Việc rước lễ thay đổi tôi thế nào? – Cha Vương

Nguyện xin tình yêu Chúa lấp đầy quả tim khao khát của bạn hôm nay và mãi mãi nhé.

Cha Vương

Thứ 7: 2/08/2025  t4-2023

GIÁO LÝ: Việc rước lễ thay đổi tôi thế nào? Mỗi lần rước lễ, tôi được kết hợp với Chúa Giêsu chặt chẽ hơn, làm cho tôi trở nên phần tử sống động của Thân mình Chúa Kitô, đổi mới ơn thánh tôi đã nhận trong bí tích Rửa tội và bí tích Thêm sức, và làm cho tôi mạnh sức để chiến đấu chống lại tội lỗi. (YouCat, số 121)

SUY NIỆM: Thiết nghĩ rằng bạn cũng có một ít kinh nghiệm về hiệu quả của việc rước lễ: Biết bao lần dọn lòng rước Mình Thánh Chúa sốt sắng bạn cảm thấy một cái gì ấm áp, ngọt ngào trong linh hồn. Biết bao lần chịu lễ xuống bạn thấy lòng gớm ghét tội lỗi hơn, muốn sống thánh thiện hy sinh hơn. Biết bao lần chịu lễ rồi về với gia đình bạn cảm thấy mọi bổn phận hằng ngày nhẹ nhàng hơn. Thực tế, khi nhìn vào các gia đình trong giáo xứ, gia đình nào có cha mẹ con cái năng tham dự thánh lễ và rước lễ mình thấy họ được hạnh phúc và bình an hơn. Kinh nghiệm của các thánh để lại như sau:

 Chúng ta chia sẻ Mình Máu Chúa Kitô chỉ có mục đích được biến đổi nên Mình Máu Chúa mà ta lãnh nhận. (Thánh Lêô Cả giáo hoàng)

❦  Chúng ta bẻ một bánh để được thuốc bất tử, giải độc sự chết, và được lương thực sống đời đời với Chúa Giêsu. (Thánh Inhaxiô Antiôkia)

❦  Chúng ta có nhiều việc phải làm. Các bệnh viện, các người sắp chết đầy dẫy khắp nơi. Khi chúng ta bắt đầu cầu nguyện hàng ngày, tình yêu của chúng ta với Chúa Kitô trở nên thân thiết hơn, tình yêu với những người khác được nhẫn nại hơn, tình yêu với người nghèo đầy thương cảm hơn, và ơn gọi đã tăng số gấp đôi. (Mẹ Têrêxa)

Ước gì bạn nhận ra được hiệu quả của việc rước lễ để năng rước lễ và rước lễ sốt sắng mỗi ngày. 

LẮNG NGHE: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (Ga 3:16)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, Chúa là sức mạnh và là nguồn mạnh của mọi lòng nhân hậu và thánh thiện, xin giúp con biết siêng năng tìm đến Chúa mỗi khi có thể để nhận lấy ơn Chúa mà ra sức chống trả bao mưu chước cám dỗ và lừa gạt của ma quỷ.

THỰC HÀNH: Nhìn lại thái độ của bạn khi đi lễ. Bạn đi lễ vì buộc phải đi, vì thói quen, hay vì bạn ao ước được kết hiệp với Chúa một cách chặt chẽ hơn? Tự thay đổi lòng mình nhé. 

From: Do Dzung

***********************

Thánh Thể Tình Yêu – Nguyễn Hồng Ân – St: Phạm Đức Huyến

ẢO ẢNH – DODUYNGOC – Truyen ngan HAY

Chi NguyenNhững Câu Chuyện Thú Vị

TG: DODUYNGOC

Lần đổi tiền thứ hai năm 1978, Hân chẳng có bao nhiêu tiền để đổi. Lúc đấy Hân đang thất nghiệp, chạy đầu này đầu nọ, chẳng ra việc gì, ai kêu gì làm nấy, bữa đói bữa no. Có thằng bạn thân vượt biên, trước ngày đi có cho một ít, ăn được vài tuần cũng hết sạch. Loay hoay mãi mà chưa biết cách gì để sống. Sách vở bán đã hết. Áo quần cũng chỉ còn bộ đồ mặc trên người, cũng chỉ còn đôi giày da mòn long đế. Gia sản chỉ có bấy nhiêu. Căn phòng càng ngày càng vắng đồ đạc, càng thưa thớt người. Lần lượt từng người đi. Kẻ về quê, người đi đâu mất biệt. Đôi lúc có kẻ lướt về rồi lại đi. Tất cả tản mác để tiếp tục sống, để tiếp tục tồn tại.

Đang là cuối đông. Sài Gòn bỗng lành lạnh với những cơn gió lạ. Cả xã hội nghèo, thiếu ăn. Chén cơm trắng là giấc mơ của bao người. Ai cũng gầy với đôi mắt thất thần và cái bụng lép. Chẳng ai giúp được ai. Hân co ro dưới gió trên đường Trương Minh Giảng. Con đường quen thuộc cả chục năm nay, Hân thuộc từng con hẻm, từng lối rẽ, từng cái ổ gà nho nhỏ trên nền xi măng của vỉa hè. Vẫn biết là chẳng đi đến đâu, chẳng giải quyết được gì cho cái bụng rỗng đã ba hôm rồi, nhưng anh vẫn đi. Nằm nhà xót bụng không chịu được, ra đường với chút hi vọng gặp ai đó, gặp một dịp may nào đó, lượm được đồng bạc ai đánh rơi. Biết đâu? Cũng còn vài người quen, cũng còn vài thằng bạn. Nhưng Hân ngại. Anh tiều tuỵ quá. Đói rách quá, ngại gặp mọi người. Gia đình nào cũng nghèo nhưng đến bữa cũng có bữa cơm dù là bo bo, bột mì hay cá hẩm thịt ôi. Hân chỉ cần có gì bỏ bụng. Lấp đầy khoảng trống của bao tử đang kêu ầm ĩ. Nhưng Hân không dám đến nhà ai. Đói nhưng cái bệnh sĩ vẫn bám vào anh. Hân đi dọc căn phố, những cửa hàng ngày xưa sầm uất thế, rộn ràng thế bây giờ đìu hiu và buồn tẻ. Đã gần chập chọang chiều mà căn phố vẫn hiu hắt vì không có điện. Những giọt mưa lác đác, hắt vào anh. Hân tay ôm ngực tay loay hoay tìm điếu thuốc. Túi rỗng. Hân thèm một hơi thuốc trong mưa. Hân cúi xuống, mắt lướt trên nền xi măng, anh lượm được hai cái tàn thuốc. Anh lượm mảnh giấy báo, xé hai tàn thuốc, gói mấy sợi thuốc vào mảnh giấy báo rồi se lại. Ánh lửa soi sáng một vùng mặt, khói vờn lên. Bụng đang đói gặp hơi khói làm đầu anh lâng lâng như say. Những bóng người loang thoáng, chập chờn. Bụng anh thắt lại. Hân có cảm giác có dòng nước mắt đang âm ỉ chảy từ đôi mắt cận.

Hân băng qua ngã tư. Góc cây xăng Trần Quang Diệu với Trương Minh Giảng cũ có một bà cụ già bán bánh ít nhân đậu. Bà cụ người Bắc đã già lắm. Lưng còng, lúc nào người cũng quấn trong hai ba lớp áo, đầu quấn khăn. Hàng của bà chỉ chục cái bánh lá đặt trên cái thúng cũng cũ kỹ như bà. Một bà cụ nghèo, vốn liếng chẳng bao nhiêu. Bà bán vào buổi chiều, ít thấy khách mua nên nhiều lúc bảy tám giờ tối vẫn còn thấy bà ngồi dưới đèn đường, bóng bà đổ trên đường nhìn hiu quạnh lắm. Hân lâu lâu cũng ghé bà, mua một vài cái ăn qua cơn đói. Hôm nay Hân nghĩ giá có vài cái bánh này, chắc cũng đỡ cho cái bụng. Nhưng anh chẳng còn đồng bạc nào trong túi. Ngang qua, Hân đi luôn dù chân như muốn níu lại. Hân đi đến hẻm Trường Lê Bảo Tịnh. Anh quay lại, dùng dằng mấy bước rồi sà xuống cái thúng bánh tả tơi của bà cụ. Cụ ạ! Cụ cho con hai cái được không? Mời cậu. Cậu mua giúp. Ế quá. Nhưng cụ ơi! Hôm nay cháu không còn tiền, cụ cho cháu thiếu được không? Bà cụ ngần ngừ, chép miệng: Khổ thế cơ à? Ối giời thời thế gì mà ai cũng khổ thế này? Hân đứng lên, anh thấy chóng mặt, cái đầu hơi quay quay, anh lại đành ngồi xuống. Dạ vậy thôi cụ ạ. Vốn cụ chẳng bao nhiêu mà cháu lại ăn thiếu thì khổ cho cụ quá. Bà cụ đưa đôi mắt hấp hem nhìn Hân, móm mém: Khổ đã khổ rồi. Cậu cứ xơi bánh đi, hôm nào có tiền gởi cho tôi cũng được. Trông cậu xanh quá. Chắc đói lắm rồi hử?

