NHÂN CÁCH CỦA NGƯỜI CỘNG SẢN CHÂU Á

Trần Bang shared Võ Hồng Ly‘s post.

Những trò đánh lén, đánh hội đồng, những mẹo vặt, những trò gây khó trong thăm hỏi xã giao, kỳ thị, ghen ghét quá khứ… chỉ là biểu hiện của mặc cảm thấp kém, tự ty, nhân cách chưa trưởng thành của người CS.

 
Image may contain: 4 people, people standing and suit
Image may contain: sky and outdoor

Võ Hồng Ly added 2 new photos.Follow

21.02.2018

Bài viết của FB Bong Lau : NHÂN CÁCH CỦA NGƯỜI CỘNG SẢN CHÂU Á

Hai ngày qua tin tức lan tràn về mật vụ Trung Cộng làm khó dễ phái đoàn của TT Trump khi viếng thăm Tử Cấm Thành vào tháng 10 năm rồi. Mặc dù Chủ Tịch Tập Cận Bình đã đón tiếp Donald Trump rất trọng thể từ trước đến nay.

Tóm tắt câu chuyện như sau : Sau khi TT Trump bước vào khu vực Tử Cấm Thành lập tức mật vụ Trung Cộng chận đoàn tùy tùng của Tổng Thống Mỹ lại. Trong đoàn tùy tùng có một sỹ quan tùy viên xách theo một va li màu đen gọi là “trái banh nguyên tử” (nuclear-football) bên trong có chứa mật mã và các thủ tục kích hoạt một cuộc phản công bằng võ khí nguyên tử.

Vị sĩ quan này phải luôn luôn hiện diện cạnh Tổng Thống Hoa Kỳ để cuộc phản công nguyên tử phải chớp nhoáng tính từng giây từng phút trước khi hỏa tiễn mang đầu đạn nguyên tử của đối phương bay đến chạm nổ trên nước Mỹ.

Mật vụ Tàu chận đoàn tùy tùng lại không cho theo chưn TT Trump. Nhưng không may cho mấy chú Trung Cộng, người cầm đầu đoàn là John F. Kelly, Chánh Văn Phòng Bạch Cung, cựu Tướng 4 sao của binh chủng TQLC.

John F. Kelly ra lịnh “Chúng ta hãy tiến vào”. Nhưng một mật vụ Tàu xông đến chụp lấy vai ông Đại Tướng TQLC. Ông này đẩy chú Tàu ra. Lập tức một mật vụ Hoa Kỳ chận và vô hiệu hóa ngay chú Tàu này (tackle).

Về sau chính quyền Hoa Lục đã chính thức xin lỗi Hoa Kỳ về sự xô xát đáng tiếc ấy chỉ vì sự “hiểu lầm” (misunderstanding).

Đây không phải là sự hiểu lầm mà là sự cố tình làm khó dễ để thử thách nước Mỹ. Tổng Thống Hoa Kỳ khi đi công du ở các quốc gia trên thế giới thì các cơ quan an ninh Hoa Kỳ phải phối hợp với cơ quan an ninh sở tại để bảo vệ quốc khách và tạo cuộc viếng thăm trôi chảy thành công.

Mật vụ Tàu biết rất rõ cái va li đựng mật mã và thủ tục kích hoạt chiến tranh nguyên tử không thể xa rời Tổng Thống Hoa Kỳ. Nhưng họ vẫn cố tình làm khó dễ. Như họ đã không chịu cung cấp cầu thang cho chiếc máy bay Air Force One chở TT Obama làm vị Tổng Thống Mỹ hòa nhã lịch sự này phải chui ra cửa đít máy bay.

Đối với văn hóa của người Tàu chơi trò tiểu nhân làm nhục vị nguyên thủ của một cường quốc là chứng tỏ được sức mạnh và uy thế của mình. Nhưng đối với văn hóa Tây phương đây là hành động trẻ thơ có nhiều mặc cảm và bất an.

Muốn biết được văn hóa dị biệt của người Tàu và Âu Mỹ thì hãy tìm hiểu nền giáo dục cho tầng lớp thiếu nhi của 2 xã hội Đông – Tây này.

Xã hội Trung Hoa đã quen với các câu chuyện kiếm hiệp với các thủ thuật đánh lén, phóng ám khí, đầu độc và uýnh hội đồng. Sau khi đối thủ chết thì tiếp theo sau là những cuộc trả thù tàn bạo lẫn nhau không bao giờ chấm dứt. Văn hóa Á Đông không có nhiều bao dung tha thứ.

Trẻ em xã hội Âu Mỹ thì bị tiêm nhiễm loại văn hóa đấu kiếm hay đọ súng tay đôi (duel). Hai đối thủ cùng bước rồi quay đầu trực diện bắn vào nhau vì danh dự của mình. Văn hóa Âu Mỹ là sự minh bạch và thẳng thắng. Người Mỹ không thích đánh lén và đánh hội đồng.

Khi tôi đi thăm Hà Nội gần cổ thành Thăng Long thấy có trưng bày chiếc máy bay trực thăng Chinook của VNCH. Sau đuôi máy bay lá cờ vàng 3 sọc đỏ có 2 gạch chéo lên. Sự trẻ thơ này đã làm tôi mỉm cười. Những người bạn Mỹ khi coi hình này cũng ngạc nhiên và mỉm cười.

Trả thù những cái không còn hiện hữu nữa không nói lên sức mạnh mà chỉ phô trương sự mặc cảm, nhỏ nhoi, và bất an của mình. Tương tự trường hợp làm khó dễ không cho cái va li nguyên tử đi tháp tùng Tổng Thống Hoa Kỳ hay bắt TT Obama chui ra cửa hậu máy bay.

Những đòn phép này chỉ nói lên nhân cách thiếu trưởng thành của người Cộng Sản Á châu.

CUỘC “BẮT CÓC” ĐẦU NĂM.

Hoa Kim Ngo is with Sương Quỳnh and 5 others.

CUỘC “BẮT CÓC” ĐẦU NĂM.

Hạ Đình Nguyên.

Bắc cóc là một từ phổ biến ở Việt Nam.

Nó không chỉ dành riêng cho giới giang hồ khốn khổ.

Nó có tổ chức và hành sự công khai, lại có tiếng vang tầm quốc tế. Nó đang là một biện pháp chính thức và hữu hiệu trong cách cai trị của nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Chuyện bắt cóc Trịnh Xuân Thanh tại Đức là một điển hình lớn, nó đem lại tiếng tăm cho người cầm đầu đất nước, dù có gây nên cái nhìn kém văn minh và thiệt hại đến mấy trong bang giao quốc tế cũng không quan trọng, miễn là được việc của mình. Đó là cách nghĩ của người cầm đầu, thể hiện cái gọi là “bản lĩnh”.

Chuyện bắt cóc trong nước đối với công dân đã trở nên chuyện bình thường. Bắt cóc trẻ em, bắt cóc con gái, để tống tiền, hoặc để bán sang Trung Quốc, để buôn nội tạng…là cách của bọn giang hồ. Chúng hành sự lén lút, và bị nhân dân lên án, theo chuẩn mực đạo lý bình thường, có khi bị pháp luật trừng trị. Còn cách bắt cóc ngang nhiên, công khai, hợp với luật pháp xã hội chủ nghĩa, là một cách bắt cóc “có lý tưởng”…Ít ra, những người đang hành sự nghĩ thế. Họ đang bảo vệ chế độ. Nếu bạo lực đã tạo nên chế độ, thì bảo vệ chế độ cũng phải bằng bạo lực, cũng là hợp lý.

Sáng mồng một Tết, tôi thong thả mặc quần áo tươm tất, ăn vội bửa sáng, nhấp chút cà phê, chuẩn bị đi đến điểm hẹn – quán “cà phê Cộng”, gần tượng đài Trần Hưng Đạo. Dự định sẽ thắp hương ở đấy, để tưởng nhớ đồng bào và chiến sĩ đã hy sinh, vì mai là ngày Trung quốc khởi đầu cuộc tấn công Việt Nam, với 60 vạn quân ào sang chém giết, tàn sát, đốt phá 6 tỉnh miền Bắc…Đứa cháu gái vội mách với tôi, có 3 an ninh và 3 chiếc gắn máy chắn ngang phía trước cổng nhà mình. Tôi nhìn ra, thấy đúng như vậy.

Tôi phân vân chẳng nên đi, thì cánh cửa sực mở, 2 người bước xộc vào, mấy con chó kêu lên phẫn nộ, chặn họ lại. Họ đứng lại. Tôi bước ra. Họ cất tiếng chào năm mới. Tôi nhả nhặn nói, xin lỗi, tôi không tiếp các anh, mong là các anh trở ra cho. Họ quay ra, tôi đóng chốt cửa.

Lòng tôi không vui, tự hỏi, vì sao họ có thể bất chấp mọi thứ, và có quyền làm mọi thứ?

