50 năm trước: Bóng người hòa bình – ĐGH Gioan XXIII trong những ngày thế giới gần bờ vực đại chiến (2)

50 năm trước: Bóng người hòa bình – ĐGH Gioan XXIII
trong những ngày thế giới gần bờ vực đại chiến (2)

Đăng bởi lúc 2:58 Sáng 8/01/13

nguồn: chuacuuthe.com

VRNs (08.01.2013) – Sài Gòn – 20/10/1962 – Trong lúc các nghị phụ muốn
gửi đến mọi người một niềm tin để chia sẻ và hy vọng, thì ở Mỹ, Kennedy đột
ngột chấm dứt chuyện đi vận động bầu cử. Ông cảm thấy đã đến lúc phải quyết
định. Viện cớ cảm cúm, ông vội vã bay vềWashington họp với ban tham mưu trong
năm tiếng đồng hồ.

Nội bộ ban tham mưu này vẫn có một phái siêu diều hâu. Thường họ là những quân
nhân, tướng lãnh. Họ vẫn chủ trương tổng tấn côngCuba. Không những đánh vào các
hỏa tiễn, mà hủy diệt luôn mấy chục máy bay cường kích của Liên Xô đang đậu ở
những phi trườngCuba. Theo họ, cần đánh ngay, càng để lâu càng khó, vì họ tính
đến  tháng 12, Liên Xô sẽ trang bị được khoảng năm mươi đầu đạn hạt nhân
trên các hỏa tiễn ở Cuba.

Quan điểm của giới chính trị thì thận trọng hơn và có phần ưu thắng. Giới này cũng
dứt khoát đòi loại bỏ các đầu đạn hạt nhân khỏiCuba. Nhưng họ chủ trương một lộ
trình dài hơn, bớt nguy hiểm tí chút, và cũng phức tạp nữa. Họ chủ trương lúc
đầu sẽ phong tỏa và cấm vậnCuba, nếu không hiệu quả mới tính tới các biện pháp
chiến tranh. Nhân vụ phong tỏa và cấm vận gây chấn động quốc tế, sẽ mở cuộc
thương thuyết  với Liên Xô. Ðã bắt đầu có ý kiến Mỹ có thể dỡ bỏ các hỏa
tiễn mang đầu đạn hạt nhân ở Ý và Thổ Nhỉ Kỳ, đổi lấy việc Liên Xô dỡ bỏ tên
lửa ởCuba. Nhưng cũng có ý kiến cứng rắn muốn cảnh cáo Liên Xô trước rằng nếu
các tên lửa ởCubakhai hỏa, Mỹ cũng sẽ cho mưa bom hạt nhân trên lãnh thổ rộng
lớn của Liên Xô. Bất luận đánh giá ra sao về tương quan lực lượng võ trang sau
khi Liên Xô bố trí tên lửa ở Cuba, điều tất cả các khuynh hướng trong giới cầm
quyền ở Mỹ đều lo sợ là một thái độ yếu mềm, thấp cơ của Mỹ trước Liên Xô sẽ
làm suy yếu địa vị lãnh đạo của Mỹ đối với phương Tây, đặc biệt là đối với các
nước Châu Mỹ La Tinh, nơi đang có nhiều tầng lớp tả phái bất mãn muốn đi theo
con đường Cuba. Do đó, Mỹ cần phải cương quyết.

21/10/1962 – Kennedy vẫn họp cả ngày với ban tham mưu. Có một lúc ông
hỏi tướng tư lệnh bộ chỉ huy không quân chiến thuật: “Ðánh một đợt đầu có xóa
sạch hết các hỏa tiễn không?”. Trả lời: “Chỉ xóa bỏ được những hỏa tiễn mà
chúng ta biết”. Tổng thống lại hỏi: “Dự báo tổn thất nhân mạng là bao nhiêu, cả
các quân nhân lẫn dân sự?”. Trả lời: “Từ 10 đến 20 000”. Tổng thống nghiêng hẳn
về biện pháp phong tỏa và cấm vận, thay cho không kích.

Một chuyến bay U2 nữa phát hiện những máy bay oanh kích đang được lắp ráp khẩn
trương và thêm những địa điểm dàn trận tên lửa đang được xây cất ở bờ biển phía
Bắc Cuba.

Ngoài xã hội báo chí bắt đầu đánh hơi có chuyện bất thường. Họ còn dò la được là Liên Xô đã bố trí các võ khí tấn công chiến lược ởCuba. Tổng Thống Mỹ triệu tập các
chủ nhiệm của hai tờ báo lớn The New York Times và The Washington Post và yêu
cầu họ đừng nói gì nhiều về chuyện này, vì tiết lộ thì sẽ làm mất yếu tố bất
ngờ trong phản ứng của Mỹ, và khi ấy “tôi không biết người Liên Xô sẽ làm gì”.
Hai tờ báo lớn đồng ý.

Mỹ dự liệu ngày hôm sau 22/10 mới cho cuộc khủng hoảng nổ ra công khai.

22/10/1962Phiên họp Khoáng Ðại Thứ Tư của Công Ðồng. 2351 nghị
phụ tham dự. Ðức hồng y Gilroy (Sydney, Úc) chủ tọa. Công Ðồng bắt đầu đi vào
nghị trình chính thức. Và nghị trình này bắt đầu với một chủ đề nghĩ như chẳng
có tác dụng gì với chuyện hòa bình hay chiến tranh: vấn đề canh tân Phụng Vụ.
Xưa nay, những nghi lễ của Giáo Hội có ngăn cản được người đời chém giết nhau
bao giờ?

Thế nhưng đối với các tín hữu của Hội Thánh, vấn đề phụng vụ lại cực kỳ quan trọng,
quan trọng hàng đầu. Phụng vụ chính là mạch sống của đức tin. Ðó chính là cao
điểm nơi Hội Thánh gắn chặt, hòa nhập vào Chúa. Vào thời điểm thăng hoa rực rỡ,
lòng tin đã nở ra thành lời kinh, thành nghi thức phụng vụ. Vào những thời mạt
pháp (như đã từng xảy ra nhiều lúc, nhiều nơi trong lịch sử Giáo Hội) phụng vụ
vẫn có đó thì sớm hay muộn người ta sẽ tìm lại được mạch sống chân thật của đức
tin. Cộng đồng đức tin cứ bám vào phụng  vụ mà trôi nổi qua những thăng
trầm hiểm nguy của thế gian.

Vào thời Công Ðồng Vatican II họp, Phụng Vụ của Công Giáo Rôma rất đẹp, rất tôn
nghiêm, (ngày nay ở Việt Nam vẫn còn nhiều cụ già chịu ảnh hưởng sâu đậm của
nền phụng vụ này, chẳng hạn các cụ vẫn cảm thấy cái thấm thía của những giai
điệu và ca từ La Tinh bình ca, mặc dù các cụ không hiểu hết ý nghĩa). Tuy
nhiên, Phụng Vụ ấy cũng không khỏi mắc míu một số giới hạn. Có lẽ nguyên nhân
chính là từ cuộc khủng hoảng Tin Lành (thế kỷ XVI) và từ nỗ  lực của Giáo
Hội Công Giáo để khắc phục cuộc khủng hoảng ấy (giới sử gia thường gọi là Thời
Kỳ Phản Cải Cách, mà tiêu biểu là Công Ðồng Trento (1545-1563). Khi ấy Công
Giáo có nhu cầu bảo vệ sự hợp nhất bằng những kỷ luật nghiêm ngặt, trong phụng
vụ cũng như trong các lãnh vực khác. Nguyên nhân khác nữa là sự ưu thắng của
Môn Phái Kinh Viện trong thần học – và là một nền kinh viện  đã đi qua
khỏi thời kỳ đỉnh cao rồi – cũng tạo ra một thứ ngôn ngữ làm bay biến ít nhiều
những hương hoa Thánh Kinh, những lời nguyện chan chứa hồn nhiên của những thế kỷ đầu và của các Giáo Phụ. Tiếng La Tinh như ngôn ngữ bắt buộc trong phụng vụ cũng có vấn đề. Trong những thế kỷ xa xưa ở phương Tây, đối với các tầng lớp có
học, tiếng La Tinh chưa đến độ trở nên “tử ngữ” như bây giờ, nhưng đối với đại chúng bình dân thì đã là tiếng lạ, chả hiểu được. Bù lại, tiếng La Tinh có tính chính
xác, khúc chiết, góp phần đáng kể cho việc duy trì sự hợp nhất trong Công Giáo,
vào những lúc tư tưởng người ta nổi giông nổi gió, mâu thuẫn và tranh chấp nhau
quyết liệt.

Từ thuở đó, ba bốn thế kỷ đã qua. Thế giới đã biến đổi rất nhiều. Tâm trí con
người cũng tiến hóa. Ở những xã hội còn mạnh truyền thống, phụng vụ vẫn nuôi
dưỡng tinh thần đại khối tín hữu. Nhưng ở những xã hội mạnh về biến chuyển, đổi
mới, người ta cảm thấy giữa phụng vụ và đời sống có sự cách biệt. Ðồng thời
những giáo hội mới lớn mạnh ngoài phương Tây cũng đã có thời gian để nghiên cứu
chuyên sâu và nhận ra rằng có những cảm quan, những giá trị trong nền văn hóa
của riêng mình chưa tìm được sự thể hiện trong phụng vụ. Ðối với các nền văn
hóa mới trong Giáo Hội, khuôn khổ La Tinh hậu-Trento có vẻ xa lạ, khô khan….