Đêm đó nhờ hai cái bánh ít, Hân ngủ được một giấc ngon.

Mấy hôm sau đó, có việc ở Biên Hoà, anh xuống làm phụ mộc gần chục ngày. Về lại Sài Gòn mấy bữa, ghé góc đường lại không thấy bà cụ. Rồi ngày qua tháng lại, thời gian trôi đi, lúc thì quên, khi nhớ tìm mãi chẳng thấy bà cụ đâu.

**********

Cuối năm ấy, một người bạn cho một suất vượt biên, trả tiền sau. Hân liều làm một chuyến vì đang bế tắc quá. Lênh đênh gần nửa tháng ngoài biển, máy hư, tàu vô nước, cuối cùng cũng cặp được vào đảo Pulau Bidong  đảo nhỏ ở phía nam biển Đông, thuộc bang Terengganu của Malaysia. Đảo này được biết đến chủ yếu vì đây mở trại tạm cư cho người Việt tỵ nạn trong những đợt vượt biên liên tiếp của thuyền nhân từ năm 1975 đến năm 1991. Đến 30 tháng 10năm 1991 khi trại đóng cửa thì nơi đây đã tiếp đón 250.000 người tỵ nạn.

Hân ở đảo gần một năm vì chẳng có thân nhân nào bảo lãnh, anh vốn lớn lên từ cô nhi viện, tứ cố vô thân nên chẳng biết cậy nhờ ai. Sau đó anh gia nhập đạo Tin Lành và rồi một hội thánh ở Mỹ bảo lãnh Hân qua Mỹ.

Những năm tháng ở Mỹ, Hân cật lực vừa học vừa làm, cuối cùng cũng có một việc làm ồn định, một bằng cấp kha khá, một căn nhà vừa ý. Hai lần lập gia đình đều đổ vỡ, không có đứa con nào, anh nghĩ chắc ở thế cho đến già. Số thế rồi thì chấp nhận vậy. Đi làm về, một mình trong căn nhà trống, nhiều đêm Hân nhớ Việt Nam, đôi khi thấp thoáng bóng của bà cụ và hai chiếc bánh anh còn thiếu nợ hiện ra trong giấc mơ. Nhưng anh vẫn chưa về, thật ra cũng chẳng còn ai để về. Chẳng còn chi níu kéo để về. Nhưng Việt Nam vẫn về trong giấc mơ của Hân. Có một cái gì đó không giải thích được cứ gọi anh về.

Năm 2002, nhân chuyến công tác ở Thái Lan, anh về lại Sài Gòn năm hôm. Thành phố chẳng còn như cũ, nhiều nhà cao tầng, phố xá đông đúc hơn, người ta có vẻ giàu hơn, hàng quán nhiều hon. Buổi chiều anh về lại con đường Trương Minh Giảng cũ, con phố này có vẻ ít đổi thay, trường đại học ngày xưa của anh giờ trông tàn tạ, những bức tường ám rêu, cái cổng trường vẫn thế. Ngôi chợ cũ khang trang hơn, phố sầm uất hơn. Hân đi dọc con đường mấy chục năm trước thường đi, vỉa hè không còn loang lổ, lát gạch đẹp hơn. Đứng ở bên này ngã tư Trần Quang Diệu nhìn qua xây xăng, anh thoáng thấy bà cụ bán bánh ít nhân đậu xanh đang ngồi ở dưới cột đèn đường. Lạ nhỉ? Hai mươi mấy năm rồi, cụ còn sống sao? Cụ vẫn ngồi bán ở đây sao? Hân nhớ hai chiếc bánh còn thiếu nợ bà cụ. Anh vội băng qua đường. Một chiếc xe bus trờ tới, che tầm mắt của anh. Khi anh bước qua bên kia đường thì không còn thấy bà cụ nữa. Mới thấy đây mà? Hay chỉ là ảo ảnh. Hân đi tìm quanh quất mà chẳng thấy gì. Anh đứng ngay chỗ bà cụ hay ngồi ngày xưa, miệng lẩm bẩm: Cụ ơi! Con về tìm cụ trả tiền hai chiếc bánh. Chắc cụ chẳng còn trên đời này nữa đâu. Nhưng con vừa thấy cụ. Hay cụ nhắc con nhớ món nợ năm xưa. Nhưng con biết làm sao trả. Cụ ơi! Mong cụ siêu thoát. Món nợ này con suốt đời nợ cụ.

Mấy ngày còn lại ở Sài Gòn, Hân cứ quanh quất ở cây xăng Trần  Quang Diệu, hỏi thăm về bà cụ bán bánh ít hơn hai mươi năm trước ở chỗ này. Mấy hôm rồi chẳng ai biết, chẳng biết thêm tin tức gì. Hôm cuối cùng ở Việt Nam, anh gặp được một anh chàng xe ôm, anh ta bảo biết rất rõ bà cụ vì anh là con rể của bà. Hân mừng quá, ngồi trên xe để anh xe ôm chở về nhà mà anh cứ ôm bụng anh chàng xe ôm mà nói: Mừng quá, mừng quá. Chắc là bà cụ khiến anh gặp tui.Mừng quá! Anh xe ôm kể đêm qua thấy cụ về bảo chiều mai ra góc cây xăng, có người muốn gặp. Hân nói với lên: Thế là cụ bảo ra gặp tui đấy. Bà cụ linh thiêng thật.

Xe chạy vào mấy cái hẻm ngoằn nghèo. Con hẻm càng vào sâu càng hẹp lại. Căn nhà ở cuối con hẻm ứ nước, cạnh bãi rác. Nhà sơn tróc loang lổ, nghiêng ngiêng như muốn ngã. Trong nhà tù mù một cái bóng đèn vàng hiu hắt. Một người đàn bà đi ra sau tiếng kêu của anh xe ôm. Hân bước vào nhà, đập vào mắt anh là chiếc bàn thờ be bé thắp ngọn đèn đỏ quạch soi tấm ảnh nho nhỏ của bà cụ. Bà cụ đang nhìn anh, mắt nheo nheo với nụ cười hóm hỉnh. Anh nhớ câu cuối cùng của bà nói với anh hơn hai mươi năm trước: Khổ đã khổ rồi. Cậu cứ xơi bánh đi, hôm nào có tiền gởi cho tôi cũng được. Trông cậu xanh quá. Chắc đói lắm rồi hử?

Hân xin ba cây nhang, đốt lửa, ánh sáng bùng lên soi khuôn mặt của người đàn bà nhầu nhĩ, chắc tại nghèo. Hân chắp tay vào ba cây nhang: Cụ ơi,con xin lỗi cụ, con đắc tội với cụ, con mang nợ cụ hai chiếc bánh cứu con qua cơn đói mà bây giờ con mới trả được cho cụ thì cụ đã chẳng còn. Con không quên được hai chiếc bánh của cụ đâu. Và vì không quên nên con mới nhìn thấy cụ, con mới tìm được nhà cụ để trả món nợ ân tình.

Hân ra ngoài cửa, ánh sáng cuối cùng của buổi chiều hắt lên ánh sáng kỳ dị vừa nhờ nhờ vừa tăm tối trên cánh cửa loang lổ. Anh rút hết số tiền trong ví, trong túi xách, anh không đếm là bao nhiêu nhưng cũng được một bó bằng cườm tay. Anh xin chiếc dĩa, đặt hết lên đấy và vái một lần nữa. Cụ ơi! Con xin gởi cụ. Đã biết trễ rồi nhưng có còn hơn không. Con đội ơn cụ và mong cụ tha lỗi cho con.