Họ chà đạp mọi giá trị truyền thống dưới chân mình. Chuyện nầy không còn là chuyện nhỏ của riêng ai, nó bao trùm cả đất nước nầy lâu nay. Suy nghĩ một lát, tôi quyết định phải đi, thử một chuyến du xuân với chế độ. Tôi trèo rào, đi quanh vài khu vườn thì ra tới lộ. Tôi đón xe ôm. Chú tài chở tôi phom phom trên đường nhựa, phố xá thong dong sạch đẹp, rồi tôi đến được điểm hẹn ở trung tâm thành phố. Một số bạn đã có mặt, họ đã đến đây từ mỗi hoàn cảnh khác nhau, đều giống như những chuyện đùa. Tôi hỏi một em phục vụ quán. Sao gọi là quán “Cộng”, nó nghĩa là gì? Trả lời, là cộng lại, cọng thêm, để ngày càng đông, chứ không phải là trừ, nó sẽ ngày càng ít. À ra thế, thật nôm na đơn giản, thế mà tôi bị ám ảnh chữ “Cộng”, chứ nó tuyệt nhiên không liên quan gì đến cnxh hay ông Tổng Trọng. Các bạn tôi, đều nhẹ nhàng, vui vẻ, cho rằng đây là một cuộc xuất hành đầu năm có ý nghĩa, thay vì đi viếng mộ người thân, đi thăm ông bà, đến chùa thắp hương, thì đi viếng tượng đức Trần Hưng Đạo, người anh hùng dân tộc, chống Tàu xâm lược 3 lần đều thắng lợi vẻ vang, và nhắc lại sự kiện lịch sử năm 1979 không thể nào quên. Hàn huyên xong, nhóm người bắt đầu đi bộ đến tượng đài – cách chừng vài chục mét – tôi nán lại một khoảng cách, và đi sau cùng, dìu một lão đồng chí 82 tuổi băng qua đường. Những chiếc gắn máy chở hai, mặt bít kín khẩu trang, chạy lòng vòng một cách bất thường ở ngã ba, bổng áp sát bên tôi, nhảy xuống, nhanh chóng áp hai bên, đẩy tôi lên xe, cùng tiếng nói nhỏ rót vào tai, nhưng có âm sắc của một thứ mệnh lệnh lạnh lùng chứa đựng sự bất lương: “chú lên xe! lên xe!”. Người ngồi sau ôm cứng tôi như một kẻ bạo dâm. Chiếc xe chở 3, kẹp tôi ở giữa, không mũ bảo biểm, phóng trên con phố đông người, vượt cả đèn đỏ khi con lộ chưa kịp bị bít kín bởi dòng người. Và một chiếc nữa đi kèm sát. Lòng tôi bình thản, không gợn lên một ý tưởng hận thù hay bạo động nào. Nhìn sang anh đi kèm, anh ta lùn, lưng dài và chân thì rất ngắn, mang dép không quai sau, (trường học cấm học trò đi dép lê kiểu nầy), cái bộ dạng ấy hẳn là không đắt đào mấy. Anh chàng cầm lái ở xe tôi, và người ngồi sau ôm tôi, tôi đều không rõ mặt và hình dạng. Tôi hỏi, các anh ở cấp Thành hay Quận. Họ im lặng. Nhìn sang dòng xe đang chảy êm trên con phố đầy hoa xuân, thấy một đấng nữ nhi lướt xe qua, tôi nói, ô, ăn mặt rất đẹp, nhất là đôi chân, nhỉ?. Im lặng. Tôi biết hai anh ta đang gồng mình mác-lê trong lòng khi đang thi hành nhiệm vụ bắt cóc thiêng liêng. Có tiếng điện thoại reo, người ngồi sau nghe máy, trả lời vội vã “đang bận ôm hàng, đang bận ôm hàng”. Tôi là hàng hóa của nhóm anh ta sáng hôm nay. Một nghề bán buôn thật đặc biệt. Tôi nghĩ thầm, tụi nó chở mình về trụ sở công an nào đó, hoặc là chở về nhà, về đâu thì cũng vậy! Ta thuộc về cái lứa tuổi ông Trọng, cái tuổi ăn rồi mà nói chưa ăn ấy, chẳng sao cả!. Ta cũng đã một thời tuổi trẻ trôi theo giòng nước. Khoảng 50 năm trước, một lần bị tóm theo kiểu nầy, nhưng không thể gọi là bắt cóc. Người bắt ta có mang sắc phục cảnh sát hẳn hoi, xe cộ đàng hoàng, hú còi inh ã, đâu có thế nầy!. Có tiếng qua lại gì đó trên điện thoại, thì xe hướng về ngã cầu Bình Triệu. Có lẽ là chở về nhà, ta khỏi tiền một cuốc xe ôm. Đến ngã ba HB, xe rẽ trái, chạy ngược chiều 20 mét, quẹo trái vào hẻm, dừng lại trước cổng nhà, họ thật rành đường! Xuống xe, tôi nói, anh lấy khẩu trang ra chứ, để thế là không lịch sự. Lịch sự ra phết, họ gỡ ngay khẩu trang ra, và “cười”. Cái cười khó biết giả thật. Tôi thấy họ đều trẻ. Họ còn “chúc Tết” tôi nữa! Tôi không ngại khi họ dùng bạo lực với tôi lúc nảy, nay bỗng dưng kinh hãi về nụ cười kia và lời chúc Tết nọ. Chỉ 30 phút trước, họ không khác những tay chuyên trấn lột, một loại người có thể giết người, bây giờ thì họ giống người tử tế, ra vẻ hiền lành, lương thiện có dư. Làm sao họ có thể chứa cả hai điều mâu thuẩn ấy trong một con người, trong một khuông mặt, trong cái cười ghê răng ấy? Cách nay khá lâu, có một tu sĩ Tin Lành nói với tôi, trong đời chỉ có một trong hai loại, hoặc là thiên thần, hoặc là quỹ dữ, không thể có hai trong một. Tôi thì không đồng tình với niềm tin trên. Nhưng tôi biết, có sự tròng trành điên đảo giữa lương thiện và bất lương qua mỗi khoảnh khắc của đời người. Cái bất lương có thể ẩn trốn nhất thời trong lớp vỏ lương thiện để hành sự. Tôi biết họ bị che lấp, họ lớn lên và trưởng thành, trọn vẹn là sản phẩm đặc biệt được nhồi nặn riêng của một thời kỳ cũng đặc biệt, gọi tên là thời kỳ xã hội chủ nghĩa. Họ là một binh chủng riêng, là mũi nhọn, là tia chớp, là một loại công cụ rất đáng tư hào. Họ có nhiệm vụ rất trá ngụy – mà họ cho là thiêng liêng – là bảo vệ chế độ, là trung thành với “ở trên”. Một chế độ bí hiểm và lòng trung thành cũng bí hiểm nốt. Ở “trên” là trên nào, là những ai, rất nhiều và vô hình vô dạng. Họ né tránh nói đến con người cụ thể, dù họ rất mơ hồ. Họ có cái riêng để tôn thờ, để trung thành, để nhân danh, để tồn tại, không cần thiên thần hay qủy dữ, lương thiện hay vô lương, có thể gọi đó là một thứ Thượng Đế bí hiểm của riêng mình: “Thượng Đế xã hội chủ nghĩa”. Giáo sư Đào Công Tiến trong một bài viết mới đây, gọi chủ nghĩa ấy đã chết rồi mà chưa chịu chôn. Họ cùng nhau phục chế và nhang khói như kẻ giữ đền đề ăn oản. Nghệ thuật ăn oản cao đến mức không còn nghệ thuật, như chuyện đá bóng, đội U 23 giành được cúp Á quân, thì chủ nghĩa xã hội xun xoe xuất hiện náo nhiệt để ăn oản, trơ trẻn chường mặt che lấp hàng cầu thủ, nhưng nếu đội bóng thua thì chúng cũng vắng bóng.

Chuyện bắt cóc đầu năm là một thắng lợi vẻ vang trên đường phố của những thiên thần xhcn. Họ không học theo cách nghĩ của quán “Cà phê Cộng”. Họ đang xây những “Cà phê Trừ”. Trừ càng nhiều càng tốt, để chỉ giữ vai trò độc tôn trơ trụi của mình.

Con gái tôi nghe tin chuyện tôi bị bắt cóc, nó gọi điện và cười ngất: “Ba ơi, buồn cười quá!” nó lại tiếp tục cười nứt nẽ. Hỏi, sao buồn cười ?. Nó bảo, nầy nhé, ba như đứa trẻ choi choi, trốn nhà đi chơi, bị người ta bắt đưa về nhà…, sao không buồn cười được! Tôi hỏi, chỉ buồn cười thôi sao?. Nó bảo, biết rồi, họ làm chuyện kỳ cục, quá kỳ cục!. Con gái tôi thuộc loại thiên thần thật, cực kỳ lương thiện, ngôn ngữ nó chỉ chừng ấy. Nó không quan tâm chuyện chính trị. Nó không biết Thượng đế xhcn, nó không rõ Tổng Trọng là ai, bí thư thành ủy của thành phố mà nó đang sống có tên là gì. Nhưng nó biết khái quát nhà nước qua hình ảnh thu gọn, rất biểu trưng, chỉ như một khái niệm, là cảnh Công an nằm ngồi canh gác suốt đêm ngày trước cổng nhà, và hôm nay có bổ sung thêm một chút kiến thức về chuyện bắt cóc “buồn cười quá” hôm qua. Nó chỉ quan tâm chuyện giá cả ngoài chợ đang lên cao, chuyện chăm sóc vệ sinh cho mấy cháu nhỏ, và nhất là đề phòng chuyện “mẹ mìn” bắt cóc con nít.

Nó đột ngột chấm dứt đường dây nóng với tôi trước khi cúp máy: Ba ơi, con đi thay… bím cho em bé đã. Tôi hiểu, như vậy là nó chấm dứt hoàn toàn câu chuyện về các thứ đang diễn ra. Lành thay cho một công dân! Và cũng bi đát thay cho một xã hội!

Hôm nay, mồng ba Tết, nhóm quạ đen đã biến mất, 3 chiếc gắn máy chắn ngang trước cửa không còn, bầu trời trở lại trong xanh. Họ nghĩ là họ đã hoàn thành nhiệm vụ “trên giao”, và bày tỏ đủ sự trung thành nham nhở với “giáo chủ” của mình.

Tôi nhớ câu thơ của Bùi Minh Quốc, từng viết: “Một thời khốn nạn đã lên ngôi”

Mồng 3 Tết Con Chó Vàng. Năm thứ 7, Triều Nguyễn Phú Trọng.
HĐN.(19/2/2018)

Ý đảng vẫn luôn ngược với lòng dân!

Song Chi
2018-02-19
 

Người dân tưởng niệm cuộc chiến biên giới Việt Trung ở tượng đài Lý Thái Tổ tại Hà Nội ngày 17/2/2018

Người dân tưởng niệm cuộc chiến biên giới Việt Trung ở tượng đài Lý Thái Tổ tại Hà Nội ngày 17/2/2018

 Courtesy FB Nguyễn Thuý Hạnh
 

Chỉ trong vòng một tuần, trước và sau Tết Âm lịch Mậu Tuất 2018, có đến mấy sự kiện lịch sử mà qua đó, thái độ của nhà nước cộng sản VN thêm một lần nữa, đã tự bộc lộ họ là ai, những quan niệm về bạn-thù, sự đánh giá về lịch sử của họ có minh bạch, tiến bộ, thay đổi chút nào sau bao nhiêu năm và họ có lý do gì để tiếp tục lãnh đạo đất nước này, dân tộc này.

Sự kiện lịch sử thứ nhất là 50 năm biến cố Tết Mậu Thân 1968 mà nhà nước này bao lâu nay vẫn trí trá gọi tên là “Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1968”. Đã nửa thế kỷ trôi qua, bao nhiêu tư liệu, thông tin của thời đại internet đã chứng minh cuộc tổng tấn công đó thực sự là thành công hay thất bại về mặt quân sự, mục tiêu, cái giá phải trả trên sinh mạng con người lẫn các cơ sở vật chất là quá đắt ra sao. Nghiêm trọng hơn, biến cố Mậu Thân luôn luôn để lại một ký ức kinh hoàng của một trong những trang sử đẫm máu nhất, man rợ nhất về cuộc thảm sát hàng ngàn thường dân tại Huế của phe tấn công hay phe “nổi dậy”. Cho dù nhờ những oái ăm, trớ trêu của lịch sử, mà sự thất bại nặng nề về quân sự đó cuối cùng lại biến thành sự “chiến thắng” về mặt chính trị cho Miền Bắc, dẫn đến sự chuyển hướng của cuộc chiến tranh và sự rút lui của Mỹ, bỏ rơi đồng minh VNCH về sau này, nhưng rõ ràng, đó vẫn là một sự kiện đẫm máu, một sự tráo trở, lừa dối, không chính danh đứng về phía đảng cộng sản.

