Nhận và Cho


Nhận và Cho

 

TRẦM THIÊN THU

Cuộc đời là xã hội, là cộng đồng, nghĩa là không ai lại không phải ít nhiều nhờ
vả nhau – dù trực tiếp hay gián tiếp. Không ai có thể sống như một ốc đảo, mà
luôn có những mối quan hệ và những hệ lụy theo một quy luật tất yếu của cuộc
sống.

Trong quan hệ đó, mỗi người có một nhân sinh quan riêng nhưng luôn hợp thành
một tổng thể cộng đồng. Như vậy, cần có tình đồng loại thực sự. Con người vốn
dĩ yếu đuối nên rất cần sự cảm thông và tha thứ không ngừng. Sống chân thành và
hài hòa với nhau là hạnh phúc được nhân đôi: Cho bạn và cho tôi. Mỗi người phải
biết chia sẻ, không thể khư khư giữ “cái tôi” mãi.

Nhưng, để được NHẬN thì phải biết CHO trước. Tất nhiên phải biết mở lòng ra như
cuốn sách để người khác “đọc” mà cùng quan tâm lẫn nhau.

Dĩ nhiên không ai trên đời có thể hiểu hết nhau – dù trong mối quan hệ nào. Có
chăng là hiểu một đôi phần trong lĩnh khía cạnh nào đó. Cố gắng hiểu người chứ
đừng đòi người hiểu mình nhiều quá. Vả lại, ai cũng có “khoảng riêng” bất khả
xâm phạm. Biết vậy để tự trọng và tôn trọng nhau đúng mức. P. Gerandy (Mỹ) phân
tích: “Chỉ cần hơi giống nhau là có thể hiểu nhau,
nhưng cần phải hơi khác nhau để có thể yêu nhau”.

Có những người chê bai, trách cứ mà không chịu “nhìn” để cảm thông. Có những
người chỉ biết đòi hỏi mà không biết trao tặng. Có những người lại quá “hạ
mình” đến mức nhu nhược hoặc hóa kiêu ngạo. Người may mắn có cuộc sống sung túc
từ nhỏ thì không muốn quen thân những người nghèo khó. Người giàu có nhờ “số
hên” thì coi trời bằng… nắp bia.

Biển luôn vỗ sóng vì lòng biển thẳm sâu, chứa nhiều châu báu. Những con người
đau khổ và gian nan là những người đầy kinh nghiệm. Pythagore cảnh báo: “Đừng
thấy bóng mình to lớn mà tưởng mình vĩ đại”. Biết người, biết ta thì không ai
dám “nổ”. Khoác lác là tự phơi bày cái “không tưởng” của mình.

Nhưng thế nào là quan tâm đến nhau? Có thể dùng ngôn ngữ, cử chỉ, động thái,
ánh mắt, nụ cười,… để thể hiện. Quan tâm đến nhau là điều cần thiết trong mọi
mối quan hệ. Thiết tưởng, dưới đây là các “khởi điểm” để tạo mối quan thiết tốt
đẹp và bền vững:

1. Bạn có thể viết thư, gởi thiệp, tặng hoa hoặc quà để chúc mừng vào những dịp
đặc biệt như sinh nhật, lễ, tết, cưới hỏi, thi đậu, thôi nôi, tân gia, ngày
8-3, ngày tình yêu (Valentine’s Day, 14-2),… Trên thế giới còn có những ngày
khác như Ngày Ông Bà (Grandparents’ Day, Chúa nhật thứ nhất sau lễ Lao động),
Ngày Thân Mẫu (Mother’s Day, Chúa nhật thứ nhì của tháng Năm), Ngày Thân Phụ
(Father’s Day, Chúa nhật thứ ba của tháng Sáu) dành cho con cháu tỏ lòng thảo
hiếu đối với Ông Bà và Cha Mẹ mình.

2. Thi thoảng, nếu có thể thì thường xuyên điện đàm, nhắn tin, thăm viếng,… kẻo
“xa mặt cách lòng”.

3. Luôn biết sử dụng tiếng “xin lỗi”, “cảm ơn” và “làm ơn…”, dù bạn đi mua
hàng, hỏi đường, hỏi giờ,…

4. Biết sẵn sàng giúp đỡ nhau khi cần (an ủi, động viên, khen ngợi, chân thành
sửa lỗi…). Một người bạn tốt là người có mặt đúng lúc, và là người dám làm trái
ý cả trăm lần chỉ vì muốn tốt cho chúng ta.

5. Xởi lởi, trung thực, chân thành tâm sự để chia vui sẻ buồn, cả thành công
lẫn thất bại trong cuộc sống để cùng dìu nhau đi.

Nhưng đôi khi cũng cần biết “phớt tỉnh Ăng-lê” (kiểu người Anh) để không “xoi
mói” đời tư người khác.

Sống tốt khó hay dễ tùy mỗi người. Ai có cá tính mạnh là có tính cách đặc biệt
“khác người”. Bạn có thể bị hiểu lầm, nhưng một khi hiểu ra thì người ta càng
nể phục. Hãy sống theo “chiều sâu”, đừng sống theo “chiều dài”, và hãy cứ là
chính mình chứ đừng để tính cách bị “lai căng”.

Biết quan tâm đến người khác là một cách sống tốt, điều mà không ai lại không
muốn, và giúp người khác cùng sống tốt. Đừng “vô tình” biến họ thành Chí Phèo!
Văn hào Victor Hugo nói: “Tôi thích trở thành người nổi tiếng, vì đó là hạnh
phúc. Nhưng tôi muốn trở thành người hữu ích, vì đó là nghĩa vụ”.

Nguyễn văn Thập gởi

Bài Thánh ca Giáng Sinh cho thế giới

Bài Thánh ca Giáng Sinh cho thế giới

(“A Christmas Carol for the World” – Per Ola và Emily D’Aulaire)