Hân bước ra con hẻm, ánh đèn đường vừa bật, anh lại ra con đường cũ. Cây xăng đang tấp nập. Khoảng sáng chiếu ở dưới đèn đường, anh lại thấy nụ cười và dáng lom khom của bà cụ. Nhưng lần này cụ không có bóng đổ.

15.7.2005

TG: DODUYNGOC

(Trích trong Tập truyện ngắn Bước không qua số phận. NXB Hội Nhà Văn. 2022)

Ảnh ST. minh họa.


 

SỰ THẬT MỘT KIẾP NGƯỜI

Chuyện tuổi Xế Chiều – Công Tú Nguyễn

 – Một ngày rất ngắn, ngắn đến mức chưa nắm được cái sáng sớm thì đã tới hoàng hôn.

– Một năm thật ngắn, ngắn đến mức chưa kịp thưởng thức sắc màu đầu xuân thì đã tới mùa đông giá lạnh.

– Một cuộc đời rất ngắn, ngắn tới mức chưa kịp hưởng thụ những năm tháng đẹp thì người đã già rồi.

– Sự việc luôn luôn đến quá nhanh mà hiểu ra thì quá muộn, cho nên chúng ta phải học cách trân trọng: trân trọng tình thân, tình bạn, tình đồng nghiệp, tình yêu, tình vợ chồng, tình phụ mẫu, tình đồng loại…

Vì một khi đã lướt qua, thì khó có thể gặp lại.

* Sau 20 tuổi thì đất khách và quê nhà giống nhau vì đi đến đâu cũng có thể thích ứng.

* Sau 30 tuổi thì ban ngày và ban đêm giống nhau vì mấy ngày mất ngủ cũng không sao.

* Sau 40 tuổi thì trình độ học vấn cao thấp giống nhau, học vấn thấp có khi kiếm tiền nhiều hơn.

* Sau 50 tuổi thì đẹp và xấu giống nhau vì lúc này có đẹp đến mấy cũng xuất hiện nếp nhăn và tàn nhang.

* Sau 60 tuổi thì làm quan lớn và quan bé giống nhau vì nghỉ hưu rồi cấp bậc giống nhau.

* Sau 70 tuổi thì nhà to và nhà nhỏ giống nhau vì xương khớp thoái hóa không thể đi được hết những không gian muốn đi.

* Sau 80 tuổi thì tiền nhiều và tiền ít giống nhau vì có tiêu cũng chẳng tiêu được bao nhiêu tiền.

* Sau 90 tuổi thì nam và nữ giống nhau vì không thể làm nổi chuyện gì nữa.

* Sau 100 tuổi thì nằm và đứng giống nhau vì đứng dậy cũng chẳng biết làm gì?

Vậy nên: trước hay sau, trẻ hay già, giàu hay nghèo, sang hay hèn, quan hay dân dù là bất cứ ai đều giống nhau.

Hãy sống và giữ cho mình thứ tồn tại bất biến là: Niềm tin, Tình người và Nhân nghĩa.

Cuộc sống không bán vé khứ hồi.


 

HỐI TIẾC – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Đó chính là ông Gioan Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết trỗi dậy!”.

“Để có thể vượt qua hối tiếc, thoát khỏi nỗi đau bởi những hối hận quá khứ, sợ hãi tương lai… bạn hãy để lại dĩ vãng cho lòng thương xót Chúa; trao tương lai cho sự quan phòng của Ngài; và dâng hiện tại cho tình yêu Chúa bằng việc trung thành với ân sủng!” – Jean-Pierre de Caussade.

Kính thưa Anh Chị em,

Trong Tin Mừng hôm nay, Hêrôđê cho rằng, Chúa Giêsu là Gioan Tẩy Giả sống lại, phải chăng trong ông đã có một sự đấu tranh về những hối tiếc, sợ hãi và mặc cảm tội lỗi? Giá mà ông vượt qua ‘hối tiếc’, cho phép lòng thương xót và ân sủng Chúa bước vào!

‘Hối tiếc’, sợ hãi và mặc cảm tội lỗi là những tác động phổ biến của một lương tâm xung đột. Hêrôđê là một ‘mẫu gương’ về những gì xảy ra khi chúng ta không thể giải quyết cuộc chiến đó trong nội tâm mình; nhưng Hêrôđê ‘hối tiếc chỉ để hối tiếc’ mà không biến nó thành một thái độ hoán cải. Vì lẽ, “Hối tiếc là một sự lãng phí năng lượng khủng khiếp; bạn không thể xây dựng được gì từ nó; nó chỉ để ta đắm chìm trong đó!” – Katherine Mansfield. Hêrôđê đã để mình trượt dài trong ‘hối tiếc’, không chuyển hoá được nó thành hối cải.

Cách duy nhất để vượt qua nó và giải quyết sự bối rối bên trong của một lương tâm là ‘khiêm nhường đầu phục sự thật’. “Khiêm nhường là chìa khoá để có bình an nội tâm. Bao lâu còn kiêu ngạo, bấy lâu không thấy sự thật!” – C.S. Lewis. Bạn không thể tìm lại bình an bằng cách lẩn tránh nó. Như Hêrôđê đã tránh đối diện sự thật – và càng lẩn tránh, ông càng bất an.

Hãy tưởng tượng nếu Hêrôđê ăn năn; nếu ông tìm đến Chúa Giêsu, thú nhận tội lỗi và cầu xin sự tha thứ! Đó sẽ là một câu chuyện Phúc Âm tuyệt vời. Thật tiếc, Hêrôđê đã không làm vậy và chúng ta đã mất đi chứng từ của một người lầm lạc – cuối cùng – để cho lòng thương xót Chúa cùng ân sủng Ngài bước vào để được ơn hoán cải. Sai lầm là của con người, tha thứ là của Thiên Chúa; nhưng ăn năn mới là nhịp cầu nối hai bên. Hêrôđê đã không bước lên nhịp cầu ấy, ông bị mắc kẹt giữa tội lỗi và lòng thương xót chưa được đón nhận. “Bi kịch của một cuộc đời không phải là nó kết thúc quá sớm, mà là chúng ta chờ quá lâu để thực sự bắt đầu!” – W. M. Lewis.

Anh Chị em,

“Đó chính là ông Gioan Tẩy Giả!”. Hãy suy ngẫm về ‘lời chứng không thánh thiện’ này! Chúa có thể sử dụng ‘mẫu gương’ Hêrôđê để chúng ta thấy bất kỳ khuynh hướng tương tự nào. Bạn có đấu tranh với hối tiếc, sợ hãi và tội lỗi? Tin tốt lành là xung đột này dễ dàng được giải quyết bằng một tấm lòng khiêm hạ tìm kiếm sự thật. Hãy kiếm tìm nó để chiến thắng ‘hối tiếc’, thừa nhận bất kỳ tội lỗi dai dẳng nào mà bạn cần giải quyết và cho phép lòng thương xót Chúa bước vào – qua Bí tích Hoà Giải – hầu bạn được giải thoát. Tắt một lời, “Hãy để lại dĩ vãng cho lòng thương xót Chúa; trao tương lai cho sự quan phòng của Ngài; và dâng hiện tại cho tình yêu Ngài dành cho bạn!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin biến hối tiếc của con thành khởi đầu mới! Dạy con cách quỳ xuống trước sự thật!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

****************************************************************

Lời Chúa Thứ Bảy Tuần XVII Thường Niên, Năm Lẻ

Hêrôđê sai người vào ngục chặt đầu ông Gioan. Môn đệ ông đi báo tin cho Đức Giêsu.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.     Mt 14,1-12

1 Khi ấy, tiểu vương Hê-rô-đê nghe danh tiếng Đức Giê-su, 2 thì nói với những kẻ hầu cận rằng : “Đó chính là ông Gio-an Tẩy Giả ; ông đã từ cõi chết trỗi dậy, nên mới có quyền năng làm phép lạ.”