Lẽ ra sau 50 năm, một quãng thời gian đủ dài để nhìn nhận lại, đánh giá lại lịch sử, nếu đảng cộng sản vẫn chưa đủ dũng cảm để công khai, minh bạch những sai lầm, tội ác cùa mình và có một thái độ thành khẩn sám hối trước nhân dân, trước lịch sử thỉ cũng không nên nhắc lại nhiều biến cố này. Vinh quang gì khi người Việt giết người Việt? Đàng này, “non sông dễ đổi, bản tính/ bản chất khó dời”, đảng và nhà nước cộng sản lại ra sức tổ chức kỷ niệm sự kiện Mậu Thân một cách rình rang, lịnh cho báo chí truyền thông tiếp tục dối trá, bóp méo lịch sử, tiếp tục “tẩy não” các thế hệ trẻ như họ đã làm bao năm qua, khoét sâu thêm vết thương chưa lành của bao nạn nhân cùng gia đình họ. Hệ quả là những nhân chứng, những người có lương tri lại buộc lòng phải lên tiếng. Sự chia rẽ trong lòng dân tộc lại trỗi dậy và lời kêu gọi hòa giải hòa hợp lậu nay từ phía đảng cộng sản, thêm một lần nữa cho thấy chỉ là đầu môi chót lưỡi, không bao giờ có thể thực hiện được.

Việc ăn mừng sự kiện Mậu Thân chứng tỏ đảng cộng sản hoàn toàn không thay đổi từ nhận thức đến thái độ, hành động và hoàn toàn “thất nhân tâm” đối với đại đa số người dân Việt ở cả hai miền, trong và ngoài nước.

Sự kiện lịch sử tiếp theo là ngày 17.2, đúng mùng hai Tết, là ngày tưởng niệm 39 năm nổ ra cuộc chiến tranh biên giới Việt Trung-17.2.1979-17.2.2018, tuy ngắn ngủi nhưng tàn khốc, với sự dã man từ phía binh lính Trung Cộng khi quyết chí giết hại càng nhiều càng tốt dân Việt Nam, bất kể già trẻ lớn bé, quyết chí đốt sạch, phá sạch các cơ sở vật chất, trường học, nhà máy…tại những nơi mà chúng tấn công. Cuộc chiến tranh tuy trện danh nghĩa là kết thúc sau 1 tháng khi Trung Cộng tuyên bố rút quân, nhưng trên thực tế những xung đột giữa hai bên vẫn tiếp tục kéo dài cho đến tận năm 1988.

Thế nhưng, kể từ sau khi vội vàng xin “bình thường hóa quan hệ” giữa hai nước, đảng và nhà nước cộng sản hầu như không muốn nhắc đến cuộc chiến này. Trong nhiều năm báo chí truyền thông được lịnh “câm lặng”, sách giáo khoa bỏ trống những trang lịch sử bi hùng, những tấm bia, dấu tích cuộc chiến bị đục bỏ bớt chữ…Có một giai đoạn người dân chỉ cần lên tiếng “Hoàng Sa-Trường Sa là của VN” hay có những hành vi tưởng niệm cuộc chiến này và việc mất Hoàng Sa, Trường Sa là bị xách nhiễu đủ kiểu, và bị bắt vào tù. Mấy năm gần đây trước sự phẫn nộ của dư luận, báo chí đảng được phép có một số bài viết, sách giáo khoa có được chừng mươi dòng về cuộc chiến…

Nhưng nhà cầm quyền vẫn tìm mọi cách ngăn cấm sự biểu hiện lòng yêu nước của người dân. Chẳng hạn, những khu vực như phía trước tượng đài Lý Thái Tổ ở Hà Nội, nơi nhiều nhà hoạt động hay tổ chức tưởng niệm những sự kiện lịch sử này thì họ cho công nhân ra đục đá ầm ỹ hoặc cho người ra khiêu vũ để “chiếm chỗ”. Năm nay cũng vậy, họ lại cho một đám người ra dìu nhau khiêu vũ giữa ban ngày ban mặt!

Tất cả chỉ nhằm một mục đích ngăn chặn, bóp nghẹt lòng yêu nước, căm thù bọn giặc phương Bắc tàn ác, dã man của người Việt, và nhằm xóa mờ những ký ức về một giai đoạn lịch sử. Thật trái ngược với sự công khai, ầm ỹ ăn mừng năm nào cũng vậy đối với những gì liên quan đến cuộc chiến tranh chống Mỹ và VNCH. Và đó là chủ trương, chính sách xuyên suốt bao nhiêu năm nay không hề thay đổi của đảng cộng sản.

Đối với VNCH, cùng chung một giòng máu, chung một tổ tiên nguồn cội, chung một quê hương nhưng khác ý thức hệ, thì từ sau khi chiến thắng và cho tới tận bây giờ nhà cầm quyền vẫn luôn luôn đối xử vô cùng khắc nghiệt, nhỏ nhen. Từ cách đánh giá về chính quyền VNCH vẫn không thay đổi, nghĩa trang Biên Hòa của bao nhiêu binh lính MN vẫn bị bỏ hoang phế, những người thương phế binh VNCH với cuộc sống khổ cực lắt lay qua ngày nhưng nếu có các tổ chức thiện nguyện nào đó muốn tập họp gửi tặng họ chút quà để an ủi thì bị chính quyền địa phương ngăn trở, cấm đoán; bất cứ cái gì dính dáng tới chế độ VNCH từ một lá cờ hay bộ quân phục đều trở thành “điều cấm kỵ” mà người nào cầm, mang lá cờ ấy hay bộ quân phục ấy sẽ bị tống vào tủ như Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha, Nguyễn Viết Dũng tức “Dũng Phi Hổ” v.v…

Đối với Mỹ, mặc dù hai bên đã “bình thường hóa quan hệ” (năm 1995, mất hai mươi năm sau khi chiến tranh kết thúc) nhưng mọi sự tiến triển đều rất chậm chạp, ù lì, khiến VN bỏ lỡ nhiều cơ hội trong việc thúc đẩy quan hệ giữa hai bên, vì quyền lợi của cả hai, nhất là của VN. Trong nhiều năm, đảng cộng sản tiếp tục chơi trò “đu dây” giữa Trung Quốc và Mỹ, cứ khi nào bị Bắc Kinh lấn lướt, thiệt hại quá thì VN lại quay sang ve vãn Hoa Kỳ, khi Bắc Kinh bớt hung hăng thì VN lại “nồng ấm” với họ, nhưng dù thế nào thì cũng vẫn không quên hàng năm tổ chức ăn mừng chiến thắng, lên án “giặc Mỹ”.

Chính sách “đu dây”, hai mặt đó của VN chỉ là trò khôn vặt, câu giờ và không có lợi gì cho dân tộc, cho đất nước, như chúng ta thấy. Không có một quốc gia nào thực sự tin tưởng vào một nhà cầm quyền không đáng tin như vậy. Và giờ đây, VN thực sự không có đồng minh trong khi Trung Cộng đã kịp trở nên hùng mạnh hơn rất nhiều về kinh tế lẫn quân sự và là mối đe dọa lớn nhất đối với chủ quyền, độc lập, toàn vẹn lãnh thổ lãnh hải của VN, còn thế giới, từ Hoa Kỳ cho tới châu Âu thì chẳng còn quan tâm gì đến số phận của VN nữa!

Như đã nói, so với Mỹ và VNCH, chủ trương, chính sách của đảng cộng sản VN đối với Trung Cộng hoàn toàn khác. Dù bị Trung Cộng “dạy cho một bài học” về quận sự và vô số bài học về kinh tế, đảng cộng sản vẫn nhắm mắt quỵ lụy dựa vào Bắc Kinh hòng được yên thận và kéo dài tuổi thọ của chế độ. Các đời lãnh đạo cấp cao nhất của VN càng về sau càng trở nên hèn hạ, bạc nhược trước Bắc Kinh, và càng công khai rước voi về dày mả tổ, khi mở toang của rước giặc vào nhà trên mọi lĩnh vực, suốt từ Nam ra Bắc. Nhờ “công lao” của đảng cộng sản mà chưa bao giờ VN bị lún sâu đến thế trong mối quan hệ Việt-Trung bất xứng, đầy thiệt thòi và rủi ro này.

Sau hơn 40 năm, tin rằng đại đa số người VN không muốn khoét sâu thêm những vết thương của cuộc nội chiến, muốn lịch sử phải được viết lại một cách minh bạch, sự thật phải được trả lại để người Việt có thể học được những bài học đắt giá và tiến về phía trước. Đại đa số người dân Việt trong và ngoài nước muốn VN thay đổi theo xu hướng tự do dân chủ, bắt tay làm bạn, làm đồng minh với những cường quốc dân chủ, hùng mạnh trên thế giới như Mỹ, Anh, Pháp, Đức…và hết sức thận trọng với Trung Quốc, từng bước tìm cách thoát ra khỏi sự kìm tỏa, chi phối, can thiệp quá sâu vào nội bộ chính trị cũng như lũng đoạn về kinh tế VN của Trung Cộng v.v..

Thì đảng và nhà nước cộng sản lại hoàn toàn làm ngược lại.

Ngay từ đầu, đảng cộng sản đã luôn luôn lựa chọn sai đường, sai đồng minh, nhầm lẫn bạn-thù, luôn luôn đặt quyền lợi của đảng lên trện hết, bất chấp lợi ích của đất nước, dân tộc.

Và cho đến tận bây giờ, ý đảng vẫn luôn luôn ngược với lòng dân.

Một đảng cầm quyền như vậy có lý do gì để vẫn tiếp tục là vật cản ngăn trở mọi sự thay đổi, phát triển theo chiều hướng tích cực, tốt đẹp hơn của VN?

* Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do

Đức Giêsu và sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa

Đức Giêsu và sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa

 (Bài 23)

  Tin Mừng Gioan

 Việc trình-bày Đức Giêsu theo ngôn-ngữ của khôn-ngoan còn đáng kể hơn lời gợi ý ở cuối sách Tân Ước, tức: Tin Mừng của ông Gioan.

Lời nói đầu ở Tin Mừng ông Gioan (có thể coi đây như có nguồn gốc rút từ các bài ca/vịnh tín-hữu thời đầu từng hát) và tác-giả Gioan lại đã áp-đặt vào đoạn đầu Tin Mừng do ông soạn.

Bài vịnh, được khởi đầu bằng những ý/lời mà mọi người đều đã gặp ở Thánh Kinh Do-thái-giáo (*44).

Như tôi có lần báo trước là sẽ thay thế tự-vựng Logos tiếng Hy-Lạp và tiếng Anh dịch thành “Word” và tiếng Việt là “Ngôi Lời” vỏn vẹn chỉ với chữ “Lời”, mà thôi.

“Lúc khởi đầu đã có Lời.
Lời vẫn hướng về Thiên Chúa,
và Lời là Thiên Chúa.
Lúc khởi đầu, Ngài vẫn hướng về Thiên Chúa.
Nhờ Lời, vạn vật được tạo thành,
và không có Ngài,
thì chẳng có gì được tạo thành.
Điều đã được tạo thành
nơi Ngài là sự sống,
và sự sống là ánh sáng cho nhân loại…

Ngài ở giữa thế gian,
và thế gian đã nhờ Ngài mà có,
nhưng lại không nhận biết Ngài.

Lời đã trở nên người phàm
và cư-ngụ giữa chúng ta.
Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Ngài,
vinh quang mà Chúa Cha ban cho Ngài,
là Con Một đầy tràn ân-sủng và sự thật
.

