Trở về cát bụi.

Trở về cát bụi.

Ta cứ tưởng trần gian là cõi thật
Thế cho nên tất bật đến bây giờ
Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc
Nào ngờ đâu ở mãi đến hôm nay

(6:59)

Bạn thân ơi có bao giờ bạn nghĩ
Cuộc đời này chỉ tạm bợ mà thôi
Anh và tôi giàu sang hay nghèo khổ
Khi trở về cát bụi cũng trắng tay

Cuộc đời ta phù du như cát bụi
Sống hôm nay và đâu biết ngày mai
Dù đời ta có dài hay ngắn ngủi
Rồi cũng về với cát bụi mà thôi

Thì người ơi xin đừng ganh đừng ghét
Ðừng hận thù tranh chấp với một ai
Hãy vui sống với tháng ngày ta có
Giữ cho nhau những giây phút tươi vui

Khi ra đi cũng không còn nuối tiếc
Vì đời ta đã sống trọn kiếp người
Với tất cả tấm lòng thành thương mến
Ðến mọi người xa lạ cũng như quen

Ta là cát ta sẽ về với bụi
Trả trần gian những cay đắng muộn phiền
Hồn ta sẽ về nơi cao xanh ấy
Không còn buồn lo lắng chốn trần ai

Anh Nguyễn v Thập gởi

NGHÈO CHO ĐẾN CHẾT

NGHÈO CHO ĐẾN CHẾT

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

nguồn:conggiaovietnam.net

Sinh ra trong cõi tạm này, chẳng ai mong cho mình nghèo cả. Vì hoàn cảnh nào đó phải sống cái kiếp nghèo. Có những người nghèo cho đến chết và bi đát nhất là đến chết rồi cái nghèo cũng như ôm chầm lấy họ, không muốn rời xa họ và đeo họ cho tới ngày họ đi vào dĩ vãng.

Người thân báo tin cho tôi biết tin có một cụ già neo đơn đang hấp hối trong bệnh viện. Nghe tin ấy, tôi chạy ngay vào viện, một cha vừa lo phần hồn cho cụ xong.

Đứng trước cửa phòng săn sóc đặc biệt có một nhóm người đang xôn xao về chuyện sau khi cụ qua đời.

Hoàn cảnh của cụ không có thể dùng từ “khá đặc biệt” như nhiều người thường nói mà là quá đặc biệt hay nói cách khác nữa là không có ai rơi vào hoàn cảnh như cụ cả.

Chuyện là cụ già vô gia cư cũng chẳng có ai thân thuộc. Đứng trước tình cảnh đó, một cha thấy chạnh thương đã nhờ một thầy của mình chăm sóc. Sau khi té ngã, cụ già được chuyện viện cấp cứu. Bác sĩ sau khi đã cố gắng chữa trị đã tuyên bố cụ không qua khỏi trong vài giờ đồng hồ nữa thôi.

Chuyện cụ già đi là chuyện dĩ nhiên của phận người nhưng khi hỏi thăm thủ tục của bệnh viện lại là một vấn đề nan giải. Giờ đem cụ về nơi thầy chăm sóc cũng không được vì khá xa, để cụ nằm lại trong nhà xác thì không có chỗ tẩm liệm. Đứng trước hoàn cảnh khó khăn như thế này có những sự trợ giúp sẵn có. Có nhà hòm kia sẵn sàng cho hòm nhưng ngặt một nỗi họ không có nơi để liệm xác cụ. Có xứ kia sẵn sàng để cụ tá túc nhưng phải hoàn tất việc tẩm liệm chứ nhà quàng không nhận xác về để liệm. Nhân viên nhà xác bệnh viện này hiến kế là chuyển cụ qua bệnh viện kia để tẩm liệm bởi lẽ bệnh viện kia nhận liệm xác … Với hiến kế này thì lỡ rằng vừa chuyện viện cho cụ mà cụ trút hơi thì cũng lại rơi vào thế bí về chuyện tìm ra nơi tẩm liệm.

Nếu không suy xét thì sẽ nghĩ này nghĩ nọ nhưng thực chất của vấn đề không đơn giản bởi lẽ sau khi cụ qua đời thì nhiều chuyện phiền phức xảy đến vì cụ không có người thân cũng chẳng có hộ khẩu ….

Đang băn khoăn tìm hướng giải quyết khó khăn thì tôi gọi điện đến nhà hòm thân quen. Không ngờ giọng nói từ máy bên kia nhận hết mọi sự để lo cho cụ ! Để xác minh lại thông tin vì đang đi xe ngoài đường khá ồn ào thì vẫn giọng nói từ máy bên kia sẵn sàng nhận xác cụ đem về nhà của mình để chờ tẩm liệm. Thế là mọi lo lắng đã có đường giải quyết.

Về nhà, trình báo cho cha đã cưu mang cụ già biết hướng giải quyết. Phone cho trại hòm nhận lo hậu sự cho cụ để gửi gấm cụ. Người lo hậu sự vui vẻ nhận lời từ cha để rồi mọi người đều an tâm.

Sau khi đã tìm được lối thoát, bệnh viện lo thủ tục xuất viện cho cụ. Trước khi đồng hồ điểm 12 tiếng trước khi qua ngày mới.

Tưởng chừng khó khăn đã qua đi nhưng làm thủ tục chứng tử cho cụ cũng lại gặp trở ngại bởi lẽ cụ không có một mảnh giấy tùy thân. Nếu không có tờ giấy chứng tử sẽ không tiến hành việc hỏa táng cho cụ được. Tìm mãi mới ra tờ giấy đăng ký tạm trú của cụ. Những người có lòng thơm thảo lại chạy tới chạy lui để có được tờ giấy chứng tử trong tay. Lại thở phào nhẹ nhõm để vượt qua những chướng ngại không thể lường trước được.

Đúng là người nghèo đi đâu cũng phải khổ cả. Đến chết cũng còn khổ bởi vì nghèo. Đến chết cũng còn khổ bởi cái thân phận cô thế cô thân.

Trưa hôm nay, như đã hẹn, mọi người lại quy tụ xung quanh thi hài cụ để cử hành nghi thức nhập quan và Thánh Lễ an táng cho cụ.

Nghi thức nhập quan và Thánh Lễ an táng cũng như nghi thức tiễn biệt cho cụ Giuse diễn ra trong bầu khí hết sức ấm cúng. Xung quanh cụ không một người thân nào cả, chỉ là những người có tấm lòng thơm thảo đứng trước một mảnh đời bất hạnh.

Tạm biệt cụ Giuse, một người nghèo thật sự trước mặt Thiên Chúa và người đời.

“Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó vì Nước Trời là của họ”. Tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa, cụ Giuse chắc chắn được hưởng Nước Trời bởi lẽ cụ Giuse không chỉ có tinh thần mà sống cả cuộc đời nghèo khó cho đến hơi thở cuối cùng.

24 tháng 2 năm 2013

Anmai, CSsR

“NGƯỜI ĐI, MỘT NỬA HỒN TÔI…”

“NGƯỜI ĐI, MỘT NỬA HỒN TÔI…”

Lm. VĨNH SANG, DCCT

nguồn:conggiaovietnam.net

Thật bất ngờ…

Ngày mồng Hai Tết, ngay khi kết thúc cuộc rước và hành hương kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp đầu năm Âm lịch, tôi ngồi ở nhà cơm Tu Viện uống nước với một số anh em, một người anh em đi vội vào nhà cơm trên tay cầm tờ giấy, anh ấy nói “Đức Giáo Hoàng từ chức rồi”, giơ cao tờ giấy “đây là bản tin con vừa đọc được và in ra”, mọi người đổ xô đến đọc, đó là sự thật gây bàng hoàng đầu năm, bất ngờ đến không tưởng tượng được.

Gần như chưa có tiền lệ…

Tôi lẩm bẩm: “Không tin được, chưa bao giờ có sự kiện này”, quay trở lại phòng tôi vào một số trang mạng Công Giáo, tin Đức Thánh cha từ nhiệm là một tin thật, không còn nghi ngờ gì nữa; từ đó cho đến các ngày sau, hàng loạt các bài nhận định, phê bình, dự đoán chung quanh cuộc từ nhiệm này. Chúng tôi thường xuyên phải trả lời các câu hỏi từ nhiều người, thuộc nhiều thành phần, nói chung mọi người băn khoăn và thắc mắc về biến cố từ gần 600 năm nay mới xảy ra trong Giáo Hội Công Giáo Roma.

Hôm qua gặp một người quen, tôi hỏi thăm về cha xứ của anh như chúng tôi vẫn thường hỏi thăm nhau, ngài hỏi thăm về tôi và tôi cũng hay hỏi thăm về ngài; anh bạn cho biết: “Cha xứ con buồn lắm, ngài như mất tinh thần về vụ Đức Thánh Cha từ nhiệm, ngài nói với con sao lại xảy ra như vậy ?”

Tôi có một bà chị con ông bác, hai chị em tôi thân nhau khi còn bé, chị đi lấy chồng rất sớm ngay sau khi đậu tú tài hai ( tốt nghiệp trung học ), hiện định cư ở nước ngoài, bây giờ hai chị em đã “tóc bạc như nhau”, mấy hôm nay chị gởi E-mail cho tôi nhiều bài viết về biến cố này, chị không viết gì trong E-mail ngoài những lời thăm hỏi dặn dò quen thuộc, như: “Cậu cẩn thận và giữ gìn sức khỏe”, nhưng đọc nội dung các bài đính kèm thì nhận ra chị hoang mang lắm.

Không đột ngột…

Xem lại video vị Giáo Hoàng đọc lời từ nhiệm, gương mặt của các Hồng Y và các viên chức bên cạnh ngài rất bình thản, nghiêm trang và không hề có dấu hiệu nào ngạc nhiên như là một biến cố đột ngột không hề được báo trước. hình như chỉ có một vị Hồng Y người da đen nhúc nhích một chút. Hồng Y niên trưởng đọc bài phát biểu ngay sau bài từ nhiệm của Đức Giáo Hoàng cho thấy bài phát biểu đã được soạn trước.

Những chi tiết đó cho thấy Đức Giáo Hoàng đã không suy nghĩ một mình, đã không cầu nguyện một mình và đã không quyết định một mình, chắc chắn đó là một quyết định đã được chia sẻ, bàn hỏi, cầu nguyện và chuẩn bị từ trước với nhiều người có trách nhiệm.

Một bài học khiêm tốn thánh thiện…

Đối với tôi, cái bóng của Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II quá lớn nên thật sự Đức Benedicto 16 không có chỗ đứng số một trong tâm hồn tôi, nhưng quyết định từ nhiệm của ngài làm hình ảnh một ông cụ ( theo cảm nhận của tôi ) khô cứng, không gần gũi với quần chúng, quá lý trí, đã vụt sáng, trở thành một bài học sống động, hùng hồn, cụ thể và mạnh mẽ về sự khiêm tốn thánh thiện. Giữa lúc sự rời khỏi các vị trí lãnh đạo quyền cao chức trọng khó khăn biết chừng nào, nhất là trong xã hội Việt Nam, một xã hôi ganh đua nhau quyền chức, hại lẫn nhau để tranh dành, bám quyền bám ghế… thì biến cố con người số môt trong thế giới tinh thần quyết định rời chức để lui vào cầu nguyện là một quyết định quá khiêm tốn và gương mẫu. Cái tuyệt vời của ngài là hình ảnh mà vị giảng Tĩnh Tâm cho Giáo Triều Mùa Chay năm nay đã ví von: “Môsê lên núi cầu nguyện”, thật thú vị và hấp dẫn cho đời sống tu đức.

Không ai không thể có người thay thế…

Tháng tư năm 1975, khi chiếm cao nguyên Lâm Đồng, Việt Cộng đã bắn chết cha Giuse Nguyễn Thế Thuấn, DCCT, tại Di Linh, một chuyên gia Kinh Thánh. Khi ấy bản dịch toàn bộ Kinh Thánh của ngài chưa hoàn tất. Rất nhiều người thương tiếc ngài và tự đặt câu hỏi: “Một người cần thiết như vậy tại sao Chúa lại cất đi ?”

Khi tôi còn học giáo sư Nguyễn Ngọc Lan, ông chia sẻ với sinh viên về một sai lầm “chết người” của ông, khi Đức Pio 12 qua đời, Giáo Hội chọn Đức Gioan 23, ông đã coi thường vị Tân Giáo Hoàng này và đã có những bài viết chỉ trích phê bình coi thường ngài, nhưng rồi nhiệm kỳ ngắn ngủi của ngài đã khơi lên một “Lễ Hiện Xuống mới – Công Đồng Vatican 2”, hơn nữa vị Giáo Hoàng này khi qua đời đã làm một “phép lạ” cho chính cuộc đời của ông khi ông cầu khấn với ngài.

Đức Gioan-Phaolô 2 là một vị Giáo Hoàng xuất hiện không ai có thể dự báo trước, vai trò của ngài đã tỏ rõ khi cục diện thế giới đổi thay, những hoạt động và tâm hồn đạo đức thánh thiện của ngài đã cho thấy dụng cụ mà Chúa sử dụng rất kiến hiệu. Chúa biết phải chọn ai và sử dụng ai.

Tôi đã sống qua nhiều đời Giáo Hoàng, nhiều thăng trầm lịch sử, tôi nghiệm một điều, ở bất cứ giai đoạn nào của thế giới, của Giáo Hội, Chúa luôn quan phòng để có một vị Cha chung thích hợp dẫn dắt con thuyền Hội Thánh. Chúa đã hứa bảo vệ và xây dựng Hội Thánh, Chúa đã hứa không quyền lực nào có thể phá hoại được Hội Thánh ( Mt 16, 18 ), tại sao chúng ta không tin vào lời hứa của Đấng Trung Tín ( 2Tm 2, 13 ), tại sao chúng ta không tin vào sự quan phòng đầy thương yêu của Chúa ?

Hãy phó thác và tin vào sự quan phòng của Chúa…

Người đi một nửa hồn tôi… vững

Một nửa hồn kia Chúa quan phòng.

( xin lỗi đã sửa thơ của thi sĩ Hàn Mặc Tử )

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

22.2.2013 (Ephata 550)

TUỔI GIÀ LÀ THỜI SUNG SƯỚNG NHẤT

TUỔI GIÀ LÀ THỜI SUNG SƯỚNG NHẤT

Bieu Nguyen*Paul Van

Khi đã lớn tuổi, thì con người được nhiều tự do hơn, được thong thả hơn để sống. Không còn phải như em bé bị cha mẹ ép buộc, bây giờ thì muốn làm chi thì làm, muốn thức khuya dậy sớm gì, cũng chẳng còn ai la mắng dọa nạt, rầy la. Nếu vợ vì thương, sợ mất sức khỏe, thì cũng cằn nhằn chút chút thôi, mình không nghe thì cũng chẳng bị roi đòn gì.

