Ngày xưa, khi xem phim Tàu, hay có nội dung kể về những đại án, tức là những vụ án nghiêm trọng. Những vụ đại án này có thể là lịch sử, có thể là hư cấu, nhằm giúp cho hậu thế rút ra những bài học thâm thúy. Những đại án được kể lại trong phim, vừa cho thấy sự thanh liêm can đảm của một số vị thẩm phán, vừa cho thấy sự tham lam hiểm độc của con người. Khái niệm về đại án tưởng chỉ có trong những bộ phim cổ, nay xuất hiện trong xã hội của chúng ta. Báo chí đang thông tin rộng rãi về vụ đại án liên quan đến các lãnh đạo của Ngân hàng Đại dương (Ocean Bank), mà mức thiệt hại lên tới nhiều ngàn tỉ đồng. Thế mới thấy lòng tham thời nào cũng có. Con người luôn bị lôi kéo do ma lực của đồng tiền. Họ tối mắt trước lợi lộc vật chất, táng tận lương tâm và sẵn sàng chiếm đoạt của công một cách bất chính. Những vụ đại án này để lại hậu quả vô cùng tai hại cho xã hội, làm mất niềm tin của con người vào các tổ chức xã hội.
Những vụ đại án trước hết liên quan đến những “đại quan” của thời đại mới. Những kẻ tham lam phải hầu tòa toàn là người có chức quyền. Những người này là ai? Họ là nguyên Phó thống đốc ngân hàng nhà nước (ông Phạm Thanh Bình), là cựu chủ tịch Hội đồng quản trị một ngân hàng lớn (ông Hà văn Thắm) và một số lớn những quan chức đã có thời “nói mọi người phải nghe và đe mọi người phải sợ.” Con đường thăng quan tiến chức của họ được nhận định là “thần tốc” hoặc “thần kỳ”, vì có những người đứng đàng sau đỡ đầu. Một điều nực cười là một số cán bộ được bổ nhiệm “thần tốc” không do khả năng mà là vì “hot girl”, như trường hợp bà Trần Vũ Quỳnh Anh ở Thanh Hóa. Vì bổng lộc nhiều, nên những người này cũng rộng tay chi tiền để tạo mối quan hệ làm ăn. Người dân nghe những con số trong vụ án mà ngỡ ngàng, bởi lẽ cán bộ tặng quà cho nhau vài tỉ đồng là chuyện thường tình. Càng xét xử, vụ án càng phát hiện ra nhiều “vòi bạch tuộc” có liên quan đến nhiều ban ngành. Một câu hỏi được đặt ra: liệu vụ án này có được xử cách rốt ráo, để người dân tin vào pháp lý nơi công đường? Bà Trương Thị Minh Thơ, một luật sư trong vụ án, đã quả quyết hồ sơ của vụ án Ocean Bank đã bị đánh tráo (x. báo điện tử Vietstock ngày 29-8-2017). Người dân nghèo quanh năm vất vả với đồng ruộng hoặc đồng lương còi trong các công ty nghe những con số mà giật mình. Không biết những người đã nhận tiền của các bị cáo sẽ bị xét xử ra sao? Liệu tiền bạc thất thoát có được thu hồi về cho công quỹ nhà nước?
Tính nghiêm trọng của những đại án thể hiện qua những “đại số.” Con số thống kê về tài sản bị thất thoát càng ngày càng lớn. Những vụ tham nhũng khám phá sau thường nghiêm trọng hơn các vụ tham nhũng trước về mức độ thiệt hại cũng như về cách thức tinh vi. Số tiền thiệt hại thường được tính bằng ngàn tỉ đồng. Một câu hỏi được đặt ra: tiền ở đâu ra mà sao người ta giàu có thế? Trong vụ đại án Ocean Bank, Bị cáo Nguyễn Xuân Sơn khai đem tiền tỉ đi chăm sóc các khách hàng lớn của Ocean Bank (x. Trang điện tử “Báo mới,” ngày 13-9-2017). Số tiền vài tỉ người ta cho nhau dễ dàng như cho hộp bánh hộp kẹo. Số lượng những người có liên quan cũng thuộc loại kỷ lục. Cũng trên trang điện tử “Báo mới” ngày 14-9, chúng ta đọc thấy: “Đại án Ocean Bank có thể được xem là vụ án kinh tế lớn nhất từ trước tới nay với việc tòa án phải triệu tập hơn 700 đương sự bao gồm những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, các nguyên đơn dân sự, người làm chứng… Đặc biệt, trong đó có một loạt các doanh nhân “khủng” là Chủ tịch Hội Đồng Quản Trị, Tổng giám đốc Ocean Bank và nhiều tập đoàn kinh tế lớn như PVN (Tập đoàn dầu khí VN), BSR (Công ty lọc hoá dầu Bình Sơn).” Chính vì số những người có liên quan đông như vậy, nên việc kiểm tra giấy chứng minh nhân dân theo nguyên tắc của tòa án được thực hiện từ 8 giờ mãi đến 14 giờ mới xong (!).
Những đại án này để lại những “đại họa.” Lý do các bị cáo phải trình diện trước vành móng ngựa là: lợi dụng chức quyền, làm thiệt hại của nhà nước nhiều tỉ đồng. Tiền của nhà nước là của dân, là công quỹ, do dân đóng thuế. Tiền này phải được sử dụng để mang lại ích lợi cho dân, để xây dựng những công trình phúc lợi và giúp người nghèo vùng sâu vùng xa, vùng núi hay người thiểu số. Tiếc thay, số tiền này đã bị một số “đại quan” thời hiện đại chiếm hữu làm của riêng. Họ là những nhân tố làm nghèo đất nước. Trong khi cán bộ giàu có, ăn chơi phung phí thì những em nhỏ vùng cao vẫn thiếu áo mặc, thiếu trường học và thiếu những nhu cầu tối thiểu cho cuộc sống. Một trong những “đại họa” đến từ những đại án này là người dân mất niềm tin. Vì tiền công quỹ không được quản lý tốt, để thất thoát và rơi vào tay một số cá nhân, nên người dân không còn niềm tin vào bộ máy quản lý của chính quyền. Hậu quả là người dân tìm cách luồn lách để trốn thuế. Nạn tham nhũng đang làm mất niềm tin, vốn đã mỏng manh, nơi người dân vào hệ thống quản lý xã hội. Ngày cuối năm 2016, trang điện tử Vietnamnet đã đưa ra một nhận định tổng kết như sau: “10 năm qua, thiệt hại do tham nhũng lên tới gần 60.000 tỉ đồng, nhưng chỉ thu hồi được hơn 4.600 tỉ (chưa được 10%), vậy nhưng nhà nước vẫn chưa có các biện pháp hiệu quả để cải thiện tình trạng” (x.Vietnamnet 31-12-16).
Nguyên nhân dẫn đến những đại án này là “đại tham”, tức là lòng tham vô đáy của con người. Khi được trao một nhiệm vụ trong xã hội, nhiều người đã tìm cách lợi dụng công quỹ để làm lợi cá nhân. Họ như những con đỉa hút máu xã hội để vinh thân phì gia cho mình. Nói về tham nhũng, một vị lãnh đạo của nhà nước ta đã so sánh những kẻ tham nhũng như lũ chuột đang ngày đêm đục khoét làm nghèo đất nước. Sau đây là lời của Bà Nguyễn Thị Doan, khi còn làm Phó Chủ tịch nước: “Đến tiền của các cháu dân tộc thiểu số mà hiệu trưởng cùng với một số cán bộ còn biển thủ đến gần 3 tỉ, vừa rồi mới khởi tố. Cái liều vacxin tiêm cho một cháu, nhưng lại san ra tiêm cho hai cháu ngay tại Hà Nội. Tôi càng đi càng thấy buồn, ăn của dân không từ một cái gì” (x. Báo Tuổi trẻ Online, 11-9-2013).
“Chớ lấy của người; Chớ tham của người.” Đó là hai trong mười lệnh truyền của Thiên Chúa, được ghi lại trong luật Giao ước Ngài đã ban cho dân Do Thái qua thủ lãnh Môisen. Đó cũng là luật Chúa đã ghi khắc trong lương tâm mỗi người. Lời giáo huấn này cũng được diễn tả trong mọi nền văn hóa. Người Anh có câu ngạn ngữ: “Kẻ nào tham lam tài sản của người khác thì đáng phải mất tài sản của chính mình.” Người Trung Hoa thì sâu sắc hơn: “Lòng dục không trừ, thì như con thiêu thân đâm vào lửa, cháy mạng mới thôi; lòng tham không bỏ, thì như con đười ươi thích uống rượu, đổ máu mới thôi.” Người Việt chúng ta thì so sánh: “Trời đất bao la nhưng lòng tham của con người còn mênh mông hơn thế!” Chúa Giêsu cảnh báo chúng ta: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu” (Lc 12,15). Lòng tham của con người vẫn là một cám dỗ mạnh mẽ. Nó làm cho người ta quên Chúa, quên tha nhân và tìm cách chiếm đoạt bằng mọi giá. Hy vọng những đại án này là tiếng chuông cảnh tỉnh cho những ai có chức quyền. Dư luận cũng mong muốn có những vị thẩm phán anh minh, những “bao công” của thời hiện đại, để góp phần trừ gian, ổn định và phát triển đất nước. Mong thay!
Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Hải Phòng, ngày 20 tháng 9 năm 2017 – Nguồn: WHĐGMVN
“Hãy sống sao cho thật vui vẻ. Có cơm thì ăn, có bia thì uống, buồn ngủ thì lên giường, có quần áo để mặc, có núi để leo, có biển để ngắm, có internet để chơi Facebook, có xe để đi, có việc để làm, có thêm người bạn đời cùng chung suy nghĩ nữa là … tuyệt vời !“
———————- Cuộc sống vội vã, kiếp người bé nhỏ, ngoảnh đầu lại đã hết nửa đời người. Thời gian trôi nhanh như bóng câu lướt ngoài cửa sổ. Hôm qua còn vui vầy cùng bè bạn mà hôm nay đã đôi ngả lìa tan. Người cũ lâu không gặp, chuyện cũ lâu không bàn.. Chớp mắt một cái, nhìn quanh mình chẳng còn lại mấy ai. Thời gian không đợi một ai, một sớm soi gương thấy tóc Ta điểm bạc, hồng trần có khác nào cõi mộng vậy thôi…
(Ảnh theo FB Xuân Thủy)
Đôi khi buồn phiền, hãy nghĩ cuộc sống là phép trừ, gặp một lần bớt một lần, còn có gì phải khổ não đây. Không quên ơn người giúp mình, không trách móc người xử tệ với mình, không giữ mãi trong lòng hận thù người khác, tự khắc Ta sẽ thấy cuộc đời sao mà an nhiên, bình lặng đến vậy!
Khi gặp phải chuyện đau buồn, không như ý, hãy nghĩ rằng cuộc sống chính là một lần phải vượt qua. Kiếp người khi đến tay không, ra đi cũng tay không, không mang đến hạt cát mà cũng không mang đi một áng mây nào.
Khi Ta bất mãn, hãy nghĩ đến những người nghèo khổ, kém may mắn hơn Ta, biết đủ mới là hạnh phúc. So với người bệnh, hạnh phúc của Ta là sống khỏe mạnh. So với người đã khuất, hạnh phúc của Ta là còn sống. Người ta muốn sống tốt thì tâm phải đơn giản, phải bớt hồ đồ một chút.
Khi Ta cảm thấy không vui, hãy tự hỏi rằng mình còn lại bao nhiêu ngày để có thể dằn vặt. Nghĩ kỹ rồi, Ta sẽ không buồn nữa. Khi Ta tức giận hãy nghĩ rằng liệu có cần phải khổ tâm vì một người không đáng hay không, ăn ngon, ngủ ngon, chăm sóc tốt, biết cách tiêu tiền là được rồi. Khi Ta muốn so đo tính toán, hãy nhớ lại rằng con người đến thế gian này là tay không, hà cớ gì phải tính toán thiệt hơn, tại sao không chịu nhường một bước ? Nói nhiều sẽ làm tổn thương người khác, so đo nhiều lại tổn hại tinh thần, vừa hại người lại hại mình, kết quả là hao tâm tổn sức. Một đời người thực ra chỉ cần không làm chuyện phải hổ thẹn với lương tâm, tự tại an nhàn đã là quý lắm rồi !
Hãy sống sao cho thật vui vẻ. Có cơm thì ăn, có bia thì uống, buồn ngủ thì lên giường, có quần áo để mặc, có núi để leo, có biển để ngắm, có internet để chơi Facebook, có xe để đi, có việc để làm, có thêm người bạn đời cùng chung suy nghĩ nữa là … tuyệt vời !
Sống an nhiên vui vẻ mới là tốt nhất, chẳng việc gì phải để ý đến tiền ít tiền nhiều. Sau này già rồi, chết đi ai còn để ý Ta là ăn mày hay là người giàu có? Ai cũng có phiền muộn, hàng ngày đều có buồn phiền, quan trọng nhất là Ta không để ý đến nó, sống vui vẻ thì buồn phiền sẽ tự nhiên tan mất. Phiền não ngày ngày đều có nhưng nếu không tự tay nhặt lên thì người ta đâu phải u sầu nhiều đến vậy?
“Tài sản quý giá nhất là sức khỏe„
Khi sinh mệnh của con người chấm dứt, đến lúc sự sống không thể cứu vãn được nữa thì tiền tài là gì, danh vọng là chi, tất cả đều vô nghĩa. Truy cầu giàu có khiến người tham lam, biến thành ác quỷ. Trong mắt người sắp từ giã cõi đời, những gì gọi là danh phận, địa vị, tiền bạc, trang sức, mỹ nữ…. đều chỉ là một đống rác mà thôi.
Sức khỏe là số một, không có sức khỏe thì danh tiếng, địa vị, sĩ diện, xa hoa, xe sang, nhà cao cửa rộng… thảy đều là mây bay, gió cuốn, mong manh, hư ảo cả.
Hãy luôn nhớ rằng : chiếc điện thoại thông minh cao cấp, 70% chức năng là không hề dùng tới. Một chiếc xe sang, 70% tốc độ là thừa. Một ngôi biệt thự nguy nga, 70% diện tích là bỏ trống. Hàng loạt chuyện đời, 70% là vô vị, hư không. Một đời nỗ lực kiếm tiền, 70% là để lại cho người khác tiêu. Hãy sống thật đơn giản, tận hưởng cuộc đời, giữ lấy 30% những gì vốn thuộc về mình mới mong thực sự có được hạnh phúc.
Đời người lại như một hiệp đấu. Nửa trước là học hành, quyền lực, chức tước, thành tích, tăng lương tăng chức. Còn nửa sau là huyết áp, mỡ máu, tiểu đường, ung thư, cô đơn, sầu não. Nửa hiệp đầu là phấn đấu hết mình, nửa hiệp sau là chấp nhận, buông xuôi. Cớ sao kiếp người phải mỏi mệt lắm vậy?
Hãy nhớ không có bệnh cũng phải giữ gìn sức khỏe, không khát cũng phải uống nước, có phiền muộn cũng phải nghĩ cho thông, có lý cũng phải nhường người, có quyền cũng phải thấp giọng, không mệt cũng phải nghỉ ngơi, không giàu cũng phải biết đủ, bận mấy cũng phải luyện tập.
Bởi vì, một bộ quần áo giá $1000, tờ chi phiếu nhỏ có thể chứng minh. Một chiếc xe giá $100 000 hóa đơn có thể chứng minh. Một căn nhà giá $1 000 000 hợp đồng mua bán có thể chứng minh. Nhưng một con người rốt cuộc trị giá bao nhiêu tiền, chỉ sức khỏe mới có thể chứng minh. Hãy nhớ, sức khỏe chính là “giá trị” nhất !
Vì vậy cũng đừng bao giờ mang máy ra tính rằng Ta đã tiêu bao nhiêu tiền cho sức khỏe. Trên đời này Ta nhất định có một món tiền phải tiêu, hoặc là để chăm sóc trước, hoặc là để chữa trị bệnh tình về sau. Lựa chọn món nào là quyền của Ta. Có sức khỏe gọi là tài sản, không có sức khỏe thì chỉ còn là di sản mà thôi.
Chiếc giường đắt nhất trên thế giới chính là giường bệnh. Trên thế giới này có thể có người lái xe thay Ta, kiếm tiền thay Ta… nhưng không có ai mắc bệnh thay Ta được. Đồ mất rồi đều có thể tìm thấy lại nhưng có một thứ mất đi là vĩnh viễn không còn tìm thấy, đó chính là “sinh mệnh„.
Tài năng và đức độ của Trần Hưng Đạo đã đi vào thanh sử, được dân chúng bao thế hệ nay tôn thờ gọi ông là “Đức Thánh Trần”. Sử gia Nguyễn Khắc Thuần tóm lược:
“Bởi tấm lòng ấy, bởi tài năng ấy, Trần Hưng Đạo khiến cho muôn đời cảm phục. Vũ Phạm Hàm (từng đỗ tam nguyên thời nhà Nguyễn-LP) đã có đôi câu đối để ở đền thờ Vạn Kiếp rằng:
Núi Vạn Kiếp chẳng nơi đâu là không có kiếm khí Sông Bạch Đằng không có ngọn song nào không có hơi vũ khí,
Tức ca ngợi võ ông oanh liệt của Trần Hưng Đạo.
Và tôi đã đọc được những câu đối, kể cả những câu đối của người Trung Quốc đã ca ngợi Trần Hưng Đạo hết lời. Xin chọn một câu làm ví dụ:
“Địa chuyển ngã Việt chủng cư Bắc phương, Âu châu cảnh nội vô Mông kỵ tung hoành thiên vạn lý.
Thiên sinh thử lương tài ư Tống thất, Trung Quốc sử tiền miễn Nguyên triều đô hộ nhất bách thiên”
Nghĩa là: Đất mà hoán chuyển cho người Việt lên ở phương Bắc, thì ngựa Mông Cổ không thể nào tung hoành ngàn vạn dặm đất Châu Âu – Trời mà sinh đấng lương tài này (tức Trần Hưng Đạo-LP) trên đất Tống thì lịch sử Trung Quốc không có chuyện bị Nguyên triều cai trị 100 năm.
Lời ca ngợi như thế là tột đỉnh của sự ca ngợi, và Trần Hưng Đạo xứng đáng nhận được những lời ca ngợi đó, không phải của người đương thời mà là của người hậu thế.
Đến hôm nay, tượng Trần Hưng Đạo được dựng lên ở khắp nơi, đền thờ Trần Hưng Đạo được dựng lên ở khắp nơi, và những bức tượng ấy, đền thờ ấy là kết tinh của sự sự kính trọng của người Việt Nam đối với Trần Hưng Đạo. Tên tuổi của Trần Hưng Đạo còn được dùng để đặt cho nhiều đường phố, trường học và công sở khác. Tên ông còn sống mãi với non sông này, đất nước này”. ———- Tranh thờ Đức Thánh Trần, đời Nguyễn.
Phương Trạch (Danlambao) – Mấy hôm nay, các báo lề đảng đồng loạt đưa tin: “Phó phòng gặp sự cố ở siêu thị Nhật”. Theo đó: “Thông tin từ Cục An toàn bức xạ nhiệt (Bộ KHCN), một cán bộ của Cục này “gặp sự cố” khi mua hàng trong một siêu thị của Nhật Bản. Cán bộ này sau khi gặp sự cố đã được cảnh sát địa phương của Nhật mời lên làm việc.”
“Sau khi cán bộ này báo cáo, giải trình, cảnh sát địa phương Nhật Bản đã cho cán bộ này về và đang tiếp tục công tác”.