Mỗi mùa Lễ Giáng Sinh, những giọng hát bằng nhiều ngôn ngữ đã tái tạo một bài hát tuyệt vời ra đời trong hoàn cảnh tầm thường cách đây 194 mùa Giáng Sinh.
“Silent night, Holy night
All is calm, all is bright
Round yon Virgin
Mother and child
Holy infant so tender and mind
Sleep in heavenly peace
Sleep in heavenly peace.”
Tuyết nhẹ rơi trên những ngôi nhà bằng gỗ và đá ở Oberndorf, một ngôi làng Áo gần Salzburg. Trong làng, người dân trang hoàng đèn nến, trái cây và hạt trên những cây vân sam mà họ đã chuẩn bị cho những đêm thánh vô cùng này. Chẳng mấy chốc nữa đây, tiếng chuông từ ngôi nhà thờ cổ kính
của Oberdorf sẽ ngân vang để loan báo Thánh lễ lúc nửa đêm, và giáo dân sẽ tưởng niệm ngày Đức Kitô ra đời với những lời kinh và tiếng hát.
Tuy nhiên, bên trong Nhà thờ Thánh Nicolas  không khí lại nặng nề, ảm đạm vào đêm vọng Giáng Sinh năm 1818. Cha xứ Joseph Mohr, 26 tuổi, vừa nhận ra chiếc phong cầm bị hư hỏng nặng. Cho
dù bàn đạp được bơm cứng hơi thế nào đi nữa, ngài cũng chỉ có thể làm cho cây đàn cũ kỹ ấy phát ra những tiếng khò khè. Cha Morh thất vọng. Đợi đến lúc thợ sửa đàn đến được giáo xứ này chắc Lễ Giáng Sinh đi qua lâu rồi. Đối với một cha xứ trẻ, Lễ Giáng Sinh mà thiếu nhạc là điều không thể tưởng tượng được.
Cha Mohr có một thiên khiếu âm nhạc. Khi còn là một cậu bé, đứa con trai ngoài giá thú của một cô thợ may với một người lính, cậu đã kiếm tiền bằng cách ca hát, chơi đàn violon và ghi-ta nơi công chúng. Ở bậc trung học, rồi lên bậc đại học, cậu đã sống bằng đồng tiền kiếm được khi trình diễn ca nhạc. Làm việc chăm chỉ cùng với tài năng của mình đã gây sự chú ý đến một tu sĩ, người mà đã thuyết phục cậu bước vào nhà dòng. Thụ phong linh mục năm 1815, Cha Mohr được bổ nhiệm đến Oberndorf vào năm 1817. Ở đó, ngài không chỉ truyền giảng ca vịnh, mà còn làm ngạc nhiên một số người trong giáo đoàn của mình với cách chơi ghi-ta, chuyển một cách dễ dàng từ nhạc điệu dân gian sang nhạc điệu thánh ca.
Bây giờ phải đối mặt với với một khủng hoảng xảy ra vào Lễ Giáng Sinh. Vị linh mục trẻ rút về phòng làm việc yên tĩnh của mình. Nhận ra rằng những bài thánh ca Giáng Sinh truyền thống không phù hợp với đàn ghi-ta. Ngài quyết định sáng tác một bài mới. Cúi xuống tờ giấy trắng, với cây bút lông duyên dáng sẵn sàng, ngài nghĩ về một gia đình thuộc giáo xứ mà mới đây ngài đã viếng thăm và làm phép rửa tội cho đứa bé mới chào đời của họ. Ký ức về người mẹ ôm đứa con được ủ ấm để chống lại cái lạnh mùa
đông đã khiến những suy nghĩ của Cha Mohr đến một sự ra đời khác nữa cách đây hơn 2.000 năm.
Ngập ngừng do dự, ngài bắt đầu viết. Cây bút của ngài di chuyển y như thể được hướng dẫn bởi một bàn tay vô hình nào đó. Một điệp khúc được gợi lên, “Stille nacht, heilige nacht!” xuất hiện trên tờ giấy: “Đêm thầm lặng, Đêm thánh!” Bằng những câu giản dị, mộc mạc như một bài thơ dành cho nhi đồng. Vị cha xứ trẻ này nói về phép lạ Lễ Giáng Sinh trong 6 khổ thơ. Tưởng chừng đó là những lời chảy xuống tự thiên đàng.
Khi ngài viết xong, thời gian còn rất ngắn. Những vần thơ này còn phải được phổ nhạc kịp lúc cho Thánh lễ nửa đêm. Cha Mohr quyết định tìm một người bạn thân tên là Franz Xavier Gruber, 31 tuổi, một thầy giáo ở làng Arnsdorf cạnh bên, là người soạn nhạc giỏi hơn ngài.
Không giống như Cha Mohr, Gruber đã phải giấu niềm đam mê âm nhạc của mình. Với người bố khắt khe của ông, một người thợ dệt, âm nhạc không phải là nghề thích hợp để kiếm sống. Nên cứ vào buổi chiều, Franz đã phải lén ra khỏi nhà để đi học lớp nhạc của một thầy giáo địa phương. Ông đã học rất giỏi đến nỗi một ngày nọ khi bố ông nghe ông chơi phong cầm, bố ông đã bớt gay gắt và để cho con trai mình học nhạc.
Franz cũng quyết định trở thành một thầy giáo. Hồi đó người ta muốn thầy giáo còn phải là một người chơi phong cầm và là người điều khiển dàn hợp xướng ở nhà thờ địa phương. Được gửi đến Arndorf
để dạy học, Gruber lại còn được chào đón tại Nhà thờ Thánh Nicholas gần đấy.
Khi Gruber đọc những lời bài hát của Cha Mohr, ông chắc hẳn đã bị tác động mạnh bởi cái đẹp và sự trong sáng của lời bài hát. Ông bước tới chiếc đàn dương cầm của mình và bắt đầu làm việc trong lúc Cha Mohr trở về nhà thờ.
Sử dụng 3 trong số hoà âm cơ bản nhất trong kỹ năng âm nhạc, phong cầm thủ ấy đã tạo nên một giai điệu mộc mạc và gợi cảm sâu sắc. Rồi gần nửa đêm, ông mang bài hát đến cho Cha Mohr. Với thời gian vừa đủ để tập dượt, hai người đồng ý rằng Cha Mohr sẽ chơi ghi-ta và hát bè cao trong lúc ông Gruber hát bè trầm. Sau mỗi phiên khúc, dàn hợp xướng sẽ cùng hát điệp khúc.
Vào lúc nửa đêm, giáo dân xếp hàng một bước vào nhà thờ, có lẽ đang mong đợi chiếc dàn phong cầm sẽ ngân lên khắp nhà thờ âm hưởng của những bài hát mừng Giáng Sinh. Thay vào đó, nhà thờ vẫn im
lặng khi họ ngồi chen chúc trên những hàng ghế dựa hẹp bằng gỗ.
Cha Mohr bước vào gian giữa nhà thờ và ra dấu cho thầy Gruber đến đứng cạnh mình. Cầm chiếc đàn ghi-ta, Cha xứ có lẽ đã giải thích cho con chiên biết rằng, mặc dù chiếc phong cầm bị vỡ, tuy thế, Thánh lễ nửa đêm vẫn có nhạc: ngài và ông Gruber đã chuẩn bị một bài hát Giáng Sinh đặc biệt cho giáo đoàn.
Với Cha Mohr, gảy đàn ghi-ta, hai giọng hát dịu êm chẳng bao lâu đã tràn khắp giáo đường. Dàn hợp xướng hát bản hoà âm gồm 4 đoạn này ở mỗi điệp khúc. Giáo dân lắng nghe với sự ngạc nhiên
trước bài thánh ca tinh khiết và tươi mát như dòng suối ở dãy núi Alps. Sau đó, Cha Mohr cử hành Thánh lễ Misa, và giáo đoàn quỳ xuống cầu nguyện. Ngày trước Lễ Giáng Sinh ở Nhà thờ Thánh Nicholas đã
thành công.
Câu chuyện tưởng như đã kết thúc ở đây. Cha Mohr và ông Gruber sáng tác bài thánh ca của họ như một sự thay thế cho khó khăn tạm thời mà họ gặp phải và có lẽ chẳng bao giờ nghĩ đến việc trình diễn lại bài hát này. Mùa xuân sau đó, một người thợ sửa đàn đã vá lại chiếc phong cầm ấy. Chẳng bao lâu, Cha Mohr được chuyển đến một xứ khác. Mất vài năm, bài thánh ca đó đã rơi vào im lặng như cái đêm mà nó đã đem lại vẻ vang vào năm 1818.
Nhưng may mắn thay cho thế giới,chiếc phong cầm ở Nhà thờ Thánh Nocholas vẫn dở chứng. Vào năm 1824 hay năm 1825 gì đó, giáo xứ này đã thuê một người thợ sửa đàn phong cầm bậc thầy tên là
Carl Mauracher đóng lại nó. Trong lúc làm việc, tình cờ ông Mauracher thấy bài hát của Cha Mohr và ông Gruber sáng tác. Sự giản dị phổ quát của bài hát đã lôi cuốn người thợ sửa phong cầm lớn tuổi này. Trông nom việc sửa lại chiếc đàn phong cầm của Nhà thờ Thánh Nicholas, Gruber đã vui vẻ đồng ý khi ông Mauracher xin bản sao bài “Silent Night”.
Khi rời Oberndorf, Mauracher đã mang theo bài hát này. Những người nghe bài hát qua giọng hát của ông đã say mê vì lời cùng giai điệu của nó. Chẳng mấy chốc, những đoàn dân ca vùng Tyrol, những người thường xuyên toả khắp Âu châu, đã bổ sung bài “Silent Night” vào tiết mục trình diễn của họ.
Trong số những người đưa bài hát này vào tiết mục trình diễn phải nói đến là ban nhạc Gia đình Strasser. Bốn anh chị em trong ban nhạc với những giọng hát thần tiên đã trình diễn tại những hội chợ thương mại trong lúc họ bán bao tay mà gia đình họ làm ra. Vào năm 1831 hay 1832 gì đó, ban nhạc Strasser đã hát bài “Đêm thầm lặng” tại một hội chợ ở Leipzig, nước Đức. Khán giả rất thích bài hát này. Sau đó không lâu, một nhà xuất bản địa phương đã in bài hát này lần đầu tiên, chỉ công nhận nó như bài Tirolerlied hay một bài hát thuộc vùng Tyrol. Không đề cập gì đến Cha Mohr hay ông Franz Gruber gì hết.
Lời hát và điệu nhạc giờ đây đã lan đi nhanh chóng. Chẳng bao lâu, “Silent Night” đã cùng với ban
nhạc Rainers vượt qua Đại Tây Dương, một gia đình các ca sĩ dân ca trình diễn và chu du khắp Hoa Kỳ. Ở Thành phố New York vào năm 1839 hay 1840 gì đó, ban nhạc Rainers đã gưới thiệu bài hát này với thế giới nói tiếng Anh.
Khán giả khắp mọi nơi bắt đầu tin rằng “Silent Night” vượt lên trên một bài dân ca mộc mạc. Một
số thính giả cho đó là một trong những ca khúc của Haydn. Nhưng ở trong làng của mình, ông Gruber và Cha Mohr vẫn không hay biết gì về những xôn xao mà bài hát của họ gây ra. Cha Mohr đã qua đời vì bệnh viêm phổi, không một xu dính túi, năm 1848 ở tuổi 55. Ngài không bao giờ biết rằng bài hát của ngài đã vươn tới những vùng xa xôi nhất của trái đất.
Mãi đến năm 1854, Gruber mới nghe nói về sự thành công của bài hát, khi người điều khiển buổi hoà nhạc phục vụ vua Frederick William IV của nước Phổ bắt đầu truy tìm nguồn gốc của bài hát
này. Khi lời đồn đại đến tai Gruber, lúc đó ông 67 tuổi, ông đã viết một lá thư tới Berlin kể vế nguồn gốc của bài hát.
Thoạt tiên, ít có học giả nào tin rằng hai con người khiêm tốn ấy lại có thể nghĩ ra một bài Thánh ca Giáng Sinh nổi tiếng như thế. Năm 1863, khi ông Gruber qua đời, quyền tác giả của ông vẫn bị thách thức. Cùng năm ấy, Cha John Freeman Young, người mà sau này trở thành Giám mục Tân giáo ở Florida
đã dịch 3 khổ thơ của bài hát này sang tiếng Anh mà ngày nay chúng ta vẫn hát.
Không còn bất kỳ một tranh cãi nào về tác quyền của nguyên thuỷ bài hát này. Các tượng đài ở Áo đã biểu lộ lòng tôn kính đối với Cha Mohr và ông Gruber, và di sản của họ đã trở thành một phần thiết yếu của Lễ Giáng Sinh khắp mọi nơi. Ông William E. Studwell ở Đại học Northern Illinois, Hoa Kỳ, một chuyên gia Thánh ca Giáng Sinh, đã nói: “Đêm thầm lặng là biểu tượng âm nhạc của Lễ Giáng Sinh.”
Thực ra, bài Thánh ca này giờ đây được hát khắp các lục địa trên thế giới bằng nhiều ngôn ngữ, từ tiếng gốc Đức đến Welsh, từ tiếng Swahili đến tiếng Afrikaans, từ tiếng Nhật đến tiếng Nga, từ tiếng Triều Tiên đến tiếng Việt rồi tiếng Hoa – tất cả cùng diễn tả một cảm giác sâu lắng về sự thanh bình và niềm hân hoan. Nó đã được ghi âm với những giọng ca của những ca sĩ, từ Bing Crosby đến Elvis Presley.
Qua bao năm, bài Thánh ca mộc mạc này đã biểu hiện một quyền lực mạnh mẽ để tạo ra cảnh an bình trên thiên quốc. Chẳng hạn trong thời gian ngưng bắn Lễ Giáng Sinh năm 1914, những người lính
Đức dọc theo phòng tuyến mặt trận phía Tây đã bắt đầu hát bài “Silent Night”. Từ phía bên kia của vùng cấm địa. Những binh sĩ Anh cũng cùng hát bài hát đó.
Trong cùng cuộc chiến ấy, tại trại tù binh Seberi, các tù binh người Đức, Áo và Hungari bỗng cùng đồng thanh hát bài “Silent Night”. Với những giọt nước mắt rưng rưng trong khoé mắt, viên cai tù người Nga nói bằng tiếng Đức bồi: “Đêm nay là lần đầu tiên trong hơn một năm của cuộc chiến mà tôi đã có thể quên giữa các anh và tôi xem nhau như những kẻ thù.”
Ở Tiệp Khắc bị Đức Quốc Xã chiếm đóng vào năm 1944, một sĩ quan Đức thăm một trại mồ côi đã hỏi xem có em nào biết bài “Đêm thầm lặng” bằng tiếng Đức không. Một bé trai và một bé gái ngập
ngừng bước tới, rồi bắt đầu hát “Stille Nacht, heilige Nacht”. Viên sĩ quan nhoẻn miệng cười, nhưng sau đó hai đứa trẻ ngừng hát, như chừng chúng bắt đầu nhớ ra điều gì và trông chúng sợ hãi. Ở vùng đất của quốc gia đó, những người biết tiếng Đức chủ yếu là người Do Thái. Thấy vẻ sợ hãi của chúng, viên
sĩ quan này đã dỗ dành chúng. “Đừng sợ”, ông nói. Ông ta cũng bị xúc động bởi sự kỳ diệu của bài hát.
7 năm sau đó, vào một Lễ Giáng Sinh trong thời chiến tranh Triều Tiên, một người lính Mỹ trẻ tên là John Thorsness, khi đang trong phiên gác, anh nghĩ mình đã nghe thấy tiếng quân địch. Ngón tay
đặt trên cò súng, anh thấy một đám đông người Triều Tiên đi ra từ bóng tối, họ đang mỉm cười. Khi người lính trẻ này đứng sững sờ, nhóm người này đã hát bài “Silent Night” bằng tiếng Triều Tiên, sau đó họ lui dần vào bóng tối.
Bài hát đã được sáng tác rất xa về không gian và rất lâu về thời gian: “Đêm thầm lặng, đêm thánh, tất cả
đều êm đềm, tất cả đều ngời sáng…”
. Những lời hát khó quên giai điệu mộc mạc ấy vẫn lưu lại trong tâm hồn của chúng ta như đã từng lắng đọng trong tâm hồn của mọi người trên khắp thế giới kể từ khi một vị cha trẻ và một người bạn của ngài làm thầy giáo làng đã hát nó lần đầu tiên cách đây 194 năm.
(Mùa Vọng Giáng Sinh 2012)
Jos. Tú Nạc, NMS
Silent Night (with lyrics)

TẤM PHÔNG VÀ BỨC TRANH CÓ TÊN GỌI MARIA

LỄ ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI 8/12

TẤM PHÔNG VÀ BỨC TRANH CÓ TÊN GỌI MARIA

 

“ Mừng vui lên, hỡi đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc.1,28)

Tín điều Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội được Giáo Hội chính thức công bố ngày 8/12/1854 dưới triều đại Đức Giáo Hoàng Piô IX, kế đến, chính môi miệng Mẹ Maria đã xác quyết khi hiện ra với thánh nữ Bernadette tại Lộ Đức vào ngày
25/3/1858. Mẹ đã phán: “Ta Là Đấng Vô Nhiễm Thai”.

Mẹ Maria là một trong muôn vàn thụ tạo do Thiên Chúa sinh dựng, nhưng Thiên Chúa đã ban tặng cho Mẹ nhiều đặc ân: Mẹ Thiên Chúa, Nữ Vương Thiên Đàng, Nữ Vương Hòa Bình, Mẹ của chúng sinh…Riêng đặc ân Vô nhiễm Thai là đặc ân khởi đầu, nhờ đặc ân Vô Nhiễm Thai mà cung lòng của Mẹ đã trở nên cao sang, thanh khiết, vẹn tuyền, cung lòng của Mẹ đã trở nên ngôi đền thờ Thiên Chúa ngự qua biến cố Truyền Tin và mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Hai Thiên Chúa.

Đặc ân Vô Nhiễm Thai mà Mẹ Maria lãnh nhận từ Thiên Chúa được nằm trong chương trình cứu độ mà Ngài đã hứa ban sau khi con người nhân loại đầu tiên là ông A-dong và bà E-va lỗi nghịch cùng Thiên Chúa nơi vườn Địa Đàng, trình thuật sách Sáng Thế sau đây đã minh chứng điều ấy: “Đức Chúa phán với con rắn: Ta sẽ gây mối thù giữa ngươi và người phụ nữ, giữa dòng giống  ngươi và dòng giống người ấy, dòng giống người ấy sẽ đạp vào đầu ngươi, cònngươi sẽ tìm cách cắn gót chân  người” (St.3,15). Dòng giống người phụ nữ mà sách Sáng Thế mô tả không ai khác, đó chính là  Đức Trinh Nữ Maria.

Vâng! Khởi đi từ ý muốn và Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa mà Mẹ Maria đã được Thiên Chúa sủng ái và ban tặng nhiều đặc ân, lời chào của Sứ Thần trong ngày Truyền Tin đã minh chứng điều ấy: “ Mừng vui lên, hỡi đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc.1,28), như lời minh định của thánh Phaolô: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng
ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn
vàn ơn phúc của Thánh Thần. Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo
thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người ta trở nên tinh tuyền, thánh thiện…” (Ep.1,3-4).

Có thể nói, cuộc đời của Mẹ Maria được ví như tấm phông tuyệt mỹ. Tấm phông có tên gọi Maria được dệt bằng những sợi tơ vàng, sợi tơ yêu thương dưới bàn tay điêu luyện của người thợ dệt là Thiên Chúa, để rồi từ tấm phông ấy, một lần nữa Thiên Chúa, Người họa sỹ đại tài đã dùng những gam màu sáng tối, đậm lợt, những đường cong và thẳng đan xen nhau, những nét vẽ điêu luyện tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp. Bức tranh ấy diễn tả tình yêu của Thiên Chúa, diễn tả hồng ân Cứu Độ mà Thiên Chúa muốn trao ban cho con cái loài người một cách nhưng không. Vâng! Thiên Chúa, Ngài đã dệt, đã vẽ trên tấm phông có tên gọi là Maria để thực hiện lời hứa của Ngài với toàn thể con cái loài người như ngôn sứ Isaia đã trình thuật: “ Ta đã nhận lời ngươi vào thời ta thi ân, phù trợ ngươi trong ngày ta cứu độ. Ta đã gìn giữ ngươi, đặt ngươi làm giao ước giữa ta với dân, để phục hồi xứ sở, để chia lại những gia sản đã bị tàn phá…”(Is.49,8).