Không còn phải khổ công học tập, lo lắng cho tương lai mai sau, chẳng phải học thêm chi cho mệt trí, biết quá nhiều, biết quá đủ rồi. Nếu đã nghỉ hưu, thì học thêm làm chi. Nếu còn đi làm, thì cũng đã rành nghề, quen tay quen việc,  làm việc dễ dàng.

Khi già tình yêu cũng không  còn là mối bận tâm, không quan trọng quá, chưa nghe báo đăng các cụ già trên dưới sáu mươi tự vẫn chết vì  thất tình. Tội chi mà chết vì tình trong tuổi già, vì cũng sắp thấy Diêm Vương rồi, việc chi mà đi sớm hơn. Khôn quá rồi, chết vì tình yêu là nông nỗi.

Đời sống tình cảm của tuổi già êm đềm hơn, ít đau đớn ít sôi động, và bình lặng. Tuổi già rồi, các ông không còn tính chuyện mèo mỡ lăng nhăng, khỏi phải lo lắng sợ vợ khám phá ra chuyện dấu diếm mà nhà tan cửa nát. Đỡ tốn tiền quà cáp, đỡ tốn thì giờ lui tới các nơi bí mật. Hồi hộp, đau tim. Các bà khỏi phải lo chuyện đi đánh ghen, không còn cần phải chăm chút nhan sắc làm chi nữa, vì như chiếc xe cũ rệu, có sơn phết lại cũng xộc xệch, cũng méo mó. An tâm và chấp nhận, thì khỏi băn khoăn mà vui.

Cũng có một số ít những cặp vợ chồng già đem nhau ra tòa chia tay, vì khi già cả hai đều trở thành khó tính. Hậu quả của ly dị trong tuổi già không trầm trọng như khi còn trẻ, vì con cái đã lớn, đã tự lập, không còn ảnh hưởng nhiều đến tương lai chúng và tương lai của chính mình. Vì còn sống bao lâu nữa mà lo lắng chi cho nhiều. Xa được ông chồng khó tính, độc tài là mừng. Dứt được bà vợ đanh đá, bạc ác là phải sung sướng. Khỏe trí.

Tuổi già, cố giữ cho còn có nhau, khi đã đến nước ly dị, thì hai bên đều đúng, đều có lý. Đây là hành động tự cứu mình, và cứu người ra khỏi cảnh khổ lúc cuối đời, khi mà mộ bia đã thấp thoáng trước mắt, không còn bao nhiêu ngày nữa.

Có điều ít ai nghĩ đến, là càng già, thì càng dễ tìm một người bạn đời để nối lại, để an ủi nhau trong tuổi xế chiều. Vì chung quanh họ, có thiếu chi người đứt gánh nửa đường. Chồng chết, vợ chết, ly dị. Vấn đề là không sao tìm được một người có chung nhiều kỷ niệm, nhiều tình nghĩa, nhiều chia xẻ như người phối ngẫu cũ.

Tình già cũng nhẹ nhàng, thong thả, ít khổ đau, ít sôi nổi hơn tình khi còn trẻ trung. Sức lực cũng có còn bao nhiêu mà ghen tương nhau chi, mà lo lắng chi cho thêm mệt, những người lớn tuổi kinh nghiệm và biết rõ như vậy. Nhiều người  trẻ, sau khi gia đình tan vỡ thì xuống tinh thần, uống ruợu đánh bài tìm quên, đôi khi không phải vì họ quá thương yêu người cũ mà tự hủy hoại đời mình, mà chính vì họ tự thương thân, tự ái bị xúc phạm, và rồi sa lầy vào ruợu chè cờ bạc. Người lớn tuổi thì suy nghĩ khác. Họ nghĩ rằng ta cũng đã gần đất xa trời rồi, có sống thêm bao lâu nữa mà sầu khổ cho mệt.  Mất củ khoai lang, thì kiếm củ khoai mì bù vào.

Tuổi già biết giá trị tương đối của tình yêu nên không tìm tuyệt hão, không tìm lý tưởng, và nhờ vậy không bị thực tế phũ phàng làm vỡ mộng, đau khổ.  Khi già rồi, có ai hỏi tuổi, thì cũng không cần dấu diếm, không cần sụt đi năm bảy tuổi làm chi. Sướng lắm. Vì có sụt tuổi, cũng không dấu được những nếp nhăn, mà chẳng có ích lợi gì. Nếu tự cọng thêm cho mình chừng chục tuổi, thì không chừng được thiên hạ nức nở khen là còn trẻ, trẻ quá, và họ mơ ước được như mình.

Các ông có vợ đẹp, khi lớn tuổi cũng đỡ lo bọn dê xồm dòm ngó, lăm le dụ dỗ vợ mình. Con người, ai mà không nhẹ dạ, ai mà không ưa lời nói ngon ngọt êm tai, ai mà không có khi thiếu sáng suốt. Vợ  chồng cũng có khi  bất hòa, buồn giận nhau, và những khi nầy, lòng người dễ chao đảo lắm. Bởi vậy, các ông đỡ nghe các bà hăm he ly dị, hăm he bỏ nhau. Tuổi nầy các bà cũng  thừa khôn ngoan để biết những tên ngon ngọt, hứa hẹn nhiều, thường chỉ là những tên phá đám, chứ không thể tin tưởng được.

Đàn bà có chồng hào hoa, đẹp trai,  khi lớn tuổi cũng bớt lo, vì các ông cũng bớt máu nóng, bớt chộn rộn và khôn ngoan hơn thời trẻ trung. Biết kềm chế hơn, và biết rõ giá trị hạnh phúc gia đình cần gìn giữ hơn là chơi ngông.

Tuổi già, vợ chồng sống chung với nhau lâu rồi, chịu dựng nhau giỏi hơn, quen với cái thói hư tật xấu của nhau. Không còn thấy khó chịu nhiều nữa. Dễ dung thứ cho nhau, chấp nhận nhau, vì họ biết rõ bên cạnh cái chưa tốt của người bạn đời, còn có rất nhiều cái tốt khác.

Vợ chồng, khi đó biết bao nhiêu là tình nghĩa, bao nhiêu kỷ niệm, bao nhiêu thân thiết, cho nên hạnh phúc hơn, vui hơn.

Tình yêu trong tuổi già thâm trầm, có thì giờ bên nhau nhiều hơn, chia sẻ nhiều hơn. Cũng có nhiều ông bà già ưa cãi vã nhau ,cũng dễ hiểu, khi đó tai của cả hai ông bà đều lãng, người nầy nói một đường, người kia hiểu nẻo khác, cho nên buồn nhau giận nhau,  không gây gổ sao được?

Tuổi già, thì tất cả mộng ước điên cuồng của thời trẻ trung đã tan vỡ, đã lắng xuống, không còn khích động trong lòng, không còn thao thức nhức nhối. Họ biết sức mình đến đâu, và không tội chi mà ôm cao vọng cho khổ thân. Họ còn biết thêm rằng, nếu những cao vọng điên cuồng ngày xưa mà có thành đi nữa, thì e cũng chỉ là hư không, chẳng đáng gì.

Khi tuổi già, thì biết khôn ngoan mà an phận, biết vui với bình thường. Biết đâu là hạnh phúc chân chính.  Nhiều người già rồi mới tiếc suốt một thời son trẻ không biết sống, phí phạm thời gian theo đuổi những huyễn mộng, làm đau khổ mình, làm điêu đứng người khác.

Tuổi già, vui khi thấy mình hết nông nỗi, nhìn đời bằng cái tâm tĩnh lặng hơn. Ai khen không hớn hở mừng, ai chê không vội vã hờn giận. Vì biết rõ mình không có gì xuất chúng để thiên hạ khen nịnh. Và biết mình cũng có nhiều cố tật không chừa được, đáng chê. Chê thì chê, khen thì khen. Khen cũng thế, mà chê cũng thế, thì ta vẫn là ta, là một kẻ già, đáng được khoan thứ hơn là trách móc.

Lúc nầy, không  còn muốn làm giàu, không bị con ma tham lam thúc bách để kiếm và tích trữ cho nhiều tiền nhiều bạc. Con cái cũng đã lớn, không phải chi tiêu nhiều thứ , thì tiền bạc, chỉ cần đủ sống thôi, cũng là thỏa nguyện. Họ cũng không cần se sua, tranh hơn thua với ai, tinh thần họ vui vẻ, dễ chịu và khỏe khoắn hơn.

Mối lo âu về tài chánh cũng nghẹ gánh.  Bởi khi đó, nhiều người đã tích trữ được một số tiền nhỏ. Nhà cửa cũng đã có.  Nợ nhà, nợ xe cũng ít đi, hoặc không còn nữa. Con cái cũng đã lớn, không còn là gánh nặng cho mình. Chúng nó  đã có nghề nghiệp, đã làm ăn được. Chắc chắn tương lai chúng khá hơn mình nhiều. Người già không chi tiêu nhiều, ăn cũng ít đi rồi, chơi cũng không còn phung phí dại dột như tuổi trẻ.

Khi già, thời gian mới là thực sự của mình, vì không còn phải chạy ngược chạy xuôi kiếm sống nữa. Không còn bị bó buộc bởi trách nhiệm bổn phận. Có thể ngồi mơ mộng hàng giờ trên ghế đá công viên, thưởng thức thiên nhiên tuyệt thú, có thể tìm được an bình tuyệt đối, không như thời còn trẻ, đi nghỉ mát, mà thỉnh thoảng cũng bị công việc nhà ám ảnh, nhắc nhở.

mưu sinh bên hè phố Hà Nội

Tuổi già về hưu, là một mong ước của gần như của tất cả mọi người. Nhiều người gắng làm sao kiếm cho nhiều tiền để dược về hưu sớm hơn. Nhiều thanh niên, ngày về hưu còn xa lắc, xa lơ mà vẫn mơ ước. Người Mỹ, trẻ già chi cũng ngĩ đến hưu trí. Hưu trí trong tuổi già là một phần thưởng của tạo hóa, của xã hội. Cho sung sướng, nghỉ ngơi. Già là nghỉ ngơi, là khỏe khoắn.

Mỗi buổi sáng nằm dài trên giường, sáng nào cũng là chủ nhật trong tuần, muốn dậy lúc mấy giờ cũng được, muốn nằm cho đến trưa đến chiều cũng không sao. Nằm thoải mái, không ai chờ, ai đợi, không có việc gì gấp gáp phải làm, ngoại trừ cái bọng tiểu nó thúc dục, không cho mình nhịn lâu thêm được nữa. Thế thì sao mà không sung sướng.

Nếu chưa về hưu, còn đi làm việc, thì cái tâm của người lớn tuổi cũng nhẹ nhàng, ít bị những sức căng, bị áp lực đè nén. Vì tài chánh cũng quan trọng, nhưng không quá quan trọng đến nỗi khi thất nghiệp thì mất xe, mất nhà, mất vợ mất con như những người còn trẻ. Khi này, nhiều thứ trong cuộc sống đã ổn định, nhu cầu tiền bạc cũng không quá nhiều. Vã lại, già rồi, kinh nghiệm công việc nhiều, cho nên giải quyết mọi sự trong dễ dàng, thong thả.mưu sinh bên hè phố Hà Nội

Bạn đồng sự cũng có chút nể nang, phần vì tuổi tác, phần vì kinh nghiệm. Có trường hợp, còn có việc thì tốt, mất việc thì mừng hơn, vì có lý do chính đáng để về hưu cho khỏe. Vì nếu việc có hoài, việc lại dễ dàng, thì tiếc, không muốn về hưu. Tuổi lớn, không cần thăng tiến, không cần đua chen với ai, cho nên tinh thần thoải mái, được bạn bè chung quanh thương mến hơn. Những người về hưu rồi, trở lại làm việc, thì đi làm, như  đi chơi, chứ không phải “đi cày” như nhiều người khác quan niệm. Vui thì làm tiếp, chán thì  về nhà nghỉ ngơi.

Người lớn tuổi, thì sức khỏe xuống, bệnh hoạn ồ ạt đến tấn công, không ai thoát khỏi bệnh hoạn. Nhưng họ lại cảm được cái sung sướng của một ngày khi bệnh thuyên giảm. Một ngày khi cảm thấy gân cốt ít nhức mỏi hơn, dễ chịu trong từng khớp xương hơn. Ngưới trẻ đâu có thấy được những nỗi sung sướng này?  Vì họ chưa kinh nghiệm, chưa trải qua, nên chưa biết. Họ có sức khỏe, nhưng họ không biết đó là sung sướng, cho nên, xem như chẳng có giá trị gì. Anh chị xem, nếu anh chị có một tảng ngọc to bằng cái bàn nằm trong vườn, mà anh chị không biết đó là chất ngọc, thì không biết quý, không biết mình sung sướng có tảng ngọc, mà chỉ quý và sướng vì viên ngọc nhỏ xíu nằm trên chiếc nhẫn mà thôi. Có người viết sách rằng, tuổi già, buổi sáng ngủ dậy, nghe xương cốt đau nhức mà mừng, vì biết mình chưa chết. Tôi thêm rằng, biết mình còn sống là mừng, biết mình đã chết nhẹ nhàng, càng mừng hơn.

Nầy anh chị có nhớ câu chuyện Thượng Đế khi đuổi tổ phụ loài người là ông Adam và bà Eva xuống  trần gian, có chỉ mặt mà phán : “Từ nay chúng mi phải đổ mồ hôi trán mới có hạt cơm vào mồm”. Đó là câu nguyền rủa độc địa nhất, là lời phán ý nghĩa nhất, là con người phải sống trong nhọc nhằn. Sách Phật cũng có viết đời là đau khổ, và tu để tránh khổ. Đó, đời nầy đáng sống lắm, nhưng cũng nhiều khổ đau lắm. Bởi vậy nên tôi nói, được sống là mừng, mà được chết, cũng mừng. Tôi đi đám ma ông bạn già, thấy gia đình khóc lóc, rên rỉ thảm thương, con cháu mếu máo kể lể. Tôi cười trong bụng, nghĩ rằng bọn nầy không biết luật của tạo hóa. Có sinh thì có diệt. Chúng nó muốn thân nhân của chúng sống đời đời sao? Biết đâu chỉ là khởi điểm của một cuôc rong chơi. Nầy, tôi đọc cho anh chị nghe một đoạn thơ của anh bạn tôi:

Tôi đi trước, hẹn gặp nhau ở đó

Ai thay da mãi mãi sống muôn đời ?