“PGS-TS Nguyễn Tuấn Khải (Cục trưởng Cục An toàn và bức xạ hạt nhân, Bộ KHCN) hôm qua thông tin với báo chí, Cục này đang phối hợp với phía cảnh sát địa phương Nhật Bản để làm rõ thông tin liên quan đối với cán bộ của mình”.
“Ông T.Q.H, hiện là phó phòng một đơn vị của Cục bị giữ lại tại Nhật Bản vì nghi vấn liên quan đến trộm cắp ở một siêu thị của nước này.
Được biết, khi “gặp sự cố”, ông T.Q.H sang Nhật để tham dự một hội thảo”(1).
Điều thú vị là các báo gần như sao chép một nội dung, tuy tựa đề có thay đổi đôi chút cho có chút nét riêng của minh. Nhưng nội dung thì là một. Tất cả đều dùng từ “sự cố” để lấp liếm, che đậy cho hành vi xấu xa của vị Phó phòng này, mà không dám nói thẳng ra là… ăn cắp.
Có thể nói rằng, ở Việt Nam hiện có 845 tờ báo các loại (tính đến đầu năm 2014). Nhưng chỉ có một Tổng Biên tập, đó là Ban Tuyên giáo TƯ, quả không sai.
Điều này làm người ta nhớ lại vụ nhân bản xét nghiệm máu ở BV Đa khoa Hoài Đức năm 2013 vậy. Chỉ với một kết quả xét nghiệm, người ta sáng tạo ra rất nhiều kết quả khác, nhằm “ăn cắp” tiền ngân sách.
Có lẽ từ nay, các nhà làm Từ điển Việt Nam phải thêm một định nghĩa nữa, để bổ sung cho định nghĩa về “sự cố” trước đây.
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Sự cố”(danh từ): Điều bất thường và không hay xả ra trong suốt một quá trình hoạt động nào đó: Máy móc gặp sự cố, có sự cố trên đường đi v.v…”(2).
Có thể gọi đây là Định nghĩa A
Nay cần bổ sung Định nghĩa B: “Sự cố là cán bộ nhà nước, đi nước ngoài, ăn cắp và bị bắt”.
Nói về truyền thống ăn cắp của một số cán bộ nhà nước khi đi nước ngoài, không ai giàu “thành tích” bằng cô Biên tập viên của Đài Truyền hình Việt Nam (VTV) Kiều Trinh. Cô này được dư luận phong hàm ăn cắp đạt đẳng cấp quốc tế. Nhờ tài ăn cắp hai lần ở nước ngoài, mà cô này sau đó đã được ưu ái lên chức Trưởng phòng Văn hóa dân tộc, Ban Thời sự của VTV.
Không biết ở những siêu thị trong nước, “bàn tay sáu ngón” của cô này đã “thi thố” được bao nhiêu lần nữa?
Dân mạng không còn lạ gì Kiều Trinh, là con gái nguyên Uỷ viên trung ương Đảng, Tổng giám đốc đài truyền hình Việt Nam Vũ Văn Hiến.
Năm 2001, Kiều Trinh được cử sang Thụy Điển 3 tuần. Ngay tuần đầu, ngày 11-2-2001, cô đã bị cảnh sát thành phố Kalmar bắt vì tội ăn cắp hàng trong siêu thị. Lúc đầu cô nàng chối bai bải, nhưng khi mở băng ghi hình thì phải cúi đầu nhận tội. Cô nàng đã ăn cắp số mỹ phẩm trị giá 400 đô la. Số tiền đó không lớn, nhưng ở Thụy Điển người ta trị ăn cắp, tham nhũng rất nghiêm, nên theo luật Kiều Trinh phải ngồi tù.
Vì Kiều Trinh là con của Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam (VTV), nên Đại sứ quán Việt Nam ở Thụy Điển phải ra tay. Và sau một tuần bị giam, ngày 16-2-2001, cô nàng được tha, sau khi có giấy của bác sỹ xác nhận nhận Kiều Trinh bị “bệnh tâm thần” từ Việt Nam gửi sang.
Ngày 18-2-2001, Kiều Trinh bị trục xuất về nước. Đón cô ở sân bay, diễn viên điện ảnh Trần Lực đã tặng một cái tát, chấm dứt quan hệ vợ chồng từ đó.
Năm 2006, Kiều Trinh được sang nước Anh công tác. “Bệnh tâm thần” lại tái phát và cô nàng đã thó chiếc máy ảnh kỹ thuật số trong shop. Một lần nữa ông Hiến lại phải cứu con gái bằng việc nhờ Đại sứ quán can thiệp và tờ giấy của bác sỹ chứng nhận bệnh tâm thần lại đưa ra sử dụng!
Năm 2009, Kiều Trinh được kết nạp đảng và được đề bạt làm Trưởng phòng Văn hóa dân tộc, Ban thời sự. Chả trách gì mà một số báo lề đảng ca ngợi cô này là BTB đa tài.
Thật là mỉa mai khi nữ BTV “tài ba” này vẫn đang trực tiếp lên sóng rất nhiều chương trình mang tính nhân văn, triết lý cao cả, để rao giảng về đạo đức cho mọi người(3).
Trở lại vụ ông Phó phòng của Cục An toàn bức xạ nhiệt (Bộ KHCN) đang gặp “sự cố”. Ông này bị cảnh sát Nhật “hỏi thăm” vì bị nghi ăn cắp khi mua hàng trong một siêu thị của Nhật. Được biết, vị cán bộ này cùng đoàn Việt Nam sang Nhật để hội thảo. Hiện cảnh sát Nhật đã thả nhân vật này, nhưng phía Việt Nam nói sẽ “làm rõ” vụ việc với cảnh sát địa phương.
Mặc dù báo chí trong nước chỉ ghi tên tắt nhân vật này là T.Q.H, nhưng vào website của Cục An toàn Bức xạ nhiệt, thuộc Bộ KHCN, thì có tên Thạc sĩ Trần Quốc Hùng, giống như mô tả của báo chí. Đây là chân dung và quá trình công tác của ông Trần Quốc Hùng, Phó trưởng phòng Pháp chế và chính sách của Cục An toàn Bức xạ nhiệt như sau:
Thạc sỹ Trần Quốc Hùng, Phó trưởng phòng Pháp chế và Chính sách. Sinh ngày 18/11/1975. Số điện thoại: 04.32321042 (4).
Xin mời mọi người “chiêm ngưỡng” những hình ảnh vị Phó phòng này đang “trổ tài” tại siêu thị Nhật, đã được trang mạng “Trần Đại Quang.org” ghi lại theo đường dẫn sau đây: (5).
Với việc nở rộ các lò ấp Tiến sỹ như hiện nay tại VN, cứ mỗi ngày sòn sòn cho ra lò vài vị TS, thì có thể sau chuyến công du này về, có thêm tiền để lo lót, chi phí, thì cái bằng TS coi như ông Phó phòng này cầm chắc trong tay. Vậy thì việc cố tình “cầm nhầm” này của ông Trần Quốc Hùng có thể nói là “vì đại nghĩa”. Vì ông này thấy rằng, cái bằng TS của cựu Bí thư Đà Nẵng Nguyễn Xuân Anh xài bấy lâu nay, bỗng dưng nay bị khui ra là “không đúng quy định”. Vậy muốn bằng cấp “đúng quy đinh” thì phải thêm tiền. Trong xã hội này, cái gì cũng có giá của nó cả.
Xin giới thiệu “chân dung” của ngài phó phòng gặp “sự cố”. “Thân thế và sự nghiệp” của vị này cũng đã được trang “Trần Đại Quang. Org” giới thiệu theo đường dẫn trên (5)…
Có thể nói rằng, ăn cắp đã trở thành truyền thống của hàng ngũ cán bộ hiện nay của nhà nước CSVN. Tất cả mọi ngành từ thấp đến cao đều cố gắng ăn cắp theo từng mức độ và cách thức khác nhau. Những người có chức quyền và địa vị càng cao thì ăn cắp càng lớn. Số tiền chui vào túi họ không phải là dăm ba trăm triệu, mà hàng chục hàng trăm, thậm chí là hàng ngàn tỷ. Như Trịnh Xuân Thanh hay Đinh La Thăng, Trần Văn Truyền v.v…
Việc ăn cắp cũng rất bài bản và rất “đúng quy trình”. Như Tập đoàn BOT, hàng ngày ăn cắp một cách hợp pháp biết bao mồ hôi xương máu của nhân dân. Những mặt hàng nhà nước nắm độc quyền như điện, xăng dầu…thì họ cần tiền là cứ việc tăng giá vô tội vạ. Người dân biết đó là hình thức ăn cắp trắng trợn mà không làm gì được. Vì xe muốn chạy thì phải đổ xăng. Muốn nấu cơn, bơm nước thì phải dùng đến điện.
Việc nhà nước liên tục tăng các loại thuế, phí là kiểu móc túi theo chủ trương “vặt long vịt mà không cho vịt kêu”, là một “nghệ thuật” ăn cắp rất đẳng cấp thời nhà sản.
Những Vũ Huy Hoàng, Nguyễn Thị Kim Tiến, Võ Kim Cự v.v… là những kẻ ăn cắp bậc thầy. Tại sao không thấy nhóm đốt lò của phe ông Trọng làm đến nơi đến chốn? Hay là vì vướng số tiền 3.200 tỷ thâm lạm ngân sách của Hà Nội thời ông Trọng còn làm Bí thư, mà đến nay không giải trình được, coi như “để lâu cứt trâu hóa bùn”?
Có người nói rằng, từ “Ăn cắp” là những kẻ nó lấy của người ta nhưng không dám chường mặt ra, chờ người ta sơ hở, mất cảnh giác… Nạn nhân bị mất nhưng không biết hoặc là không bắt được thủ phạm. Còn đây không phải như vậy. Nói ăn cắp là oan cho họ.”
