TẤM LÒNG

TẤM LÒNG

Trầm Thiên Thu
tro ve

Triết gia Pascal nói: “Con người là cây sậy có lý trí”.  Một cách diễn tả dung dị dễ hiểu.  Điều đó mặc nhiên rằng con người là sinh vật bất túc, bất trác và bất toàn, với một số phận mong manh không khác đóa phù dung.  Và vì thế, con người cứ miệt mài ngày đêm đi tìm Chân-Thiện-Mỹ theo lệnh truyền của Thiên Chúa: “Hãy hoàn thiện như Cha trên trời” (Mt 5:48).  Nghĩa là phải chiến đấu và vươn lên không ngừng, với khát khao tìm về cái gọi là “nhân chi sơ tính bổn thiện” sau những ngày (có thể) sa chân lầm lạc hoặc lỡ để bàn tay nhúng chàm.

Con người yếu đuối nên dễ “nhiễm” cái xấu hơn cái tốt, nhưng hẳn là khôn hơn khi chưa vấp ngã. Phêrô, một ngư ông chất phác, được Chúa Giêsu chọn làm Tông đồ, và dù đã “thẳng thừng” chối Thầy mình, ông vẫn được Ngài cất nhắc lên làm Giáo hoàng tiên khởi, làm “hoa tiêu” đưa Con thuyền Giáo hội vượt qua ngàn trùng sóng gió, vì chính ông đã có kinh nghiệm bản thân.  Vấn đề không phải là tốt hay xấu, giỏi hay dốt, mà là biết thành tâm sám hối, biết sửa sai và phục thiện, để sống tốt hơn và lợi ích cho tha nhân.

Thật vậy, đời người là một chu-kỳ-ăn-năn không ngừng.  Hết lỗi lầm này đến sai lầm khác.  Rồi ăn năn. Rồi tái phạm.  Và rồi lại hối hận… Vậy đó, hứa nhiều mà chẳng giữ được bao nhiêu.  Càng nhiều tuổi càng “nói dối” nhiều: Ai càng sống lâu càng xưng tội nhiều lần mà vẫn chưa chừa được!  Chúng ta chỉ là những kẻ nói dối Chúa!  Ai cũng quyết lên án nhưng rồi không ai dám ném đá người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình (x. Ga 8:2-11), thế nên họ đều lần lượt bỏ đi, người lớn tuổi đi trước, kẻ nhỏ tuổi đi sau, vì không ai thấy mình sạch tội.  Vâng, đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán!

Nói vậy không có nghĩa là không cần hoàn hảo vì không thể hoàn hảo.  Vẫn phải cố gắng tìm sự hoàn hảo: Hoàn hảo ngay trong cái chưa hoàn hảo.  Nếu tưởng mình hoàn hảo tức là chưa hoàn hảo.  Thật vậy, “ai tưởng mình là gì mà kỳ thực không là gì hết, đó là lừa gạt chính mình” (Gl 6:2-3).  Những người theo chủ-nghĩa-hoàn-hảo, gọi là cầu toàn, luôn làm ra vẻ hoàn hảo để mong được tiếng khen, dễ nóng giận với chính mình và luôn chê trách hoặc ghen ghét người khác.  Thực ra đó chỉ là cách che giấu cái bất toàn của mình.

Quả thật, con người quá yếu đuối và luôn đầy tham vọng.  Nhưng không vì thế mà ỷ lại hoặc cố chấp, biện hộ cho những gì mình làm.  Ngược lại, phải tự biết chấp nhận mức độ hữu hạn của mình để luôn biết làm việc tận tụy bằng tất cả tâm lực mà không đòi hỏi gì thái quá nơi người khác.  Đức Giêsu đã nói: “Ai trung thành trong việc nhỏ sẽ trung thành trong việc lớn” (Lc 19:12-27).  Hãy tự giành cho mình những việc khó và dành cho người khác những việc dễ, nhưng không hề miễn cưỡng hoặc tỏ vẻ khó chịu.

Mùa Chay là thời gian cần thiết để suy gẫm, tĩnh tâm, vì đời người như một cỗ máy, thỉnh thoảng vẫn cần được tu sửa – dù tiểu tu, trung tu hoặc đại tu.  Mùa Chay cũng là dịp “nhìn lại” số km mình đã đi qua để biết phải cố gắng thêm ít hay nhiều, như máy móc phải châm thêm hoặc thay dầu nhớt, chứ không thể tự mãn.  Ăn chay phải gắn liền với cầu nguyện, vì “bao lâu ta chưa thôi cầu nguyện là dấu chắc chắn Chúa đang thương” (Thánh Augustinô).  Cầu nguyện là mãnh lực khả dĩ chiến thắng tất cả!

Ăn chay song song với tịnh tâm.  Không nhất thiết phải làm điều gì vĩ đại mà chỉ cần “chấn chỉnh” hoặc “cởi bỏ” một thói xấu hoặc một động thái nào đó…  Thiết tưởng đó mới là cách “trở về” hữu ích và đẹp lòng Chúa.  Có thể là hy sinh không đi chơi, bớt hoặc bỏ hút thuốc, giảm uống cà-phê, bớt uống rượu, thôi cờ bạc, ít tán gẫu, không xét đoán, chăm học hơn, quan tâm nhau hơn, sống hòa đồng hơn, nghiêm túc hơn,… Đó chính là những Vị Ngọt làm cho ly-cà-phê-không-đường đời mình thêm đậm đà hương vị, để không chỉ cho riêng mình “thưởng thức” mà còn cho cả những người xung quanh cùng “nếm thử”. Và còn mãi dư vị làm sảng khoái…

Trở về là hành-trình-vui nếu biết trở về với cả tấm lòng sau những năm tháng hoang đàng.  Thiên Chúa luôn nhân hậu và đại lượng vẫn từng giây mong chờ tội nhân trở về nương náu Tình Yêu Thiên Chúa. Dù tội lỗi đến đâu, dù thất vọng nhưng đừng tuyệt vọng, Thiên Chúa vẫn nhân hậu vô cùng, chỉ cần chúng ta biết thành tâm sám hối, vì chính Chúa Giêsu đã nói với nữ tu Josefa Menendez (1890–1923, Dòng Thánh Tâm): “Sự khốn nạn của con lôi cuốn Cha”.  Thật là may mắn và hạnh phúc cho mỗi người chúng ta có một Vị Thiên Chúa từ bi ngoài sức tưởng tượng của loài người!

Tình Yêu Chúa là thế, yêu đến cùng, yêu đến chết, yêu đến giọt máu và giọt nước cuối cùng, vì vậy mức độ yêu Chúa của chúng ta phải theo cách thức của Thánh Bernard: “Mức độ yêu Chúa là yêu vô hạn”.  Con người với nhau rất cần một tấm lòng thì với Thiên Chúa, Ngài cũng chỉ cần chúng ta dành trọn cho Ngài một Tấm Lòng mà thôi!

*************************

Lạy Chúa, chúng con thật yếu đuối, “điều con muốn thì con không làm, điều con không muốn thì con lại làm” (x. Rm 7:19).  Thật trớ trêu thay! Nhưng Ngài vẫn không chấp, vẫn sẵn sàng tha thứ tất cả, tha thứ vô điều kiện chỉ vì Tình Yêu Ngài dành cho con luôn trọn vẹn, trước sau như một.  Có nhiều lúc con cô đơn và thất vọng ê chề, xin Ngài thương độ trì, vì con xác tín “Ngài là Đấng đã gọi con, Ngài đang ở với con, Ngài không để con cô đơn một mình” (Ga 8:29) và “xin thêm đức tin cho con” (Lc 17:5).  Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen!

Trầm Thiên Thu

From: langthangchieutim

và Anh chị Thụ & Mai gởi

ĐẦU NĂM MỪNG TUỔI… “NHÓM TOBIA”

ĐẦU NĂM MỪNG TUỔI… “NHÓM TOBIA”

Tác giả: Lm. Lê Quang Uy, DCCT

nguồn:conggiaovitenam.net

Có lẽ công việc BVSS trước hết mọi mặt chính là đi nhặt xác thai nhi đem về lo tẩm liệm, chôn cất hoặc hỏa táng. Và nếu chọn mốc khởi sự là năm 1992, thì anh Tống Phước Hiếu cùng với người thân trong gia đình và các bạn sinh viên Huế sẽ được công nhận là thành viên “Nhóm Tobia” đầu tiên, đã tận tụy ân cần từng ngày vun đắp những nấm mộ thai nhi trên các quả đồi bỏ hoang của Giáo Xứ Ngọc Hồ, cố đô Huế. Từ đó đến nay đã 21 năm, 3 quả đồi trắng xóa những cây thập giá, có lẽ phải đến hàng mấy vạn anh hài.

Chúng tôi đóng ngoặc kép tên gọi “Nhóm Tobia” là vì không có hẳn một Nhóm nào mang tên Tobia, nhưng cứ hễ ở đâu khởi sự có chương trình BVSS, thì người ta có thể làm ngay khâu lo “hậu sự”, và như thế họ trở thành các hậu duệ của Thánh Tobia trong Cựu Ước.

Ngày xưa còn bé, trước 75, cuối tuần tôi thường được bố giao việc đi bộ từ Nhà Thờ Phanxicô Đakao ra Nhà Thờ Tân Định để nhận báo đem về phát cho từng nhà bổn đạo, khi băng ngang đường Hai Bà Trưng, nhìn sang phía bên phải thấy Trại Hòm Tobia, tôi cứ sờ sợ, ghê ghê thế nào ấy. Của đáng tội, những gì có hơi hướm sự chết, ai mà không hãi !?! Vậy mà không ngờ hơn bốn mươi năm sau, bản thân mình cũng liên quan đến “Nhóm Tobia”.

Có điều, ngày xưa Trại Hòm Tobia có câu slogan lừng danh “Sống một cái nhà, thác một cái hòm”, các thai nhi của chúng tôi bây giờ làm gì mà dám mơ có được hẳn một cái hòm ?!? Khi được các cộng tác viên “Nhóm Tobia” kín đáo mang ra khỏi bệnh viện hoặc phòng khám có dịch vụ phá thai, các bé nằm chung với nhau trong những túi nylon màu đen lõng bõng nước, từ đó đem về các Nhà Dòng hay Nhà Xứ, có khi là về một ngôi Chùa nữa.

Đến khi đem chôn thì các bé được đặt chung trong một cái bát hương, hay hũ sành, trám ximăng lại rồi táng vào hầm mộ, hoặc đào sâu xuống đất, nơi sẽ xây lên một nấm mộ bé xíu, quét vôi trắng, hoặc ốp đá đen, thường là mộ chung của 20 đến 30 em bé. Ở DCCT và một vài nơi khác giữa lòng các thành phố lớn, khi chọn giải pháp là thiêu, tro cốt các bé như nắm bột màu ngà ngà trắng, được gói lại, hàn kín trong những bao nylon trong, đặt gọn giữa lòng một viên gạch kích thước 15x15x25cm, mỗi viên gạch như thế là khoảng 100 cháu. Ở Sàigòn trước đây mỗi ngày chỉ 1 viên, bây giờ có khi phải là 2, 3 viên. Cứ thế, sau 10 năm, riêng Nhà Dòng chúng tôi đã nhặt về tính ra đã hơn 35 vạn cháu bé, vượt qua số lượng thai nhi được chôn cất sau hơn 20 năm ở Huế !

Để có được những Nghĩa Trang như thế, các Linh Mục nam nữ Tu Sĩ chúng tôi làm sao cho xuể từ A đến Z ? Rõ ràng phải có rất đông anh chị em Giáo Dân cộng tác gắn bó tin cậy suốt nhiều năm mà chúng tôi xin được gọi chung là “Nhóm Tobia”.

Trước hết phải kể đến các y bác sĩ, điều dưỡng, y công còn có lương tâm, tại các nơi có phá thai, họ dứt khoát không nhúng tay phạm tội ác phá thai nhưng cũng không đành lòng làm ngơ để xác các bé bị đem đi như rác thải y tế hoặc tệ hơn, bỏ tọt vào nhà cầu, giật nước ùm một cái là xong như người ta vẫn thản nhiên làm.

Tiếp theo, chỉ tính riêng với DCCT, là một đội ngũ khoảng 40 anh chị em, do tính cách công việc quá nhạy cảm, họ gần như hoạt động đơn lẻ độc lập, không quen không biết nhau, nhiều lắm là đi chung 2 người với nhau hoặc chia nhau luân phiên hai tư sáu – ba năm bảy. Họ hoàn toàn tự nguyện, lắm khi chúng tôi hỏi thăm, họ cũng khéo léo từ chối không cho biết tên, biết địa chỉ và nghề nghiệp. Có lẽ họ vừa muốn khiêm tốn âm thầm làm việc, lại vừa muốn tránh mọi sự dòm ngó đồn thổi. Suốt buổi sáng cho đến tối khuya, dù mưa gió, áp thấp nhiệt đới, rớt bão tràn về thành phố, bất cứ lúc nào có em bé bị giết, họ lại có mặt để nhận xác và đem về nơi Góc Thương Xót, cuối hành lang dãy Nhà Hiệp Nhất ở DCCT chúng tôi. Họ hiểu, chỉ một sơ sảy trễ hẹn hay bỏ phiên, các em bé có thể bị vứt đi không thương tiếc, làm mồi cho chuột, chó, mèo, ruồi nhặng…

Kế đó, vào lúc 21g30 hằng đêm, khi cái vại lớn ở chỗ chúng tôi đã đầy ngập những túi nylon đen, ít gì cũng cả trăm xác, mà lắm hôm gặp đợt cao điểm phá thai, tổng cộng phải đến 10Kg xác em bé, đến phiên các bạn Nhóm Fiat ( gần đây có thêm Nhóm Amen là c1svien gốc Tân Hà, Bảo Lộc ), từng hai bạn trẻ làm thành một ca, gói ghém kỹ lưỡng tất cả trong 2, 3 lớp bao nylon to và dầy, túm lại, buộc chặt, thắp một nén nhang, đứng im cầu nguyện trong mấy phút trước tượng Đức Mẹ và ảnh Lòng Chúa Thương Xót, rồi rời Góc Thương Xót mang tất cả đi một đoạn đường khoảng 10 cây số đến một ngôi Nhà Nguyện nhỏ bé xa xôi ở ngoại thành.

Cuối cùng, tại điểm lo hậu sự, một thầy trợ sĩ DCCT sẽ cùng các bạn trẻ trong “Nhóm Tobia” riêng của thầy, đón lấy, đưa các bé ra khỏi các túi nylon, trộn với vôi bột, lại cầu nguyện, rồi bắt đầu đặt vào lò thiêu bằng gaz thật an toàn, gọn nhẹ, không gây ô nhiễm. Mấy tiếng đồng hồ sau, nhiệt độ giảm dần, tro cốt các cháu từ nay sẽ yên nghỉ trong từng viên gạch lớn ghi rõ trên nắp bên ngoài: RIP ( Requiescat in Pacem ) xây thành 3 bức tường lớn hình chữ U của Nghĩa Trang Anh Hài.

Như vậy đó, với 4 khâu lần lượt nối tiếp nhau của “Nhóm Tobia”, những linh hồn bé bỏng bị con người từ khước được về bên Chúa, còn thân xác tý hon thì được chăm sóc chu đáo. Công việc lầm lũi âm thầm, không lương bổng, không bồi dưỡng nhưng lại đòi hỏi một tinh thần trách nhiệm rất cao, giàu tình thương và lòng trung tín, không được để thất hẹn, cho dẫu phải phóng xe gắn máy đêm hôm về tận Bình Dương, Biên Hòa, Tây Ninh, Mỹ Tho rồi trở lại Sàigòn…

Hôm 28 Tết vừa qua, lúc 8g30 sáng, một cú phone bất ngờ từ Hóc Môn, cách Nhà Dòng chúng tôi khoảng 12 cây số: “Cha ơi, đến 10g30, cha gửi một bạn về nhận một thai nhi nhé, mẹ bé bây giờ đang nằm chờ trong phòng chuẩn bị rồi…” Các bạn gốc Sàigòn thì đang còn phải đi làm những ngày cuối năm, các bạn khác trong “Nhóm Tobia” thì đã về quê ăn Tết, tôi đang lo có khi chính mình phải lên đường, thì một bạn trẻ đang ngồi cộng sổ sách Quỹ Người Nghèo nghe tin đã nhận lời ngay: “Bố để con đi cho… Nhưng… khu vực ấy con không rành đường…” Cuối cùng bạn trẻ ấy cũng đã lên đường và mang về một bào thai đã 4 tháng tuổi còn ấm nóng đúng giữa trưa.