3 Số là vua Hê-rô-đê đã bắt ông Gio-an, xiềng ông lại, và tống ngục vì chuyện bà Hê-rô-đi-a, vợ ông Phi-líp-phê, anh của nhà vua. 4 Ông Gio-an có nói với vua : “Ngài không được phép lấy bà ấy.” 5 Vua muốn giết ông Gio-an, nhưng lại sợ dân chúng, vì họ coi ông là ngôn sứ. 6 Vậy, nhân ngày sinh nhật của vua Hê-rô-đê, con gái bà Hê-rô-đi-a đã biểu diễn một điệu vũ trước mặt quan khách, làm cho nhà vua vui thích. 7 Bởi đó, vua thề là hễ cô xin gì, vua cũng ban cho. 8 Nghe lời mẹ xui bảo, cô thưa rằng : “Xin ngài ban cho con, ngay tại chỗ, cái đầu ông Gio-an Tẩy Giả đặt trên mâm.” 9 Nhà vua lấy làm buồn, nhưng vì đã trót thề, lại thề trước khách dự tiệc, nên truyền lệnh ban cho cô. 10 Vua sai người vào ngục chặt đầu ông Gio-an. 11 Người ta đặt đầu ông trên mâm, mang về trao cho cô, và cô ta đem đến cho mẹ. 12 Môn đệ ông đến lấy thi hài ông đem đi mai táng, rồi đi báo cho Đức Giê-su.


 

VIỆC CẢ THỂ-Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ không tin!”.

Trong “Phép Mầu Trên Sông Kwai” – “Miracle on the River Kwai” – Gordon viết về các tù binh bị buộc phải xây một con đường sắt trong rừng; họ trở nên man rợ – cho đến ngày một chiếc xẻng mất! Không ai nhận tội, viên sĩ quan Nhật rút súng bắn vào các tù nhân. Bỗng một người bước lên, anh bị đánh chết; về sau, chiếc xẻng được tìm thấy. Từ đó, các tù binh hết vô nhân tính, họ yêu thương nhau như gia đình. Người chết, một Kitô hữu, đã làm một việc cả thể – cứu sống nhân phẩm và mạng sống các bạn tù.

Kính thưa Anh Chị em,

Chúa Giêsu đã làm những ‘việc cả thể’ ở các thành, nhưng tại quê nhà của Ngài thì không, “Vì họ không tin!”.

Đang khi bản Việt ngữ, bản BJ. và TOB. tiếng Pháp gọi đây là những “phép lạ”, “miracles” thì bản NAB. của HĐGM Hoa Kỳ đơn giản gọi đây là những “việc cả thể”, “mighty deeds!”. Theo một số nhà chú giải, cách gọi này, xem ra gần gũi và dễ ao ước hơn! 

‘Việc cả thể’ là việc biến đổi các linh hồn! Bởi lẽ, ‘linh hồn hoán cải’ mang một ý nghĩa lớn lao nhất, thiên đàng nhất và vĩnh cửu nhất… cũng là điều Chúa Giêsu tìm kiếm và chờ đợi. Buồn thay! Sau những phép lạ vật lý, điều đó đã không xảy ra tại quê nhà của Ngài – “Vì họ không tin!”. Lời Chúa Giêsu không thấu qua tai, chẳng thấm qua tim những đồng hương. “Thiên Chúa có thể làm việc với ai không biết, nhưng không thể làm gì với kẻ không tin!” – David Guzik. Rõ ràng, ngu dốt không đóng cửa, nhưng vô tín thì đóng cửa khiến Thiên Chúa tổn thương. Vô tín là sự không hài lòng với tình yêu và sự gần gũi của Ngài; chán ghét chính sự hiện diện và sự trợ giúp của Ngài.

Tuy nhiên, việc “Người không làm nhiều phép lạ tại đó” có nghĩa là ‘có’ làm, ít nữa một! Chi tiết này hé lộ – chí ít – đã có một linh hồn biến đổi. Dù chỉ một nhưng đủ cho thần thánh trên trời mừng vui, Chúa Giêsu vui mừng. Đó là ‘việc cả thể’ vĩ đại nhất. Hãy ước ao cho linh hồn mình được biến đổi! Vì bấy giờ, chúng ta sẽ nhận ra ‘dấu vết thánh’ của Chúa trong cuộc sống, ‘hiện diện thánh’ của Ngài trong tha nhân và ‘hoạt động thánh’ của Ngài trong công việc thường ngày! “Thiên Chúa và Con của Ngài có thể làm mọi sự, nhưng đã chọn giới hạn chính mình tuỳ theo sự đáp trả của con người!” – James Brooks.

Anh Chị em,

“Người không làm nhiều phép lạ tại đó”. “Không làm nhiều”, vì họ không chấp nhận việc “Nhập Thể” – Thiên Chúa trong hình hài một con người! Với họ, một vị thần trừu tượng, xa cách, chấp nhận một đức tin xa rời cuộc sống… sẽ thoải mái dễ chịu hơn. Cũng thế, chúng ta muốn một Thiên Chúa ‘hiệu ứng’, làm những điều ngoạn mục, luôn khơi dậy cảm xúc mạnh mẽ; vậy mà, thay vào đó, Ngài nhập thể – dịu dàng, ẩn mình – đến gần, sống cuộc sống bình thường của chúng ta. “Thiên Chúa không cưỡng ép những tấm lòng muốn xa lánh Ngài!” – Hiebert. Liệu điều tương tự cũng xảy ra với bạn và tôi? Liệu chúng ta sẽ đánh mất cơ hội không để Ngài làm được một ‘việc cả thể’ nào?

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, chạm lòng con, đừng chỉ lay mắt con. Đừng làm con loá mắt – hãy làm con thay lòng!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

***************************************************

Lời Chúa Thứ Sáu Tuần XVII Thường Niên, Năm Lẻ

Ông không phải là con bác thợ sao ? Bởi đâu ông làm được những phép lạ như thế ?

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.    Mt 13,54-58

54 Khi ấy, Đức Giê-su về quê, giảng dạy dân chúng trong hội đường của họ, khiến họ sửng sốt và nói : “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế ? 55 Ông không phải là con bác thợ sao ? Mẹ của ông không phải là bà Ma-ri-a ; anh em của ông không phải là các ông Gia-cô-bê, Giô-xếp, Si-môn và Giu-đa sao ? 56 Và tất cả chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao ? Vậy bởi đâu ông ta được như thế ?” 57 Và họ vấp ngã vì Người. Nhưng Đức Giê-su bảo họ : “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương và trong gia đình mình mà thôi.” 58 Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ không tin.


 

Thánh Anphonsô, Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh (1696-1787)- Cha Vương

Tháng 8 rồi bạn ơi! Xin Chúa chúc lành cho bạn và gia đình. Hôm nay 01/8 Giáo hội mừng kính Thánh Anphonsô, Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh (1696-1787). Mừng Bổn Mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Thứ 6: 01/08/2025 t3/2023

Thánh Anphonsô sinh năm 1696 tại Na-pô-li. Người từ bỏ nghề luật sư để làm linh mục, rồi sau lại nhận trách nhiệm giám mục để loan báo tình yêu của Chúa Ki-tô. Người đi giảng không mỏi mệt, siêng năng giải tội và rất nhân từ với các hối nhân. Người đã lập dòng Chúa Cứu Thế nhằm mục đích loan báo Tin Mừng cho dân các miền quê (năm 1732). Người đã giảng dạy luân lý và viết nhiều tác phẩm về đời sống thiêng liêng. 

    Hạnh tích kể rằng một trong các linh mục của dòng có cuộc sống rất trần tục, và cưỡng lại mọi biện pháp nhằm thay đổi lối sống ấy. Vị linh mục được Đức Cha Anphonsô mời đến, và ngay ở lối vào phòng của ngài, thánh nhân cho đặt một tượng thánh giá thật lớn. Khi vị linh mục do dự không dám bước qua, Đức Cha Anphonsô ôn tồn nói, “Hãy bước vào đi, và nhớ đạp lên thánh giá. Đây không phải lần đầu tiên mà cha đạp Chúa dưới chân mình.”