(Ga 1: 1-4, 10, 14)

Điều quan trọng ở câu đầu Tin Mừng không phải để ta suy nghĩ về “Lời” hoặc “Logos” như để nói về Đức Giêsu, nếu hiểu Đức Giêsu đây là “Giêsu thành Nadarét”.

Đọc và hiểu đấy là “Đức Giêsu”, tức vô hình chung ta đã chịu ảnh-hưởng từ nền thần-học Kitô-giáo thời sau này, khi Giáo-hội nói về Ba Ngôi Đức Chúa qua cách sử-dụng các đại-danh-từ “giống đực” tiếng Hy-Lạp gốc và bản dịch tiếng Anh.

Nhưng, các đại-danh-từ giống đực được sử-dụng là bởi từ-vựng logos là danh-từ chung giống đực tiếng Hy Lạp, chứ không vì tự-vựng ấy qui về “Ngài” đây, là “Đức Giêsu”.

Ông Gioan không có ý nói: “Lúc khởi đầu đã có Đức Giêsu” như ta vẫn nghĩ rằng Đức Giêsu đã có đó vào buổi tạo-dựng trời đất. Đúng hơn, Lời ấy đã mặc xác phàm nơi Đức Giêsu  – nay được gọi là logos – có ở đó vào lúc tạo-dựng.

Chính logos này (chứ không phải Đức Giêsu) đã có đó với Thiên-Chúa và Thiên-Chúa (*46).   

Các học-giả lâu nay từng ghi nhận là có mối tương-quan gần-gũi giữa những điều do ông Gioan viết về “logos” và về Khôn ngoan Sophia trong truyền-thống Do-thái-giáo. Khôn ngoan Sophia từng có đó với Thiên-Chúa ngay từ buổi đầu đã năng-động thời tạo-dựng, và cũng có đó cả khi thế-giới gian-trần được tạo-thành nữa (*47).

Tính tương-đương có hoạt-động giữa logos và Khôn-ngoan Sophia cho thấy tính hợp-pháp thay thế Khôn ngoan Sophia bằng logos, “Khôn-ngoan” thay cho “Lời” ở phần mở đầu Tin Mừng Gioan. Thêm nữa, do bởi Sophia là danh-từ riêng giống cái ở tiếng Hy-Lạp, nên đại-danh-từ đây cũng trở-thành “giống cái”:

“Lúc khởi đầu đã có “Khôn ngoan”, và “Khôn-ngoan” ở nơi Thiên-Chúa, và Khôn-ngoan là Thiên-Chúa. Ngài đã có lúc khởi-nguyên nơi Thiên-Chúa. Mọi sự đã nhờ Ngài mà thành sự và không Ngài thì không gì thành sự.

Điều đã thành sự là sự Sống, và sự Sống là sự Sáng cho nhân-loại… Ngài có trong thế-gian và thế-gian đã nhờ Ngài mà được có

mà thế-gian đã không biết Ngài.”

Và rồi, đỉnh cao chót vót đã đạt được, khi Tin Mừng viết:

Và Khôn-ngoan đã thành xác-phàm và đã lưu-trú nơi chúng tôi.” (*49)

Đức Giêsu là sự việc Sophia thần thánh mặc lấy xác-phàm, Khôn-ngoan Sophia trở-thành xác-phàm.” (*50)

Bổ-sung các ảnh-hình Kitô-học   

Ta khám-phá ra vai-trò của Sophia coi như Khôn-ngoan trong truyền-thống Do-thái-giáo và cả trong Tân Ước, điều này mở ra một số sự việc.

Điều đó giúp ta thấy được sự cân-đối tuyệt đẹp giữa Đức Giêsu như Bậc Thày dạy Khôn-ngoan và ảnh-hình về Ngài trong phong-trào tín-hữu thời đầu như mối tương-quan mật-thiết với Khôn ngoan Sophia.

Bằng vào tư-cách của tiếng nói của Khôn-ngoan thay-thế,

Đức Giêsu cũng là tiếng giọng của Khôn ngoan Sophia nữa.

Điều này lại cũng giúp ta nhìn thoáng qua những gì có thể là môn Kitô-học sớm sủa nhất của tín-hữu thời tiên-khởi. (*51). Sử-dụng ngôn-ngữ của Khôn-ngoan Sophia để nói về Đức Giêsu sẽ đưa ta về lại với lớp vỏ bọc sớm-sủa nhất nơi truyền-thống đang khai-triển. Như ta đã thấy, điều này lại cũng trải rộng cùng khắp với truyền-thống. Theo Tin Mừng Nhất Lãm, cũng như lập-trường của ông Phaolô và Gioan cũng công-nhận rằng điều đã có đó nơi Đức Giêsu là Khôn ngoan Sophia của Thiên Chúa.

Quan-điểm này không chỉ là trọng-tâm ngôn-ngữ của Sophia trong việc hình-thành phong-trào đạo-giáo Đức Kitô thời sớm sủa nhất, nhưng còn là bổ-sung về phái-tính của các bộ môn Kitô-học nữa. Bởi, với Đạo Chúa thời đầu, thì Đức Giêsu là Người Con của Cha và là sự việc Sophia mặc lấy xác phàm làm người, là người con trẻ của Abba chí thân, và là con trẻ của Sophia. Hiểu biết như thế cũng giúp ta rất nhiều ở vào thời nhạy bén dâng cao để trở thành vấn-đề của ngôn-ngữ rất can-dự.

Lại nữa, điều này cũng nhấn mạnh sự việc có khả-năng diễn-đạt ngôn-từ Kitô-học nữa. Các hình-ảnh nhân rộng thành nhiều ấn-bản để nói về mối tương-quan giữa Đức Chúa với Thiên-Chúa (như logos, Sophia, Người Con, và các danh-hiệu khác phải làm cho rõ nghĩa để bảo rằng không một danh-hiệu nào được hiểu theo nghĩa đen triệt để hết. Chúng chỉ mang tính ẩn-dụ mà thôi.

Đây còn là điểm quan-trọng để hiểu được ngôn-ngữ Kitô-học đầy sủng-mộ do ảnh-hình bậc cha/chú tạo ra. Ngôn-từ Chúa Ba Ngôi và các công-thức kinh-kệ phụng-vụ nói về “Cha và Con” là dễ-dàng kiến-tạo nên cảm-giác nghĩ rằng đây là cung-cách do tín-hữu Đạo Chúa dứt khoát nói về Thiên-Chúa và Đức Giêsu, là như thế.

Thế nhưng, cũng là điều bổ-ích để nhận ra rằng ảnh-hình Cha và Con cũng phản-ánh sự thể về lề lối suy-tư về Ba Ngôi Đức Chúa có được định-hình trongvănhoá tộc-trưởng và tập-trung phụ-hệ. Nhằm giúp ta có thể tưởng-tượng điều này là lúc Ba Ngôi Đức Chúa trở-thành công-thức trong nền văn-hoá mẫu-hệ,Đức Giêsu vẫn được gọi là “người con”, nhưng ta đều đoan-chắc rằng mọi người nói về Ngài trước nhất như Người Con của Cha vậy (*52).

Thành thử, đây không là trường-hợp để ta nói lên rằng Đức Giêsu làNgười Con của Thiên-Chúa hiểu theo nghĩa đen, dù Ngài vẫn được nói đến theo nhiều cách khác nữa, như Khôn ngoan Sophia của Thiên Chúa. Thật ra thì, cả hai điều đó đều mang tính ẩn-dụ hết.

Mẫu số chung ở cả hai trường-hợp, đó là: cả hai cùng nói về Đức Giêsu như Đấng có tương-quan mật-thiết với Thiên-Chúa đậm đà và sâu-sắc đến độ Ngài còn được gọi là người con của Abba  và là người con của Khôn ngoan SophiaTa không hề biết và không thể hiểu làm sao mà kiểu nói này có thể bắt đầu nói ra được cả vào lúc Đức Giêsu còn sống, hoặc làm sao các hình-ảnh như thế lại hiện-diện trong tâm-thức của chính Ngài được.

Quả nhiên, thật là điều hợp lý để thấy được sự liên-kết giữa ngôn-từ này và những gì ta có thể giả-định về kinh-nghiệm Ngài từng trải. Tính mật-thiết của các ẩn-dụ lại cũng kiên-định trong việc nhìn nhận Đức Giêsu-trước-ngày-Phục-Sinhnhư một nhân-vật đầy tính linh-thiêng, thần-khí.

Là Đấng hiểu/biết rõ Thần Khí Chúa, Đức Giêsu có lẽ cũng đã suy-tưởng và/hoặc trải-nghiệm Thần Khí như Abba và Sophia.

Thế nhưng, thêm vào đó, vấn-đề là:

Ngài có nghĩ về chính mình Ngài như “người con” (theo nghĩa đặc biệt) của Đấng mà Ngài gọi là Abba không?

Đức Giêsu có nghĩ về chính mình Ngài như con trẻ hoặc như người đại-diện của Sophia thần thánh không?

Bằng vào bản-chất của các nguồn ta đạt được, bản thân tôi thấy cũng khó mà tưởng-tượng nổi để có thể phán-đoán về tính khả-thi lịch-sử ta đạt được trong vấn-đề đặc-biệt này (*53).

Cho dù ta không thể biết được là các ảnh-hỉnh này là một phần trong việc Đức Giêsu tự biết về Ngài, có điều thấy rõ rằng việc tượng-hình ra Đức Giêsu như “người Con của Chúa” và như “Khôn-ngoan của Thiên-Chúa” lại có trong giai tầng cổ xưa nhất thuộc truyền-thống phát-triển nên phong-trào tín-hữu thời đầu được.

Thành thử, hỏi rằng các hình-ảnh đây có cho ta biết bất cứ thứ gì về nhận-thức của Đức Giêsu, thì các hình-ảnh ấy sẽ giúp ta tiếp-cận với tầng/lớp sớm nhất của tiến-trình thành-hình môn Kitô ở cộng-đoàn để thiết-lập và suy-tư không?

Có điều đáng nể là, hình-tượng “người Con của Chúa” và “Sophia của Thiên-Chúa cả hai đều gặp thấy ở giai-đoạn mới sớm này.

Sự hiện-hữu của bộ môn Kitô-học bàn về “người con” và “Sophia của Thiên-Chúa” trong cao-trào mới sớm của tín-hữu Đức Kitô đã ảnh-hưởng lên ảnh-hình bình-dị của Đức Giêsu, Đấng mà ta từng gặp vào lúc trước.

Sự hiện-hữu của các hình-ảnh này lại đã đưa ta hướng về việc bổ sung phái-tính khi suy-tư về Đức Giêsu, là điều còn rất mới đôi với nhiều người.

Vượt ra ngoài những chuyện như thế, các ảnh-hình này lại cũng chuyển-đổi lối suy-tư Kitô-học ra khỏi khuôn-khổ văn-chương chữ nghĩa vẫn thường song hành với hình-tượng của người dân thường vốn có trong đầu. Việc nhân rộng ảnh-hình Kitô-học thời ban đầu như –“người con” và “khôn-ngoan” và các thứ khác–  lại đưa ta vào nhận-thức hiểu rằng đây chỉ mang tính ẩn-dụ mà thôi.  