Vậy xin thưa: Có thể dùng từ “móc túi” để nói về những người này được không? Loại không dám “chường mặt ra” chỉ là loại ăn cắp vặt. Còn loại người đường đường chính chính, dùng các “chủ trương, chính sách” để “móc túi” một cách hợp pháp và “đúng quy trình” là loại ăn cắp cao cấp. Loại này còn nguy hiểm gấp ngàn lần loại ăn cắp vặt kia. Chống đối họ có khi còn bị quy chụp tội nọ tội kia, và nhiều khi phải trả giá. Đúng. Nói ăn cắp là oan cho họ. Phải gọi là ăn cướp mới đúng bản chất của sự việc. Vì họ đâu có cần rình mò, ẩn nấp. Mà họ là những người ‘mũ cao áo rộng”, hành động giữa “thanh thiên bạch nhật”, mà không ai dám động đến họ.
Tục ngữ VN có câu:
“Chân mình lấm cứt tèm lem
Lại cầm bó đuốc soi xem chân người”…
Quả là rất đúng với ngài Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hiện nay.
Và ai dám chắc những tập đoàn lớn đã và đang ăn cắp hàng ngàn tỷ kia qua hàng chục công trình đang “đắp chiếu” trên khắp đất nước hiện nay, không có “dấu vân tay” của ngài Tổng Bí thư?
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại lễ khai mạc đại hội Đảng 12 ở Hà Nội hôm 21/1/2016.
AFP
Cứ mỗi khi tình hình kinh tế, xã hội trở nên tồi tệ, các mâu thuẫn nội tại chuyển hóa thành gay gắt thì ĐCSVN (đảng Cộng sản Việt Nam) lại tìm cách đổi mới, cải cách, ra nghị quyết và kêu gọi tinh thần quyết tâm. Những cải cách ấy dù có chút tác dụng tích cực nhưng cũng chỉ là nửa vời.
Năm 1986, trước cuộc khủng hoảng kinh tế dẫn đất nước đến bên bờ vực thẳm, VN (Việt Nam) đã phát động đổi mới (mà thực chất là sửa sai). Cuộc đổi mới này tuy “đã thu được kết quả ban đầu, về sau ngày càng đuối sức, trở về cảnh trì trệ kéo dài, ngày càng nặng nề, để càng đổi mới càng tụt hậu và khủng hoảng nặng nề thêm mà vẫn không sao tìm ra lối thoát” (VOA). Nền kinh tế vẫn yếu kém và bế tắc như chúng ta đều thấy bởi đã kinh tế thị trường lại còn mang theo cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa”; bởi kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo và đặc biệt là bởi cải cách kinh tế nhưng không cải cách chính trị, chế độ vẫn là chế độ độc tài.
Cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90 thế kỷ trước, hệ thống xã hội chủ nghĩa sụp đổ hàng loạt ở Liên Xô và Đông Âu, đồng thời khủng hoảng ngoại giao dẫn đến VN bị cô lập trên trường quốc tế. Để vớt vát phần nhỏ nhoi còn lại của khối xã hội chủ nghĩa (XHCN) và để cứu đảng, ĐCSVN phải xin bình thường hóa với TQ (Trung Quốc). Sự kiện này được đánh dấu bắt đầu bởi Hội nghị Thành Đô. Kết quả Hội nghị này ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống chính trị, kinh tế của VN. Việc bình thường hóa quan hệ với TQ tuy khắc phục được một số hậu quả của quá khứ nhưng từ đó VN phụ thuộc ngày càng nặng nề vào TQ về chính trị, kinh tế, mất thêm biển đảo và đất liền.
Và bây giờ, bức tranh về VN là một màu đen tối ở tất cả các mặt của đời sống xã hội. Kinh tế trì trệ, tham nhũng len lỏi vào từng con ốc trong guồng máy vận hành đất nước, quan chức tham lam hống hách và trơ trẽn, đạo đức xã hội suy đồi, cái ác lên ngôi, mọi giá trị bị đảo lộn, nỗi oan ức thống khổ của nhân dân ở đâu cũng nhìn thấy bởi sự khốn nạn của hệ thống tư pháp và quan chức.
Hệ thống chính trị như một ngôi nhà đã mục ruỗng và vì vậy, Hội nghị Trung ương 6 (khóa 12) lại đặt ra vấn đề đổi mới chính trị nhưng chỉ là sắp xếp tổ chức lại bộ máy sao cho tinh gọn để “hoạt động hiệu lực, hiệu quả”.
Vấn đề tinh giản bộ máy cũng như chống tham nhũng không phải đến bây giờ mới nhắc tới mà đặt ra đã từ lâu, từ năm mươi hay sáu mươi năm có lẽ ít ai còn nhớ. Cũng nghị quyết, cũng hô hào, cũng quyết tâm, nhưng mỗi lần quyết tâm, thi đua đem lại kết quả thế nào thì… như đã biết.
Nguyên nhân của tình trạng này là mỗi lần cải cách, đổi mới ĐCSVN chỉ đưa ra được những biện pháp tình thế nhằm cứu vãn đảng. Cải cách nhưng vẫn phải giữ mục tiêu chủ nghĩa xã hội – thứ mà không ai hình dung được nó như thế nào, đã kinh tế thị trường lại phải định hướng XHCN, kinh tế nhiều thành phần nhưng vẫn phải kinh tế nhà nước là chủ đạo và cuối cùng là cải cách, đổi mới kiểu gì thì ĐCSVN vẫn phải độc quyền lãnh đạo. Đây là những mâu thuẫn mà ĐCSVN không muốn nhìn thấy. Nguyên nhân của sự nửa vời là ở chỗ ấy.
Thiết nghĩ khoảng thời gian đã quá dài, kể từ khi điều hành đất nước năm 1954 đủ cho ĐCSVN loay hoay, thử nghiệm với những thất bại đau đớn để thấy cần phải cải tổ chứ không chỉ cải cách nửa vời. Làm điều đó phải chấp nhận vứt bỏ quyền lợi ích kỷ, phi lý của cá nhân, của một nhóm lợi ích hay của một đảng phái để đi tới một nền chính trị dân chủ đa nguyên, xây dựng một nhà nước pháp quyền với mô hình tam quyền phân lập. Tiếc rằng, cho đến bây giờ, mấy chữ đa nguyên, dân chủ, nhân quyền vẫn còn là kỵ húy, “nhạy cảm” trong đảng CSVN và trong xã hội. Những người mạnh dạn nhất cũng mới chỉ manh nha đề cập đến việc tách đảng, đổi tên nước mà thôi. Nhiều người hoạt động dân chủ bị tống vào tù nhằm bịt tiếng nói của họ và xu hướng bắt bớ ngày càng gia tăng. Chỉ tính từ đầu năm 2017 đến nay đã có 24 người hoạt động bị bắt hoặc bị truy nã.
Hiện nay, giới dân chủ chưa ai đặt ra vấn đề phải xóa đảng cộng sản bằng bạo lực cho dù muốn hay không. Nói thẳng ra là việc này không làm được và không phù hợp với xu thế của thời đại. Mục tiêu của giới dân chủ hướng tới là dân chủ đa nguyên với chủ trương bất bạo động. Đa đảng là để cạnh tranh chính trị, kiểm soát quyền lực, tập trung trí tuệ và tâm huyết để đưa đất nước phát triển. Thế nhưng, người ta luôn mang vấn đề đa đảng ra làm con ngáo ộp để hù dọa nhân dân, bất chấp đa số nhân loại đi theo mô hình dân chủ đã chứng minh là không có con ngáo ộp ấy.
Sẽ chẳng có ai đòi loại trừ đảng CSVN nếu thực hiện đa đảng. Họ tha hồ thể hiện mình trong cạnh tranh. Họ vẫn tranh cử và tham gia điều hành đất nước như các đảng phái khác. Có điều số phiếu của họ phụ thuộc vào tín nhiệm của cử tri trong những cuộc bầu cử tự do mà thôi. Nếu họ làm không tốt, vẫn thể hiện như trước đó, nhân dân sẽ quay lưng lại với họ.
Loay hoay cải cách với đổi mới sẽ chẳng bao giờ đi đến đâu. Cái sự luẩn quẩn ấy giống như con kiến leo cành đa (leo phải cành cụt leo ra leo vào). Thử nghiệm mãi thì sức dân đã mệt mỏi, tinh thần đã chán chường, lòng tin đã cạn. Kinh tế thị trường vì có cạnh tranh thì mới thúc đẩy được sản xuất phát triển. Vì vậy không có lý do gì để chính trị không có đa đảng, trừ khi bị cưỡng ép. Một chế độ chính trị đa nguyên ở VN lúc này là lối thoát duy nhất cho đất nước, cho dân tộc. Nếu ĐCSVN tự tin ở mình thì sợ gì mà không dám cạnh tranh với các đảng phái khác?
Những oan hồn của cuộc chiếnSau khi đăng bài viết “Những oan hồn của cuộc chiến” của nhà báo Bùi Tín gửi, chúng tôi nhận được ý kiến phản hồi của nhà văn Nguyên Ngọc, cho rằng, trong bài viết, có một đoạn nhà văn Bùi Tín “bịa đặt”.
Chúng tôi đã chuyển thông tin đó cho nhà văn Bùi Tín và cũng đã nhận được phản hồi của ông. Cuối bài viết này là thông tin cập nhật nội dung trao đổi ý kiến giữa nhà văn Nguyên Ngọc và nhà báo Bùi Tín.
Xin các nhân chứng sống của cuộc chiến, những người đã từng đi B, cũng như các gia đình tử sĩ có con em bỏ mạng trong cuộc chiến, hãy đóng góp ý kiến, giúp làm rõ sự thật này.
Lính Mỹ truy bắt Việt Cộng tại Đà Nẵng, tháng Tư 1965. Nguồn: AP
Bộ phim Chiến tranh Việt Nam của các đạo diễn Hoa Kỳ gây nên nhiều tranh luận, ý kiến khác nhau của người Việt trong và ngoài nước.
Đó là điều tất yếu vì cuộc chiến tranh kéo dài gần 30 năm, liên quan đến nhiều nước, với những động cơ khác nhau, không thể làm thỏa mãn mọi người.