Tôi gọi phone hỏi cộng tác viên các nơi: “Tết nhất có phá thai không nhỉ ?” Họ trả lời: “Có chứ cha, cứ trả tiền cao là người ta làm tất ! Cha chuẩn bị tinh thần nhé…” Vâng, chúng tôi đã luôn chuẩn bị tinh thần, nhưng vẫn có một nỗi xót xa, buồn đến rũ người…

Còn nhớ, trước khi có các bạn Fiat tình nguyện, suốt trong 6, 7 năm liền, khâu thu gom xác thai nhi đưa đi thiêu này do gia đình bác MH. đảm nhận. Vợ chồng, các con trai con gái chia phiên nhau trong tuần, đến cả cô con dâu trong những ngày đang mang thai sắp sinh cũng luôn sẵn sàng. Vậy mà có lần cô con gái Út đang cặm cụi chở xe Honda một bọc to xác các thai nhi, dọc đường gặp một ông thầy tu trẻ, ông cười cợt mỉa mai: “Sao em ngu thế ? Người ta ăn ốc, em lại phải đi đổ vỏ à ?”

Vâng, tại sao lại có những con người, hầu hết là các bạn trẻ, lại tình nguyện làm cái chuyện ngược đời và có vẻ tào lao vớ vẩn như thế ? Nhiều Linh Mục cũng thường chất vấn chúng tôi theo cái kiểu châm biếm giễu cợt: “Sao các ông không chịu lo ngăn ngừa ngay từ cái gốc, mà cứ toàn lo giải quyết chuyện cái ngọn như thế, chẳng ra đâu vào đâu, vô ích !” Chúng tôi bực bội lắm nhưng rồi cũng đành nhịn, có cãi, có phân bua cũng bằng thừa, người ta không hề chú ý xem chương trình BVSS còn nhiều mặt hoạt động khác chứ đâu chỉ có khâu hậu sự chôn cất ! Những dư luận như thế thường chỉ có vậy, rồi thôi, chẳng thấy ai cùng lên tiếng, chẳng thấy ai bắt tay vào việc để cùng chúng tôi lo cái gốc rễ của vấn nạn nạo phá thai…

Ngẫm nghĩ thấy cái thân phận làm Tobia là như thế…

Đọc lại chuyện ông Tôbia trong Cựu Ước thì thấy được an ủi khích lệ rất nhiều. Cha con Tôbít – Tôbia quả thật là người hiền lành dễ thương chứ không đành hanh bần tiện, giàu lòng nhân ái chứ không vô cảm, luôn sẵn sàng giúp người nghèo đói khốn quẫn. Lại thấy xác những người bị vua giết hại quăng ra ngoài thành, không nỡ để cho thú dữ xé thịt, cha con ông lại đi đào huyệt chôn cất đàng hoàng tử tế. Vua biết được thì tức giận cho lùng bắt trị tội, ông Tôbit đã phải bỏ trốn biệt tích, gia sản bị sung công tất cả, trừ bà vợ là Anna và con trai là Tôbia.

Rồi mãi đến khi vua ấy bị giết chết, vua khác lên ngôi, ông Tôbít mới được tha về, vậy mà hai cha con vẫn cứ liều mình đi chôn cất những xác chết oan khiên đầu đường xó chợ. Láng giềng chế nhạo và mắng rằng: “Hắn vẫn còn chưa sợ ! Người ta truy nã để giết hắn về tội ấy và hắn đã phải trốn đi, thế mà hắn lại vẫn cứ đi chôn cất người chết !” ( Tb 2, 7 ).

Sau này, khi Tôbia cưới được vợ phương xa là Sara và mang thuốc quý trở về chữa bệnh mù cho cha, thiên thần Raphaen mới bảo với cha con Tôbia: “Chính tôi đã tiến dâng những lời cầu nguyện lên trước nhan vinh hiển của Đức Chúa, để xin Chúa nhớ đến hai người; tôi cũng làm như vậy khi ông chôn cất người chết. Và khi ông không ngại trỗi dậy, bỏ dỡ bữa ăn để đi chôn cất người chết, bấy giờ tôi được sai đến bên ông để thử thách ông và chữa lành cho ông…” ( Tb 12, 12 ).

Cựu Ước ghi lại câu chuyện thật có hậu. Trải qua bao thăng trầm, vui buồn, hạnh phúc và khốn khổ, ông Tôbít sống thọ đến 112 tuổi trong bình an. Còn Tôbia còn thọ hơn cha, đến 117 tuổi mới ra đi trong hạnh phúc. Có cái gì đó là lẽ nhân – quả trong cuộc đời cha con ông Tôbia hay đó là phần gia nghiệp Thiên Chúa ban tặng cho những ai sống công chính và có tấm lòng xót thương người ?

Trước mắt, chúng tôi viết bài này không nhắm đến chuyện phô trương, kể lể công khó thay cho các anh chị em “Nhóm Tobia” gần xa khắp nơi trên quê Việt, nhưng thật sự chỉ muốn “mừng tuổi” họ đúng vào ngày đầu năm mới.

Vâng, hôm nay họ đang cặm cụi đi “đổ vỏ” trong khi người đời tiếp tục ngang nhiên “ăn ốc”, họ vẫn nhẫn nại chôn cất các thai nhi đáng thương hằng ngày. Trong thinh lặng âm thầm của Sự Chết vẫn có vạn điều lên tiếng nói cho Sự Sống, cho Lương Tri, “Nhóm Tôbia” vẫn đang ở đầu sóng ngọn gió của phong trào BVSS. Họ vẫn đang chỉ ra cho mọi người thấy một đất nước ngỡ là đã hòa bình nhưng hằng năm vẫn có đến 3 triệu em bé phải chết, một quê hương có quá nhiều nghĩa địa và những rừng cây thập giá…

Mừng tuổi “Nhóm Tôbia” thế nào đây ? Chúng tôi tin, chẳng phải đợi đến cuối đời, ngay từ bây giờ anh chị em cũng đã được hưởng ân phúc trong Bình An thật sự của Thiên Chúa không thua gì cha con ông Tôbia ngày xưa…

“Phúc thay ai biết xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” ( Mt 5, 7 ).

Lm. QUANG UY, DCCT,

Mùng Một Tết, Chúa Nhật 10.2.2013 (Ephata 548)

Niềm hạnh phúc

Niềm hạnh phúc

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi lúc 1:53 Sáng 20/02/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (20.02.2013) – Sài Gòn – Hạnh phúc là gì? Chắc hẳn chẳng ai có một định nghĩa chính xác nhất. Người thì cho thế này là hạnh phúc, người thì cho thế kia là hạnh phúc, người lại cho thế nọ là hạnh phúc. Chẳng ai giống ai, mỗi người đều có quan niệm và cách sống khác nhau!

Có chuyện kể thế này: Người nọ nghe nói có một đạo sư nổi tiếng nên tìm đến hỏi về đạo. Đến nơi, anh thấy trong nhà của vị đạo sư trống trơn, chỉ có một cái giường, một cái bàn, một cái ghế và một cuốn sách.

Anh ngạc nhiên hỏi: “Sao nhà đạo sư trống trơn, không có đồ đạc gì cả?”. Đạo sư hỏi lại: “Thế anh có hành lý gì không?”. Anh đáp: “Dạ, có một va-li”. Đạo sư hỏi: “Sao anh có ít đồ vậy?”. Anh đáp: “Vì đi du lịch nên đem ít đồ”. Đạo sư nói: “Tôi cũng là một người du lịch qua cuộc đời này nên không mang theo đồ đạc gì nhiều”.

Một câu nói đầy triết-lý-sống. Chúng ta thường quên rằng mình cũng chỉ là “khách du lịch qua cuộc đời này” – lữ khách trần gian, nhưng lại lầm tưởng mình sẽ ở mãi nơi đây, nên tham lam, ôm đồm, tích trữ quá nhiều đồ vật, tài sản. Đàn bà lo tích trữ đủ loại quần áo, giầy dép, vòng vàng, nữ trang,… Đàn ông lo thu gom đủ thứ máy móc, xe cộ, ti-vi, điện thoại,…

Ở đời, người ta thường cho hạnh phúc là có được cái này hoặc cái kia như nhà lầu, xe hơi, vợ đẹp, con ngoan, tài sản, địa vị, chức quyền,…  Thế nên khi chưa có thì người ta muốn có, làm đủ mọi cách để chiếm hữu; có rồi thì người ta sợ mất hoặc xem thường, rồi lại muốn có cái khác “ngon” hơn, nếu không thỏa mãn thì buồn phiền, bất mãn, khổ sở,… Người ta không bằng lòng với hiện tại, đúng như tục ngữ nói: “Đứng núi này trông núi nọ”.

Cuộc sống thật nhiêu khê và nan giải! Ngược lại, người biết tu thân thì thấy “không có” là niềm hạnh phúc. “Không có” ở đây là do trí tuệ quán chiếu, thấy mọi sự phiền toái đều do ham muốn mà ra. Bởi thế người tu thân không muốn có, nếu đã có rồi thì tập xả ly – nghĩa là đừng “bận lòng” tới nó. Tại sao? Vì những thứ “có” trên thế gian này đều là ràng buộc!

GIAO ƯỚC ĐỂ LÀM GÌ ?

Đức Chúa đưa ông Áp-ram ra ngoài và phán: “Hãy ngước mắt lên trời, và thử đếm các vì sao, xem có đếm nổi không. Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó!” (St 15:5). Nghe vậy, ông tin Đức Chúa, và vì thế, Đức Chúa kể ông là người công chính. Bất cứ ai thành tâm và tuyệt đối tin kính Thiên Chúa đều được kể là công chính. Rồi Ngài phán với ông: “Ta là Đức Chúa, Đấng đã đưa ngươi ra khỏi thành Ua của người Can-đê, để ban cho ngươi đất này làm sở hữu” (St 15:7). Ông liền thưa: “Lạy Đức Chúa, Đức Chúa làm sao mà biết là con sẽ được đất này làm sở hữu?” (St 15:8). Ngài phán với ông: “Đi kiếm cho Ta một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con cừu đực ba tuổi, một chim gáy và một bồ câu non” (St 15:9).

Và rồi ông kiếm cho Ngài tất cả những con vật ấy, xẻ đôi ra, và đặt nửa này đối diện với nửa kia; còn chim thì ông không xẻ. Sau đó, mãnh cầm sà xuống trên các con vật bị giết, nhưng ông Áp-ram đuổi chúng đi. Lúc mặt trời gần lặn, một giấc ngủ mê ập xuống trên ông Áp-ram; một nỗi kinh hoàng, một bóng tối dày đặc bỗng ập xuống trên ông. Khi mặt trời đã lặn và màn đêm bao phủ, bỗng có một lò nghi ngút khói và một ngọn đuốc cháy rực đi qua giữa các con vật đã bị xẻ đôi. Những hình ảnh đó cho biết là Thiên Chúa đã nhận lễ vật. Hôm đó, Đức Chúa lập giao ước với ông Áp-ram: “Ta ban cho dòng dõi ngươi đất này, từ sông Ai-cập đến Sông Cả, tức sông Êu-phơ-rát” (St 15:18).

Giao ước dành cho Tổ phụ Áp-ra-ham cũng là Giao ước dành cho Dân Chúa, tức là chúng ta, vì Thiên Chúa là Chân Lý, là Ánh Sáng, là Điều Thiện, Ngài chỉ có muốn và làm Điều Tốt Lành. Tác giả Thánh vịnh đã vinh hạnh và tin tưởng cất tiếng ca tụng: “Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ người nào? Chúa là thành luỹ bảo vệ đời tôi, tôi khiếp gì ai nữa?” (Tv 27:1), đồng thời cũng kêu xin và tự khuyến cáo: “Lạy Chúa, cúi xin Ngài nghe tiếng con kêu, xin thương tình đáp lại. Nghĩ về Ngài, lòng con tự nhủ: Hãy tìm kiếm Thánh Nhan” (Tv 27:7-8a). Ngài mong muốn chúng ta hoàn thiện (x. Mt 5:48), nhưng Ngài biết chúng ta rất khó hoàn thiện, và Ngài muốn ít ra chúng ta phải biết muốn thực sự hướng thiện. Goethe nhận định: “Toàn thiện là luật của Trời, hướng thiện là lối của người”. Dù chưa hoàn thiện nhưng chúng ta phải biết khao khát sự thiện.

Ngài im lặng, không phải Ngài thử thách chúng ta, vì Ngài biết chúng ta thế nào nên Ngài không cần thử thách, mà Ngài chỉ muốn chúng ta nhận biết mình bất túc và bất trác, nhận biết mình bất lực mà thành tâm và kiên trì cầu nguyện: “Lạy Chúa, con tìm Thánh Nhan Ngài, xin Ngài đừng ẩn mặt. Tôi tớ Ngài đây, xin đừng giận mà ruồng rẫy, chính Ngài là Đấng phù trợ con. Xin chớ bỏ rơi, xin đừng xua đuổi, lạy Thiên Chúa, Đấng cứu độ con” (Tv 27:8b-9). Được Thiên Chúa thực hiện lời hứa thì chúng ta phải biết tạ ơn thật lòng. Đó cũng là niềm hạnh phúc!

Tác giả Thánh vịnh cho biết: “Tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống” (Tv 27:13). Đức Chúa là Thiên Chúa của người sống chứ không là Thiên Chúa của kẻ chết. Đã hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa, nên tác giả Thánh vịnh khuyến khích mỗi chúng ta: “Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào! Hãy cậy trông vào Chúa” (Tv 27:14). Ai biết trông cậy, tin tưởng và yêu mến Chúa thì thật là hạnh phúc!

GIAO ƯỚC ĐỂ NHÂN LOẠI HẠNH PHÚC

Cũng vậy, Thánh Phaolô đã dày kinh nghiệm cả về “bước lầm lạc” lẫn “bước đức tin” nên ngài chân thành tâm sự: “Thưa anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em. Vì, như tôi đã nói với anh em nhiều lần, và bây giờ tôi phải khóc mà nói lại, có nhiều người sống đối nghịch với Thập giá Đức Kitô: chung cục là họ sẽ phải hư vong. Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn. Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian. Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Ngài có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài” (Pl 3:17-21). Thánh nhân nói thẳng thắn và rõ ràng, chẳng úp mở chi. Chỉ vì “cái bụng”, tức là “miếng ăn”, mà người ta có thể sát hại nhau không gớm tay!

Thánh Phaolô tiếp tục nhắn nhủ: “Hỡi anh em thân mến, lòng tôi hằng tưởng nhớ anh em là niềm vui, là vinh dự của tôi. Anh em rất thân mến, anh em hãy kết hợp với Chúa mà sống vững vàng như vậy” (Pl 4:1). Cầu nguyện liên lỉ là kết hợp với Chúa, đó là việc rất cần thiết đối với mọi người, mọi nơi và mọi lúc: Ăn với Chúa, chơi với Chúa, vui với Chúa, buồn với Chúa, cười với Chúa, khóc với Chúa, làm việc với Chúa, nghĩ với Chúa, viết với Chúa, nghỉ ngơi với Chúa, thư giãn với Chúa, ngủ với Chúa, thức với Chúa,… Như vậy mới là niềm hạnh phúc đích thực!

Trước đó, khi nói về “Triều đại Thiên Chúa gần đến”, Đức Giêsu kết luận: “Trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải chết trước khi thấy Nước Thiên Chúa” (Lc 9:27). Khoảng tám ngày sau, Ngài lên núi cầu nguyện, có đem theo các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê.

Đang lúc Ngài cầu nguyện, dung mạo Ngài bỗng đổi khác, y phục Ngài trở nên trắng tinh chói loà. Bất ngờ có hai nhân vật đàm đạo với Ngài, đó là ông Môsê và ông Êlia. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem. Còn ông Phêrô và đồng bạn thì ngủ mê mệt, nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu, và hai nhân vật đứng bên Ngài.

Đang lúc hai vị này từ biệt Đức Giêsu, ông Phêrô thưa với Ngài rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (Lc 9:23). Nửa tỉnh nửa mê nhưng ngư phủ Phêrô vẫn thấy “ép-phê” vô cùng. Lạ mà hay. Lâng lâng thế nào ấy. Khó tả lắm! Ông vốn tính nóng như lửa, thẳng như ruột ngựa, có gì “phang” ngay, muốn gì thì làm cho bằng được. Nhưng nói xong rồi mà ông không biết mình nói gì, y như kẻ mộng du vậy. Dù sao thì ông cũng hạnh phúc vì có “cảm giác lạ”.

Ông còn đang nói, bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ. Quái thật! Họ chả biết ất giáp gì ráo trọi. Rồi từ đám mây lại có tiếng phán: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” (Lc 9:35). “Choáng” thật! Tiếng phán vừa dứt, chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu. Lạ ghê! Sao thế nhỉ? Ba ông nín thinh, vừa vui mà vừa sợ, vừa thích mà cũng vừa lo. Thế là trong những ngày ấy, các ông không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã thấy.