Thiên Chúa, Ngài đã phác họa những gì trên tấm phông mang tên Maria? Xin thưa! Thiên Chúa vẽ một Trái Tim thanh khiết, tinh tuyền, không tỳ ố ngay khi tấm phông có tên gọi Maria được hình thành nơi cung lòng của bà An-na; trong ngày Sứ thần Truyền tin, Ngài phác họa những từ Tín Thác, Khiêm Nhường Xin Vâng; Ngài vẽ hai chữ Hạnh phúc Bình An nơi máng cỏ Belem khi Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần; Ngài tô đậm hai chữ Yêu Thương và Phục Vụ nơi nhà bà Êlisabet, nơi tiệc cưới Cana; trên đỉnh đồi Can-vê Ngài vẽ những đường cong và thẳng đan xen nhau kết nên hai chữ Thinh LặngChịu Đựng; qua biến cố Phục Sinh, Ngài vẽ những nét đậm với hai chữ Vui Mừng và Hy Vọng . Cuối cùng, Ngài vẽ hình lưỡi lửa trong ngày lễ ngũ tuần, ngày khai sinh ra Giáo Hội trần thế. Thiên Chúa rất hài lòng sau khi thực hiện nét vẽ cuối cùng trên tấm phông có tên gọi Maria, không những thế, Ngài còn ban tặng bức tranh ấy cho toàn thể nhân loại như một bảo chứng của tình yêu.

Vâng! Dưới bàn tay điêu luyện của Thiên Chúa, tấm phông  có tên gọi Maria giờ trở thành một bức tranh tuyệt tác. Bức tranh ấy được treo một cách trang trọng nơi tòa nhà của Thiên Chúa, trở thành điểm nhấn, trở thành  vườn hoa muôn màu, muôn sắc nơi vườn thượng uyển; trở thành tấm gương phản chiếu hình ảnh và tình yêu của Thiên Chúa một cách rõ nét, là tấm gương soi cho tất cả những ai tin nhận Thiên Chúa, và nhất là trở thành ánh sao dẫn đường cho những ai đang lần mò đi trong đêm tối của niềm tin, những tâm hồn khát khao đi tìm chân lý, tìm kiếm Thiên Chúa nơi cuộc sống dương gian.

Hướng về Mẹ Maria với tước hiệu Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, trước tiên ta cảm tạ Thiên Chúa đã ban tặng cho ta một người Mẹ thanh khiết, vẹn toàn, một tấm gương phản chiếu tình yêu của Thiên Chúa, ta cảm tạ Thiên Chúa đã giúp ta cảm nhận được sự hiện diện của Ngài trong mọi biến cố vui buồn của cuộc sống ngang qua Mẹ Maria, ta xin Chúa tháp nhập con người và cuộc đời ta lên tấm phông có tên gọi Maria. Với tấm lòng con thảo, ta xin Mẹ giúp ta trở thành tấm phông để qua tấm phông là chính con người và cuộc đời của ta, Thiên Chúa sẽ vẽ những nét đẫm lợt, sáng tối theo Thánh Ý của Ngài, như Ngài đã thực hiện nơi cuộc đời của Mẹ Maria.

Trên bước đường lữ thứ trần gian, còn đó những cám dỗ, những lời mời gọi ngọt ngào của quyền lực sự dữ; còn đó những thách đố, khổ đau do bệnh tật, đói nghèo, do bất hòa chia rẽ; còn đó những vô cảm đối với Chúa và với nhau, tất cả những điều đó dễ làm trái tim và con người của ta trở nên hoen ố, trở thành những làn roi, thành những gai nhọn và đinh sắt đóng vào thân mình của Đức Kitô, trở thành những vết nhơ trên bức tranh mà Thiên Chúa đã vẽ nơi tấm phông có tên gọi Maria. Với thân phận yếu đuối và mỏng dòn, ta xin Mẹ Maria qua tràng chuỗi Mân Côi, để nhờ Mẹ và trong Mẹ ta đón nhận sức mạnh và phúc lành từ nơi Thiên Chúa, nhờ sức mạnh và phúc lành của Thiên Chúa ta mới có thể chống trả chước cám dỗ, ta mới có được sự bình an đích thực và nhất là sự sống bất diệt được khởi đi từ Thiên Chúa.

Giữa mối tương quan gia đình trần thế, ta xin Mẹ Maria giúp ta trở thành những tấm phông, những họa sỹ như lòng Chúa ước mong. Nhờ ơn Chúa tác động và qua sự dẫn dắt của Mẹ Maria, ta cùng vẽ, cùng phác họa cho nhau những nét chữ yêu thương, tha thứ, đồng cảm và sẻ chia, nhờ những gam màu tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa, những gam màu hiến thân và phục vụ mà tấm phông là chính cuộc đời của ta và của nhau sẽ trở thành những bức tranh sinh động, bức tranh diễn tả tình yêu của Thiên Chúa, của Mẹ Maria. Qua bức tranh của ta và của nhau mà nhiều người nhận ra khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa, Đấng là Cha, Đấng luôn yêu thương hết thảy mọi người, nhất là những người chưa biết và chưa tin nhận Thiên Chúa. Đặc biệt trong Năm Thánh Đức Tin, ta được mời gọi tuyên xưng, sống và làm chứng cho niềm tin của mình giữa lòng thế giới.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội! Xin thương và giúp con biết noi gương Mẹ tận hiến cuộc đời cho Chúa, để nhờ ơn Chúa giúp, con dần trở thành tấm phông mà Thiên Chúa sẽ vẽ, sẽ tạo nên bức tranh như lòng Ngài ước mong. Amen.

Sài Gòn, ngày 07/12/2012

Antôn Lương Văn Liêm

Maria Thanh Mai gởi

Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội

Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội

Ngày 8/12

Lm. Nguyễn Văn Trinh

Tín điều về “Đức Trinh Nữ Maria ngay từ thuở ban đầu đã được gìn giữ khỏi tội nguyên tổ”, qua thời gian càng ngày càng rõ rệt.

Thánh Kinh không chỗ nào nói rõ điểm này cả, nhưng Hội Thánh qua thời gian (Thánh Truyền) đã hiểu những lời Thánh Kinh và giải thích: Đức Trinh Nữ Maria là thụ tạo trong sạch nhất và có thể nói “thành công” nhất của Thiên Chúa. Đức Trinh Nữ Maria được ví như Eva Mới, không vương nhiễn đến tội và trở thành “Mẹ của chúng sinh”.

Dù vậy chúng ta phải nắm vững :

1. Đức Maria cũng được sinh ra một cách bình thường như mọi người khác.

2. Đức Maria được hưởng hồng ân lớn lao này là nhờ Đức Giêsu Kitô, qua công nghiệp cứu độ của Người là chết trên thập giá.

Về Phụng Vụ, chúng ta đã thấy có những thánh lễ tôn kính Mẹ Vô Nhiễm từ thế kỷ thứ IX, bắt đầu từ Constantinople tràn sang miền Nam Ý và Sicile. Nhưng rõ nét nhất là thánh Anselmô thành Canterburry đã du nhập thánh lễ này vào giáo phận của ngài.

Vào năm 1476 Đức Giáo Hoàng Sixtus IV, xuất thân từ dòng Anh Em Hèn Mọn, đã đem thánh lễ này vào Giáo Hội La Mã.

Ngày 8.12.1854 Đức Giáo Hoàng Piô IX trong Thông Điệp “Ineffabilis Deus” đã long trọng công bố tín điều “Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội” cho toàn thể Hội Thánh Công Giáo.

Maria Thanh Mai gởi

Nói cho con người (Ba bài giảng sám hối): Lm Chân Tín (5)

Nói cho con người (Ba bài giảng sám hối): Lm Chân Tín (5)

Đăng bởi cheoreo lúc 1:40 Sáng 7/12/12

VRNs (07.12.2012) – Sài Gòn – Bài sám hối thứ ba này sẽ được nhà cầm quyền dùng làm bằng chứng, lên gân nội bộ và ra quân bắt cha Tín đi đầy, nhưng thật ra, bài này, cha Chân Tín vẫn kêu gọi sám hối mà thôi. Cũng có thể, người ta không chịu nổi việc làm xấu của họ bị gọi đích danh.

Ba bài giảng sám hối

(Mùa Chay, tháng 4/1990)

Nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp – DCCT

(đường Kỳ Đồng, Sài Gòn)

 

Bài giảng thứ ba

Sám hối tập thể Quốc gia

Trong bài giảng tối qua, tôi nói đến  sám hối của Giáo hội: Giáo hội nhận sứ mạng của Chúa cha trong việc thu họp mọi người trong Chúa Kitô. Tôi đã nhấn mạnh Giáo hội Việt Nam chưa phấn đấu đủ để hoàn thành sứ mạng rao giảng Tin mừng; chưa phấn đấu đủ cho việc đào tạo linh mục, việc các dòng tu được hiện hữu và hoạt động; chưa phấn đấu để người Công giáo khỏi bị chèn ép, khỏi là công dân hạng hại; chưa phấn đấu đủ cho công việc giáo dục, y tế, xã hội của Giáo hội để phục vụ nhân dân, nhất là chưa phấn đấu  đủ cho nhân quyền.

Hôm nay, trong buổi nói chuyện cuối cùng, tôi xin đề cập đến việc sám hối trên khía cạnh tập thể quốc gia.

Tại quốc gia này, trong 15 năm nay, Đảng CSVN đã một mình cai trị toàn cõi Việt nam trong một thời gian lâu dài hơn bất cứ chính phủ nào trước kia trong chế độ cũ: Bảo Đại được 7,8 năm; Ngô Đình Diệm, 9 năm; Dương Văn Minh, Phan Khắc Sửu, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Văn Thiệu chia nhau chỉ có 12 năm.

Đảng CSVN dính liền với các nước CS khác: trước nhất là Liên Xô, người anh cả; rối các nước Đông và Trung Âu; rồi đến Trung Quốc mà ngày xưa Đảng CSVN gọi là ‘môi hở răng lạnh’: ông Cuba đang gồng mình làm tiền đồn cho CS ở châu Mỹ; ông Bắc Hàn đang dựng một hệ thống độc tài cha truyền con nối.

Khỏi nói đến ông Trung Quốc, Cuba, Bắc Hàn là những chế độ đầy vi phạm đến quyền căn bản con người, mà chưa thấy một chút ân hận nào, thì làm gì có sám hối, có đổi mới.

Các nước Đông Âu đã ân hận, đã sám hối, đã vạch những tội ác của các chế độ cộng sản theo đường lối độc tài tàn ác của Staline. Họ đã lên án lãnh tụ bất tài bất tướng của họ và tuyên bố từ nay tôn trọng nhân quyền, tôn trọng tự do tín ngưỡng, trả tự do cho tù chính trị.

Tôi muốn dành thì giờ để nói đến Liên Xô và đất nước chúng ta.

A. SÁM HỐI TẠI LIÊN XÔ:

Trước hết ta nhìn về Liên Xô, đất nước của Lê nin, nơi phát xuất cách mạng xã hội chủ nghĩa trong 73 năm, lãnh đạo cuộc cách mạng XHCN khắp thế giới, đất mẹ của Cách mạng XHCN Việt Nam.

1. Phim “sám hối”

Cách đây trên 20 năm, một cuốn phim Liên Xô tố cáo tội ác của chế độ độc tài của Staline, đã được thực hiện; nhưng chỉ cách đây vài ba năm, cuốn phim mới được xuất xưởng chờ cuộc sám hối của Liên Xô, và trong một thời gian ngắn, cuốn phim đã được thế giới nhìn nhận là kiệt tác: đó là phim ‘sám hối’ của Adbuladze. Cuốn phim mô tả một vụ án một người phụ nữ đã ba lần đào mả ông Varlam, thị trưởng của một thành phố nhỏ ở Liên Xô. Bà này là con của nạn nhân của ông thị trưởng này. Tại tòa, bà tuyên bố bà không thể để tên độc tài đó trong mồ, nếu cần bà còn đào nữa.

Đây là bản án dành cho một cơ chế quyền lực độc đoán, không dựa trên pháp luật, mà dựa trên sự mị dân và đàn áp. Phải giải thoát mọi người khỏi nỗi khiếp sợ và sự tôn kính không tự nguyện đối với ông thị trưởng tác oai tác quái, hình ảnh của Staline và cả một thế hệ lãnh đạo Liên Xô và các nước XHCN trong 73 năm qua. Y muốn trừ tận gốc tất cả những gì là sự sống và tài năng xung quanh y, bất mãn với mọi người, vì thế bỏ tù tất cả. Nhưng tất cả những vụ bắt bớ hành quyết nhục hình, y dùng bàn tay kẻ khác. Niềm khoái lạc thâm độc của y là rình rập một nạn nhân và mào đầu một trò chơi tàn bạo với kẻ thù mới, bằng cách chuẩn bị một màn công lý đẫm máu sẽ được bộ
hạ hoàn tất. Y nói: “Nếu muốn, chúng ta sẽ bắt được mèo trong phòng tối, kể cả
khi không có mèo.” Hoạt động chống lại con người tiêu biểu nhất của y là đã lấy
đền thờ làm chỗ thí nghiệm khoa học, rồi cho nổ tung nhà thờ, y muốn chặt đứt
rễ sống nuôi dưỡng và làm giàu đời sống tinh thần của nhân dân, xóa bỏ truyền
thống văn hóa. Đối với y, bốn người dân là bốn kẻ thù.