    Vào năm 71 tuổi, ngài bị đau thấp khớp khủng khiếp. Ngài đau khổ trong 18 tháng sau cùng với “sự tăm tối” vì sự do dự, sợ hãi, bị cám dỗ đủ mọi khía cạnh đức tin và mọi đức tính. Ngài qua đời ngày 01 tháng 8 năm 1787 tại Nocera de’ Pagani, Salerno.

    Để noi gương thánh nhân mời Bạn suy niệm và tự hỏi ngài đang muốn nhắn nhủ bạn điều gì nhé:

(1) Ai cầu nguyện, thì được cứu rỗi.

(2) Lạy Mẹ Maria, xin hãy nhận con, như của riêng Mẹ, và cho Mẹ, xin hãy chăm lo phần rỗi của con.

(3) Bất cứ sự bất an nào, cho dù có lý do tốt cách mấy, cũng không thể phát xuất từ Thiên Chúa.

(4) Khi một tư tưởng xấu xa hiện lên trong tâm trí, chúng ta phải cố gắng lập tức hướng tư tưởng về Thiên Chúa hoặc một đều trung lập nào đó. Nhưng qui luật trước tiên là phải lập tức kêu cầu thánh danh Chúa Giêsu và Mẹ Maria và tiếp tục kêu cầu cho đến khi cơn cám dỗ chấm dứt.

(5) Người không bỏ cầu nguyện thì chẳng thể kéo dài thói quen xúc phạm đến Thiên Chúa.

(6) Người nào tin tưởng vào bản thân sẽ hư mất. Người nào tin tưởng vào Thiên Chúa sẽ làm được mọi sự.

(7) Hôm nay Chúa mời bạn làm điều tốt; hãy làm ngay hôm nay. Ngày mai bạn có thể không có thời gian, hoặc Chúa có thể không còn kêu gọi bạn làm điều đó nữa.

Câu nào đánh động bạn mạnh nhất?

From: Do Dzung

************************

Một mình con với Chúa – Diệu Hiền (St: Giang Ân)

XẤU NGƯỜI MẸ BÙ CỦA

Là câu nói của người Bắc. Nghĩa đen là cô gái đó xấu nhưng của hồi môn nhiều nên vẫn khối chàng rước về làm vợ. Đi du lịch nước ngoài về tôi dám mạnh miệng tuyên bố Thái lan, Mã Lai, Sing… chỉ là những cô gái xấu so với nhan sắc mỹ miều của cô gái có tên Việt Nam.

Việt Nam đâu thiếu những hang động, bãi biển, ngọn núi, cánh đồng hấp dẫn. Nhưng tại sao cô gái đẹp này lại “ế chồng”?

Tôi ở Thái Lan 5 ngày. Cảm nhận đầu tiên là nhiệt độ nóng hơn VN. Nhiều nơi cũng thiếu cây xanh trầm trọng, cũng khô, cũng ngột ngạt và cũng oi bức, khó chịu. Bãi biển Pattaya sao đẹp bằng Đà Nẵng, Nha Trang, Qui Nhơn, Vũng Tàu. Đường phố, nhà cửa của Thái cũng không đẹp hơn VN là mấy. Thậm chí nhà cửa có phần cũ, quê kệch và nhếch nhác hơn VN. Vậy sao du lịch trong nước đang than trời, quán xá, nhà hàng, khách sạn VN gần như đóng băng thì ngành du lịch các nước bạn vẫn nhộn nhịp, huyên náo?

Đầu tiên phải nói đến nụ cười. Ấn tượng đầu tiên là nụ cười thân thiện của người dân nước bạn. Bất cứ ai, ở bất cứ đâu họ cũng chào đón mình bằng nụ cười thân thiện và rạng rỡ. Dù họ là ai, bạn có “bo” không họ vẫn luôn vui vẻ làm đúng bổn phận. Người VN có thói lề mề, ồn ào, vô ý vô tứ họ cũng không than phiền, cáu gắt. 5 ngày trên đất Thái tôi không hề thấy một người Thái nào chửi bới, nóng nảy, giận hờn. Tôi đi mua sắm một mình không có cảm giác bất an, sợ người ta lường gạt. Người Thái tiếng Anh họ hạn chế hơn mình nhưng khi mình hỏi đường hay trao đổi bất cứ vấn đề gì họ đều cố gắng vận dụng toàn bộ vốn tiếng Anh ít ỏi để làm hài lòng du khách. Uống 1 trái dừa 50 bath. Uống 10 trái thì 500 bath. Chứ không có thói trái thứ nhất 50, trái thứ hai trở đi 100. Mua đĩa cơm thứ nhất bị nhầm món do 2 bên không hiểu nhau. Nhân viên đưa đĩa cơm thứ hai và chỉ tính tiền 1 đĩa. Mua trái dừa xách đi lung tung rồi. Lát nữa quay lại nhờ chặt và xin ống hút vẫn vui vẻ không tính tiền chặt, không tính tiền ống hút. Các món ăn đều ghi bằng 3 thứ tiếng Thái-Anh-Việt, có hình chụp và khi bưng ra đúng y hình chứ không xiên xẹo. Mặc đồ hơi ngắn đến viếng chùa, có người ra đưa xà rông cho quấn chứ không mất tiền thuê. Các chỗ cho thuê đồ hoá trang thì đồ đều mới và thơm tho. Không có kiểu vừa cũ vừa rách, vừa hôi mùi người trước đó mặc. Và giá tiền cực rẻ, rẻ hơn bên ta rất nhiều. Toa-lét chỗ nào cũng có và cũng sạch. Có chỗ còn gắn cả máy lạnh. Nơi công cộng thì không bao giờ có 1 cọng rác. Sọt rác để khắp nơi. Nhân viên dọn liên tục. Không có chuyện sọt rác bốc mùi lưu cữu.

Quay về ta, trời cho muôn thứ hay ho. Thứ nhất phải công nhận người VN đẹp. Ta coi phim Thái, phim Hàn, phim Tàu thấy họ đẹp thì đa phần là thẩm mỹ và kĩ thuật trang điểm cao chứ đại chúng không đẹp như dân VN đâu. Người đẹp cũng là một yếu tố thu hút du lịch chứ không đùa. Khí hậu ta so với các nước trong khu vực cũng ôn hoà hơn. Nhịp sống sôi động hơn. Nhà hàng ta phục vụ đủ các món Âu, Mỹ, Á. Cảnh nước ta đẹp ngời ngời. Nhưng ta vốn là một cô gái đẹp nhưng con nhà mất dạy, vô giáo dục, đầu trộm, đuôi cướp. Vali trên máy bay thì bị rạch. Hải quan sân bay ghi chữ “TIP” chìa vào mặt khách. Taxi chở khách đi vòng vòng để tính thêm tiền. Đi ngắm cảnh thì bị móc túi mất cả giấy tờ phải cầu cứu lãnh sự quán. Nhà hàng, quán xá treo đầu de bán thịt chó. Người dân trong nước còn bị ch.ặt ché.m chứ nói chi đến du khách nước ngoài. Giá cả như kiểu chỉ có đại gia mới dám xài tiền. Dân nghèo trong nước chắc không bao giờ mơ tới 2 chữ “du lịch”. Oái oăm ở chỗ dân nghèo đi du lịch nước ngoài chứ không đi trong nước vì đi nước ngoài rẻ hơn nước mình rất nhiều. Riêng cái vé máy bay đã thấy ngược ngạo. Có anh chàng muốn đi từ HCM ra Hà Nội đã không bay thẳng mà bay từ HCM qua Bangkok rồi từ Bangkok bay về Hà Nội.

Một đứa trẻ mất dạy là do đâu? Là do cha mẹ không biết dạy nó. Cách đây mấy tuần cảnh sát Thái đã bắt giam một người đàn ông bán hàng rong cân điêu. Với tội danh này vừa bị nộp phạt vừa bị ngồi tù. Qua đó cho ta thấy đất nước họ quan tâm đến người dân thế nào. Dân mình như những đứa trẻ con vô giáo dục. Cha mẹ có đoái hoài đâu mà đòi nó đứng đắn, tử tế. Du khách nước ngoài bị móc túi chỉ biết kêu trời. Đi du lịch bị chặ.t ch.ém chỉ biết lên mạng xả cơn tức. Đi đâu không hài lòng về chỉ biết truyền miệng tẩy chay và tự hứa với lòng không bao giờ trở lại. Tất cả những chuyện đó không có ai chịu trách nhiệm. Mà thực ra nếu là người biết nhìn xa, trông rộng sẽ không để những chuyện đó xảy ra chứ đừng nói xảy ra sẽ xử lý.