Đây là một dịp bổ ích và lý thú để công luận có thể được dịp phát biểu thêm, soi tỏ thêm nhiều điều mới mẻ, những góc tối của cuộc chiến, từ đó có thể bổ xung cho nhau nhiều hiểu biết mới để soi tỏ thêm quá khứ, hiện tại và tương lai của các bên tham chiến trong mối quan hệ quốc tế phức tạp hiện nay.
Một số nhà báo, làm phim truyền hình người Việt, người Pháp, Hoa Kỳ, Đức… phỏng vấn tôi nhân dịp này. Tôi đã phát biểu ý kiến của mình.
Với tư cách là một nhân chứng sống, từng tham dự cuộc chiến từ ngày đầu đến ngày cuối, ở miền Bắc cũng như ở miền Nam, ở chiến trường Cam-bốt cũng như ở Lào, tôi có nhiều suy nghĩ, kỷ niệm về cuộc chiến tranh, nay có dịp để nói lên những điều quan trọng bị khỏa lấp mà bộ phim hoành tráng của các nhà làm phim Hoa Kỳ không đề cập đến.
Nhiều bạn hỏi tôi, nếu tôi tham gia một bộ phim khác về Chiến tranh Việt Nam, tôi sẽ nói lên những điều gì? Tôi có khá nhiều điều cần phát biểu về cuộc chiến, khi tưởng nhớ, ngẫm nghĩ lại về cuộc chiến. Qua bài báo này trước hết, tôi muốn nói đến những oan hồn của cuộc chiến.
Tôi có một số người thân, ông chú, các anh chị em họ Bùi vốn là đảng viên Quốc Dân Đảng và Đại Việt Quốc dân đảng đã bị Việt Minh chụp mũ cho là Việt gian, bị bắt giam sau Cách mạng tháng Tám. Tiêu biểu là ông Bùi Nhữ Uyên chú ruột tôi từng theo cụ Nguyễn Thượng Hiền, người cùng làng sang Nhật Bản vận động cho phong trào Đông Du và sau đó về Trung Quốc, tham gia Việt Nam Quang Phục hội của Cụ Phan Bội Châu. Chú tôi bị bắt năm 1946, bố tôi (Bùi Bằng Đoàn) lúc đó là trong Ban Thường trực Quốc hội can thiệp với ông Hồ chí Minh, ông Hồ lệnh cho chính quyền tỉnh Hà Đông thả ngay chú tôi, nhưng đúng vào đêm lệnh thả đến nhà giam ở Vân Đình thì chú tôi mất vì «đau bụng» khẩn cấp. Bạn tù cùng giam cho rằng chú tôi bị trại giam đầu độc.
Những oan hồn tôi không thể quên. Việt Minh từ hồi đó coi tất cả các đảng yêu nước chống Pháp là Việt gian, như Quốc Dân đảng, Đại Việt, Việt Nam Quang Phục hội, Việt Nam Cách mạng đồng minh, đệ tứ (Trostkyt)… Họ phê phán rất mạnh cụ Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh, coi là sai lầm thân Tàu, chuộng Pháp.
Tôi còn nhớ trước năm 1940 – 1941 số đảng viên Quốc dân đảng rất đông, vượt con số đảng viên đảng CS Đông dương ở các nhà giam, ở Côn Đảo. Rất nhiều giáo viên tiểu học các xã, huyện, trí thức nông thôn tham gia phong trào Quốc dân đảng của Nguyễn Thái Học. Rất nhiều trung nông, phú nông, cả địa chủ nhỏ có học tham gia đảng này, về sau bị Cải cách ruộng đất kiểu Mao vu cáo là địa chủ ác bá, là việt gian, bị sát hại gần hết, theo thống kê khi sửa sai con số oan hồn này lên đến hơn 15.000.
Ngoài số nói trên cần kể đến oan hồn của các nhà yêu nước Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm – lãnh đạo nhóm Troskyt, tướng Nguyễn Bình và nhà sử học Trần Huy Liệu – nguyên là đảng viên Quốc dân đảng, cụ Đặng Văn Hướng – nguyên Bộ trưởng không bộ do ông Hồ phong chức và cụ Nguyễn Khắc Niêm, thân sinh ông Nguyễn Khắc Viện, chủ tịch Hội Việt kiều yêu nước ở Pháp – 2 cụ đều bị tàn sát trong Cải cách ruộng đất.
Cũng cần ghi thêm trong danh sách các oan hồn những cán bộ cộng sản có ít nhiều thức tỉnh đã bị thải loại, ra rìa, như tướng Đặng Kim Giang, tướng Nguyễn Vịnh, các đại tá Đỗ Đức Kiên, Lê Trọng Nghĩa, Lê Minh Nghĩa, Hoàng Minh Chính… trong vụ án «xét lại», Trần Dần, Hoàng Cầm, Phùng Quán… trong vụ Nhân văn Giai phẩm, Trần Xuân Bách, Trần Độ, Nguyễn Hộ, Nguyễn Cơ Thạch, Võ Nguyên Giáp… từng có tư duy độc lập chống lại một số chủ trương chính sách của đảng.
Các đồng đội của tôi vào Nam chiến đấu theo lời nguyện «sinh Bắc tử Nam để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc», chết vài chục vạn, hơn 300.000 tử sĩ hiện chưa tìm ra thi hài mộ chí, cũng là những oan hồn, nỗi đau lòng uất hận của hàng vài triệu bố mẹ, anh chị em ruột thịt. Đó là những oan hồn vì khi chiến đấu, tự nguyện hy sinh, các đồng đội của tôi đều mang theo hy vọng rồi gia đình mình, bố mẹ anh chị em mình, đồng bào mình sẽ được hưởng độc lập tự do, an bình, phồn vinh hạnh phúc. Những hy vọng thiêng liêng ấy đến nay vẫn còn xa vời. Ngược lại đất nước còn bị ách Bắc thuộc từ sau mật đàm Thành Đô năm 1990, tự do tư tưởng, ngôn luận còn bị cấm đoán, trừng phạt, an ninh của nhân dân, nông dân, trí thức, nhà kinh doanh tự do bị đe dọa, các chiến sỹ yêu nước, đòi tự do cho nhân dân bị tù đầy, chênh lệch giàu nghèo tồi tệ hơn thời phong kiến, thực dân, đảng cộng sản biến thành lực lượng kìm hãm đà tiến bộ, phát triển của đất nước, mắc nợ hàng triệu oan hồn đã hy sinh do những lời đường mật giả dối.
Tôi có nhiều anh em, cháu, – con các bà chị ruột và chị họ vào Nam chiến đấu và hy sinh ở Đức Phổ, Quảng Ngãi, Bình Định nay vẫn chưa tìm ra thi hài, mộ chí. Đã đến lúc phải nói thẳng ra là gia đình và các cháu đã bị lừa. Họ đưa ra Luật nghĩa vụ quân sự, tuyên truyền về vinh quang trai thời loạn là sinh Bắc tử Nam, cưỡng bức các cháu bỏ học cầm súng, bắt ký các bản tình nguyện nhập ngũ, buộc bố mẹ phải ký tên «vinh dự hiến con cho Tổ quốc», trong khi con cháu các quan lớn hầu hết đều được xuất ngoại học tập ở Liên Xô, Trung Quốc , Ba lan, Đông Đức, Tiệp… Một sự bất công khổng lồ. Bố mẹ các cháu tôi lo nghĩ tiếc thương con, ban đêm xụt xùi khóc, nhưng vẫn phải tỏ ra vui vẻ khi tiễn con vào Nam. Các cháu đều miễn cưỡng ký giấy «tình nguyện vào Nam chiến đấu, đâu cần xin có mặt» theo ý nguyện (cưỡng bức) của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Cả một khoa học bịp bợm thành hệ thống.
Tôi đã từng nhiều lần vào Nam cùng các đơn vị, vào Bình Trị Thiên, rồi vào Tây Nguyên – Kon Tum, Gia Lai, vào Bình Định, Buôn Ma Thuột, Bình Long, Sài Gòn… có những điều ít ai biết, đó là tình trạng cực kỳ phi lý, thương tâm, oan trái, từ khi lên đường vào Nam, các cán bộ chiến sĩ đều bị cắt đứt liên lạc một cách tuyệt đối với bố mẹ, anh chị em, bạn bè, vài năm, có khi hàng chục năm, mà không có một lá thư được nhận hay được gửi về nhà. Sự bặt tin thật là buồn đau độc ác. Đây là một nét độc đáo của cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam. Cuộc chiến tranh không có thư từ của người cầm súng, đằng đẵng từ khi lên đường, cho đến khi trở về, lành lặn hay bị thương nặng nhẹ, hay thành người tàn tật suốt đời. Hoặc có khi tử trận, nhưng giấy báo tử để chậm vài năm là thường, vì chiến tranh khốc liệt, tử sỹ nhiều, đơn vị giải thể, tiêu tùng hết, nhiều đơn vị sát nhập vào nhau, sổ sách mất, cháy, chỉ huy thuyên chuyển liên miên, không có nền nếp chính quy, kiểu du kích, đại khái, lem nhem.
Cho đến chuyện quản lý tù binh Mỹ chặt chẽ, có sổ sách hàng ngày mà cuối cùng vẫn mất tích, không lý giải được, lên đến hơn 100 người, đủ biết công việc quản lý của quân đội thời chiến luộm thuộm ra sao.