Kẻ trước, người sau xếp hàng xuống mộ,

Biết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi …

Khi tuổi già, thì xem cái chết như về. Ai không phải chết mà sợ. Sống qua khỏi tuổi năm mươi, là đã lời lắm. Tuổi trung bình của con người trên thế giới này chưa được con số năm mươi. Thì mình nên tự xem như được sống thêm đời thứ hai. Đời trước đã hoàn tất, có cả khổ đau lẫn hạnh phúc. Đời sau nầy, thì chắc chắn là sung sướng hơn hạnh phúc hơn đời trước. Vì đã từng trải, đã gom được kinh nghiệm của đời trước, để thấy đâu là hạnh phúc chân thật, đâu là phù du huyễn hão. Chết là về. Nhưng chỉ sợ không về được đến nơi đến chốn, mà như chiếc xe hư máy dọc đường. Làm khổ chủ xe, bắt nằm liệt mê man, không sống mà cũng không chết, đó mới là cái đáng sợ. Tôi biết vậy, nên đã làm di chúc, khi nào tôi bị mê ba ngày, thì xin rút ống cho tôi đi. Đi về bình an.

Này, anh chị nghĩ sao về ông bác sĩ mà người ta đặt cho tên là bác sĩ tử thần? Già rồi tôi không nhớ rõ tên, hình như ông ta tên là “Ki-Vô-kiên” phải không? Cái tên gần gần như vậy. Theo tôi, thì ông nầy là một vị Bồ Tát, cứu độ cho chúng sinh mau qua khỏi khổ đau, để bị ra tòa, bị tù tội. Chỉ có cái tâm Bồ Tát thật lớn mới làm được việc đó. Tôi cố tìm một cái ảnh ông ta để thờ sống, mà không có. Tôi nghĩ, trong tương lai, luật pháp sẽ không ngăn cấm việc cho người đau đớn ra đi sớm hơn, vì đàng nào cũng chết, tại sao phải kéo cái đau đớn ra dài hơn mới được chết. Trừng phạt người ta hay sao?

Trong tuổi già, người ta biết ơn sự nhiệm mầu của tạo hóa. Có bộ máy nào, không phải là gang thép, bạch kim, mà chạy một mạch sáu bảy chục năm không ngưng nghỉ, mà vẫn còn hoạt động như quả tim, buồng phổi, trái thận, cái bao tử, não bộ. Có hệ thống ống dẫn nào hoạt động sáu bảy chục năm mà chưa thay thế như các mạch máu của hệ thống tuần hoàn. Thì dù có rò rỉ van tim, chất mỡ đọng nghẹt trong vài ba mạch máu, thì cũng là sự thường tình, và mừng là còn sống, còn sinh hoạt được. Dù có phải liền liền đi vào cầu tiểu mỗi ngày nhiều lần, thì họ vẫn sung sướng là cái vòi xài mấy chục năm mà vẫn chỉ mới rò rỉ sơ sơ. Mấy cái vòi nước trong nhà, bằng kim khí cứng, không rỉ sét, thế mà năm bảy năm đã phải thay rồi…

Bieu Nguyen*Paul Van

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

CỤ GIÀ BÁN RAU

CỤ GIÀ BÁN RAU

Tác giả: Br. Huynhquảng

Qua loạt bài Sống Sao Cho Đẹp, chúng ta như được thưởng thức những món ăn ngon trong bàn tiệc cuộc đời, học được những bài học thấm đậm trong cách cư xử hằng ngày, và thấy được những gương sáng của những con người dù bình thường nhưng rạng chiếu vẻ đẹp trong thế giới chúng ta. Mục Sống Sao Cho Đẹp xin được tiếp tục chia sẻ với quí bạn chủ đề mới: Trung tín và Chung thuỷ. Hy vọng với chủ đề này, chúng ta tìm thêm niềm vui và vẻ đẹp vốn được phú bẩm trong con người chúng ta; để con người chúng ta ngày mỗi thêm hoàn thiện, và đời chúng ta thêm tươi đẹp hơn.

* * *

Gần đây qua internet chúng ta biết được, chuyện một bà cụ bán rau tại Việt Nam đã giữ chữ tín với khách hàng đến nỗi bà đã ngã bệnh và qua đời ít ngày sau đó. Gương của bà cụ đã làm cho nhiều người xúc động và cảm phục lòng chân thành và tín trung của người nông dân chất phát.

Do bị đánh động bởi lòng trắc ẩn khi thấy một bà cụ già phải bán rau vất vả kiếm sống hằng ngày, một chàng thanh niên trên đường đi làm đã dừng xe máy lại mua ít bó rau với mục đích là để giúp bà. Vì lý do đó, chàng luôn tiện nhờ bà giữ giúp rau cho đến lúc chiều đi làm về rồi chàng ghé lấy rau. Nhưng thực ra, ý của chàng là giúp bà chứ đâu phải mua rau, vì thế chàng đã quên hẳn việc “gởi” rau nhờ bà cụ giữ giúp. Hoá ra, bà cụ đã vì trách nhiệm và chữ tín đã ngồi chờ chàng thanh niên dưới cơn mưa tầm tả cho đến chiều tối – kết quả bà ngã bệnh và qua đời sau ít ngày. Những người bán nước xung quanh bà hối thúc bà cất rau, trốn mưa, đi về nhà sớm… bà cương quyết không nghe theo họ, vì bà chờ chàng thanh niên lấy rau, người mà bà đã nhận tiền của chàng từ sáng. Ôi! Chữ tín đẹp làm sao trong cuộc đời!

Trung tín, chung thuỷ có nghĩa trong tiếng Latin là “fidelis.” Fidelis được bắt nguồn từ danh từ fides, nghĩa là đức tin, tính thác. Khi bàn về nghĩa từ “đức tin, tính thác” tức là nói đến mối quan hệ không chỉ giữa con người với nhau, nhưng nói lên mối quan hệ giữa một vị thần linh và con người. Hay nói cách khác, từ mối quan hệ chung thuỷ giữa một vị thần với con người đã giúp con người học được ý nghĩa trọn vẹn thế nào là trung tín và chung thuỷ. Vị thần linh luôn luôn chung thuỷ với con người, còn con người thì thường thiếu sự chung thuỷ với ngài.

Khi bàn đến chung thuỷ và trung tín, chúng ta không thể không bàn tới “lời hứa.” Chính lời hứa là sợi mắc xích, là gạch nối, và cũng là nguyên nhân dẫn chúng ta suy tư và tập sống chung thuỷ và trung tín.

Lời hứa đi theo cuộc sống con người từ lúc có trí khôn cho đến lúc trưởng thành. Thuo thiếu thời, con trẻ được giáo dục và dạy bảo về giá trị của lời hứa qua những việc bình thường trong ngày: “Con nhớ nhé, con làm điều này nhé… Dạ, con nhớ. Dạ, con hứa…” Mối liên hệ, niềm tin giữa người lớn và trẻ nhỏ cũng được chớm nở và phát triển từ đó. Niềm tin dành cho nhau giữa hai người được hun đúc có lẽ phần lớn dựa vào khả năng giữ lời hứa của mỗi người. Cứ thêm một lần lời hứa được giữ, thì niềm tin dành cho nhau càng thêm được cũng cố và phát triển. Ngược lại, nếu cứ một lần lỗi hẹn, thì niềm tin dành cho nhau cũng bị  xói mòn. Trẻ em là người có khả năng nhạy bén nhất để nhận ra điều này. Niềm tin giữa cha mẹ và con cái phát triển tới mức nào cũng phụ thuộc rất nhiều vào khả năng giữ lời hứa của cha mẹ dành cho con cái, nhất là lúc các em con thiếu thời.

Khi một lời hứa với ai đó được giữ cẩn thận, thì điều đó có nghĩa là sự tôn trọng của chúng ta dành cho người kia được thẫm định. Dầu vậy, xa hơn thế nữa, khi một lời hứa được giữ, điều trước hết chính là chúng ta tôn trọng chính con người chúng ta, chúng ta giữ lời hứa, chữ tín với chính con người chúng ta – đó chính là điểm then chốt trong việc giữ lời hứa với người khác. Thực đúng như thế, khi tôi hứa một điều gì với ai, tức là tôi thừa nhận với chính tôi và đương sự ấy rằng tôi có khả năng để thực hiện điều đó – Chính giai đoạn thừa nhận với chính tôi đã tạo cho tôi một niềm tin trong tôi; nhờ niềm tin này mà tôi giám hứa với người khác.

Hôm nay, Sống Sao Cho Đẹp mời gọi bạn nhìn ngắm vẻ đẹp của đức tín trung tín và chung thuỷ. Hãy dành đôi phút để hãnh diện về chính con người của mình vốn được ban tặng đức tín cao đẹp này một cách nhưng không. Nhờ niềm tin và lời hứa mà mình đã tạo được biết bao nhiêu mối quan hệ đẹp trong đời: Tình cha mẹ, anh em, bạn hữu, và vợ chồng, con cái. Hãy dành đôi phút để tạ ơn cuộc đời, tạ ơn con người, tạ ơn người thân, vì cũng chính nhờ niềm tin và lời hứa của họ mà ta thêm vững tin xây dựng cuộc đời, xây dựng đời mình.

Bạn thân mến, việc hoàn thiện đời người không chỉ là việc nhổ cỏ dại, nhưng quan trọng hơn chính là trồng thêm lúa, hoa, và rau. Càng trồng thêm lúa, hoa, rau… thì cỏ dại không có cơ hội chiếm đất trống để mọc. Sống trong tâm tình tạ ơn, cảm kích sẽ giúp ta trồng thêm đức tính tốt và thực hiện được ước mơ làm người sống đẹp, sống tốt. Chúng ta cùng hứa với lòng mình và với nhau là trồng thêm lúa, hoa bằng cách giữ lời hứa với mình và với người trong niềm vui cảm tạ.

Br. Huynhquảng

TU VIỆN SUMELA, THỔ NHĨ KỲ –

TU VIỆN SUMELA, THỔ NHĨ KỲ –
Di sản văn hóa thế giới

Huyền bí tu viện cheo leo vách núi ở Thổ Nhĩ Kỳ

Được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới, tu viện Sumela là một công trình chứa đựng nhiều giá trị về lịch sử, tôn giáo và kiến trúc của đất nước Thổ Nhĩ Kỳ.

Tu viện nằm cheo leo trên vách núi trong màn sương mờ ảo.

Tu viện Sumela nằm tại Trabzon, một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Thổ Nhĩ Kỳ, giáp với Biển Đen. Tu viện được xây dựng trên một vách núi cheo leo cao 1.200m. Do thời tiết quanh năm ẩm ướt cộng với sương mù thường xuất hiện nên tu viện cổ kính này luôn khoác trên mình vẻ âm u, huyền bí.

Để leo lên tu viện Sumela, du khách có hai sự lựa chọn. Một con đường hiện đại được xây dựng xuyên từ sườn bên kia của ngọn núi sang tu viện. Còn nếu bạn không ngại đi bộ, bạn hoàn toàn có thể trải nghiệm và đồng hành với một con đường xuyên rừng, leo lên sườn dốc để lên tu viện.

Lên một chiếc cầu thang chênh vênh bên sườn núi, bạn sẽ được chiêm ngưỡng hệ thống dẫn nước được đặt trên những mái vòm nối tiếp nhau phía tay trái. Đây chính là nguồn nước duy nhất của những người sống trong tu viện. Ngày nay, các mái vòm đã được phục dựng khá hoàn thiện.

Cầu thang men theo sườn núi vào tu viện, bên trái là đường ống dẫn nước đặt trên những cột trụ cổng vòm.
Bao quát toàn cảnh những dãy nhà nguyện.
Phần kiến trúc bằng gạch trong lòng hang đá.
Nhà nguyện đá.

Leo hết cầu thang, bạn sẽ bắt gặp khung cảnh những dãy nhà nguyện cổ kính chen nhau dưới mái vòm hang động. Tu viện Sumela có tổng cộng 72 căn phòng, bao gồm nhà thờ đá, các nhà nguyện, bếp, phòng học, phòng tiếp khách và một thư viện lớn. Phần trung tâm của tu viện được đào sâu vào lòng núi và có thêm phần hậu cung xây bằng gạch. Các bức tường gạch và đá đều mang trên mình những bức tranh tường mang chủ đề tôn giáo.

Truyện kể rằng Thánh Luke, một tông đồ của Chúa Jesus đã tạc một bức tượng gỗ màu đen Đức Mẹ Đồng trinh Maria. Sau khi ông qua đời, thánh vật này được chuyển đến Athens, Hy Lạp. Tương truyền, các thiên thần đã mang bức tượng đến một hang đá cất giấu để đến năm 386, hai tu sĩ người Athens là Barnabas và Sophronius đã phát hiện ra nó. Họ đã xây dựng nên tu viện Sumela ngay tại hang đá này. Từ Sumela bắt nguồn từ tên tiếng Hy Lạp của Đức mẹ Đồng trinh – Panaghia.

Tranh tường theo chủ đề tôn giáo, khắc họa các cảnh trong Kinh Thánh.

Đức Mẹ Đồng trinh Maria.
Chúa Jesus.
Khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp quanh tu viện.

Tu viện Sumela là một tu viện Chính thống giáo Hy Lạp, một nhánh của Kitô giáo. Các hoàng đế của đế chế Trebizond đã không tiếc tiền của xây dựng tu viện này. Khi vương triều này sụp đổ và bị thay thế bởi đế chế Ottoman của người Hồi giáo, tu viện Sumela vẫn được duy trì. Cả người theo Cơ đốc giáo và Hồi giáo đều tin rằng, phép màu của Đức Mẹ Maria sẽ mang đến sức khỏe dồi dào cho những người hành hương.

Đầu thế kỷ 20, cùng với sự thành lập của nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ, người Hy Lạp buộc phải rời khỏi Sumela và tu viện chính thức bị bỏ hoang từ năm 1923. Các tu sĩ đã chuyển các báu vật sang Hy Lạp, và nhiều công trình bằng gỗ đã bị phá hủy trong một trận hỏa hoạn năm 1930. Ngày nay, tu viện Sumela đã được phục dựng và trở thành một địa điểm du lịch hấp dẫn.

Chữ cổ trên tường tu viện.

Hình ảnh tu viện trên một tấm bưu thiếp gửi năm 1903.

Tu viện Sumela là điểm đến hấp dẫn với nhiều du khách trên thế giới.

Làn sóng vượt biên lần thứ hai

Làn sóng vượt biên lần thứ hai

Trần Vinh Dự –

Tôi có hai người bạn thành đạt. H là tổng giám đốc trong một quỹ đầu tư lớn ở thành phố Hồ Chí Minh. Anh từng đi du học và lập gia đình ở nước ngoài. Cách đây 8 năm, anh bỏ việc ở nước ngoài để về nước với niềm phấn khích cao độ. Giờ đây, anh đang tính nộp hồ sơ xin di trú cho gia đình sang Bắc Mỹ. Anh chưa tính sẽ sang Bắc Mỹ sống ngay, nhưng với anh, đó là một cách bảo hiểm.