Hiểu biết này đã lật đổ cảm-giác thông thường vẫn nghĩ rằng niềm tin của tín-hữu Đức Kitô                 

Lại cũng kéo theo niềm tin cho rằng Đức Giêsu thực sự là “người Con của Chúa” hiểu theo nghĩa đen. Đây là một lật đổ giúp ta cũng rất nhiều.

Việc hiểu cụm-từ “người Con của Chúa” hoàn toàn theo nghĩa đen lại đã khép chặt tầm hiểu biết của ta về Kitô-học bằng cách chỉ mở ra có một ảnh-hình ưu-tiên làm tiêu biểu, thôi. Thật ra, cũng khó mà tin như thế, một phần do bởi tính-chất không chắc-chắn khi ta khẳng-định rằng Đức Giêsu là người Con của Chúa, hiểu theo nghĩa đen.

Thế nhưng, khi “người Con của Chúa” khi được coi như một trong các ẩn-dụ, thì ẩn-dụ ấy cũng mở ra khả-năng hiểu biết một cách phong-phú hơn ý-nghĩa về Đức Giêsu như Đấng từng trải-nghiệm và diễn-tả vào thời tiên-khởi.

Vấn đề là, một khi ta không còn tin rằng Đức Giê-su thật sự là “người Con của Chúa” theo nghĩa đen, nhưng lại cảm-kích ý-nghĩa giàu có do có nhiều hình ảnh mang tính Kitô-học được nhân rộng.

Ngài là “người Con của Chúa”. Vâng đúng là như thế.

Nhưng, Ngài còn là Lời mặc lấy xác phàm đồng thời là Khôn-ngoan của Chúa.

Quả có thế, Đức Giêsu đích-thực là “người Con của Chúa”,

là logos của Thiên-Chúa

và là Khôn ngoan Sophia của Thiên-Chúa, nữa (*54).

                                                                                                (còn tiếp)

 

Gs Marcus J Borg biên-soạn

Mai Tá lược-dịch.    

Tamlinhvaodoi gởi        

ĐẦU NĂM TẠ ƠN VÀ KHÁM PHÁ

ĐẦU NĂM TẠ ƠN VÀ KHÁM PHÁ

 Đầu năm là mốc thời gian trọng đại.  Dịp này, con cái Chúa hướng lòng về Cha trên trời.  Một việc không thể thiếu là tạ ơn Cha.

Trong tâm tình tạ ơn thường có cảm nhận tình thương của Chúa.  Cảm nhận sẽ trở thành khám phá, khi linh hồn được đưa vào một cõi tình yêu mênh mông êm đềm, mà Chúa dành riêng cho họ.

  1. Bài học tạ ơn và khám phá

Khám phá riêng tư ấy không luôn xảy ra trong việc tạ ơn.  Khám phá đó là do Chúa ban.  Không phải bất cứ ai cũng được ơn riêng ấy.  Vậy những người được Chúa ban ơn đặc biệt đó là ai?  Chúng ta tìm được câu đáp ở lời sau đây của Chúa Giêsu: “Ngay giờ ấy, được Thánh Thần thúc đẩy, Đức Giêsu hớn hở vui mừng và nói: ‘Lạy Cha là Chúa trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn.  Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha’” (Lc 10,21).

 Như vậy, những người được Chúa ban ơn khám phá thấy tình xót thương Chúa chính là những kẻ bé mọn.  Để hiểu thế nào là kẻ bé mọn, mà Chúa Giêsu đề cao ở đây, trước hết chúng ta nên đọc lại đoạn Phúc Âm sau đây:

 “Nhóm Bảy Mươi Hai trở về, hớn hở nói: ‘Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con’, Chúa Giêsu bảo các ông: ‘Thầy đã thấy Satan như một tia chớp từ trời sa xuống.  Đây, Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp trên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực Kẻ Thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em.  Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời’” (Lc 10,17-20).

 Đoạn Phúc Âm trên đây cho chúng ta thấy: Những kẻ bé mọn Chúa Giêsu muốn đề cao chính là nhóm Bảy Mươi Hai.  Họ đã được Chúa sai đi.  Họ đã đến với những người nghèo hèn, cùng khổ để tiếp cận, để cứu giúp, để loan báo Tin Mừng, để giúp sám hối, để xua đuổi quỷ dữ.  Họ làm những việc bác ái đó nhân danh Chúa Giêsu với nhận thức tự mình chẳng có gì.  Đang khi họ vui mừng vì những thành công đó, Chúa Giêsu đã cho họ khám phá thấy tình xót thương Chúa dành cho họ còn cao quý hơn nhiều, đó là tên họ được ghi trên trời.  Nói tóm lại, nhóm Bảy Mươi Hai được Chúa Giêsu gọi là những kẻ bé mọn, vì hai lý do:

Họ đã đến với những kẻ nghèo hèn, cùng khổ, để cứu giúp và chia sẻ.  Họ khiêm tốn trở thành bé mọn với bất cứ kẻ bé mọn nào.  Họ khiêm tốn nhận mình đã cho đi những gì mình đã nhận từ lòng xót thương Chúa.  Họ chỉ làm theo ý Chúa và nhân danh Chúa, Đấng đã sai họ đi.  Họ luôn bé mọn, nghèo khó.

 Chúa dạy họ không nên vui vì những thành công trước mắt, nhưng hãy vui vì phần thưởng cao quý Chúa dành riêng cho họ, đó là tên họ được ghi trên trời.  Nghĩa là họ được Chúa cứu độ, được Chúa thánh hoá, được Chúa tuyển chọn.  Khám phá đó sẽ cho họ thấy tình thương Chúa là vô biên, vô bờ, đem lại cho họ sự bình an và hạnh phúc đời đời, không gì sánh kịp.  Chúa Giêsu đã hớn hở vui mừng tạ ơn Đức Chúa Cha, vì những lạ lùng đã xảy ra cho những kẻ bé mọn.  “Lạy Cha, con xin ngợi khen Cha, vì… đã mạc khải những điều này cho những kẻ bé mọn” 

  1. Thực hiện bài học tạ ơn và khám phá

 Những gì Chúa Giêsu đã nói và đã làm trên đây, nên được coi là bài học quý giá cho chúng ta mọi ngày, nhất là những dịp tạ ơn Chúa.  Bài học đó có thể thực hiện bằng những việc sau đây:

 Chúng ta khiêm tốn nhận mình hèn mọn, yếu đuối, bé nhỏ.  Nếu ta có điều gì tốt, làm được việc gì lành, thì đều do Chúa ban ơn.  Chúng ta khiêm tốn cầu xin Chúa giúp chúng ta khám phá ra những ơn lành Chúa đã ban cho chúng ta.  Tôi được Chúa ban ơn trở về, tôi được Chúa cứu độ, tôi được Chúa kêu gọi, tôi được Chúa tha thứ, tôi được Chúa sai đi, tôi được Chúa ban ơn chia sẻ tình Chúa cho người khác, tôi được Chúa yêu thương đặc biệt.

 Chúng ta khiêm tốn vui mừng trong tình yêu của Chúa, theo gương Chúa và Đức Mẹ.  Chúa Giêsu “hớn hở vui mừng, ca ngợi Chúa Cha.”  Tình cảm đó cũng được thấy nơi Đức Mẹ Maria, khi Mẹ đi viếng thăm bà chị họ Isave.  Mẹ đã khám phá thấy tình Chúa xót thương Mẹ là hết sức lạ lùng, nên lòng Mẹ trào dâng lên những lời cảm tạ đầy hớn hở, vui mừng, ca ngợi Chúa: “Linh hồn tôi tung hô Chúa.”  Tình cảm vui mừng cảm tạ Chúa có hương sắc thiêng liêng siêu thoát, có sức nâng tâm hồn lên với Chúa.  Không một chút vẩn đục bởi bất cứ tư tưởng thế tục nào.  Chúng ta khiêm tốn để lòng mình nghỉ ngơi trong sự chiêm niệm ngắm nhìn Chúa, với hết lòng tin tưởng phó thác nơi Chúa.  Chúa là nguồn mọi sự tốt lành.  Chúa là cùng đích cuộc đời của ta.

  1.  Tỉnh thức trong tạ ơn và khám phá

Thánh Phaolô khuyên: “Anh em hãy tỉnh thức mà cầu nguyện và tạ ơn” (Cl 4,2).  Lời khuyên trên đây của thánh Tông đồ nên được áp dụng thường xuyên trong tạ ơn và khám phá.

 Trước hết, cần tỉnh thức về phương diện khiêm tốn.  Khiêm tốn thực chất, khiêm tốn luôn luôn, khiêm tốn trong mọi sự.  Có thể nói, cái làm cho việc tạ ơn và khám phá đẹp lòng Chúa chính là sự khiêm tốn.  Đức Mẹ Maria suốt đời khiêm tốn, nên suốt đời Mẹ là lễ tạ ơn và khám phá tình xót thương của Chúa.

Khiêm tốn, nên luôn giữ tự do tâm hồn.  Tỉnh thức không để mình bị áp lực do bất cứ quyền lực nào của ma quỷ, thế gian và xác thịt.  Tâm hồn nhờ vậy sẽ rất nhẹ nhàng vâng phục thánh ý Chúa.  Thánh ý Chúa là muốn chúng ta sẵn sàng phục vụ.

 Vì thế, cũng cần tỉnh thức trong việc phục vụ.  Mỗi nơi ta ở, mỗi thời ta sống, đều có những dấu chỉ về thánh ý Chúa.  Ta sẽ nghe được tiếng gọi của Chúa trong các dấu chỉ đó, để phục vụ.  Không thể tạ ơn, nếu phục vụ sai thánh ý Chúa. 

Nhờ tỉnh thức, chúng ta sẽ khám phá thấy tình Chúa thương chúng ta, ngay cả khi chúng ta sống trong muôn vàn đau khổ.  Trong những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất, chúng ta cũng sẽ khám phá thấy Chúa ban cho chúng ta vẫn có khả năng phục vụ các linh hồn bằng nhiều cách hiệu nghiệm.

 Nếu không tỉnh thức, việc gọi là tạ ơn Chúa có thể sẽ trở thành dịp phô trương cái tôi, và việc gọi là khám phá tình yêu Chúa cũng dễ là dịp khoe khoang thành tích.  Tệ hại nhất là vô ơn và lạm dụng ơn Chúa cũng như danh  nghĩa Chúa.

 Cúi xin Mẹ Maria thương giúp chúng ta biết noi gương Mẹ mà tạ ơn Chúa và khám phá tình Chúa xót thương.

 ĐGM GB. Bùi Tuần

Langthangchieutim gởi

ĐỌC PHÁT NGÔN BIẾT TƯ CÁCH

V Phung Phung shared Nguyễn Vô‘s post.
 
Image may contain: one or more people, eyeglasses and text

Nguyễn Vô added a new photo to the album: ĐỌC PHÁT NGÔN BIẾT TƯ CÁCH.