Ở các nước văn minh, với quân đội hiện đại, họ rất quan tâm đến việc thông tin, thư từ gia đình quân nhân được chuyển nhanh nhất, chu đáo nhất đến tay chiến sĩ ngoài mặt trận. Đây là trách nhiệm, đền đáp thiết thực có ý nghĩa nhất những hy sinh của gia đình và các quân nhân. Ở Việt Nam, đảng Cộng sản cho việc cố tình bặt tin là biện pháp cưỡng bức để các chiến sĩ không còn suy nghĩ thao thức mong chờ thư đi từ lại, một lòng một dạ hy sinh chiến đấu cho những mục tiêu riêng của đảng. Đây là món rất độc của chiến tranh tâm lý. Vì nếu tự do thư từ, thông tin, các chiến sĩ sẽ kể về những trận đánh thiêu thân, cả đơn vị chết quá nửa như sau tết Mậu Thân thì hậu phương sẽ bị chấn động, rất nguy hiểm để kêu gọi tiếp những đợt «sinh Bắc tử Nam», mà phần lớn sẽ không trở về.
Ngoài hàng mấy chục vạn oan hồn trên đây, tôi không thể không nhắc đến vài vạn người chưa chết nhưng bị những oan khiên dằn vặt không kém các oan hồn kể trên. Họ rất đáng thương, nhưng xã hội đã lãng quên họ.
Đó là chừng 20.000 cán bộ, chiến sĩ Quân đội Nhân dân (theo thống kê chưa đầy đủ của Cục quân lực Bộ Tổng tham mưu) vào Nam bị chiêu hồi bởi Việt nam Cộng hòa, sau chiến tranh trở về gia đình ở miền Bắc, đã bị hỏi tội, bỏ tù, cải tạo, trả thù, bôi xấu, hạ nhục, hành hạ ra sao, bị gia đình xỉ vả, láng giềng khinh miệt, không sao ngẩng mặt lên được. Theo tôi biết, rất đông anh em đó ở Hà Nội, Hà đông, Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng, Nghệ Tĩnh… Một số bảo mạng, cầu an, không chịu được gian khổ, căng thẳng, nhưng không ít có ý nghĩ lành mạnh, không đang tâm bắn vào anh em trong một cuộc huynh đệ tương tàn phi lý vô đạo nên đã chịu chiêu hồi, hy vọng khi chiến tranh kết thúc, không ai nỡ trị tội mình. Đã có nhà văn nào nói lên thảm cảnh của số anh em bị chiêu hồi rồi trở về quê quán này để tiếp tục bị oan khiên, kêu trời không thấu này. Đã có tổ chức xã hội nào cúi xuống nâng đỡ các số phận đen đủi này, tất cả chỉ là nạn nhân của một cuộc chiến tranh phi lý vô đạo do đảng Cộng sản gây nên vì những mục tiêu và cuồng vọng riêng.
Nếu tôi tham gia dựng lên những bộ phim về cuộc chiến tranh ở Việt Nam, tôi sẽ nói đến bản chất của chiến tranh, qua những mặt tối, những góc tối bị che dấu, bị che lấp, nhưng oan hồn, những nỗi oan trái chưa được biết, để có thể nói lên hết mặt trái của cuộc chiến tranh không anh hùng, chẳng oanh liệt, một cuộc nồi da xáo thịt, huynh đệ tương tàn đáng hổ thẹn, đáng sám hối. Tít bộ phim có thể là «Những oan hồn – hay mặt trái của chiến tranh», hay «Một cuộc chiến đầy dối trá», cũng có thể là «Cuộc chiến của những người nô lệ», vì đảng Cộng sản tự nguyện làm nô lệ cho học thuyết Mác – Lênin, rồi qua đó bắt nhân dân, quân đội làm nô lệ cho những tham vọng riêng của đảng, để cho đất nước lạc hậu, tàn lụi đổ nát, bất công như hiện nay.
Ông Đào Công Tiến, nguyên Hiệu trưởng Đại học Kinh tế Sài Gòn, một đảng viên cộng sản kỳ cựu rất có lý khi đề nghị mỗi ngày kỷ niệm 30/4 là một cuộc Sám hối và xin lỗi của đảng Cộng sản đã chủ động gây nên những tổn thất về sinh mạng, tài sản, thời gian của dân tộc đến mức quá sức chịu đựng của nhân dân, để lịch sử có thể sang trang, đất nước có một chế độ chính trị dân chủ, độc lập thật sự, lãnh thổ toàn vẹn, có nhân quyền, phát triển phồn vinh cho toàn xã hội.
____
Cập nhật lúc 11h20 ngày 5-10-2017: Chúng tôi có nhận được email của nhà văn Nguyên Ngọc, nội dung như sau:
“Kính gửi Ban biên tập Tiếng Dân,
Tôi vừa đọc trên Tiếng Dân hôm nay bài ”Những oan hồn của cuộc chiến” của ông Bùi Tín, thấy có đoạn trong file kèm đây là hoàn toàn sai, bịa đặt:
“Có những điều ít ai biết, đó là tình trạng cực kỳ phi lý, thương tâm, oan trái, từ khi lên đường vào Nam, các cán bộ chiến sĩ đều bị cắt đứt liên lạc một cách tuyệt đối với bố mẹ, anh chị em, bạn bè, vài năm, có khi hàng chục năm, mà không có một lá thư được nhận hay được gửi về nhà. Sự bặt tin thật là buồn đau độc ác. Đây là một nét độc đáo của cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam. Cuộc chiến tranh không có thư từ của người cầm súng, đằng đẵng từ khi lên đường, cho đến khi trở về, lành lặn hay bị thương nặng nhẹ, hay thành người tàn tật suốt đời”.
Trong chiến tranh chống Mỹ, tôi đã ở chiến trường miền Nam 13 năm, biết rõ hoàn toàn không có sự cấm đoán ”độc ác” nào với việc liên lạc thư từ giữa những người chiến đấu ở miền Nam và người thân ở miền Bắc. Tất nhiên là liên lạc có khó khăn, do chiến sự, nhưng tuyết đối không có chuyện cấm đoán, thậm chí trái lại còn được khuyến khích. Rất dễ hiểu: để người cầm súng yên tâm chiến đấu. Cũng dễ hiểu những thư từ đó không được tiết lộ những bí mật quân sự mà mọi người lính đều biết.
Không biết ông Bùi Tín bịa ra chi tiết này để làm gì, sẽ chỉ khiến cho những điều khác do ông nói ra có thể đúng sẽ trở nên khó tin. Khách quan, trung thực, đứng đắn bao giờ cũng cần thiết.
Nguyên Ngọc”
_____
Cập nhật lúc 22h09 ngày 5-10-2017: Chúng tôi có nhận được email hồi âm của nhà văn Bùi Tín, nội dung như sau:
“Thân gửi cô Ngọc Thu và anh Nguyên Ngọc,
Rất cám ơn cô NT đã đăng bài và cho biết ý kiến của anh Nguyên Ngọc.
Tôi hơi bất ngờ vì tôi nghĩ anh Nguyên Ngọc cũng rõ cái tình cảnh không có thư từ liên lạc công khai, chính thức qua bưu điện Nam – Bắc ra sao. Sự bặt tin là phổ biến. Tôi đã sống với cả đại đội ở chiến trường miền Nam hàng tháng, đều là như thế. Anh em chỉ có thể gửi thư tay cho cán bộ, anh em bị thương trở ra miền Bắc đưa tay hộ. Hầu như 100% là thế.
Sao anh NN lại nói là thư từ được gửi bình thường?! Xin hỏi các anh em đi B mà xem. Các gia đình tử sỹ thì rõ.
Tôi có kinh nghiệm bản thân, 3 lần đi B – vào Nam là như thế. Đi 8 tháng, 1 năm rưỡi mà bặt tin. Vợ trẻ, con gái 6 tuổi, con trai 2 tuổi mà bằng bẵng 8 tháng không một tin nào. Gửi ai được? đành chịu. Tôi còn nhớ ghé qua Bộ Chỉ huy Quân khu 5 gặp anh Nguyên Ngọc, các bạn đi bắn con rộc – con vượn bao tử cho ăn cháo rộc. Còn nhớ mãi.
Tôi hiểu do chiến tranh, di chuyển, đơn vị cơ động, giải thể, sát nhập, giải tán … nên báo tử chậm một cách phổ biến. Cục Chính sách của Tổng cục Chính trị cho biết chậm trung bình là 18 tháng! Nhiều tử sỹ được anh em bạn từ miền Nam ra báo, sau mới được Bộ Quốc phòng báo chính thức.
Cháu Hưng 19 tuổi và cháu Hiệp 23 tuổi của tôi con 2 bà chị hy sinh ở Quảng Ngãi, Bình định đến nay vẫn không tìm ra mộ, thi hài. Cháu Hiệp học rất giỏi, là lớp trưởng. 2 cháu đi không có một lá thư, hy sinh không có một vật gì để lại.
Tôi thấy tất cả là sự thật. Xin làm một cuộc điều tra xã hội học công khai khách quan thì sẽ rõ.
Tôi nghi đây là một chính sách thâm độc khôn ngoan, do thiếu tình người. Mang tính cưỡng bức tinh vi.
Tôi luôn định cho mình sự trung thực trên hết, và cả cái quyền tự do phán xét có trách nhiệm.
Tôi rất quý anh Nguyên Ngọc về tính ngay thẳng, và sự gắn bó với lý tưởng Phan chu Trinh.
Có gì xin anh trao đổi thêm.
Quý mến,
Bùi Tín
Cô Ngọc thu có thể đăng lời nói lại trên đây. Cám ơn“.
_____
Cập nhật lúc 11h10′ ngày 6-10-2017: Chúng tôi có nhận được thư của nhà văn Nguyên Ngọc, nội dung như sau:
Thưa anh Bùi Tín,
Tôi vừa nhận được thư anh. Vì đã có quen biết anh, nên nói thật chuyện này khiến tôi buồn.