T là chủ một doanh nghiệp cổ phần cũng ở thành phố Hồ Chí Minh. Anh từng bán một công ty trước đây do anh gây dựng và thu về một khoản tiền lớn. Giờ đây anh vẫn còn hai công ty nữa ở Việt Nam. Tuy nhiên hiếm khi anh ở Việt Nam. Anh dành phần lớn thời gian ở Mỹ với gia đình, nơi anh mới mua một căn biệt thự giá hơn 3 triệu USD hồi đầu năm 2012.

 

Trở thành thường trú nhân, hay còn gọi là người có “thẻ xanh”, hoặc trở thành người song tịch, tức là vừa có quốc tịch Việt Nam, vừa có quốc tịch một nước khác, đang trở thành một xu thế thời thượng. Có nhiều hãng tư vấn di trú đang hoạt động tích cực ở Việt Nam như IMG, Kornova, USIS, Harvey Law Group (HLG), Immigration (IMM), US Investment (USI), ImmiCa… để phục vụ những khách hàng tiềm năng như H và T. Một số đang trong tình trạng chạy hết công suất vì khách hàng quá đông.

 

Hợp pháp và hợp lý

Việc làm thủ tục xin định cư ở nước ngoài là việc hoàn toàn hợp pháp ở Việt Nam. Thậm chí, ở một khía cạnh nào đó nó còn được khuyến khích. Kể từ ngày 1 tháng 7 năm 2009, Luật Quốc tịch mới của Việt Nam có hiệu lực và luật này quy định công dân Việt Nam có quyền có hai quốc tịch. Theo Bộ Tư pháp, kể từ ngày đó, người Việt Nam ra định cư, nhập quốc tịch ở nước ngoài đương nhiên mang quốc tịch Việt Nam mà không phải đăng ký. Điều đó có nghĩa là người Việt Nam có thể xin quốc tịch nước khác như Mỹ hay Canada mà không cần phải sợ mất quốc tịch Việt Nam.

Với nhiều người, việc có quốc tịch thứ hai cũng không quá quan trọng. Điều họ cần là quyền được định cư lâu dài ở nước mà họ lựa chọn ngoài Việt Nam. Và như vậy, chỉ cần là thường trú nhân (có thẻ xanh) là đủ. Điều đó có nghĩa là việc có hay không có quyền có hai quốc tịch theo luật Việt Nam không phải là yếu tố thúc đẩy họ xin định cư nước ngoài.

Xét về mặt cá nhân, việc thu xếp để có thêm một lựa chọn về nơi ở là chuyện bình thường và hợp lý. Cả H và T đều muốn con cái khi lớn lên được sống trong một môi trường an toàn và được hưởng thụ một nền giáo dục tốt. Ngay cả nếu không định cư dài hạn ở một nước khác, thì có được tự do trong việc đi lại và thay đổi môi trường sống theo sở thích cũng là một quyền lợi thú vị, mặc dù tốn kém. Đó là chưa kể việc một số người trở nên giàu có như T muốn đa dạng hoá tài sản của mình, vì thế, giữ một số tài sản bất động sản ở nước ngoài cũng là một lựa chọn thông minh.

Xã hội Việt Nam đang giàu lên. Cùng với sự phát triển chung của xã hội, Việt Nam ngày càng có nhiều người giàu. Đi kèm với nó là ngày càng nhiều những người có nhu cầu làm thường trú nhân ở các nước phát triển như H và T. Điều này xem ra có vẻ rất bình thường.

Không có số liệu chính thức về số hồ sơ xin định cư mà các hãng tư vấn định cư hoạt động ở Việt Nam đang giải quyết. Vì nhiều lý do tế nhị, cũng ít có người công khai tự nhận mình đang xin quyền định cư ở nước khác. Thế nhưng có nhiều bằng chứng gián tiếp cho thấy phong trào này hiện nay đang phát triển mạnh. Ngày càng có nhiều hãng tư vấn di trú quốc tế tham gia vào thị trường Việt Nam, ngày càng có nhiều đại lý độc lập mọc lên phục vụ khách hàng trên thị trường này. Một số hãng lớn trong năm 2012 thậm chí đã bị quá tải và phải outsource ra bên ngoài để có đủ nhân lực xử lý hồ sơ.

Thậm chí đã xuất hiện một số doanh nghiệp Việt Nam ngấp nghé đầu tư vào Bắc Mỹ hoặc Úc trong các ngành liên quan đến nông – lâm nghiệp với mục đích tạo càng nhiều công ăn việc làm ở các nước này càng tốt. Lý do là số lượng công ăn việc làm tạo ra càng nhiều thì các chủ dự án này càng xin được nhiều xuất thẻ xanh. Các xuất thẻ xanh này sau đó có thể bán lại cho các “nhà đầu tư”- thực chất là những người bỏ tiền ra mua thẻ xanh vào các nước phát triển.

Nhiều câu chuyện có vẻ hợp lý về mặt cá nhân nhưng khi gộp với nhau lại là tín hiệu cho thấy nhiều sự bất bình thường về mặt xã hội. Và câu truyện xin di trú ồ ạt này cũng vậy.

 

Bất bình thường về xã hội

Thông thường những đợt di cư ồ ạt ra nước ngoài thường là chỉ dấu cho thấy những vấn đề về mặt xã hội. Lý do thông thường nhất là sự khó khăn về kinh tế, hiểm hoạ chiến tranh, bất ổn chính trị, phân biệt chủng tộc…Làn sóng vượt biên ở Việt Nam trong những năm cuối thập kỷ 70 và đầu thập kỷ 80 trước đây là một thí dụ. Nền kinh tế Việt Nam trước đổi mới đã rơi vào tình trạng kiệt quệ và điều này đã làm cho nhiều người Việt tìm cách vượt biên với hi vọng tìm được miền đất hứa.

Thế nhưng trào lưu di cư lần này của người Việt khác xa với trào lưu vượt biên trước đây, mặc dù có nhiều người gọi vui là phong trào vượt biên lần thứ hai. Khác biệt cơ bản nhất là phong trào hiện nay là phong trào di cư của những người giàu, những người thực sự có tiền để trở thành các nhà đầu tư và lấy thẻ xanh qua hình thức đầu tư. Nếu trước đây các thuyền nhân vượt biên nghèo đói chen chúc trên những thuyền cá nhỏ bé, thì những người di cư lần này đi máy bay trên ghế hạng C (hạng sang) và trong tài khoản đầy tiền.

Lý do thông thường khiến những người giàu muốn định cư ở nước phát triển là tìm đến một môi trường xã hội tốt hơn cho gia đình khi họ trở thành những người có khả năng chi trả cho một cuộc sống tốt hơn. Thế nhưng đây không phải là lý do tạo ra các đợt di cư đột biến.

Lý do thường được nghe đến nhiều nhất trong số các chủ doanh nghiệp muốn di cư ra nước ngoài ở Việt Nam là sự bế tắc về cơ hội kinh doanh hiện nay cũng như sự bi quan về triển vọng trong tương lai. Các doanh nhân luôn muốn tìm kiếm môi trường kinh doanh nơi họ có thể kiếm tiền nhiều nhất. Khi thấy Việt Nam không phải là nơi họ có thể kiếm nhiều nhất nữa, họ đương nhiên muốn kiếm tìm một chân trời mới.

Cũng từ sự bi quan về hiện trạng và tương lai của nền kinh tế khiến nhiều chủ doanh nghiệp lo lắng về các bất ổn xã hội có thể xảy ra trong tương lai. Điều này dẫn họ tới chuyện lo xa cho gia đình. Từ những mối lo sợ có thật như môi trường xã hội ngày càng kém an toàn, đặc biệt là ở thành phố Hồ Chí Minh, tới những mối lo xa xôi như bất ổn và rối loạn xã hội hoặc chiến tranh. Trong khi còn có điều kiện về tài chính, việc thu xếp để gia đình có quyền thường chú ở nước khác xem ra là một dạng mua bảo hiểm khôn ngoan.

Ẩn sau câu chuyện đó, còn có những lý do tế nhị hơn. Việt Nam trong một giai đoạn dài phát triển rất mạnh. Do hệ thống luật pháp và chính sách không hoàn thiện và phải thay đổi thường xuyên, các lỗ hổng pháp lý rất nhiều và dẫn đến một thực tế là có nhiều người làm giàu dựa vào sự lỏng lẻo của quản lý hoặc các bất cập trong hệ thống pháp luật. Kết quả là các rủi ro pháp lý luôn luôn tồn tại, mặc dù không dưới các hình thái cụ thể. Ý thức về rủi ro pháp lý đối với các chủ doanh nghiệp Việt Nam thường không được rõ ràng lúc “thái bình” nhưng lại được làm sâu sắc hơn mỗi khi có các vụ bắt giữ hoặc điều tra quy mô lớn liên quan đến các chủ doanh nghiệp. Năm 2012 vừa qua là một năm như vậy.

 

Ra đi không tay trắng

Cuộc di cư của những người giàu thường là tai hại cho nền kinh tế nếu nó diễn ra trên diện rộng. Đầu tiên là sự thất thoát về chất xám. Không phải ai giàu có cũng giỏi, nhưng nhiều trong số những người này là những người có kinh nghiệm, có khả năng kinh doanh, hiểu biết, và thông minh. Sự ra đi của những cá nhân này là một thiệt thòi lớn cho nền kinh tế xét về mặt chất xám trong kinh doanh.

Thứ hai là sự thất thoát về của cải. Những người ra đi không phải với hai bàn tay trắng như phần lớn những người vượt biên bằng tàu cá hồi 30 năm trước. Những người ra đi lần này mang theo những khối tài sản lớn, thường là hàng triệu USD, ra nước ngoài. Rất nhiều, nếu không muốn nói là phần lớn, chủ doanh nghiệp lớn ở Việt Nam đều đã có bất động sản và số dư tài khoản tiền mặt lớn ở nước ngoài.

Thứ ba, đó là các phong trào này tạo ra hiệu ứng tâm lý, làm tăng sự dao động, làm sâu sắc thêm tâm lý lo ngại, cũng như làm giảm nhiệt huyết của những người còn ở lại. Nó cũng đồng thời làm nản lòng những người muốn tới Việt Nam đầu tư và làm ăn. Đây cũng là một bất lợi nghiêm trọng mà các phong trào di cư của người giàu gây ra cho thị trường.

Dù có những tác động bất lợi như vậy, việc lựa chọn di cư là một quyền hợp pháp của người dân. Vì thế không thể ngăn chặn xu hướng này bằng các mệnh lệnh hành chính. Cũng không thể ngăn chặn nó bằng những lời kêu gọi suông.

 

Giữ chân người tài bằng cách tạo niềm tin

Để chống lại xu hướng “vượt biên lần thứ hai” này cần phải giải quyết tận gốc nguyên nhân khiến nhiều người có tiền đang muốn dứt áo ra đi. Đó là niềm tin vào sự phục hồi của nền kinh tế Việt Nam và niềm tin vào sự an toàn của bản thân họ và gia đình ở Việt Nam. Việc này không dễ dàng. Để khôi phục lại lòng tin vào tương lai phát triển của đất nước, điều quan trọng là nhà nước phải chứng minh được cho thị trường và công chúng thấy khả năng dẫn dắt, lộ trình và giải pháp cụ thể, và uy tín chính trị của lãnh đạo.

Liên quan đến lộ trình và giải pháp cụ thể, đưa Việt Nam ra khỏi vũng lầy hiện nay không phải là một nhiệm vụ bất khả thi. Ngược lại, tất cả các vấn đề này đều có giải pháp. Khủng hoảng kinh tế không phải là một câu chuyện xa lạ mà nó đã xảy ra ở khắp nơi trên thế giới, trong mọi hình thái kinh tế mà loài người đã trải qua. Việt Nam không phải là ngoại lệ. Thực tế là các lời giải này đã được bàn đến nhiều, trong giới chuyên gia, trong các cơ quan tư vấn, từ các tổ chức hỗ trợ quốc tế, tới cả các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước Việt Nam.

Vì thế, vấn đề còn lại nằm ở việc chứng tỏ năng lực cũng như uy tín chính trị của người lãnh đạo.

Uy tín này phải được khôi phục và nó chỉ được khôi phục khi người dân nhìn thấy các động thái quyết đoán của Đảng và nhà nước liên quan đến tư cách, trình độ, đạo đức, phẩm chất, tính chuyên nghiệp, tinh thần phụng sự đất nước, và cái nhìn viễn kiến của bộ máy lãnh đạo.

Phải từ việc khôi phục uy tín này, lãnh đạo quốc gia mới có thể vực dậy lòng tin của người dân về tính khả thi của sự đổi thay tích cực. Đi kèm với lòng tin này, các quyết sách thực tế của nhà nước nhằm thẳng vào các vấn đề giai góc nhất đang tồn tại mới có thể giúp Việt Nam vượt qua khó khăn hiện tại.

Chỉ khi làm được như vậy, lòng tin của thị trường cũng như của giới doanh nhân vào tương lai ở Việt Nam mới được khôi phục. Và chỉ có thế, câu chuyện “vượt biên lần thứ 2” của những người có tiền và những người có tài mới giảm bớt và dần dần đảo ngược giống như thời kỳ các doanh nhân Việt kiều lũ lượt về nước làm ăn hồi 10 năm trước.

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

 

 

HÀNH TRÌNH NỘI TÂM

HÀNH TRÌNH NỘI TÂM

“Trong sự tĩnh lặng của con tim chúng ta nghe được tiếng nói, nhưng chúng bắt đầu mờ đi và hầu như không nghe được nữa khi chúng ta bắt đầu bước vào thế giới” –
Ralph Waldo Emerson

With God

Mùa chay thánh là mùa mà Giáo Hội mời gọi mỗi người chúng ta nhìn lại hành trình nội tâm của mỗi người, nhìn lại sự chọn lựa của chúng ta trong mỗi giây phút của cuộc sống vì chính những chọn lựa ấy uốn nắn (shape) con người mà chúng ta trở thành. Nhưng trước khi chọn lựa chúng ta cũng cần phân định phương hướng của mình, mà sự phân định đó cần được rõ ràng vì nó sẽ giúp chúng ta chọn lựa những việc hàng ngày với mục đích. Chẳng hạn như các em học sinh, khi các em biết mình muốn học ngành nào, các em sẽ lấy các lớp thích hợp cho ngành đó, và ngay cả đi xin việc làm, các em cũng muốn được có việc làm trong ngành của mình. Cũng vậy trong hành trình thiêng liêng, chúng ta cũng cần có phương hướng, và định nghĩa hành trình nội tâm của riêng mình trong từng giai đoạn của cuộc sống.