Trong Giáo Hội vẫn có nhiều người nhận thức được những giới hạn trên đây. Từ cả trăm năm rồi, đã có phong trào nghiên cứu về nguồn Phụng Vụ. Tiền bán thế kỷ XX,
nhiều phong trào canh tân Phụng Vụ nổi lên ở Châu Âu. Kế đến, trong các miền
truyền giáo cũng có nhiều vị khai phá để đưa phụng vụ đến gần văn hóa các dân
tộc Á, Phi… Công Ðồng Vatican II là thời điểm để nhận định về các kết quả đã
đạt được. Thế là chẳng lệ thuộc gì lắm với  chuyện chính trị hay quân sự,
Công Ðồng tập trung sức lực vào vấn đề Phụng Vụ.

Sáng ngày 22/10 này, Ðức Hồng Y Larraona, Chủ Tịch Ủy Ban Trù Bị về Phụng Vụ, nói lời dẫn nhập. Ngài nói Hội Thánh phải đồng hành với thời đại của mình, cho nên
các nghi lễ cần thích ứng với nhu cầu của mọi quốc gia, dân tộc.

Liền sau đó đã có nhiều ý kiến quan trọng được phát biểu. Ða số các ý kiến đánh giá
tốt bản lược đồ dự thảo vì bản này đậm tính cách “quy Kitô”, nghĩa là làm nổi
rõ Mầu Nhiệm Cứu Ðộ trong Chúa Kitô; tín lý và lòng đạo cũng được diễn tả bằng
ngôn ngữ Thánh Kinh, đó là một lợi điểm lớn để tạo thông cảm với các Anh Em Ly
Cách. Và một hậu quả hợp lý là mở cửa cho việc xử dụng các ngôn ngữ phổ thông
trong phụng vụ, thay vì chỉ một tiếng La Tinh. Nhưng cũng từ đấy thấy lộ ra hai
khuynh hướng khác biệt trong Công Ðồng. Trước tiên là có những vị bảo thủ đã
cảm nghiệm sâu sắc cái hay, cái đẹp của Phụng Vụ như những thế kỷ cận đại đã
tạo ra, thì hầu như không muốn thay đổi một điều gì. Nói chung, các vị mục tử
giao tiếp hàng ngày với đại chúng, nghiêng về nhu cầu đổi mới; còn các vị
thường là cao niên làm việc quản trị ở giáo triều Rôma, hoặc các vị làm mục vụ
nơi những địa phương còn giàu tính cổ truyền thì thiên về hoài cổ. Hai khuynh
hướng này thường xung khắc với nhau về hai vấn đề: một là bắt buộc hay không
bắt buộc xử dụng tiếng La Tinh trong Phụng Vụ? Hai là có nên trao rộng quyền
cho hàng giám mục từng vùng miền hoặc quốc gia được đưa ra những quy định về
Phụng Vụ, hay phải để các vị ở giáo triều Rôma độc quyền quyết định mọi sự?
Những nguyên lý cũng như nhiều điểm cụ thể còn được tiếp tục thảo luận đôi khi
rất gay go trong hai tuần lễ nữa. Hội Thánh được hợp thành bởi nhiều con người,
muôn người muôn vẻ, mỗi người hay mỗi nhóm người đều có những cảm nghiệm và giá trị của mình. Tìm ra chỗ đứng chính đáng cho mọi cảm nghiệm, mọi giá trị trong lòng Hội Thánh có thể có nhiều ẩn số, có thể có hỷ nộ, tranh cãi đau đớn trước
khi tìm ra lối đi đúng hướng. Ngày nay dù đã có được Hiến Chế của Công Ðồng
Vatican II về Phụng Vụ, với nhiều kết quả phong phú đã phát sinh, có những điều
tranh cãi từ ngày đó vẫn chưa hoàn toàn nguôi ngoai trong Giáo Hội. Ðó là thân
phận của Hội Thánh lữ hành ở thế gian.

Nhưng trong ngày Công Ðồng bàn việc phụng vụ thiêng liêng, thế gian bắt đầu cảm thấy một cơn địa chấn lớn.

Hôm nay ở Washington, Tổng Thống Kennedy đích thân điện đàm  với các tổng
thống nhiệm kỳ trước, Herbert Hoover (1929-1933), Harry Truman (1945-1953) và
Dwight Eisenhower (1953-1961) để báo cáo  với các vị về tình hình nghiêm trọng và khẩn trương. Sau đó, ông Kennedy ký quyết định chính thức thành lập Nhóm Hành Ðộng Excomm, nhóm này từ nay sẽ họp thường trực mỗi ngày suốt thời gian khủng hoảng.

5g chiều: Tổng Thống gặp các thủ lãnh lưỡng viện quốc hội để thông báo tình hình.
Hóa ra các vị dân cử lại tỏ ra cứng rắn hơn tổng thống, họ đòi oanh kích Cuba,
lập trường này có thể phản ảnh tâm lý của dân Mỹ hồi đó, nhưng ông Kennedy
cương quyết chủ trương phong tỏa và cấm vận trước.

Cũng vào lúc này, các đặc sứ cao cấp của Mỹ đến gặp các vị nguyên thủ các nước đồng
minh để thông báo tình hình. Còn ở Matxcơva, Ðại Sứ Mỹ Kohler đến gặp Thủ Tướng
Liên Xô Nikita Khushchev để chuyển giao nội dung bài diễn văn ông Kennedy sắp
đọc. Trong thư gửi Thủ Tướng Liên Xô trước khi đọc diễn văn, Kennedy viết: “Tôi
thiết tưởng trong thời đại hạt nhân ngày nay, dù Ngài, hay bất cứ ai khác,
không một người nào có tinh thần tỉnh táo lành mạnh lại có thể cố tình cố ý dìm
thế giới vào một cuộc đại chiến. Ðã thấy rõ như pha lê rằng trong cuộc chiến đó
không nước nào có thể thắng, mà chỉ có những hậu quả thảm họa cho toàn thể
giới, kể cả cho người gây chiến”.

7g tối: Tổng Thống Kennedy đọc diễn văn truyền thanh và truyền hình toàn quốc. Ông  thông báo tình hình, phê bình Thủ Tướng và Ngoại Trưởng Liên Xô đã không
nói thật, rồi tuyên bố: “Chúng ta không còn sống trong một thời mà chỉ có khai
hỏa thật sự bằng khí giới mới được kể là thách thức nền an ninh của một quốc
gia và tạo ra nguy cơ tột cùng. Võ khí hạt nhân có sức công phá lớn và hỏa tiễn
đạn đạo thì bay mau đến độ bất cứ một sự gia tăng đáng kể nào về khả năng xử
dụng, hoặc bất cứ sự thay đổi đột ngột nào về thế trận đều rất có thể phải coi
là một đe dọa thực sự cho hòa bình”.

“Nếu không cần thiết thì chúng ta không vội liều mình trả giá cho một cuộc chiến
tranh hạt nhân trên toàn thế giới, bởi dù có chiến thắng thì kết quả cũng chỉ
như mùi vị tro tàn trong miệng, nhưng chúng ta cũng không né tránh hiểm nguy
bất cứ khi nào phải đối mặt”.

Sau đó Tổng Thống Mỹ công bố các quyết định:

+Từ nay sẽ cấm vận ngặt nghèo đối với mọi trang thiết bị quân sự tấn công được
chở tới Cuba. Mọi loại tàu bè, bất luận từ nước nào hoặc cảng nào đi Cuba, nếu
phát hiện có chuyên chở các võ khí tấn công, sẽ bị đẩy lui.

+Chính sách của Hoa Kỳ là bất kỳ hỏa tiễn hạt nhân nào phóng đi từ Cuba để đánh
vào bất cứ nước nào ở Tây Bán Cầu sẽ bị coi là sự tấn công của Liên Xô vào Hoa
Kỳ, khiến cho Hoa Kỳ sẽ đáp trả toàn lực vào Liên Bang Xô Viết.

Cuối cùng ông Kennedy kêu gọi Thủ Tướng Khrushchev chấm dứt và bãi bỏ chính sách đặt hỏa tiễn Liên Xô ởCuba.

Ðang khi Kennedy  đọc diễn văn thì Không Quân Mỹ trên khắp thế giới đã được đặt
trong tình trạng báo động cấp 3 (Quân Lực Hoa Kỳ có 5 cấp báo động: cấp 5, báo
động xanh lam là tình trạng bình thường; cao nhất là cấp 1, báo động trắng, là
tình trạng cận kề chiến tranh hạt nhân. Cấp 3, báo động vàng, thì các máy bay
của không quân phải sẳn sàng ứng chiến sau 15 phút).

Bài diễn văn chưa đầy 30 phút của Kennedy đặt toàn thế giới trước nguy cơ thế chiến
thứ 3. Hiển nhiên Liên Xô không thể tuân hành lệnh cấm vận của Mỹ. Còn Mỹ đã
quyết liệt và long trọng ban hành lệnh cấm vận rồi thì cũng không thể lùi lại.
Ðụng độ giữa hai siêu cường sẽ xảy ra chỉ trong một vài ngày nữa, vì một đoàn
tàu Liên Xô đang vượt Ðại Tây Dương để sangCuba. Ðúng như Ðại Sứ Mỹ ở Liên Hợp
Quốc Adlai Stevenson tuyên bố: “Từ khi Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt, chưa bao giờ
thế giới đến gần một cuộc chiến tranh hạt nhân như vậy”.