Ngạn ngữ Pháp có câu: “Đừng sống theo điều bạn mơ ước, hãy sống theo điều bạn có thể”. Mơ ước thì vô hạn, con người thì hữu hạn, vì thế mà đừng ảo tưởng, hãy thực tế với khả năng của mình, Thiên Chúa sẽ nâng đỡ và đồng hành với chúng ta. Và rồi chúng ta sẽ được hưởng niềm hạnh phúc đích thực như ba Tông đồ đã được “nếm” trước khi chết.

Lạy Thiên Chúa uy linh, xin giúp chúng con biết tìm kiếm những gì thuộc về Nước Trời, và xin cho chúng con cảm nghiệm được niềm hạnh phúc ngọt ngào ngay giữa những đau khổ trần gian này. Xin cậy nhờ công nghiệp của Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của chúng con, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Thuyết sáng tạo và thuyết tiến hóa

Thuyết sáng tạo và thuyết tiến hóa

Chu Tất Tiến. M.S.P.

Đăng bởi lúc 2:07 Sáng 20/02/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (20.02.2013) – California, USA – Một yếu tố rất quan trọng trong vấn đề tranh luận giữa Thuyết Tiến Hóa (Theory of Evolution) và Thuyết Sáng Tạo (Theory of Creation) mà đa số những tranh luận viên đều cố tình quên hoặc không để ý, đó là chữ “Thuyết” (Theory). Cả hai đều là “Thuyết”, không phải là những định luật (law) khoa học.

Tuy nhiên, vì Thuyết Tiến Hóa là một hệ thống suy đoán, lý luận được xây dựng dựa theo những quan sát công phu một số sự kiện và sự thu thập những mẫu vật có số tuổi lên đến hàng triệu năm nên những người có trình độ nhận thức khoa học của thế kỷ 19 và giữa thế kỷ 20 thấy khâm phục rồi tin rằng đó chính là những sự kiện khoa học (scientific facts). Trong khi ấy, những người theo Thuyết Sáng Tạo lại không thể chứng minh được sự hiện hữu của Thiên Chúa bằng những dữ kiện khoa học, mà chỉ chứng minh bằng những di cảo, những cổ văn, cổ ngữ có từ khi loài người mới văn minh, biết ghi chép trên các loại giấy cổ mà họ gọi là Cựu Ước hay Tân Ước, cùng với những sự kiện, tuy có thực, nhưng mang tính huyền bí, “phép lạ”, khó dẫn chứng được mắt xích khoa học liên hệ từ chuyện nọ đến chuyện kia. Hơn nữa, các cổ văn, cổ thư đã được viết từ ngàn năm trước, khi mà trình độ suy luận, diễn giải của người thời đó hoàn toàn khác với phương cách suy luận, diễn giải của người thời nay, nên khi đọc các cổ văn, cổ thư đó, nếu không tìm hiểu trước về cách diễn giải của người thời xưa, thì nhất định sẽ hiểu lầm tai hại.

Thí dụ như khi nói về sự Sáng Thế, nhiều người đời nay còn tin rằng Thiên Chủa đã tạo ra vũ trụ chỉ trong Bẩy (7) ngày theo Dương Lịch! Những kẻ chế nhạo đạo Công Giáo thường mang vấn đề “sáng thế trong 7 ngày” ra mà cười cợt. Họ đều quên một yếu tố quan trọng là cuốn lịch hiện tại với ngày tháng năm mà chúng ta đang xử dụng hôm nay chỉ mới được thống nhất từ ngày 24 tháng 2 năm 1582, thế kỷ thứ 16, do Giáo Hoàng Công Giáo là Pope Gregory 13 ban hành!

Trong khi đó, cổ thư Do Thái lại được viết trước đó cả chục thế kỷ! Thời gian của một “Ngày” trong cổ thư có thể dài hay ngắn hơn thời gian của “Ngày” của người hiện tại nhiều phút giây. Hơn nữa, cho dù có chấp nhận sự đo đạc thời gian “ngày” của hôm nay chính xác bằng với thời gian “ngày” trong cổ thư, cũng lại hoàn toàn sai lạc với ý định của người viết Sáng Thế Ký nếu diễn giải sách Sáng Thế hoàn toàn theo nghĩa đen.

Thứ nhất, không có Con Người nào có mặt lúc sáng tạo vũ trụ cả, làm sao mà biết được ngày nào và bao nhiêu thời gian mà Thiên Chúa đã tạo ra Trời và Đất? Thứ hai, theo lịch sử văn học của người Do Thái, những người viết cổ sử thời đó không viết theo thứ tự thời gian (Chronological order) mà thường tập hợp những điều giống nhau rồi cho vào một mục. Do đó, mới có một ngày cho “Ánh Sáng và Bóng Tối”, một ngày cho “Nước và Trời”, rồi “Đất và Biển”, “Ngày và Đêm, Mặt Trời và các ngôi sao”, rồi một ngày cho chim muông, và một ngày cho Con Người…

Ngay trong ẩn dụ “ngày và đêm” đó, thì mãi đến “ngày” thứ Ba (?) mới có “ngày và đêm”, vậy hai “ngày” trước không thể biết được là bao lâu!  Vì thế, nếu không tìm hiểu phương pháp ghi chép có tính “ghép loại” như thế, những người chỉ trích Thuyết Sáng Tạo là “tưởng tượng, hão huyền, không hợp lý, không khoa học” và rồi dựa theo đó mà tấn công Thiên Chúa Giáo một cách ấu trĩ thì lại chính là những người không có một chút ý niệm gì về khoa học cả! Trong khi đó, những người tin theo Thuyết Sáng Tạo lại không chú tâm vào việc giải thích những điều trên mà chỉ nói rằng đó là do sự “Mặc Khải của Thiên Chúa”, một ngôn ngữ còn khó hiểu hơn chuyện “Bẩy ngày đêm” nữa, nên càng làm cho vấn đề trở nên phức tạp hơn và tạo cớ cho những kẻ vô thần nhạo báng tôn giáo.

1. Thuyết Sáng Tạo và Khoa học

Thực tế, Thuyết Tiến Hóa dễ thuyết phục được nhiều loại người của thế kỷ 19 và giữa thế ký 20: những người tin theo  khoa học thực nghiệm một cách tuyệt đối và từ chối chấp nhận tất cả những gì mà khoa học không chứng minh được và những người, tuy hiểu rằng Thuyết Sáng tạo cũng có những điểm hữu lý,  nhưng vì mục tiêu cá nhân nào đó mà cứ cố gắng chống đối thuyết này cho đến cùng; trên hết là một số khoa học gia làm khoa học trong một phương diện chuyên môn nào đó nhưng chưa tới trình độ có thể cảm ứng được toàn bộ các ngành khoa học khác.   Vonn Braun, khoa học gia về hỏa tiễn, cha đẻ của hỏa tiển V2, kỹ sư không gian, kiến trúc sư không gian lừng danh thế giới, người mà trí não lúc nào cũng đầy những phương trình và các con số, đã nói:

“Khoa học và tôn giáo không phải đối nghịch nhau. Ngược lại, chúng là chị em với nhau. Trong khi khoa học cố học hỏi nhiều hơn về Sự Sáng Tạo (Creation), tôn giáo cố gắng hiểu nhiều hơn về Đấng Sáng Thế. Trong khi khoa học gia cố gắng thắng bớt những lực của thiên nhiên chung quanh ông ta, thì qua tôn giáo, ông ta lại cố gắng để thắng bớt lực thiên nhiên trong chính ông ta.” Ông còn khẳng định một cách rõ ràng: “Những kinh nghiệm với khoa học của tôi đã dẫn tôi tới Chúa. Chúng thách đố khoa học chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa. Nhưng liệu chúng ta có phải thực sự đốt lên một ngọn nến đế ngắm nhìn mặt trời không?” (http://en.wikipedia.org/wiki/Wernher_von_Braun#Personal_life).

Ý tưởng này của Vonn Braun cũng tương tự như ý tưởng của Pascal, nhà thiên tài toán học, triết gia, nhà vật lý, người phát minh ra chiếc máy tính đầu tiên của nhân loại vào thế kỷ 17, đã nói: “Khoa học nông cạn làm cho người ta xa Thiên Chúa, khoa học cao siêu làm cho người ta gần Thiên Chúa.”

Gần đây, các nhóm chuyên tấn công Công Giáo đã thường trích dẫn những lý luận của Stephan Hawking, người bênh vực Thuyết Tiến Hóa và chống lại Thuyết Sáng Tạo, như những lý luận xác thực và mạnh mẽ nhất của Khoa học đã “đánh đổ” được Thuyết Sáng Tạo. Thực tế, “Stephan Hawking của đại học Cambridge, cũng phải công nhận ý nghĩa tôn giáo của các định luật vật lý. Trong tác phẩm nổi tiếng “Stephen Hawking’s Universe”, ông đã tuyên bố “Tỷ lệ nghịch với khả năng thế giới vật chất hiện nay ra từ một vụ nổ lớn chỉ bởi tình cờ thật là khổng lồ. Tôi nghĩ chắc phải có nguyên nhân sâu xa có tính cách tôn giáo.” (Trích bài “Sáng Tạo vs Tiến Hóa” của Tiến Sĩ Nguyễn Lê Ân Điển, 2003)

2. Thuyết Tiến Hóa và Sự Ngẫu Nhiên

Thực tế nữa, là trong thế kỷ 21, cùng lúc với các khám phá, phát minh có thể nói là “phép lạ” của các nhà khoa học thuộc nhiều ngành khác nhau như Sinh Vật Học, Vật Lý, Toán Học, Khoa Học Hữu Cơ, Khoa Học Thực Nghiệm, Y Khoa…người ta càng thấy rõ có một sự “thiết kế cực kỳ thông minh” trong tất cả mọi vấn đề. Các nhà khoa học đã không thể chấp nhận Thuyết Tiến Hóa là thuyết chủ trương “mọi sinh vật, mọi loài trong vũ trụ đều xuất phát từ 1 tế bào đơn độc một cách ngẫu nhiên.” Người ta hòa toàn bác bỏ lý thuyết cho rằng 1 đơn bào có thể “tự biên, tự diễn” biến thành một khoa học gia, triết gia, các kỹ sư, bác sĩ, giáo sư, kiến trúc sư.. với những công trình khổng lồ, phức tạp hàng tỷ tỷ lần sự chuyển động của một chiếc đồng hồ tối tân. Tiến sĩ Jonathan Sarfati chế nhạo, “Làm sao mà một tế bào đơn giản mà ngẫu nhiên lại trở thành một Tiến Sĩ được?” (Jonathan Sarfati, Refuing Evoluion, 1999).

Sở dĩ vẩn còn một số các nhà khoa học vẫn duy trì quan niệm bảo vệ Thuyết Tiến Hóa, không phải vì Thuyết Tiến Hóa đúng mà vì các khoa học gia đó “chống” lại thuyết đối lập của Thuyết Tiến Hóa là Thuyết Sáng Tạo mà họ cho là không có cơ sở. Nhà Sinh Vật Học theo thuyết Tiến Hóa Richard Dickerson dẫn giải: “Khoa học, căn bản, chỉ là một trò chơi. Đó là một trò chơi với một luật bao trùm và được định nghĩa như sau: Luật số 1: Hãy để chúng ta tìm kiếm xem xa bao nhiêu và với sự nối dài nào mà chúng ta có thể giải thích được tính chất của vật lý và cái vũ trụ vật chất này thuần túy bằng những danh từ và nguyên nhân vật lý, mà không có sự can thiệp của một lực siêu nhiên nào” (R.E. Dickerson, J.Molecular Evolution, 1992).

Những vị này thật sự là ngoan cố. Họ không chấp nhận thuyết Thiết Kế Thông Minh hay Thuyết Sáng Tạo chỉ vì họ không muốn chấp nhận là họ thua trong những vấn đề mà họ không thể có khả năng giải thích được. Để “đánh đổ” các lý luận của Thuyết Tiến Hóa, triết gia C.S.Lewis viết: “Nếu cả hệ mặt trời được tạo ra bởi một va chạm ngẫu nhiên trong một tai nạn, thì sự hiện hữu của một đơn bào trên trái đất này cũng là tai nạn ngẫu nhiên, rồi cả sự tiến hóa của Loài Người cũng là một tai nạn ngẫu nhiên. Nếu thế, thì các tư tưởng của chúng ta cũng là thuần túy do ngẫu nhiên, những sản phẩm có tính cách ngẫu nhiên của sự di chuyển của các nguyên tử vật lý. Lý thuyết tai nạn ngẫu nhiên này cũng áp dụng cho các nhà vật chất học và các nhà thiên văn học cùng mọi người khác. Nhưng nếu tư tưởng của các nhà Vật Chất học và các nhà Thiên văn Học đều là các sản phẩm tạo ra từ các tai nạn ngẫu nhiên, làm sao chúng ta có thể tin tưởng họ là đúng được? Tôi không tìm thấy lý do nào để tin rằng một tai nạn ngẫu nhiên có thể cho ra những nguyên nhân đứng đắn cho mọi tai nạn ngẫu nhiên khác.” (C.S.Lewis, God in the Dock, 1970)

Chúng ta, ai có học qua khoa học, đều biết rằng các chuyển động của các nguyên tử, phân tử của vật chất đều theo một định luật, quy tắc nhất định, bất di bất dịch. Cấu tạo cũng như chuyển động của các nguyên tử của sắt, của đồng, của kẽm, của nước.. hoàn toàn khác nhau. Vì bắt được quy luật của các nguyên tử như thế, mà Einstein mới tìm ra được định luật E=mc2. Dựa vào phương trình bất di bất dịch này mà những khoa học gia kế tiếp mới làm ra bom nguyên tử! Nếu tất cả vật chất đều được tạo thành do sự ngẫu nhiên, thì .. còn khuya mới có bom nguyên tử! Cũng thế, các quy luật toán học, khoa học khác đều bất di bất dịch. Như theo định luật bảo toàn năng lượng, không một vật chất nào biến mất, chúng chỉ thay đổi đặc tính. Nước (H20) khi bị đun sôi thì thành hơi nước. Nước ở biển, sông bị sức nóng làm cho bốc hơi lên trời, gặp lạnh, đọng lại thành mưa, mưa làm cho sông, biển dâng lên, gặp hơi nóng mặt trời, lại bốc hơi.. Quy trình này diễn tiến từ hàng tỷ năm trước đến tỷ năm sau vẫn không thay đổi. Nếu tất cả quy trình chuyển hóa của vật chất mà theo sự ngẫu nhiên, tùy hứng, thì có lẽ địa cầu này bị triệt tiêu thành lỗ đen từ khuya, vì có lúc mà hơi nước biến thành mây, mưa, có lúc lại biến thành đất, đá, rơi xuống lỗ đầu thiên hạ! Có lúc cấu tạo của nguyên tử sắt thay đổi theo hứng, đột nhiên cục sắt biến thành kim cương cho thiên hạ lóa mắt chơi, lúc khác lại trở thành nhão nhẹt… Có lúc cơm, thịt, cá sau khi tiêu hóa thành phân thải ra ngoài, lúc khác nổi hứng ngẫu nhiên trở ngược lên miệng, thì Ô hô, ai tai!….

Cũng thế, với con người, sự phối hợp và phát triển các “genes” của cha và mẹ đều phải tuân theo một định luật nhất định, mới ra được một đứa con lành lặn, giống cha hoặc giống mẹ, hoặc giống ông, bà, chú, dì, cô, cậu…Theo Mendel, người vẽ ra một quy trình lai giống, và cũng là người tin theo thuyết Sáng Tạo, cho biết rằng sự nhân giống của con người cũng như của hạt đậu, đều tuân theo một quy luật rõ ràng, cho dù khuôn mặt, thân thể, tính tình của đứa con có khác cha và mẹ. Và, quy luật ấy là của Thiên Chúa ấn định! Nếu có “genes” nào của một cá nhân hay của một hột đậu nào mà bất tuân thượng lệnh, để phát triển một cách ngẫu nhiên, thì cá nhân ấy, hột đậu ấy phải giã từ thế giới này mà đi sang thế giới khác với căn bệnh mà người ta gọi là … Ung Thư (với con người), Ung Thối (với đậu)!

Nên nhớ rằng, mỗi đứa con ra đời chỉ mang theo một nửa “information” của “genes” cha hoặc mẹ. Thì dụ, như người cha có máu O, người mẹ có máu AB (nghĩa là có cả các đôi nhiễm sắc thể (chromosomes) A và B, thì đứa nhỏ sẽ có những đôi nhiễm sắc thể hoặc là AO hoặc BO, chứ không thể có AB. Đó là quy luật! Chẳng may mà đứa nhỏ có những đôi nhiễm sắc thể mà khang khác một tí, thì đời đứa bé coi như đi đong! Làm sao mà thuyết Ngẫu Nhiên có thể thực hiện được trên vật chất và con người được?

Như vậy, Thuyết Tiến Hóa, thật ra, chỉ là một sự giả thiết mang tính võ đoán khá cao.