Hành trình nội tâm không phải là hành trình riêng tư nhưng là một hành trình với Chúa, một hành trình có phương hướng rõ ràng và Chúa sẽ dạy cho ta trong từng mỗi giai đoạn. Cũng như thể xác của chúng ta có những giai đoạn lớn lên, lúc mới sanh thì uống sữa, sau đó được ăn cháo, v.v., hành trình tâm linh cũng có những giai đoạn tương tự và Chúa sẽ dạy cho chúng ta biết chúng ta đang ở giai đoạn nào với Ngài. Nhưng nếu muốn được nghe tiếng Chúa, chúng ta cần sống trong tĩnh lặng, con tim của chúng ta cần phải sống với Chúa trong tâm tình cầu nguyện. Lắm lúc chúng ta sợ cầu nguyện, sợ tĩnh lặng vì cảm thấy mình không biết cách cầu nguyện. Thật ra cầu nguyện không có phương thức, cầu nguyện không có cuốn cẩm nang, nhưng cầu nguyện là mối tương quan giữa mình với Chúa cũng như mối tương quan giữa ta và một người bạn. Lắm lúc chúng ta đặt Chúa Giêsu trên bàn thờ và quên đi nhìn đến Mầu Nhiệm Nhập Thể là một mầu nhiệm mà Con Một Thiên Chúa đã chọn làm một con người như ta, và chúng ta sợ không dám kết bạn với Ngài vì chúng ta chỉ thấy sự cao sang và không nhìn đến một Thiên Chúa đang mong mỏi tình yêu và sự kết hợp của mỗi một người chúng ta.

Mối quan hệ nào cũng có những tâm tình riêng tư, những cách nói chuyện và chia sẻ chỉ giữa hai tâm hồn đang muốn được hiểu nhau. Mối tương quan giữa ta và Chúa cũng vậy, có người cảm thấy mình gần gũi với Chúa hơn qua Kinh Thánh, có người cảm thấy Chúa nói chuyện với mình qua những lời kinh, riêng tư hay với cộng đoàn, có người cảm thấy mình kết hợp với Chúa hơn qua công việc sinh nhai, hay qua những công việc nội trợ trong nhà, có người tìm được sự hiện diện của Chúa khi ru con ngủ, hoặc nấu ăn cho gia đình. Hãy để ý và tìm hiểu xem coi đâu là những lời kinh của chính mình với Chúa và biết trân quý và sống với Chúa qua những lời kinh ấy. Cho đó là những lời kinh nấu ăn, những lời kinh đi làm việc thiện, những lời kinh đi làm hãng xưởng, những lời kinh ru con, những lời kinh chịu đau đớn vì bệnh tật hoặc tuổi già, tất cả đều là những lời kinh giúp mình cảm nhận được tình thương của Chúa và giúp cho mối tương quan của mình với Chúa được trọn vẹn hơn. Không có lời kinh nào đẹp bằng lời kinh chân tình thành nhất của mình với Chúa. Vì tất cả những lời kinh đơn sơ chân tình của chúng ta đều đẹp dưới ánh mắt của Thiên Chúa và cũng qua những lời kinh ấy Thần Khí Chúa dẫn ta đi vào cõi sâu thẳm của tâm hồn. Nhưng dẫu lời kinh nào Chúa chọn cho hành trình của mỗi người, Chúa Giêsu vẫn mời gọi mỗi một người đến với bàn tiệc thánh để Ngài nuôi dưỡng chúng ta vì,
“Bí Tích Thánh Thể là nguồn mạch và tột đỉnh toàn bộ đời sống Kitô giáo. Thánh Thể là tột đỉnh hoạt động thánh hoá của Thiên Chúa đối với chúng ta và là tột đỉnh của hoạt động phương tự chúng dâng lên Ngài. Bí Tích Thánh Thể chứa đựng tất cả của cải thiêng liêng của Hội Thánh, đó chính là Đức Kitô, Đấng là Chiên Vượt Qua của chúng ta.” Giáo Lý Công Giáo điều 1324

Mối quan hệ thật sự nào cũng có những lên xuống của nó, những giận hờn, những hiểu lầm, những giây phút vui buồn, nhưng qua những giây phút ấy chúng ta hiểu và yêu mến nhau hơn. Mối quan hệ của ta và Chúa Giêsu cũng không khác, cũng có lúc chúng ta muốn được gần gũi với Ngài, có những lúc chúng ta cảm thấy khô khan khi đến với Ngài, rồi cũng có lúc chúng ta giận hờn với Chúa và thấy Ngài rất là khó ưa. Nhưng trong tất cả mọi sự, chúng ta xin ơn để được thấy rằng chỉ có mỗi mình Ngài mới ban lại cho chúng ta sự sống và niềm vui thật hầu chúng ta biết bám chặt lấy Ngài cho dù hành trình của ta với Ngài như thế nào đi nữa.

Khi mối quan hệ của Chúa và ta được trưởng thành hơn, chúng ta sẽ biết sống mật thiết và tin tưởng nơi Ngài, và lúc đó chúng ta sẽ biết buông tay để cho Thần Khí Chúa dẫn dắt vì:
Chúa Thánh Thần không chỉ giới hạn trong sự nghèo nàn và lý trí tự hào của chúng ta. Thần Khí Chúa làm việc bên ngoài tầm hiểu biết của con người. Giống như một thợ lặn đi sâu vào bóng tối của đáy đại dương, Chúa Thánh Thần đi sâu vào cõi tâm tư mà chúng ta chưa hề biết của bản chất sâu xa nhất của mình, phát hiện ra những viên ngọc trai quý giá mà chúng ta không bao giờ biết là chúng ta có – Kathryn J. Hermes, FSP.

Hành trình nội tâm là hành trình tĩnh lặng trong phó thác, một hành trình lựa chọn để cùng được với Thần Khí Chúa đi sâu thẳm vào cõi tâm tư của mình qua những lời kinh thiêng liêng. Một hành trình đòi hỏi chúng ta luôn hướng nội để cảm nhận những biến chuyển trong tâm hồn để nhận ra mình đang ở đâu trong mối quan hệ của mình với Chúa.

Chúng ta đang bước vào ngưỡng cửa của mùa chay thánh trong năm mà Giáo Hội Mẹ mời gọi các con cái nhìn về hành trình đức tin của mình. Uớc gì mỗi người chúng ta biết lắng đọng và để ý xem trong các công việc hàng ngày, qua những giây phút thờ phượng, đâu là lời kinh của mình với Chúa, đâu là những phút thiêng liêng chỉ có mình ta với Ngài. Hãy lắng đọng, hãy tìm xem, và nếm thử vị ngọt của một tình yêu thiêng liêng mà Thiên Chúa dành riêng cho chính ta. Hãy sống tĩnh lặng để lắng nghe tiếng Chúa qua Bí Tích Thánh Thể và lời kinh chân thành của một người con chỉ mong làm đẹp lòng Cha mình.

Củ Khoai

2/2013

Bryan Đỗ gởi

LỄ RỬA CHÂN, BỔN MẠNG CỦA NGƯỜI LÀM NAIL

LỄ RỬA CHÂN, BỔN MẠNG CỦA NGƯỜI LÀM NAIL

Tác giả: Cát Minh

LỄ RỬA CHÂN, BỔN MẠNG CỦA NGƯỜI LÀM NAIL

(Lễ Rửa Chân = Chúa rửa chân cho các môn đệ. Nail = Nghề Làm Móng, thường gọi là làm neo)

Nếu người Tàu nổi tiếng về dịch vụ nhà hàng, người Phi chuyên về nghề y tá, thì người Việt Nam phải nói đến thành công về nghề làm tóc và làm móng tại Hoa Kỳ. Theo thống kê tường thuật thì trên nước Mỹ có khoảng trên dưới 4 ngàn tiệm tóc và làm móng. Cứ 10 tiệm làm móng thì khoảng 7 tiệm là do người Việt Nam làm chủ. Vì thế, có câu chúc Tết vui nói về nghề neo như sau:

Lẳng lặng mà nghe họ chúc nhau:

Chúc nhau năm mới làm neo giầu.

Phen này ta quyết đi buôn kéo

Thiên hạ bao nhiêu đứa cắt đầu.

Các cơ quan truyền thông quốc tế cũng đã nhiều lần đề cập đến sự thành công của người Việt tỵ nạn trong lãnh vực làm neo. Lý do vì sao người Việt thích chọn nghề này? Theo thiển ý có lẽ là vì học lấy bằng hành nghề “neo” không mất nhiều thời gian, khoảng từ 6-9 tháng, và nghề neo đi đâu cũng có thể sống được. Lợi tức thu nhập cao trong khi học phí lại tương đối nhẹ. Nếu có mở tiệm cũng không cần nhiều vốn so với các ngành nghề khác. Ngoài ra, làm nghề neo ở đâu cũng có thể kiếm được việc làm. Học và làm neo không khó mà cần sự tỉ mỉ khéo tay, không đòi hỏi học vấn cao cũng như không cần giỏi tiếng Anh. Cũng vì lý do này mà tiệm Nail là nơi phức tạp nhất. Đủ mọi thành phần dân trí có mặt trong thế giới làm neo: từ những người có trình độ dân trí cao đến những người có dân trí thấp. Tại một vài tiệm neo, thợ làm nói chuyện với nhau ồn như chợ, đôi khi còn dùng “tiếng lóng”. Có người nói rằng muốn biết tin tức, thời sự thế giới ra sao không cần xem báo hay coi tivi, chỉ cần đi làm neo là biết rõ sự tình.

Vì sao nghề neo được cho là “hái” ra tiền? Thật ra không phải dễ kiếm tiền mà vì họ làm nhiều giờ, và làm nhiều ngày. Trung bình mỗi ngày làm khoảng 10 tiếng và làm 6 ngày một tuần. Mỗi bộ “neo” làm mất khoảng nửa tiếng. Tiền công, cộng với tiền típ hàng tháng tính ra ngang ngửa so với lương kỹ sư mới ra trường 4 năm đại học. Nghề “neo” được trả phần lớn bằng tiền mặt vì thế việc khai thuế với chính phủ nhiều hay ít là tuỳ hỉ, khó mà kiểm soát được. Nói về nghề nail, có một bài hát vui mang tên Nail Nail Nail do Phạm Hoàng Dũng sáng tác như sau:

Nghe nhạc MP3

Mới đến nước Mỹ nên học nghề Nail
Vừa dễ vừa chẳng tốn hao gì đâu
Chỉ vài trăm đô bằng Nail ta có
Tà tà sáng tối cuộc sống lai rai
Nếu muốn chắc cú kiếm thêm nghề Hair
Cắt tóc Mỹ trắng Mỹ đen đừng chê (hê)
Móng tay móng chân ta mài ta dũa
Chiều chuộng đủ cách bởi khách là vua

Nail nail nail
Bàn tay ta phải khéo
Nail nail nail
Nghề Nail đâu có bèo
Nail nail nail
Tiền dzô đầy ngăn kéo
Nail nail nail nail nail nail
Chắc chắn sẽ không nghèo

Bác Sĩ, Kỹ Sư cũng không bằng nail đâu
Học phí tốn kém ra trường lại lâu
Chỉ vài trăm giờ bằng Nail ta có
Mài mài dũa dũa cứ thế tiền dzô.

Ngày xưa, lúc chưa có băng giao Mỹ-Việt, một số Việt kiều về thăm quê hương, chủ yếu là thăm gia đình. Họ thường mang tiền đô về làm quà và giúp đỡ gia đình. Có một thời Việt kiều được xem như là “công tử áo gấm”. Dân gian thời ấy có câu để nói về những người rủng rỉnh nhiều tiền như sau: “nhất Việt kiều, nhì cán bộ”. Các cô gái được trai Việt kiều “khều” (cưới) là một may mắn. Bây giờ thì thời thế đã thay đổi, ngôi vị Việt kiều đã nhường ngôi cho 2 giai cấp giàu sang mới trong xã hội: “nhất cán bộ, nhì đại gia, thứ ba mới tới Việt kiều”.

Có một vài câu chuyện vui kể về Việt kiều nghe cười chảy nước mắt. Một anh độc thân sang Mỹ không có gia đình, vì thế không có cơ hội đi học nên xin vào một nhà hàng làm nghề rửa chén. Công việc của anh là tráng chén bát và cho vào máy rửa chén. Ở Mỹ các nhà hàng đều sử dụng máy rửa chén, chứ rất ít tiệm rửa chén bằng tay. Khi về Việt Nam, anh được gia đình và họ hàng đón tiếp rất nồng nhiệt vì anh là Việt kiều. Người ta hỏi anh làm nghề gì ở bên Mỹ. Sợ bị đánh giá thấp, anh suy nghĩ một chút rồi trả lời làm nghề “điều khiển dĩa bay”. Một chị khác làm nghề móng tay. Khi thân nhân hỏi chị làm nghề gì, cũng sợ bị đánh giá thấp, chị trả lời nghe rất sang: “làm thẩm mỹ tứ chi”.

Trước đây nghề neo được đánh giá thấp, nhưng ngày nay được nâng cấp vì sự thịnh hành cũng như lợi tức cao thu nhập từ nghề này. Có người làm nghề neo mua được hai ba căn nhà và đi xe hơi sang trọng. Vì thế, một số bài hát được phăng ra để nghe cho vui như sau:

Con quỳ lạy Chúa trên trời
Sao cho con lấy được người làm neo…

Hay

Ai bảo làm neo là khổ
Làm neo sướng lắm chứ
Càng ngồi lâu, ta càng giàu mau…

Thời đại a-còng @, nghề nail cũng tiến bộ theo kỹ thuật hiện đại. Ngày xưa làm neo phải bưng chậu nước tới cho khách ngâm tay chân, sau khi làm xong lại bưng đi đổ thay nước mới. Hôm nay, khách tới làm neo được nằm trên cái ghế da có máy đấm bóp; còn chân ngâm vào chậu nước, có máy bơm nước vào và xả nước ra. Để cạnh tranh và để chiều khách hàng, có tiệm còn cung cấp wifi internet, Ipad, HD tivi miễn phí cho khách hàng thưởng thức trong khi được phục vụ bàn tay đôi chân của mình.

Có một tiệm nail nằm ở phía Bắc của tiểu bang Virginia, do người Việt Nam làm chủ đã nghĩ ra một cách thu hút khách hàng khá độc đáo. Khách tới làm nail có thể chọn dịch vụ cho cá rỉa chân. Họ muốn có một phương pháp mới để thay thế cách thức dùng dao cạo, để cạo lớp da chết hoặc da chai cứng ở bên dưới bàn chân. Phương pháp dùng dao cạo đã gây quan tâm cho các thanh tra của tiểu bang trong vấn đề thiếu vệ sinh. Dao cạo cũng bị cấm tại một số tiểu bang.