Nhưng vượt  ra ngoài mọi tính toán của các giới chính trị và quân sự, tình hình
hiểm nghèo này lại mở ra một cánh cửa bất ngờ để Ðức Giáo Hoàng Gioan XXIII
bước vào. Thật ra ngài không hề dự tính trước. Ngài cũng bất ngờ như hầu hết
mọi người trên thế giới trước cuộc khủng hoảng. Một chuỗi hoàn cảnh khiến cho
người có đức tin cảm thấy có bàn tay Thiên Chúa Quan Phòng ….

Vũ Khởi Phụng

(còn tiếp)

 

Chân Tín: Luồng gió mới – Giáo hội của con người (2)

Chân Tín: Luồng gió mới – Giáo hội của con người (2)

Đăng bởi lúc 2:35 Sáng 8/01/13

nguồn: Chuacuuthe.com

VRNs (08.01.2013) – Sài Gòn

Giáo hội của con người

Giáo hội là Nước Trời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga,18,36). Quả quyết rõ rệt ấy của Chúa Cứu Thế có thể kể là một trong những chân lý căn bản của Giáo hội. Nó lật đổ lập trường của những kẻ muốn chỉ kể Giáo hội như một thứ màu mỡ để bón ruộng trần gian: muốn vào Giáo hội, chỉ cốt để có một uy thế chính trị, để có một đường lối cách mạng lợi hại, là chưa hiểu gì về Giáo hội; muốn vào đạo Công giáo để kiếm đất thí nghiệm cho một hệ thống, để tìm hứng cho một ngòi bút, đường sơn, phím đàn, là đã lầm đường; muốn Giáo hội phải đặt tất cả tâm lực vào việc sửa sang nhà cửa, đường sá cho con cháu loài người, xây dựng một xã hội, một trật tự vật
chất đầy đủ hơn trê mặt đất như chủ nghĩa Mác chủ trương cũng là lạc lối.

Giáo hội là Nước Trời. Nhưng có phải  vì thế mà chúng ta lại bước qua một thái cực lố lăng khác? Nước Chúa không thuộc về thế gian có phải là bắt buộc không liên lạc gì với trần gian? Giáo hội  bị buộc phải giam mình trong nhà thờ, nhà xứ, không thiết gì đến cái cảnh phức tạp, gay cấn xung quanh mình? Thái độ này cũng là một sự sai lầm nguy hại mà chính Đức Giáo hoàng Piô XII đã lên án: “Giáo hội không thể tự đóng kín bất động sau những bức tường kín của các thánh đường thoái thác khỏi sứ mệnh Thiên Chúa an bài, đã giao phó và đào luyện con người toàn diện và bởi đó luôn mãi
góp phần vào việc đặt một nền móng vững chãi cho xã hội. Sứ mệnh đó rất thiết
yếu cho Giáo hội” (Diễn văn đọc trước Hội đồng các hồng y ngày 20/2/46).

Sứ mạng đào luyện con người toàn diện ấy, Giáo hội đã thực hiện trên mọi lãnh vực, cách riêng trên lãnh vực xã hội. Để chứng minh điều đó, chúng ta chỉ đưa mắt về 70 năm qua, thì đủ thấy Giáo hội đã hoạt độngmạnh mẽ để đem lại cho con người, cách riêng cho giới lao động, một cuộc đời xứng đáng hơn.

Năm 1891, Đức Lêô XIII được gọi là “Giáo hoàng của giới lao động” đã ra bức thông điệp Rerum novarum, đề cập đến vấn đề thợ thuyền và những bổn phận của mọi người đối với giới lao động. Thông điệp này đã có tiếng dội lớn lao trên thế giới.

Qua năm 1931, để kỷ niệm tứ thập niên thông điệp Rerum novarum, Đức Piô XI ra thông điệp Quadragesino anno, nhắc lại cho thế giới biết Giáo hội có quyền và bổn phận tìm một giải pháp cho vấn đề xã hội hiện đang đe dọa thế giới. Ngài nhấn mạnh những nguyên tắc căn bản và những chỉ thị của Đức Liô XIII. Ngài lên án những chế độ tư bản và chế độ xã hội chủ nghĩa vô nhân đạo không đếm xỉa gì đến con người.

Năm nay, giáp 70 năm thông điệp Rerum novarum ra đời, Đức Giáo hoàng đương kim gioan XXIII cũng đã ban bố một thông điệp liên can đến đời sống kinh tế của thời đại. Cũng như các Giáo hoàng trước, Ngài nhấn mạnh sự tôn trọng nhân phẩm. Con người phải là trung tâm của nền kinh tế. Đức Giáo hoàng nói: “Con người thực sự và phải là nền tảng, cứu cánh và tác nhân của mọi tổ chức có tính cách xã hội”. Ngài còn nói tiếp: “Đảm bảo cho mọi người trong đoàn thể làm phát triển bản thân… đó là cứu cánh chính đáng của kinh tế quốcgia”. Đức Giáo hoàng không ngừng ngại lên án những chế độ kinh tế, tuy có thể tăng gia sản xuất và phân phối đồng đều, nhưng lại chà đạp nhân phẩm phá hủy tinh thần trách nhiệm và sáng kiến cá nhân, nhưng lại chà đạp nhân phẩm phá hủy tinh thần trách nhiệm và sáng kiến cá nhân, để biến con người thành một chiếc máy sản xuất.

Trước huấn lệnh của các Đức Giáo hoàng, cách riêng của Đức Gioan XXIII, ai còn dám trách giáo hội chỉ lo đến đời sau, không màng gì đến cuộc sống của con người trần gian. Trái lại, Giáo đã luôn cố gắng làm tròn sứ mệnh Thiên Chúa đã giao phó lá “đào luyện con người toàn diện”

Nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp

Số 150-11/1961

Người “Canh Gác” giữa đời thường

Người “Canh Gác” giữa đời thường

Tâm Thương

 

WGPSG — Góc nhìn xã hội

Bạn thân mến, nơi mảnh đất Sài Gòn này có biết bao người canh gác và bảo vệ. Người canh gác đứng ở một nơi trên cao để quan sát. Họ là những người lính ở các đồn biên phòng hay nơi hải đảo xa xôi. Họ là những người bảo vệ đầu đội trời chân đạp đất chứ không phải ở “vọng gác canh sương” hay “lầu son gác tía”. Họ bảo vệ cho công ty. Bảo vệ cho ngân hàng. Bảo vệ cho trường học. Bảo vệ cho bệnh viện. Bảo vệ cho siêu thị v.v… Nói tóm lại,  đó là dịch vụ người bảo vệ. Công việc của họ thấy dễ mà khó. Họ phải được huấn luyện và phải có kinh nghiệm. Họ phải quan sát tỉ mỉ từng người, từng biến cố xảy ra trong từng khoảnh khắc của một ngày sống. Công việc của họ đòi hỏi sự
nhạy bén quan sát tinh tế và tinh thần trách nhiệm cao. Họ phải hy sinh thời
gian, sức khỏe thức khuya, dậy sớm, xa nhà xa quê hương vì nhiệm vụ đã được
giao phó.

Khởi đi từ góc nhìn như thế, cha mẹ cũng đóng vai trò người canh gác cho con cái. Người mẹ phải thức trắng đêm để canh chừng người con gái vừa mới mổ ruột thừa ở bệnh viện đa khoa Sài Gòn. Người mẹ phải mất ngủ cả đêm vì con mình đang bệnh sốt cao. Người cha phải thấp thỏm lo âu vì tối nay đứa con trai của ông đi mừng sinh nhật bạn bè tới khuya không thấy về. Nói tóm lại, cha mẹ là người luôn dõi ánh mắt về con.

Góc nhìn tôn giáo

Vậy, dưới góc nhìn tôn giáo, người “Canh Gác” có gì khác và giống với người “Canh Gác” ở góc độ xã hội? Tôi nhớ lại bài đọc 2, giờ Kinh Sách, ngày 03.09.2012, ngày lễ nhớ Thánh Giáo hoàng Ghê-gô-ri-ô Cả. “Người Canh Gác” là ba từ được ngài lặp lại tới bốn lần: “Hỡi con người, Ta đã đặt người làm người canh gác cho nhà Ít-ra-en. Cần lưu ý rằng Chúa gọi kẻ Người sai đi rao giảng là người canh gác. Người canh gác luôn luôn phải đứng trên cao, để thấy được từ xa chuyện gì xảy tới. Và bất cứ ai được đặt làm người canh gác…” Thế thì đâu là những phẩm chất của một người “Canh Gác” lý tưởng như lòng Chúa ước mong?

Người “Canh Gác” biết quan sát “nhìn xa trông rộng”

Trước tiên, người Canh Gác phải có khả năng quan sát tốt và tầm nhìn xa. Điều này làm ta nghĩ tới Đức Giáo hoàng, các Hồng y, các Đức Giám mục và linh mục. Các ngài là những người “Canh Gác” của Giáo hội và của Chúa Kitô. Các ngài được đặt lên làm mục tử chăn giữ đoàn chiên. Người mục tử luôn quan sát từng con chiên một. Người mục tử để ý đến nhu cầu  của từng con chiên. Người mục tử để ý đến những gì nguy hiểm xảy đến cho đoàn chiên mình chăn dắt. Vì thế, Thánh Giáo hoàng Ghê-gô-ri-ô Cả mới nói: “Người canh gác luôn luôn phải đứng trên cao, để thấy được từ xa chuyện gì xảy tới.”