Y chết, đám tang lớn, có điếu văn ca ngợi. Một ngày sau, xác y được chôn cất đã bị quật lên đến ba lần do một người đàn bà, con của một nạn nhân. Ra tòa, bà nói còn quật lên nữa. Cuốn phim kết thúc với cuộc tự vẫn của cháu nội của tên độc tài vì nó ‘sám hối’ thay cho ông nội nó; đến lượt con trai cũng ‘sám hối’, bằng cách đào mồ bố và liệm xuống vực thẳm phơi thay cho đàn quạ. Cảnh cuối cùng là một bà cụ già đi ngang qua nhà người phụ nữ đã quật mồ tên độc tài. Người này bây giờ có nghề làm bánh ngọt. Trên mỗi chiệc bánh đều có hình một tháp nhà thờ. Bà cụ hỏi: “Đường này có đưa tới nhà thờ không?” Người bán bánh trả lời: “Không, thưa cụ.” Bà cụ trợn mắt
bảo: “Đường không đưa đến nhà thờ thì để làm gì?”…

Cuốn phim ‘Sám hối’ như thế đó. Hồi ấy cuốn phim chỉ là một ước mơ của nhà soạn phim Adbuladze. Nhưng nay là sự thật: toàn dân Liên Xô đã sám hối, cấp lãnh đạo Liên Xô đã sám hối. Họ đang quật mồ của Staline lên bằng cách tố cáo những tội ác của y và của tay sai y trong nhiều thập niên trước đây. Ta hãy lắng tai nghe họ nói. Ta lần lượt nghe các nhà văn lớn ngày nay của Liên Xô, các nhà trí thức, các Đảng viên cộng sản, các cấp lãnh đạo. Họ tố cáo các tội ác của một chế độ độc tài và họ đưa ra
những đường hướng mới cho cuộc sống lại của những giá trị thiêng liêng: họ đang
sám hối.

2. Các nhà văn Liên Xô

Sau đây là cuộc sám hối của các nhà văn lớn hiện tại của Liên Xô. Các nhà văn lớn của Liên Xô lên tiếng về sự mất mát các giá trị thiêng liêng của xã hội Liên Xô ngày nay.

Các nhà văn Bykov, Astafiev, Aytmatov, tất cả tố cáo sự sa sút luân lý sau 70 năm cách mạng. Nguồn gốc của sự sa sút này là ở trong công cuộc phá hoại tôn giáo. Con đường ra khỏi cuộc khủng hoảng này là làm tôn giáo sống lại.

+ Bykov (một nhà văn lớn) cho rằng không thể có luân lý nếu không có đức tin.

+ Astafiev: “Ai đẩy chúng ta vào vực thẳm của sự dữ và bất hạnh, và vì sao? Ai dập tắt ánh sáng của sự thiện trong tâm hồn chúng ta? Ai đã đẩy lui ngọn đèn của lương tâm chúng ta, đẩy nó vào vực thẳm tăm tối, trong đó chúng ta mò mẫm, cố gắng tìm đáy vực thẳm, tìm một cái gì để dựa và một chút ánh sáng dẫn ta đến tương lai? Ích gì cho chúng ta cái ánh sáng đưa chúng ta đến ngọn lửa của địa ngục? Chúng ta đã từng sống với ánh sáng của tôn giáo trong tâm hồn chúng ta, một ánh sáng đã có từ lâu trước ta… Người ta đã làm mất đi ánh sáng đó và không mang lại gì khác cho ta để thay thế, trái lại họ đem lại cho ta vô tín ngưỡng.”

+ Aytmatov (Hồi giáo)

Được hỏi vì sao ông lại chọn một chủng sinh Kitô giáo làm nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết đoạn đầu đài của ông, ông nói: “Kitô giáo đã tạo một thúc đẩy mạnh mẽ trong khuôn mặt Đức Kitô. Đạo Hồi mà tôi là thành phần qua nguồn gốc dân tộc không có một khuôn mặt như vậy. Mahomet không phải là một tử đạo. Ngài có những ngày gian khổ, nhưng bị đóng đinh cho một lý tưởng và tha thứ cho người bách hại mình thì đạo Hồi không có như vậy.”

Rất nhiều nhà văn như thế nghĩ rằng tái lập những giá trị tôn giáo là con đường duy nhất để giải quyết cuộc khủng hoảng thiêng liêng hiện thời. (Chr. Sc. Monitor, 13/10/86).

3. Các nhà trí thức

Trong một cuộc trao đổi bàn tròn, một số nhà trí thức đã tố cáo sự bất khoan dung của chế độ cộng sản và kêu gọi sự bao dung, điều kiện quan trọng để có sự thông cảm giữa người và người.

+ Alexandre Nejny (một nhà báo) nói về sự bất bao dung của Liên Xô: “Chúng ta
khó mà bao dung với những người khác chính kiến, chúng ta phải hiểu vì sao
chúng ta bất bao dung như thế, vì sao ta lại chống đối tôn giáo và Giáo hội.
Chính cái bất bao dung là thủ phạm của bao hy sinh của công dân nước ta vì niềm
tin của họ… Nhiều cán bộ chuyên trách về tôn giáo của Hội đồng Bộ trưởng, với
chức năng làm trung gian giữa Nhà nước với các cộng đoàn tôn giáo, giữa chính
quyền địa phương và các tín đồ, tuy họ còn trẻ, nhưng đã nhiễm tinh thần bất
bao dung truyền lại từ thời Staline và tỏ mình bền chí như những người đi trước
họ, bằng cách bắt bớ Giáo hội và các tín đồ.”

+ Janis Pujato (Giám mục Riga): “trong xã hội ta, tình cảnh người tín hữu
và người vô thần không ngang nhau. Người vô thần có quyền tuyên truyền tư tưởng
của mình, còn tín hữu chỉ được tế tự.”

+ Youri Davidor: “Có câu tục ngữ ‘Nhà thờ không phải là những khúc gỗ, nhưng
là con người’. Người ta sửa sang được nhà thờ là một điều ghê gớm. Nhưng làm
sao cho Giáo hội sống lại trong các tâm hồn là ưu tiên.”

+ Alxandre Nejny: Nhân dịp kỷ niệm 1000 năm ngày rửa tội nước Nga, ông Nejny
có viết một bài ở báo tin tức Moscova ngày 19/6/1988. Ông nói: “Quan niệm coi
Giáo hội là một tàn dư có hại từ bản chất là một mưu toan xấu nhằm tước mất của
nhân dân cái di sản văn hóa và lịch sử vĩ đại. Chủ nghĩa vô thần bằng bất cứ giá nào là vô ích và tai hại, bởi vì khi thực hiện nguyên tắc đó, họ đã cưỡng bức cả quá khứ lịch sử của Liên Xô lẫn sự tự do lương tâm cả hàng triệu đồng bào của họ. Phải hiểu rằng vô thần cũng như tín hữu, họ cùng thừa hưởng một truyền thống tinh thần lớn lao duy nhất và chính cùng với truyền thống này mà những chân lý về sự thiện, về lòng nhân từ, và về lòng thương yêu đi vào bên trong cuộc sống của họ. Những kẻ tìm cách làm cho Giáo hội mất đi môi trường hoạt động của mình và cắt đứt mọi con đường đưa từ nhà thờ tới trần thế, những kẻ ấy đã phạm một lỗi lầm xã hội và chính trị không thể tha thứ được. người ta lơ là không dám đếm xỉa đến những quyền lợi của các tín hữu và coi các tín hữu này như những công dân hạng hai. Phải tôn trọng vô điều kiện nhân phẩm con người, nhìn nhận con người có những quyền không thể chuyển nhượng. Giáo hội có những đau khổ trong bảy thập niên vừa qua. Sao không tỏ lòng cảm phục hẳn hiên mà tưởng niệm những người đã chết vì đức tin trong các trại tù thời Stanline? Sự nghiêm chỉnh luật pháp trong các quan hệ giữa Nhà nước vô thần và Giáo hội bao hàm khoảng cách giữa đôi bên. Khoảng cách đó có thể tránh cho Giáo hội một nguy cơ trầm trọng: nguy cơ bị nghẹt thở bên trong những vòng tay siết chặt của các nhà cầm quyền và một khi bị tước đoạt sự độc lập tinh thần, nguy cơ trở
thành một bộ phận Nhà nước.”

+ Youri Davydov (nhà văn vô thần): “Nói đến bao dung thì dễ dàng hơn đối với
người của Giáo hội, vì họ có một truyền thống lâu đời hàng thế kỷ về điểm này,
còn những người vô thần như chúng tôi chưa biết đến. chúng tôi cứng cỏi, chúng
tôi đã đưa cái bất bao dung lên hàng đầu trong cuộc sống xã hội. Kết quả: Chúng
tôi không cảm thấy bao dung và thương xót đối với con người, con vật và cả
thiên nhiên. Phần tôi, tôi đã phải học cho biết bao dung trong các trại giam
của Statine. Các bạn ngạc nhiên phải không? Điều đó khó, nhưng nếu không, người
ta không sống sót nổi: thiếu thốn, đói khát, những khó khăn của cuộc sống ấy
nối kết chúng tôi lại.” (Nouvelles de Moscou, 30/10/1988).

+ Averintsev (tiến sĩ ngữ học, Hàn lâm viện Khoa học): “Cách thức tốt nhất để giải quyết mọi vấn đề giữa những con người với nhau là tranh luận tự do mà không trở thành bất hòa, người ta không nhất thiết phải luôn có cùng một ý kiến với nhau mới tôn trọng nhau được. Cuộc sống xã hội không thể có được nếu không có bao dung. Mỗi người có toàn quyền tự do không những theo một niềm tin mình muốn, mà còn tuyên truyền bất cứ một tôn giáo nào hay đổi niềm tin. Không một cán bộ nào có quyền hỏi một ai về niềm tin của họ, đó là vấn đề lương tâm (Lê nin).”

4. Đảng và Nhà nước

Ông Constatin Katchev (trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ Liên Xô), trong một cuộc phỏng vấn, khi người ta hỏi: Sau 70 năm cách mạng, có gì thay đổi trong một đất nước vô thần như Liên Xô đối với tôn giáo, ông nói: “Có nhiều thay đổi. Thay đổi chính yếu là nay người tín hữu không còn bị coi như công dân hạng hai nữa (năm 1976, tại Mặt trận Trung ương, tôi cũng đã nói người công giáo Việt nam được coi như công dân hạng hai). Điều này tiếc thay vẫn còn xảy ra một cách quá thường xuyên… Việc Hiến pháp Liên Xô kỳ thị tín hữu và ưu đãi người vô thần phải được chấm dứt. Ngày nay, người vô thần được tự do tuyên truyền, còn các tín hữu thì chỉ được nói về đức tin của
họ trong khuôn khổ nhà thờ mà thôi hoặc chỉ được nói trên báo chí với số ấn
hành rất hạn hẹp. Cần phải làm sao để người không tín ngưỡng và người có tín
ngưỡng đều được quyền như nhau.

+ Nhà nước không thể lấy công quỹ để tài trợ việc tuyên truyền vô thần được, vì đây là tiền của mọi người trong có người tín hữu.

+ Luật mới sẽ cho phép ai muốn học tôn giáo một cách cá nhân hay theo nhóm với sự trợ giúp của linh mục và học hỏi bất cứ ở đâu. Đây là chuyện riêng của công dân. Nhà nước không được xen vào.

+ Luật sẽ loại bỏ việc xin phép lập các tổ chức tôn giáo như các hội đoàn. Một tổ chức tôn giáo (họ đạo, họ đoàn) sẽ được tín hữu tự do thành lập mà không cần xin phép.” (La Republica, 4/3/1989).

Ông Gorbatchev, Tổng thống Liên Xô: “các quyền của con người trong chế độ XHCN không phải là quà tặng của Nhà nước, không phải là việc làm từ thiện của ai… Công cuộc cải tổ đã đặt ra vấn đề về các quyền chính trị của con người… Chúng ta không có quyền để cuộc cải tổ vấp phải tảng đá giáo điều và bảo thủ, vấp phải những thành kiến và những tham vọng riêng của ai đó.” (Saigon Giải phóng, 1/7/1988).

“Không có tính công khai, phê và tự phê, không có dân chủ thì quá trình cải tổ không thể tiến triển được. nó sẽ chết yểu và chúng ta có thể chôn nó ngay trong ngày hôm nay.” (Saigon Giải  phóng, 2/7/1988. hội nghị Cộng sản Liên Xô).

“Chúng ta đoạn tuyệt với hệ thống độc đoán quan liêu. Lý tưởng của chúng ta là chủ nghĩa xã hội nhân đạo và nhân chủ. Chúng ta từ bỏ việc Nhà nước hóa một cách độc đoán đời sống xã hội, điều đã dẫn đến sự lộng quyền và bất chấp pháp luật. Đảng Cộng sản không giữ độc quyền, không loại trừ khả năng thành lập các Đảng.” (Sàigon Giải phóng, 14/2/90).

Gorbatchev nói với Gioan Phaolô II: “Chúng tôi cần những giá trị thiêng liêng, cần một cuộc cách mạng tinh thần. Đây là con đường độc nhất đưa đến một nền văn hóa mới và nền chính trị mới… Chúng tôi đã đổi thái độ đối với một số vấn đề, ví như tôn giáo, mà chúng tôi đã cư xử một cách đơn giản. Bây giờ, không những chúng tôi nhận định rằng không một ai có quyền can thiệp vào những vấn đề lương tâm cá nhân, nhưng chúng tôi còn nói rằng những giá trị luân lý mà tôn giáo đã làm nẩy sinh ra và đã đúc kết trong hàng thế kỷ, có thể giúp cho công việc đổi mới Đất nước chúng tôi vậy. Những người thuộc nhiều tôn giáo ở Liên Xô, tất cả điều có quyền thỏa mãn nhu
cầu thiêng liêng của họ.” (Time, 11/12/1989).

