Hạnh phúc ở tại lòng ta mà, đừng suy diễn, đừng tự làm khổ chính mình

fROM FACEBOOK:   Hồ Ngọc Dũng shared Nguyễn Ngọc Ngạn‘s post.

 

Image may contain: 2 people, people smiling, people standing and suit

Nguyễn Ngọc Ngạn

 

Chọn một người đàn ông đẹp trai hào hoa thì phải chấp nhận anh ấy phong lưu.
Chọn một người đàn ông biết kiếm nhiều tiền để được hưởng thụ thì phải chấp nhận anh ấy ít có thời gian chăm sóc cho gia đình.
Chọn một người đàn ông ở nhà chăm sóc gia đình thì phải chấp nhận anh ấy ít biết kiếm nhiều tiền.
Chọn người đàn ông ngoan hiền, biết vâng lời thì phải chấp nhận anh ấy là trẻ con.
Chọn một người đàn ông mạnh mẽ, kiên cường thì phải chấp nhận anh ấy ngang ngược.
Chọn một người đàn ông giỏi giang và bản lĩnh thì phải chấp nhận anh ấy gia trưởng.
Chọn một người đàn ông phong trần thì phải chấp nhận anh ấy lãng tử, phiêu lưu.
Chọn một người đàn ông “nữ tính” thì phải chấp nhận anh ấy có tính “đàn bà”.
Làm gì có đàn ông nào vừa ngoan, hiền, vâng lời, ở nhà quanh quẩn với gia đình, không biết ăn nhậu, không quan hệ bạn bè mà kiếm nhiều tiền cho gia đình vợ con hưởng thụ sung sướng. Miễn là đừng gặp phải đàn ông vô dụng là được.

Cái gì cũng có cái giá của nó mà. Hãy vì hai chữ hạnh phúc mà chấp nhận sự tương đối.

Hạnh phúc ở tại lòng ta mà, đừng suy diễn, đừng tự làm khổ chính mình , chỉ cần một người đàn ông tử tế và trách nhiệm là đủ.

 

Có cần thiết thành lập Viện Đạo đức học dành cho cán bộ hay không?

Có cần thiết thành lập Viện Đạo đức học dành cho cán bộ hay không?

Hòa Ái, phóng viên RFA
2017-10-20

Các vị lãnh đạo Đảng, Chính phủ, và Quốc hội Việt Nam tại Đại hội đảng toàn quốc đầu năm 2016.

Các vị lãnh đạo Đảng, Chính phủ, và Quốc hội Việt Nam tại Đại hội đảng toàn quốc đầu năm 2016.

Photo: AFP

Phó Giáo sư Nguyễn Trọng Phúc, nguyên Viện trưởng Lịch sử Đảng vừa có đề nghị thành lập Viện Đạo đức học để dạy cán bộ đạo đức và những chuẩn mực đạo đức trong Đảng.

Phản đối

Đề nghị thành lập Viện Đạo đức học của Phó Giáo sư Nguyễn Trọng Phúc được đưa ra tại Hội thảo khoa học quốc gia “Sửa đổi lối làm việc-Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, diễn ra vào sáng ngày 18 tháng 10, do Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức.

Nguyên Viện trưởng Lịch sử Đảng, ông Nguyễn Trọng Phúc nhắc lại lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh rằng cán bộ là cái gốc của Đảng và của mọi công việc nên việc thành lập Viện Đạo đức học là cần thiết để huấn luyện cán bộ và những giảng viên mẫu mực sẽ được tuyển chọn để phụ trách công tác giảng dạy. Phó Giáo sư Nguyễn Trọng Phúc còn kiến nghị Viện Đạo đức học sẽ trực thuộc quản lý bởi Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và Ban Tuyên giáo Trung ương.

Đài Á Châu Tự Do ghi nhận chỉ trong vòng xấp xỉ vài giờ đồng hồ Báo mạng VnExpress.net đăng tải thông tin vừa nêu, trên trang fanpage của tờ báo mạng này có khoảng 60 ý kiến nhưng hầu hết đều phản đối, cho đó là “điều nực cười” vì “uốn tre chứ không uốn măng”; vả lại chủ trương của Chính phủ là bộ máy nhà nước cần được tinh giản, nhưng với đề xuất này thì phải gánh thêm một cơ quan hoạt động không mang lại hiệu quả mà còn tiêu tốn ngân sách. Nhiều người lý giải rằng đạo đức phải được dạy từ nhỏ chứ không đợi đến khi trở thành cán bộ rồi mới vào Viện Đạo đức học để được huấn luyện. Một độc giả nhấn mạnh đạo đức thuộc về bản chất của mỗi cá nhân nên để thay đổi bản chất của một người là điều rất khó, nhất là trong bối cảnh vô số cán bộ từ địa phương đến trung ương bị tha hóa, tham ô tham nhũng và lạm quyền như hiện nay.

Không phải chỉ có mở trường mà với một chế độ như hiện nay vẫn là tàn nhẫn với dân, vẫn là cướp bóc của dân một cách trắng trợn, tham nhũng thì không có cách gì đẩy lùi được. Thế thì việc lập một trường dạy về đạo đức cho cán bộ cũng như kiểu dán cao cho bệnh ung thư, chỉ xoa dịu giảm đau một chút nhưng thực ra bệnh hoạn vẫn trầm trọng bên trong
-Ông Nguyễn Khắc Mai

Trao đổi với chúng tôi liên quan đề nghị thành lập Viện Đạo đức học dành cho cán bộ, ông Nguyễn Khắc Mai, nguyên Vụ trưởng Vụ Nghiên Cứu, Ban Dân vận Trung ương, hiện là giám đốc Trung tâm nghiên cứu Văn hoá Minh Triết cho biết ông không phản đối, nhưng ông nghĩ rằng việc thành lập này cũng chỉ là hình thức mà thôi. Ông Nguyễn Khắc Mai nói với RFA:

“Vấn đề muốn có đạo đức xã hội thì cần thay đổi nhiều lắm, đặc biệt là thể chế, thiết kế của hệ thống xã hội phải thay đổi. Nền giáo dục, kể cả giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học cũng phải thay đổi. Trên cơ sở đó thì mới có được nhân tố con người. Và khi đã có nhân tố con người thì mới đặt ra vấn đề là học đạo đức, mà đặc biệt là đạo đức công chức; tức là đạo đức công vụ, đạo đức làm việc để phụng sự và quản lý xã hội, gọi là đạo đức nghề nghiệp nhưng phải trên cơ sở một nền giáo dục tử tế, nhân văn thì mới hình thành được tốt.

Hai nữa, không phải chỉ có mở trường mà với một chế độ như hiện nay vẫn là tàn nhẫn với dân, vẫn là cướp bóc của dân một cách trắng trợn, tham nhũng thì không có cách gì đẩy lùi được. Thế thì việc lập một trường dạy về đạo đức cho cán bộ cũng như kiểu dán cao cho bệnh ung thư, chỉ xoa dịu giảm đau một chút nhưng thực ra bệnh hoạn vẫn trầm trọng bên trong.”

Qua đề nghị của ông nguyên Viện trưởng Lịch sử Đảng, Phó Giáo sư Nguyễn Trọng Phúc, dư luận thắc mắc rằng có phải phong trào “Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” được phát động bao năm qua không đạt kết quả gì? Tiến sĩ Hán-Nôm Nguyễn Xuân Diện từng lên tiếng với RFA liên quan phong trào này:

“Sự suy thoái đạo đức trong Đảng ngày càng trầm trọng. Cho dù Đảng và Nhà nước đã phát động rất mạnh mẽ và tốn rất nhiều tiền của cho phong trào học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh, nhưng không đem lại mấy kết quả cho việc chấn hưng lại đạo đức của Đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam nói riêng và đạo đức của toàn xã hội nói chung.”

Luật sư Nhân quyền-Tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Đài cũng đã nói rằng một nhà nước tuyệt đối hóa quyền lực như Việt Nam thì sẽ tha hóa tuyệt đối về đạo đức và lối sống của cán bộ đảng viên, do đó họ điều hành đất nước chỉ với mục đích nắm trong tay quyền lực và lợi ích cho riêng họ.

Phản tác dụng?

HocTapHCM.jpg
Cuộc thi Tuổi trẻ học tập đạo đức Hồ Chí Minh năm 2013. Courtesy: Tuoitrehaiduong.vn

Một trường hợp minh chứng mới nhất về cán bộ tham ô nhưng được cả hệ thống lãnh đạo bao che, vừa được phổ biến trên mạng xã hội mà cộng đồng cư dân mạng quan tâm, qua chia sẻ của nạn nhân cũng là cán bộ ở tỉnh An Giang.

Ông Nguyễn Văn Khấn cho biết thuộc gia đình cách mạng, nghe theo lời vận động của Đảng ủy và Ủy ban nhằm thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở địa phương nên ông cùng 16 người khác tham gia vào thành lập Quỹ Tín dụng Nhân dân hồi năm 1995 và sẽ thanh lý tài sản chia cho cổ đông sau 20 năm hoạt động. Ông Nguyễn Văn Khấn, trong vai trò Chủ tịch Hội đồng Quản trị, vào năm 2008-2009 phát hiện ông Võ Văn Của, là Giám đốc Điều hành, chỉ đạo cấp dưới cố ý làm sai nguyên tắc tài chính kế toán để thu lợi bất chính. Ông Khấn kể lại:

Sự suy thoái đạo đức trong Đảng ngày càng trầm trọng. Cho dù Đảng và Nhà nước đã phát động rất mạnh mẽ và tốn rất nhiều tiền của cho phong trào học tập đạo đức Hồ Chí Minh, nhưng không đem lại mấy kết quả cho việc chấn hưng lại đạo đức của Đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam
-TS. Nguyễn Xuân Diện

“Khi vụ việc xảy ra thì tôi có báo với Ngân hàng Nhà nước. Ông Giám đốc Ngân hàng Nhà nước nói sẽ giải quyết, nhưng khi lập biên bản với chứng từ rõ ràng thì không xử lý. Lúc tôi họp Hội đồng quản trị để đưa ra xử lý thì ông Bí thư Đảng ủy đến dự, nhưng cuối cùng bao che cho nhau. Một ông cán bộ đảng viên như ông Của không có đạo đức mà vẫn bao che, ngoài tham ô tham nhũng còn thách thức tôi nữa. Ông ta chửi thô tục tại cuộc họp luôn.”

Ông Khấn đã làm hồ sơ gửi đến cơ quan các cấp của Đảng từ địa phương đến trung ương nhưng đều không nhận được hồi đáp. Năm 2010, ông Khấn quyết định ra khỏi Đảng. Ông Khấn khẳng định với chúng tôi hoàn toàn không có niềm tin là đạo đức của cán bộ đảng viên sẽ tốt hơn nếu được huấn luyện.