Thế nhưng, thời đại hôm nay có quá nhiều bất ngờ phức tạp. Xã hội càng văn minh lại càng sa sút về đạo đức. Bởi vậy, không dễ gì bắt kịp thời cuộc. Không dễ gì lội ngược dòng. Do đó, trọng trách của những người “Canh Gác” cho Giáo hội Chúa Kitô thật nặng nề. Bởi lẽ, các ngài cũng chỉ là những con người yếu đuối. Điều này đã được Thánh Giáo hoàng Ghê-gô-ri-ô Cả trải nghiệm: “Thật vậy, tôi buộc phải suy xét về các vấn đề của các Giáo hội cũng như các tu viện, nhiều lần tôi nghĩ tới nếp sống và hành vi của các cá nhân; hơn nữa, tôi còn phải giải quyết một số công việc của người
dân, phải lo lắng vì quân mandi xông vào giết chóc, phải đề phòng những con sói
đang rình rập đàn chiên đã ủy thác cho tôi… Có lúc phải bình tĩnh chịu đựng
những quân trộm cướp, nhưng cũng có lúc phải đối đầu với chúng để bảo trì đức
ái.” Thế nên, người canh gác không chỉ biết thời cuộc mà còn phải biết chính
mình. Ngoài ra, người “Canh Gác” cần có những phẩm chất nào khác hơn?

Người “Canh Gác” trách nhiệm và nhiệt tâm

Một cha sở nói với thầy xứ như thế này: “Con cố gắng chu toàn những việc bổn phận như nguyện gẫm, đi lễ, viếng Chúa, dạy giáo lý. Cố gắng làm việc với tinh thần trách nhiệm. Vậy mới làm gương cho người khác và bước đường ơn gọi của mình sẽ cảm thấy hạnh phúc.” Còn một linh mục khác nói với thầy giúp xứ như sau: “Cha luôn ưu tư làm sao thổi ngọn lửa nhiệt tình vào trong lòng mỗi người trẻ hôm nay. Nơi họ có một tinh thần dấn thân rất cao. Vì thế, làm sao để huấn luyện tốt nhằm khơi lên ngọn lửa nhiệt huyết nơi giới trẻ và những người làm tông đồ.” Tựu trung lại, người canh gác cần sự nhiệt tâm và trách nhiệm trong công việc. Trách nhiệm chỉ dừng lại ở mức độ làm cho đủ. Nhiệt tâm vượt xa mức độ đủ và vươn tới sự dấn thân.

Bạn thân mến, có bao giờ bạn đặt câu hỏi: hạnh phúc của người linh mục là gì không? Phải chăng hạnh phúc của các ngài là hạnh phúc của người khác? Hạnh phúc khi người linh mục đi thăm những gia đình nghèo. Hạnh phúc khi linh mục đem Mình Thánh Chúa cho nhiều bệnh nhân hấp hối. Hạnh phúc khi ngồi tòa giải tội lắng nghe những tiếng nói, những giọt nước mắt của nhiều hối nhân đang đau khổ. Hạnh phúc khi khám bệnh cho nhiều bệnh nhân nghèo khổ, già cả lương cũng như giáo v.v.. Và phải chăng hạnh phúc sâu xa nhất của người linh mục là được kết hiệp với Chúa qua từng Thánh lễ, từng giờ nguyện gẫm, giờ kinh phụng vụ mỗi ngày…? Hạnh phúc ấy không đơn giản đạt được. Hạnh phúc ấy đòi hỏi người linh mục có tầm nhìn, sự hy sinh, trách nhiệm và thức tỉnh với bổn phận Chúa giao phó cho các ngài. Thế nên, Thánh Cả Giáo hoàng Ghê-gô-ri-ô Cả cảm thấu: “Tôi nhìn nhận là tôi có lỗi, tôi thấy mình uể oải và lơ là. Khi ở đan viện, tôi có thể vừa giữ miệng lưỡi không nói lời vô ích, vừa hầu như liên lỉ cầm trí lo việc cầu nguyện. Nhưng một khi đã ghé vai mang gánh
nặng mục vụ thì tôi bị chi phối về nhiều chuyện nên không thể dễ dàng hồi tâm
được.”

Người “Canh Gác” là đầy tớ khiêm tốn phục vụ Chúa Kitô

Cuối cùng, người canh gác là đầy tớ khiêm tốn phục vụ Chúa Kitô. Phục vụ như, vì và trong Chúa Kitô. Vì thế, Chúa Giêsu đã nhắn nhủ các tông đồ: “Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17,10). Bởi vậy, Chân phước Giáo hoàng Gioan Phaolô II thường dùng câu nói: “Tôi Gioan Phaolô II, tôi tớ của mọi tôi tớ.” Thật vậy, người đầy tớ không hơn chủ. Người đầy tớ phục vụ chủ của mình. Thế nên, Chúa Giêsu mới dạy các tông đồ: “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em” (Mt 23,11).

Vậy, người “Canh Gác” của Giáo hội là người cắm mốc cuộc đời vào Chúa Kitô. Họ còn là người luôn mở lòng phục vụ tha nhân với cả tấm lòng yêu thương. Vì thế, ước mong mỗi Kitô hữu chúng ta cũng cảm thấu mình là người canh gác vốn dĩ thấp hèn yếu đuối như Thánh Giáo hoàng Ghê-gô-ri-ô Cả đã thú nhận: “Vậy, tôi là ai và tôi thi hành nhiệm vụ canh gác như thế nào, nếu tôi không đứng trên núi cao là công việc
phải làm, mà vẫn còn nằm bẹp dưới thung lũng là tính yếu đuối của tôi ? Nhưng
dù tôi bất xứng, thì Đấng tạo dựng và cứu chuộc loài người vẫn có khả năng ban
cho tôi cả đời sống cao quý lẫn tài nói năng thuyết phục, bởi lẽ vì yêu mến
Người mà tôi không quản ngại nói về Người.”

Maria Thanh Mai gởi

Tâm Sự Với Chúa 5: TRI ÂN

Tâm Sự Với Chúa 5: TRI ÂN

Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ, vì mọi ơn lành Người đã ban cho.”(Tv 115,12)
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa con tôn thờ, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Năm cũ đã qua, năm mới lại đến. Con tìm đến Chúa Giêsu Thánh Thể trong tâm hồn, vì nhà thờ đóng cửa cả rồi, con không thể đến viếng Chúa để tâm sự cùng Chúa được.
Mỗi năm vào ngày cuối cùng, thiên hạ ăn mừng, mở party, nào bạn bè, nào rượu Champagne, nào khiêu vũ, mấy ai nghĩ đến Chúa hở Chúa? Năm nào cũng thế, con mừng lễ trong kinh nguyện, canh thức để đón năm mới đến.
Kinh nguyện của con đều là lời kinh tạ ơn, và thống hối. Tạ ơn Chúa biết bao ơn lành Chúa thương ban. Cám ơn Chúa về những gì con đã nhận, mà con không biết. Cám ơn Chúa về những ơn tâm linh nữa. Cám ơn Chúa về những gì con xin mà Chúa chẳng ban theo ý con, vì Chúa biết hết những gì tốt cho linh hồn con.
Lạy Chúa Giêsu, trong năm qua biết bao ơn lành Chúa ban cho con, cho những người thân yêu và cho những người con cầu nguyện cho. Tất cả đều đến từ Lòng Thương Xót Chúa, chứ chẳng phải do công nghiệp gì của con.
Con cám ơn Chúa thật nhiều, đã chọn con vào làm việc trong Vườn Nho của Chúa, để Nước Chúa được mở mang. Con vui mừng biết bao, mỗi khi hay tin một ai đó yêu mến Chúa hơn, tìm về bên Chúa sau bao năm xa cách Cha nhân lành.
Tất cả ơn lành Chúa ban cho đều nhờ vào lời cầu bầu của Mẹ Thánh Chúa, làm sao con quên dâng lên Mẹ lòng tri ân của con hở Mẹ? Cầu cùng Mẹ là cầu cùng Chúa kia mà!
Lạy Chúa rất đáng yêu mến, cảm tạ Chúa đã là điều phải làm, nhưng rồi con cũng xin Chúa nhận lấy những lời tạ lỗi cùng Chúa. Trong năm qua, biết bao lần con đã xúc phạm đến Chúa và tha nhân, biết bao lần con đã phạm tội làm buồn lòng Chúa. Con xin Chúa thứ tha cho con nhé Chúa.
Con xin Chúa tha thứ nhưng con biết trước rằng Chúa đã thứ tha, qua bao lần con tìm đến tòa giải tội. Tuy nhiên, con yếu đuối, lại ươn hèn quá, vừa xưng tội thì lại phạm cùng một tội đó rồi Chúa ơi!.
Nhưng Chúa luôn luôn kiên nhẫn và rộng lượng với linh hồn con.  Trong năm mới này, con nguyện xin Chúa ban cho con ơn được sửa đổi tâm hồn, chừa bỏ nết xấu và gia tăng nhân đức, có như thế con mới đẹp lòng Chúa hơn.
Con cũng xin Chúa tha thứ cho những lần con đã phàn nàn vì những thập giá nho nhỏ trong ngày, phàn nàn và có khi còn trách Chúa, vì không nhận được những gì con xin Chúa.
Đầu năm nay, con lại đến xin ơn Chúa đây. Những ơn Chúa ban cho con nếu con chỉ nhận cho riêng con, thì không có ý nghĩa gì phải  không Chúa? Vậy xin Đức Chúa Thánh Thần soi sáng cho con, biết đem những ơn đã lãnh nhận mà phục vụ cho anh em con.
Có như thế, thì Nước Cha mới trị đến và Danh Cha được cả sáng. Con cũng không quên xin Chúa ban cho con ơn trọng này, đó là được yêu mến Chúa, như chưa từng mến yêu Chúa, để mọi việc con làm, mọi lời con nói, mọi ý tưởng con có đều làm cho những ai tiếp xúc với con, đều thấy Chúa ở trong con.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ tiếp tục dẫn dắt dạy dỗ con nhe Mẹ, để sống đẹp lòng Đức Chúa Trời như Mẹ vậy.  Xin Mẹ hãy hôn Chúa Giêsu thay con nhé. Amen.
MenyeuGiesu
Maria Thanh Mai gởi