ĐỌC PHÁT NGÔN BIẾT TƯ CÁCH

BÀI 019: NHÀ BÁO HỮU THỌ

Anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường đợi đến gần hết cuộc đời mới giãi bày và xin lỗi nhân dân Huế về vụ thảm sát năm Mậu Thân. Còn ông Nhà Báo Hữu Thọ cũng vội bộc bạch tâm sự cùng nhân dân ta! Thôi kệ muộn còn hơn không!  

Hội chứng ếch luộc, chúng ta đang bị “nấu chín” mà không hay biết!

Hi chng ếch luc, chúng ta đang b “nu chín” mà không hay biết!

Nếu thứ gì đó không gây chết người ngay khi tiếp xúc, chúng ta thường cho rằng nó không có gì đáng ngại. Chúng ta thiết lập liều lượng “an toàn” cho các chất độc khác nhau dù đó là trong thực phẩm, nước uống, các chất ô nhiễm môi trường hay trong cả vắc-xin nữa.

Rốt cuộc, nếu lượng chất độc không đủ để phá hủy sức khỏe chúng ta trong vài phút, thì có nghĩa là sẽ không có vấn đề gì, phải vậy không? Nếu bạn đồng ý với quan điểm này, thì bạn sẽ dễ dàng trở thành một nạn nhân nữa của “hội chứng ếch luộc”.

 

Hội chứng ếch luộc là gì?

Khá đơn giản, nó dựa trên giả thuyết rằng nếu một con ếch được quẳng vào nước sôi, nó sẽ cố nhảy ra ngay lập tức, nhưng nếu bạn cho nó vào nồi nước lạnh và đun nóng lên từ từ, nó sẽ không nhận ra sự nguy hiểm và sẽ bị nấu đến chết.

Một số người cảm thấy rằng điều này không đúng nếu nhìn từ góc độ khoa học. Tuy nhiên, đã có những thí nghiệm chứng minh rằng khái niệm này rất đáng lưu tâm và có cơ chế rất khó nhận ra:

“Goltz đã tăng nhiệt độ nước từ 17.5 °C đến 56 °C trong 10 phút, tương đương 3.8°C/phút, trong thí nghiệm của ông con ếch nhanh chóng cố gắng tìm cách để trốn thoát. Trong khi đó, Heinzmann đã làm nóng những con ếch từ 21 °C to 37.5 °C trong 90 phút, mỗi phút tăng lên 0,2°C. Một nguồn dữ liệu khác từ năm 1897 nói “trong một thí nghiệm nhiệt độ được tăng lên 0.002°C mỗi giây, và con ếch đã chết sau 2,5 giờ mà không có phản ứng gì.”

Năm 1888 William Thompson Sedwikch đã giải thích sự mâu thuẫn giữa các kết quả thí nghiệm thu được là do tốc độ tăng nhiệt khác nhau trong các thử nghiệm này:

“Sự thật là nếu nhiệt độ được tăng lên một cách từ từ, thì một con ếch bình thường sẽ không có phản ứng nào; nhưng nếu nhiệt độ tăng lên nhanh hơn, nhưng vẫn đủ để được gọi là tăng lên một cách từ từ, thì không có gì đảm bảo là con ếch sẽ ngồi yên.”

Cho dù tính khoa học của hội chứng ếch luộc là như thế nào, thì câu chuyện này vẫn có tác dụng cảnh tỉnh về các vấn đề sức khỏe trong xã hội ngày nay.

Từ từ, nhưng chắc chắn, chúng ta bị đầu độc từ nhiều phương diện một cách liên tục mỗi ngày. Tuy nhiên, nó rất từ từ nên có ít người hiểu được mức độ nguy hiểm thực sự.

Chúng ta trở nên yên tâm với các liều lượng an toàn và tiêu chuẩn giới hạn mà các cơ quan chính phủ hay cơ quan chức năng cung cấp, và tin một cách sai lầm rằng chúng ta đang ở trong các giới hạn và như vậy sức khỏe của mình hoàn toàn không bị ảnh hưởng xấu gì.

>> Xã hội ta đang sống không cho phép ta được chọn “không biết”

Xin chào, chú ếch luộc!

Sự thật là hàng ngày chúng ta phải nạp vào cơ thể nhiều loại hóa chất từ thực phẩm, không khí, nước, các sản phẩm chăm sóc cơ thể, các đồ gia dụng, đồ nội thất, các công cụ, kết hợp với chế độ ăn nghèo nàn dinh dưỡng vì những thực phẩm “chết” do đã qua chế biến công nghiệp. Rốt cuộc, chúng ta đang tạo ra một cái chết từ từ cho những tế bào trong cơ thể mình. Điều này trực tiếp dẫn đến sự lão hóa sớm, bệnh tật các loại và các hình thức tổn thương khác trên cơ thể.

Một cơ thể với các chức năng khỏe mạnh có thể loại bỏ nhiều loại độc tố khác nhau nhưng chỉ trong điều kiện tối ưu và trong một môi trường hoàn hảo không bị ô nhiễm. (Olga_Danylenko/iStock)
Một cơ thể với các chức năng khỏe mạnh có thể loại bỏ nhiều loại độc tố khác nhau nhưng chỉ trong điều kiện tối ưu và trong một môi trường hoàn hảo không bị ô nhiễm. (Olga Danylenko/iStock)

Hầu hết mọi người gọi nó là “bệnh tuổi già”. Còn tôi gọi nó là“ngày càng bị nhiễm độc và suy dinh dưỡng”. Cách hiểu này có sự khác biệt rất lớn.

Xem xét thực tế sẽ thấy rằng, hầu hết mọi người cảm thấy mình già hơn khi ở ngưỡng tuổi từ giữa cho tới cuối những năm tuổi 30. Tức là bạn đã có mặt trên trái đất này khoảng 12.000 ngày, và tiếp xúc với vô số hóa chất độc hại từ nhiều nguồn, một số thì độc hại hơn những thứ khác (như các sản phẩm chứa thủy ngân và vắc-xin). Nhưng các bác sĩ hay các dược sĩ sẽ khiến bạn tin rằng một lượng phơi nhiễm “thấp”, và do đó nó “an toàn”, không việc gì phải lo lắng. Họ không quan tâm đến việc chúng được tích lũy trong cơ thể. Họ nói rằng cơ thể của bạn có thể đào thải chúng.

Đúng là một cơ thể với các chức năng khỏe mạnh có thể loại bỏ nhiều loại độc tố khác nhau NẾU ở trong điều kiện tối ưu và NẾU chúng ta sống trong một môi trường tương đối lành mạnh. Đáng buồn thay, ngày nay cả hai điều này đều là trường hợp QUÁ HIẾM HOI, và chức năng gan của bạn trở nên thực sự bị tổn thương.

>> Bạn có thể làm theo những người sống thọ nhất thế giới này không?

Rồi một ngày nào đó, bạn phát hiện mình bị bệnh

Ung thư, viêm khớp, dị ứng, suy nhược tuyến giáp, đau cơ do xơ hóa, IBS (hội chứng ruột kích thích) và hàng ngàn các thể loại bệnh khác nữa… Chúng như từ trên trời rơi xuống bạn vậy, hoặc dường như vậy. Bạn không hít phải sơn có nhiễm chì, không hút thuốc, không uống quá nhiều rượu bia cùng một lúc. Bạn đã không nhiễm độc tố nào quá ngưỡng an toàn, và đáng lý ra tất cả phải ổn chứ?

 

Nhưng, xin lỗi bạn, chính sự dối trá đã tàn phá sức khỏe của rất nhiều người

Thực tế là cơ thể bạn bị ngấm độc một cách từ từ qua thực phẩm, không khí, nước và các sản phẩm chăm sóc cơ thể, cùng với sự thiếu hụt dinh dưỡng do các thực phẩm nghèo nàn dinh dưỡng, chúng đang dần dần phá hủy cơ thể bạn. Lệ thuộc vào các đơn thuốc, các ca phẫu thuật và các quá trình điều trị y tế khác, bạn sẽ thấy mình phải chịu các vấn đề sức khỏe ở độ tuổi khá sớm, và bạn đang nhanh chóng tiến đến những năm dài của sự đau khổ và chất lượng cuộc sống giảm sút.

Bạn và những người trong gia đình xứng đáng có một cuộc sống tốt hơn, nhưng nó sẽ không xảy ra nếu bạn lờ đi cảnh báo này. Bạn sẽ kết thúc với các vấn đề về sức khỏe giống như người khác, và con cái bạn cũng vậy. Trong rất nhiều trường hợp, cha mẹ qua đời sớm bỏ lại con trẻ, và bạn không thể có cơ hội thứ hai với chúng.

Đó chắc chắn không phải là một gia sản mà bạn muốn để lại. Đừng lờ đi khi nhiệt độ trong nồi nước bị tăng lên, bởi khi đó bạn đang tiến một bước gần hơn đến bệnh tật và một cái chết không báo trước.

Sau Một Cuộc Chiến

Sau Một Cuộc Chiến

18/02/2018

Vi Anh

Tố Hữu, người làm thơ chuyên ca tụng CS mà CS Bắc Việt tôn là ‘thi bá’ có câu hận thù không đội trời chung với quân dân cán chính VNCH, là “Máu kêu trả máu đầu van trả đầu”.

Hơn 42 năm chiến tranh chấm dứt, CS Bắc Việt chiếm cả hai miền, mà CS vẫn còn thù quân nhân Việt Nam Cộng hoà, người chết lẫn người sống. CSVN vẫn nhốt hương hồn tử sĩ quân nhân VNCH trong Nghĩa trang Quân đội Biên hoà với tường rào, trạm gác, cổng đóng, bỏ hoang tàn bên trong,  không cho thân nhân vào sửa sang mồ mả, không cho vào viếng thăm thắp nén nhang tưởng niệm. Nhơn dịp Tết là cơ hội người dân Việt theo phong tục đi tảo mộ, viếng mộ, xin phép nhắc lại một số thông tin nghị luận khả tín chứng tỏ CSVN cố ý làm cho Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà của Việt Nam Cộng hoà điêu tàn.

 Phóng sự của VOA ngày 20.01.2017: Thăm nghĩa trang Biên Hòa, bị công an hạch hỏi. Công an Việt Nam câu lưu một số nhà vận động nhân quyền trong 2 giờ khi họ đến thắp hương viếng mộ các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) tại nghĩa trang Biên Hòa hôm 17/1 vừa qua. Ông Đức nói khách thắp hương tưởng niệm các chiến sĩ VNCH trong sự rình rập, giám sát của cả an ninh thường phục lẫn sắc phục. Sau khi viếng xong thì khách bị bao vây, ông Trương Minh Đức cho biết: “Rất là nhiều công an mật vụ, thường phục có, sắc phục có, trên 20 người, bao vây chúng tôi. Họ bế cổng lại, không cho chúng tôi ra. Họ bảo vào làm việc với họ. Họ giữ chúng tôi lại trong 2 tiếng đồng hồ. Rất nhiều lực lượng cơ động, thậm chí xe mô tô của cảnh sát giao thông cũng vào nghĩa trang thì chúng tôi cũng không biết họ làm cái trò gì nữa.”