Với những lời của Gorbatchev, chúng ta có thể thấy được một phong trào sám hối đang được thúc đẩy mạnh mẽ ở Liên Xô.

B. SÁM HỐI TẠI VIỆT NAM:

Còn ở Việt Nam ta? Việt Nam dĩ nhiên không phải Liên Xô hay các nước Đông Âu. Liên Xô và các nước Đông Âu dĩ nhiên không phải là Việt Nam. Nhưng Việt Nam cũng không sống trên một hành tinh khác. Và con người thì ở đâu cũng như nhau. Con người ở Việt Nam cũng như ở Liên Xô, ở Đông Âu cũng khát vọng sống, cũng khát vọng tự do thực sự, hạnh phúc thực sự, dân chủ thực sự.

Sau đây tôi xin trích những phát biểu, những ý nghĩ của báo chí, các nhân vật của Đảng, Quốc hội, Nhà nước. Quân đội về thực trạng tồi tệ của đất nước và những ưu tư, trăn trở, một ít ân hận, nhưng chưa có sám hối vì chưa thấy có gì đổi mới thực sự.

1. Báo chí Việt Nam và các nhà văn

+ Trước hết báo chí

Tự do báo chí rất giới hạn và như một người làm báo thú nhận trong một cuộc hội thảo về dư luận báo chí, cho đến nay chỉ có những công chức làm báo, chưa có nhà báo thực thụ. Tuy vậy trong mấy năm qua, đã có nhiều lời ‘nói thẳng nói thật’ hơn trước về tình trạng sa sút trên mọi địa hạt đời sống xã hội.

Chỉ trong tháng ba vừa qua, sau khi vụ ‘Đường Sơn Quán’ đổ bể do báo tuổi trẻ nêu lên, nhiều cán bộ cao cấp dính trong vụ ăn chơi trác táng như chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thủ Đức, Trung tá Phan Thanh, Trưởng ban hình sự của TP và nhiều nhân vật khác, một bài của báo Saigon Giải phóng (1/3/1990) đã yêu cầu loại trừ những bướu độc: Đảng và Nhà nước phải kiên quyết loại trừ ngay các cơ quan Đảng, chính quyền mọi cấp, những cán bộ thiếu khả năng, kém phẩm chất đạo đức, đang biến chất, tha hóa, xa rời quần chúng, quan liêu, đứng trên dân. Đây là những cán bộ có chức quyền, và từ những chức, những quyền ấy, họ biến đặc quyền, đặc lợi trở thành hiện tượng nghịch tình nghịch lý trước đời sống của đa số cán bộ công nhân viên chức và nhân dân còn nhiều mặt khó khăn. Mọi người thừa biết, để có được cuộc sống giàu sang một cách phi đạo lý, những cán bộ này đã lấy tiền ở đâu? Đó là kết quả của những
hành động ăn cắp của công, tham nhũng, hối lộ, móc ngoặc, buôn lậu mà họ đã lạm
dụng chức quyền để làm.

Ngay trong tháng giêng 1990, một bài khác cũng của báo Saigon Giải phóng (18/1/1990) cũng đã phơi bày tệ nạn ăn chơi phung phí của cán bộ. Sau khi đề cập đến cuộc sống vất vả của một giáo viên phải đi sửa xe ban đêm, một nữ sinh không dám sinh con thêm vì thiếu sữa, bài báo nói tiếp: “Họ là giáo viện, y tá, kỹ sư, công nhân, bộ đội và những người lao động bình thường khác có cuộc sống thật vất vả. Nhưng bên cạnh đó, cũng trên một đất nước và một thành phố có nhiều lo toan, đã và đang tồn tại một cuộc sống khác, xa hoa và phung phí không thể tưởng tượng nổi. Kiểu ăn chơi bạt mạng, quái đản và trụy lạc của nhóm này đối nghịch một cách mỉa mai với cuộc sống bươn chải và khiêm tốn của đa số còn lại. Dân có tiền đang tạo ra hình ảnh của một thế giới trong một thế giới. Họ là ai? Giai cấp mới, giới thượng lưu mới, hiện nay thẳng tay vung tiền qua cửa sổ, những người dám bỏ ra bạc triệu để mua vui, mà tiền là tiền của Nhà nước, của nhân dân. Bằng những thủ đoạn lừa bịp tinh vi, bằng những sự liên kết và che giấu lẫn nhau trên cơ sở đôi bên đều có lợi, những phần tử xấu trong cán bộ công nhân viên Nhà nước đã lợi dụng những kẻ hở để tha hồ bòn rút đục khoét công quỹ.”

+ Các nhà văn

Nhiều nhà văn như Dương Thu Hương (Những thiên đường mù), Trần Mạnh Hảo (Ly thân) đã tố cáo những vi phạm nhân quyền của chế độ cộng sản Việt Nam.

1. Đảng và Nhà nước

– Ông Trần Bạch Đằng phát biểu: “Kinh nghiệm cay đắng ở từng loạt quốc gia XHCN cho thấy một khi Đảng đã rơi vào bệnh kiêu ngạo tuyệt đối hóa vai trò lãnh đạo
của Đảng, tất cả đều xuất phát từ ‘ơn Đảng’, từ sự minh mẫn đến độ thần thánh
thì cái bờ vực đang chờ một sẩy chân nho nhỏ vùi lấp mọi ánh hào quang…

Đảng chưa dùng sức mạnh quần chúng để chấn chỉnh Đảng, nhất là về tổ chức, nhân sự… đề cương (Trung ương Đảng) chưa thoát khỏi cách hiểu ngầm: quần chúng kém, Đảng phải vận động để nâng tầm quần chúng lên. Tất nhiên điều đó có thật, song nếu đặt mối tương quan một cách biện chứng thì cái mà không ít Đảng viên lạc hậu hơn quần chúng về trí thức, nhiệt tình và phẩm chất giữ vai trò không nhỏ trong hiệu quả của công tác vận động quần chúng…

Về các tổ chức quần chúng Công giáo, có một lầm lẫn đáng tiếc: Ủy ban Đoàn kết Công giáo là một đoàn thể trong khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam (quốc doanh) là một tôn giáo. Đề cương không nêu chính sách đổi mới với các đối tượng này (về quan điểm) mà đi vào các tổ chức quả là không thỏa đáng.

Riêng nhận thức về Mặt trận của đề cương quá lạc hậu với hiện thực…

Đảng CS gồm những người vô thần, trong khi xã hội còn tôn giáo, còn tín ngưỡng và sẽ còn lâu, ngoài việc tìm chỗ có thể thỏa hiệp về chính trị, chúng ta đâu còn con đường nào khác?” (Nhân dân, 5/3/1990).

– Ông Nguyễn Cơ Thạch trả lời tạp chí Quan hệ Quốc tế: “Chế độ XHCN vì dân, đó là mục đích dân chủ nhất, nhưng cách làm tập trung quan liêu bao cấp đã đi ngược
lại mục đích dân chủ và đẻ ra tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lạm dụng quyền
hành, ức hiếp nhân dân lao động. Một chế độ vì nhân dân nhưng nhân dân không có
quyền dân chủ về kinh tế, cơ sở của quyền làm chủ về chính trị… Loài người đã
kéo dài cuộc sống man rợ trong 2 triệu năm với nền kinh tế tự nhiên, tự cấp tự
túc và không có trao đổi. 10 ngàn năm qua loài người đã thực hiện bước nhảy vọt
nhờ nền kinh tế sản xuất hàng hóa. Nếu nền kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc đã
kềm hãm sự phát triển của xã hội loài người trong 2 triệu năm thì có thể nói
nền kinh tế tự cấp tự túc cũng đã kìm hãm sự phát triển của các nước xã hội chủ
nghĩa trong hơn 70 năm qua.” (Thanh Niên, 4/2/1980). (Tự túc: chặt cà phê để
trồng lúa, lời thú tội ghê gớm).

– Đại tướng Lê Đức Anh (Bộ Chính trị) đã nói về dân chủ: “hầu như mọi nơi, mọi ngành, mọi cấp, hiện tượng dân chủ hình thức quan liêu, quân phiệt, độc đoán, chuyên quyền, trù dập ức hiếp nhân dân, đặc quyền đặc lợi, không quan tâm đến đời sống tinh thần và vật chất của quần chúng đang còn diễn ra phổ biến. Nhiều tiếng kêu
oan của người dân vẫn chưa được giải quyết. Trong quân đội thì truyền thống tốt
đẹp chính trị, dân chủ có lúc như bị lãng quên. Những hiện tượng mất dân chủ
nghiêm trọng… đương nhiên bị quần chúng phản đối một cách chính đáng, không
nên vội cho là xấu, là địch.” (Tạp chí Quốc phòng).

-Ông Lê Quang Đạo (Chủ tịch Quốc hội) nói đến độc tài: “Thường là Đảng quyết
định mọi cái. Trong thực tế, không phải là Đảng, mà cấp ủy, không phải là cấp
ủy, mà là một nhóm người có khi chỉ có một cá nhân quyết định, dẫn đến độc tài
chuyên chế, đặc quyền đặc lợi, sinh ra một tầng lớp cầm quyền đứng trên nhân
dân, đối lập với nhân dân, tạo ra những bất công xã hội khiến quần chúng chống
lại… Đảng bị quan liêu hóa nhưng bắt dân vẫn tuân theo mình, vì trong tay có
quyền lực, quyền thì có nhiều hơn, nhưng năng lực và đạo đức có khi không bằng
dân.”

– Ông Phạm Văn Đồng (nguyên Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng) ngày nhận huân chương Sao Vàng (84 tuổi), ông nói: “cái nhà của chúng tôi hiện nay đang nhiều rác
rưởi và dơ bẩn làm cho quần chúng nhân dân phẫn nộ một cách chính đáng; trong
tình hình như vậy việc chúng ta phải đặt lên hàng đầu công tác quét cái nhà của
chúng ta, quét mọi rác rưởi và dơ bẩn, làm cho nó ngày càng sạch sẽ.” (Nhân
dân, 2/3/1990). (Cột kèo mục nát phải thay?).

– Ông Trần Xuân Bách (Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng) nói về lạm dụng
quyền lực mà thiếu năng lực tại Câu lạc bộ Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ
thuật, ngày 13/12/1989: “Nguyên nhân khủng hoảng là lãnh đạo sai lầm, vi phạm
dân chủ, duy ý chí, bảo thủ trì tuệ, đổi mới lệch lạc, đội ngũ Đảng viên cán bộ
thoái hóa hư hỏng… Đảng phải kết tinh truyền thống dân tộc và trí tuệ thời
đại, không như thế thì không giữ được vai trò lãnh đạo. Không thể dùng quyền
lực thay cho năng lực. Đừng đổ lỗi cho cải tổ, đổi mới, cải cách. Đổi mới là
cái gương để ta soi. Nếu mặt bị nhọ thì phải rửa mặt đi chứ không phải đập vỡ
gương…”

– Ông Nguyễn Văn Linh (Tổng bí thư) nói về sự thiếu quan tâm đến lợi ích quần
chúng: “Phải thẳng thắn thừa nhận rằng, ngày nay truyền thống tốt đẹp đó (quan
tâm giải quyết các lợi ích thiết thân của quần chúng), đang bị vi phạm nghiêm
trọng và phổ biến. Một trong những nguyên nhân dẫn tới sự vi phạm đó là bệnh
quan liêu của cán bộ và bộ máy, kể cả bộ máy chuyên trách công tác quần
chúng.  Hiện nay, cuộc sống bức bách đòi hỏi chúng ta phải suy nghĩ nguyên
tắc vấn đề mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng, đổi mới căn bản công tác vận
động quần chúng cho phù hợp.” (Diễn văn dịp 60 năm thành lập Đảng).

Ông Nguyễn Văn Linh còn nói về nguy cơ của Đảng cầm quyền. Tại Hội nghị 5 Trung ương Đảng, ông nói: “Lê nin đã dạy chúng ta không biết bao nhiêu lần là phải cảnh giác đề phòng những nguy cơ dễ xảy ra đối với một Đảng cầm quyền. Trước hết đó là bệnh quan liêu bàn giấy, xa rời quần chúng, xa rời thực tế, hống hách với nhân dân, lên mặt là quan cách mạng. Họ chỉ biết suốt ngày thảo hết tờ công văn này đến chỉ thị khác, ngập đầu trong các giấy tờ, hoặc đi từ phòng họp này sang phòng họp khác, ban bố các mệnh lệnh, còn cuộc sống sinh động và sự việc thực tế thì hoàn toàn xa lạ. Họ
chỉ biết huênh hoang nói những điều cao xa, lý thuyết trừu tượng về cách mạng,
về lý tưởng cộng sản; nhưng không thể bắt tay giải quyết được một công việc cụ
thể nào cho ra hồn. Lê nin đã chế nhạo là sẵn sàng đổi một tá người cộng sản
như vậy để lấy một chuyên gia tư bản…

Một căn bệnh khác: đồng tiền. Khi có quyền lực và nắm của cải trong tay, thèm khát đồng tiền, chiếm công vi tư, đục khoét của cải của nhân dân, xâm phạm tài sản của xã hội chủ nghĩa bằng nhiều thủ đoạn tinh vi hoặc trắng trợn. Cần cảnh giác với những kẻ cơ hội chủ nghĩa, chỉ biết luồn lọt, nịnh bợ để có danh và có lợi. Lúc thuận lợi thì lao xông vào để kiếm chác, lúc khó khăn thì lảng tránh cốt giữ lấy thân. Họ sống là mặt lá
trái đổi chiều theo hướng gió, miễn là đạt được mục đích vị kỷ cá nhân… Tình
hình mất đoàn kết trong Đảng, kèn cựa địa vị, đầu ốc gia trưởng độc đoán…
Không nghe quần chúng, nhất là khi ý kiến của quần chúng không thuận tai mình,
đặc biệt khi được họ phê bình, chỉ ra những thiếu sót. Từ chỗ thiếu dân chủ đến
dân chủ hình thức thì tình hình cũng chẳng tốt đẹp gì hơn.” (Saigon Giải phóng,
24/6/1989).