TÔI TIN

TÔI TIN

(Linh Mục Anphong Trần Đức Phương)

Chúng ta đang sống trong một xã hội mà khoa học đã tiến được những bước dài.  Người ta đã có thể lên thăm “Mặt Trăng” và nhờ ống viễn kính, người ta có
thể dò thám các hành tinh khác và quan sát vũ trụ bao la.  Phi thuyền không gian đã đưa được nhiều phi hành gia lên làm việc trên vũ trụ, sinh sống ở trên đó cả nhiều tháng trời, có khi cả năm, rồi lại trở về trái đất.

Nhờ tiến bộ kỹ thuật ‘Tin Học’ mà ngày nay chúng ta có thể thông tin cho nhau thật nhanh chóng qua hệ thống điện thư (Email) và vừa nói chuyện vừa thấy mặt nhau.  Nhờ đó, thế giới thu nhỏ lại như một ngôi làng.

Tuy nhiên, do những tiến bộ vượt bậc này, con người dễ trở nên kiêu căng, tự phụ, coi mình là “Ông Trời” và chối bỏ đức tin vào Thiên Chúa.  Giới trẻ bước vào đại học cũng dễ bị nhiễm những lý thuyết và tư tưởng vô thần.  Từ vô thần con người cũng dễ đi đến vô luân (theo một nghĩa nào đó).

Thí dụ, ngày nay có những chính quyền chối bỏ luật tự nhiên, chủ trương “nam lấy nam nữ lấy nữ” cũng là hôn phối (same sex marriage).  Ở bên Hoa kỳ, chẳng
hạn, đã có những vị chánh án phát biểu: “Thật là bất công, nếu ‘hôn phối’ (marriage) chỉ là giữa một người nam và một người nữ.”  Họ quên rằng hôn phối tự nhiên “giữa một người nam và một người nữ” là để sinh con cái, và phát triển nhân loại; cũng như mọi vật trên trái đất  đều phát triển qua các thế hệ nhờ sự kết hợp giữa “nam” và “nữ” hay “đực” và “cái”.  Đã có những tiểu bang ở Hoa Kỳ cấp giấy phép để nam lấy nam, nữ lấy nữ thành ‘vợ chồng’ (same sex marriage) một cách phợp pháp và hưởng các quyền lợi như những đôi cưới nhau theo hôn phối tự nhiên.  Lại có những nhà lãnh đạo các giáo phái chấp nhận như vậy và “làm phép hôn phối’ cho các đôi ‘nam lấy nam, nữ lấy nữ’. Ngoài ra chúng ta còn phải kể đến  những phong trào luyến ái tự do, tự do ly dị, tự do phá thai (cha mẹ tự giết con của mình!)

Đứng trước  những trào lưu ‘vô thần’ và ‘vô luân’ như vậy trong thế giới chúng ta ngày nay, Giáo Hội Công Giáo cố gắng củng cố Đức Tin cho các tín hữu các nơi và Đức Giáo
Hoàng đã lập ‘NĂM ĐỨC TIN’ để chúng ta cầu nguyện, học hỏi, xây dựng một nền
tảng Đức Tin vững chắc cho chúng ta, cho con cháu chúng ta và phát triển Đức
Tin chân thật cho mọi người chung quanh chúng ta, nơi sở làm, trường học, khu
xóm (Xin xem Thơ Philípphê 2:15).

Chúng ta phải cầu nguyện, vì Đức Tin là một ơn huệ Chúa thương ban và cần ơn Chúa giúp để tồn tại và phát triển, nhất là giữa thế giới đầy những phong trào vô thần và vô
luân ngày nay.  Ngay cả các môn đệ theo Chúa Giêsu  ngày xưa cũng thấy yếu Đức Tin và cần cầu xin Chúa thêm Đức Tin: “Lạy Thầy, xin Thầy thêm Đức Tin cho chúng con.” (Luca 17:5).

Trong Phúc Âm chúng ta thấy, sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ chữa lành các bịnh nhân, Chúa Giêsu  thường nói “Đức Tin của con đã chữa con!” để nhấn mạnh
đến vai trò quan trọng của Đức Tin trong đời sống của những người theo
Chúa.  Vì Đức Tin là nền tảng:  Có tin Chúa, chúng ta mới trông cậy nơi quyền năng của Chúa và mới  cầu xin Chúa.  Chẳng hạn như câu chuyện hai người mù khi biết Chúa Giêsu đi ngang qua, đã khẩn thiết xin Chúa cho các anh được nhìn thấy, và dù mù loà các anh vẫn kiên nhẫn lần mò đi theo Chúa.  Để thử thách niềm tin của các anh, Chúa Giêsu  cứ đi như không để ý đến các anh, cho đến khi về tới nhà mà các anh vẫn theo tới.  Bây giờ Chúa Giêsu mới hỏi: “Các anh có tin rằng tôi có thể chữa lành các anh được không?”  Các anh liền thưa: “Chúng tôi tin!” Bấy giờ Chúa Giêsu sờ vào mặt các anh và nói: “Các anh tin thế nào thì được như vậy!” Mắt các anh liền mở ra và các anh đã thấy.  (Xin xem Phúc Âm Matthêu 9:27-30;  có thể xem thêm câu chuyện Chúa Giêsu chữa người đầy tớ của viên Đại Đội Trưởng (Mathêu 8:5-13).

Chúng ta nhớ lại, khi chúng ta chịu phép Rửa Tội, vị chủ sự hỏi chúng ta “Anh chị em xin gì với Hội Thánh Chúa?”  Chúng ta thưa “Thưa xin Đức Tin.”  “Đức Tin đem
lại điều gì cho anh chị em?”  Chúng ta thưa “ Thưa Sự Sống Đời Đời.” Tin Thiên Chúa hằng hữu và tin ở cuộc đời sau; đó là niềm tin của chúng ta, và điều quan trọng nhất là “Sự Sống Đời Đời.”  Vì đó là cùng đích của cuộc hành trình Đức Tin của chúng ta.

Chúng ta tin những gì? Thưa chúng ta tin tất cả những điều Chúa dạy chúng ta ở trong Kinh Thánh, mà đã được Giáo Hội tóm lại trong sách Giáo Lý (ngày xưa gọi là Sách Bổn), và ngắn gọn hơn trong “Kinh Tin Kính” mà chúng ta cùng nhau đọc trong mỗi Thánh Lễ Chúa Nhật, Lễ Trọng, và khi chúng ta đọc kinh trong gia đình hàng
ngày.

Chúng ta cũng phải luôn luôn cảnh giác trước những cám dỗ của các trào lưu vô thần, và vô luân, những cám dỗ (mà chúng tôi đã trình bày ở phần trên) làm xa lạc Đức Tin
chân chính, như Thánh Phêrô nói: “ Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức; vì ma
quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé.  Anh em hãy đứng vững trong Đức Tin mà chống cự lại; vì biết rằng toàn thể anh em trên thế giới đều trải qua những thử thách như thế.  Thiên Chúa, nguồn mọi ân sủng, là Đấng đã kêu gọi anh em vào vinh quang đời đời của người trong Đức Kitô, sẽ cho anh em là những kẻ phải chịu khổ ít lâu, được nên hoàn thiện, vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường” (1 Phêrô 5:8-10).  Ở một đoạn khác, thánh Phêrô nói: “ Anh em sẽ được hân hoan vui mừng, mặc dầu ngày nay anh em còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách.  Những thử thách do nhằm tinh luyện Đức Tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội (mà vàng là của phù vân, cũng vẫn phải chịu thử lửa!)  Nhờ thế mà khi Đức Giêsu Kitô tỏ hiện, Đức Tin đã được thanh luyện đó sẽ trở thành lời ngợi khen, và đem lại vinh quang, danh dự… Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến; tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin.  Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang; bởi đã nhận được thành quả của Đức Tin là ơn cứu độ con người.” (1Phêrô 1:6-9) (Chúng ta có thể xem thêm Mathêu 17:20; Mathêu 21:21; Mátcô 11:23; Luca 7:4-10).

Vậy chúng ta hãy cầu nguyện chung cho nhau (nhất là trong Năm Đức Tin này), xin Chúa cho chúng ta quý trọng Đức Tin Chúa ban cho chúng ta,  bảo vệ và phát triển
Đức Tin nơi chúng ta, nơi con cháu chúng ta, và loan truyền Đức Tin chân thật
cho mọi người chung quanh chúng ta.