Thuyết Tiến Hóa tin rằng ngẫu nhiên mà đơn bào thành đa bào, ngẫu nhiên mà cá bò lên cạn, ngẩu nhiên mà bốn cái vây cá biến thành bốn cái chân, rồi ngẫu nhiên giống ở dưới nước biến thành giống ở trên bờ, ngẫu nhiên cá biến thành khỉ, ngẫu nhiên khỉ biến thành người… Nghe huyễn hoặc còn hơn truyện Tề Thiên Đại Thánh vậy!

“Chỉ có một phương pháp làm cho chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào những điều xẩy ra trong quá khứ xa lắc xa lơ là nếu chúng ta có được các nhân chứng. Nhưng với Thuyêt Tiến Hóa thì hoàn toàn không có các nhân chứng nào cả. Những ý tưởng của họ thì hoàn toàn được lấy ra từ những suy đoán!” (Jonathan Sarfati, trang 29, sách đã dẫn).

3. Thuyết Tiến Hóa và Sự Phản Kháng để sinh tồn

Duy nhất chỉ có một điều mà Thuyết Tiến Hóa có vẻ đúng khi nói về sự phản kháng để sinh tồn. Chúng ta đều biết là từ khi phát minh ra Penicilline, thì đa số các vi trùng đều bị môn thuốc này giết chết, đa số các bệnh do vi trùng đều được điều trị bằng Penicilline. Nhưng với thời gian, vì con người lạm dụng Penicilline, nên vi trùng bắt đầu phản kháng lại và một số trở thành trơ trước loại thuốc trụ sinh này. Từ những “dose” nhỏ, người bệnh sau này phải dùng “dose” lớn và mạnh hơn. Vi Trùng đã tiến hóa để sinh tồn theo suy đoán của Darwin trong “sư lựa chọn của thiên nhiên” (Natural Selection)! Vì sự tiến hóa đó, mà con người phải chạy theo để tìm ra thuốc mới mạnh hơn và hiệu quả hơn. Thế kỷ này mà nghe nói đến dùng Penicilline hay Sulfamide (kháng sinh) để trị bệnh nhiềm trùng thì thật là cổ lỗ sĩ!

Nhưng có thật có thuyết tiến hóa để sinh tồn với vi trùng không? Thực tế, không hẳn như thế. Vi trùng có khuynh hướng tiết ra chất “penicilinase” để tiêu diệt “peniciline”. Vì con người dùng “Peniciline” tràn ngập, cho nên vi trùng cũng biến thái (mutation) tiết ra chất “penicilinase” tràn ngập để chống lại. Điều này làm cho vi trùng có khả năng biến thành “trơ” trước “peniciline” mà thôi.

Thuyết tiến hóa ngẫu nhiên để sinh tồn, do vậy, bị loại bỏ ở trường hợp này. Ngoài ra, thuyết tiến hóa cũng không giải thích được hiện tượng có nhiều chủng loại vi khuẩn mới với những “genetic information” mới, hoàn toàn không có liên hệ gì với các chủng loại cũ mà người ta đã khám phá thấy được.

Điều nực cười và đơn giản nhất mà người ta ít chú ý đến là đa số những mẫu vật mà Darwin thu thập được đều ở vùng Phi Châu và một số nước Á Châu, không thấy nhiều ở Châu Âu (Bắc Âu, Đông Âu), Bắc Mỹ và nhiều miền khác. Như vậy, thì sự tiến hóa của các sinh vật và động vật gồm loài người và các loại thú ở các miền khác ra sao?

Có theo đúng quy luật của sự “tự nhiên chọn lựa” của Darwin không?

4. Thuyết Tiến Hóa và sự Thoái Hóa

Khi nói đến sự Tiến Hóa của các sinh vật, Darwin không chứng minh được sự tiến hóa của Thực Vật!  Darwin không thể nói được cây ổi, cây xoài…tiến hóa từ tế bào nào? Tại sao có trái chôm chôm? Thuở trời đất hồng hoang ấy, đã có những tế bào nguyên thủy của các cây cối hiện tại chưa? Điều thấy rõ là, cũng như các sinh vật, động vật, cây cối càng ngày càng nhỏ đi, yếu hơn xưa nhiều, có nghĩa là đang “thoái hóa” dần, mà không “tiến hóa”. Các cây ngày xưa có thể có cả ngàn tuổi và to đùng; ngày nay, kiếm một cây vài trăm tuổi rất hiếm.

Thực vật ngày xửa ngày xưa chịu đựng sương nắng, gió, cát, bão bùng dai dẳng hơn bây giờ còn cây bây giờ trốc gốc rất nhanh trước các cơn gió bão. Các giống lúa và cây thực phẩm ngày nay, nếu không có bàn tay con người biến đổi “gene” thì dần dần èo uột và triệt tiêu. Sinh vật và động vật cũng thế, ngày xửa ngày xưa, con nào con nấy to lớn khủng khiếp, sao bây giờ lại nhỏ con đi? Giả sử mà lý thuyết tiến hóa để sinh tồn của Darwin mà đúng, có lẽ bây giờ con voi phải to hơn cái bin-đinh 10 tầng chứ, vì càng ngày trái đất càng chật hẹp, thức ăn, thực phẩm càng ngày càng hiếm, sự cạnh tranh gay gắt càng ngày càng phức tạp hơn, như vậy, động vật và sinh vật đều phải phát triển to hơn, mạnh hơn, dài hơn để tranh ăn.. Nhưng, rất tiếc, thực tế đã chứng minh hoàn toàn ngược lại, con gì, cái gì bây giờ cũng nhỏ hơn tổ tiên của chúng.

Điều quan trọng nữa để đánh gục thuyết Tiến Hóa và Chọn Lựa Tự Nhiên của Darwin là sự thoái hóa và lão hóa, sau cùng là cái Chết! Nếu đã khẳng định là mọi loài (all species) phải tiến hóa để sống còn, sao sự phát triển của mọi loài chỉ tới một giới hạn là đứng lại, lão hóa, và chết? Quy luật nào đã hãm sự tiến hóa lại? Con rùa sống dai nhất cũng chỉ trên dưới 100 năm. Con người sống lâu nhất là hơn 110 tuổi. Và cứ đúng đến tuổi 50,60, lập tức mọi cơ phận của con người bắt đầu đi ngược lại chu trình tiến hóa, trở thành lão hóa, và cuối cuộc đời là cái quan tài dưới hai thước đất (bây giờ thì hỏa thiêu, nghĩa là không còn “gần đất, xa trời” nữa).

Tại sao vậy? Thuyết Tiến Hóa cũng bị bế tắc khi cho rằng mọi sinh vật phải tự chọn lọc và biến đổi cuộc sống của mình cho thích hợp với môi trường chung quanh hầu tồn tại, nhưng lại không thể dẫn giải sự việc con cá hồi cứ đâm đầu từ biển vào sông, leo ngược qua bao nhiêu thác đứng, nhẩy ngược qua bao tảng đá chặn đường mà không tìm hiểu chiều cao của thác, của đá tương xứng với thân hình nhỏ bé của mình là bao nhiêu, để rồi chết bờ, chết bụi khi nhẩy hụt, hay khi đập đầu vào đá…chưa kể bị mấy chú gấu đứng chặn đầu thác, thong dong chộp lấy cho vào miệng! Mùi vị gì đã dẫn dắt đàn cá hồi đi trở về nguyên quán như thế? Tiếng gọi nào réo trong tim cá, buộc cá tìm cái chết như thế? Trường hợp này, nếu đem thuyết Tiến Hóa mà áp dụng thì thật là vụng về và ngớ ngẩn.

Điều quan trọng cuối cùng là ngay trong quan niệm về Tiến Hóa và Luật chọn lọc tự nhiên để sinh tồn đã khẳng định rằng có Thượng Đế, có Thiên Chúa. Khi nói rằng muôn loài đều tiến hóa, có nghĩa là con cá ở Bắc Cực, con chim cánh cụt ở Nam Cực, con chuột ở châu Á, hay con đại bàng ở Mỹ Châu cũng đều phải theo cái quy trình ấy. Vậy thì khi đã có một quy trình chung cho muôn loài, thì tất nhiên, phải hiểu là có một “luật” ràng buộc muôn loài ở trên khắp mặt địa cầu phải tiến hóa trong cùng một cường độ, tốc độ, và cùng một tần số, và nếu đã là “luật” thì phải có một sức mạnh (power), một đối tượng (object) tạo ra cái luật ấy và cai quản cái luật ấy. Sức Mạnh hay Đối Tượng ấy là Ai? Dĩ nhiên, để có thể điều khiển muôn loài theo quy trình tiến hóa, Sức Mạnh ấy phải ở Trên và Bao Trùm muôn vật, và phải là Toàn Năng (Omnipotence), Toàn Diện, ở khắp mọi nơi (Omnipresence), và Toàn Trí (Omniscience) thì mới có thể điều khiển muôn loài tiến hóa chung với nhau, không để chỉ mình con khỉ tiến lên nhưng lại để con voi đi lùi, không để con chó săn cừu ở Trung Đông mọc lông dầy trong khi bỏ mặc con ngựa ở vùng Siberia lông mỏng sinh sống trong cùng một thời tiết lạnh…

Như thế, với các khám phá về khoa học hiện đại, thuyết Tiến Hóa đã thật sự trở thành lỗi thời, lạc hậu. Và, nếu không chấp nhận Thuyết Sáng Tạo, người ta không có khả năng chứng minh sự hiện hữu của muôn loài, sự thiết kế thông minh trong từng hơi thở, từng tế bào của con người hay của các vi sinh vật, kể cả vi trùng và vi khuẩn.

Để tìm hiểu về Thuyêt Sáng Tạo, những người thực tâm muốn biết nguyên lý của các sinh hoạt của vũ trụ, chỉ cần cầm lấy một chiếc lá nhỏ bé trong tay, với một tâm hồn cầu tiến thật trong sáng, vô vụ lợi, không dục vọng, không ham danh hám lợi, mà suy nghĩ về sự hình thành của chiếc là từ khi còn là một nụ non, rồi lắng nghe nhịp chẩy của dòng nhựa trong chiếc lá, suy nghĩ về sự phân phối khí Oxy đến từng tế bào trong lá, thì sẽ thấy ngay BÓNG DÁNG CỦA MỘT ĐẤNG TOÀN NĂNG, Đấng đã sáng tạo ra chiếc lá nhỏ bé đó cũng như cả vũ trụ mênh mông này.

Thật vậy, trí óc của con người đang tập trung mọi nỗ lực hầu mong vươn tới những nơi cao hơn, xa hơn, khó khăn hơn, mù mịt hơn…để tìm gặp Đấng Toàn Năng ấy, Đấng mà con người đặt tên là Thiên Chúa, hay là Thượng Đế (Vua ở trên cao), hay Ông Trời.  Dĩ nhiên, con đường ấy sẽ còn gặp rất nhiều khó khăn, vì có những điều khó chứng minh bằng khoa học thực nghiệm, tuy nhiên, nếu hiểu rằng có những sự kiện vật chất mà chúng ta không thể cân, đo, đong, đếm trên bàn cân được, nhưng vẫn hiện diện trong đời sống, như ý nghĩ, hơi thở, không khí, gió.. Người ta không thể mang ý nghĩ lên bàn cân, nhưng ý nghĩ vẫn tràn ngập trong trí não. Người ta cũng không thể đưa hơi thở và không khí cũng như gió lên màn ảnh để xem chúng nó hình thù như thế nào, nhưng không có chúng, thì đời sống không có thực. Trên hết, là người ta không thể mang linh hồn ra mà chụp hình, nhưng nhất định có linh hồn, vì nếu không có linh hồn thì cái điều gì đã mất đi khi một con người nằm xuống, bất động, và chết? Tại sao khi một phút trước, cái xác thân đó cử động, suy nghĩ, và làm việc mà chỉ một phút sau, đã trở thành một đống thịt ghê sợ?

Có một ẩn số X đã mất đi khi người ta chết.

Người sống – (ẩn số X) = Người Chết!

Nói khác đi,

Người Sống – Người Chết = ẩn số X

Có phải ẩn số X là linh hồn không? Và, nếu tin là con người có linh hồn, thì phải tin có Thượng Đế, có Ông Trời, có Thiên Chúa.

Đó là con đường tìm hiểu của các nhà khoa học chân chính. Mặc cho các lời phỉ báng đến từ các kẻ vô thần, mặc cho chính các người tin vào sự hiện hữu của Linh Hồn và Thiên Chúa đã làm muôn vàn tội lỗi khiến cho bóng dáng của Thiên Chúa mờ đi trước nhân loại, nhưng Thiên Chúa vẫn hiện diện, vô thủy vô chung, đời đời kiếp kiếp với tình thương bao la bảo bọc cho Con Người sống yêu thương nhau mãi mãi.

Chu Tất Tiến. M.S.P.

Nhân vụ Đức Giáo Hoàng từ chức, vài suy nghĩ về đường Hội Thánh đi (1)

Nhân vụ Đức Giáo Hoàng từ chức, vài suy nghĩ về đường Hội Thánh đi (1)

L.M. Vũ Khởi Phụng

Đăng bởi lúc 12:09 Sáng 18/02/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (18.02.2013) – Hà Nội – Giáo hội nói chung, Đức Giáo Hoàng nói riêng, không cần phải có ai khen lấy được, cũng không cần phải có ai chê lấy được. Giáo Hội và các Đức Giáo hoàng vẫn đi con đường của mình, con đường có sáng có tối, có thăng có trầm, và bên trong những sáng tối thăng trầm ấy, có cái mà thế gian khó nhận biết là Đức Tin vẫn nhất mực tìm đường xuyên qua mọi trở ngại nội sinh hay ngoại sinh. Không ai có thể mô tả hoàn toàn chính xác Giáo Hội tương lai cụ thể sẽ thế nào, hoặc Đấng kế vị Đức Benedict XVI sẽ thế nào. Nhưng sức sống, sức thu hút của Giáo Hội chỉ có thể phát xuất từ con đường đức tin đó.

1. Sét đánh giữa trời quang

Mồng hai tết Quí Tị, chúng ta đang sống trong bầu khí hiệp thông linh thiêng của những ngày Nguyên Đán, các gia đình đang đến nhà thờ thắp hương và nhận lộc Lời Chúa, ở Kỳ Đồng một cộng đoàn lớn đang cầu nguyện tạ ơn chung quanh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, thì ở Roma sấm sét vang rền giữa trời thanh. Lúc ấy là 11g53 phút giờ Roma, xế chiều ở Việt Nam, Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI, giữa công nghị hồng y, bất ngờ tuyên bố từ chức vì lí do tuổi cao sức yếu:

Sau khi đã tự vấn lương tâm nhiều lần trước mặt Chúa, nay tôi chắc chắn rằng tôi tuổi cao sức yếu, không thể thi hành sứ vụ của Thánh Phêrô một cách thích hợp nữa.

Thế giới ngày nay thay đổi mau chóng, đặt ra nhiều vấn đề rất quan trọng cho đời sống đức tin, cho nên để điều khiển con thuyền của thánh Phêrô và loan báo Tin Mừng, thì cũng cần mạnh khỏe cả thể xác lẫn tinh thần, mà những tháng gần đây, sức khỏe của tôi đã suy giảm đến độ phải nhìn nhận là tôi không còn khả năng để chu tòan sứ vụ đã được trao phó cho tôi.

Vì thế, ý thức được hành động nghiêm trọng của mình, và hoàn toàn tự do, tôi tuyên bố từ nhiệm giám mục Roma… Ngày 28/2/2013, từ 20 giờ, Tòa Roma… sẽ trống ngôi…”.

Đã 600 năm nay, không thấy một biến cố như vậy, nên chẳng ai chờ đợi. Đến cả phát ngôn viên của Tòa Thánh, cha Federico Lombardi, cũng chỉ “mới biết tin sáng nay thôi, khi theo dõi công nghị hồng y”. Cho nên một người có địa vị quan trọng ởVaticanlà Đức hồng y Angelo Sodano, đã phải thốt lên: “Sấm nổ giữa trời quang”. Tưởng là Đức hồng y dùng lối nói tượng hình thế thôi, nào ngờ vài tiếng đồng hồ sau, sét đánh xuống đỉnh vòm đền thờ Thánh Phêrô thật, tấm hình rất ngoạn mục loan đi, lại càng thêm hương vị cho những lời bình luận vốn đã râm ran của truyền thông thế giới.