Quyết định ra khỏi Đảng của của ông Nguyễn Văn Khấn không phải là cá biệt, mà trong những năm gần đây ngày càng có nhiều đảng viên tuyên bố từ bỏ tham gia Đảng Cộng Sản Việt Nam với lý do tổ chức này hiện chỉ là một tổ chức của những người “tham quyền cố vị”, “mua quan bán chức”, “tranh giành quyền lực” và hơn hết là “không có tâm” lẫn “không có tầm” để lãnh đạo quốc gia.

Cũng vì các lý do đó, những người dân khắp nơi ở trong nước mà Đài RFA tiếp xúc quả quyết không cần thiết xây dựng Viện Đạo đức học dành cho cán bộ, vì như thế chỉ khiến dân chúng càng bất mãn hơn đối với chính quyền mà thôi.

Quà tặng 20.10.2017

From facebook:   Bích Thủy Nguyễn added 4 new photos — with Sophia Nguyenand 2 others.

Quà tặng 20.10.2017

Theo FB Nguyễn Văn Hiếu :

Nóng!!! Công an cho giang hồ đánh người cướp đất !!!

Có người bị thương nghe nói có người chết !!! (Tin tức đang cập nhật)

Sự việc xảy ra trưa hôm nay tại Đắk Song, Đắk Nông. Nhìn hình ảnh mà đau lòng quá ! Không lẽ quà 20/10 mà nhà cầm quyền dành cho phụ nữ là thế này sao ?

Image may contain: one or more people, shoes and outdoor
Image may contain: 2 people, people sitting and child
Image may contain: 2 people, outdoor
Image may contain: 2 people, outdoor

Những người phụ nữ kiên cường!

From facebook:    Hung Tran and 2 others shared Le Anh‘s post.
Image may contain: 6 people, people smiling, text
Le Anh is with Tien Bui and 2 others.

 

Nhân ngày 20/10, Ngày phụ nữ Việt Nam,

Không quên những người phụ nữ can trường vẫn còn đang bị giam giữ trong lao tù chỉ vì lòng yêu nước và đấu tranh cho tự do, dân chủ tại Việt Nam.
(Ảnh Từ trái qua phải theo thứ tự)

– Cô Nguyễn Đặng Minh Mẫn bị bắt giữ vào cuối tháng Bảy năm 2011 vì chụp hình một cuộc biểu tình chống Trung Quốc và bị kết án 8 năm tù với tội danh “lật đổ nhà nước” theo điều 79. Tuy học làm nghề thẩm mỹ, cô gái 26 tuổi này là người nhiệt huyết cổ võ cho công bằng xã hội và nhân quyền, thể hiện qua việc làm của một ký giả nhiếp ảnh. Cô đến những nơi nào có bất ổn xã hội, có biểu tình công cộng để chụp hình và tạo chú ý cho các sự kiện này.

– Bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh – Mẹ Nấm, là một blogger viết về các vấn đề xã hội và là mẹ của hai đứa con nhỏ. Từ năm 2009 đến năm 2016, Mẹ Nấm đã bị bắt giữ nhiều lần do tham gia các hoạt động dân sự, đòi nhân quyền và biểu tình phản đối Trung Quốc chiếm biển đảo. Mẹ Nấm bị bắt ngày 10 tháng Mười năm 2016 tại Nha Trang với tội danh theo điều 88 – “tuyên truyền chống nhà nước”và bị kết án 10 năm tù.

– Bà Trần Thị Nga năm nay 40 tuổi và mẹ của bốn người con, trong đó có hai người con trai nhỏ. Vì những hoạt động hỗ trợ dân oan, biểu tình chống Trung Quốc xâm lược, chống Formosa,… mẹ con bà Nga liên tục bị công an bắt cóc, chặn đánh giữa đường. Sau nhiều ngày bị khủng bố, đe dọa và giam lỏng tại nhà riêng, bà Trần Thị Nga đã bị công an bắt vào ngày 21/1/2017 và bị khởi tố theo điều 88 Bộ Luật Hình Sự – “tuyên truyền chống nhà nước CHXHCN Việt Nam” và bị kết án 9 năm tù.
– Bà Trần Thị Thúy là một Phật tử Hòa Hảo hoạt động cho quyền lợi của dân oan, đang thụ án tù 8 năm sau khi bị kết án “có những hoạt động nhằm lật đổ chính quyền” theo Điều 79 Bộ Luật Hình Sự. Bà bị bắt giữ hồi tháng Tám năm 2010 và đang bị giam giữ tại trại An Phước, tỉnh Bình Dương. Mang bệnh nan y trong người và sống trong hoàn cảnh khắc nghiệt trong tù, bà Thúy nhiều lần bị giới chức trách khước từ cho đi chữa trị sức khoẻ. Tình trạng của bà hiện đang được quốc tế báo động.

– Bà Cấn Thị Thêu có thể được coi là linh hồn trong cuộc đấu tranh chống cướp đất của nhân dân Dương Nội. Sau vụ cưỡng chế đất vào tháng Tư năm 2014 tại Dương Nội, bà từng bị bắt và bị kết án 15 tháng tù. Sau khi mãn án, bà Thêu tiếp tục đi đòi quyền lợi đất đai cho gia đình và những người cùng cảnh ngộ. Không chỉ hoạt động cho quyền lợi của những nông dân bị cướp đất, bà Thêu còn tham gia vào những hoạt động đấu tranh cho quyền con người, chống Trung Quốc xâm lược hay phản đối Formosa. Bà bị bắt lại vào ngày 10 tháng 6 năm 2016 với cáo buộc “gây rối trật tự công cộng”, và sau đó bị kết án 20 tháng tù.

– Lê Thu Hà là thành viên Hội Anh Em Dân Chủ, đảm trách chức vụ thư ký và ngoại giao cho hội. Cô cũng là một trong những người thực hiện chương trình Lương Tâm TV, một kênh truyền thông được phát trên Youtube nói về các vấn nạn xã hội. Ngày 16 tháng 12 năm 2015, cô Lê Thu Hà bị bắt cùng Luật sư Nguyễn Văn Đài với tội danh “tuyên truyền chống nhà nước” theo Điều 88 Bộ Luật Hình Sự.

  •  
     
     
     
    Hung Tran shared Le Anh‘s post.
     

    Đảng cộng sản Việt Nam run sợ trước những người phụ nữ kiên cường!

Đôi điều về Diệp Sú.

From facebook:   ‎Kimtrong Lam to Lương Văn Can 75.
Đôi điều về Diệp Sú.

Từ nhà cũ của tôi đến nhà bạn ấy không xa…đi bộ 10-15 phút…khi nghe tin bạn sang Mỹ trong lòng tôi rất vui giống như hồi xưa tôi sang Úc vậy…mừng cho bạn đã qua một chặn đường chông gai…

Vui chưa lâu thì tôi được biết bạn ra đi trong cú lừa ngoạn mục dưới danh nghĩa vợ chồng…đau như chính mình bị vậy…tức và hận nữa…

Vì thương gia đình còn ở lại VN nên bằng mọi giá mọi phương tiện bạn đã mưu sinh bằng đủ thứ nghề có thể và sau đó thì nấu ăn trong nhà hàng…

Bạn giới hạn liên lạc vì sự an toàn cá nhân…Năm này qua năm khác thông tin về bạn càng lúc càng nhiều hơn…cho đến khi lần đầu tiên bị bệnh bạn cũng được điều trị vì nhân đạo của chính phủ Mỹ…Cứ ngỡ mọi việc sẽ qua…công việc sẽ ổn định để bạn có thể giúp đỡ gia đình nhiều hơn…

Thế nhưng số trời đã định…hết nợ thì không cần phải trả thêm…bạn nằm trong bệnh viện không thân nhân ruột thịt chỉ có thầy cô và bạn bè là nguồn an ủi nho nhỏ…tình Lương Văn Can nơi hải ngoại…

Hôm nay bạn ra đi về miền đất ước mơ của chính mình,không còn đau đớn,không lo toan,không bận bịu quà cáp cho gia đình và phút cuối cũng không biết thể xác của chính mình là của ai…Nhưng tôi mong phần linh hồn của bạn thanh thản,bình an và nhẹ nhàng nơi đất hứa…

Thôi thì thôi…chẳng qua là đi trước đi sau thôi..hẹn ngày nào đó chúng ta sẽ được gặp lại nhau nơi mơ ước đó…

Nhớ bạn Diệp Sú.

Lâm Kim Trọng LVC75.

Image may contain: 1 person, standing, tree, outdoor and nature

Diệp sú ơi !
Bây giờ thì ai có nói gì thì mày cũng không còn nghe nữa, đã buông bỏ hết rồi.
Hồi còn ở Việt Nam, làm hồ sơ đi Mỹ mà mày dặn em mày là đừng cắt hộ khẩu : tao đi rồi tao sẽ quay về.
Bây giờ thì mày không về nữa, mày muốn khi mày chết đi thì thiêu rồi đem tro rắc xuống sông xuống biển vì mày biết ở bên đó không có người thân chẳng ai nhang khói cho mày.
Thôi, mày ra đi thanh thản như bản tính hiền lành xuế xoà của mày
Chúc mày siêu thăng tịnh độ

— feeling sad.

Số phận các Quốc gia Cộng sản hoặc theo đường lối XHCN ở châu Phi sau năm 1989:

From facebook:   Dang Tuong

Món quà dành riêng cho DLv và bưng bô cs 

Số phận các Quốc gia Cộng sản hoặc theo đường lối XHCN ở châu Phi sau năm 1989:

Algeria – Bạo loạn Tháng Mười 1988, cuộc nổi dậy Hồi giáo ở Algeria 1991, đã buộc nước này phải từ bỏ chế độ độc đảng chuyển sang cuộc bầu cử đa đảng năm 1995.

Angola – Chính phủ MPLA cầm quyền đã từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin vào năm 1991 và đồng ý với Hiệp định Bicesse trong cùng năm, tuy nhiên cuộc Nội chiến Angola giữa hai đảng MPLA và UNITA bảo thủ vẫn tiếp tục trong một thập kỷ nữa.

Cape Verde – Đảng cầm quyền châu Phi độc lập của Cape Verde đã cắt giảm hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa và viện trợ nước ngoài gây áp lực cho chính phủ để cho phép bầu cử đa đảng vào năm 1991.

Cộng hòa Dân chủ Congo – Chính quyền của Denis Sassou Nguesso bị áp lực phải từ bỏ Chủ nghĩa Mác – Lênin vào năm 1991. Quốc gia này đã có những cuộc bầu cử vào năm 1992 và thành lập Cộng hòa Congo vào năm 1993.