Xin Chúa nhân từ, nhờ lời Đức Mẹ Maria, Thánh Giuse, và các Thánh Tử Đạo Việt Nam, và các Thánh chuyển cầu, ban muôn ân sủng và bình an cho chúng ta trong Năm Đức Tin này.

Maria Thanh Mai gởi

 

Ánh sáng và bóng tối

Ánh sáng và bóng tối (Mt 2,1-12)

Lễ Hiển Linh năm C

Thiên Phúc

Nhà đại thiên văn Kepler khám phá ra rằng vào năm Chúa Giáng sinh, có một hiện tượng bất bình thường xảy ra giữa các vì sao. Ông nói về hai ngôi sao Jupiter và Saturn rằng, bình thường chúng vẫn quay cách đều nhau, năm đó chúng sáp lại gần nhau đến độ ánh sáng của ngôi sao này cộng hưởng với ánh sáng của ngôi sao kia, tạo ra một luồng sáng khác thường và kéo dài đến cả mấy tháng.

Phải chăng đó chính là ngôi sao lạ đã dẫn đường cho Ba Vua tìm ra Chúa Hài Nhi?

 

***

“Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông” (Mt 2,2). Người xưa cho rằng ngày ra đời của các vĩ nhân thường được báo hiệu bằng sự xuất hiện của các ngôi sao lớn. Các chiêm tinh gia thường nghiên cứu chuyển động của các vị tinh tú
để  đoán biết định mệnh con người. Vì thế, khi nhìn thấy ngôi sao lạ, các đạo sĩ đã nhận ra sự sinh hạ của Đấng Cứu Thế, Vua dân Do thái.

Quả thật, người Do thái đã trông đợi Đấng Cứu Tinh từ bao thế kỷ. Đấng ấy được ví như một vì sao từ Giacóp, như có lời trong Kinh thánh: “Một vì sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng chỗi dậy từ Ítraen” (Ds 24,17). Tiên tri Mikha cũng đã tiên báo: “Hỡi Belem, Épratha, ngươi nhỏ bé nhất trong hoang địa về đất hứa, thì người cũng có thể dùng ngôi sao dẫn đường cho các đạo sĩ đến Belem để gặp Đấng Cứu tinh.

Nhưng có một sự thật vô cùng trớ trêu: là khi vị Cứu Tinh xuất hiện sau bao thế kỷ đợi chờ, dân Do thái lại thờ ơ lãnh đạm, các thượng tế và kinh sự thì dửng dưng thụ động, cho dù họ thông thạo Kinh thánh và biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế. Herôđê lại
còn hoảng hốt vì sự ngai vàng của mình bị lung lay. Chỉ có các đạo sĩ đại diện
cho lương dâng lại hăng hái lên đường, hăm hở tìm kiến, cho dù cuộc kiếm tìn
đầy phiêu lưu trắc trở. Và khi tìm được rồi, Đấng Cứu Thể cũng chẳng có vẻ gì
là một vị quân vương, không uy  nghi trong cung điện đền vàng, nhưng họ
vẫn vui mừng đón nhận, xin được bái kiến và dâng lễ vật quí giá với tất cả tấm
lòng thành.

Sau này, chúa Giêsu đã phải thốt lên: “Từ phương Đông phương Tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Ápraham, Isaac và Gia cóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài” (Mt 8, 11-12).

Lễ Hiển Linh là lẽ Chúa tỏ mình cho dân ngoại, nhắc chúng ta đến việc truyền giáo.

Nhờ ngôi sao lạ mà các đạo sĩ đã tìm ra Đấng Cứu Thế; chúng ta cũng hãy là những ánh sao sáng thu hút những tâm hồn đang khao khát tìm kiếm Chúa.

Nếu con người đang đi trong bóng tối của gian dối, hận thù; chúng ta hãy là những ánh sao của chân thành, phục vụ và yêu thương.

Nếu thế giới đang chìm đắm trong bóng tối của buồn phiền, thất vọng; chúng ta hãy là những ánh sao của niềm vui, an bình và hy vọng

Nếu Chúa đã gọi: “Chúng con là ánh sáng thế gian” (Mt 5, 14), thì đó là một vinh dự vô cùng lớn lao, nhưng cũng là một trách nhiệm nặng nề.

Chúng ta đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối, nhưng hãy dấn thân thắp lên những ngọn nến sáng; Nến sáng của tin yêu và hy vọng, của bác ái và vị tha, để cả trái đất này tràn ngập ánh sáng tình yêu Chúa.

Chúng ta đừng chỉ lo gìn giữ ngọn nến của ngày chịu phép rửa tội, nhưng hãy can đẩm thắp sáng những ngọn nến còn trong bón tối lầm lạc và tội lỗi, để thế giới này luôn đi trong ánh sáng chân thật của Chúa.

***

Lạy Chúa Hài đồng, Cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối vẫn còn tiếp diễn trên thế giới này và trong lòng mỗi người chúng con.

Xin cho chúng con biết kín múc nơi Chúa là chính Nguồn Sáng, để chúng con có khả năng đẩy lui mọi bóng tối trong chúng con và trong lòng mọi người. Amen.

Anh chị Thụ & Mai gởi

 

Giấc Mơ Của Mẹ Têrêxa Calcutta

Giấc Mơ Của Mẹ Têrêxa Calcutta

Mẹ Têrêxa Calcutta, người được giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1979 và là người sáng lập viện của dòng Nữ Tử thừa sai Bác Ai chuyên phục vụ người nghèo và hấp hối, đã kể lại ơn gọi phục vụ của Mẹ trong một lá thư viết từ Calcutta như sau:

“Trong những ngày đầu khi mới khởi sự làm việc cho những người cùng khổ nhất trong vùng ngoại ô, tôi bị sốt liệt giường. Trong cơn mê sảng, tôi bỗng thấy mình được đến trình diện trước mặt thánh Phêrô, người giữ cửa Thiên Đàng. Nhưng Thánh Phêrô chận lại không cho tôi vào Thiên Đàng. Ngài nói như sau: “Không thể để cho một người thuộc khu ổ chuột được vào Thiên Đàng. Thiên Đàng không có nơi cùng khổ”.

Tôi mới tức giận nói với Ngài như sau: “Thế ư? Vậy thì con sẽ làm mọi cách để làm cho Thiên Đàng đầy dẫy dân cư của các khu ổ chuột và lúc đó, Ngài bị bắt buộc sẽ để cho con vào Thiên Đàng”.

Tội nghiệp thánh Phêrô. Kể từ sau giấc mơ ấy, Mẹ Têrêxa và các nữ tu của Mẹ đã không để cho Ngài được ở yên phút nào. Không biết bao nhiêu người cùng khổ và cô đơn đã qua đời trong vòng tay ôm ấp của Mẹ và các nữ tu. Thiên Đàng đã trở thành nơi cư trú của những người cùng khổ.

Giai thoại trên đây của Mẹ Têrêxa Calcutta như muốn nói lên một chân lý: không ai
nên Thánh một mình, không ai lên Thiên Đàng một mình.

Đức Cha Fulton Sheen, vị diễn giả nổi tiếng trên các đài truyền thanh và truyền hình tại Hoa Kỳ, đã có lần phát biểu như sau: “Không ai trong chúng ta có thể vào Thiên Đàng, nếu ở đó không có ai nói với chúng ta: chính tôi đã giúp đỡ để bạn được vào Thiên Đàng”.

Ai cũng có thể là một trợ giúp để đưa chúng ta vào cửa Thiên Đàng. Họ có thể là
những người cùng khổ mà chúng ta chìa tay để san sẻ, để giúp đỡ. Họ cũng có thể
là những người cách này hay cách khác làm cho chúng ta đau khổ. Nhưng ưu tiên
hơn cả vẫn là những người chúng ta cố gắng làm cho hạnh phúc. Chính những người
đó là kẻ giúp đỡ chúng ta được vào Thiên Đàng. Nhưng Thiên Đàng không đợi chờ ở
đời sau. Hạnh phúc cũng không chỉ dành lại cho đời sau: Thiên Đàng và Hạnh Phúc
có thể đến với chúng ta ngay từ cõi đời này. Và Thiên Đàng và Hạnh Phúc ấy là
gì nếu không phải là mỗi lần chúng ta cố gắng làm cho người khác được hạnh
phúc.

Trích Lẽ sống

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Bí Quyết Hạnh Phúc

Bí Quyết Hạnh Phúc

Trong một chương trình truyền hình Mỹ, người ta phỏng vấn một cụ già, tuổi hạc rất cao. Người ta đặt câu hỏi như sau: “Thưa cụ, chắc cụ có một bí quyết đặc biệt để được hạnh phúc?”

Cụ già trả lời một cách đơn sơ như sau: “Không, tôi chẳng có bí quyết nào gọi là đặc biệt cả. Trái lại, nó rất đơn giản như chiếc mũi trên mặt ông vậy!”. Cụ già giải thích như sau: “Mỗi buổi sáng mai, lúc thức dậy, tôi có hai điều chọn lựa, một là sống hạnh phúc, hai là sống bất hạnh. Ong nghĩ xem, tôi sẽ chọn điều nào? Dĩ nhiên tôi phải chọn được hạnh phúc”.