C. NHẬN ĐỊNH:

Nhưng chưa đặt vấn đề căn bản mà Liên Xô và các nước Đông Âu đã đặt thì Việt Nam chưa có sám hối. Cộng sản Việt Nam chỉ nghĩ cách lấy lại lòng dân và củng cố quyền lãnh đạo của Đảng. Chưa đặt vấn đề nhân quyền cũng như vấn đề cơ cấu phải đổi mới.

Trước tiên, chưa đặt vấn đề nhân quyền bị vi phạm trầm trọng và quyết tâm sửa chữa. Đây không phải là vấn đề của cán bộ này, cán bộ khác biến chất, tiêu cực, nhưng là vấn đề chính sách, đường hướng chung. Không phải kêu gọi quét sạch rác rưởi, mà là vấn đề nền tảng, vách tường, cột kèo của ngôi nhà để nhân dân yên tâm sống dưới mái nhà đó.

Vấn đề thứ hai là vấn đề cơ cấu dân chủ. Dân làm chủ, dân kiểm tra, nói để mà nói, chứ thực chất chả có làm chủ kiểm tra gì cả.

Trong một cuộc sống trao đổi với một vị giữ một chức vụ trong Trung ương Đảng, tôi có nói: “Người dân như chúng tôi không đặt vấn đề ý thức hệ. Nhưng đặt vấn đề Đảng và Chính quyền có tôn trọng nhân quyền và dân quyền không. Người dân chỉ ủng hộ Chính quyền nào tôn trọng nhân quyền và dân quyền của họ.”

Cho tới nay, nhân quyền và dân quyền đã bị vi phạm nặng nề tại Việt Nam.

Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền của Liên hiệp quốc mà tôi đề cập hôm qua đã được Việt Nam chấp nhận. Hiến pháp Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam cũng đã nêu lên những quyền căn bản của con người và của công dân: quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội, tự do biểu tình (đ.67); quyền tự do tín ngưỡng (đ.68); quyền bất khả xâm phạm về thân thể (đ.69); quyền được luật pháp bảo hộ về tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm (đ.70); quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, bí mật thư tín, điện thoại, điện tín được bảo đảm, quyền tự do đi lại và cư trú được tôn trọng (đ.71).

Bản tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và Hiến pháp Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam như vậy đó, thế mà nhìn vào thực tế, người dân như chúng ta thấy đau xót.

Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở đâu? Báo chí là ‘công cụ của Đảng’ kể cả một tờ như Công giáo và Dân tộc chẳng hạn. Chỉ có một tiếng nói. Không nói được hết sự thật, có nói được một chút sự thật là bị chặn lại. Có ai nói khác Nhà nước thì bị chụp mũ đủ thứ. Năm 1988, nhân vụ phong thánh 117 vị tử đạo Việt Nam, tôi phải lên làm việc với ông Giám đốc văn hóa và Thông tin vì một bài đánh máy vài ba trang; năm 1989 tôi cũng cùng năm anh em khác, hai linh mục, ba giáo đã phải làm việc với Công an và bị hù dọa đủ thứ chỉ vì hai lá thư góp ý với Hội đồng Giám mục Việt Nam và
với Đức Tổng giám mục giáo phận Sài Gòn.

Tự do hội họp? Tôi cùng sáu anh em gặp nhau trao đổi về đời sống Giáo hội thì bị kết tội hội họp, lập hội mà không xin phép.

Tự do tín ngưỡng? Chỉ có tự do vô tín ngưỡng, tự do viết báo, viết tiểu thuyết rẻ tiền để bêu xấu Giáo hội. Nhiều nơi, việc lễ lạy bị ngăn cản, hạn chế làm khó dễ. Các chủng viện bị hạn chế đủ thứ để Giáo hội không đủ linh mục phục vụ giáo dân. Việc đặt các giám mục gặp bế tắc như vụ Đức cha Nguyễn Văn Thuận. Việc thuyên chuyển linh mục từ xứ này qua xứ khác không phải dễ dàng. Các linh mục di chuyển gặp khó khăn. Việc giảng dạy giáo lý bị hạn chế. Chỉ có vô tín ngưỡng, vô thần được tự do tuyên truyền, được Nhà nước đài thọ. Tình hình đó đưa tới một thực tế bi thảm: sách báo nhảm nhí, truyện tàu kể cả dâm thư như Kim Bình Mai, Hồng Lâu Mộng tràn ngập vỉa hè thành phố, trong khi đó, phải mỏi mắt mớ tìm ra một quyển sách đạo in dấm dúi bằng ronéo. Các nữ tu mở lớp mẫu giáo chẳng được bao nhiêu mà còn là lớp chui,
còn các quán bia ôm, cà phê ôm thì tràn ngập thành phố với đèn màu nhạc nổi
tưng bừng.

Tự do tôn giáo là thế đó. Còn quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được pháp luật bảo vệ về tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm, quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, tất cả những quyền ấy có được tôn trọng không? nhiều vi phạm trắng trợn. Đến đây tôi không thể không nghĩ đến cái đêm rùng rợn (25/1/1978), năm tu viện vùng Thủ Đức đã bị ốp, tất cả các tu sĩ bị trục xuất khỏi nhà, tài sản của Giáo hội bị tịch thu, vì cớ nọ cớ kia không có gì đáng tội, tu sĩ nọ linh mục kia bị bỏ tù. Mà đây chỉ là
một việc điển hình. Biết bao chuyện đau thương khác đã đến với người dân.

Kính thưa anh chị em,

Với cái nhìn tổng quát về cuộc sám hối từ Liên Xô qua CHXHCN Việt Nam, chúng ta thấy Liên Xô và các nước Đông Âu đã ân hận, đã sám hối bằng cách đổi mới. CHXHCN Việt Nam có ân hận đó nhưng còn loay hoay chưa biết phải sám hối bằng cách đổi mới như thế nào, đổi mới dỏm hay đổi mới thật.

Chúng ta hãy cầu nguyện cho đất nước ta, để một cuộc sám hối thật đến với dân tộc Việt Nam hầu đem lại tự do và hạnh phúc cho toàn dân.

Trên đất nước ta, ‘giữa lòng dân tộc’ này, quả là chưa có sự sám hối thật sự để cho ngày mai trên đất nước, tương lai của dân tộc sáng sủa hơn.

Tuy nhiên, tôi vẫn muốn kết thúc ba ngày tĩnh tâm này bằng một tia hy vọng, bằng một nốt nhạc vui. Chúng ta vẫn đón chờ Chúa sống lại cơ mà.

Nốt nhạc đó, tia hy vọng đó, anh chị em sẽ nhận thấy qua sự khác biệt giữa hai mẩu tin của báo Saigon Giải phóng, báo của Đảng. Một mẩu tin ngày 16/5/1985 đầy ác cảm với Giáo hoàng Gioan Phaolô II và một mẩu tin trên số báo ra đúng ngày hôm nay (11/4/1990) đầy thiện cảm.

Mẩu tin năm 1985 nói đến hàng trăm thanh niên Hòa Lan thuộc nhiều Đảng phái tổ chức biểu tình phản đối Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Nào là ném trứng thối, chai lọ, gạch đá; nào là Ngài có ý đồ xấu trong việc đi thăm một số nước và kết thúc bản tin: “Uy tín của Ông chưa lúc nào tồi tệ đến thế.” Bản tin này đã được tuần báo Công giáo và Dân tộc vui mừng phụ họa và chế diễu những người Công giáo bất bình với bản tin độc nhất xưa nay của báo chí về Giáo hoàng.

Mẩu tin sáng nay về Olimpic ở Roma: “Ban tổ chức (Olimpic) cho biết vào ngày 29/5, lễ bàn giao sân Olimpic sẽ có mặt Giáo hoàng Gioan Phaolô II đến để ban phép lành cho sân Roma. Lúc còn trẻ, Giáo hoàng từng chơi bóng đá trong vai trò thủ môn. Ngày nay Ông vẫn thường xuyên theo dõi bóng đá qua truyền hình nhất là các trận đấu có đội tuyển Ba Lan quê hương Ông.”

Anh chị em thân mến,

Chúng ta hy vọng nước Việt Nam ta sẽ đổi mới trong tinh thần tôn trọng các quyền căn bản của con người và của người dân, nhất là tôn trọng tự do tôn giáo. Giáo hội toàn cầu cũng như Giáo hội Việt Nam không tranh quyền bính với ai, chỉ muốn phục vụ con người, kể cả phục vụ cho đến hy sinh mạng sống mình, như Đức Kitô.

Lm. Chân Tín

(11.4.1990)

 

BÉ THƠ KHỐN KHỔ

BÉ THƠ KHỐN KHỔ
“Phúc thay ai xót thương người,

vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.

(Mát-thêu 5:7)
Hai em khốn khổ thảm thương
Mồ côi cha mẹ náu nương nơi nào
Nhìn hình xúc động nghẹn ngào
Trần gian cõi tạm bước vào sầu đau
Lệ tuôn buồn tủi ai lau
Tình yêu đồng loại, ta mau mở lòng
Trái tim nhân ái vẫn còn
Bàn tay giang rộng ôm vòng cảm thông
Bé thơ mơ ước ngóng trông
Gia đình ấm áp đêm đông lạnh lùng
Chúa Cha ngự chốn cửu trùng
Khấn xin che chở thấu cùng, Ngài ơi!

* Nguyễn Sông Núi
(Tv Thánh Gioan Neumann, Dallas, TX, Dec. 4, 2012)

[Xin mời xem tấm hình ở bên dưới.]
Chỉ vài ba hàng chữ và một tấm hình…
làm cho lòng người phải tê tái,
xót xa, ngậm ngùi…
MỒ CÔI
Ba mất.

Mẹ nó sợ tuổi xuân trôi qua uổng phí, đi bước nữa.
Nó về ở với Nội.
Nội già. Nó làm tất cả.

Nó giống người Châu Phi – đen trùi trũi!

Có người hỏi: “Mày có buồn không?”.
Nó yên lặng nhìn xa xăm…

Mt chiu, nó dn v mt con bé, nh hơn.

Nội nhìn nó ngc nhiên...

Nó ngậm ngùi: Con còn có Ni – nó chng còn ai…..!

TÓC MUỐI TIÊU,

TÓC MUỐI TIÊU,

Thời gian đổi ngả nghiêng nên thế,
Tóc muối tiêu từng sợi nhuộm riêng,
Đời vất vả cày theo cuộc sống,
Có phai màu vẫn rộng đường duyên…
Đen với trắng tùy theo giòng máu,
Mẹ đã cho Cha chấm chọn màu,
Ngàn dâu bể nắng mưa con gội,
Đẹp làm sao giá cả lên cao…
Con chải chuốt đường ngôi chính đạo,
Tóc bây giờ nét đẹp thanh tao,
Tâm thanh thản dạo quanh chân sáo,
Gió hiu hiu nắng sớm nghiêng chào…
Liverpool.7/12/2012.
Song Như.
Kính gởi quý Thầy Cô và các bạn LVC.
Thân tặng anh Diệp Văn Tào.