Cộng hoà dân chủ liên bang Ethiopia – Một hiến pháp mới được thực hiện vào năm 1987, và sau khi Liên Xô và Cuba sụp đổ, chính quyền quân sự Cộng sản Derg do Mengistu Haile Mariam lãnh đạo đã bị đánh bại bởi phe nổi dậy trong cuộc Nội chiến ở Ethiopia và trốn chạy vào năm 1991.

Cộng hoà Madagascar – Chủ tịch nước Chủ nghĩa xã hội, ông Didier Ratsiraka bị lật đổ.

Mali – Chính quyền của Moussa Traoré đã bị lật đổ, Mali thông qua một hiến pháp mới; Tổ chức các cuộc bầu cử đa đảng. Cuộc nổi dậy năm 1990 và cuộc đảo chính năm 1991.

Mozambique – Cuộc nội chiến ở Mozambiku giữa FRELIMO và các đảng bảo thủ RENAMO đã kết thúc thông qua hiệp định năm 1992. FRELIMO sau đó đã từ bỏ chủ nghĩa xã hội và với sự ủng hộ của Liên hợp quốc đã tổ chức nhiều cuộc bầu cử.

São Tomé and Príncipe – Phong trào Giải phóng Lao động São Tomé và Príncipe / Đảng Xã hội đã cắt giảm hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa và các viện trợ nước ngoài gây áp lực cho chính phủ cho phép bầu cử đa đảng vào năm 1991.

Somalia – Rebelling Somali đã lật đổ chính quyền quân sự Cộng sản của Siad Barre trong cuộc Cách mạng Somali.

Tanzania – Đảng Chama Cha Mapinduzi cầm quyền đã cắt giảm hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa và các viện trợ nước ngoài gây áp lực cho chính phủ cho phép bầu cử đa đảng vào năm 1995.

Tunisia – Đổi tên Đảng Cộng sản Tunisia ở Phong trào Ettajdid năm 1993 và đổi tên Đảng Destourian Xã hội Chủ nghĩa trong Cuộc Hiến pháp Lập hiến Dân chủ năm 1988.

Zambia – Đảng Thống nhất Quốc gia đã cắt giảm hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa và viện trợ nước ngoài gây áp lực cho chính phủ cho phép bầu cử đa đảng vào năm 1991.

Seychelles – Dân chủ hoá năm 1991.
Guinea-Bissau – Dân chủ hoá năm 1991.
Chad – Dân chủ hoá năm 1991.
Burkina Faso – Dân chủ hoá năm 1990.
Sierra Leone – Sự khởi đầu của cuộc nội chiến Sierra Leone vào năm 1990 và cuộc đảo chính năm 1992. Gắn liền với cuộc chiến này là nội chiến ở nước láng giềng Liberia

Riêng Zaire, tức cộng hòa dân chủ Congo ngày nay, rơi vào cuộc nội chiến từ năm 1996 tới tận ngày nay. Nhiều nhóm vũ trang tham gia nội chiến là những nhóm phiến quân được đào tạo bởi Che Guevara hồi những năm 60 vẫn hoạt động đến những năm 2005.

Zimbabwe là nước kiên trì nhất với XHCN, đất nước vẫn duy trì đường lối này đến năm 1999.

Châu Phi từng là châu lục có nhiều nước theo đường lối XHCN nhất thế giới, nhưng phần lớn các nước chỉ mang tính định hướng trong hiến pháp chứ không xây dựng XHCN toàn diện như các nước châu Âu và châu Á. Đa phần các nước châu Phi sau khi dành độc lập những năm 50, 60 đã duy trì quan hệ gần gũi với Liên Xô và các nước XHCN vì đã ủng hộ cuộc chiến dành độc lập của họ. Đến nay hầu hết các nước châu Phi đã từ bỏ XHCN. Chỉ còn Ai Cập, Lybia, Tanzania và Zimbabwe là giữ lại hiến pháp dựa trên XHCN, nhưng chính phủ Gadafi ở Lybia và Mubarak ở Ai Cập đã bị lật đổ trong “Mùa xuân Arap’ năm 2011.

Ảnh: Người dân Ethiopia ăn mừng bên cạnh bức tượng Lenin bị giật sập ở thủ đô Addis Ababa-bức tượng Lenin duy nhất ở châu Phi-sau khi chính phủ độc tài thân Liên Xô của Mengistu Haile Mariam bị lật đổ. Mengitsu phải trốn lưu vong sang Zimbabwe và bị tòa án ở Ethiopia kết án tử hình vắng mặt. Thủ tướng sau này của Ethiopia Addisu Legese đã nói: “Mengitsu là nỗi sỉ nhục với đức vua ( ý nói đến Haile Selassie I- anh hùng chống quân Ý xâm lược) và những người đã chiến đấu để bảo vệ đất nước này khi mang về đây bức tượng tên đồ tể của nhân loại. Hắn không bao giờ được tha thứ”.

Nguồn: Wikipedia/World History

Theo member Long Vũ

Image may contain: 11 people, people smiling, crowd and outdoor

CÓ MỘT CỤ GIÀ….

From facebơk:   Trần Bang shared Tin Mừng Cho Người Nghèo‘s post.
CÓ MỘT CỤ GIÀ….

#GNsP – Có một Cụ Già, mà khi gặp Cụ, các Đức Giám Mục đã cúi mình xuống và niềm nở chuyện trò.

Cụ già đó chính là Giáo sư Stêphanô NGUYỄN KHẮC DƯƠNG, nguyên trưởng Ban Triết học và Quyền Khoa trưởng Văn khoa của Đại học Đàlạt trước 1975; người đã góp công rất lớn trong việc đào tạo nên những nhà tri thức cho Giáo hội và xã hội. Có rất nhiều Tu sĩ, Linh mục và cả Giám Mục… đã là môn sinh của thầy. Tuy nhiên, “Gia tài” mà cụ để lại không phải chỉ là những kiến thức uyên bác, nhưng là một chứng nhân của đức tin, một tình yêu cao cả mà cụ dành cho Chúa và Hội Thánh.

Thầy Nguyễn Khắc Dương sinh ngày 24-9-1925, trong một gia đình Nho Giáo tri thức. Tuổi thơ thầy sống với cha mẹ tại làng Thịnh Xá, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh; trực thuộc Giáo họ Bình Hòa, Giáo xứ Đông Tràng, Giáo phận Vinh.

Thân phụ, cụ Hoàng Giáp Nguyễn Khắc Niêm, là một nhà nho nổi tiếng học giỏi, đức độ. Sau khi đỗ đạt, cụ được bổ dụng vào chức Tư nghiệp Quốc tử giám tại Huế. Cụ đã từng làm Tri phủ huyện Anh Sơn, Án sát tỉnh Nghệ An, Phủ doãn tỉnh Thừa Thiên, và về hưu năm 1943 với phẩm hàm Hiệp Biện Thượng thư. Cụ là một vị quan thanh bạch, trung chính, không lấy danh vị làm vinh, và nổi tiếng thanh liêm nên được dân chúng rất mến phục.

Thầy Nguyễn Khắc Dương là em ruột của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, một trong các lý thuyết gia hàng đầu về văn hóa của Cộng Sản Bắc Việt.
Sinh ra trong một gia đình Nho Giáo nên từ nhỏ, thầy Khắc Dương không mấy thiện cảm với Đạo Kitô giáo, thậm chí là khinh thường Kitô giáo. Tuy nhiên, nhờ được học trong trường Thiên Hựu ở Huế, thầy đã có cơ hội tìm hiểu về Đạo và lãnh nhận bí tích Rửa tội ngày 9 tháng giêng năm 1949, tại nhà thờ Nghĩa Yên.

Việc trở thành người Kitô hữu của thầy Khắc Dương, đã gặp sự chống đối rất lớn từ gia đình và dòng họ, nhất là mẹ của thầy. Bà mẹ chất vấn thầy rằng: “Ông bà tổ tiên của mày có tội gì, mà mày phải cúi đầu cho người ta rửa tội nguyên tổ? , Tội của mày là tội bất hiếu, tội này có cạo hết tóc trên đầu cũng không sạch được, vậy chỉ một chút nước trên đầu thì sao mà rửa sạch được chứ”.

Lý giải về việc “bỏ” gia đình để theo Đạo, thầy Khắc Dương có lần chia sẻ rằng: Nho Giáo là một tôn giáo dành cho người tri thức, sống thanh cao và sống “trên” người khác; không dành cho người bình dân. Phật Giáo thì quan niệm rằng Đời Là Bể Khổ, nên phải tránh Đời, tự bản thân tìm sự giải thoát cho riêng mình. Còn Kitô giáo thì ngược lại, Chúa Giêsu vốn là Con Thiên Chúa nhưng đã bước vào đời, sống như một người nghèo, chia sẻ thân phận làm người của con người, vui niềm vui của con người, đau nỗi đau của phận người và yêu con người một cách say đắm đến nỗi sẵn sàng chết vì yêu con người… Đây là một tôn giáo gần với con người, gắn liền với con người, là đạo của tình yêu

Một vài nét như thế, để ta hiểu hơn về con người của Cụ Già này, và để hiểu vì sao khi gặp Cụ, các Đức Giám Mục đã bước tới, cúi mình xuống và thăm hỏi chuyện trò.

Hoa Trên Ngàn
Ảnh: Vicente Nguyễn Thương

Image may contain: 2 people, people smiling, people standing
Image may contain: 1 person, standing
Image may contain: 1 person, text

CIA: Triều Tiên sắp đủ khả năng tấn công Mỹ

CIA: Triều Tiên sắp đủ khả năng tấn công Mỹ


Lãnh tụ Triều Tiên Kim Jong Un trong bản tin nói về vụ phóng thử phi đạn hôm 16/9/17
Lãnh tụ Triều Tiên Kim Jong Un trong bản tin nói về vụ phóng thử phi đạn hôm 16/9/17

Phát biểu trước cuộc hội thảo ở thủ đô Washington ngày 19/10, Giám đốc CIA, Mike Pompeo, nhấn mạnh ông ‘hết sức lo ngại’ về mối đe dọa tăng tiến từ Triều Tiên và khả năng mối đe dọa này có thể khơi mào một cuộc đua võ khí hạt nhân trên khắp Đông Á.

“Họ đã tiến qua xa trong việc này và giờ là lúc phải suy nghĩ cách làm sao chặn đứng bước cuối cùng,” ông Pompeo nói.

Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ, ông H.R. McMaster, cho biết Washington đang chạy đua để giải quyết tình hình.

“Chúng ta chưa cạn thời gian nhưng đang hết thời gian,” ông McMaster phát biểu tại cùng buổi hội thảo.

Bình luận của hai giới chức này được đưa ra giữa lúc căng thẳng Mỹ và Triều Tiên đang dâng cao sau cuộc thử nghiệm hạt nhân mới nhất của Bình Nhưỡng hồi tháng trước.