Người ta liên tưởng đến một vụ sét đánh khác ở đền Thánh Phêrô. Đó là ngày 20/10/1870, Công ĐồngVaticanI kết thúc với một thành quả chính là công bố tín điều về ơn vô ngộ của Đức Giáo Hoàng khi ngài định tín. Đúng vào lúc công bố tín điều và kết thúc công đồng thì một cơn giông tố với sấm sét khủng khiếp nổ ra, át cả những tiếng nói trong đền thánh. Những người bực dọc với công đồngVaticanI thì bảo đó lòng trời nổi giận với Giáo Hội Công Giáo. Những người cổ võ cho công đồng và Đức chân phước giáo hoàng Piô IX lại gợi lên hình ảnh Thiên Chúa uy nghi ngự xuống núi Sinai trong Cựu Ước, giữa lửa cháy và sấm sét rền vang.

Những chuyện bình tán như vậy, nói ngược nói xuôi thế nào cũng được. Không chỉ những người sính điềm thiêng dấu lạ, mà cả những nhà quan sát tự cho mình là rất thành thạo tình hình, cũng nói ngược nói xuôi đủ kiểu. Đúng là sau công đồngVaticanI cùng với tín điều mới, Giáo Hội đã trải qua rất nhiều gian nan khốn khó. Công đồng kết thúc vào lúc bầu trời Châu âu tối sầm vì cuộc chiến tranh tàn khốc giữa Pháp và Đức, mà một hậu quả là Toà Thánh “mất nước” trước phong trào thống nhất nước Ý của triều đại Savoie. Đức Giáo Hoàng Pio IX từ đó cấm cung, tự cho mình là tù nhân trong điệnVatican. Thế giới Công Giáo coi đây là một thảm họa, Giáo Hội đã mất tự do, mà nếu không khôi phục nước cũ của Tòa Thánh thì vết thương sẽ không bao giờ nguôi ngoai.

Các nước châu Âu lần lượt chèn ép Giáo Hội về mọi mặt. Đầu tiên là ở Đức, cường quốc số một của Châu Âu, với thủ tướng Bismarck, được coi là người hùng số một mà cũng là gian hùng số một của thời đại, phát động cuộc chiến văn hóa (Kulturkampf) chống lại Giáo Hội Công Giáo. Nguyên nhân sâu xa là vì ông cho rằng tín điều Đức Giáo Hoàng vô ngộ tạo điều kiện cho Giáo Hoàng can thiệp vào việc chính trị của các nước. Chiến dịch chống Công Giáo củaBismarcktừ Đức lan sang Thụy Sĩ, khiến cho giáo hội ở hai nước này chịu nhiều phen điêu đứng. Nước công giáo lớn nhất châu Âu là nước Pháp thì chính quyền dần dần rơi hết vào tay của phe chống Giáo Hội. Trong một nửa thế kỷ từ đó mà đi, những vụ tấn công liên tiếp và hiểm độc vào Giáo Hội, khiến giáo hội vỡ thành từng mảng lớn. Nước Ý cứ tưởng là toàn tòng thì với phong trào thống nhất đã trở nên một sức mạnh gay gắt bài xích Giáo Hội, nhất là Toà Thánh lại phản ứng bằng cách kêu gọi người Công Giáo tẩy chay mọi sinh hoạt chính trị, không tham gia bầu cử, không ứng cử và tất nhiên không đắc cử. Đa số các giới văn hóa, khoa học tỏ vẻ coi thường tôn giáo và Giáo Hội, như những tàn dư cũ của một quá khứ còn ngắc ngoải. Nếu bảo Trời giận Giáo Hội Công Giáo thì Trời giận đấy!

Nhưng tại sao Trời giận mà Trời vẫn tặng nhiều quà lạ? Giáo Hội phát triển ở nhiều miền đất mới. Châu Á, Châu Phi, Châu Đại Dương, Bắc Mỹ… đã tạo ra tính cách toàn cầu cho Giáo Hội ngày nay. Ở thế giới Âu Mỹ được coi là đầu tầu văn minh hiện đại, thì từ 1878, với Đức Giáo Hoàng Leo XIII, Giáo Hội bắt đầu phục hồi vị thế, đôi lúc có thể nói là rực rỡ. Đức Leo XIII với sự mẫn cảm phi thường lại chỉ là người mở đầu một kỷ nguyên mới của chức vụ Giáo Hoàng. Vụ tòa thánh mất nước, mà tuyệt đại đa số người công giáo coi là thảm họa, hóa ra lại là một sự giải thoát. Từ ngày không còn nhiều vướng bận quanh co với những ràng buộc chính trị, Tòa Thánh trở về gần với thực chất là một trung tâm tinh thần và tâm linh. Xuất hiện một loạt các vị Giáo Hoàng tuy khác nhau, thậm chí bề ngoài đôi khi đến mức tương phản, nhưng đều là những lãnh tụ tinh thần, những bậc tôn sư rất lớn, tạo ra sức lan tỏa của Giáo Hội và Tòa Thánh cho đến ngày nay. Dù thế kỷ XX đã có hai cuộc thế chiến, đã có những ý thức hệ tàn khốc đối với Giáo Hội trong thời gian lâu dài và trên những vùng đất rộng lớn của thế giới, Giáo Hội cũng không vì thế mà suy tàn.

Ôn lại cả những điều gian nan mất mát, lẫn những thành tựu như vậy, ta có thể nhận ra: Giáo Hội, về mọi mặt giống như cuốn Kinh thánh, vừa là một sự mầu nhiệm Chúa làm, lại vừa là một công trình của con người với tất cả những nỗ lực, trí tuệ, tâm hồn, mồ hôi nước mắt, với tất cả những ưu khuyết điểm của con người. Có lẽ nên nghĩ đến cái tổng hợp Nhân Thần đó trong những ngày này, khi sự từ chức của Đức Benedicto XVI, đang làm dấy lên đủ thứ bình luận. Có những bình luận nhìn Giáo Hội theo một quan điểm hoàn toàn trần thế, do đó mất hút cái thực tại tâm linh của Giáo Hội. Nhìn kiểu này sẽ đưa ra những dự đoán lung tung mà tương lai sẽ chứng minh là thiếu thực chất. Nhưng cũng có nhiều người Công Giáo quan niệm quá giản đơn về mối tương quan giữa siêu nhiên và tự nhiên, giữa siêu việt và nhập thể, để rồi ngạc nhiên, hoang mang, hoặc là có thái độ nặng về tình cảm, mà không đếm xỉa thực tại. Giáo hội nói chung, Đức Giáo Hoàng nói riêng, không cần phải có ai khen lấy được, cũng không cần phải có ai chê lấy được. Giáo Hội và các Đức Giáo hoàng vẫn đi con đường của mình, con đường có sáng có tối, có thăng có trầm, và bên trong những sáng tối thăng trầm ấy, có cái mà thế gian khó nhận biết là Đức Tin vẫn nhất mực tìm đường xuyên qua mọi trở ngại nội sinh hay ngoại sinh. Không ai có thể mô tả hoàn toàn chính xác Giáo Hội tương lai cụ thể sẽ thế nào, hoặc Đấng kế vị Đức Benedict XVI sẽ thế nào. Nhưng sức sống, sức thu hút của Giáo Hội chỉ có thể phát xuất từ con đường đức tin đó.

Nay xin trở về vụ việc Đức Benedict XVI từ chức…

(Còn nữa)

LM. Vũ Khởi Phụng

BUỒN VUI NGÀY TẾT

BUỒN VUI NGÀY TẾT

Tác giả: Lm. Vĩnh Sang, DCCT

nguồn:conggiaovietnam.net

Báo Tuổi Trẻ số ra đầu tiên ngày thứ sáu 15 tháng 2 năm 2013 ( mồng 5 Tết ) đưa tin “25.000 vụ tai nạn giao thông trong 6 ngày Tết”, cũng số báo này cho biết 4.700 ca nhập viện do đánh nhau… các số liệu này là của thứ trưởng Bộ Y Tế gởi Văn Phòng Chính Phủ. Không thấy nói gì về con số thương vong, nhưng cứ sự thường mà suy, một vụ tai nạn giao thông kéo theo hệ lụy về nhân mạng và thương tật không bao giờ dưới một người, thiệt hại tài sản tại chỗ, hậu quả lâu dài về thể xác cũng như tinh thần cho nhiều người, có thể tiếp tục gây gánh nặng cho xã hội ( Ảnh chụp một tai nạn giao thông tại Hà Nội ).

Cũng trong số báo này có hẳn một phóng sự về việc trẻ em phải rất khó khăn khi bắt nhịp trở lại trường sau nghỉ Tết. “Học sinh ngáp ngắn ngáp dài, uể oải mở cặp ra mới phát hiện thiếu tập vở, bút, thước kẻ, khi giáo viên hỏi bài thì ấp úng… vì quên trước quên sau.” Đó là học đường, còn các môi trường khác, chắc chắn không khác bao nhiêu, có khi còn tệ hại hơn.

Xin phép được trích một đoạn trong bài viết của tiến sĩ Nguyên Xuân Diện, “Đầu năm bàn về văn hóa tâm linh hiện đại của người Việt” http://danluan.org/tin-tuc/20130215/nguyen-xuan-dien-dau-nam-ban-ve-van-hoa-tam-linh-hien-dai-cua-nguoi-viet:

“Người trảy hội thời nay không còn đem đến lễ hội sự chính tâm như ngày xưa nữa ! Có người nói: quan sát lễ hội và người tham gia lễ hội là biết xã hội đang vận động ra sao. Người ta kéo đến lễ hội bằng những lời cầu khẩn quyết liệt nhưng đầy mê lầm, bằng những mâm lễ vật phàm tục để mặc cả với thần thánh, bằng những đồng tiền lẻ gài lên khắp thánh tượng, phật tượng, bằng những cuộc nhậu nhẹt say khướt nơi đất Phật Hương Sơn, Yên Tử, bên những mâm đặc sản thú rừng được chặt chém bởi những tay đồ tể ( cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng ). Lễ hội là dịp để gặp gỡ và đánh chén. Sau đó là chuyện xả rác không tiếc tay, khiến cho những khu di tích thành ra một bãi rác khổng lồ.”

( Ảnh chụp của VNExpress: Người Hà Nội ngồi giữa đường để xin giải hạn trước Tổ Đình Phúc Khánh ).

Vấn đề lễ hội ngày nay đã từ lâu rồi là một vấn đề nhức nhối của cả xã hội.

Trong phạm vi Giáo Hội Công Giáo. Một vị Giáo Dân than phiền với chúng tôi: “Trong khi Nhà Chùa người ta mở cửa cả ngày để đón khách đến viếng Chùa, dâng hương cầu khẩn cho năm mới, hái lộc để tìm sự may mắn, xin săm để biết hướng tương lai, người vào ra tấp nập, khói nhang nghi ngút không gian. Vậy mà Nhà Thờ Giáo Xứ của con lại đóng cửa im ỉm, ngày thường hai lễ sáng chiều, ngày Tết gom lại còn một Lễ sáng, cha Xứ sau Lễ sáng rồi thì đi đâu mất, tối mịt mới về, ngày nào cũng vậy, ngài nói phải đi mừng tuổi các ân nhân. Cha Phó thì được cho về nghỉ Tết, lý do: còn mẹ già !”

Một vị Linh Mục Dòng khác chia sẻ: “Con rất buồn vì cộng đoàn anh em con cùng với Giáo Dân đề nghị đóng cửa Nhà Chầu Thánh Thể, tạm nghỉ những ngày Tết để anh em ăn Tết, miễn trực nhà chầu !” Tranh luận căng thẳng trong cộng đoàn, đến khi quyết định đóng cửa được Nhà Chầu những ngày Tết xem ra anh em vui thích lắm.

Một bạn trẻ gởi cho tôi Email thắc mắc: “Con xem trên mạng thầy nhiều Nhà Thờ có Thánh Lễ Giao Thừa, sao ở Giáo Xứ con không có ? Tại sao Xứ có, Xứ không ? Con không đi Lễ đêm Giao Thừa thì có tội không ?” ( Ảnh chụp rước kiệu Mẹ Hằng Cứu Giúp hành hương Minh Niên 2013 tại DCCT Kỳ Đồng, Sàigòn ).

Một Nữ Tu chiều mồng hai Tết sau Lễ chiều ở Nhà Thờ ghé vào thăm tôi, nói chuyện loanh quanh một lúc tôi được biết chị và một chị nữa “bị” phân công giữ nhà cho chị em về quê ăn Tết, nhà cộng đoàn vắng như chùa bà đanh, đi ra đi vào chẳng có ai, tôi hỏi thế chị kia đâu, câu trả lời là “cũng đi đâu mất không biết” – “Vậy ăn uống thế nào ?” – “Dạ, mạnh ai người nấy ăn !”

Ở “Góc Thương Xót” DCCT, chiều 29 Tết vừa rồi vẫn còn xác em bé được mang về. Trọn 3 ngày Tết thấy cái chum trống trải đã mừng, thế rồi chiều mùng 4 Tết đã lại ngập cao các túi nylon đen. Sang mùng 5, mùng 6 thì y như thể người ta phải nhịn mấy ngày đầu năm, bây giờ đổ xô nhau đi phá thai ào ạt, bù lại vậy ! Chẳng kiêng kỵ gì Tết nhất cả !

Ấy lại chuyện giải quyết “hậu quả” năm cũ, còn chuyện quan hệ phóng túng, “mừng tuổi” nhau năm mới, theo kinh nghiệm của chúng tôi, cứ sau Tết khoảng ba tuần lễ cho đến hai tháng, đó là thời điểm các bệnh viện có phòng phá thai, các trung tâm “Bảo Vệ Bà Mẹ và Trẻ Em” ( nhưng thực chất là những ổ phá thai ), các “phố phá và nạo thai” sẽ cực kỳ bận rộn, khách ra vào nhộn nhịp và những “phế phẩm y tế” chúng tôi gom về cũng sẽ… “được mùa bội thu”, những nhóm tình nguyện BVSS cũng hoạt động tăng tốc hẳn lên, các “Nhóm Tobia” lo hậu sự cho các bé phải chạy hết công suất !

Chắc chắn bức tranh toàn cảnh không chỉ có thế, có rất nhiều cá nhân, nhóm, tập thể sử dụng những ngày Tết vào rất nhiều công việc hữu ích. Họp mặt gia đình ôn lại truyền thống tổ tiên, củng cố mối dây liên kết, anh em họ hàng nhận biết nhau.

Có những nhóm sử dụng những ngày nghỉ để đến với người nghèo, đêm Ba Mươi đi thăm người vô gia cư, trẻ lang thang không nhà, dấn thân vào những vùng sâu vùng xa, mang cái Tết qua những hộp bánh, những cân mứt, những nụ cười đến cho những người dân tộc nghèo, người khuyết tật bị bỏ rơi. ( Ảnh chụp các bạn Nhóm Fiat từ Sàigòn ra thăm và tặng quà mùng 4 Tết cho đồng bào nghèo dân tộc Chăm ở Giáo Xứ Ma Lâm, Giáo Phận Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận ).

Có những người, những nhóm tình nguyện đến các nhà nuôi trẻ bại não, nhà nuôi người già đau yếu, vào cả những nhà hưu dưỡng để làm việc thay cho các nhân viên về nghỉ Tết. Có một Đan Viện nọ quyết định ba ngày Tết liên tục Chầu Thánh Thể thay cho những người xao nhãng việc thờ phượng ở thời điểm nay. Và nhiều, thật nhiều những bàn tay “xây dựng hòa bình” khác nữa vì “họ là con Thiên Chúa”.

Nhưng những mảng tối to lớn như trên kia cũng phải làm cho chúng ta trăn trở không ít, nhất là trong Năm Đức Tin này. Chúa muốn mỗi người Kitô hữu sống Đức Tin của mình như ngọn đèn rạng soi vào chốn tối tăm, Chúa muốn mỗi người Kitô hữu là mỗi hạt muối ướp mặn cho cuộc đời, Chúa muốn mỗi người Kitô hữu là hạt men để Chúa gieo vào trong thúng bột làm cho bột dậy men. Đèn không sáng, muối ra nhạt, men biến chất… Chúa biết làm gì bây giờ ? Chẳng lẽ vất ra đường cho người ta dày đạp lên sao ?

Tôi không ủng hộ việc bỏ Tết Nguyên Đán như người Nhật đã làm, nhưng tôi ước ao chúng ta sẽ sống một cái Tết Nguyên Đán thấm đượm Tin Mừng Chúa Kitô.

Lm. VĨNH SANG, DCCT, Mùng 7 Tết, thứ bảy 16.2.2013 (Ephata 549)

Vui buồn của tuổi già, những suy tư của Đức Bênêđictô, mấy tháng trước khi công bố từ nhiệm.

Vui buồn của tuổi già, những suy tư của Đức Bênêđictô, mấy tháng trước khi công bố từ nhiệm.


Vũ Văn An

nguồn: vietcatholic.net

2/17/2013

Ngày 12 tháng 11 năm 2012, nhân dịp viếng thăm một nhà dưỡng lão tại Rôma do Cộng Đồng Sant’Egidio trông coi, Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI đã có những suy tư sau đây về những nỗi vui buồn của tuổi già, phần nào cho thấy những dấu chỉ dẫn tới việc ngài quyết định từ nhiệm.