Đứa trẻ VN sẽ còn mất dạy, bố láo dài dài vì cha mẹ nó còn mải mê việc đi họp quốc hội mặc áo tứ thân hay ngũ thân, năm nay nấu tô hủ tíu hay cuốn cái chả ram để phá kỉ lục. Hay mua lu đặt trước nhà chống ngập. Gia đình mà có những loại cha mẹ như thế con cái không hư, gia phong không mạt mới lạ.

5 ngày lang thang trên đất Thái thấy đau trong lòng vô cùng. Trong khi người ta vẫn buôn bán tấp nập, nhà hàng, khách sạn vẫn nườm nượp. Quán xá vẫn náo nhiệt. Các trung tâm mua sắm vẫn thu hút người ta đến đổ tiền vào đó thì ở ta những tấm bìa sang quán, sang mặt bằng, bán nhà, xả toàn bộ cửa hàng treo khắp mọi nơi. Đến cả gói xôi 10 ngàn mà còn ế thì lên CNXH rồi chứ phấn đấu làm cm gì nữa.

Nguồn bài từ: Facebooker Le Van Quy tư Facebook FB @Mai Thi Mui

From: Tu-Phung

Điếc Sướng hơn – Lê đức Luận

Lê đức Luận

Lão Tư Lì năm nay bước vào tuổi tám mươi. Đời lão lắm gian truân, nhưng cũng có nhiều may mắn. Sau ngày 30-4-1975, đời lão đã “tàn trong ngõ hẹp” – tưởng rằng lão đã bỏ thây trên núi rừng Việt Bắc trong những ngày bị lưu đày trong các trại “tập trung cải tạo” của cộng sản.

Nhưng lão đã trở về sau bảy năm lao lý.

Lão trở về với tấm thân gầy guộc, ngoài vợ và hai đứa con thơ, lão chẳng còn gì! Nhưng lão phải sống để đền đáp cái ân tình của người vợ thủy chung đã đợi chờ cho đến ngày lão ra tù, để cùng nàng nuôi dạy hai đứa con thơ. Lão đã trải qua những ngày cơ cực, bươn chải kiếm sống, nuôi con như những ngưởi cùng khổ nhất trong xã hội lúc bấy giờ.

Lão phải sống! Nhưng lão biết với cái lý lịch ba đời nhà lão – chẳng những lão sẽ khổ nhục suốt đời mà con cái lão rồi cũng chẳng ngóc đầu lên được dưới chế độ cộng sản.

Thời điểm ấy, nhiều người ở trong hoàn cảnh như lão, muốn thoát khỏi chế độ cộng sản để tìm cuộc sống tự do và tương lai cho con cháu. Phong trào vượt biên, vượt biển bùng phát. Sự kiện này đã thôi thúc lão tìm đường vượt biên! Lão biết ra đi là “tìm sự sống trong cái chết.”  Nhưng lão liều! Thà chết còn hơn sống mà không có tự do. Lão vay mượn đó đây vừa đủ tiền cho lão và đứa con trai sáu tuổi ra đi.

   Nhưng chuyện vượt biên của lão không thành công. Chuyến đó, chủ ghe đòi: Người lớn đóng ba cây vàng, trẻ nhỏ dưới mười tuổi đóng một nửa – thằng con sáu tuổi của lão đóng một cây rưỡi. Lão và thằng con trai đến điểm hẹn (ém quân) chờ đến giờ, có người đến đưa xuống taxi (tàu nhỏ). Nhưng người hướng dẫn, gọi là “đề lô” không đến chỗ “ém quân” dẫn cha con lão ra tàu nhỏ mà thay vào đó hai người lớn để kiếm thêm một cây rưỡi vàng, làm cha con lão lỡ chuyến – lão quay về! Vài ngày sau, biết tin: Những người xuống taxi hôm ấy đều bị công an “tóm”. Thế là may mắn cho lão – thoát tù! Từ đó, lão không còn tính chuyện vượt biên.

Nhớ lại, khi ở tù đến năm thứ tư, bẵng đi một thời gian dài, lão không được tin nhà – lão lo lắng không biết có chuyện gì xui rủi xảy ra cho vợ con lão? Sau đó, vợ một người bạn tù ra thăm chồng cho biết tin: “Vợ lão dẫn hai đứa con đi vượt biên đã hơn mười tháng nay.”

Bấy giờ, nhiều đêm lão thao thức với tâm trạng buồn vui lẫn lộn. Vui khi nghĩ vợ con lão đã thoát cảnh lầm than và tương lai con cái lão sẽ tươi sáng hơn. Nhưng lão buồn khi tưởng tượng cảnh vợ lão sẽ “theo thằng John, thằng Jack…nào đó” – quên lão! Lão ngậm ngùi … nhưng rồi tự an ủi: Như thế còn may mắn hơn là đi theo “nón cối” như vợ của vài người bạn tù cùng cảnh ngộ.

         Đến một hôm, lão đang ngồi tư lự, sau bữa ăn chiều với chén bo bo, chan nước muối, một anh tù tự giác ghé tai nói nhỏ: “Vợ anh vừa đến lúc bốn giờ – đang ở ngoài nhà thăm nuôi.” Lão cười tỏ vẻ không tin.

Nhưng sáng hôm sau, trong lúc sắp hàng đi lao động, lão được gọi tên ra khỏi hàng – đứng đợi ở góc sân. Khi các Đội lao động ra khỏi cổng trại, một tên vệ binh đến dẫn lão ra nhà thăm nuôi. Trên đường đến nhà thăm nuôi lão nghĩ: “ Có lẽ gia đình nhờ một người nào đó đi thăm nuôi.” Khi đến nơi, thấy vợ đang đứng chờ trước cửa nhà “tiếp tân” – lão xúc động! Không ngờ lại được gặp nhau.

Trong hơn nửa giờ thăm gặp, hai vợ chồng lão phải nói “tiếng lóng” trước mặt tên cán bộ ngồi ở đầu bàn. Lão hỏi: “Anh nghe chị Thìn báo tin: “Em đưa các con về vùng kinh tế mới với ông bà ngoại?”- “Mấy tháng trước, em dẫn hai con về quê ngoại, nhưng xe tàu trở ngại, em quay về…” Vợ lão trả lời ngắn gọn, cho lão hiểu chuyện vượt biên không thành công.

Sau này, khi được về với gia đình, vợ lão kể chi tiết những gian truân trong chuyến vượt biên năm ấy: “Vợ lão dẫn hai con, theo người mối lái xuống Cần Thơ. Họ “ém” trong một căn nhỏ ven sông, chờ đến giờ sẽ cho xuống tàu nhỏ để đưa ra tàu lớn. Nhưng đêm đó công an bao vây, bắt trọn ổ đám người vuợt biên “ém” trong các nhà gần đó (khoảng ba mươi người) đưa về trại giam. Vài ngày sau, người mối lái vào trại giam đưa hai đứa con về Sài Gòn cho bà chị nuôi giúp, còn vợ lão ở lại “nếm” cơm tù cộng sản hơn sáu tháng mới được thả. Ra tù, vợ lão mất hết, phải sống nhờ vào sự giúp đỡ của chị, em cật ruột.

Lão vượt biên không thành, vợ lão vượt biên không xong. Thế là lão biết số trời đã định: từ nay vợ chồng lão sẽ không còn phân ly.

Lão tin vào định mệnh. Cho nên đời lão đã trải qua nhiều thử thách và cảnh ngộ đau thương, lão cam chịu… ít khi than thở. Trải nghiệm cuộc đời, lão “ngộ” được cái lẽ vô thường trong kiếp nhân sinh. Lão cũng thấm nhuần câu chuyện “Tái ông thất mã” – trong cái rủi có cái may. Cho nên, khi gặp may mắn, lão không tự mãn; lúc xui rủi lão không tuyệt vọng. Những người quen biết, đặt cho lão cái tên là Tư Lì.