.

Về việc cho cá rỉa chân, phương pháp này đã phổ biến từ lâu tại Thổ Nhĩ Kỳ và cũng quen thuộc tại vài quốc gia Á Châu. Chủ nhân tiệm nail này tin rằng tiệm của ông là cơ sở duy nhất cung cấp dịch vụ cá rỉa chân tại nước Mỹ. Họ đã tốn khoảng $40,000 USD để sửa chữa cơ sở, xây hồ nước như hồ bơi để nuôi cá, và nhập cảng cá từ hải ngoại. Khách hàng ngồi trên bệ, thả chân xuống nước, và đàn cá bơi tới rỉa da chân. Khách hàng có cảm giác thích thú lạ kỳ khi được cá rỉa chân. Cá này thuộc loại cá “garra rufa” giống như một loại cá chép nhỏ bằng ngón tay. Tên nôm na của cá là “doctor fish” (cá bác sĩ).

Sau khi được cá rỉa chân từ 15 đến 30 phút, khách hàng được chăm sóc bàn chân, làm móng, sơn móng theo những phương pháp bình thường. Nhờ cá rỉa bớt tế bào chết và da chai, làn da non do cá để lại sẽ được chuyên viên săn sóc dễ dàng hơn.

Tiệm này cũng có những dịch vụ làm đẹp khác như cắt tóc, nhuộm tóc, làm móng, săn sóc da mặt v.v… Giờ đây dịch vụ cá rỉa chân (fish pedicure) của tiệm đang được khách thập phương chú ý hơn hết. Dịch vụ mới nhất này đã được nhiều người hưởng ứng. Chủ nhân cho biết khoảng 5,000 người đã đến tiệm để thò hai bàn chân xuống hồ nước nuôi cá, và được hàng trăm con cá xúm vào rỉa da chân.
“Cá bác sĩ” không có răng nên không thể cắn vào da hoặc gây thương tích cho khách hàng. Vì không có thức ăn nào khác, nên cá ăn da chết để sống. Tiệm đang nuôi trên 1,000 con cá và thường có khoảng 100 con cá trong mỗi hồ nước riêng để phục vụ vào bất cứ lúc nào. Lệ phí là $35 cho 15 phút và $50 cho 30 phút ngồi ngâm chân. Giá cao nhất là $70 với 20 phút được cá rỉa chân cộng thêm dịch vụ săn sóc, xoa bóp bàn chân trong 10 phút, tỉa móng và sơn móng.

Từ Rửa Chân Người Đến Rửa Chân Cho Chúa Giêsu

Câu chuyện vui buồn về nghề neo ở trên là những câu chuyện rửa chân cho người đời và được trả thù lao bằng hiện kim. Trong Kinh Thánh có một câu chuyện rất đặc biệt cũng nói đến việc rửa chân, nhưng không phải rửa chân cho thiên hạ mà là rửa chân cho Chúa Giêsu. Sự rửa chân này rất đặc biệt vì người hành nghề không dùng nước lạnh mà dùng nước mắt, không dùng khăn mà dùng tóc để lau, không dùng kem thoa da mà dùng nước hoa nguyên chất, thứ đắt tiền để xức lên chân Chúa. Đó là câu chuyện của chị Maria Mađalêna. Chị rửa chân cho Chúa Giêsu một cách tình nguyện và không thù lao, không tiền típ, nhưng đã nhận được ân sủng rất đặc biệt mà chỉ có Chúa Giêsu mới có thể ban cho chị. Ân sủng mà chị nhận được cũng là ân sủng mà mọi người đều muốn nhận trong Mùa Chay cũng như trong suốt cuộc đời nơi dương thế, đó là ơn được tha tội. Chúa đã nói với chị: “tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha”.

Câu truyện Maria Mađalêna được trích từ Thánh kinh Luca, Máccô, Matthêu và Gioan như sau:

Chúa Giêsu đến nhà ông Simon ở làng Bê-ta-ni-a. Giữa lúc Người dùng bữa, có một người phụ nữ vốn là người tội lỗi trong thành, đến mang theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm cam tùng nguyên chất, thứ đắt tiền. Chị đứng đằng sau, sát chân Chúa mà khóc, nước mắt tưới ướt chân Người. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi hôn lên chân Người. Sau đó, chị đập bể bình dầu thơm, xức trên đầu Người.

Thấy vậy, ông Si-mon liền nghĩ bụng rằng: “Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi!” Chúa nói với ông Si-môn: “Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi. Dầu ô-liu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi. Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít.” Rồi Đức Giê-su nói với người phụ nữ: “Tội của chị đã được tha rồi…”

Maria Madalêna quì bên chân Chúa là hình ảnh của môt người đau đớn trong lòng vì tội lỗi mình. Chị cảm thấy buồn bã, cảm thấy tâm hồn mình ray rứt, cảm thấy dằn vặt trong trái tim, bởi chị đã sa ngã trước những đam mê, yếu đuối của thân xác, trước những cám dỗ của thế gian và ma quỷ. Hành động quỳ bên chân Chúa là hành động khiêm nhường sám hối của một tội nhân, mang tâm tình của người con hoang đàng biết quay về nhận ra tình yêu, lòng thương xót bao la của người Cha, lúc nào cũng luôn chờ đợi mình.

Nước mắt của Maria Madalêna không phải là “nước mắt cá sấu”, sự xúc động của chị không phải là một tình cảm nhất thời, nhưng xuất phát từ trái tim, từ nội tâm. Chị không xé áo nhưng đã xé lòng sám hối tội lỗi của mình. Điều này đã được chứng minh qua lối sống sau này của chị. Những đau đớn vì tội lỗi từ trong lòng của chị đã trào ra qua những giọt nước mắt như dòng sông trước đại dương bao la tình thương của Thiên Chúa.

Sau khi khóc, Maria Madalêna đã lấy tóc của chính mình mà lau chân Chúa. Tại sao chị không lau bằng khăn, bằng vạt áo, khăn choàng? Thưa, mái tóc biểu hiện vẻ đẹp và sự trung thành của người phụ nữ. Mađalêna lấy tóc lau chân Chúa biểu hiện sự quyết tâm sám hối và lòng trung thành theo Chúa của chị. Chị đã lau chân Chúa, vì sau bao nhiêu năm lạc bước xa đường, bao nhiêu năm đi tắt về ngang, chị đã tìm được đường ngay nẻo chính để bước theo, đó chính là bước theo chân Chúa Giêsu. Chị lau chân Chúa vì rồi đây chính đôi chân của Ngài sẽ bị đinh đóng thâu qua vì tội lỗi của chị.

Hành động sám hối kế tiếp mà chị đã làm là hôn chân Chúa. Khác với cái hôn giả tạo trên mặt Chúa Giêsu của một Giuđa phản bội, chị đã chân thành và yêu mến hôn lên chân Chúa. Sám hối mà thiếu yêu thương thì chưa đủ, mới chỉ là xé áo chứ chưa xé lòng. Mađalêna vừa xé áo, vừa xé lòng trở về với Chúa, vì thế, tội thật càng đáng trách bao nhiêu, thì lòng sám hối của chị lại đáng ca ngợi bây nhiêu. Vì thế, Chúa nói: “Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha vì chị đã yêu mến nhiều”.

Dầu thơm là một trang sức quý phái của người phụ nữ. Mađalêna đến gặp Chúa, mang theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm cam tùng nguyên chất thứ đắt tiền, mà theo các nhà chú giải kinh thánh nó trị giá bằng lương làm việc của 1 năm của một người. Vì thế, bình dầu thơm của chị là một loại dầu thơm quí hiếm. Có lẽ đó là cũng báu vật quý giá nhất, là ước mơ lớn lao nhất, mà chị đã vất vả cả đời để mua được nó. Thế nhưng khi gặp Chúa Giêsu, chị đã mang vật quí giá nhất, điều không thể thiếu được trong cuộc sống… đập bể ra dưới chân Chúa Giêsu. Khi chị đập bể bình dầu thơm là lúc ấy chị đã đập bể bức tường vây hãm tâm hồn của chị để Chúa Giêsu bước vào. Chị đã làm điều đó cũng để nói lên rằng bình dầu thơm quý giá của chị không thể nào so sánh được với Người Con yêu dấu mà Thiên Chúa đã ban cho nhân loại. Người Pharisiêu cho hành động của chị là lãng phí, là phí của trời, nhưng Chúa Giêsu lại nói: “Ngày nào tin mừng còn được loan báo, thì việc làm của chị vẫn sẽ được kể lại để nhớ tới chị”.

Từ Rửa Chân Cho Chúa Đến Được Chúa Rửa Chân

Trước cuộc tử nạn và trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ, và câu chuyện này được tường thuật trong Phúc âm thánh Gioan chương 13 câu 1-16 như sau:

Trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng. Ma quỷ đã gieo vào lòng Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt, ý định nộp Đức Giê-su. Đức Giê-su biết rằng: Chúa Cha đã giao phó mọi sự trong tay Người, Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa, nên trong một bữa ăn, Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. Rồi Đức Giê-su đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau.

Vậy, Người đến chỗ ông Si-môn Phê-rô, ông liền thưa với Người: “Thưa Thầy! Thầy mà lại rửa chân cho con sao? ” Đức Giê-su trả lời: “Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu.” Ông Phê-rô lại thưa: “Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu! ” Đức Giê-su đáp: “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy.” Ông Si-môn Phê-rô liền thưa: “Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và đầu con nữa.” Đức Giê-su bảo ông: “Ai đã tắm rồi, thì không cần phải rửa nữa; toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu! ” Thật vậy, Người biết ai sẽ nộp Người, nên mới nói: “Không phải tất cả anh em đều sạch.”

Khi rửa chân cho các môn đệ xong, Đức Giê-su mặc áo vào, về chỗ và nói: “Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? Anh em gọi Thầy là “Thầy”, là “Chúa”, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.

Qua đoạn Thánh Kinh trên, thánh Gioan muốn nhấn mạnh đến gương khiêm nhường phục vụ và bác ái của Chúa Kitô để mọi người neo theo. Sự rửa chân này vẫn còn được lập lại vào mỗi thứ Năm Tuần Thánh hằng năm, mà người ta quen gọi là Lễ Rửa Chân. Thánh Gioan đã tả lại hành động của Đức Giêsu như: “Chúa Giêsu chỗi dậy, cởi áo ra”. Đây là hành động lột bỏ tất cả ngôi vị của Thiên Chúa, trở thành nô lệ để phục vụ như người nô lệ. Việc Ngài cầm chậu nước quỳ gối rửa chân cho các môn đệ cho thấy sự tự hủy của Ngài như thánh Phaolô đã viết cho tín hữu Philiphê: ”… Người đã mang lấy thân phận tôi đòi”. Chúa Giêsu đã trở nên nghèo khó để làm cho người khác trở nên giầu có. Việc rửa chân của Chúa Giêsu còn diễn tả ”tình yêu, yêu cho đến cùng của Chúa Giêsu”. Chúa Giêsu là Thầy và là Chúa mà còn làm như thế, để nêu gương và dậy các môn đệ, thì chúng ta cũng hãy làm cho nhau như vậy.

Maria Mađalêna là người phụ nữ tội lỗi đã rửa chân cho Chúa bằng chính nước mắt của mình. Một hành động thành tâm sám hối rất đáng khâm phục và để mọi người có thể suy nghĩ mỗi khi bước vào toà giải tội.

Tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa vượt quá sự hiểu biết của con người. Ngài là vị Thượng Tế cao cả, là Linh mục đời đời, ấy thế mà trước khi lập Phép Thánh Thể và thiên chức Linh mục, Ngài đã làm một việc rất ngoạn mục không ai ngờ. Trong bữa tiệc Vượt Qua, Đức Giêsu đã làm cử chỉ gây kinh ngạc cho các môn đệ, đó là: Ngài là Thầy, là Chúa đã cúi xuống rửa chân cho trò. Sự phục vụ của Ngài đã lật ngược bảng giá trị chức vị mà người đời thường hành sử. Chúa Giêsu nhắc nhở các môn đệ:

Chúng con không được giống như các vua chúa trần gian bắt người khác phục vụ mình. Trái lại, trong chúng con ai muốn làm thủ lãnh thì phải làm tôi tớ mọi người, cũng như Con Người không đến để được người ta hầu hạ, nhưng là để hầu hạ và thí mạng sống mình làm giá chuộc thay cho nhiều người” (Mt 20,25-28).

Chính vì hành động “đảo ngược” này khiến cho Phêrô từ chối và không thể chấp nhận được. Khi thấy Phêrô quyết liệt không để Thầy rửa chân cho ông, Chúa Giêsu nói: “Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu.” Ông Phê-rô lại thưa: “Thầy mà rửa chân cho con sao, không đời nào con chịu đâu!” Chúa Giê-su đáp: “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy.” Phêrô liền thưa: “Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và đầu con nữa.” Chúa Giêsu bảo ông: “Ai đã tắm rồi, thì không cần phải rửa nữa; toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu! ” Thật vậy, Người biết ai sẽ nộp Người, nên mới nói: “Không phải tất cả anh em đều sạch” (Ga 13,7-11).

Điều đáng lưu ý trong việc rửa chân cho các môn đệ là thái độ của Chúa Giêsu trước Giuđa Iscariốt, kẻ phản bội Ngài. Chúa Giêsu đã tỏ ra thương xót và khiêm nhường tột bậc trước kẻ phản bội, bất trung. Nhìn sâu hơn thì thật ra Ngài hạ mình trước tất cả những kẻ phản bội, hay thất trung với Ngài. Không phải chỉ Giuđa là người sẽ phản bội, mà các môn đệ khác cũng có những thiếu xót bất trung với Chúa Kitô. Thế nhưng, Ngài đã hạ mình rửa chân cho tất cả. Ngài đã cúi xuống rửa chân cho:

– Giuđa, kẻ phản bội.

– Phêrô chối Chúa 3 lần.

– Các môn đệ  khác đã bỏ trốn Thầy khi Chúa bị bắt nơi vườn cây dầu.

Chẳng có môn đệ nào vẹn toàn trước mặt Chúa cả. Có người khi được chọn làm tông đồ để được rửa chân trong ngày thứ Năm tuần thánh, thì mong sao tránh mình không phải là tông đồ Giuđa, nhưng nếu họ là môn đệ nào khác thì người môn đệ ấy cũng có những yếu đuối khác. Khi Chúa truyền dạy các môn đệ rửa chân cho nhau là Chúa muốn họ rửa chân cho những lỗi lầm, thiếu xót của nhau. Cử chỉ Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ đã tỏ rõ nét Chúa yêu thương môn đệ cho đến cùng.