Tôi đến với anh chị em không những trong tư cách giám mục Rôma, mà còn trong tư cách một người già đi thăm những người bạn già nữa. Quả là dư thừa khi nói rằng tôi rất quen thuộc với những khó khăn, những nan đề và giới hạn của lớp tuổi này, nhưng tôi biết rõ: với nhiều anh chị em các khó khăn này càng thấm thía hơn do khủng hoảng kinh tế. Đôi khi, vào một độ tuổi nào đó, ta bỗng nuối tiếc nhìn lại những năm tháng thanh xuân khi mình còn tươi trẻ và dự tính nhiều cho tương lai. Bởi thế, đôi khi nét mặt ta phủ đầy một vẻ buồn trước cái viễn tượng hoàng hôn của cuộc đời này.

Nhưng sáng nay, lên tiếng với mọi người cao niên trong tinh thần, dù biết rõ các khó khăn của tuổi già chúng ta, tôi vẫn muốn nói với anh chị em một cách đầy xác tín rằng: già quả là đẹp! Ở mọi giai đoạn của cuộc đời, điều cần là có khả năng nhìn thấy sự hiện hữu và chúc lành của Chúa cũng như các phong phú do chúng mang tới. Ta không bao giờ được để mình bị buồn sầu vây hãm! Ta đã và đang tiếp nhận được ơn trường thọ. Sống ngay trong độ tuổi của ta vẫn là điều tươi đẹp, bất chấp những đau cùng đớn và một số giới hạn nào đó. Ước mong sao trên nét mặt ta luôn có niềm vui vì cảm thấy được Chúa thương yêu, chứ không phải nỗi buồn.

Trong Thánh Kinh, trường thọ luôn được coi là hồng phúc của Chúa; ngày nay, hồng phúc này khá phổ biến và được coi như một hồng phúc đáng được trân quí và vận dụng bao nhiêu có thể. Ấy thế mà cái xã hội bị khống chế bởi luận lý học hiệu năng và lợi lộc này thường lại không muốn chấp nhận nó như thế: trái lại, xã hội này thường bác bỏ nó, vì coi người già như là vô dụng, thiếu sản xuất. Rất nhiều khi ta được nghe nói tới những nỗi đau của những người bị cho ra rìa, sống xa nhà và đầy cô đơn. Tôi nghĩ cần phải có nhiều dấn thân hơn, bắt đầu từ gia đình và các định chế công cộng, để bảo đảm cho người già có khả năng ở lại nhà mình. Cái khôn ngoan của đời sống mà chúng ta là những người đem theo quả là một kho tàng lớn lao.

Phẩm chất của một xã hội, hay của một nền văn minh, cũng được phán định dựa vào cung cách nó xử sự với người già và vị trí nó dành cho họ trong đời sống của cộng đồng. Những cộng đồng nào biết dành vị trí cho người già đều là những cộng đồng biết dành vị trí cho sự sống! Cộng đồng nào biết chào đón người già cũng là cộng đồng biết chào đón sự sống!… Khi sự sống trở thành mỏng dòn trong những năm tháng già nua, nó vẫn không bao giờ mất giá trị và phẩm vị: ở bất cứ giai đoạn cuộc sống nào mỗi người trong chúng ta đều được Thiên Chúa mong muốn và yêu thương, mỗi một chúng ta đều quan trọng và cần thiết.

Các bạn thân mến, vào độ tuổi này, ta hay cảm thấy cần có sự giúp đỡ của người khác; và điều này cũng xẩy ra cho vị giáo hoàng của các bạn. Trong Tin Mừng, ta đọc thấy Chúa Giêsu nói với Thánh Phêrô: “khi con còn trẻ, con tự thắt lấy dây lưng và muốn đi đâu thì đi; nhưng lúc về già, con sẽ phải chìa tay ra để người khác thắt dây lưng cho con và dẫn con đi nơi con chẳng muốn” (Ga 21:18). Chúa có ý nói tới cách Thánh Phêrô sẽ phải làm chứng cho đức tin đến độ phải tử vì đạo, nhưng câu ấy khiến chúng ta nghĩ tới sự kiện này: cần người khác giúp đỡ vốn là thân phận của người già chúng ta. Tôi chỉ xin các bạn tìm thấy ơn Chúa trong thân phận ấy, bởi vì được nâng đỡ và được đồng hành, cảm nhận được tình âu yếm của người khác quả là một ơn phúc! Điều này quan trọng đối với mọi giai đoạn của cuộc sống: không ai sống được một mình mà không cần người khác giúp đỡ; con người là hữu thể có tương quan. Và trong tình thế này, tôi vui mừng nhận thấy: những người giúp đỡ và những người được giúp đỡ đã tạo thành một gia đình mà sinh huyết chính là tình yêu.

Anh chị em cao niên thân mến, ngày giờ xem ra dài và trống rỗng quá, với thật nhiều khó khăn, ít cam kết và gặp gỡ; nhưng anh chị em đừng bao giờ chán nản trong lòng: anh chị em làm cho xã hội phong phú, ngay cả trong đau đớn và bệnh hoạn. Và giai đoạn này của cuộc sống vẫn là một hồng phúc để ta thâm hậu hóa mối liên hệ với Thiên Chúa… Anh chị em đừng quên rằng một trong các tài nguyên vô giá của anh chị em là tài nguyên cầu nguyện: trở thành những người cầu bầu với Thiên Chúa, cầu nguyện với đức tin và sự kiên định. Anh chị em hãy cầu nguyện cho Giáo Hội, và cầu nguyện cho tôi, cho nhu cầu thế giới, cho người nghèo, để không còn bạo lực trên thế giới. Lời cầu nguyện của người già có thể che chở được thế giới, giúp đỡ thế giới, có khi còn hữu hiệu hơn là sự lo lắng của tập thể. Hôm nay, tôi muốn ủy thác cho anh chị em việc cầu nguyện cho thiện ích Giáo Hội và cho hòa bình thế giới. Vị giáo hoàng này yêu mến anh chị em và trông cậy vào mọi người trong anh chị em! Ước mong anh chị em cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa và biết cách đem tia lửa yêu thương của Chúa cho xã hội chúng ta, một xã hội thường quá cá nhân chủ nghĩa và chỉ chuộng hiệu năng. Và Thiên Chúa sẽ luôn luôn ở với anh chị em và với mọi người đang trợ giúp anh chị em với tấm tình âu yếm và tận tụy của họ.

SỐNG ĐẸP GIỮA ĐỜI

SỐNG ĐẸP GIỮA ĐỜI

Lm.Jos Tạ duy Tuyền

Mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy sống cao đẹp hơn.Lent

Người xưa thường đề cao lối sống của người quân tử.  Người quân tử thấy chuyện bất bình thường ra tay cứu giúp.  Người quân tử luôn sống hào hiệp, sống vì đại nghĩa nên hy sinh bản thân.  Thế nhưng, con người ngày nay lại an phận thủ thường.  Người ta ngại hy sinh cho người khác.  Người ta sợ “mang hoạ vào thân”.  Người ta tìm an nhàn cho bản thân nên chẳng dại gì “ăn cơm nhà đi vác tù và hàng tổng”.  Xem ra lối sống của người quân tử thấy chuyện bất bình ra tay giúp đỡ chỉ còn trên trang giấy học trò.  Lối sống ấy đã mất dần trong thời đại hôm nay.

Người ta kể rằng: Ở bên Trung Quốc, có một chiếc xe bus chở đầy khách đang chạy trên đường đồi. Trên xe, ba thằng du côn có vũ khí để mắt tới cô tài xế xinh đẹp.  Chúng bắt cô dừng xe và muốn “vui vẻ” với cô.  Tất nhiên là cô tài xế kêu cứu, nhưng tất cả hành khách trên xe chỉ đáp lại bằng sự im lặng.

Lúc ấy một người đàn ông trung niên nom yếu ớt tiến lên yêu cầu ba tên du côn dừng tay, nhưng ông đã bị chúng đánh đập.  Ông rất giận dữ và lớn tiếng kêu gọi các hành khách khác ngăn hành động man rợ kia lại nhưng chẳng ai hưởng ứng.  Và cô lái xe bị ba tên côn đồ lôi vào bụi rậm bên đường.

Một giờ sau, ba tên du côn và cô tài xế tơi tả trở về xe để tiếp tục lên đường…

“Này ông kia, ông xuống xe đi!” cô tài xế la lên với người đàn ông vừa tìm cách giúp mình.
Người đàn ông sững sờ, nói:
“Cô làm sao thế?  Tôi mới vừa tìm cách cứu cô, tôi làm thế là sai à?”
Cô gái nhăn mặt nói: “Nếu ông không xuống, xe sẽ không chạy.”

Điều bất ngờ là hành khách, vốn lờ lảng hành động man rợ mới đây của bọn du côn, bỗng nhao nhao đồng lòng yêu cầu người đàn ông xuống xe.  Thậm chí một vài hành khách khỏe hơn đã lôi người đàn ông xuống xe.

Chiếc xe bus lại khởi tiếp hành trình.  Cô lái xe vuốt lại tóc tai và vặn radio lên hết cỡ.  Xe lên đến đỉnh đồi và ngoặt một cái chuẩn bị xuống đồi.  Phía tay phải xe là một vực thẳm sâu hun hút.

Tốc độ của xe bus tăng dần.  Gương mặt cô lái xe bình thản, hai bàn tay giữ chặt vô lăng.  Nước mắt trào ra trong hai mắt cô.

Một tên du côn nhận thấy có gì không ổn, hắn nói với cô tài xế :
“Chạy chậm thôi, cô định làm gì thế hả?”

Cô tài xế không nói tiếng nào nhưng xe chạy ngày càng nhanh hơn.  Tên du côn tìm cách giằng lấy vô lăng, nhưng chiếc xe bus lao ra ngoài, rơi xuống vực như mũi tên bật khỏi cây cung.

Hôm sau, báo địa phương loan tin một tai nạn bi thảm xảy ra ở vùng “Phục Hổ Sơn”.  Một chiếc xe cỡ trung rơi xuống vực, tài xế và 13 hành khách đều thiệt mạng.

Trong thành phố, có một người đàn ông đọc bản tin trên báo đã khóc!

Quả thực, con người ngày xưa khi thấy chuyện bất bình, người ta thường lăn xả để hoà giải cho nhau, nhưng xem ra hôm nay, ít ai dám can thiệp vào chuyện người khác.  Ít ai dám xông pha để bảo vệ kẻ yếu đang bị ức hiếp.  Người ta ngại dấn thân vào chuyện của người khác.  Xem ra con người ngày nay thường có xu hướng ích kỷ, chỉ lo cho bản thân mình nhiều hơn là cho đồng loại.  Con người ngày nay thích an nhàn nên ngại hy sinh”.
Thế mà, hôm nay Chúa Giê-su lại bảo: “kẻ nào giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai chịu chịu từ bỏ cuối cùng sẽ được lại”.  Đó là chân lý, là định luật tất yếu  của cuộc đời . Nếu thế giới này không có những con người dám quên đi bản thân thì làm sao có những phát minh khoa học, làm sao có những kỳ quan để lại cho đời sau?  Có lẽ thế giới hôm nay sẽ thiệt hại biết bao, nếu không có những người dám quên đi sự an nhàn cá nhân, sự yên vui vị kỷ, những lợi lộc cá nhân để sống vì lợi ích tha nhân!  Thế giới này đang mắc nợ những con người đã tận tuỵ làm việc quên mình để xây dựng thế giới mỗi ngày một tốt đẹp hơn.  Thế giới hôm nay rất cần những con người quân tử để cuộc đời được phong phú và yên vui hơn.

Chính Chúa Giê-su, Ngài đã sống điều đó.  Ngài đã đi qua đau khổ để tiến tới vinh quang.  Ngài đã trở nên bất diệt khi Ngài trở thành hạt lúa chịu nghiền nát để trổ sinh muôn vàn bông lúa.  Ngài đã trở nên vĩ đại khi Ngài dám chết vì bạn hữu.  Thực vậy, người vĩ đại trong cuộc đời chúng ta không phải là những người nổi tiếng, không phải là các ngôi sao điện ảnh hay ca nhạc mà là chính những người đang hy sinh vì chúng ta.  Họ là những người cha “chân lấm tay bùn” đang đổ mồ hôi nơi nương đồng, đang miệt mài nơi công trường.  Họ là những người mẹ đang lặn lội ngược xuôi nơi bến chợ, đang hao gầy vì đàn con.  Họ là những người anh, người chị đang bôn ba đó đây để bòn nhặt từng đồng tiền để phụ giúp gia đình.  Đó là những con người cao cả, là những hạt lúa miến đang chịu nghiền nát vì tha nhân để trở thành tấm bánh cho anh em.  Đó là những con người dám quên đi niềm vui riêng của bản thân để lo cái lo của đồng loại, để sống có ích cho tha nhân.

Nhưng thật đáng tiếc!  Ý niệm phục vụ tha nhân.  Ý niệm sống vì người khác đang mất dần trong thế giới hôm nay.  Người ta đang lo cho bản thân.  Người ta đang chạy theo danh lợi thú để thoả mãn nhu cầu của chính mình.  Có mấy ai dám quên mình để sống cho thân nhân?  Có mấy ai chịu nghiền nát đời mình để đem lại niềm vui cho tha nhân?

Thiết tưởng, mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy sống cao đẹp hơn.  Hãy hy sinh niềm vui của mình, những đam mê sở thích của mình để đem lại niềm vui cho những người chúng ta yêu mến.  Thiết tưởng mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy sống đúng với phẩm giá làm người của mình là biết sống vì hạnh phúc tha nhân.  Chúa đã tạo dựng Eva vì niềm vui của Adam.  Chúa cũng tạo dựng chúng ta vì niềm vui của thân nhân.  Xin Chúa là Đấng đã chết cho người mình yêu, giúp chúng ta biết quảng đại hy sinh để kiến tạo niềm vui và hạnh phúc cho nhau.  Amen!

Lm.Jos Tạ duy Tuyền

Anh chị Thụ & Mai gởi

 

 

 

 

ĐÊM TẠ TỪ,& NẮNG XUÂN,

ĐÊM T T,

Đêm qua đón ánh trăng su,
Cho vào cu
i đáy tim khâu li ri,
Em v
ti lm em ơi,
Đ
ường đê ly li khéo rơi xung b,
Mây trôi b
ng lng mây m,
Chìm trong gi
ếng mt vn thơ gi tình,
Chim đêm g
i bn làm thinh,
Con đò l
ng l nương hình bóng ai?
Mình ênh nh
trn ban ngày,
Đêm đêm cũng nh
còn say vt v,
Tình sao n
nh như tơ,
V
n vương chìm ni đi ch…mình ênh…

Liverpool.16/2/2013.
Song Nh
ư.

Kính gi Quý Thy Cô và các bn LVC.
KT.

NẮNG XUÂN,

Em về bãi nắng thênh thang,
Sợi vàng rơi rụng ngổn ngang xuống trần,
Mùa xuân hoa nở đầy sân,
Nụ cười em chớm bàn chân cỏ mềm,
Gió mơn nhè nhẹ dáng êm,
Riêng mình anh cũng nặng thêm trái sầu,
Giọt đời nhỏ xuống tim sâu,
Cho cây mộng mị trái đầu ngất ngây,
Em cười ấm áp hồn say,
Trái tim hoang dại miệt mài tương tư…

Liverpool.14/2/2013.
Song Như.

Kính gởi Quý Thầy Cô và các bạn LVC.
KT.

Giáo hoàng là ai ?

Giáo hoàng là ai ?

Đăng bởi lúc 2:24 Sáng 18/02/13

nguồn:Chuacuuthe.com

VRNs (18.02.2013) – HuffingtonPost – Những ngày này, cả thế giới đạo và đời đều xôn xao về việc ĐGH Biển Đức XVI chính thức tuyên bố từ nhiệm. Có một bài nhận định khá hay và sâu sắc, xin giới thiệu với mọi người – đặc biệt là những người Công giáo.

Thần học gia Joseph Ratzinger vẫn thu thập các tính ngữ (chữ có ý nghĩa) từ khi sống trong Giáo triều Rôma – với các “biệt danh” (moniker) là “chó dữ của Chúa” (God’s Rottweiler), “Hồng y xe tăng” (Panzerkardinal), “Giáo hoàng Đức quốc xã” (Papa-Nazi). Các “biệt danh” này đã luôn nói nhiều về những người “được tặng” hơn là những gì chúng ám chỉ, nhưng chúng trở nên một phần văn hóa phổ thông cả những người bị mê hoặc lẫn người bị từ chối bởi học giả thầm lặng.