 “Luật sư Lê Công Định, người có mặt trong nhóm viếng nghĩa trang chia sẻ trên Facebook: “Con đường dẫn đến Nghĩa trang Bình An được cố tình đặt tên là ’30 tháng 4′. Chắc ai cũng có thể hiểu rõ tâm ý và ngụ ý phía sau cách đặt tên như vậy. Đây có lẽ là nghĩa trang duy nhất mà ai đến viếng mộ phần bên trong đều phải khai rõ họ tên, số căn cước, địa chỉ cư trú trong một quyển sổ gọi là “Bảng ghi nhận thông tin vào khu vực Nghĩa trang nhân dân Bình An”.

“Theo Luật sư Định, khách đến viếng đều bị một lực lượng an ninh chìm đông đảo theo sát. Anh Định viết: “Chúng tôi đến viếng nghĩa trang binh sĩ VNCH vừa để tưởng niệm ngày Hoàng Sa bị Trung Cộng xâm chiếm, vừa hương khói ngày Tết cho người nằm xuống vì quốc gia. Cá nhân tôi muốn tự mình đánh giá xem nhà cầm quyền thực tâm hoà giải dân tộc thế nào và có đúng như họ tuyên truyền hay không?”

“Thái độ thù hằn dành cho chúng tôi và hành động giữ người trái luật của họ sáng nay đã gửi ra một thông điệp rõ ràng là không hoà giải gì cả. Điều này thật đáng tiếc và tôi vô cùng thất vọng trước chính sách hai mặt này của các nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam”, luật sư Định viết.

Phóng sự VOA ngày 24.01.2016: “Đất nghĩa trang từ 125 mẫu nay chỉ còn 29 mẫu mà thôi. Có hai gia đình chiếm ngụ còn ở trong nghĩa trang mà chính quyền Bình Dương cũng chưa trục xuất họ ra được. Họ đập luôn tường ngay cổng ra vào và cất cả chuồng bò ngay trong nghĩa trang”… việc trùng tu “lâu nay được thực hiện mang tính cách cá nhân, rải rác, ‘đắp vá tạm thời’ trong khi càng ngày càng có nhiều ngôi mộ có nguy cơ mất dấu… Anh Phạm Văn Lộc, em ruột chuẩn úy Phạm Văn Sỹ tử trận ngày 3/4/1975, cho biết [VOA lấy làm câu tóm lượt] “Những phần mộ chưa trùng tu xuống cấp rất trầm trọng. Đa số trong đó bị mất bia mộ rất nhiều. Có những phần mộ nếu trùng tu không kịp sẽ bị mất dạng luôn.”

Phóng sự của RFA, ngày 7 tháng 8,năm 2015, Thanh Trúc, phóng viên RFA phỏng vấn: Thưa ông dân biểu Lowenthal, khi ghé thăm Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, nay là nghĩa trang Bình An, ông có nhìn thấy tình trạng hoang tàn đổ nát nơi đó như trong những bức ảnh mà VAF đã chụp và đưa cho ông coi?

“DB Lowenthal: Đúng là rất khó để tìm thấy cái mình muốn thấy, nhưng cũng dễ dàng nhận ra là nơi đó chẳng có ai quan tâm, chẳng có ai chăm sóc. Tôi nghĩ nếu được trùng tu thì đây là một nơi đáng cho những người trở về đến viếng thăm và cho họ cái cảm giác được chào đón trở lại. Đáng tiếc chính phủ Việt Nam không muốn thực hiện nghĩa cử đó, không muốn chứng tỏ thiện chí cởi mở, thay đổi tư duy trong việc tôn trọng nhân quyền của người đã chết qua việc cho VAF quyền được trùng tu nghĩa trang này một cách chính thức…”. “Các viên chức chính phủ đều nói sẽ làm nhưng họ đã không giữ lời hứa…

Câu tóm lượt của phóng sự: “Theo tôi thì chính quyền địa phương Bình Dương không có thiện chí và không cho phép thực hiện một công việc vừa nhân đạo vừa có tính cách hàn gắn những vết thương chiến tranh còn tồn tại đến giờ. – DB Lowenthal.

Năm 2005 ký sự của một du khách Mỹ muốn viếng Nghĩa trang Quân Đội VNCH ở Biên Hoà mà không vào được. Sau đây là một đoạn nhật ký của Maggy Sterner trong Vietnam Dairy 4: Honoring the Dead  ngày 15/7/2005, sau khi ghé mà không được vào viếng để tôn vinh tử sĩ trong Nghĩa Trang Quân Đội Biên hòa. Người Mỹ này đi với con, sau khi quan sát từ ngoài có một câu hỏi: “Is this a prison for ghosts?” (đây phải chăng là trại giam những vong hồn [tử sĩ VNCH]?).

Câu hỏi đó là câu kết luận của đoạn nhựt ký của Ông như sau: “Cách một khoảng ngắn trên xa lộ đi về hướng bắc, chúng tôi gặp nghĩa trang quốc gia của quân đội Miền Nam VN, gọi là Nghĩa Trang Biên Hoà. Có một thời, đây là một nghĩa trang lớn nhứt của Nam VN. Bây giờ nó bị bao bọc bởi một tường rào cháy nám, bên trên là những vòng kẽm gai và nhiều tháp canh gác. Ngay đối với ngôi nhà mồ trên đồi, nơi người ta thường bắt đầu bày tỏ sự chào kính, cũng bị cấm. Sát bên cạnh nghĩa trang, chúng tôi thấy những tân binh của bộ đội mới của VN đang giặt đồ và trồng rau. Tại sao cần quá nhiều quân nhân ở một địa điểm như thế này? Tại sao nghĩa trang trông giống như một căn trại võ trang. Những bộ đội trẻ đóng tại căn cứ này – sanh sau Chiến tranh VN chấm dứt – không còn bị đe dọa bởi những người Miền Nam VN “phản động” hàng ngàn người đang nằm dưới đất ở đây. Những quân nhân của Miền Nam mà Đảng CSVN gọi là “bù nhìn” và không cho có mặt trong lịch sử hay viện bảo tàng. Qua kẽ hở của tường rào nám đen, chúng tôi thấy vài ngôi mộ bị cỏ dại cao che phủ. Một năm trước đây một đoạn  video từ VN đã đến được Mỹ cho thấy nhiều mộ bia bị hư hao. Nhiều phần của nghĩa trang bị cố ý phá hoại. Tại sao cho phép điều đó xảy ra? Tại sao làm những tường rào ra và tháp canh? Nhà cầm quyền sợ cái gì? Phải chăng đó là trại nhốt những vong hồn? [tử sĩ VNCH]”.

Ai cũng biết vong hồn đó dĩ nhiên là hương hồn của tử sĩ VNCH vì Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà là nghĩa trang quân đội lớn nhứt, danh dự nhứt của VNCH trước 30-4-75, ngày chấm dứt cuộc chiến tranh của CS Hà nội muốn thôn tính Miền Nam, vì tự do, dân chủ, quân dân cán chính VNCH phải  tự vệ chánh đáng chống lại CS Bắc Việt suốt gần 20 năm ròng rã.

Đó là lý do quân dân cán chính VNCH, người Việt Quốc gia, người Việt yêu tự do, dân chủ không thể sống được với CSVN đang thống trị đất nước VN trong gọng kềm CS, di tản ra ngoại quốc. Không ở được trong nước nhà với CS, người Việt mang hồn thiêng sông núi VN theo mình ra hải ngoại, giương cao biểu tượng là ngọn cờ quốc gia VN nền vàng ba sọc đỏ lên ở VN Hải Ngoai. Và sau đó kết hợp cùng nhau thành lập Nghĩa Trang Quân Cán Chính VN Cộng Hoà ở Nam California, tiểu bang người Việt định cư đông nhứt thế giới. Để thỉnh hương hồn anh linh tử sĩ VNCH về nơi an nghỉ xứng đáng để tưởng niệm. Và để đáp ứng nguyện vọng người còn sống, lúc sống từng chiến đấu bên nhau khi chết cùng nằm kề bên nhau. Người Việt hải ngoại đã đóng góp, mua đứt, trả dứt miếng đất 55 mẫu tây rồi, đang làm thủ tục xây cất./.(VA)

Đôi điều suy nghĩ về vương triều Nguyễn

Hoa Kim Ngo shared nghiên cứu lịch sử‘s post.

Bài nên xem

Cmt của Nguyen : Công lao của Vua Chúa Nguyễn là vô cùng to lớn, không hề thua kém các triều đại trước đó. Còn về yếu kém, triều đại nào chả có, và chế độ cs hiện tại là tệ hại và nhục nhã nhất trong 2500 lịch sử nước Việt Nam ta.

 
 · 
 

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, toàn bộ những giá trị kinh tế – xã hội của miền Nam đều bị xóa bỏ và thay thế bởi những khái niệm, chuẩn mực mới của miền Bắc XHCN. Riêng về lịch sử, triều Nguyễn (1802 – 1945) chịu sự phê phán, lên án hết sức nặng nề. Tất cả đường phố Sài Gòn có biển tên vua quan triều Nguyễn đều bị xóa bỏ, thay bằng những tên khác như Nguyễn Hoàng (bị thay bằng Trần Phú), Gia Long (Lý Tự Trọng), Thành Thái (An Dương Vương), Minh Mạng (Ngô Gia Tự), Hiền Vương (Võ thị Sáu), Lê Văn Duyệt (Cách Mạng tháng 8), Võ Di Nguy (Phan Đình Phùng), Nguyễn Huỳnh Đức ( Huỳnh Văn Bánh), Trương Minh Giảng (Lê Văn Sỹ), Phan Thanh Giản (Điện Biên Phủ), Võ Tánh ( Hoàng văn Thụ) v.vv… Những ngôi trường miền Nam nổi tiếng một thời, mang tên vua chúa và các khai quốc công thần triều Nguyễn cũng chịu chung số phận bị xóa tên như Gia Long, Petrus Ký, Lê Văn Duyệt, Trịnh Hoài Đức, Châu Văn Tiếp, Phan Thanh Giản …Đặc biệt địa danh “Gia Định” để chỉ một vùng đất là thủ phủ miền Nam đã tồn tại hơn 200 năm cũng bị xóa mất. Sách giáo khoa và tham khảo trong nhà trường phổ thông dùng những từ ngữ hết sức “cay nghiệt” khi nói về các vua chúa nhà Nguyễn : “…Triều Nguyễn là vương triều phong kiến cuối cùng dựng lên bằng một cuộc chiến tranh phản cách mạng nhờ thế lực xâm lược của người nước ngoài. Gia Long lên làm vua lập nên triều Nguyễn sau khi đàn áp cuộc chiến tranh cách mạng của nông dân … Triều Nguyễn là vương triều tối phản động …Bản chất cực kỳ phản động của chế độ nhà Nguyễn bộc lộ rõ ngay từ đầu qua những hành động khủng bố, trả thù vô cùng đê hèn của Nguyễn Ánh đối với các lãnh tụ nông dân và những người thuộc phái Tây Sơn kể cả phụ nữ và trẻ em… “Chính quyển nhà Nguyễn hoàn toàn đối lập với nhân dân và dân tộc. Nó chỉ đại diện cho quyền lợi của những thế lực phong kiến phản động, tàn tạ, nó không có cơ sở xã hội nào khác ngoài giai cấp địa chủ. Vì vậy, các vua nhà Nguyễn từ Gia Long (1802-1819) đến Minh Mệnh (1820-1840), Thiệu Trị (1841-1847),Tự Đức (1847-1883) đều rất sợ nhân dân và lo lắng đề phòng các hành động lật đổ. Chính vì khiếp nhược trước phong trào nhân dân mà nhà Nguyễn không dám đóng đô ở Thăng Long, phải dời vào Huế”.(1)