Câu trả lời trên đây của cụ già thật đơn giản. Abraham Lincol đã nói như sau: “Con người sở dĩ có được hạnh phúc, sung sướng hay không cũng tại lòng tưởng nghĩ như vậy”. Bạn có thể hạnh phúc, nếu bạn muốn như thế. Đó là điều dễ thực hiện nhất trên đời. Bạn hãy chọn lựa sự bất hạnh. Đi đến đâu bạn cũng than thân trách phận, chắc chắn bạn sẽ được như ý. Nhưng nếu lúc nào bạn cũng tự nhủ rằng: “Mọi việc đều tốt đẹp, đời vẫn đẹp và đáng sống. Tôi chọn sống hạnh phúc”, thì chắc chắn bạn sẽ được điều bạn muốn.

Trẻ con rành về nghệ thuật sống hạnh phúc hơn người lớn. Trẻ em mang vào giấc ngủ của mình vô số những mộng mơ và chúng cũng thức giấc với vô số những mộng ước, trong đó cơ bản nhất vẫn là được vui chơi.

Ngườilớn mà có được một tinh thần như trẻ thơ lúc tráng niên và vào tuổi già, thì
quả là một thiên tài, vì họ nắm được niềm hạnh phúc thật trong tâm hồn mà Chúa đã
dành để cho tuổi thanh xuân. Chúa Giêsu quả là tế nhị khi Ngài nói với chúng ta
rằng cần phải có tinh thần trẻ thơ thì mới vào được Nước Trời. Nước Trời là gì
nếu không phải là được sống hoan lạc trong tình yêu thương của Chúa?

Trích Lẽ sống

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

“Trăm năm bia đá thì mòn,Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ”

“Trăm năm bia đá thì mòn,

Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ”

Nhà độc tài nào sau khi ra đi cũng trở thành bia cho không biết bao nhiêu những lời
đàm tiếu của thiên hạ. Năm 1986, người ta nói đến trên 3,000 đôi giày đã trở
thành bảo tàng viện của bà Imelda Marcos, phu nhân của cựu tổng thống Phi Luật
Tân, ông Ferdinand Marcos. Sau đó, người ta lại bàn tán về những đôi giày của
bà Elena, vợ của nhà độc tài Ceaucescu bị hành quyết tại Rumani.

Khi vợ chồng của cựu tổng thống Marcos bị bắt buộc phải bỏ nước Phi, dân chúng đã tuôn đến dinh tổng thống như một ngày hội: họ đến đó chỉ để xót xa so sánh cái cảnh giàu sang quá mức của gia đình nhà độc tài với cái đói khổ mạt rệp của dân chúng. Người dân Phi nói rằng, trong 9 năm liền, bà Imelda Marcos chỉ có thể mang một đôi giày không quá 3 lần là cùng. Sau khi hành quyết vợ chồng Ceaucescu, người ta mới khám phá ra rằng căn nhà mà họ cho là bình thường của họ chính là một biệt thự sang trọng với 40 phòng khác nhau được trang trí bằng những bức tranh đắt giá, phòng tắm được khảm bằng vàng. Mỗi phòng đều có truyền hình và máy video.

Tài sản của ông Ceaucescu cũng không thua kém gì những của cải biển lận của ông Noriega, cựu tổng thống bị truất phế của Panama. Ong tướng này không chỉ có những căn nhà lộng lẫy trong nước, mà còn không biết bao nhiêu biệt thự tại Pháp và các nước khác. Máy bay và những chuyến du thuyền của ông không còn là những phương tiện để di chuyển, mà là cả một thú sưu tầm.

Không có một nhà độc tài nào mà không tham lam tiền của. Người ta nói đến hàng tỷ Đôla của ông Marcos. Nhà độc tài của một nước nghèo nàn như Haiti cũng có đến 400 triệu Mỹ kim. Somoza, người bị lật đổ tại Nicaragua, thì có đến hàng trăm triệu Đô la đầu tư vào những kinh doanh đồi trụy như đĩ điếm, cờ bạc. Cựu hoàng đế Pokassa của một nước nghèo nàn lạc hậu như Cộng Hòa Trung Phi bên Phi Châu, đã làm lễ đăng quang năm 1976 với một phí tổn là 20 triệu Mỹ kim. Và hiện nay, người ta ước tính tài sản của tổng thống Zaire là ông Mobutu Sese Seko lên đến gần 5 tỷ Mỹ kim.

Giá của những tài sản bất chính ấy thường giống nhau: một cuộc lưu vong nhục nhã, một cuộc chốn chạy không kèn không trống, một cuộc hành quyết dã man hay một cuộc sống trong lo sợ từng ngày và làm mục tiêu cho những oán ghét.

Mỗi dịp đầu năm, dường như ai cũng muốn làm một quyết tâm. 50% người Hoa Kỳ quyết tâm giảm thiểu sự ăn uống để gìn giữ sức khỏe.

Đối
với người Kitô chúng ta, sức khỏe tinh thần, sự cường tráng tâm linh có lẽ là
điều quan trọng hơn cả. Quyết tâm của chúng ta phải là quyết tâm điều chỉnh lại
sự lựa chọn cơ bản của chúng ta. Đâu là cùng đích của cuộc sống chúng ta? Đâu
là lý tưởng của chúng ta? Đâu là giá trị cao cả nhất trong cuộc sống của chúng
ta? Tiền bạc và nhất là tiền bạc bất chính có đem lại hạnh phúc cho đời Người
không?

Trích Lẽ sống

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

THIÊN CHÚA – MỘT HUYỀN NHIỆM

THIÊN CHÚA – MỘT HUYỀN NHIỆM

LỄ HIỂN LINH

Tác giả: Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh

nguồn:conggiaovietnam.net

Khi dạy giáo lý cho người lớn, nhất là các đôi bạn chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân, tôi hay hỏi nửa đùa, nửa thật: “Các bạn yêu nhau lắm, đúng không? Yêu đến mức nếu ngày nào không gặp nhau, ta nhớ thương, nhớ tiếc, nhớ da, nhớ diết, nhớ như có ai xé lòng mình, đúng không?”. Tất cả các bạn đều mỉm cười bẻn lẻn. Tôi nói tiếp: “Các bạn yêu nhau  lắm, tưởng như người này hòa trộn trong người kia, nhưng người kia nghĩ gì, bạn có biết không?”. Tất cả trả lời: “thưa không!”.

Mỗi người là một huyền nhiệm. Huyền nhiệm này lớn cho đến mức, dẫu là  tình yêu lứa đôi, một thứ tình yêu tưởng như nên một trong nhau, vậy mà hai người vẫn cứ là hai thế giới xa nhau diệu vợi.

Con người sống với nhau đã là huyền nhiệm dành cho nhau đến vậy, thì chúng ta càng không lạ gì khi Thiên Chúa luôn luôn là huyền nhiệm đối với con người. Lễ  Hiển Linh tức là lễ Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại. Đại diện dân ngoại là ba nhà đạo sĩ phương Đông. Ba ông nhận ra ánh sao trên bầu trời và vội vã lên đường đi tìm Con Thiên Chúa vừa giáng sinh.

Gọi là Thiên Chúa tỏ mình, nhưng sự tỏ mình qua một ánh sao vẫn cho thấy Thiên Chúa là một huyền nhiệm lớn lao vô cùng. Dẫu ngôi sao trên bầu trời có lạ thường đến đâu, có sáng chói đến mức độ nào, thì sự tỏ mình ấy vẫn mù mờ, vẫn xa xăm đối với nhận thức của con người. Bởi đó, chỉ có ai thao thức tìm kiếm Thiên Chúa, chỉ có trung thành sống đức tin mới có thể nhận ra Thiên chúa đang tỏ mình với cuộc đời nói chung, và cuộc đời của chính mình nói riêng.

Đúng hơn, Thiên Chúa đã tỏ mình, nhưng tự bản chất, Người là huyền nhiệm, nên để nhận ra sự tỏ mình của Thiên Chúa, mãi mãi vẫn cần một điều kiện. Điều kiện đó là lòng thao thức tìm kiếm Thiên Chúa và sống đức tin trung thành. Có như thế, ta mới có thể nhận ra Thiên Chúa đang hiện diện trong cuộc đời ta, dẫu phải trải qua từng biến cố sướng vui hay hạnh phúc.

Nói đơn giản: Thiên Chúa vẫn đang hiện diện và luôn luôn tỏ mình, chỉ cần bạn thao thức tìm kiếm Người và trung thành sống đức tin, bạn sẽ nhận ra Người.

Ba nhà đạo sĩ đã lên đường tìm kiếm. Bạn cũng sẽ nhận ra Thiên Chúa tỏ mình bằng đời sống đức tin, bằng sự cầu nguyện luôn mãi, bằng tình yêu mà bạn hiến dâng cho Người.

Lm VŨ XUÂN HẠNH

CƯU MANG VÀ SINH HẠ MỘT THẾ GIỚI MỚI

CƯU MANG VÀ SINH HẠ MỘT THẾ GIỚI MỚI

Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

Hôm nay các mục đồng vào hang đá và nhận thấy một Hài Nhi sơ sinh nằm trong máng cỏ. Hài Nhi Giêsu chào đời khai sinh một thế giới mới. Đức Mẹ đã sinh ra một
con người mới.