Ngay trong thư vừa gửi, anh đã tự mâu thuẫn. Đoạn trên anh vừa nói: “Tôi hiểu do chiến tranh, di chuyển, đơn vị cơ động, giải thể, sát nhập, giải tán … nên báo tử chậm một cách phổ biến”. Chỉ mấy dòng dưới anh đã viết ngược lại: “Tôi nghi đây là một chính sách thâm độc khôn ngoan, do thiếu tình người. Mang tính cưỡng bức tinh vi”. Lần này anh bảo anh “nghi”, còn lần trước, trong bài đăng trên Tiếng Dân, anh khẳng định và kết tội rất dứt khoát: “… đó là tình trạng cực kỳ phi lý, thương tâm, oan trái, từ khi lên đường vào Nam, các cán bộ chiến sĩ đều bị cắt đứt liên lạc một cách tuyệt đối với bố mẹ, anh chị em, bạn bè, vài năm, có khi hàng chục năm, mà không có một lá thư được nhận hay được gửi về nhà. Sự bặt tin thật là buồn đau độc ác”, và bảo đó là “một điều ít ai biết” nay anh phát hiện, tố cáo “một nét độc đáo của cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam …” Sự phát hiện này quả thật rất ấn tượng đối với người chưa biết!
Anh đã ở Tổng cục Chính trị, rồi ở báo Quân đội Nhân dân và cả báo Nhân dân khá lâu, tôi tin anh biết rõ không có một chủ trương hay chính sách như vậy. Thư từ chậm, có khi hằng năm, mấy năm, là do, như chính anh biết và nói “chiến tranh, di chuyển, đơn vị cơ động, giải thể, sát nhập, giải tán”, sao anh lại bịa ra chuyện chủ trương, chính sách độc ác?
Tôi cũng nghĩ chắc chắn anh biết ta không phải là Mỹ, không hiện đại như họ, tổ chức liên lạc của ta khó hơn họ gấp trăm lần. Sao lại quy cái đó thành “cưỡng bức tinh vi”? Thật buồn!
Tôi ở quân khu 5 mười ba năm, tôi biết ở quân khu còn có cả một bộ phận quân bưu để lo việc thư từ cho cán bộ chiến sĩ. Cũng xin chú ý: nếu quả có một chủ trương cắt liên lạc một cách tuyệt đối giữa người đã vào chiến trường với người thân ở Bắc, thì đương nhiên người ta cũng sẽ kiểm soát chặt và ngăn cấm cả việc gửi thư tay. Mà việc này, thì anh biết quá rõ, không ai kiểm soát và ngăn cấm cả, còn được hoan nghênh, khuyến khích … Đây là lô gích rất thông thường, sao anh lại bịa chuyện khác?
Tôi luôn nghĩ việc phản đối, chống lại những sai trái, to lớn và quan trọng hơn nhiều, của đảng và nhà cầm quyền là đúng và cần thiết. Nhưng phải đường hoàng, đứng đắn, không bịa đặt để cố bôi nhọ thêm, chỉ có thể phản tác dụng.
Đôi lời xin nói lại. Mong anh hiểu.
Nguyên Ngọc
____
Cập nhật lúc 12h13′ ngày 6-10-2017: Ý kiến của nhà văn Nhật Tiến, như sau:
Kính anh Bùi Tín,
Theo đề nghị của anh, tôi xin đóng góp một chút dữ kiện. Hồi còn sinh thời, trước năm 1975, Nhật Tuấn em trai tôi cũng đã đi B và lặn lội vài năm trên đường Trường Sơn. Sau 1975, khi Nhật Tuấn vào Sài Gòn, anh em chúng tôi có dịp hàn huyên nhiều chuyện. Khi đề cập đến chuyện nhà, Tuấn có than rằng nhiều năm xa Bố (sống ở Hà Nội), vậy mà không bao giờ có dịp viết thư hỏi thăm vì trong cuộc chiến làm gì có chuyện thư từ qua lại. Ngay cả khi đồng đội có người bỏ xác trên chiến trường cũng không có chuyện thư từ báo tin về cho gia đình hay nữa. Như vậy có ai cho rằng “anh bịa đặt xấu xa” theo tôi là không đúng. Riêng tôi, vẫn theo dõi các bài anh viết, tôi rất cảm phục sự trung thực và tấm lòng của anh đối với đất nước.
Nhật Tiến
____
Ý kiến của ông Nguyễn Quốc Khải:
Cám ơn anh Bùi Tín.
Một số phim tài liệu về chiến tranh Việt Nam do quân đội Hoa Kỳ phổ biến mà tôi được xem cho thấy bộ đội miền Bắc không có phương tiện chuyên chở trong vùng rừng núi. Cho nên sau nhiều trận giao tranh, trước khi vôi vã rút lui, họ chỉ có thời giờ vội vã chôn vùi bộ đội tử thương trong nhửng mồ chôn tập thể trong rừng núi. Vì vậy chuyện mất xác là chuyện bình thường. Miến Bắc cố tình dấu con số thương vong.
Bộ Đội Việt Nam có nhiều binh tử trận và mất tích ở Campuchia, cho tới nay vẫn chưa tìm thấy hết. Do đó mà trong những lần các nhà lãnh đạo cao cấp của VN gặp lãnh đạo Campuchia đều thảo luận về ba vấn đề then chốt là (1)Tranh chấp biên giới; (2) Người gốc Việt sống ở Campuchia; và (3) binh sĩ Việt mất tích tại Campuchia theo các bài tường thuật của báo Việt Nam gần đây. Việt Nam chiếm đóng Campuchia từ 1978-1889. Trong 10 năm đã không hoàn tất được việc tìm kiếm này. Do đó, VN liên tục kêu gọi Campuchia giúp đỡ.
Thành ra, những lời anh kể phản ảnh đúng sự thật.
Nhân tiện xin gửi các anh chị hai bài báo mới. Bài tiếng Anh có nội dung như bài tiếng Việt nhưng phải cô đọng lại vì số chữ có giới hạn, nhắm vào độc giả Mỹ. Có thể một số anh chị đã có bài này rồi thì xin bỏ qua.
Nguyễn Quốc Khải
____
Cập nhật lúc 19h30′ ngày 6-10-2017: Chúng tôi có nhận được email của nhà báo Bùi Tín, nội dung như sau:
Anh Nguyên Ngọc nói các trạm Giao Liên hồi ấy nhận đưa thư của cán bộ chiến sỹ ra Bắc là điều tôi không hề thấy , dù đã qua mấy chục Trạm giao liên. Không có 1 trạm nào nhận chuyển thư riêng, chỉ chuyển công văn. Nên chỉ có thể gửi thư tay, mà hiếm lắm, vì người vào Nam thì đông, người ra Bắc thì quá hiếm. Tôi nghi và nghĩ rằng đây là một sự cố tình tinh vi.
Tôi biết, tự tin là tôi không xấu tính, bịa đặt vu cáo ai như anh Nguyên Ngọc nhận xét. Biết mà không nói, không dám nói là không nên, là có tội với dân, với nước, với đồng đội.
Tôi đi B 3 lần; đều bặt tin tuyệt đối. Tôi nhớ vợ, 2 con, 7 chị, 1 em ruột, 1con gái lên 6, 1 con trai lên 2, mong tin nhà khắc khỏai mà đành chịu. Tôi về nhà gầy ốm 52 cân chỉ còn 39 cân, vợ tôi khóc than buồn khổ, nhưng may mà còn sống. Không như 2 cháu tôi, ra đi cho đến hy sinh là biệt tăm tích.
đây là một góc khuất của cuộc chiến mọi người cần biết, ngẫm nghĩ cho cuộc đấu tranh hiện tại.
Bằng chứng tội ác của bọn cộng sản gian manh. Chúng bảo rằng đem theo lương thực cho một tháng, nhưng nữ Thiếu Tá Cảnh Sát Quốc Gia Nguyễn Thị Thanh Thuỷ bị chúng lưu đày đến 13 năm.
Công an tỉnh Hòa Bình vừa bắt khẩn cấp thầy giáo Đào Quang Thực (1960) với cáo buộc “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”, theo điều 79 BLHS.
Thầy Thực l…à giáo viên trường Tiểu học Triệu Phúc Lịch, huyện Đà Bắc (Hòa Bình) vừa có quyết định nghỉ hưu trước tuổi hồi tháng 7.2017, vẫn chưa được lãnh chế độ. Việc thầy bị bắt khá bất ngờ với các nhà hoạt động, vì không ai biết gì về Đào Quang Thực!
Theo gia đình cho hay, đang ăn giữa bữa trưa ngày 5.10 thì CA ập vào đọc lệnh bắt và khám xét nhà đến 17h00, sau đó còng tay đưa thầy đi. Kết quả sau khi khám nhà là 3 tờ giấy viết tay, trong đó có một đơn xin vào đảng Tân Thời. Tui có tìm hiểu và google nhưng không có tên đảng nào như vậy (!?). Ngoài ra CA còn thu giữ 1 mũ sắt helmet chống đạn, cây súng hai nòng treo trên tường và bộ đồ rằn ri mà thầy hay chụp post FB (hình dưới). —
Tại một comment, thầy Thực viết: “Những người nằm xó bếp không dám thở to, không dám nói bằng tiếng đạo nghĩa mà chỉ biết khom lưng, quỳ gối. Lúc nào cũng sợ, mặt mình bẩn không lau thì đợi ai lau cho.”
– Gia tăng việc bắt bớ, chỉ tính từ đầu 2017 đến nay, các nhà hoạt động và bất đồng chính kiến bị nhà cầm quyền bắt nhiều hơn các án chính trị trong cả 5 năm nhiệm kỳ của cựu TT Nguyễn Tấn Dũng cộng lại!
Ngoc Vu is feeling tiếng NHỤC càng vang xa…. xa mãi.Follow
Làm báo thì nên đưa tin cho chính xác nhé.
Phó phòng ăn cắp ở Nhật thì phải ghi rõ là ăn cắp, chứ lại ghi là : gặp sự cố là như thế nào ? Nhật Bản là Đất Nước vô cùng văn minh và lịch sự,nếu ko làm gì sai trái thì họ vô cùng mến khách. Làm gì có chuyện họ mời về đồn công an làm việc ?
Bà mịa … đội quần vì nhục mà….. ..Đi đâu cũng để lại tiếng xấu tiếng nhục cả… ở trong nước quen thói ăn cắp của Dân rồi, nên có đi đâu thì bản chất vẫn ko thay đổi.