Những khi cơ khổ, lão nhớ đến mấy câu thơ trong bài Vịnh Cảnh Nghèo của cụ Nguyễn Công Trứ: “…Cơ thường đông hết hẳn sang xuân/ Trời đâu riêng khó cho ta mãi/ Vinh nhục dù ai cũng một lần.” để nuôi hy vọng.

          Những năm sau 1975, nhiều người ở miền Nam, không thể sống nổi dưới chế độ hà khắc của cộng sản – phải trốn chạy bằng mọi cách – bất chấp hiểm nguy! Nhiều thảm cảnh đã xảy ra trên biển cả làm động lòng lương tâm nhân loại. Do vậy, nhiều nước chấp nhận cho định cư những người có thân nhân nước ngoài bảo lãnh qua chương trình ODP (ra đi có trật tự) để giảm bớt những đau thương. Sau đó có thêm chương trình HO đã cứu vớt nhiều gia đình cựu quân nhân QL/VNCH thoát cảnh lầm than.

Lương tâm và tình nhân loại đã đem đến cho gia đình lão niềm hy vọng.

Một ngày đẹp trời gia đình lão xách va-li lên phi cơ về miền đất hứa. Lúc ngồi đợi máy bay ở phi trường Tân Sơn Nhất, lão còn lo sợ công an đến bắt quay về. Đến khi phi cơ cất cánh lão mới an lòng – đời lão từ đây coi như hết cơn bỉ cực.

Qua khung cửa sổ hẹp của máy bay, lão nhìn xuống thành phố Sài Gòn – những đường phố lướt qua dưới ánh nắng ban mai trong trẻo, rồi những sông rạch uốn lượn, dấu mình trong các làng mạc ven đô, rồi lặn vào các khu rừng thấp…rồi dần dần lộ ra trên những cánh đồng lúa trải dài như những nét kẽ màu trắng trên tấm thảm nhung xanh. Máy bay nghiêng cánh, lên cao – Sài Gòn nhỏ dần, rồi chỉ còn chấm đen. Mất hút! Bây giờ, chung quanh là trời xanh lồng lộng. Bên dưới là biển cả bao la. Lão thấy lòng se thắt!

Bao nhiêu năm, bị đọa đày trên quê hương khốn khổ ấy, lão muốn trốn chạy. Giờ đây, trên đường lưu vong ly biệt – căn nhà cũ, con đường xưa, lũy tre nơi thôn làng quê ngoại, cùng với những kỷ niệm thân thương thời thơ ấu, phút chốc hiện ra,  khiến lão rưng rưng …Hình ảnh quê hương khó có thể phai mờ trong ký ức.

Đến nơi đất khách, quê người, cũng như bao nhiêu gia đình tỵ nạn khác, gia đình lão được hội nhập vào xã hội văn minh Hoa Kỳ, nhờ sự giúp đỡ tận tình của người dân bản xứ. Đôi khi lão tự hỏi: “Tại sao những người cùng tổ tiên, nòi giống lại tìm cách đọa đày nhau, còn ở đây với những người xa lạ, nhưng họ lại cưu mang gia đình lão với tất cả tấm lòng nhân ái và hào sảng?”

Mấy mươi năm sống trên nước Mỹ, con cái lão được học hành tử tế, thành đạt. Lão có việc làm, được sống trong tự do, no ấm… Đến năm sáu mươi hai tuổi, lão xin về hưu sớm để an hưởng tuổi già. Lão nghĩ theo quan niệm xưa: “sáu mươi năm cuộc đời” – bây giờ đến tuổi sáu hai, lão cho như vậy đã đủ cho một đời người. Nhưng tuổi thọ của con người ngày nay tăng lên – tám mươi chưa phải là già. Nhiều người đã ví von như thế khiến lão an lòng, vui sống…

Được sống đến tám mươi tuổi, lão bảo đó là “bonus” trời cho, nhưng lão không tránh khỏi tiến trình “Sinh, Lão, Bệnh, Tử”. Năm bảy mươi tuổi, thính giác bị lão hóa – lão bắt đầu mang bệnh điếc!

Nhưng lão lì, không mang máy trợ thính, chấp nhận bệnh điếc như một ân sủng. Lão lý luận: “Già phải mang bệnh – điếc là bệnh dễ chịu nhất để bớt nghe những chuyện thị phi – cho tâm hồn thanh thản…

Lão nhớ, hồi ở trại tù K1/Tân Lập – Vĩnh Phú, các niên trưởng, mang cấp bậc Trung tá, Đại tá, đa số đều mang bệnh điếc. Điếc giả, điếc thiệt… không ai biết được. Nhưng “điếc” mang lại sự an toàn. An toàn là thế này: Các đàn em khi gặp lại các niên trưởng thường rỉ tai to nhỏ, toàn những chuyện “giật gân, phản động”. Bọn “ăn ten” thấy vậy báo cáo với cán bộ. Thế là các “cụ” bị kêu lên làm việc, khai báo những gì đã nghe. Sự thật, chỉ là những tin đồn … nhưng các “cụ” phải khai, và phải nói sao cho khéo để đỡ đòn cho đàn em. Thế thì mệt quá! Thôi thì cứ giả điếc (có cụ điếc thiệt) để các đàn em khi gặp phải chào to, nói lớn… mà nói lớn thì đâu dám tiết lộ những chuyện bí mật phản động. Thế là quý cụ yên thân.

Khi lão điếc ở mức độ 50%, Lão bớt nghe chuyện đời thị phi, rối rắm. Ở nhà, những lúc đang say mê xem phim, hay đọc chuyện, vợ kêu rửa chén, lặt rau, lão không nghe, bà vợ bực mình càm ràm… rồi làm hết mọi thứ. Lão cứ ung dung… Nhưng “thái quá thì bất cập!” Càng già bệnh điếc càng gia tăng, khiến lão ngơ ngác như người ở “cõi trên”. Vợ con thấy vậy, khuyên lão nên đeo máy trợ thính, nhưng lão “lì” không chịu mang. Con gái lão giải thích: “Những người bị điếc mà không đeo trợ thính, lâu ngày sẽ sinh ra bệnh mất trí nhớ (alzheimer).”

Trong đời, lão sợ nhất là bị bệnh đột quỵ (stroke), thứ hai là bệnh lú lẫn (alzheimer). Cho nên lão nghe theo lời khuyên của con gái, ra Costco mua một cái máy trợ thính.

Từ ngày mang máy trợ thính, lão sinh bịnh mất ngủ.

Mỗi lần nghe những tên bình luận thời sự lếu láo trên Radio, TV, You Tube, thiếu khách quan hay nghe những người lắm chuyện khoác lác, khoe khoang… lão bực mình.

Ở nhà, mỗi khi bà vợ già càm ràm điều gì lão nghe hết đầu đuôi… Thực ra, lão chẳng làm điều gì nên tội, chỉ có việc: mặc quần hay quên kéo zipper, làm bà xấu hổ; bày biện lung tung làm bà mất công dọn dẹp; mỗi lần đi đâu bà phải tìm chìa khóa xe, cái ví cho lão… Chừng ấy chuyện mà vợ lão cứ càm ràm – lão không giận và coi đó như cách “mắng yêu của tuổi già”. Nhưng mỗi lần càm ràm, bà vợ thường nói câu kết: “chẳng được tích sự gì.” Khiến lão giận! Trong đời, lão ghét nhất những ai chê lão “vô tích sự”. Mắng thế nào cũng không làm lão tức bằng chê lão “chẳng được tích sự gì”.

Khi chưa có máy trợ thính, lão nghe tiếng được, tiếng mất – chuyện đời coi như gió thoảng, mây trôi… lão không bận tâm, chấp nhứt. Đêm về lão ngon giấc. Nay có cái máy trợ thính, lão nghe rõ sự đời lắm chuyện thị phi… Lão bực mình những chuyện bao đồng, rồi giận luôn bà vợ già hay chê lão “vô tích sự”… Khiến lão nhiều đêm mất ngủ!

Thế là, lão tuyên bố: “Điếc sướng hơn!”