Lúc đó, ĐGH Biển Đức XVI đã công bố Tông thư đầu tiên “Thiên Chúa là Tình yêu”, và những người bảo vệ khôn ngoan thấy rằng tranh biếm họa họ tạo ra đều không đúng sự thật.

Với lời tuyên bố từ chức (ngày 11-2-2013), ĐGH Biển Đức XVI đã khiến họ phải “gãi đầu”. Họ ngạc nhiên: “Giáo hoàng không chỉ thoái vị. Phía sau còn sự thật gì?”. Kết thúc triều đại giáo hoàng, cũng như khởi đầu, là dấu hiệu trái ngược với những người coi mỗi hành vi của con người đều thuộc các phạm trù khả nghi của quyền lực và bướng bỉnh.

Chúng ta biết rằng tôn giáo là sự giải thoát – một nỗ lực giải thích về đau khổ và những điều trái ngược bất khả thi của đời sống con người. Tôn giáo đầy những thứ giúp chúng ta cảm thấy tốt hơn – hoặc tệ hơn. Tg là cái gì đó mà chúng ta nói với người khác để kiềm chế họ. Điều đó tự bản chất (per se) không là niềm tin vào Thiên Chúa, điều đó quấy rầy tính mẫn cảm ngụy tạo hậu hiện đại của chúng ta. Đó là tôn giáo, nhất là loại có tổ chức. Như vậy, chúng ta hoàn toàn tâm linh, nhưng càng ngày càng ít người trong chúng ta sống theo niềm tin tôn giáo.

Mối quan hệ phúc tạp trong văn hóa của chúng ta với tôn giáo có tổ chức gắn chặt với mối quan hệ trong chh của chúng ta với sự thật. Chúng ta yêu sự thật, đúng vậy, nhưng chúng ta không coi sự thật là tôn giáo, nếu ai đó không giữ sự thật cho mình. Sự khoan dung không bao gồm việc áp đặt lên người khác – văn hóa của chúng ta đánh giá qua các đức tính khác.

Vấn đề về nỗ lực ý nghĩa này khi khoan dung là điều không thể biện hộ. Đó là tự hủy hoại. Nếu chỉ có sự thật và sự thật của tôi, nhưng không là sự thật, thì không có nền tảng chung để thỏa mãn nhau. Hoặc tôi đúng, hoặc bạn đúng, và vì không có điểm chung, vấn đề này chỉ được giải quyết khi có một bên thắng và một bên thua. Một thế giới không có sự thật là thế giới không thể không có xung đột, và không thể có sự hòa giải.

Khẩu hiệu Giám mục (episcopal motto) của ĐGH Biển Đức XVI là “Cooperatores veritatis” (những người hợp tác với chân lý). Khẩu hiệu này cho thấy một cách hiểu rất khác về thực tế, điều mà cả niềm tin và lý lẽ đều trung thành với chân lý – tức là sự thật. Và chính sự thật, ít là như Giáo hội Công giáo hiểu, được thể hiện cách tốt nhất, không bằng sự tranh luận hợp lý (dù đó là điều quan trọng) và chắc chắn không bằng bạo lực, nhưng bằng “tình yêu tự hiến”. Không có gì thuyết phục hơn và cũng chẳng có gì thật hơn “tình yêu dâng hiến”.

Chân lý trung tâm của đức tin Công giáo là Thiên Chúa làm người nơi Đức Kitô, qua cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài mà chúng ta được cứu độ. Có thể tóm gọn thế này: Thiên Chúa mệt mỏi khi nói với chúng ta về cách thực hiện điều đó, thế nên Ngài quyết định xuống thế và cho chúng ta thấy.

Điều này cũng đề xuất rằng ĐGH Biển Đức XVI hiểu vai trò của giáo hoàng trong Giáo hội là người lãnh đạo, nhưng trước tiên là phục vụ. Có nhiều danh hiệu của giáo hoàng: Linh mục của Đức Kitô, Người kế vị các Tông đồ, Tôi tớ của các Tôi tớ của Thiên Chúa. Ngài là người canh giữ, là mục tử của đoàn chiên. Nói cách khác, ngài không chỉ hiến dâng mình mà còn vì sứ vụ của Giáo hội.

Những lời này của ĐGH Biển Đức XVI có thể là đầu tiên trong 117 Hồng y, những người sẽ chọn giáo hoàng kế vị: “Trong thế giới ngày nay, vì có quá nhiều sự thay đổi và bị rung động bởi các vấn đề thích hợp đối với đời sống đức tin, để quản lý Con Thuyền của Thánh Phêrô và rao truyền Tin Mừng, cả sức mạnh của trí tuệ và và cơ thể đều cần thiết”.

Giáo hội hiện hữu để rao truyền Phúc Âm: Không có sự thích hợp nào khác của Giáo hội trong thế giới. Năm nay, người Công giáo cử hành Năm Đức Tin – tái học hỏi, sống, chia sẻ đức tin, và rao truyền chính xác những gì chúng ta tin, đồng thời cũng có nghĩa là phải nói cho thế giới biết sự thật, dù phải trả giá riêng.

Giáo hoàng không là bù nhìn mà là tông đồ, không là người quản lý mà là sứ giả. Khi tuyên bố từ nhiệm, ĐGH Biển Đức XVI đã truyền tín hiệu rằng Giáo hội của thế kỷ XXI sẽ không là Giáo hội của công việc như bình thường, không là Giáo hội của sự duy trì cơ cấu, của sự cách ly, hoặc của sự mong mỏi về quá khứ. Giáo hội hiện hữu để rao truyền Tin Mừng. Những người kế thừa sứ vụ đó nhờ Bí tích Thánh tẩy phải sẵn sàng hy sinh nhiều để đáp lại lời mời gọi đó.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ HuffingtonPost.com)

“Mẹo” Tha thứ

“Mẹo” Tha thứ

Trầm Thiên Thu
Cuộc sống thường nhật có bao điều bạn bực mình: Tiếng ồn, thất bại, lo sợ, bệnh tật, cơm áo gạo tiền, thời tiết, nỗi buồn, công việc, tình yêu gia đình, giao tiếp, xóm giềng, học hành, giao thông, thị trường, dịch bệnh… Bạn phải chịu đựng nhiều thứ. Để không cằn nhằn người khác và có thể chịu đựng sự khó tính của người khác, quả thật không dễ chút nào. Vậy làm sao có thể tự giải thoát mình?
Các bậc cha mẹ thường hay chỉ trích con cái. Các chủ nhân luôn trách mắng và nhìn công nhân của mình bằng con mắt xoi mói. Vợ chồng cũng thiếu tôn trọng nhau, ưa áp đặt và nghi ngờ nhau. Các mối quan hệ khác cũng gặp nhiều phức tạp. Họ làm mất lòng nhau bằng nhiều cách. Thậm chí có những vết thương lòng vẫn nhức nhối sau nhiều năm. Giữa chúng ta có nhiều dạng ác cảm, làm những điều ác cho nhau, nói xấu nhau đủ điều, thậm chí là trả thù nhau. Có người còn biết nghĩ lại, hối hận, nhưng có người không hề tỏ ra hối tiếc vì lương tâm đã chai lì.
Cách tốt nhất để thanh thản tâm hồn là luôn chống lại ý nghĩ trả thù, luôn tâm niệm ba chữ “Tôi Tha Thứ” (nguyên tắc 3T). Đó là biện pháp tuyệt vời có thể giúp bạn chịu đựng những gì làm bạn phiền lòng. Tha thứ có giá trị tuyệt đối trong cuộc sống.
Tha thứ không có nghĩa là đầu hàng, chịu thua, chịu lép vế, mà là “bỏ qua”, là CAO THƯỢNG. Robin Casarjian giải thích: “Khi tha thứ, bạn không còn lệ thuộc vào người đã làm bạn đau lòng”. Tha thứ kéo bạn ra khỏi sự giận dữ của người khác và cho phép bạn sống thanh thản.
Nêu sự tha thứ là điều tốt như vậy mà tại sao vẫn có nhiều người tích lũy cơn giận trong lòng? Đó là muốn trả thù để chứng tỏ mình không yếu thế. Chẳng qua là thua kém người khác nên mới hùng hổ lên cơn tức giận. Thế nhưng, chính sự tha thứ mới tạo nên sức mạnh thực sự, kiểu “mưa dầm thấm sâu”. Khi tha thứ, người ta cân nhắc kỹ lưỡng. Dù cho người kia có xứng đáng được tha thứ hay không thì vẫn không thành vấn đề, mà chỉ vì mình xứng đáng tự do. Đây còn là động thái cao thượng của một công tử. Chịu đựng để có thể tha thứ.
Một lý do khác mà chúng ta có thể từ chối tha thứ là cảm thấy bạc nhược hoặc quy phục. Có người cho rằng tha thứ là nhận mình sai và người kia đúng. Nhưng tha thứ không là miễn trừ cơn giận đổ lên người khác mà là “rút dao ra khỏi vết thương”. Tha thứ là “bỏ qua” các lỗi lầm mà người khác đã làm cho mình, nhưng phải “bỏ qua” với cả lòng tự trọng và tôn trọng – kèm theo lòng yêu thương chân thành.
Nhưng cũng có khi người khác không hề biết nỗi đau lòng của bạn mặc cho bạn phải âm thầm chịu đựng. Nếu biết tha thứ, bạn sẽ không phải khổ sở nữa. Tha thứ vẫn hữu ích cho các trường hợp như thất tình, bị hiểu lầm, bị ghen ghét,…
Tha thứ tốt cho cả thể lý lẫn tinh thần. Trong cuốn Anger Kills, tiến sĩ Reddford Williams viết: “Cứ nhớ mãi về nỗi đau quá khứ thì sức khỏe sẽ suy yếu. Đơn giản như nhớ mãi một chuyện bực mình thì bạn sẽ căng thẳng và tim bị ảnh hưởng”. Về tình yêu tan vỡ, đại văn hào R. Tagore nói: “Khôn ngoan gì mà đau khổ mãi vì một người đã mang trái tim họ đi xa!”. Các ý nghĩa tiêu cực cũng có liên quan tới cao huyết áp, động mạch vành và dễ bị chứng bệnh khác. Sống cởi mở và thanh thản có thể làm tăng hệ miễn nhiễm. Chỉ cần một giây để xúc phạm người khác, có khi gây tổn thương trầm trọng, nhưng sự tha thứ lại cần nhiều thời gian. Mới đầu, bạn cảm thấy các tình cảm tiêu cực như tức giận, buồn bã, và xấu hổ. Sau đó bạn biến chúng thành tích cực hoặc làm giảm dần “mức căng”. Đặc biệt là học cách nhìn người khác bằng ánh mắt khác trong sáng hơn. Người hại mình sẽ trở thành yếu thế, bị động, như ngồi trên đống lửa. Người Việt Nam có câu: “Chưa đánh được người thì mặt đỏ như vang, đánh được người rồi thì mặt vàng như nghệ”. Cổ nhân cũng đã minh định: “Hàm huyết phún nhân, tiên ô tự khẩu” (Ngậm máu phun người, trước tiên bẩn miệng mình). Chí lý lắm thay!
Có người lại không thể đạt tới chặng cuối của sự tha thứ. Đó là những người bị tổn thương từ thuở ấu thơ, bị sỉ nhục bởi chính những người mà họ yêu thương và tin tưởng – như bị lạm dụng tình dục, bị bạo hành thể lý hoặc tâm lý, bị cưỡng dâm, bị khinh miệt,… Dù không có sự tha thứ trọn vẹn, họ vẫn có lợi nhờ biết tha thứ một phần. Nếu cảm thấy khó tha thứ, hoặc muốn tha thứ mà không biết bắt đầu từ đâu, xin bạn hãy thử áp dụng 7 cách này:
1. Vi mô. Luyện tập tha thứ những lỗi nhỏ của người xa lạ – chẳng hạn bị tính gian mất vài ngàn đồng, bị “chơi gác” một chút… Dần dần, bạn sẽ có thể tha thứ những lỗi lớn hơn một cách dễ dàng hơn.
2. Giải thoát. Tự vượt qua nỗi thất vọng và kiềm chế cơn giận đối với người thân và bạn bè, hoặc những người mà mình tín cẩn. Nhờ vậy, bạn thấy “mạnh mẽ” hơn và rồi bạn cũng sẽ được nhận biết. Bạn vẫn có thể để tình cảm của mình tự do mà không hề giận dữ, không dùng ngôn ngữ hoặc ngữ điệu “khó nghe”, và bạn sẽ không phải hối tiếc về sau.
Phương pháp “hả giận” cũng có hiệu quả – như đấm vào gối bông, bỏ đi chỗ khác, những tuyệt đối không đập phá đồ đạc hoặc “đá mèo, khoèo rế”. Nếu không tức giận tột độ, bạn hãy đọc sách báo. Đừng “giận cá chém thớt” như phóng xe bạt mạng, chửi “đổng” (chửi cho hàng xóm nghe, cho trời đất nghe)… Đó là cách biểu lộ tiêu cực và “hạ cấp”, nên tránh!
3. Chứng minh. Nếu thực sự cần thiết, bạn hãy viết thư hoặc gởi email (nếu ở xa), hoặc gặp trực tiếp để tìm hiểu sự thật bằng cách nói ôn hòa và tích cực xây dựng, chứ không nguyền rủa hoặc chỉ trích “đối phương”. Chẳng hạn, “Tôi cảm thấy…” hoặc “Tôi không hiểu…”. Hãy diễn tả sự ảnh hưởng đối với bạn vì cách xử sự của người kia, đồng thời bày tỏ thiện chí “đàm phán” để có thể giải quyết vấn đề ổn thỏa, gọi là “dĩ hòa vi quý”.
4. Mặc nhiên. Đối với tội loạn luân, cưỡng dâm và các tội phạm khác, nạn nhân có thể tránh né tha thứ trực tiếp, vì việc gặp nhau để “đối chất” sẽ… không an toàn! Thật vậy, không cần “đối diện”. Đó là sự tha thứ mặc nhiên. Người được tha thứ có thể không nhận ra lỗi và không bao giờ biết mình được tha thứ. Ví như người say rượu không biết mình nói gì hoặc nghe gì. Điều quan trọng là bạn đừng để cho cơn giận dữ lộng hành, vì không ai ngu dại đến nỗi căng buồm ra khơi khi trời đang giông tố!
5. Lắng nghe. Nếu đối diện với người làm tổn thương mình, bạn hãy lắng nghe và chỉ nói về những gì bạn đã nghe. Làm như vậy, bạn sẽ bắt đầu có cách nhìn khác và dễ dàng tha thứ hơn. Im lặng và lắng nghe, đó là cửa mở rộng đưa bạn thanh thản bước vào vùng bình yên của sự tha thứ tuyệt vời.
6. Suy tư. “Nhân vô thập toàn”. Con người luôn bất túc và bất trác. Hãy đợi đến lúc lòng mình lắng xuống, chọn khung cảnh yên tĩnh và suy tư. Chắc chắn bạn sẽ đủ sáng suốt để có thể quyết định đúng đắn, không gì tốt hơn là yêu thương và tha thứ. Suy tư là cách hữu hiệu để nhận biết chính mình và thông cảm với những người xung quanh. Đừng bao giờ quên: “Tâm phẫn xí tắc bất đắc kỳ chính”.
7. Hướng thiện. Nhờ hướng tới Chân-Thiện-Mỹ và tương lai, bạn có thể sớm đạt tới “đích” tha thứ. Hai chị em tị nạnh nhau về việc chăm sóc người mẹ bệnh tật. Cô ở gần than phiền về gánh nặng vất vả và hàng ngày phải lo cơm nước và thuốc thang cho mẹ, đích thân làm đủ thứ. Cô ở xa chỉ gửi tiền về, lâu lâu mới đến thăm được. Cô ở gần thì bực tức và luôn gắt gỏng. Cô ở xa thì chỉ biết im lặng và bỏ qua tất cả để giữ tình chị em. Một câu nhịn, chín câu lành. Thời gian là bằng chứng hùng hồn nhất.
Sự hướng thiện sẽ dẫn tới sự tha thứ, và sự tha thứ dẫn tới sự bình an tâm hồn. Sidney Simon nói: “Sự tha thứ làm cho bạn cười nhiều, có thể cảm nhận sâu xa, và trở nên liên kết với người khác nhiều hơn”. Chính sự tha thứ là thần dược mau chữa lành vết thương lòng. Vả lại, chính lúc mình tha thứ là lúc mình được thứ tha.
Tuy nhiên, tưởng cũng nên xác định rằng “tha thứ không có nghĩa là quên”. Có lẽ hơi… “khó nghe” chăng? Không đâu. Chúng ta không thể quên nỗi đau hoặc điều thiệt hại, và cũng không nên quên, vì bị lừa lần một thì không do lỗi mình, nhưng bị lừa lần hai thì do lỗi mình. Chính những “kinh nghiệm đau lòng” đó dạy chúng ta đừng bị lừa thêm lần nữa – còn được gọi là “kinh nghiệm xương máu”. Ở một góc độ nào đó, giống như “một sự bất tín, vạn sự chẳng tin” là vậy. Con chim bị bắn hụt một lần rồi thì nó sẽ khôn hơn.
Không để bị lừa lần nữa và không lừa ai, đó là những người khôn ngoan. Tha thứ là việc khó nhưng vẫn khả thi, càng khó thực hiện thì việc đó càng có giá trị cao. Bị khiêu khích mà không giận thì hoặc là kẻ tiểu nhân, hoặc là người quân tử và cao thượng. Sự tha thứ luôn luôn cần thiết, vì có tha thứ thì mới có thể tái lập hòa bình và bình thường hóa quan hệ – ở mọi cấp độ khác nhau. Đôi khi rất cần một lời xin lỗi!
Chúa Giêsu dạy: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18:25), nghĩa là tha thứ mãi mãi. Không tha thứ, đó là người ích kỷ! Xin chúc mừng nếu bạn là người vị tha. Nếu chưa, cố gắng thêm thì rồi bạn sẽ thành công nhờ Ơn Chúa – và chắc hẳn được Thiên Chúa chúc lành và được mọi người khâm phục.
TRẦM THIÊN THU

Anh Nguyễn v. Thập gởi

“LỬA THỬ VÀNG, GIAN NAN THỬ ĐỨC”

“LỬA THỬ VÀNG, GIAN NAN THỬ ĐỨC”

CHÚA NHẬT I MÙA CHAY -Năm C

(Deuteronomy 26:4-10; Romans 10:8-13; Luke 4:1-13)

Nguyễn Tiến Cảnh ,MD

nguồn: conggiaovietnam.net

Chúa Giêsu đã thắng ba cơn cám dỗ một cách oanh liệt, quả là
một gương sáng ngời cho chúng ta, đặc biệt trong mùa chay thánh này. Thứ tư Lễ
Tro đã đưa ra cho chúng ta ba hướng dẫn căn bản để suy niệm và thực hành trong
Mùa Chay: Làm việc Thiện, Cầu Nguyện và Ăn Chay Hãm Mình.