Đức Mẹ sinh ra một thế giới mới để sửa chữa thế giới cũ do Evà sinh ra. Thế giới cũ của bà Evà là một thế giới đổ vỡ. Từ chỗ bất tuân lệnh Thiên Chúa, thế giới đã đi đến chỗ bất hoà với nhau: ông Adong đổ lỗi cho bà Evà, bà Evà đổ lỗi cho con rắn. Không những bất hoà với nhau mà còn bất hoà cả với súc vật, cỏ cây, ruộng đất. Và từ chỗ bất hoà đi đến bất hạnh: Anh em Cain và Aben giết lẫn nhau. Con người phân tán, chia rẽ. Thế giới đổ vỡ này phát sinh từ lòng kiêu ngạo và thói ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân mình.

Thế giới mà Đức Mẹ sinh ra là một thế giới vâng phục Thiên Chúa. Chúa Giêsu hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha nên đã sinh xuống thế làm người và từ bỏ ý riêng, sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên thập giá.
Đức Mẹ vâng phục thánh ý Thiên Chúa khi thưa “Xin vâng” với thiên thần. Thánh
Giuse vâng phục Thiên Chúa nên trở về nhận Đức Mẹ làm bạn. Các mục đồng vâng
theo lời thiên thần đến hang Bêlem tìm Chúa. Ba Vua vâng phục theo ánh sáng
ngôi sao đến thờ lạy Chúa.

Thế giới mà Đức Mẹ sinh ra là một thế giới hài hoà. Sự hài hoà không phải chỉ có giữa Chúa Giêsu với Đức Mẹ và Thánh Giuse. Cảnh Chúa Giêsu nằm giữa thiên nhiên, trong hơi ấm của bầy chiên bò, với đoàn mục đồng và Ba Vua quây quần chung quanh nói lên một thế giới chung sống hoà bình. Chúa sống hoà hợp với trời đất, với con người và với thiên nhiên. Con người sống hoà hợp với Chúa và với nhau.

Thế giới mới mà Đức Mẹ sinh ra là một thế giới quên mình. Chúa Giêsu đã quên địa vị mình là Thiên Chúa để xuống ở với nhân loại. Chúa Giêsu đã quên mình là Đấng thánh thiện để đến với người tội lỗi. Chúa đã quên mình là Thầy, là Cha, nên quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, các con cái của mình. Và nhất là Chúa đã quên mình là vô tội đến nỗi sẵn lòng hiến thân chịu chết cho loài người tội lỗi. Thánh Giuse và Đức Mẹ quên mình để đi vào chương trình của Thiên Chúa. Mục đồng quên mình, giữa đêm khuya lạnh lẽo, bỏ giấc ngủ đến tìm Chúa. Ba Vua quên mình bỏ nhà cửa tiện nghi, lên đường, chịu vất vả khó nhọc đến thờ lạy Chúa. Sự quên mình, quan tâm lo lắng chăm sóc cho người khác đã khai sinh một thế giới mới chan chứa tình yêu thương và ấm áp sự hoà thuận. Đó chính là cảnh thái bình đáng mong ước.

Ngày đầu năm mới, Giáo Hội mừng kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, với mong muốn đặt thế giới vào tay Đức Mẹ để thế giới luôn được sinh lại, được đổi mới. Chỉ khi sinh lại trong Chúa và trong Đức Mẹ, thế giới mới thực sự có hoà bình.

Ngày đầu năm mới, Giáo Hội cầu nguyện cho hoà bình thế giới, mong ước con người hãy biết sống hài hoà với nhau trong vâng phục Thiên Chúa, trong quên mình vì người khác để có một nền hoà bình thực sự trường cửu. Vì hoà bình không chỉ là vắng bóng chiến tranh nhưng còn là con người sống hài hoà trong tình tương thân tương ái.

 

Ngày đầu năm mới, Giáo Hội cũng mời gọi tất cả mọi người chúng ta hãy cùng với Đức Mẹ cưu mang và góp phần sinh hạ một thế giới mới. Cưu mang chắc chắn phải nặng nhọc. Sinh hạ chắc chắn phải đớn đau. Nhưng nếu mỗi người đều noi gương Chúa Giês, Đức Mẹ, Thánh Giuse, Ba Vua, các mục đồng và cả súc vật trong hang đá Bêlem biết vâng phục Thiên Chúa, biết sống hài hoà và quên mình thì mới mong kiến tạo được một nền hoà bình viên mãn.

Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con trở nên con người mới, góp phần cưu mang và sinh hạ một thế giới mới như lòng Chúa mong ước. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Bạn có mơ ước một thế giới mới không? Thế giới đó phải bắt đầu từ đâu trước?
Từ chính bạn hay từ người khác?

2. Thế giới của Đức Mẹ có gì khác thế giới của bà Evà?

3. Đầu năm mới này, bạn dự tính làm gì để đổi mới thế giới chung quanh bạn?

Tất Cả Chỉ Là Hư Vô

Tất Cả Chỉ Là Hư Vô

Có một câu chuyện vui về phù thủy Mundaca. Ông nổi tiếng nhất trên thế giới vì có thể làm cho người chết được trở về sống lại trên trần gian này.

Một hôm, ông đến đọc thần chú trước ngôi mộ của một người nổi tiếng nhất trong vùng đã qua đời từ nhiều thế kỷ trước. Ngôi mộ mở ra và một vị sang trọng bước ra cúi mình chào vị phù thủy và nói:

– Xin cám ơn Ngài rất nhiều vì đã làm phép mầu  cho tôi được trở lại từ cõi chết, đó là Ngài thực hiện một công việc hết sức quan trọng cho những người cùng thời với Ngài. Thế giới sẽ sống an vui và hạnh  phúc hơn với công việc tôi sắp làm. Ngài có biết không, ngày xưa tôi sinh ra trong một dòng dõi sang trọng, tôi đã dùng hết sự giàu sang của mình để thực hiện những điều lợi ích cho mọi người chung quanh tôi sinh sống. Vì thế, giờ đây tôi được trở về trần gian, tôi sẽ dùng hết những việc tốt khi xưa để xây dựng hạnh phúc cho mọi người.

Nói xong những lời trên, người sang trọng vừa sống lại đó hăng hái bước về thành phố, nơi quê hương của mình sinh trưởng. Nhưng chỉ sau một ngày, phù thủy Mundaca đã thấy người vừa được sống trở lại gặp ông và năn nỉ:

– Xin hãy vui lòng đưa tôi trở về lòng đất.

Nhà phù thủy với giọng rất ngạc nhiên hỏi:

– Nhưng tại sao ông lại muốn chết trở lại?

Người sang trọng trả lời:

– Khi tôi trở về lại nơi tôi sinh sống, không ai biết tôi là ai cả, và cũng không có ai tin lời tôi nói. Tôi đã cố gắng nhắc lại cho họ về những điều tốt tôi đã làm cho mọi người khi trước, nhưng cũng không ích lợi gì. Dân tôi sinh sống ngày nay không còn nhớ gì nữa cả, đền đài kỷ niệm mà xưa tôi đã xây nên để ghi nhớ những gì tôi đã làm, nay không còn nữa. Giờ đây tôi mới hiểu câu nói: “Mọi vinh quang và vinh dự của con người đều chóng qua, tất cả chỉ là hư vô mà thôi”.

Nói xong những lời trên, người sang trọng xin nhà phù thủy cho về lại cõi chết.

***

Câu chuyện vui trên trình bày một quan điểm sống trần tục và vinh quang. người sang trọng kia lúc còn sống đã làm những điều tốt cho anh chị em mình để có tiếng tốt, để danh tánh được khắc ghi trên bia mộ lưu danh từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đó là những toan tính trần tục. Người khi được từ cõi chết trở về, danh tiếng từ thời trước bị lãng quên không còn nữa. Người sang trọng kia không còn đủ nghị lực để tạo lập sự nghiệp mới mà bi quan muốn trở về với cõi chết. Nếu chúng ta sống cõi đời này chỉ có một quan niệm trần tục như vậy thì sớm muộn gì chúng ta cũng sẽ rơi vào tình trạng trống rỗng bi quan.

Mỗi người chúng ta cần xét lại quan điểm sống của mình theo ánh sáng lời dạy của Chúa. Mỗi người chúng ta cần xác tín rằng: tôi được sinh ra trên trần gian này để thi hành sứ mạng yêu thương: yêu thương phục vụ Thiên Chúa, và yêu thương phục vụ anh chị em. Những việc lành tốt để chứng tỏ tình yêu thương đối với Thiên Chúa dầu có được người đời biết hay không? có nhìn nhận hay không? không phải là quan trọng. Điều quan trọng là tôi có thật lòng làm vì yêu mến Chúa hay không, và việc yêu mến Chúa và phục vụ anh chị em một cách thiết thực hữu hiệu một cách có thể.

***

Lạy Chúa, Chúa đã yêu thương cho chúng con noi theo. Là một vị Thiên Chúa, Chúa đã không màng chi đến việc sinh xuống trần gian làm người thấp hèn, để trở nên giống mọi người. Dầu con người có biết ơn và tin nhận Chúa hay không. Chúa thực hiện những dấu lạ, những hành động tốt để mời gọi chúng con, nhưng không bao giờ ép buộc cúng con phải tin Chúa. Chúa luôn thi ân cao cả cho dầu những chống đối khước từ. Xin giúp con sống theo gương mẫu của Chúa. Amen.

R. Veritas

Anh chị Thụ & Mai gởi