4 cách truyền giáo

4 cách truyền giáo

Tác giả RYAN EGGENBERGER

TRẦM THIÊN THU
Bạn là người Công giáo và sống yêu thương. Bạn muốn chia sẻ Tin Mừng với những
người quen biết, chẳng hạn các đồng nghiệp. Đó là sống dồi dào trong Đức Giêsu
Kitô nơi Giáo hội Công giáo và là điều tốt lành!
Chúng ta thường nghe nói rằng người Công giáo và người Kitô giáo gây phiền
toái, thúc ép, và cực đoan. Điều này chỉ đúng trong một số ít trường hợp, còn
đa số chúng ta đều là những người thân thiện bình thường.
Tuy nhiên, hành động thân thiện khả dĩ chấp nhận không miễn trừ chúng ta đối
với việc chia sẻ Tin Mừng. Thật vậy, đó là một trong số ít điều mà chúng ta
thực sự phải làm theo lệnh Chúa Giêsu truyền: “Hãy đi và làm cho muôn dân trở
thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28:19-20).
Có nhiều cách để chia sẻ Tin Mừng mà không thúc ép, gây phiền toái và cực đoan.
Mục đích là tạo cơ hội để chia sẻ niềm vui về Đức Giêsu Kitô. Cách tốt nhất là
“làm bạn với ai đó và đem người đó đến với Đức Kitô”. Hãy thử thực hiện những
cách loan truyền Tin Mừng sau đây:
1. Sống hiền lành và hòa đồng
Người hiền lành vui vẻ sẽ thu hút nhiều người khác. Bạn có thể sống vui vẻ và
hòa đồng ở mọi nơi mà không gây phiền toái cho ai. Hãy vui cười và sống tích
cực. Hãy mặc lấy Đức Giêsu Kitô để nhìn mọi người và mọi thứ bằng con mắt đức
tin.
Điều này không có nghĩa là bạn phải tỏ ra ngây ngô. Điều xấu có thể xảy ra,
chẳng hạn như đau khổ. Nhưng đối với những người nhìn bằng con mắt đức tin và
hiểu biết giáo huấn của xã hội, đau khổ có thể trở thành vinh quang của Thiên
Chúa. Niềm vui trong Chúa là sức mạnh của chúng ta. Người ta sẽ “thắc mắc”
không hiểu sao bạn lại sống lạc quan trong gian khó như vậy. Đó là tín hiệu
tốt!
2. Yêu thương tha nhân
Đó có thể là điều cũ kỹ gây nhàm chán, nhưng đó lại chính là mệnh lệnh của Đức
Kitô: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh
em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh emThầy ban cho anh em một
điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy
đã yêu thương anh em” (Ga 13:34).
Làm sao chúng ta có thể yêu thương tha nhân như Chúa Giêsu yêu thương chúng ta?
Có thể chúng ta cho là khó vì không hợp lý. Điều Chúa Giêsu đã làm trên Thập
giá vì chúng ta là điều không thể lý giải theo trí tuệ của nhân loại: Chúa
Giêsu chịu chết hoàn toàn vì người khác, tức là chúng ta. Như vậy chúng ta cũng
phải sống hết mình vì tha nhân. Tại sao? Chúng ta đã được Chúa thương xót thì
chúng ta có trách nhiệm và bổn phận phải thương xót tha nhân. Đó là công lý!
3. Phát triển các mối quan hệ
Nhiều người không có những người bạn đúng nghĩa, theo cách nói của người Việt là
ít “bạn” mà nhiều “bè”. Đó là một thực tế. Đặc biệt là nam giới, thường chỉ ăn
nhậu với nhau vậy thôi, chứ thực sự chưa hẳn là bạn.
Bạn bè với nhau có thể do cùng mục đích, cùng quan điểm, cùng sở thích,… Thực
ra ai cũng có thể là bạn của nhau, dù khác nhau về niềm tin tôn giáo, nghề
nghiệp, sở thích,… nếu có lòng nhân đạo, tình yêu thương. Tình yêu thương vô
điều kiện, mà tình bạn là một dạng yêu thương, thế nên tình bạn không đòi hỏi
gì cả.
4. Khuyến khích người khác sống tốt
Nhân chi sơ tính bổn thiện. Sinh ra ai cũng có bản chất tốt. Chúng ta luôn phải
cố gắng vươn lên để đạt được điều tốt nhất, và phải nỗ lực tuân theo các giáo
huấn của Chúa trong mọi hoàn cảnh, cùng đích là Nước Trời. Lên trời một mình là
ích kỷ, nên chúng ta phải kéo người khác cùng lên. Thánh Phaolô nói: “Trong
cuộc chạy đua trên thao trường, tất cả mọi người đều chạy, nhưng chỉ có một
người đoạt giải. Anh em hãy chạy thế nào để chiếm cho được phần thưởng” (1 Cr
9:24).
TRẦM THIÊN THU
(Chuyển ngữ từ IgnitumToday.com)
nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Vấn đề lương tâm

Vấn đề lương tâm
Đăng bởi cheoreo lúc 3:13 Chiều 5/12/12
TRẦM THIÊN THU

VRNs (05/12/2012) – Sài Gòn- Tôi có anh bạn lớn hơn tôi 10 tuổi. Chúng tôi gặp nhau hằng tuần cùng uống cà-phê và phiếm đàm nhiều chuyện – từ tôn giáo đến xã hội, từ giáo dục tới kinh tế, từ giao tế xã hội tới đạo hiếu gia đình,… Thậm chí chúng tôi trao đổi cả về cuộc đời và sự chết.

Khoảng 10 năm trước, xe tôi hư, muốn sửa xe mà không quen ai, sợ gặp thợ “vô tâm” làm ẩu và “chém đẹp”. Đứa cháu nói có ông già sửa xe trên khúc đường gần tới nhà
thờ, và nó “láy” một câu: “Ông ấy khó tính lắm”.
Một lần, hai lần, rồi nhiều lần. Tôi đến “ông già” để sửa xe. Cứ thế thành quen,
rồi thân. Tôi nói với đứa cháu: “Có thấy ông ấy khó tính gì đâu!”. Cứ khoảng
hai hoặc ba tuần tôi không ghé là ông lại nhắc: “Lâu quá không ghé, tưởng đi
đâu xa rồi chứ. Nói thật lòng, không thấy Đông ghé tôi cũng thấy nhớ”. Tôi ghé
tiệm sửa xe của anh có khi không sửa xe mà chỉ để phiếm đàm sự đời, tâm sự với
nhau cho quên “khổ ải trần gian” vậy thôi.
Có lần anh nói: “Có những người giàu, buôn bán lấy lời thẳng tay. Có khi lời gấp
đôi, gấp ba lận. Mà không phải người bình thường đâu, họ là con cha cháu ông
đó. Mình nghèo thật, nhưng sửa xe cho khách mà lấy mắc hơn một vài ngàn, đêm
nằm suy nghĩ thấy áy náy lắm. Áy náy thật chứ không giỡn nha”. Tôi cười: “Vậy
chứ sao. Có lẽ vậy nên họ giàu. Mình nghèo có khi còn bị cho là chảnh”.
Đó là vấn đề lương tâm. Có người áy náy vì chuyện rất nhỏ, nhưng có người không hề
áy náy vì chuyện lớn. Lương tâm mỗi người đều có những mức độ khác nhau: Đúng
đắn hay sai lệch? Trong sáng hay chai lì? Còn thức hay đã ngủ? Và người ta
thường “chua cay” nói: Lương tâm không bằng lương tháng. Vâng lương tâm có răng
đâu mà cắn rứt!
Tin tức cho biết: Trên đường Bùi Thị Xuân (Q. 1, TPHCM), hai xe máy va quẹt chưa
xảy ra nguy hiểm nào, nhưng chỉ vì một lời nói không lọt tai mà một thanh niên
đã hung hãn giết hai người chết tại chỗ. Nghe TIN mà TỨC. Do đó mà người ta gọi
là… tin tức.
Rồi trên xe buýt chạy tuyến QL 13 đi Bình dương, một đạo tặc “hai ngón” bị bà già
ngăn cản liền đâm vào mặt bà. Hai thanh niên thấy vậy nên ra tay nghĩa hiệp
cũng bị hắn đâm, một anh bị đâm vào lưng và một anh bị đâm vào đùi.
Đọc báo Tuổi trẻ mà… giật mình, không thể tưởng tượng nổi khi các “cô chiêu, cậu
ấm” của các đại gia còn xài sang hơn “công tử Bạc Liêu” xưa: Họ điểm tâm sáng
vài trăm triệu đồng VN, buổi tối họ vào các bar chi khoảng vài ngàn USD. Với
họ, như vậy là… chuyện nhỏ, và như vậy mới chứng tỏ “đẳng cấp”!
Nhưng, tháng 8/2010, anh lái tàu hỏa tên Thức – với 20 năm kinh nghiệm – đã nhanh chóng quyết định dùng cách khác để thắng đoàn tàu khi gặp sự cố, dù anh biết
nguy hiểm cho tính mạng mình. Anh bị trọng thương, dập nát hai chân và dập lá
lách, nhưng anh đã cứu sống hơn 300 hành khách. Lái tàu có cách thắng khác
không nguy hiểm cho mình, nhưng có thể nguy hiểm cho cả đoàn tàu. Anh đã chọn
phần nguy hiểm về phần mình. Anh có vợ và con gái. Nhà nghèo, chiếc xe máy cũng
chưa mua được, nhưng anh Thức vẫn hoàn toàn là con người vĩ đại với một lương
tâm trong sáng.
Giữa đêm tối bao phủ dày đặc, một que diêm lóe sáng cũng đủ để người ta nhìn thấy.
Cũng vậy, một động thái dù rất nhỏ cũng đủ người khác nhận ra. Muốn giỏi một
ngoại ngữ, người ta cần đan quyện cả 4 kỹ năng: Nghe, Nói, Đọc (hiểu), Viết.
Cuộc sống cũng cần các kỹ năng tương tự vậy. Hymans nói: “Giá trị mỗi con người
tùy thuộc lý tưởng cao hay thấp mà mình theo đuổi”.
M. Blanchecotte nói: “Hãy tưởng như mình sắp chết và hãy hành động như mình bất
tử”. Quả thật, trong con người luôn có sự giằng co mãnh liệt, do đó “nghĩ đúng,
nói đúng, vậy cũng chưa đúng, mà còn phải làm đúng” (Lachausser). Cuộc sống
phải tích cực và dứt khoát, không được tiêu cực hoặc lừng khừng, vì Chúa nói:
“Ngươi hâm hẩm, chẳng nóng chẳng lạnh, Ta sẽ mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh
3:16).
Nói đến lương tâm là hiểu ngầm có sự giằng co trong mỗi con người. Điều quan trọng
là chúng ta chứng tỏ bằng chính hành động cụ thể, đừng nghĩ rằng “vắng mợ thì
chợ vẫn đông”. Chân phước Nữ tu Teresa Calcutta đã chia sẻ: “Chúng ta cảm thấy
những gì chúng ta làm chỉ là một giọt nước trong đại dương. Nhưng đại dương sẽ
ít đi vì thiếu giọt nước đó” (We ourselves feel that what we are doing is just
a drop in the ocean. But the ocean would be less because of that missing drop).
Lạy Chúa, xin tạo cho chúng con trái tim trong sạch, lương tâm trong sáng, và giúp
chúng con can đảm hành động. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô,
Thiên Chúa của chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU

Ba bài giảng sám hối

Ba bài giảng sám hối

(Mùa Chay, tháng 4/1990)

Nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp – DCCT

(đường Kỳ Đồng, Sài Gòn)

 

Bài giảng thứ hai

Sám hối tập thể Giáo hội

nguồn: chuacuuthe.com

Hôm qua, ta đã đề cập đến sám hối cá nhân: thường ta dựa vào lề luật để xét mình và sám hối (Mười điều răn Thiên Chúa, Sáu điều răn Hội thánh). Tôi đã lưu ý anh chị em việc sám hối dựa trên căn bản của một Kitô hữu: lời gọi nên hoàn hảo của Chúa Kitô và ba chức năng của Kitô hữu (tư tế, ngôn sứ và vương đế).

Hôm nay, ta đề cập đến sám hối tập thể Giáo hội dựa trên mầu nhiệm và sứ mạng của Giáo hội.

1. Mầu nhiệm Giáo hội:

Trong Hiến chế về mầu nhiệm giáo hội, Công đồng Vatican nói: “Ánh  sáng thế gian chính là Đức Kitô, do đó Giáo hội phải phản chiếu ánh sáng ấy cho muôn dân, khi rao giảng Tin mừng cho mọi người. Giáo hội là bí tích của Chúa Kitô, vừa là dấu hiệu, vừa là phương tiện để mật thiết kết hợp với Chúa và hợp nhất nhân loại với nhau. Vì thế giáo hữu phải biết rõ đặc tính và sứ mạng Chúa Kitô đã giao phó cho Giáo hội”.

Ý Chúa Cha là cứu độ mọi người: Thiên Chúa muốn nâng mọi người lên tham dự đời sống Thiên Chúa. Con người sa ngã, Chúa Kitô cứu độ. Thiên Chúa muốn những ai tin Chúa Kitô hợp thành Giáo hội. Chúa Kitô lập Giáo hội. Chúa Thánh thần hoàn tất.

Giáo hội nhiệm thể Chúa Kitô: Chúa Kitô là đầu. Một thân mình, nhiều chi thể. Đòi hỏi sự thống nhất trong sự khác biệt các chi thể trong Giáo hội có cố gắng xây dựng sự hợp nhất và tôn trọng sự khác biệt các chi thể.  Để cho Chúa Kitô là đầu lãnh đạo Giáo hội qua lời Ngài không bị bóp méo. Tôntrọng giám mục, không thể cho một đoàn thể nào trong Giáo hội dựa vào quyền lực để điều khiển sinh hoạt của Giáo hội. Tinh thần Đức Kitô hay tinh thần thế gian chạy theo chiều gió chi phối Giáo hội? Giáo hội là một thân thể có phần vô hình và hữu hình, ta làm gì để phát triển? Có phấn đấu để có điều kiện phát triển?

2. Sứ mạng của Giáo hội

+ Chức năng tư tế:

Giáo hội là dân riêng mới của Thiên Chúa, với giao ước mới trong Máu Chúa Kitô, Thượng đế, trao quyền cho hàng Giáo phẩm, ngoài chức tư tế cộng đồng của toàn thể tín hữu và của mỗi tín hữu như đã nói hôm qua.

Giáo hội Việt Nam đã làm gì, đã phấn đấu như thế nào để thực hiện chức năng tư tế của hàng giáo phẩm?

Để bảo đảm chức năng tư tế ta cần:

+ Đào tạo linh mục: tự do lập chủng viện, chọn giáo sư, chọn chủng sinh, chọn chương trình đào tạo.

+ Thuyên chuyển linh mục coi xứ, phong giám mục, linh mục.

+ Tổ chức phụng tự, thánh lễ, cầu kinh có được tự do chưa? Đã phấn đấu như thế nào?