Mùa Chay là mùa của Đoàn Kết, Chia SẻMở Rộng Lòng với những người anh chị em xa gần, đặc biệt những ngưòi cần được giúp đỡ nhất. Mùa Chay cũng là thời gian thuận lợi để cầu nguyện, cầu nguyện riêng và chung, đươc hướng dẫn bởi lời Chúa trong kinh phụng vụ mỗi  ngày. Mùa Chay mời gọi chúng ta suy niệm việc Chúa Giêsu bị ma quỉ cám dỗ trong hoang địa. Làm sao chúng ta có thể phát huy những tập quán tốt để có thể vượt qua được những cám dỗ mà chúng ta thường gặp hàng ngày trong cuộc sống? Việt Nam ta có câu tục ngữ: “Lửa thử vàng, gian nan thử đức.”

CHÚA THÁNH LINH DẪN ĐỨC GIÊSU VÀO HOANG ĐỊA

Chắc chúng ta ai cũng biết câu chuyện Chúa Giêsu bị ma quỉ cám dỗ trong sa mạc qua ba tiến trình, đã được thánh Mathiêu và Luca kể lại. Cũng chính Chúa Thánh Linh hiện xuống trên chúa Giêsu dưới dạng chim bồ câu lúc Người chịu phép thanh tẩy (Lc 3:21-22) thì nay lại dẫn Chúa Giêsu đi vào hoang địa 40 ngày để bị ma quỉ cám dỗ. Con số 40 ngày gợi nhớ lại 40 năm dân Israel/Do Thái phải đi lang thang nơi hoang địa trong thời kỳ bị lưu đày (Deut. 8:2).

Đọc chuyện chúa Giêsu bị cám dỗ, như biết bao nhiêu người qua các thời đại, chúng ta cũng nên thắc mắc tại sao Chúa Thánh Thần lại dẫn Chúa Giêsu vào hoang địa để cho ma quỉ cám dỗ? Đức Giêsu là Thiên Chúa, mà Thiên Chúa thì không thể bị cám dỗ. Vậy tại sao chúa Giêsu lại bị cám dỗ?  Chúng ta hóa giải, cắt nghĩa thế nào về những điều chúng ta biết về Thiên Chúa, về đức Giêsu và sự cám dỗ, nếu chỉ dựa vào những điều được viết ra trong Tin Mừng?

SỰ CÁM DỖ CỦA CHÚA GIÊSU DƯỚI CON MẮT THÁNH LUCA

Chúng ta thử coi những khía cạnh quan trọng của bài Tin Mừng
hôm nay với thánh Luca. Đọc Tin Mừng thì ta tưởng rằng Chúa Thánh Linh dẫn Đức
Giêsu đi vào hoang địa để cho bị cám dỗ, nhưng không phải vậy. Chúa Thánh Linh
không dẫn Đức Giêsu đi vào chỗ cám dỗ. Chúa Thánh Linh dẫn Đức Giêsu đi vào
hoang địa. Ma quỉ lợi dụng lúc thể xác Chúa quá mệt mỏi, lại cô đơn nơi hoang
địa thì giở trò cám dỗ ra. Satan coi lúc đó là “cơ hội tốt” và có thể hắn còn
toan tính nhắm vào “những dịp khác” nữa. Ma quỉ cám dỗ, không phải Chúa Thánh
Linh cám dỗ! Phải chăng Chúa Giêsu muốn vẽ ra trước cho chúng ta thấy một khung
cảnh mà chúng ta sẽ phải gặp trong cuộc sống hàng ngày? Cạm bẫy và cám dỗ…là do
chính ma quỉ, cái ác tính của chính con người chúng ta tạo ra.

Không phải thánh Mathiêu (4:1-11) cũng chẳng phải thánh Luca
đã sắp đặt cho cuộc cám dỗ này có một tiến trình tuần tự như vậy. Luca diễn tả
ba biến cố theo khía cạnh địa lý; hai cơn cám dỗ đầu ở trong hoang địa, rồi đến
một cám dỗ nữa ở trên đỉnh tháp đền thờ. Theo Mathiêu thì hơi khác, cơn cám dỗ
ở trên núi cao là cơn cám dỗ sau cùng vì sau đó Chúa Giêsu nói: “Hỡi Satan, hãy
cút đi khỏi ta.” Như vậy, tiến trình của Mathiêu có thể là theo thứ tự thời
gian tính. Tuy nhiên việc này cũng không có gì là đối nghịch nhau giữa hai
thánh sử.

Thánh Luca đã diễn tả ba cơn cám dỗ đặc biệt như đã xẩy ra
sau 40 ngày chay trường của chúa Giêsu (Lc 4:2-3). Thiên Chúa có thể chịu đựng
nhiều thử thách và cám dỗ trong vòng 40 ngày, nhưng ba cơn cám dỗ này đã là
những thử thách tột đỉnh và mãnh liệt nhất của chúa Giêsu vì lúc đó Chúa quá cô
đơn nơi hoang địa. Thánh Luca kết thúc cuộc chay tịnh 40 ngày của chúa Giêsu
bằng cơn cám dỗ chúa chịu trên đỉnh tháp đền thờ ở Jerusalem, một thị trấn của
định mệnh, vì cuối cùng, chính ở Jerusalem Chúa Giêsu đã phải đối đầu với số
phận nghiệt ngã của Người (Lc 9:51; 13:33).

Trong cơn cám dỗ đầu tiên, trả lời của chúa Giêsu với tên
quỷ không có nghĩ là Chúa từ chối thức ăn là thứ cần thiết cho sự sống thể xác,
nhưng đời sống tinh thần như cuộc hành trình đi về vĩnh cửa phải là ưu tiên.
Muốn theo Chúa thì không thể chỉ dựa vào những gì thuộc về trần thế. Nếu chúng
ta phụ thuộc vào của cải vật chất, danh quyền trần thế, không biết đến Thiên
Chúa, thì chúng ta đã sa cơn cám dỗ và phạm tội.

Cám dỗ thứ hai đưa ta ở ngã rẽ: Thờ lạy Thiên Chúa hay
tôn vinh ma quỉ.
Chúa Giêsu mắng tên quỷ và cho hắn biết Thiên Chúa là trên
hết,  Người kiểm soát tất cả mọi sự. Điều này rất quan trọng đối với chúng
ta, để nghe và để tin, nhất là khi chúng ta bị mê hoặc, lôi kéo, lấn át bởi vẻ
hào nhoáng của quyền uy, danh vọng, tiền tài, khi chúng ta coi tất cả mọi sự
chung quanh ta như là nơi nương tựa, bóng che thân, nhưng thực sự đó chỉ là
những đám mây đen tối và ác quỉ. Chỉ có Thiên Chúa là đấng sau cùng làm chủ số
phận của chúng ta mà thôi.

Cám dỗ thứ ba, tên quỉ tính thử xem Thiên Chúa yêu chúa
Giêsu đến mức nào. Chúa Giêsu trả lời hắn “Ngươi không được ngạo mạn thử
thách quyền năng của Thiên Chúa là Chúa ngươi.”

Thánh Luca cho biết tên quỉ đã bỏ chúa Giêsu và “không dám
cám dỗ Chúa nữa” (Lc 4:13).  Chúng ta có nghĩ như vậy không? Theo thánh
Luca (Lc 4:13) thì tên quỉ đã kết thúc cơn cám dỗ đó vì “một lý do nào đó”
hoặc hắn“chờ một cơ hội tốt khác”. Cơ hội tốt này đối với ma quỉ sẽ xẩy
ra trước giờ Chúa Giêsu chịu nạn và chịu chết (Lc 22:3, 31-32, 53). Đó là lúc
Chúa đã chịu đựng cảnh lẻ loi cô đơn trong sa mạc hoang vu, hầu như vô phương
chống trả với gió lạnh của khí trời khắc nghiệt, dòng giã ngày đêm, mà tưởng
chừng như cả Thiên Chúa cũng vắng mặt. Kinh nghiệm về cảnh cô đơn nơi sa mạc
hoang dại này nói lên một phần của đời sống con người từ lúc sinh ra cho đến
lúc trưởng thành.

NHỮNG CÁM DỖ CỦA CHÚNG TA

Đúng vậy, ngay từ lúc khởi đầu cuộc rao truyền Tin Mừng,
chúa Giêsu đã phải công khai đối đầu với kẻ thù. Người bắt đầu cuộc chiến đấu
của Người bằng sức mạnh Tin Mừng suốt đêm trường đầy hoài nghi, bối rối và cám
dỗ. Nó nhắc nhở chúng ta chớ có bao giờ quên những gương sáng của Chúa, để đừng
rơi vào cạm bẫy của ma quỉ. Nó sẽ dụ chúng ta bằng những cám dỗ như nó đã làm
với chúa Giêsu. Đưa ra những quyền uy, danh vọng, tình, tiến để mê hoặc ta,
những của ngon vật lạ để khiêu khích thị hiếu và khẩu vị chúng ta, phủ dụ chúng
ta đó là những thứ thực tế ở đời, còn Thiên Chúa là những gì xa vời viển vông.
Chớ có mắc bẫy. Hãy tin cậy nơi Chúa, Người sẽ làm cho chúng ta vững mạnh.

Cám dỗ là những mê hoặc khiến ta tưởng mình oai phong ghê
gớm lắm nhưng thực ra chúng làm cho chúng ta trở nên nhỏ bé, xấu xa, hèn hạ và
ti tiện. Cám dỗ là những xảo thuật, cạm bẫy, giả dối…lúc ngon ngọt lúc hung dữ,
là những thứ mà ma quỉ luôn luôn nghĩ tới. Quyền lực của hắn thường mạnh mẽ hơn
sức mạnh của con người. Ma quỉ cố gắng kiểm soát, điều khiển chúng ta, khiến
chúng ta không nhận thức ra được hắn là tên ngoan cố, chiến đấu, phủ dụ chúng
ta bằng mọi giá, cố công chiếm cho bằng được dù một ly một tấc cũng không từ
bỏ. Nhưng Chúa Giêsu không để cho hắn chiếm đoạt chúng ta nếu chúng ta biết tin
tưởng, cậy trông vào Chúa.

Cuộc chiến đấu thắng lợi của chúa Giêsu gợi cho chúng ta
những vấn nạn quan trọng. Những kinh nghiệm “sa mạc” mà chúng ta gặp trong đời
là những kinh nghiệm gì? Kinh nghiệm chúng ta đang phải sống và tranh đấu hiện
nay là những kinh nghiệm nào? Giữa những rối rắm và bận rộn của cuộc sống, làm
sao và khi nào chúng ta có thể kiếm ra được những giây phút  để chiêm
nghiệm về cuộc sống vĩnh hằng của chúng ta? Chúng ta đã sống thế nào giữa bầu
khí hoang dại và sa mạc của chính chúng ta?  Chúng ta có đủ can đảm và bền
chí để chiến đấu chống lại ma quỉ không? Chúng ta chống cự lại thế nào để biến
cải những sa mạc khô cằn của chúng ta thành những cách đồng phì nhiêu cho cuộc
sống?

Thật khó có thể tạo ra một ngăn cách lớn lao giữa Chúa Giêsu
Kitô và chúng ta sau khi chúng ta chịu phép thanh tẩy và được ơn Chúa cứu chuộc
qua thập giá. Những cố gắng và yếu đuối của chúng ta đã trở thành địa danh đặc
quyền để chúng ta tiếp cận với Chúa Kitô, không phải với chính Người là Thiên
Chúa, nhưng nhờ con Người ở trên thập giá. Chúa Giêsu đã bị thử thách về mọi
phương diện như chúng ta -Người biết tất cả những khó khăn của chúng ta. Người
là một Người đã được thử thách. Người biết rõ điều kiện của chúng ta từ trong
tới ngoài- nhờ đó Người đã có được một khả năng trắc ẩn, biêt rung động cảm
thương trước những tình huống bi ai sầu thảm của chúng ta. Người là đấng đã
trải qua những đau khổ, nên Người có cái truyền cảm để thực sự cảm nhận thấy
cái đau khổ của kẻ khác. Từ Chúa Giêsu, chúng ta nhận thức được Thiên Chúa hiện
diện trong chúng ta và bảo vệ, gìn giữ chúng ta giữa những thử thách, cám dỗ
gay go, ngay cả khi chúng ta là kẻ tội lỗi.

Là Kito hữu, chúng tôi phải luôn luôn chiến đấu với những
dục vọng do bản tính tội lỗi của con người. Chúng tôi không thể chống trả lại
cám dỗ nếu không có ân sủng của Chúa. Thiên Chúa luôn luôn mời gọi chúng tôi
hãy  tin tưởng vào Chúa, không phải vào sức riêng của chúng tôi, để chống trả
lại mọi cám dỗ trước khi nó biến thành tội. Bởi vì không phải cơn cám dỗ dẫn
chúng tôi tới tội, nhưng vì chúng tôi thiếu cương quyết chống lại nó và tin
tưởng nơi Chúa là đấng giải thoát chúng tôi.

ĐỨC KITÔ CẢM THÔNG CUỘC CHIẾN ĐẤU CỦA CHÚNG TA

Đức Giêsu, bạn của những người thu thuế và những kẻ tội lỗi,
Người biết rất rõ cám dỗ có thể đè bẹp con người một cách dễ dàng. Nạn nhân của
nghèo đói, vô cảm, thiên kiến, áp bức, sách nhiễu, bạo động và nghiện ngập cho
chúng ta thấy con người có thể sa ngã một cách dễ dàng khi khốn khổ vượt quá
sức chịu đựng. Những ai biết cầu nguyện cùng Chúa Giêsu thì sẽ được Người chia
sẻ những cảm quan sâu xa về sự bất lực và yếu đuối ấy  của con người.

Chúa Kitô cũng là con người nên Người cảm thông được những
chiến đấu của chúng ta. Thánh Phaolo trong thư gửi tín hữu Do Thái có viết: “ Bởi
có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con
Thiên Chúa, nên chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin. Vị Thượng Tế của
chúng ta không phải là đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì
Người đã chịu thử thách về mọi phương diên như chúng ta, chỉ trừ tội lỗi. Bởi
thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót
thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần.”(Hebrews 4: 14-16)

Lạy Chúa Kito,

Chúa là Thiên Chúa đời con

Chúa biết con là kẻ yếu đưối.

Xin đừng đưa con vào nơi tội lỗi

Đừng để con sa cơn cám dỗ

Xin dẫn con vào nơi chiêm nghiệm,

Đường công chính,

Chốn tình yêu,

Nơi an bình

Xin ban cho con ân sủng Chúa

Để con biết trung thành, cây tin nơi Chúa

Biết nhận chân con là ai và sẽ về đâu

Về với Chúa

Là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu. Amen

Fleming Island, Florida

Feb. 14, 2013

NTC

Tác giả: Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh