MIỄN PHÍ

 Bang Uong

Nhiều người hay than thở rằng cuộc đời này thật bất công. Thực ra, nếu suy ngẫm kỹ, bạn sẽ nhận ra rằng những thứ quý giá nhất trên đời này đều miễn phí. Cuộc sống vốn đơn giản, chỉ có điều chúng ta luôn làm cho mọi thứ phức tạp lên mà thôi.

Ánh sáng mặt trời là miễn phí

Trên thế gian này, không sinh vật nào có thể sống sót nếu thiếu ánh mặt trời. Thế nhưng có ai từng phải trả một đồng nào cho thứ ánh sáng kỳ diệu đó chưa?

Không khí là miễn phí

Chúng ta có thể nhịn ăn vài tuần mà không chết, chúng ta có thể chịu khát được một vài ngày, nhưng chỉ nhịn thở vài phút là chúng ta sẽ chết. Chúng ta đang được hít thở không khí miễn phí nhưng lại coi đó là đương nhiên và không trân trọng, bởi vậy nên chúng ta thản nhiên phá hại môi trường, làm ô nhiễm bầu không khí chung. Có khi nào bạn ngồi thư giãn hít thở dưới tán cây xanh? Hãy tri ân nếu bạn đang có không khí trong lành miễn phí để thở hàng ngày.

Tình yêu thương là miễn phí

Mỗi người chúng ta đều trần trụi khi đến với thế gian này và đều nhận được sự che chở vô bờ bến của cha mẹ, một thứ tình thương không mong báo đáp in sâu trong máu thịt. Nhưng không có người cha mẹ nào nói với con mình rằng: “con cho mẹ tiền mẹ mới thương con”.

Tình yêu thương này của cha mẹ, sẽ không giảm giá trị vì bạn đã trưởng thành, càng không mờ nhạt vì họ đã già đi, chỉ cần cha mẹ còn sống ở trên đời này, bạn vẫn nhận được tình yêu thương này trước sau như một. Nếu bạn đang được sống trong tình yêu thương của gia đình, người thân, hãy biết ơn điều đó.

Tình bạn là miễn phí

Người âm thầm ở bên cạnh bạn khi bạn cô đơn, người giơ cánh tay ra đỡ bạn khi bạn ngã, người cho bạn dựa vào vai an ủi bạn khi bạn đau lòng, người luôn sẵn sàng xuất hiện mỗi khi bạn cần giúp đỡ, thế nhưng người đó có bao giờ đổi những thứ đã cho đi thành tiền mặt, sau đó kêu bạn trả không?

Nụ cười

Mọi người vẫn thường nói: “Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ”, nụ cười đem đến rất nhiều lợi ích: giảm căng thẳng, tăng hưng phấn, khiến mọi người thêm gần gũi và yêu thương nhau hơn… Và đặc biệt, không ai “đánh thuế” nụ cười cả, vậy tại sao chúng ta không cùng cười thật tươi hằng ngày để cho cuộc đời thêm vui nhỉ?

Những cái ôm nồng ấm

Một điều cực kì tuyệt vời nữa trong cuộc sống bạn có thể thoải mái trao và nhận, đó chính là những cái ôm. Bạn đâu có phải trả phí khi muốn ai đó ôm mình hay muốn ôm người bạn yêu thương đúng không? Vậy còn chần chừ gì nữa mà không thoải mái thể hiện tình cảm chân thành nhất của bản thân với những cái ôm.

Những kỷ niệm đẹp

Có những ký ức đẹp có thể tiếp thêm động lực cho chúng ta vào những lúc khó khăn hoặc bất cứ khi nào cần, nó hoàn toàn miễn phí. Thay vì tiếc nuối quá khứ đã qua, hãy để những kỷ niệm đẹp cho chúng ta thêm niềm tin yêu cuộc đời.

Hy vọng là miễn phí

Bất luận bạn đang giàu có hay nghèo đói, bạn đều có thể đặt ra mục tiêu riêng cho cuộc đời mình. Mục tiêu này có thể là vĩ đại, cũng có thể là bình thường, giản dị, chỉ cần bạn cảm thấy bằng lòng với nó là đủ rồi.

Còn có gió xuân, thì còn có mưa phùn, còn có ánh trăng trong vắt, thì còn có các vì sao lấp lánh trên trời…

Vậy nên bạn đừng có than thở nữa, hãy quan sát cuộc sống để thấy những điều tốt đẹp luôn hiện hữu. Hãy tri ân cuộc sống và tân hưởng những gì mình đang có.

KD