Phải nói đến nay, ta chưa phấn đấu đủ, không phải âm thầm năn nỉ ỉ ôi, mà công khai cho dư luận biết.

+ Chức năng ngôn sứ:

Tự do rao giảng Tin Mừng, giáo lý tân tòng, trẻ em? sách vở báo chí? Kinh Thánh? Giáo hội Việt Nam có nói thẳng nói thật với chính quyền về những vi phạm tự do tôn giáo? Có lên tiếng bênh vực nhân quyền, dân quyền? Hiến chế về Giáo hội trong thế giới ngày nay nói: “Nỗi vui mừng và niềm hy vọng, những buồn khổ và mối lo âu của con người hôm nay, cách riêng của những người nghèo và tất cả những ai đang đau khổ, đó cũng là vui mừng và hy vọng, đau buồn và lo âu của môn đệ Chúa Kitô: Không có gì liên quan đến nhân loại mà không  có tiếng vang trong cõi lòng tín hữu Chúa Kitô. Cộng đồng Kitô hữu gồm những con người, được họp lại trong Chúa Kitô, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn trên đường về nước Cha, họ mang sứ điệp cứu độ phải được gửi đến cho tất cả Cộng đoàn tín hữu cảm thấy thực sự và sâu xa liên đới với con người lịch sử nhân loại.”

Trong tinh thần phục vụ con người, Giáo hội Việt Nam cần xét mình lại xem mình có thực sự và sâu xa liên đới với con người Việt Nam hôm nay.

Người Việt Nam hôm nay hy vọng và lo âu cái gì? Họ lo âu trước tình trạng xã hội tan rã trên mọi phương diện: trong đó họ bị tước đoạt những quyền căn bản của con người và người dân. Con người sinh ra bình đẳng và tự do, có tất cả những quyền căn bản của con người mà Thiên Chúa ban cho họ, thêm vào đó ngày 10/12/1948 Liên Hiệp Quốc đã ra Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền có đoạn nói như sau:

“Xét rằng thừa nhận phẩm giá cố hữu những quyền bình đẳng và bất khả nhượng của con người trong đại gia đình thế giới là đặt nền tảng cho tự do, công lý và hòa bình thế giới.”

“Xét rằng vì không biết rõ và khinh miệt nhân quyền nên loài người đã có những hành động dã man đối với lương tâm và xét rằng sự tiến tới một thế giới trong đó nhân loại sẽ được hưởng tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng và tự do sinh sống không phải sợ hãi và thiếu thốn, đã được tuyên bố là nguyện vọng cao cả nhất của con người.”

“Xét rằng điều tối cần là nhân quyền phải được pháp luật che chở, nếu muốn cho loài người không bao giờ phải dồn đến phương tiện nổi loạn, để chống lại sự tàn bạo và áp bức… Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc công bố bản Tuyên ngôn Quốc tế này như là một lý tưởng chung cho các dân tộc và các quốc gia phải tiến tới.”

Tiếp đó bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền đưa ra 30 điều về nhân quyền:

– Quyền được hưởng tự do và an ninh cá nhân (3),

– Quyền không bị hành hạ hay ngược đãi, bị đối xử hay trừng phạt một cách vô nhân đạo, làm hại phẩm cách con người (5),

– Quyền được bình đẳng trước pháp luật, được pháp luật bảo vệ (7),

– Quyển khỏi bị bắt bớ, bị lưu đày một cách trái phép (9),

– Quyền được xét xử bình đẳng trước một tòa án vô tư và độc lập (10),

– Quyền được coi như vô tội khi bị truy tố mà chưa có tòa xét xử với bằng chứng để buộc tội (11),

– Quyền không được xúc phạm trái phép đến đời tư, gia quyến, nhà ở, thư từ (12),

– Quyền được tự do di chuyển và trú ngụ bất cứ nơi nào trong nước họ và quyền tự do rời bỏ bất cứ nơi nào, kể cả xứ mình, hoặc trở về xứ mình
(13),

– Quyền tự do kén chọn một quốc tịch theo ý muốn (14),

– Quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng (18),

– Quyền tự do bày tỏ ý kiến, tự do tìm kiếm, thu nhận và truyền bá những quan niệm và ý tưởng của mình (19),

– Quyền tự do hội họp và lập hội để theo đuổi mục tiêu hòa bình và không bắt buộc ở trong một hội nào (20),

– Quyền bầu cử tự do (21),

– Quyền hưởng an sinh xã hội (22),

– Quyền làm việc, quyền tự do lựa chọn việc làm của mình, quyền hưởng số lương phải chăng và đủ để bảo đảm cho mình và cho gia đình một đời sống xứng đáng với phẩm giá con người, mọi người có quyền lập và gia nhập nghiệp đoàn để bảo vệ những quyền lợi của mình (23),

– Quyền hưởng một mức sống đầy đủ cho sức khỏe và hạnh phúc của mình, của gia đình mình, quyền hưởng tiện nghi giáo dục, y tế (25),

– Quyền cha mẹ lựa chọn giáo dục cho con cái (26)…

Giáo hội Việt Nam trong đó có Hội đồng Giám mục Việt Nam, các giám mục địa phận, các linh mục, tu sĩ và giáo dân, Giáo hội Việt Nam đã làm gì, đã lên tiếng khi thuận khi nghịch, khi âm thầm khi công khai, để người ta trả lại những quyền căn bản của con người cho con người Việt Nam hôm nay?

Phải nói là đau lòng khi thấy Giáo hội quá âm thầm chịu đựng và không dám nói thẳng, nói thật. Có nói âm thầm không, chắc cũng có, nhưng như  đi xin ân huệ, năn nỉ ỉ ôi, trả giá, còn công khai thì thật là hiếm. Còn có ông vỗ ngực đại diện giới công giáo đã vung vít tuyên bố một câu nghe xanh rờn như một lời tuyên xưng đức tin vào Đảng Cộng sản Việt Nam, tại buổi họp khoáng đại của Quốc hội (7/7/1976): “Tôi xin phép nói lên tâm tình của một linh mục công giáo (…), báo cáo chính trị (của Quốc hội) càng làm ta xác tín thêm hơn nữa rằng con người mới, xã hội mới mà mọi người đều mơ ước, mà mọi người tin vào Chúa Kitô mãi mơ ước, con người mới đó, xã hội mới đó không thể có được, nếu không có Đảng Lao động Việt Nam (Đảng CSVN), đội tiền phong của giai cấp công nhân lãnh đạo và tổ chức.”

Không biết linh mục ấy đã ân hận chưa? Có lẽ đã ân hận, vì những gì mắt thấy tai nghe, không thể mù, không thể điếc được thì phải nhức nhối lắm.Nhưng có sám hối chưa? Chưa thấy. Đã công khai nói như thế nào, thì sự sám hối cũng phải công khai.

Một vị ‘yêu nước’ khác lại tuyên bố nào là Nước Thiên Chúa đã đến với chế độ CSVN, nào là Đảng CSVN tạo điều kiện cho ta giữ đạo. Đó là những lời nịnh bợ vô liêm sỉ, khi Giáo hội đang bị bóp chết bằng cách giới hạn đào tạo linh mục, đóng cửa các nhà đào tạo tu sĩ, cấm in sách vở báo chí Công giáo, việc dạy giáo lý bị giới hạn, việc thờ phụng có nơi làm khó dễ, linh mục đi lại giảng đạo nơi khác bị cấm đoán, các hội đoàn tông đồ giáo dân, công tác xã hội giáo dục bị loại bỏ.

Còn một vài vị trong hàng lãnh đạo của Giáo hội Việt Nam hoặc ngây thơ vô tội, hoặc có tính toán, nên người ta ‘cho phép’ cái không cần ‘xin phép’ thì cuống quít coi như ân huệ và khen lấy khen để ông nào đó như câu: “Người  tốt lắm, người chân thành lắm.” Trên đất nước này, người ta coi mọi nhân quyền và dân quyền là ân huệ ngưởi ta có thể ban cho, có thể giới hạn, có thể mở rộng, có thể rút lại. Họ coi họ hơn cả Thiên Chúa – Thiên Chúa ban cho con người tự do và không bao giờ rút lại, kể cả khi còn người phản bội Ngài, đóng đinh con của Ngài. Giáo hội phải đòi hỏi người ta trả những quyền căn bản của con người, chứ không có vấn đề xin xỏ, năn nỉ, ỉ ôi.

+ Chức năng vương đế:

Giáo hội Việt Nam phải phấn đấu để thực thi quyền phục vụ con người và Thánh Kinh gọi là quyền vương đế. Phục vụ người nghèo, người đau khổ, người bị bóc lột, người bị áp bức. Một mục sư như Martin Luther King đã bị ám sát ở Hoa Kỳ vì bảo vệ quyền người da đen, chống phân biệt chủng tộc. Giám mục Roméro và sáu linh mục dòng Tên đã bị ám sát ở Salvador vì bênh vực những người  áp bức. một hồng y như Wyszynski ở Balan đã gặp nhiều khó khăn vì bênh vực Giáo hội, một hồng y khác như Tomasek ở Tiệp Khắc đã phấn đấu cho Giáo hội như lời ngài tuyên bố trước 200 ngàn người biểu tình tại Praha ngày 21/11/1989 và đã được đọc tại các nhà thờ ngày chủ nhật 26/11/1989.

Sau khi đề công chúa Anê miền Bohêmia của Tiệp Khắc vừa được Đức Giáo chủ Gioan Phaolô II phong lên hiển thánh là một người tuy tu trong một đan viện vì lòng mến Chúa yêu người, nhưng không ngừng ở cạnh dân mình trong những giờ phút vinh quang cũng như trong những lúc tủi phận, Đức hồng y Tomasek nói:

“Về phần tôi, tôi không thể nào tỏ ra xa lạ với định mệnh quốc gia chúng tôi và toàn thể đồng bào đất nước tôi. Tôi không thể im lặng trong lúc tất cả anh chị em đang hợp lực với nhau để phản đối những bất công mà anh chị em phải chịu từ 40 năm nay, người ta không thể duy trì lòng tín nhiệm đối với giới lãnh đạo quốc gia không muốn nói sự thật và đối bỏ các quyền tự do của nhân dân với truyền thống có từ hàng ngàn năm nay, những quyền này vẫn được coi là những quyền bình thường trong những quốc gia trẻ trung hơn trong đất nước ta.”

Rồi ngài kể lại bao nhiêu lần Giáo hội gởi đến Nhà nước những lời khiếu nại nhưng Nhà nước đã làm ngơ, Giáo hội tiếp tục lệ thuộc Nhà nước theo những điều hạn chế được áp đặt trên Giáo hội thời Staline. Trong việc cai quản giáo phận, các giám mục hoàn toàn lệ thuộc Nhà nước và lời nói quyết định trong vấn đề này dường như vẫn là lời nói của cơ quan mật vụ, những cuộc hội họp của các giám mục và linh mục đều bị cản trở vì sự hiện diện của các đại diện Nhà nước trong các buổi họp, bầu không khí thiếu tự do, các tín hữu trưởng thành cũng như con cái họ và nhất là các bạn trẻ công giáo thật khó thở…

Tình trạng đau buồn tương tự như thế cũng xảy ra trong các lãnh vực khác của đời sống, trong lãnh vực văn hóa, thông tin.

Rồi ngài kết luận: “Tôi muốn ngỏ lời với tất cả anh chị em trong giờ phút quyết liệt này của lịch sử của chúng ta. Không ai trong anh chị em được đứng ngoài lề. Hãy lên tiếng hợp với tất cả công dân Tiệp Khắc, cùng với những người thuộc sắc tộc khác, dầu họ là tín hữu hay không có ngưỡng. Quyền tự do tín ngưỡng không thể tách rời khỏi những quyền dân chủ khác, tự do là điều không thể phân chia được.”

Những lời tuyên bố trên đây của Đức Hồng y Tomasek làm cho tôi suy
nghĩ. Và tôi cũng để cho anh chị em suy nghĩ, sau khi tôi đã phân tích tình
trạng thiếu phấn đấu của Giáo hội Việt Nam cho tự do tôn giáo và cho nhân quyền
và dân quyền của người dân Việt nam hôm nay. Mong rằng Giáo hội Việt nam
sẽ sám hối về những điều thiếu sót đó.

Để kết thúc, tôi đưa ra lời nói cuối cùng của hồng y Tomasek trong buổi mít tinh kể trên. Ngài nói : “Tôi xin chấm dứt nơi đây với những lời đã từng vang dội đã lâu trong lịch sử của chúng ta: Với sự trợ giúp của Thiên Chúa, số phận của chúng ta ở trong tay chúng ta. “Amen”.

 

Lm. Chân Tín

ÁO DA,

ÁO DA,

Mẹ tặng cha cho chiếc áo da,
Mặc bốn mùa qua vẫn đẹp ra,
Thân con ấm lạnh cùng năm tháng,
Giữ mãi tình yêu đậm nét ngà…
Ngày đêm chải chuốt cho thêm sáng,
Nắng cháy mưa dầm chẳng dám than,
Băng rừng vượt dốc qua đồi núi,
Áo vẫn liền da thật mượt mà…
Đời con khắng khít cành liền lá,
Sống chết bên nhau chẳng nở xa,
Đồng lòng hợp tác không chia rẽ,
Áo mặc muôn ngày… áo Mẹ Cha…
Liverpool.3/12/2012.
Song Như.
Kính gởi Quý Thầy Cô và các bạn LVC.