Lễ Rửa Chân, Bổn Mạng Của Người Làm Nail

Mỗi hội đoàn hay nghiệp đoàn Công Giáo thường chọn một Vị Thánh hay một Ngày Lễ Trọng làm bổn mạng của mình. Vậy xin mạo muội đề nghị những người hành nghề neo nên chọn Lễ Chúa Giêsu Rửa Chân ngày thứ Năm Tuần Thánh làm Lễ Bổn Mạng. Trong ngày này, những người làm nghề neo hãy cố gắng thu xếp công việc tới tham dự thánh lễ để cầu nguyện, tạ ơn Chúa, và suy niệm về sứ điệp yêu thương, bác ái và khiêm nhường phục vụ của Chúa Giêsu.

Nghề làm móng cũng như bao nhiêu ngành nghề khác kiếm cơm để sinh sống. Đó là công việc của sự phục vụ làm vui lòng khách đến và vừa lòng khách đi. Người làm neo bỏ công sức để đổi lấy tiền thù lao cho việc phục vụ của mình. Việc tham dự Lễ Rửa Chân mang chiều kích tâm linh sâu đậm của một sự phục vụ cao cả, trong đó yêu thương và khiêm nhường là chủ đích. Làm neo nếu phối hợp việc phục vụ về thể lý và phục vụ về tâm linh, biết đâu là một sự rao giảng Tin Mừng mới rất hữu hiệu mang Chúa vào đời và đến với Người anh em đã biết Chúa cũng chưa biết Chúa.

Trong lúc hành nghề, hãy dùng mọi cơ hội có thể được để nói về Chúa, làm chứng cho Chúa qua cách phục vụ và qua các câu chuyện đối thoại. Thế giới hôm nay chúng ta đang sống nặng về vật chất và hưởng thụ. Những khách đến làm móng với đôi bàn tay móng ngắn móng dài, bàn chân nhăn nheo sần sùi để được chăm sóc, làm đẹp. Chắc chắn trong số những vị khách này cũng sẽ có những đôi chân lạc bước hay đôi bàn tay tội lỗi về mặt tâm linh. Hãy cầu nguyện xin sự khôn ngoan của Chúa Thánh Thần để hướng dẫn những tâm hồn này đến với Thầy Giêsu và để chính Chúa rửa đôi chân, đôi tay tâm linh cho họ.

Chúa Giêsu đã nói với Simon và em là Anrê làm nghề chài lưới: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người. Đi xa hơn một chút nữa, Người thấy Giacôbê con ông Giêbêđê và em là Gioan đang xếp lưới trong thuyền, Ngài liền gọi các ông” (Mc 1:16-20). Như trong thế giới hiện hiện sinh có nhiều sự phục vụ khác nhau, thế giới tâm linh cũng có nhiều ơn gọi và phục vụ khác nhau. Trong lần tuyển mộ những cộng tác viên này, Chúa Giêsu đã biến đổi nghề chài lưới bình dân của Simon, Andrê thành nghề “chài lưới người” trong thế giới tâm linh.

Tất cả chúng ta khi chịu Phép Rửa Tội được trở nên con cái của Thiên Chúa, là tư tế, vương giả và là dân thánh đều được mời gọi vào với sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Ngày đó, chúng ta được trao cây nến cháy sáng tượng trưng cho Ánh Sáng Phục Sinh của Chúa Kitô. Đời người như một ngọn đèn cháy sáng mà Chúa Giêsu đã thắp lên và Ngài mong ngọn lửa ấy được cháy sáng mãi. Đèn được cháy sáng là nhờ có dầu yêu thương như Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói:

“Đừng nghĩ rằng một tình yêu chân chính phải là một điều gì phi thường to lớn. Điều cần thiết là yêu thương liên tục. Làm thế nào mà ngọn đèn cháy mãi nếu nó không được nuôi dưỡng bằng một giọt dầu? Khi hết dầu thì không còn ánh sáng, và vị hôn phu sẽ nói: ‘Tôi không biết các người’. Những giọt dầu của ngọn đèn các bạn là những điều nhỏ nhặt trong đời thường: niềm vui, lòng quảng đại, những việc lành nho nhỏ, đức khiêm nhường và sự nhẫn nại. Một suy nghĩ hướng đến tha nhân. Cách thức mà chúng ta thinh lặng, lắng nghe, tha thứ, nói năng và hành động. Đấy là những giọt dầu chân chính giúp cho ngọn đèn chúng ta cháy mãi suốt cuộc đời mình. Đừng tìm kiếm Chúa Giêsu ở nơi xa xôi, Người không có ở đấy đâu. Người đang ở trong các bạn! Hãy chăm sóc ngọn đèn của mình rồi các bạn sẽ nhìn thấy Người”.

Ước gì thông điệp tình yêu và phục vụ của ngày Lễ Rửa Chân không chỉ là sự lập đi, lập lại vào mỗi ngày thứ Năm Tuần Thánh, mà luôn là một thông điệp sống động được gởi tới những người khách tới làm neo. Ước gì những người làm nghề neo được Chúa dùng như những khí cụ để cũng phần nào giúp mài-dũa, cắt-tỉa, và lau-rửa cho những tâm hồn lấm láp bùn nhơ, đem họ trở về với nguồn tình yêu và cứu rỗi của Chúa Giêsu. Thật mong lắm thay!

Cát Minh

Mùa Chay 2013

MẶC CHO ĐỜI BIẾN ĐỔI

MẶC CHO ĐỜI BIẾN ĐỔI

Tác giả: M. Hoàng T Thùy Trang

nguồn:thanhlinh.net

Sự kiện Đức Giêsu biến hình là một trong những dấu lạ Ngài tỏ hiện quyền năng cho các tông đồ thấy mà tin, nhằm củng cố niềm xác tín của các ông. Chứng kiến vinh quang của Ngài trên núi Tabor, các tông đồ hết sức ngạc nhiên và vui mừng vì vinh quang sáng lạn của Ngài: “…Y phục Người trở nên trắng xóa chói lòa. Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Êlia.” (Lc 9,29-30) Như không muốn giây phút vinh quang ấy mất đi, ông Phê rô đã thốt lên: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cái cho Thầy, một cái cho ông Môsê và một cái cho ông Êlia.” (Lc 9,33). Tin mừng ghi rõ, ông Phêrô nói nhưng không biết mình đang nói gì. Có lẽ trong phút ngây ngất trước vinh quang tột bậc của Đức Giêsu, ông Phêrô không muốn khoảnh khắc hạnh phúc ấy bị mất đi, cho nên mới thốt lên lời đề nghị như vậy. Đang khi chưa bừng tỉnh, các tông đồ còn bị cuốn vào trong đám mây, khiến các ông hoảng sợ. Và từ trong đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” (Lc 9, 35)

Đức Giêsu đang cầu nguyện với Thiên Chúa Cha, thì dung mạo Người biến đổi. Điều kiền cần để được biến đổi, đó chính là cầu nguyện, đó chính là sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa. Chúng ta chỉ có thể thay đổi khi được Thiên Chúa biến đổi. Muốn được biến đổi, cần phải có ơn Chúa, cần nhờ đến quyền năng của Ngài và cần có sự kết hiệp với Ngài.

Khi được biến đổi, con người thường hay có xu hướng muốn ở lại trong vinh quang, trốn tránh sự thật, không muốn đối diện với thực tế cuộc sống. Khi cầu nguyện được ơn sốt sắng, con người thường hay có hoài bão được ở mãi trong hạnh phúc, lầm tưởng mình đã thánh thiện đủ, đã hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và sống cho một mình Ngài, nhưng khi trở về với cuộc sống thường nhật, đối diện với những thách đố của cuộc sống, con người lại trở về với bộ mặt thật của mình, đầy dẫy những yếu đuối, tội lỗi và tham vọng.

Thế nên, chúng ta cần phải thường xuyên gặp gỡ kết hiệp với Thiên Chúa, để kín múc tình yêu và sự thánh hóa của Ngài, khi đã được quyền năng và ân sủng Thiên Chúa biến đổi, con người có thêm sức mạnh và động lực mà đối diện với cuộc sống đầy khó khăn, thử thách. Một khi đã được ơn Chúa nâng đỡ, con người can đảm đối diện với thách đố của cuộc sống với lòng tin yêu vững vàng vào vinh quang Thiên Chúa.

Nhân loại thường hay mơ ước, được trở nên xinh đẹp, thông minh, tài giỏi. Nhìn vào những mẫu người là chuẩn mực cho cái đẹp, họ khao khát được giống với thần tượng của mình. Chính vì mục đích ấy, mà nhân loại không loại trừ bất cứ hình thức nào để có thể làm cho mình đẹp hơn, hấp dẫn hơn. Người ta có thể bỏ ra hàng triệu đô để đổi lấy sắc đẹp. Người ta cũng không hề ngần ngại cướp đi hạnh phúc, ngay cả mạng sống của người khác để đổi lấy tấm áo danh dự, địa vị, quyền lực… Nhưng chả mấy ai dám từ bỏ tất cả để được mặc tấm áo linh hồn tinh tuyền, thánh thiện.

Lời nhắn nhủ của Thiên Chúa Cha là một khẳng định nhắc nhở chúng ta phải tin nhận vào Đức Giêsu và vâng nghe lời Ngài dạy bảo. Tin vào Tin mừng là một trong những điều kiện để được ơn cứu độ. Vì Lời Chúa chính là chân lý, là ánh sáng, là linh dược chữa lành mọi vết thương tội lỗi. Thiên Chúa Cha đã tuyên bố ngôi vị của Đức Giêsu để cho nhân loại nghe biết và tin thờ. Sự kiện hiển dung hôm nay cũng chính là mặc khải của Thiên Chúa về mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi. Ngôi Cha, Ngôi Con và Chúa Thánh Thần, cùng kết hiệp mật thiết trong chương trình sáng tạo và cứu chuộc.

Lạy Chúa, chứng kiến vinh quang của Ngài trên núi Tabor, ông Phêrô đã không kìm nổi sự khao khát được sống mãi trong hạnh phúc vinh quang của Ngài, để rồi xin được cắm lều ở lại. Hạnh phúc mà Thiên Chúa tỏ lộ cho các tông đồ cũng chính là hạnh phúc thiên đàng mai sau chúng con được diện kiến. Thế nhưng, đường lên núi xa và cao lắm, đường lên trời lại càng xa hơn. Chỉ khi nào con ở lại trong Chúa, chỉ khi nào có Ngài luôn hiện diện trong con, biến đổi con, thánh hóa con, lúc ấy con mới được diễm phúc hưởng nhờ ân phúc mai hậu. Xin giúp con luôn biết lắng nghe và vâng phục, xin giúp con biết thi hành ý Chúa, can đảm đánh đổi giá trị cuộc sống bằng giá trị thiêng liêng. Mặc cho thời gian, mặc cho sóng gió cuộc đời hay con người có làm con phai tàn, nhưng dung mạo tâm hồn con vẫn được nguyên vẹn, tinh tuyền như thuở ban đầu vì có tình yêu và bàn tay quyền năng Thiên Chúa biến đổi.

M. Hoàng Thị Thùy Trang.

Hành trình tha thứ cho người cha của một linh mục

Hành trình tha thứ cho người cha của một linh mục

Tác giả: Thu Linh

19/02/2013

nguồn:thanhlinh.net

Câu chuyện có thật về sự tha thứ tuyệt vời  (Amazing true story of forgiveness)

Vị linh mục do kết quả của cuộc hãm hiếp thuật lại hành trình tha thứ cho người cha

Vị linh mục quá khứ là thai nhi trong một cuộc hãm hiếp, khi mẹ ngài mới chỉ 13 tuổi đã chia sẻ câu chuyện về cuộc gặp gỡ, tha thứ và giải tội cho người cha của mình, người đang sống cuộc đời có đức tin.

Vào ngày 6/2/2013 trong cuộc phỏng vấn qua điện thoại với thông tấn xã Công Giáo CNA, cha Leon, cha sở của họ đạo Thánh Giuse ở Loja nói rằng, mẹ ngài, bà Maria Eugenia Armijos Romero lúc ấy đang làm việc là người dọn dẹp phụ giúp cha mẹ của bà nuôi 8 người con. Người chủ căn nhà lợi dụng lúc bà làm việc một mình không có ai đã hãm hiếp bà và làm cho bà mang thai”.

Mẹ của ngài luôn bảo vệ mạng sống của ngài, mặc dù bà là thiếu nữ còn rất trẻ và đơn độc, không có sự giúp đỡ của gia đình. Gia đình cố gắng làm cho bị sẩy thai bằng cách cho bà uống thuốc tẩy thai và đấm thình thịch vào bụng bà. Cha Leon nói: “Bà cầu nguyện và cảm nhận rằng Chúa đang nói với bà trong trái tim rằng: hãy bảo vệ đứa bé ở trong con”.

Bà mẹ trẻ mang bầu đã bỏ nhà đi tới thành phố Cuenca, nơi đây bà tự kiếm sống. Ngày 10/10/1961, bà sinh ra cậu bé Luis Alfredo. Một thời gian ngắn sau, với sự giúp đỡ của cha đứa bé, bà trở về lại Loja với cuộc sống là một người mẹ độc thân. Rốt cuộc bà lại được chăm sóc bởi kẻ đã hãm hiếp bà – tức là người bố của linh mục Luis – người đã nhận ra tôi là con của ông và nói rằng ông sẽ chăm sóc cho tôi. Thế nhưng, không có nghĩa là mọi sự giữa họ đều lành mạnh, êm thắm cả.

Cha tiếp tục kể lại rằng, cha của ngài luôn tới thăm viếng nhà của mẹ con chúng tôi và chu toàn bổn phận đối với chúng tôi. Họ có thêm ba người con nữa và mối liên hệ của tôi với người cha tuy là xa cách nhưng vui vẻ. Tôi kính trọng ông nhiều. Ông dần dần tạo nên một cảm giác có uy quyền trong tôi. Ông cứng rắn với tôi và đưa tôi đi làm”.

Lúc 18 tuổi, ngài cảm thấy có ơn gọi làm linh mục và vào dòng tu, cho dù có sự chống đối của cha ngài. Ngài thụ phong linh mục vào năm 23 tuổi với sự cho phép đặc biệt của Đức Giám Mục. Hai năm sau, ngài tham gia tổ chức hình thành người Kitô giáo trưởng thành, và mẹ ngài tiết lộ cho ngài biết về sự ra đời của ngài. Bà đã chấm dứt liên hệ với cha của ngài và điều này đánh dấu sự khởi đầu cuộc hành trình hoà giải cho cả hai người. Cha Leon giúp mẹ của cha hiểu rằng bà không thể ghét người cha của ngài, và cần đáp ứng với nhu cầu của chính ông là được tha thứ.