 Lê đức Luận

From Tu Phung


 

Ông Hoàng Nam Tiến – người “truyền lửa” của thế hệ công nghệ Việt đột ngột qua đời

Ba’o Dat Viet

July 31, 2025

Tập đoàn FPT xác nhận, ông Hoàng Nam Tiến – Phó Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học FPT – đã qua đời vào lúc 16 giờ 10 phút ngày 31 tháng Bảy do đột quỵ và ngừng tim ngoại viện. Sự ra đi đột ngột của ông ở tuổi 55 đã để lại nỗi tiếc thương sâu sắc trong giới công nghệ, giáo dục và cộng đồng khởi nghiệp tại Việt Nam.

Ông Hoàng Nam Tiến sinh năm 1969 tại Hà Nội, là con trai của Trung tướng Hoàng Đan – một vị tướng nổi tiếng trong lịch sử quân đội – và bà Nguyễn Thị An Vinh, đại biểu Quốc hội. Dù mang trong mình gốc gác truyền thống cách mạng, ông Tiến lại chọn một hành trình rất riêng: tiên phong trong ngành công nghệ thông tin và để lại dấu ấn đậm nét trong quá trình vươn mình ra thế giới của tập đoàn FPT.

Gia nhập FPT từ năm 1993, ông được xem là một trong những gương mặt lãnh đạo gắn bó lâu dài và đóng góp quan trọng nhất cho tập đoàn. Dưới sự điều hành của ông, năm 2008, công ty phân phối FPT đạt doanh thu 700 triệu USD, chiếm 68% tổng doanh thu của FPT và giúp tập đoàn lần đầu tiên vượt mốc 1 tỷ USD – một cột mốc lịch sử cho ngành công nghệ Việt Nam thời điểm đó.

Đến năm 2011, ông Tiến đảm nhận vai trò Chủ tịch FPT Software. Tại đây, ông đặt ra mục tiêu đầy tham vọng: đạt doanh thu 1 tỷ USD từ xuất khẩu phần mềm – điều mà nhiều người từng cho là “viễn tưởng”. Nhưng đến cuối năm 2023, chính FPT đã cán mốc doanh thu 1 tỷ USD từ dịch vụ công nghệ thông tin ở thị trường quốc tế – minh chứng cho tầm nhìn chiến lược và sự kiên định của ông.

Sau khi rời FPT Software, ông giữ chức Chủ tịch FPT Telecom từ năm 2020, rồi chuyển sang đảm nhiệm vai trò Phó Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học FPT năm 2023. Dù không còn trực tiếp điều hành doanh nghiệp, ông Tiến vẫn xuất hiện đều đặn với vai trò diễn giả, cố vấn, người truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ Việt Nam trong lĩnh vực công nghệ và khởi nghiệp.

Không chỉ là một doanh nhân xuất sắc, ông Hoàng Nam Tiến còn là một nhà văn, một người kể chuyện đầy cảm xúc. Cuốn sách “Thư cho em” – viết về chuyện tình của cha mẹ ông – từng tạo được tiếng vang lớn trong cộng đồng bạn đọc Việt. Những tác phẩm như “Từ sông Bến Hải đến Dinh Độc Lập”, “13 bài giảng của giáo Tiến về quản trị và lãnh đạo”, hay “Ứng dụng AI vào doanh nghiệp” thể hiện một con người đa chiều: sắc sảo trong tư duy chiến lược, nhưng cũng đầy nhân văn trong ngòi bút.

Trên mạng xã hội, ông xuất hiện gần gũi, giản dị, hay chia sẻ những mẩu chuyện đời thường cùng những bài học sâu sắc rút ra từ trải nghiệm cá nhân và sự nghiệp. Chính điều đó khiến ông không chỉ là “lãnh đạo FPT” mà còn là người bạn tinh thần của biết bao người trẻ Việt.


 

Vĩnh biệt Anh Thư, và ước mơ một mình bay vòng quanh thế giới dang dở

Ba’o Nguoi-Viet

July 31, 2025

Đoan Trang

Nguyễn Anh Thư, nữ phi công muốn trở thành người phụ nữ Việt đầu tiên bay một mình vòng quanh thế giới đã kết thúc cuộc hành trình của mình sớm khi chiếc phi cơ của cô bị rơi ở Greenwood, Indiana, vào ngày 30 Tháng Bảy.

Cơ quan giới chức xác định Nguyễn Anh Thư là phi công thiệt mạng trong vụ tai nạn máy bay nhỏ xảy ra hôm Thứ Tư. Theo NYP. Anh Thư đang ở chặng thứ hai của hành trình, khi cô rời phi trường Indy South Greenwood lúc 10 giờ 45 sáng và trên đường bay đến một phi trường ở Pennsylvania, theo dữ liệu chuyến bay từ Flightaware.

Vài phút sau khi cất cánh từ Indy South Greenwood, chiếc Lancair IV-P đời 2005 của Anh Thư được nhìn thấy xoay tròn trên không trung. Cuối cùng, phi cơ hạ cánh xuống một ngọn đồi phía sau một trạm xăng Circle K trên phố Main của Greenwood. Frank Williams, một nhân chứng của vụ tai nạn, cho biết chiếc phi cơ rơi xuống từ trên trời xuống một cách nhẹ nhàng. “Không có tiếng nổ hay khói lửa nào cả. Tôi chỉ ngửi thấy mùi nhiên liệu, và khi đến gần thì thấy người lái chiếc phi cơ đã tử nạn,” Williams nói, vẫn theo NYP.

Hiện vẫn chưa rõ nguyên nhân dẫn đến vụ tai nạn. Cục Hàng Không Liên Bang Và Ủy Ban An Toàn Giao Thông Quốc Gia đang điều tra.

Nguyễn Anh Thư quê ở Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Cô định cư tại Mỹ lúc 12 tuổi, khi Anh ngữ chưa rành. Cô nỗ lực để tốt nghiệp thủ khoa trung học, rồi tốt nghiệp cử nhân Khoa Học Toán và Thạc sĩ Kỹ Thuật Hàng Không và Du Hành Vũ Trụ tại đại học Purdue University. Sau 10 năm thử thách, cô trở thành nữ phi công lái máy bay tư nhân, là huấn luyện viên lái máy bay của một trường chuyên nghiệp ở tiểu bang Florida. Anh Thư muốn truyền cảm hứng cho những phụ nữ Á châu muốn trở thành phi công. Cô thành lập Asian Women in Aerospace and Aviation Inc., một tổ chức phi lợi nhuận 501(c)(3) vào năm 2018 và trở thành huấn luyện viên bay chính tại Học Viện Đào Tạo Bay Dragon ở Georgia.

(Hình: Facebook “Anh-Thu Nguyen”)

“Tôi muốn cống hiến và truyền cảm hứng cho thế hệ các em nhỏ là người Á châu muốn chinh phục bầu trời như tôi,” Anh Thư nói trong một lần trò chuyện với chúng tôi vào năm 2019. “Là phụ nữ Á châu, tôi đã phải đối mặt với nhiều trở ngại và thách thức để có được vị trí như ngày hôm nay, đặc biệt là việc thích nghi với một nền văn hóa, ngôn ngữ và cuộc sống mới tại Mỹ.”

Anh Thư luôn ấp ủ ý tưởng trở thành người phụ nữ Việt đầu tiên bay vòng quanh thế giới vào năm 2019, nhưng kế hoạch của cô nhiều lần bị trì hoãn vì lý do tài chính.

(Hình: Facebook “Anh-Thu Nguyen”)

Ngay trước chuyến bay định mệnh vào ngày 30 Tháng Bảy, Anh Thư còn post lên trang Facebook cá nhân của mình: “Các bạn ơi, mình vừa hoàn thành chặng bay đầu tiên một mình vòng quanh thế giới. Đây không chỉ là một chuyến bay. Đó là sứ mệnh truyền cảm hứng cho thế hệ phi công, kỹ sư hàng không vũ trụ và chuyên gia STEM Á châu tiếp theo. Hiện tại mình rất hào hứng cho chuyến bay kế tiếp từ Indiana sang Pennsynvania…. Các bạn nhớ ủng hộ mình nhé!”

Hình ảnh cuối cùng của Anh Thư trước chuyến bay định mệnh. (Hình: Facebook “Anh-Thu Nguyen”)

Sự ra đi đột ngột của Anh Thư gây sốc cho nhiều người theo dõi hành trình của cô trên Facebook, Instagram và Threads. Mọi người chỉ biết thương xót và để lại lời nhắn: “An nghỉ nghé, cô gái!”