Nhục nhã ê chề chưa ???
Công an đang điều tra xem đây chỉ là vụ cướp hay thanh toán nhau. (Hình: Báo Tuổi Trẻ)
HẬU GIANG (NV) – Giữa khuya, khi chiếc xe hơi chở 3 người đang chạy trên đường từ Sài Gòn xuống tới Hậu Giang, bất ngờ bị nhóm người chặn đường xịt hơi cay, cướp tiền rồi đốt luôn xe hơi, khiến 3 người bị phỏng nặng.
Ngày 5 Tháng Mười, công an tỉnh Hậu Giang loan báo, đang phối hợp các đơn vị nghiệp vụ Bộ Công An điều tra vụ cướp táo tợn xảy ra tại quốc lộ 61C, đoạn qua xã Nhơn Nghĩa A, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang.
Báo Tuổi Trẻ cho biết trước đó, khoảng 23 giờ khuya 4 Tháng Mười, ông Trần Văn Ri (54 tuổi), bà Võ Thị Chiến (42 tuổi) cùng ngụ quận 6, Sài Gòn, là giám đốc và phó giám đốc công ty Kiên Bình, huyện Bình Chánh ngồi trên xe hơi 7 chỗ do tài xế Cai Văn Trung (35 tuổi), lái hướng từ Cần Thơ về Vị Thanh.
Khi xe chạy đến địa điểm trên thì bị một nhóm 4-6 người đi trên xe máy từ phía sau chạy lên chặn đầu. Các nghi can dùng bình xịt hơi cay xịt vào mặt 3 người trong xe. Bà Chiến bị một người trong nhóm đâm rồi cướp túi xách bên trong có khá nhiều tiền. Sau đó nhóm người này tưới xăng lên xe hơi rồi châm lửa đốt.
Bà Chiến ngoài bị phỏng còn có vết thương thấu bụng. (Hình: Báo Người Lao Động)
Theo báo Người Lao Động, rạng sáng 5 Tháng Mười, bệnh viện Chợ Rẫy đã cấp cứu cho 3 nạn nhân trên đều bị phỏng do lửa xăng gây ra. Ông Ri bị phỏng 70% cơ thể hiện đang được chăm sóc tại phòng cách ly đặc biệt; bà Chiến bị phỏng độ 40% cơ thể kèm theo vết thương thấu bụng, còn ông Trung bị phỏng 10% vùng lưng và tay.
Ông Trung cho biết, tối 4 Tháng Mười, ông lái xe chở ông Ri và bà Chiến xuống nhà máy của công ty ở tỉnh Kiên Giang. “Khoảng 23 giờ, khi xe đang chạy ngang tỉnh Hậu Giang thì bất ngờ có 3 người đi xe máy cúp đầu xe hơi. Tôi chưa hiểu chuyện gì xảy ra thì nhóm người lạ mặt này xịt hơi cay vào mặt tôi. Tôi bung cửa ra và thấy xe đang bị cháy. Chúng tôi được người dân đưa ra khỏi xe,” ông Trung nói.
Có tin cho rằng vụ đốt xe do mâu thuẫn trong việc làm ăn. Tuy nhiên, theo ông Lê Văn Huệ, phó trưởng công an huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang cho biết: “Về thông tin do mâu thuẫn nên xảy ra thanh toán nhau bằng cách phóng hỏa đốt xe, chúng tôi đang phối hợp với Phòng Cảnh Sát Hình Sự công an tỉnh Hậu Giang để điều tra.” (Tr.N)
Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nênđá tảng góc tường (Mt 21 : 42)
Tảng đá bị loại bỏ này là hình ảnh của một ngôn sứ đích thực.
Trước hết Ngôn sứ, người là ai??
Trong cuốn “Thánh Gioan Thánh Giá ”, tôi rất thích thú khi biết nguồn gốc của thuật ngữ Ngôn Sứ trong tiếng Hipri: (trang 20-21)
· Ro’eh : Người nhìn thấy
· Nabhi : Người công bố, Người làm chứng
Sứ điệp đầu tiên của vị Ngôn sứ là cuộc sống của ông,
là kinh nghiệm riêng tư của ông về Thiên Chúa,
chính kinh nghiệm riêng tư này chứng tỏ ông là một ngôn sứ đích thực
Như vậy, ngôn sứ đích thực phải là người nhìn thấy.
Nhìn thấy gì?
Nhìn thấy Chúa thực sự sống động trong lòng mình và niềm hạnh phúc mình đang vui hưởng,
lúc đó mình mới công bố điều mình đã khám phá, đã cảm nghiệm, đã sống ngay trong đời sống bình thường của đời mình.
Nhưng thực tế cho thấy, khi ngôn sứ chia sẻ kinh nghiệm riêng tư của mình về Thiên Chúa ..thì hầu như chẳng ai chịu đón nhận.
Họ có thể nói thẳng ra rằng:
– Không đủ thuyết phục, vì khác với điều họ đã được dạy từ thủa còn thơ…
–Lạ tai quá, khó có thể chấp nhận… so với niềm tin truyền thống.
–Coi chừng lạc đạo đến nơi rồi… vì nó khác với gì họ đang tin tưởng.
Tại sao vậy?
Đơn giản chỉ vì, những điều anh ta chia sẻ chẳng giống ai…thậm chí có vẻ còn khác với niềm tin của mọi người từ trước tới nay
Thí dụ như :
Ai cũng coi Chúa là đấng cao sang uy quyền, phải vừa Kính vừa Sợ (như sợ cọp)!!
Anh ta lại cảm nhận Thiên Chúa là nguồn sống Thần linh.
Hoặc là: Ai cũng tin : Chúa ngự trên trời hoặc trong phép Thánh Thể
Anh ta lại cứ một mực quả quyết rằng : Chúa sống ngaytrong lòng mình…
Chính vì thế người ta hè nhau loại trừ anh ta bằng nhiều kiểu khác nhau:
Nghe cho vui, chẳng hề quan tâm..tôi cứ vừa Kính vừa Sợ Chúa… giống như người khác cho chắc ăn – ai sao tôi vậy –có vẻ giống đàn cừu quá nhỉ???
Sau khi anh ta tuyên bố gì đó, với tư cách huynh trưởng, tôi vẫn cảm thấy có bổn phận buộc phải giáo huấn các thành viên phải tuân theo những gì đã được dạy, không thể suy nghĩ khác, không thể sống khác kẻo vi phạm truyền thống từ xưa tới nay…
Hoặc sau khi anh ta chia sẻ điều gì đó có vẻ khác với điều tôi tin tưởng, tôi lập tức đứng lên để chấn chỉnh ngay kẻo sợ rằngcác thành viên đi lạc đường…
Còn chuyện các thành viên có lớn lên trong Chúa hay không, tôi chẳng quan tâm.
Bằng chứng là khi mới gia nhập cộng đoàn, các thành viên có vẻ phấn khởi vì nhận được một vài điều mới mẻ.
Nhưng….sau khi gia nhập cộng đoàn 10 năm, các thành viên vẫn dậm chân tạichỗ. Chia sẻ Lời Chúa hàng tháng vẫn cứ như vịt nghe sấm hoặc chia sẻ như những anh mù sờ voi…
Cùng lắm chúng tôi chỉ có vẻ đạo đức hơn người… nhưng con người nội tâm đích thực vẫn như trẻ suy dinh dưỡng trường kỳ…
Tóm lại, bỗng nhiên gặp một tay suy tư, ăn nói khác người, chúng tôi phải tìm cách triệtngay kẻo anh ta làm rối loạn cộng đoàn, khiến cho các thành viên hoang mang
Thực vậy, với chiêu bài bảo vệ sự ổn định cộng đoàn…
Chúng tôi cùng nhau quyết chí ra tayloại bỏ tảng đá này… không thương tiếc…
Vào lúc 18h ngày 5/10 (theo giờ Việt Nam), Hội đồng giải thưởng Nobel của Thụy Điển đã công bố giải Nobel Văn học 2017 thuộc về nhà văn Kazuo Ishiguro mang quốc tịch Anh.
Ông Kazuo Ishiguro sinh năm 1954 tại Nagasaki, Nhật Bản. Những tiểu thuyết của ông mang lại cảm xúc tuyệt vời, “khám phá những sâu thẳm huyền bí kết nối với thế giới”. Một số tác phẩm nổi tiếng của ông gồm Never let me go (Mãi đừng xa tôi), The Remains of the Day (tạm dịch Điều còn lại trong ngày).
Bắt đầu được trao từ năm 1901 đến nay, Giải Nobel Văn học đến nay được trao 109 lần nhưng có đến 113 tác giả nhận giải do có bốn lần hai người đồng đoạt giải. Cho tới thời điểm này, chỉ mới có 14 nữ văn sĩ đoạt Nobel văn học.
Năm ngoái, giải Nobel Văn học đã thuộc về nhà biên kịch, ca sĩ, nhạc sĩ nổi tiếng người Mỹ Bob Dylan vì đã tạo ra “những biểu đạt thi ca mới trong âm nhạc truyền thống của Mỹ”. Dylan, 75 tuổi, là một trong những nghệ sĩ có ảnh hưởng nhất tới nền âm nhạc nói riêng và văn hóa thế giới nói chung trong nhiều thập kỷ gần đây.
Giải Nobel Văn học là giải thứ 4 được công bố trong mùa Nobel năm nay. Tiếp sau giải Nobel Văn học, giải Nobel Hòa bình sẽ được công bố vào ngày 6/10. Giải Nobel Kinh tế sẽ được công bố vào ngày 9/10.
Phần thưởng cho các giải Nobel năm nay là 9 triệu krona Thụy Điển (tương đương 1,1 triệu USD). Lễ trao các giải Nobel 2017 sẽ được tổ chức tại thủ đô Stockholm của Thụy Điển vào ngày 10/12 để tưởng nhớ ngày mất của Alfred Nobel. Riêng giải Nobel Hòa bình sẽ do Na Uy trao tặng.