Dù cảnh báo rằng Triều Tiên chỉ vài tháng nữa thôi là có thể nhắm mục tiêu Mỹ, Giám đốc CIA cẩn trọng rằng đe dọa hạt nhân Triều Tiên ‘mạnh’ cỡ nào và liệu Bình Nhưỡng có thể chuyển nhiều đầu đạn hạt nhân tới các mục tiêu hạt nhân hay không vẫn còn là những câu hỏi chưa có lời đáp.

“Luôn có nguy cơ. Tình báo không phải lúc nào cũng hoàn hảo,” ông cho biết, đồng thời nói thêm rằng có bằng chứng cho thấy Bình Nhưỡng có thể nhận sự trợ giúp từ Iran.

Ông cũng cảnh báo mỗi một cuộc thử nghiệm của Triều Tiên đều làm tăng khả năng của một cuộc đua võ trang.

Cùng ngày, Tổng thống Nga Vladimir Putin khuyến cáo chớ dùng võ lực loại trừ đe dọa hạt nhân Triều Tiên vì sẽ không có hiệu quả.

Các giới chức Triều Tiên cũng đã nhiều lần cảnh cáo Mỹ chớ có hành động khiêu khích.

Đầu tuần này, phó đại sứ Triều Tiên tại Liên hiệp quốc, ông Kim In Ryong, cảnh báo chiến tranh có thể nổ ra bất cứ lúc nào.

Ngoài ra, Bình Nhưỡng cũng tố cáo Mỹ chuẩn bị chiến tranh, viện dẫn sự hiện diện của hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan và các cuộc tập trận ở phia đông bán đảo Triều Tiên.

Ai vi phạm Hiệp định Genève (20-7-1954)?

Ai vi phạm Hiệp định Genève (20-7-1954)?  

 Trần Gia Phụng (Danlambao) – …Trong khi chính phủ QGVN rồi VNCH tôn trọng hiệp định Genève, thi hành nghiêm túc tất cả những quy định trong hiệp định Genève, thì nhà nước VNDCCH đã có kế hoạch vi phạm hiệp định, ngay từ trước khi hiệp định được ký kết và cả sau khi hiệp định được ký kết. Đặc biệt VNDCCH vi phạm hiệp định có “biên nhận” do Trung Cộng cung cấp. Năm 1973, chuyện vi phạm hiệp định Paris lại tái diễn. Do đó, chẳng những “đừng tin những gì cộng sản nói” (lời tổng thống Nguyễn Văn Thiệu), mà còn đừng tin những gì cộng sản viết, và cũng đừng tin những gì cộng sản cam kết, dù cam kết trên giấy tờ như hiệp định Genève…
*
Gần đây, nhân chuyện phim The Vietnam War ra mắt, có nhiều người bàn luận sôi nổi. Có người còn đặt câu hỏi ai đã vi phạm hiệp định Genève để đưa đến chiến tranh?
Hiệp định Genève ngày 20-7-1954 chia hai Việt Nam ở vĩ tuyến 17. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) ở phía bắc, thường được gọi là Bắc Việt Nam (BVN). Quốc Gia Việt Nam (QGVN), đổi thành Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) ngày 26-10-1955, ở phía nam, thường được gọi là Nam Việt Nam (NVN).
1.- Hiệp định Genève không đề cập chuyện thống nhất đất nước
Danh xưng chính thức đầy đủ của hiệp định Genève về Việt Nam là Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, được viết bằng hai thứ tiếng Pháp và Việt, có giá trị như nhau. Ngoài Pháp và VNDCCH tức Việt Minh, các nước khác cùng ký vào hiệp định Genève còn có Anh, Liên Xô, Trung Cộng, Lào, Cambodia. Hai chính phủ QGVN và Hoa Kỳ không ký vào bản hiệp định nầy.
 
Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam gồm có 6 chương, 47 điều, chỉ là một hiệp định có tính cách thuần túy quân sự, hai bên ngưng chiến đấu, rút quân về vị trí chỉ định trong hiệp định, thời biểu rút quân… Hiệp định không đưa ra một giải pháp chính trị nào cho tương lai Việt Nam, nghĩa là hoàn toàn không đề cập đến chuyện tổng tuyển cử thống nhứt đất nước.
Gần một năm sau, thủ tướng QGVN Ngô Đình Diệm tuyên bố trên đài phát thanh Sài Gòn ngày 6-7-1955 rằng chính phủ QGVN không ký các văn kiện Genève nên không bị ràng buộc phải thi hành hiệp định nầy. Chính phủ QGVN không phản đối nguyên tắc tổng tuyển cử, nhưng không có bằng chứng cho thấy VNDCCH đặt quyền lợi quốc gia lên trên quyền lợi Quốc tế Cộng sản. (John S. Bowman, The Vietnam War, Day by Day, New York: The Maillard Press, 1989, tr. 17.) 
Ngày 19-7-1955, thủ tướng VNDCCH là Phạm Văn Đồng gởi thư cho thủ tướng Ngô Đình Diệm yêu cầu mở hội nghị hiệp thương bắt đầu từ ngày 20-7-1955, như đã quy định trong hiệp định Genève ngày 20-7-1954, để bàn về việc tổng tuyển cử nhằm thống nhứt đất nước. Ngày 10-8-1955, thủ tướng Ngô Đình Diệm bác bỏ đề nghị của Phạm Văn Đồng, và xác nhận lại chủ trương của chính phủ QGVN đã được đưa ra ngày 6-7-1955. Quốc Gia Việt Nam được đổi thành Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) ngày 26-10-1955.
Tuy chính phủ VNCH nhiều lần từ chối, thủ tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng vẫn nhắc lại đề nghị nầy hằng năm vào các ngày 11-5-1956, 18-7-1957, và 7-3-1958, nhằm chứng tỏ VNDCCH quan tâm đến chuyện thống nhứt đất nước, và tuyên truyền với các nước trên thế giới. Lần cuối, tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm, bác bỏ đề nghị của Phạm Văn Đồng vào ngày 26-4-1958.
Hiệp định Genève hoàn toàn không đề cập đến chuyện tổng tuyển cử thống nhất đất nước, nên luận điệu của VNDCCH cho rằng VNCH không hiệp thương để tổng tuyển cử, vi phạm hiệp định Genève, là luận điệu vu cáo trắng trợn. Luận điệu vu cáo nầy được cộng sản lập đi lập lại nhiều lần, cho đến ngày nay trong nước vẫn còn tồn tại luận điệu vu cáo nầy.
2.- Việc tổng tuyển cử được đề cập trong bản tuyên bố không chữ ký
Sau khi Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam cùng các hiệp định đình chỉ chiến sự ở Lào và Cambodia được ký kết, các phái đoàn tham dự hội nghị Genève họp tiếp vào ngày 21-7-1954, nhằm bàn thảo bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương”. 
Bản tuyên bố gồm 13 điều; quan trọng nhứt là điều 7, ghi rằng: “Hội nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ phải làm cho nhân dân Việt Nam được hưởng những sự tự do căn bản, bảo đảm bởi những tổ chức dân chủ thành lập sau tổng tuyển cử tự do và bỏ phiếu kín. Để cho việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ ý nguyện, cuộc Tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào tháng 7-1956 dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc tế gồm đại biểu những nước có chân trong Ban Giám sát và Kiểm soát Quốc tế đã nói trong Hiệp định đình chỉ chiến sự. Kể từ ngày 20-7-1955 những nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp gỡ để thương lượng về vấn đề đó.” (Thế Nguyên, Diễm Châu, Đoàn Tường, Đông Dương 1945-1973, Sài Gòn: Trình Bày, 1973, tr. 53. Bản Pháp văn: google.com.fr., chữ khóa: Déclaration finale de la Conférence de Genève en 1954.)
Chủ tịch phiên họp là Anthony Eden (ngoại trưởng Anh) hỏi từng phái đoàn, thì bảy phái đoàn là Anh, Pháp, Liên Xô, Trung Cộng, VNDCCH, Lào và Cambodia trả lời miệng rằng “đồng ý”. Tất cả đều trả lời miệng, không phái đoàn nào ký tên vào bản tuyên bố, nghĩa là bản tuyên bố không có chữ ký
Đây chỉ là lời tuyên bố (déclaration) của những phái đoàn, có tính cách dự kiến tương lai Việt Nam. Một văn kiện quốc tế không có chữ ký, thì không thể là một hiệp ước, vì không ai ký tên cam kết để thi hành những điều đã cùng nhau thỏa ước (nên mới gọi là hiệp ước). Bản tuyên bố không chữ ký chỉ có tính cách gợi ý, hướng dẫn mà thôi. Hơn nữa, những hiệp định với đầy đủ chữ ký mà còn bị CSVN vi phạm trắng trợn, huống gì là một bản tuyên bố không chữ ký? (Ở đây xin đưa ra một ví dụ đơn giản: hai người nam nữ tuyên bố kết hôn mà không ký kết hôn ước thì có hợp pháp hay không?)
Phái đoàn QGVN và phái đoàn Hoa Kỳ không ký vào Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam ngày 20-7-1954 và cũng không đồng ý bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương” ngày 21-7-1954. Hai phái đoàn QGVN và Hoa Kỳ đã đưa ra tuyên bố riêng của mỗi phái đoàn để minh định lập trường của mình. 
Chính phủ QGVN dưới quyền quốc trưởng Bảo Đại và thủ tướng Ngô Đình Diệm thi hành đúng đắn hiệp định Genève ngày 20-7-1954, tập trung và rút toàn bộ lực lượng QGVN về miền Nam vĩ tuyền 17 đúng thời hạn và đúng theo quy định của hiệp định Genève. Điều nầy chẳng những báo chí lúc bấy giờ đã trình bày, mà cho đến nay, không có tài liệu nào cho thấy là chính phủ QGVN đã vi phạm hiệp định Genève. 
Riêng bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève…” ngày 21-7-1954 không có chữ ký, không ai ký tên cam kết sẽ thi hành, chỉ có tính cách khuyến cáo mà thôi, nên không bắt buộc VNCH phải thi hành. Vì vậy, cũng không thể vu cáo Việt Nam Cộng Hòa và Tổng Thống Ngô Đình Diệm không thi hành hiệp định Genève, rồi động binh gây chiến.
3.- Ai vi phạm Hiệp định Genève?
Muốn biết ai vi phạm hiệp định Genève, xin trở lại thời gian hội nghị Genève. Hội nghị khai mạc ngày 8-5-1954, kéo dài cho đến ngày 21-7-1954, có thể chia thành hai giai đoạn: giai đoạn thứ nhứt từ ngày 8-5 đến ngày 20-6-1954; giai đoạn thứ hai từ ngày 10-7-1954 đến ngày 21-7-1954. 
Giữa hai giai đoạn là thời gian 20 ngày tạm nghỉ để các phái đoàn về nước tham khảo và nghỉ ngơi. Trong thời gian nầy, xảy ra ba sự kiện quan trọng: 1) Tại Pháp, Mendès France được cử làm thủ tướng ngày 17-6-1954. Ông hứa hẹn với dân chúng Pháp sẽ giải quyết vấn đề Đông Dương trong vòng bốn tuần lễ, và sẽ ký kết hiệp ước đình chiến chậm nhứt là ngày 20-7-1954, nghĩa là Pháp dứt khoát rời bỏ Việt Nam. 2) Tại Việt Nam, Ngô Đình Diệm được quốc trưởng Bảo Đại đề cử giữ chức thủ tướng QGVN. Ông Diệm nhận chức ngày 7-7-1954, thường được gọi là ngày “Song thất”. 3) Thủ tướng và là trưởng phái đoàn Trung Cộng tại hội nghị Genève, Châu Ân Lai về nước trong thời gian nghỉ họp, mời Hồ Chí Minh (HCM), chủ tịch VNDCCH, bí mật gặp nhau tại Liễu Châu thuộc tỉnh Quảng Tây (Trung Hoa), từ ngày 3 đến ngày 5-7-1954. Lúc đó, dư luận thế giới hoàn toàn không hay biết đến hội nghị quan trọng nầy. 
Hội nghị Liễu Châu giữa Châu Ân Lai và HCM diễn ra từ ngày 3 đến ngày 5-7-1954, tức trước khi hiệp định Genève được ký kết. Tháp tùng theo HCM có Võ Nguyên Giáp và Hoàng Văn Hoan. Vào họp, Châu Ân Lai báo cho phái đoàn Việt Minh biết có ba cách để đối phó với tình hình mới: 1) Thượng sách là hòa. 2) Trung sách là đánh rồi hòa. 3) Hạ sách là đánh tiếp.
Châu Ân Lai khuyên HCM và Việt Minh chấp nhận thượng sách là hòa để tránh mở rộng chiến tranh, vì nếu mở rộng chiến tranh, Hoa Kỳ có thể can thiệp. Theo Châu Ân Lai, Việt Minh nên giải quyết riêng chuyện Việt, Miên, Lào, đồng thời chia hai Việt Nam ở khoảng vĩ tuyến 16. Với kinh nghiệm Trung Cộng qua chiến tranh Triều Tiên, Châu Ân Lai khuyên HCM không nên đòi hỏi thái quá, khiến Pháp sẽ ở vào thế phải nhờ Hoa Kỳ can thiệp. Cũng theo Châu Ân Lai, trong trường hợp Hoa Kỳ can thiệp vào chiến tranh Việt Nam, với binh lực hùng hậu, Hoa Kỳ có thể lật ngược tình thế như trong chiến tranh Triều Tiên trước đây. Như vậy, theo Châu Ân Lai, Việt Minh sẽ đuổi được kẻ địch yếu (Pháp), nhưng lại rước kẻ địch mạnh (Hoa Kỳ). Hơn nữa, cũng theo Châu Ân Lai, Việt Minh nên giúp thủ tướng Mendès-France để ông ta không bị quốc hội Pháp lật đổ. Nếu Mendès France không thành công, chính phủ Mendès France sẽ bị lật đổ, thì có thể bất lợi cho phía cộng sản. (Tiền Giang, Châu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Châu Ân Lai và hội nghị Genève] Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, bản dịch của Dương Danh Dy, tựa đề là Vai trò của Châu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27 “Hội nghị Liễu Châu then chốt”. Nguồn: Internet).
Châu Ân Lai còn bàn thêm rằng sau khi chia hai Việt Nam, Việt Minh rút quân về phía Bắc Việt Nam (BVN), nhưng không có nghĩa là Việt Minh rút hết võ khí, mà võ khí nào cất giấu được, thì phân tán mà cất giấu để tránh bị phát hiện. Hồ Chí Minh và phái đoàn Việt Minh chấp nhận thi hành kế hoạch của Châu Ân Lai.
Tại hội nghị nầy, Võ Nguyên Giáp đưa ra kế hoạch là sẽ chỉ rút những người làm công tác chính trị bị lộ diện; phần còn lại thì ở lại để chờ đợi thời cơ nổi dậy. Số ở lại có thể đến 10,000 người. Việt Minh cộng sản chẳng những chôn giấu võ khí, lưu 10,000 cán bộ, đảng viên ở lại Nam Việt Nam (NVN), mà còn gài những cán bộ lãnh đạo cao cấp ở lại NVN như Lê Duẩn, Võ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ, Cao Đăng Chiếm… (Huy Đức, Bên thắng cuộc, tập I: Giải phóng, New York: Osinbook, 2012, tt. 271-273).
Sau hội nghị Liễu Châu, trong báo cáo của HCM tại hội nghị Ban chấp hành Trung ương đảng Lao Động ngày 15-7-1954, HCM chỉ nhắc sơ là có gặp và trao đổi với thủ tướng Châu Ân Lai. Việt Minh không công khai loan báo kế hoạch của Châu Ân Lai cũng như kế hoạch mai phục cán bộ ở lại miền Nam của Võ Nguyên Giáp để chờ đợi thời cơ nổi dậy. Lý do đơn giản là nếu công khai, thì sẽ bị lộ ra âm mưu vi phạm hiệp định Genève. Về sau, khi ấn hành lại bản báo cáo nầy trong Hồ Chí Minh toàn tập tập 7, Nxb Chính Trị Quốc Gia, thì ban biên tập chỉ chú thích sơ lược cuộc gặp gỡ ở cuối trang 315.
Về phía Châu Ân Lai, sau khi hội nghị Genève kết thúc ngày 21-7-1954, thì Trung Cộng mới đăng lên Nhân Dân Nhật Báo ở Bắc Kinh ngày 8-8-1954 bản “Tuyên bố về cuộc hội đàm Trung-Việt của chính phủ Trung Quốc”, được dịch nguyên văn như sau:
“Thủ tướng nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa Châu Ân Lai và chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Hồ Chí Minh đã cử hành hội đàm tại biên giới Trung-Việt từ ngày 3 đến ngày 5 tháng 7 năm 1954. Thủ tướng Châu Ân Lai và chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao đổi ý kiến đầy đủ về vấn đề khôi phục hòa bình tại Đông Dương và các vấn đề có liên quan khác. Tham gia hội nghị còn có: Hoàng Văn Hoan, đại sứ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tại Trung Quốc và Kiều Quán Hoa, cố vấn đoàn đại biểu nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa tại hội nghị Genève.” (Tiền Giang, sđd., bản dịch đã dẫn, chương: “Hội nghị Liễu Châu then chốt”. Nguồn: Internet) Bản tuyên bố nầy cũng chỉ xác nhận có cuộc hội họp giữa Châu Ân Lai và HCM mà không đề cập đến nội dung chi tiết, như việc chôn giấu võ khí, hay cài cán bộ ở lại NVN.
Kết luận
Như thế, rõ ràng trong khi chính phủ QGVN rồi VNCH tôn trọng hiệp định Genève, thi hành nghiêm túc tất cả những quy định trong hiệp định Genève, thì nhà nước VNDCCH đã có kế hoạch vi phạm hiệp định, ngay từ trước khi hiệp định được ký kết và cả sau khi hiệp định được ký kết. Đặc biệt VNDCCH vi phạm hiệp định có “biên nhận” do Trung Cộng cung cấp. 
Năm 1973, chuyện vi phạm hiệp định Paris lại tái diễn. Do đó, chẳng những “đừng tin những gì cộng sản nói” (lời tổng thống Nguyễn Văn Thiệu), mà còn đừng tin những gì cộng sản viết, và cũng đừng tin những gì cộng sản cam kết, dù cam kết trên giấy tờ như hiệp định Genève.
20.10.2017

Ta xót thương, ta căm giận hung cuồng,

 Suy Tư Tin Mừng tuần 29 thường niên năm A 22/10/2017

 Tin Mừng  Mt 22: 15-21

Bấy giờ những người Pharisêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy.

Họ sai các môn đệ của họ cùng đi với những người phe Hê-rô-đê, đến nói với Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta. Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?”

Nhưng Đức Giêsu biết họ có ác ý, nên Người nói: “Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình! Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế!” Họ liền đưa cho Người một quan tiền. Người hỏi họ: “Hình và danh hiệu này là của ai đây?” Họ đáp: “Của Xêda.” Bấy giờ, Người bảo họ: “Thế thì của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.”

 “Ta xót thương, ta căm giận hung cuồng,”

“Ta gầm thét, rung mấy trời thế sự.”

(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Mai Tá lược dịch.

Hung cuồng giận căm, là cung cách của người thường, rất ở đời. Rung trời thế sự, cả khi con người dám vấn nạn Đấng Nhân Hiền về việc đóng thuế cho Xê-Da, như được diễn tả ở trình thuật.

Trình thuật, nay thánh Mát-thêu diễn tả về tình thế trong đó những người “hung cuồng” dám gài Chúa vào bẫy cạm của thế sự bằng vấn nạn:“Nên chăng trả thuế cho Xê-da?” Thế sự hôm ấy, đám Pharisêu ngạo mạn và nhóm giáo gian nịnh hót vua quan Hêrôđê ở Do thái, những muốn đặt Ngài vào tình huống nóng bỏng về phục vụ ngoại bang. Họ cứ nghĩ: Ngài có trả lời thế nào đi nữa cũng sẽ làm mất lòng dân. Nếu Ngài nói khác, cũng vẫn rơi vào tròng. Nói cho cùng, họ muốn đặt Ngài vào tình trạng phải đối đầu với phe thân thực dân, để rồi chịu mọi hậu quả. Thế nên, thánh Mátthêu gọi họ là “giả hình”. Nhưng kỳ thực, phải gọi họ là “đám sùng đạo gian giảo”, mới đúng.

Ngược giòng lịch sử, ta thấy đất nước Palestine của người Do thái lúc bấy giờ nằm dưới quyền kiểm soát của La Mã. Tức, những người chuyên bổ thuế nặng nề lên đầu đám dân đen hèn mọn rất thấp cổ bé họng. Vượt biên giới cũng đóng thuế. Mua bán/đổi chác bất cứ thứ gì, cũng chịu thuế. Thậm chí dân con người người còn phải đóng cả thuế đinh, tính trên đầu người nữa.

Thực tế khi ấy, Xê-Da là Tibêrius, con trai của Thượng tế Augustus được dân coi như ông Trời con, rất đáng gờm. Cả Augustus lẫn Tibêrius, vẫn coi mình thuộc giới thần linh, cần được kính nể. Các ông còn tự ban cho mình tước vị cao vời vợi như: lãnh chúa, đấng cứu độ chuộc tội cả thế gian. Và, cho mình có trọng trách quản cai cả thiên hạ. Nên, việc trước tiên của họ là phải chiến thắng về binh bị, và an bình là đoạn kết rất dĩ nhiên. Rốt cục, người thua cuộc phải chịu mất đi sự an bình, đành phủ phục dưới đất mà ngợi khen kẻ chiến thắng.