Cha nói: “Chúa cho tôi là một linh mục không phải để xét đoán mà là tha thứ, là khí cụ của lòng thương xót Chúa, trong khi tôi đã xét đoán cha tôi rất nhiều”.
Nhiều năm sau, cha nhận được cú điện thoại của cha ngài, ông đang sắp sửa phải đi mổ và rất lo sợ. Ông xin con của mình giải tội cho ông và đã trở lại với đức tin của mình sau 30 năm bỏ lễ.

Tôi nói với ông: “Cha ơi, cha đáng được vào thiên đàng, hưởng sự sống đời đời”. Và ngay lúc ấy ông đã trào nước mắt ra.

Khi cha Leon giảng co các người phụ nữ mang thai đang gặp những khó khăn trong cuộc sống, ngài nhắc nhở họ rằng cũng như tiên tri Giêmêria, Chúa cũng tác tạo những trẻ thơ trong bụng người mẹ như vậy.

Cha khuyến khích các trẻ em học nhìn mọi sự theo cái nhìn của tình yêu Thiên Chúa một khi họ biết về câu chuyện đời sống của họ.
Cha nói: “Nếu bạn là một đứa bé hay một người mẹ độc thân, bạn hãy nhận ra cách mà Thiên Chúa, cha của chúng ta đã chăm sóc cho bạn trong đời sống của bạn”.

Thu Linh (dịch từ CNA)

Sau phép lạ Thánh Thể, Chúa Giêsu còn hiện diện thật ?

Sau phép lạ Thánh Thể, Chúa Giêsu còn hiện diện thật ?

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi lúc 2:13 Sáng 23/02/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (23.02.2013) – NewTheologicalMovement  – Thánh Thể là Bí tích Yêu thương do chính Chúa Giêsu thiết lập để hằng ngày ở với chúng ta và nuôi dưỡng chúng ta. Hãy cùng nhau tìm hiểu về Thánh Thể để củng cố đức tin Công giáo về Bí tích này, và cũng là để “kiểm điểm” mức độ tin yêu mà chúng ta dành cho Thánh Thể vậy!

Mặc dù có truyền thống phổ biến liên kết việc thiết lập lễ Mình Máu Thánh Chúa (Corpus Christi, ngày xưa thường gọi là lễ Săng-ti) với phép lạ Thánh Thể ở Bolsena-Orvieto, có lẽ có chút liên quan về lịch sử đối với sự xác nhận như vậy. Từ điển Bách khoa Công giáo (Catholic Encyclopedia) nói rằng lễ này không liên quan phép lạ Thánh Thể ở Bolsena-Orvieto, nhưng liên quan thị kiến của thánh Juliana Mont Cornillon, người đã sống tại Bỉ hồi đầu thế kỷ XIII.

Tuy nhiên, mặc dù có thể là thực sự có chút liên quan lịch sử giữa phép lạ Thánh Thể và sự thiết lập lễ Mình Máu Thánh Chúa, lòng sùng kính phổ biến của các tín hữu (nhất là ở Ý) và mừng kính long trọng hàng năm ở 2 thành phố của Ý, gợi chúng ta nhớ tới phép lạ Thánh Thể khi chúng ta mừng kính lễ trọng này ngày nay.

Khi chúng ta cân nhắc sự thật về phép lạ Thánh Thể, chúng ta có thể có một câu hỏi khác: Nếu chúng ta tin sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong Bí tính Thánh Thể khi thuộc tính ngẫu nhiên vẫn còn (nghĩa là Chúa Kitô hiện diện khi Thánh Thể vẫn còn hình bánh và rượu), chúng ta sẽ làm Thánh Thể thành gì khi không còn hình bánh và rượu thay vì biến thành thịt và máu? Chúa Kitô có còn trong Thánh Thể sau một phép lạ Thánh Thể? Nếu Ngài vẫn còn đó, chúng ta sẽ kết luận phép lạ Thịt và Máu hữu hình vẫn là thịt và máu được thụ thai và hạ sinh bởi Đức Trinh nữ Maria? Nói cách khác, phép lạ Thánh Thể có giống như thánh tích của Chúa Giêsu?

Trong một câu hỏi phức tạp như vậy, chúng ta hãy trở lại với hướng dẫn của vị Tiến sĩ Thiên thần (Angelic Doctor, tức là thánh Thomas Aquinas, linh mục Dòng Đa Minh, tác giả bộ Tổng luận Thần học). Chúng ta nhớ rằng thánh Thomas Aquinas là “thần học gia vĩ đại nhất và là thi sĩ mãnh liệt nhất của Chúa Kitô về Bí tích Thánh Thể” – summus theologus simulque Christi eucharistici fervidus cantor (CP Gioan-Phaolô II, Ecclesia de Eucharistia, số 62).

Thánh Thể Chúa Kitô có là thật khi thịt hoặc một em bé hiện ra trong Bí tích này? (Summa Theologica III, Q. 76, Art.

Khách thể 1: Có vẻ như Thánh Thể Chúa Kitô không thực sự ở đó khi thịt hoặc một em bé hiện ra trong bí tích này. Vì thân thể Ngài ngừng ẩn trong bí tích này khi dạng bí tích ngừng hiện hữu (the sacramental species cease to be present), như đã nói ở trên (A. 6). Nhưng khi thịt hoặc một em bé hiện ra, dạng bí tích ngừng hiện hữu. Do đó thân thể Chúa Kitô không thực sự ở đó.

Khách thể 2: Hơn nữa, dù thân thể Chúa Kitô ở đâu, dưới chính dạng đó hoặc dạng bí tích. Nhưng khi có sự hiện ra, rõ ràng là Chúa Kitô không hiện hữu trong chính dạng của Ngài, vì toàn bộ Chúa Kitô được chứa trong bí tích này, và Ngài vẫn là tổng thể dưới dạng mà Ngài lên trời: nhưng điều xuất hiện mầu nhiệm trong bí tích này đôi khi được thấy là một miếng thịt nhỏ, hoặc đôi khi là một em bé. Rõ ràng là Ngài không ở đó dưới dạng bí tích là bánh hoặc rượu. Do đó, có vẻ như thân thể Chúa Kitô không ở đó bằng bất kỳ cách nào.

Khách thể 3: Hơn nữa, thân thể Chúa Kitô bắt đầu ở trong bí tích này bằng việc thánh hiến và biến chuyển (consecration and conversion), như đã nói ở trên (Q. 75, AA. 2, 3, 4). Nhưng thịt và máu xuất hiện mầu nhiệm bằng phép lạ không được thánh hiến (not consecrated), cũng không được biến chuyển thành Mình Máu thật của Chúa Kitô. Vì thế, Mình Máu Chúa Kitô không ẩn dưới dạng đó.

Ngược lại, khi xảy ra các phép lạ như vậy, sự sùng kính tương tự dành cho Thánh Thể như trước đó, không được sùng kính nếu Chúa Kitô không thực sự ở đó, với Đấng mà chúng ta tôn thờ hết lòng (giáo hội dùng từ “latria”, nghĩa là sự tôn thờ tối thượng chỉ dành cho Thiên Chúa). Do đó, khi có phép lạ như vậy, Chúa Kitô ẩn trong bí tích.

Phép lạ như vậy xảy ra theo 2 cách, đôi khi thấy theo dạng thịt và máu, hoặc một em bé. Đôi khi phép lạ xảy ra tùy người mục kích (beholder), mắt họ ảnh hưởng như họ thấy thịt, máu, hoặc em bé, nhưng trong bí tích không hề thay đổi. Và điều này có vẻ xảy ra khi người này nhìn thấy ở dạng thịt và máu hoặc một em bé, còn người khác lại thấy ở dạng bánh; hoặc cũng người đó thấy ở dạng thịt hoặc em bé suốt cả tiếng đồng hồ, sau đó lại thấy ở dạng bánh. Không hề có mánh khóe lừa dối ở đó, như thấy trong ảo thuật, vì dạng như vậy được hình thành một cách siêu phàm trong mắt nhìn để miêu tả sự thật nào đó, nghĩa là, vì mục đích cho thấy thân thể Chúa Kitô thực sự ở trong bí tích Thánh Thể; y như Chúa Kitô hiện ra với các môn đệ trên đường đi Emmaus mà không hề bị lừa dối hoặc ảo giác.

Thánh Augustinô nói (De Qq. Evang. ii): “Khi sự đòi hỏi của chúng ta được ám chỉ tầm quan trọng nào đó thì đó không là điều dối trá, mà là sự thật”. Và vì thế, theo cách này, không có sự thay đổi nào trong bí tích này, nghĩa là, khi có những phép lạ như vậy, Chúa Kitô không ngừng ở trong bí tích Thánh Thể.

Nhưng đôi khi một phép lạ như vậy xảy ra không chỉ bằng một sự thay đổi ở những người mục kích, mà bằng sự hiện hữu thực sự theo bề ngoài. Và điều này thực sự xảy ra khi được mọi người mục kích phép lạ như vậy, không chỉ kéo dài suốt một giờ mà kéo dài một thời gian đáng kể; trong trường hợp này là dạng đúng của thân thể Chúa Kitô. Đôi khi không là vấn đề dù toàn bộ thân thể Chúa Kitô có được thấy trọn vẹn ở đó hay không, nhưng phần nhục thể, hoặc không được thấy trong dạng trẻ trung, nhưng ở dạng giống như một em bé, vì nhục thể nằm trong một thân thể vinh quang được nhìn thấy qua con mắt không vinh quang – dù toàn bộ hay một phần, và dưới chính dạng giống nhau hoặc dạng lạ, như sẽ được nói sau đây (Suppl., Q. 85, AA. 2, 3).

Nhưng điều này có vẻ không khác. Trước tiên, vì thân thể Chúa Kitô ẩn trong dạng đúng có thể chỉ được thấy ở một nơi, được chứa đựng theo một khía cạnh nào đó. Do đó, vì được nhìn thấy theo dạng đúng, và được tôn thờ trên trời, không được thấy theo dạng đúng trong bí tích. Thứ hai, vì một thân thể vinh quang, hiện ra tùy ý (at will), biến mất tùy ý sau khi xuất hiện; như vậy điều này được Lc 24:31 kể lại rằng “mắt các môn đệ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất”. Nhưng điều đó xảy ra giống như thịt trong bí tích Thánh Thể, tiếp tục một thời gian dài. Thật vậy, theo nhiều giám mục, “phép lạ Thánh Thể” được giữ trong chén thánh (pyx).

Do đó, người ta vẫn nghĩ rằng, khi các chiều kích vẫn giống như trước, có sự thay đổi mầu nhiệm trong các ngẫu nhiên khác – như hình dạng, màu sắc, và phần còn lại, để nhìn thấy thịt, hoặc máu, hoặc một em bé. Và như đã nói, đây không là lừa dối, vì “để giới thiệu sự thật”, nghĩa là, phép lạ chứng tỏ rằng Mình và Máu Chúa Kitô thực sự ở trong bí tích Thánh Thể. Như vậy, rõ ràng như các chiều kích vẫn còn, là nền tảng của những điều khác, như sẽ thấy sau đây (Q. 77, A. 2), thân thể Chúa Kitô vẫn hiện dian65 trong Bí tích Thánh Thể.

Khách thể hồi đáp 1: Khi phép lạ xảy ra, đôi khi dạng bí tích vẫn tiếp tục hoàn toàn; và đôi khi chỉ là phần chính, như đã nói ở trên.

Khách thể hồi đáp 2: Như đã nói ở trên, khi xảy ra phép lạ, dạng đúng của Chúa Kitô không được nhìn thấy, nhưng dạng mầu nhiệm được thấy theo mắt nhìn của người mục kích, hoặc theo chính chiều kích bí tích.

Khách thể hồi đáp 3: Chiếu kích của bánh rượu được thánh hiến vẫn tiếp tục, trong khi sự thay đổi mầu nhiệm xảy ra ngẫu nhiên, như đã nói ở trên.

Kết luận

Như vậy, thánh Tiến sĩ Thiên thần trả lời “có” và “không” – nghĩa là ngài trả lời tích cực theo câu hỏi thứ nhất, và trả lời tiêu cực theo câu hỏi thứ hai của chúng ta.

Chúa vẫn hiện diện thật sau phép lạ Thánh Thể? Đúng, có 2 vấn đề. Trước tiên, vì số lượng chiều kích tiếp tục tồn tại, “chất liệu” vẫn còn. Hơn nữa, sự thay đổi bề ngoài (bánh biến thành thịt và rượu biến thành máu) là biểu hiện “thực tế thật” (true reality) của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể. Do đó, trong phép lạ Thánh Thể, sự hiện diện thật của Chúa Kitô vẫn có trong Thánh Thể.

Sau phép lạ Thánh Thể, Chúa Kitô vẫn hiện diện trong Thánh Thể như khi Ngài còn tại thế. Phép lạ Thánh Thể có như thánh tích của Chúa Giêsu? Không, lại có 2 vấn đề. Trước hết, vì vấn đề như vậy nghĩa là Thánh Thể không còn là bí tích. Điều này phân biệt sự hiện diện của Chúa Kitô trong Thánh Thể với sự hiện diện của Chúa Kitô trên trời, Ngài hiện diện ở dạng đúng trên trời trong khi Ngài hiện diện ở dạng bí tích trong Thánh Thể. Hơn nữa, nếu phép lạ Thánh Thể là Mình Máu Chúa Giêsu theo thể lý và ngẫu nhiên, như thế thì phép lạ Thánh Thể sẽ ngừng chứa đựng toàn bộ Chúa Kitô nhưng chỉ là “một phần” (a piece) của Đấng Cứu Độ – như vậy, chúng ta thấy không “ăn khớp” thế nào khi nghĩ về Thánh Thể (ngay cả sau phép lạ Thánh Thể) là thánh tích của Chúa Giêsu; vì thánh tích chỉ là một phần của một vị thánh, nhưng Chúa Kitô hiện diện hoàn toàn và trọn vẹn trong mỗi phần của Bí tích Thánh Thể.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ NewTheologicalMovement.blogspot.com)

Ghi chú: Ecclesia de Eucharistia: Tông thư về Thánh Thể do CP Giáo hoàng Gioan-Phaolô II ban hành ngày 17-4-2003 (Tông thư thứ 14 của ngài trên cương vị Giáo hoàng). Summa Theologica: Bộ Tổng luận Thần học của Thánh Tiến sĩ Thiên Thần Thomas Aquinas, Linh mục Dòng Đa-minh.