Trong giao dịch hằng ngày, người Do thái vẫn sử dụng nhiều tiền kẽm của La Mã. Thế nhưng, khi sử dụng đồng tiền ấy để trả thuế, họ lại coi đây như công việc về tôn giáo – như sùng bái hoàng đế và coi đó là lối sống theo kiểu La Mã. Có thể nói, đóng thuế là một trong các vấn đề đưa đến cuộc nổi dậy kết thúc bằng việc thành Giêrusalem bị phá huỷ năm 70. Thành thử, với người Do thái, đóng thuế là việc tựa hồ như thờ bái ngẫu thần vậy.

Trong cuộc đời công khai của Ngài, Đức Giêsu tỏ cho mọi người thấy lối sống khác kiểu của La Mã. Và, đây là lối sống tỏ bày sự chống đối đám thực dân này. Với Ngài, cuộc sống phải đặt nền tảng trên công bình chính trực với hết mọi người. Công bình và chính trực, khiến Cha Ngài và là Chúa của người Do thái luôn tôn trọng con người. Thiên Chúa là Đấng thiết lập giao ước với con người, bởi thế nên giữa họ sẽ không còn người nghèo, hoặc kẻ hèn nào hết.

Khi Đức Giêsu nói Nước của Thiên Chúa đã đến, thì người La Mã hiểu ngay điều Ngài muốn nói. Ngài nói thế, tức: vương quyền của Xê-Da đã đến hồi kết cuộc. Người La Mã nghe vậy đều coi đó như một bội phản rất trời long đất lở. Và, họ giết Ngài là vì thế. Nhưng Đức Giêsu tin là Thiên Chúa vẫn ở với người thua cuộc. Và Chúa đã bắt tay vào việc giùm giúp hỗ trợ kẻ đau khổ về sự bất công do người La Mã và các kẻ nịnh bợ họ đem lại. Thiên Chúa dọn sạch thế giới. Ngài làm bật gốc mọi bạo động và nhờ đó, đem lại cho con dân Ngài cuộc sống an bình, dễ chịu. Ngài có chương trình khác hẳn vua quan La Mã. Không nhất thiết phải chiến thắng về binh bị, mới có thể tạo được an bình. Nhưng, trước tiên phải tạo công bằng trước đã và từ đó an bình sẽ đến sau.

Về việc đóng thuế cho vua quan La Mã, đó không là trọng trách của dân con người Do thái. Mà là, vấn đề tôn giáo cũng như công bằng chính trực rất đậm sâu. Đức Giêsu đi thẳng vào trục vấn đề, bằng cách đòi xem hình vẽ trên đồng tiền quan. Tiền này, ai cũng có sẵn ở trong người, còn Ngài thì không. Bởi thế, Ngài mới hỏi họ là: hình của ai khắc trên đó, họ mới nói: quan tiền nào cũng mang hình tượng của Xê-Da. Và, Ngài bảo: “Vậy, các ông hãy đem trả cho Xê-Da, vì chính ông ta sở hữu nó”. Câu trả lời của Ngài mang ý nghĩa của động thái bước ra khỏi cung cách phụng thờ phục vụ để chỉ chấp nhận lý lẽ của thuế má, mà thôi.

Và Ngài tiếp: “Hãy trả lại cho Chúa, những gì thuộc về Ngài.” Điều này xác nhận một chân lý lâu nay vẫn sáng tỏ với mọi người, đó là: hình ảnh Thiên Chúa đã được ghi khắc nơi tâm khảm của mọi người, ngay khi họ được Giavê Thiên Chúa tạo dựng. Nhưng hôm ấy, thật sự Chúa không có ý ám chỉ về việc ấy mà Ngài chỉ muốn nói: Thiên Chúa, theo luật Torah, đã ngăn cấm loài người tạc hình tạc tượng của chính Ngài. Điều này cũng rất đúng, nhưng không phải Chúa muốn biểu tỏ vào hôm đó.

Ý nghĩa của câu Chúa nói không nằm trong bản Kinh thánh 70, tức: Chúa chỉ muốn bảo: thuộc về Ngài, là đám người nghèo hèn, những kẻ bị nhóm quan quyền thân La Mã chèn ép, hạ bệ. Hãy cho họ một cơ hội để có thể tự vươn lên. Hãy trả lại cho họ sự cộng chính, bình an, vốn là quyền của họ, trước mặt Thiên Chúa, cho dù họ có bị chính người La Mã và đám giáo gian nịnh hót luôn thử thách, coi thường. Với Đức Giêsu, đây mới là tôn giáo đích thực. Ngài vẫn nói lên sự thật ấy dù có bị người La Mã bắt giam và xử tệ trên khổ giá.

Đọc trình thuật hôm nay không phải để kể cho nhau nghe về đế quốc La Mã dù hào hùng. Bởi, đế quốc nào mà chẳng chèn ép bắt bớ dân con nghèo hèn, ở bên dưới. Thật buồn thay, khi ta thấy “các nền văn minh hôm nay vẫn tự cho mình là sáng giá” đều quay về với thể chế rất chèn ép, thống trị hệt một phường như lịch sử thường minh chứng.

Tác giả Dominic Crossan dùng cụm từ “về với cảnh tượng rất thường ngày” để tả về trạng thái của người Do thái. Thánh Phaolô lại nghĩ về nền văn minh “tai tiếng” thời đế chế Augustus và bạo chúa Nêrô sẽ cứ thế tràn về, nếu không ai cản ngăn bước chân bạo tàn của đám người ấy. Hôm nay đây, đế quốc phương Tây cũng sắp hàng dài chạy theo cùng một kiểu cách như thế. Đế quốc phương Tây xưa nay gồm từ Hy Lạp, cho chí La Mã, Anh quốc ở thế kỷ 18, 19 và Hoa Kỳ ở thế kỷ thứ 20, và tương lai có thể sẽ là Vaticăng của chúng ta cũng chưa biết chừng, nếu ta không đề cao cảnh giác!

Hệ thống đế chế luôn hứa hẹn hoà bình đến với con dân (như thể loại Pax Romana khi xưa) bằng chiến thắng rất binh bị. Nghĩa là, cũng khởi đầu bằng khổ ải, rồi lại chiến tranh tàn phá, kết cục bằng những động thái dương oai đắc thắng, tức: những động thái rất chễm chệ, ăn trên ngồi chốc của kẻ đắc thắng đi từ hệ cấp dũng mãnh uy lực, thứ hoà bình của kẻ chiến thắng có sự hỗ trợ của Aenaeas Mars Ultor, rồi cả Nữ thần Rôma và thần Sung Mãn, cứ thế mà sinh sản. Qui luật họ đưa ra, được viết trên đá cẩm thạch. Văn minh họ khởi xướng gồm cả chế độ cha chú, chủ trương duy trì nô lệ. Lối sống của họ tuy mang dáng dấp rất tôn giáo, có toà án lẫn bàn thờ, nhưng vẫn cứ tôn sùng con người là hoàng đế lẫn vua quan, lãnh chúa.

Chủ trương đế chế, nay được sử dụng như cụm từ để diễn tả một thế giới vẫn kéo dài sự thống trị mãi cho đến thế kỷ 20. Hôm nay, tệ hại hơn lại có chủ nghĩa toàn trị và khủng bố. Và, có thay đổi chăng, thì cũng chỉ thay và đổi cung cách cũng như kỹ năng sử dụng bạo lực bằng kỹ thuật thật tinh xảo hơn thôi. Với khí giới giết người hàng loạt mà chưa một đế quốc nào xưa nay từng nghĩ tới.

An nhàn và bình yên đã trở thành ngôn từ khó hiểu, rất nhiều nghĩa. Đối với ta, đôi khi còn trở nên trống rỗng. Dominic Crossan gọi đó là: ”Hoà bình trở nên thứ hàng trang trí ta treo lủng lẳng ở trên cây thế giới vào mỗi năm. Ta sẽ chỉ mang nó đi, theo cung cách của lịch sử mà thôi.”

Đức Giêsu khẳng định: “Bình an đến với anh em”. Bình an, Ta gửi đến với anh em là sự an bình Chúa hứa ban. Nhưng, Ta chỉ ban bình an ấy hoặc để lại bình an ấy cho mọi người, trừ phi anh em thực thi công bình của Chúa, đối với nhau. Đặc biệt hơn, là những người lâu nay bị chèn ép, bị khống chế tồi tệ, không ngóc đầu lên nổi vì thể chế thống trị đầy áp bức của cái-gọi-là văn minh, tân tiến ở mọi thời. May thay, Đức Giêsu kịp giải thoát ta khỏi chốn bi ai, trầm thống rất bất công. Để, ta về với nhau sống hài hoà, bình an, thương mến.

Trong nhận thức về sự giải thoát của Đức Chúa, ta lại ngâm lên lời thơ tuy rất khổ:

“Trông thấy ra, cả cõi đời kinh hãi.

Giòng sông con nép cạnh núi biên thuỳ.

Đường châu thành quằn quại dưới chân đi,

Xao động hết loài cỏ hoa đồng nội.”

(Đinh Hùng – Bài Ca Man Rợ)

Nay hết rồi, một bài ca man rợ ấy. Dù, đã kéo dài nhiều thế kỷ. Bởi, Đức Chúa Nhân Hiền kịp kéo ta về với hoà bình và công chính, Ngài hứa ban. Nhận ra thế, ta sẽ dâng lời cảm kích biết ơn hoài. Sẽ thương hoài ngàn năm, nay là thế.

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn – 

Mai Tá lược dịch.

Mắt môi đây, xin em đừng chờ.

 HÃY YÊU NHƯ CHƯA YÊU LẦN NÀO – Ngọc Lan

httpv://www.youtube.com/watch?v=gQ6mbjtgU2w

Chuyện Phiếm đọc trong tuần 29 thường niên năm A 22/10/2017

“Mắt môi đây, xin em đừng chờ”.

Chiếc hôn kia mong em từng giờ
Ngón tay kia xin chớ hững hờ.

Dắt nhau đi về trong đợi chờ.”

(Lê Hựu Hà – Hãy Yêu Như Yêu Lần Đầu)

(Mt 19: 10-12)

 Trần Ngọc Mười Hai

Đang yêu nhau, mà sao anh lại cứ ới gọi và nhắn nhủ những câu như: “xin Em đừng buồn!” “Cho em quên đi ngày dài”, “Với bao đêm suy tư miệt mài” và rồi cứ thế, và cứ thế, anh cứ khuyên và vẫn răn, bằng câu hát rất thêm thắt như sau:

“Hỡi em yêu, xin em đừng buồn.”

Có đôi khi anh hay giận hờn. “
Để cho em quên đi ngày dài.

Với bao đêm suy tư mệt mài

Biết bao ngày đã qua.

Biết bao chiều xót xa.
Ngồi đếm những giọt nắng.

Rơi rụng dưới mái hiên nhà.
Người sao chưa đến với ta.

Tình sao chưa thấy ghé qua.
Dù con tim vẫn thiết tha.

Mộng sưa cũng vơi theo tháng ngày.

Hãy cho nhau môi hôn nồng nàn.

Ngỡ mai sau duyên ta muôn màn.
Sẽ không ai cho ta vội vàng.

Mới yêu đây nay sao phủ phàng.
Hãy yêu nhau như chưa yêu lần nào.

Hãy cho nhau yêu thương ngọt ngào.
Hãy đưa nhau về nơi cuối trời.

Dắt nhau đi cùng nhau trọn đời.”

(Lê Hựu Hà – bđd)

Vâng. Quả có thế. Suy tư miệt mài, suốt ngày dài, dù “biết bao ngày đã qua” và những “chiều xót xa” ngồi đếm “những giọt nắng” “rơi rụng dưới mái hiên nhà”, vân vân và vân vân.

Vâng. Đúng như vậy. “Hãy (cứ) yêu nhau như chưa yêu lần nào”. “Hãy (cố) đưa nhau về nơi cuối trời” và rồi “Dắt (dìu) nhau đi cùng nhau (cho) trọn đời”. Ôi chao. Là ý-tứ của thi-ca với âm-nhạc. Ối chà, là ý-tưởng của người đời, với tình yêu.

Tình yêu trong đời, luôn có những mặt sáng chói, chiếu dọi lòng người ở khắp nơi. Dù, con người có ra chai đá đến thế nào đi nữa cũng vẫn còn yêu và cứ yêu. Yêu cho đến chết dù chỉ được sống với nhau, bên nhau theo cách nào đi nữa. Dù, đó có là sống “vầy vậy” hay sống theo cặp có hôn nhân/hôn-thú chính-thức hay không.

Tình yêu đôi lứa, có “vầy vậy” hoặc vẫn sống theo cặp chính-thức như hôn-nhân/hôn-phối hay không, lại vẫn trở-thành vấn-đề thời-thượng, rất hôm nay.

Vấn-đề thời-thượng của người hôm nay, lại đã kích-bốc/nổi lên như diều trên nhiều trang giấy, khiến bạn và tôi không thể không nghĩ đến và không thể không bàn cho ra nhẽ. Vấn-đề, vẫn là những vấn và đáp cho thật nhiều để rồi trở-thành đề-tài bàn thảo suốt nhiều kỳ như ở thị-trường chữ nghĩa của Úc, mấy hôm rày.

Thị-trường Úc, hôm nay, có tác-giả tên là Xavier Symons từng đặt tiêu-đề nổi cộm lại hỏi rằng: “Sao ta lại cứ bất đồng ý kiến về hôn nhân đồng-tính đến là thế?” Và, ông đã viết gần 5 trang giấy đặt vấn-đề đại để những bảo rằng:

“Tranh-luận về hôn-nhân đồng-tính lâu nay khiến người Úc nổi quạu hơn một thập-niên. Thế nhưng, lời lẽ trong tranh-luận chưa bao giờ huyên-náo như hôm này. Cả phía đối-lập cùng giới ủng-hộ cho hôn-nhân đồng-tính đều nhất-trí với nhau ít nhất điều này: quyết-định là do người trả lời cho cuộc trưng-cầu-dân-ý đều bao-hàm chuyện căn-bản cho xã-hội và văn-hoá Úc.

 Người bầu phiếu nói tiếng “Không”, tức: không ủng-hộ hôn-nhân đồng-tính lại đã biện luận rằng: quyền-tự do căn-bản về tôn-giáo sẽ bị đe-doạ trầm-trọng nếu như định-nghĩa hôn-nhân bị thay-thế. Và những người trả lời tiếng “Có”, tức nhất-trí ủng-hộ cho hôn-nhân đồng-tính lại thấy đây là sự sống còn tồn-tại trong việc loại bỏ thành-kiến xã-hội và hành-vi thù-địch với thành-viên cộng-đồng cùng một giới-tính…” (X. Xavier Symons, “Why can’t we agree on same-sex marriage?”Deep currents within our culture keep the opposing sides from communicating with each other, MercatorNet.com 25/9/2017)

Bầu phiếu “Không” hay “Có” cho lắm, người bầu cũng bị rơi vào tình-huống rối bời vì chính mình không nắm được thực-tế của đời người đang diễn-tiến. Diễn-tiến cách xuôi chảy hay khập-khiễng, vẫn là tình-trạng cố-hữu thường xảy ra khi xã-hội người đời đang bị kích-bốc đến khó xử.

Và hôm nay, chuyện khó xử còn thấy thể-hiện ở nhiều địa-hạt và cuộc đời con người. Rõ nhất là, các địa-hạt có liên-quan đến chuyện Đạo, việc đời thời hôm nay. Chính vì thế, mà hôm nay lại thấy có độc-giả gửi thắc mắc đến đấng bậc chuyên giải-đáp trên tuần báo The Catholic Weekly ở Sydney như sau:

“Thưa Cha

Nay thì cuộc trưng-cầu dân-ý về vấn đề hôn-nhân đồng-tính đổ lên đầu mọi người, đà thấy rõ. Có thể nào xin cha tóm tắt các biện-luận có lợi cho hôn-nhân theo truyền-thống cũ, để rồi con đây hiểu rõ được đôi chút?”

 Hỏi như thế, thì có đấng bậc nào lại không trả lời/trả vốn cho ra lẽ. Cái lý lẽ mà phần đông người thời nay lại cứ để quên ơ đâu đó, xa con tim. Hỏi như thế, chắc chắn là đấng bậc sẽ lấy giấy bút ra mà trả lời, ngay lập tức, rất như sau:

“Cuộc Trưng Cầu Dân Ý vừa qua, là để người dân Úc có cơ-hội noi lên tiêng nói của mình về vấn-đề quan-trọng mà bất cứ xã-hội nào cũng phải đối đấu. Đó là: bẩn-chất rất thực của hôn-nhân. Và, cùng với vấn-đề này, là gia đình. Hôn-nhân và gia-đình, là khúc xương trụ cột của xã hội. Gia-đình tiến đến đâu, thì rồi xã-hội cũng tiến đến đó.

 Nếu gia-đình vũng-mạnh và bậc mẹ cha đoàn-kết với nhau, thì con cái sẽ tang-trưởng mà học cách thương-yêu và được yêu-thương. Con cái học-hỏi về các đặc-trưng của xã-hội như: sống tử tế, ăn ở rộng lượng, biết thứ tha và sống thật-thà rồi đem các đặc-trưng/đặc-thù của đời sống mình học hỏi vào với cộng-đồng rộng lớn hơn.

 Xã-hội sẽ nên lành-mạnh, nếu gia-đình ăn ở đàng hoàng. Nhưng, nếu gia-đình lục-đục thì toàn xã-hội cũng sẽ khổ-đau. Bởi thế nên, cuộc Trưng Cầu Dân Ý vừa rồi có tầm quan-trọng, thật thiết-yếu.

 Vậy, đâu là vấn-đề chủ-chốt trong tình-hình hôm nay? Có tất cả 6 điềm ta cần phải xem xét kỹ.

 Thứ nhất, và cũng là sự việc quan-trọng nhất, đó là khẳng định: chúng ta không hề chống-đối lại gần gũi, rất chung đụngchuyện những người đồng-tính luyến-ái quyến rũ nhau mà sống gần gũi, chung đụng. Họ là những con người giống bất cứ ai khác. Họ đều được cứu-rỗi nhờ Đức Giêsu Kitô đã chịu chết để cứu chuộc họ. Và, thiên-đường vẫn chừa chỗ chờ đợi họ gia-nhập cùng với mọi người, miễn là họ sống/chết tốt lành, hạnh đạo. Ta luôn có bổn-phận phải yêu-thương và tôn-trọng hết mọi người trong họ. Những người như thế, có thể là bậc con cháu, an hem chị em ruột thịt với ta hoặc bạn bè/người thân, hoặc như đồng-hương/đồng-nghiệp, vẫn rất gần.

 Thứ hai là, hôn-nhân, tự bản-chất, luôn là sự phối-kết giữa nam-nhân và nữ-giới đưa con cháu đi vào hiện-diện với thế-giới. Ta không thể đổi thay chuyện này, được. Đó, chio1nh là sự việc vẫn xảy đến như thế và đó cũng là lý-do khiến mọi quốc-gia trên thế-giới đều có luật-lệ để bảo-vệ hôn-nhân. Còn, việc phối-kết giữa hai người đồng phái-tính, tự nó, lại không thể tạo nên con trẻ được.

 Nói đơn-giản, thì: đây không phải là hôn-nhân. Nên, không không thể có “hôn-nhân đồng-quyền” giữa hai người nam hoặc hai người nữ cùng phái-tính. Một đằng thực-sự là hôn-nhân, còn đằng kia thì không phải.

 Thư ba là, đi đầu phiếu nói tiếng “Không” với hôn-nhân đồng-tính, không là hành-động kỳ-thị chống lại người đồng phái-tính quyến rũ ăn ở với nhau, chút nào hết. Cũng hệt như bậc cha mẹ không thể lấy con cái của mình làm vợ làm chồng mình được. Cũng hệt thế, anh em, chị em cũng không thể lấy nhau làm vợ làm chồng, thì rõ ràng là: hai người cùng phái-tính cũng không thể làm đám cưới ăn ở với nhau thành cặp phối ngẫu đồng phái-tính được.

 Hai người đồng phái-tính có thể yêu thương nhau, nhưng mối tương-quan yêu-thương ấy không có nghĩa-là hôn-nhân thực-thụ bao giờ hết. Nói như thế, không có nghĩa là ta kỳ-thị họ; nhưng đúng hơn, ta chấp-nhận một thực-tại vẫn đặt nền-tảng nơi bản-chất con người.

 Thứ tư là, nỗi-niềm phúc-hạnh của con cái sẽ gặp hiểm nguy. Có rất nhiều công-trình nghiên-cứu/khảo-sát cho thấy: trên hết mọi sự, con trẻ được nuôi theo cùng phái-tính, trên thực-tế lại đạt kết-quả tồi-tệ về mọi mặt, nếu ta so sánh với các trẻ bé do chính cha mẹ chúng nuôi nấng giáo-dục . Nói cho cùng, thì nếu ta đem con cái ra khỏi môi-trường gia-đình không để cho bậc mẹ cha của chúng nuôi nấng, thì trẻ bé sẽ bị thiệt-thòi vô kể, dù trẻ bé ấy được thương-yêu/chiều-chuộng cách nào đi nữa, cũng thế.

 Tình thật mà nói, nhiều con em của các cặp vợ chồng khác phái-tính, cuối cùng đi đến tình-trạng chỉ một trong hai người hoặc bố hoặc mẹ nuôi-dưỡng khi một trong hai vị này quá vang, hoặc chia tay/ly-dị, thì con cái sẽ đi đến kết-quả là chúng phải chịu đau khổ như thế nào. Và, ta cũng không thể tạo sự-kiện này thành chẩn-mực chung cho mọi người được.

 Thêm vào đó, mức-độ bền-bỉ nói chung của các mối tương-quan giữa hai người đồng phái-tính thường kéo dài chỉ trong vòn hai hoặc ba năm là cùng. Vậy thì, đâu là điểm tốt lành cho con cái họ đây?

 Thứ năm là, các giá-trị khác cũng sẽ phải chịu cảnh hy-sinh, bị loại bỏ nếu như chính-quyền hợp-thức-hoá hôn-nhân đồng-tính. Mới đây, ta đều thấy điều ấy trên truyền-hình của Úc vào ngày Nhớ Ơn Cha tháng 9/2017 trên màn hình nhỏ có người cha hát bài “Con chuột túi”cho con nhỏ mình nghe, nhưng ông phải ngưng nửa chừng vì bị coi là bài hát nghiêng về chính-trị quá nhiều.

 Nay hỏi rằng, ta đang đi về đâu đây? Chừng nào thì mọi người sẽ không còn mừng lễ Nơ Ơn Cha, hoặc Ngày Mẹ Hiền, nữa đấy? Và trong tường-lai mai ngày, khi bé em lọt lòng mẹ chào đời, sẽ không còn ai ghi tên cha hoặc tên mẹ của bé lên giấy khai-sinh nữa. Nhưng, thay vào đó, chỉ mỗi ghi: Cha hoặc mẹ số 1, mẹ hoặc cha số 2 như nhiều nước trên thế-giới đang làm thế.

 Các hiện-tượng như thế, đều gây tổn-hại cho hai bê, cả người cha lẫn mẹ hiền của mình, nếu ta đi đến gia-đoạn hợp-thức-hoá hôn-nhân đồng phái-tính. Đó là chưa kể đến Chương-trình “An Toàn Trường Lớp” nhằm nhắc cho con trẻ biết rằng: hôn-nhân đồng phái-tính là chuyện tốt lành, rất bình thường (?)

 Điều thứ sáu , như ta thường thấy xảy ra ở một số quốc-gia trên thế-giới và cả ở Úc này cũng thế, người lại nói đến tự-do tôn-giáo, tự-do ngôn-luận để bênh-vực cho hôn-nhân theo truyền-thống và chuyện con người có quyền dựa vào lương-tâm mà từ-chối hợp-tác tham-dự đám cưới giữa hai người đồng phái-tính đặt thành vấn-đề ; và có khi còn bị phạt vạ nữa. Toàn thế-giới rất mới rất quả cảm, đang ở đâu đó quanh chúng ta.

 Thành thử, cuộc Trưng Cầu Dân Ý vào tháng 9/2017 ở Úc quả là sự-kiện quan-trọng cho tương-lai của nước này, thật cần-thiết. Điều nguy-hiểm, là: sự sống tốt lành trong xã-hội đang lvấn-đề. Ta không được phép đổi thay luật-lệ chỉ vì lợi-ích của một nhóm người rất ít ỏi.

 Tại Canađa chẳng hạn, sau 10 năm họ hợp-thức-hoá luật hôn-nhân đồng phái-tính, thì chỉ có mỗi 24% cặp phối-ngẫu chịu đăng ký như thế mà thôi. Và, hậu-quả xảy đến với nh6n-nhân, gia-đình, con cái và xã-hội nay quá lớn. Đi bầu phiếu để nói được tiếng “Không!” với hôn-nhân đồng phái-tính, tức là: ta đã bầu “Có!” cho gia-đình và xã-hội, vậy.” (X. Lm John Flader, Same Sex Marriage’s collateral damage goes in all directions, The Catholic Weekly, Question Time 24/9/2017, tr. 25)

Nghĩ gì thì nghĩ, Bầu gì thí bầu. Lập-trường nói “Có!” hoặc “Không!” với người mình thương yêu, sẽ mãi mãi trở thành đề-tài để ta suy nghĩ.

Bởi thế nên, nay đề-nghị bạn, đề-nghị tôi, ta hãy về lại vườn thượng uyển có Lời Vàng thánh-nhân khi xưa từng khuyên-nhủ, rằng:

“Nếu làm chồng mà phải như thế đối với vợ,

thì thà đừng lấy vợ còn hơn.”

Nhưng Ngài nói với các ông:

“Không phải ai cũng hiểu được câu nói ấy,

nhưng chỉ những ai được Thiên Chúa cho hiểu mới hiểu.

Quả vậy, có những người không kết hôn

vì từ khi lọt lòng mẹ,

họ đã không có khả năng;

có những người không thể kết hôn vì bị người ta hoạn;

lại có những người tự ý không kết hôn

vì Nước Trời.”

(Mt 19: 10-12)

Bởi thế nên, nhiều người những tưởng rằng: đấng bậc nhà Đạo của ta trả lời như trên chỉ để cho xong chuyện. Nhưng, đấng bậc rất đạo nhà mình, là đấng bậc chọn đời độc-thân, nên đôi lúc thấy hơi khó. Khó, nhiều thứ chứ không chỉ mỗi chuyện hôn-nhân, hôn-phối hoặc hôn-lễ cứ lễ mễ như nguyên-tắc của nhà Đạo.

Thôi thì, đời người cũng xảy ra lắm thứ chuyện không ưng ý về nhiều mặt. Chí ít là mặt đạo-đức khiến nhà Đạo mình hôm nay cứ phải cân-nhắc từng li từng tí, cho dễ sống. Cân và nhắc cho lắm, lại vẫn gặp nhiều trục-trặc trên thực-tế đời người đi Đạo, rất phiền hà.

Thôi thì, để hiểu rõ cho sát các tình-huống trong đời, hôm nay, chi bằng ta đi vào vùng trời truyện kể để minh-hoạ cho một cuộc sống rất nhiêu-khê, nhiều bề rắc rối, mà rằng:

                  

Như truyện kể, hãy cùng nhau vững tâm mà sống hung/sống mạnh dù người đời đi Đạo có đổi thay lập-trường sống của họ đến thế nào đi nữa.

Nghe kể rồi, nay ta hãy vững tâm mà hãnh-diện rồi, đầu cao/mắt sáng cứ hát vang các ca-từ rất đẹp vừa trích ở trên, mà rằng:

Biết bao ngày đã qua.

Biết bao chiều xót xa.
Ngồi đếm những giọt nắng.

Rơi rụng dưới mái hiên nhà.
Người sao chưa đến với ta.

Tình sao chưa thấy ghé qua.
Dù con tim vẫn thiết tha.

Mộng sưa cũng vơi theo tháng ngày.

Hãy cho nhau môi hôn nồng nàn.

Ngỡ mai sau duyên ta muôn màn.
Sẽ không ai cho ta vội vàng.

Mới yêu đây nay sao phủ phàng.
Hãy yêu nhau như chưa yêu lần nào.

Hãy cho nhau yêu thương ngọt ngào.
Hãy đưa nhau về nơi cuối trời.

Dắt nhau đi cùng nhau trọn đời.”

(Lê Hựu Hà – bđd)

 Mong rằng, lời ca tiếng hát ở trên sẽ là nguồn hứng-thú để bạn và tôi, ta vui sống những ngày còn lại trong đời. Dù, cuộc đời có đổi thay. Dù, lòng người có ra thế nào đi nữa, cũng cứ mặc.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn cứ mặc mọi người

Từng đổi thay/thay đổi auqn-niệm sống

Thì tôi đây

Vẫn thân-thương, trân-trọng

Hết mọi người.

“Phóng viên của BBC đang nói về không khí căng thẳng tại Đại hội 19 thì kết nối bị gián đoạn

From facebook :  Trần Bang
 

Có phải bóng ma cuộc biểu tình đòi tự do dân chủ của hàng triệu người dân TQ ở Thiên An Môn tháng 5,6/1989 còn ám ảnh ĐCSTQ?

“Phóng viên của BBC đang nói về không khí căng thẳng tại Đại hội 19 thì kết nối bị gián đoạn

Tổng biên tập ân Bắc Kinh phải đối mặt với không khí căng thẳng thì kết nối bị gián đoạn.

Theo tin từ tờ The Guardian, khi sự việc xảy ra, Carrie Gracie đang giới thiệu ngắn gọn về tình hình căng thẳng tại Bắc Kinh trong thời gian diễn ra Đại hội 19.

“Đây không phải là hội nghị đảng phái mà người Anh đã từng thấy …. không có đoàn thể nào cổ vũ nhảy múa, không có đoàn thể nào kháng nghị, cũng không có tiếng nhạc nào để chào mừng bài diễn giảng của người lãnh đạo”.

“Đây là hội nghị quan trọng của chế độ độc tài Đảng Cộng sản Trung Quốc, có tới 2000 quan chức tham gia, toàn bộ Bắc Kinh vì thế mà ngạt thở”.

“Ví như, trong cửa hàng ăn ở Bắc Kinh không được có lửa sáng, dịch vụ chia sẻ chỗ ở AirBnb không có khách hàng, nếu muốn vào Bắc Kinh, các bước kiểm tra an ninh sẽ khiến tài xế mất 90 phút.” Carrie Gracie còn nói, do sợ có phản hồi tiêu cực, chính quyền Trung Quốc còn đóng một phần bình luận trên trang mạng của hệ thống vận tải.

Người dẫn chương trình tại trường quay John Humphrys đặt câu hỏi, tại sao chính quyền Trung Quốc lại đưa ra hạn chế an ninh nghiêm ngặt đến thế, rốt cuộc Đảng Cộng sản Trung Quốc sợ điều gì, thì đột nhiên kết nối bị gián đoạn.

Mấy phút sau, khi Carrie Gracie lại kết nối trở lại, bà đoán sở dĩ kết nối bị gián đoạn là do vừa nãy bà đã nói đến chủ để mà phía Trung Quốc cho là nhạy cảm. Carrie Gracie cũng nói, thời gian gần đây, mỗi khi nhắc đến chủ đề nhạy cảm thì mất kết nối.
….
http://trithucvn.net/…/3000-phong-vien-tap-trung-de-dua-tin…

Image may contain: one or more people and text