Nhiều thế hệ học sinh đã được học những bài học lịch sử với quan điểm đánh giá cực đoan như vậy, nên không trách trong một thời gian dài, rất nhiều những ngộ nhận oan sai, thậm chí lòng căm thù đối với nhà Nguyễn tỏ ra “hết sức sâu sắc”. Thực ra, các vua chúa triều Nguyễn cũng có nhiều công lao to lớn trong sự nghiệp mở nước và thống nhất đất nước, chấm dứt nội chiến…mà vì nhiều lý do, người ta cố tình bỏ quên hoặc lãng tránh nhắc đến các sự kiện đó, hoặc buộc phải nhắc đến thì lại cố tình gán ghép cho những động cơ sai trái, suy diễn theo hướng có tội. Đó là một thái độ không công bằng, thiếu tôn trọng sự thật khách quan, thiên lệch và bóp méo lịch sử. Bài viết này không có tham vọng “tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời” (Kiều), cũng không nhằm biện minh cho những sai lầm của nhà Nguyễn trong quá khứ, chỉ mong cung cấp những sự kiện lịch sử có thật để bạn đọc có một cái nhìn khách quan, đầy đủ hơn từ đó có những nhận xét công tâm về nhà Nguyễn, một vương triều vẫn đang có nhiều tranh cãi trong quá khứ và cả hiện tại.

https://nghiencuulichsu.com/…/doi-dieu-suy-nghi-ve-vuong-t…/

Kiến Hào Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, toàn bộ những giá trị kinh tế – xã hội của miền Nam đều bị xóa bỏ và thay thế bởi những khái niệm, chuẩn mực mới của miền Bắc XHCN. Riêng về lịch sử, tr…
NGHIENCUULICHSU.COM
 

Từ chặt hoa đến bẻ hương

Từ chặt hoa đến bẻ hương

Viết Từ Sài Gòn
2018-02-19
 

Những cặp đôi nhảy đầm ở tượng đài Lý Thái Tổ, Hà Nội hôm 17/2/2018

Những cặp đôi nhảy đầm ở tượng đài Lý Thái Tổ, Hà Nội hôm 17/2/2018

 Courtesy FB Lê Hoàng
 

Đầu năm, đầu tháng, lẽ ra tôi nên nói chuyện gì đó vui vui. Nhưng thực sự khó mà nói chuyện vui được khi mọi thứ trong xã hội tôi sống trở nên tệ hại và bệ rạc. Từ chuyện cuối năm nông dân bán hoa không được thì thẳng tay chặt hoa cho đến chuyện một người đàn bà xông vào phá lễ tưởng niệm những chiến sĩ đã ngã xuống trong cuộc chiến Việt – Trung 1979, và thêm nữa, Võ Văn Thưởng, con trai cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, hiện là Trưởng ban tuyên giáo Trung ương trả lời với truyền thông là “tôi mới nhậm chức nên không biết gì về cuộc chiến biên giới 1979”.

Vì sao nông dân trở nên máu lạnh? Họ máu lạnh từ bao giờ? Vì sao người ta trở nên hỏng hóc tư duy đến độ không biết phải trái, xông vào bẻ hương, phá đám lễ tưởng niệm? Vì sao Võ Văn Thưởng lại trả lời ngô nghê như một đứa thất học?

Ở khía cạnh thứ nhất, nói nông dân trở nên máu lạnh, điều này vô hình trung vơ đũa cả nắm và xúc phạm những người quanh năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời để làm ra hạt gạo, làm ra lương thực cho quốc gia. Nhưng đâu đó, rau bơm thuốc hôm nay, ngày mai hái đi bán, bơm dầu nhớt cho rau muống, nhúng rau củ quả vào hóa chất để tăng trọng lượng sau một đêm và đi bán, đều do người nông dân, nhà buôn Việt Nam và cả nông dân Trung Quốc thực hiện. Và người tiêu dùng Việt Nam trở thành cái sọt rác hứng toàn bộ chất độc của nông nghiệp vô lương Việt – Trung.

Vì sao lại có chuyện đổ đốn, đau khổ như vậy? Khi chính những người chân lấm tay bùn, những người gần gũi thiên nhiên và lương thiện nhất lại trở thành kẻ giết đồng loại không thương tiếc, tôi nhấn mạnh là cả nông dân Trung Quốc và nông dân Việt Nam đều là những kẻ máu lạnh đáng thương, giết đồng loại một cách không thương tiếc. Và sở dĩ xảy ra nông nổi này, nói cho cùng, nông dân cũng là nạn nhân, họ là nạn nhân của nhà quản lý và nạn nhân của sự mù mờ, thiếu kiến thức khoa học và cả ham tiền bởi từng sống qua quá nhiều gian khổ, đau khổ.

Một đứa bé đói khổ, cần ăn một ổ bánh mì cầm hơi, đang nằm giữa đường, thứ mà nó cần nhất không phải là bài giảng về lòng yêu thương hay tính từ bi hỉ xả của một vị sư hay một vị linh mục nào đó, mà một ổ bánh mì của kẻ cướp có giá trị hơn nhiều trong lúc ấy.

Tình trạng người nông dân Việt Nam và nông dân Trung Quốc là tình trạng của đứa bé đói ăn trong câu chuyện dài dòng của lịch sử. Người nông dân không có kiến thức về hóa chất, đương nhiên, người nông dân cần có tiền để tồn tại, thậm chí để làm giàu, đương nhiên. Và mọi hoạt động, làm ăn của người nông dân, bao giờ cũng thụ động hơn rất nhiều so với các nhóm ngành nghề khác, người nông dân, đặc biệt là nông dân Việt buộc lòng phải chạy theo thị trường, chạy theo chính sách nhà nước. Nhà nước mở cửa cho lưu thông hành hóa với Trung Quốc thì người nông dân cả hai quốc gia này nghĩ đến chuyện làm sao có nhiều nông sản bán sang nước kia. Nhà nước thả cửa các loại hóa chất bơm kích thích hoa củ quả chóng lớn thì người nông dân tin rằng nó không tệ, nó giúp mình mau giàu.

Bởi nhà nước chi phối toàn bộ, từ y tế đến giáo dục, văn hóa, khoa học… Người nông dân tiếp nhận một cách thụ động mọi thứ nhà nước bán ra, ban hành ra… Đó là sự thật ở các nước độc tài, gồm cả Việt Nam và Trung Quốc. Và cái giá của việc thụ động này là vì chén cơm manh áo, vì chút tiền để nộp các khoản phí cho con học hành, vì chút tiền để ăn Tết, người nông dân phải chạy đua, chạy đua đến độ bất chấp và máu lạnh.

Câu chuyện, hình ảnh người nông dân chặt cây quất, bẻ hoa mào gà, đập nát hoa cúc, hoa vạn thọ, hoa thược dược, hoa lay ơn, hoa cẩm chướng… (Ui cả chục loài hoa và cả hàng trăm, thậm chí hàng ngàn, hàng triệu chậu hoa trên cả nước bị chính tay người đã trồng, đã nâng niu hoặc chí ít người đã dám bỏ ra hàng chục, hàng trăm triệu đồng để mua nó về với tràn trề hi vọng… đập nát, giết chết trong trưa Ba Mươi, Chiều Ba Mươi Tết…) lại cho thấy một ‘ổ bánh mì khác’.

Vì sao? Vì lẽ, cái ổ bánh mì trong cơn đói, hay niềm hi vọng nào đó đã bị giết trong cơn hỗn loạn của sự trí trá, của một chính sách vô trách nhiệm hay trong một giác độ khác, đó là thứ đòn mị dân và người nông dân nếm đủ, nếm trọn vẹn. Để rồi, đôi khi người ta đâm ra giận và thù ghét cả máu tim hay sự tồn tại của mình. Phản ứng của người nông dân đầy vẻ máu lạnh từ chuyện nhúng hóa chất rau củ quả để bán kiếm nhiều tiền, chặt cây, chặt hoa khi không bán được… Tất cả, như một sự quyên sinh về nhân cách. Rất may là người ta đã có cái cây, chậu hoa để thế mạng trong cuộc quyên sinh này! Nhưng cũng không ít nông dân, nhà buôn đã tự tử, đã quyên sinh bản thân vì những chuyện tương tự!

Và hôm 17 tháng 2, khi các nhà hoạt động dân chủ, xã hội dân sự tổ chức tưởng niệm cuộc chiến Biên giới phía Bắc 1979, đã có một người đàn bà bước vào buổi lễ trang nghiêm, sẵn sàng để người khác ghi hình ảnh quấy rối, hành vi nhiễu loạn, hồ đồ của mình. Rồi thêm cảnh các cặp đôi hưu trí mặc áo dài, veston ôm nhảy xà nẹo với nhau, tan, te ngay trước tượng đài, một số khác thì đi rút chân hương mà bẻ… Dường như mọi hành vi xấu xa, hoen ố nhất đều được họ trưng ra ngay giữa thủ đô Hà Nội, trong ngày Tết Nguyên Đán, ngày thiêng liêng của đất nước, dân tộc, họ không ngán gì cả!

Điều này khiến tôi liên tưởng đến cuộc chiến Mậu Thân 1968, khi mà cả nước đang trong giờ phút thiêng liêng, đón giao thừa, thì họ đã khai hỏa, tiếng súng của họ làm cho nhiều người mơ hồ, nhầm tưởng là tiếng pháo. Dường như không còn yếu tố nhân cảm hay tôn trọng một luật chơi nhân đạo nào đối với người Cộng sản mặc dù họ nhân danh hòa bình, nhân đạo và tương lai dân tộc để phát động chiến tranh chiếm miền Nam.

Và đây cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhiều thế hệ trở nên máu lạnh dưới triều đại Cộng sản xã hội chủ nghĩa. Bởi phải sinh ra và lớn lên trong một chế độ chính trị mà ở đó, sự tàn độc, tính tiểu nhân, nhược tiểu sợ lớn hiếp bé, tính thủ đoạn được thả sức lên ngôi. Con người ngày càng trở nên mụ mị bởi chính sách ngu dân của nhà cầm quyền… Thì e rằng rất khó để có được một xã hội tử tế.

Một xã hội mà con người muốn thỏa mãn cái ăn, cái mặc và chỗ ở thì phải chấp nhận quyên sinh nhân cách, quyên sinh mọi giá trị đạo đức và quyên sinh cả tình thương, tình thân để đánh đổi lấy nó, thì làm sao tìm ra sự tử tế, lòng lân mẫn hay tính tự trọng?

Một xã hội có bề dày cả ngàn năm văn minh lúa nước, con người gắn bó, hòa điệu với cây cỏ, thiên nhiên, nhưng cũng chính những con người gần với thiên nhiên nhất lại vung tay chặt phá thiên nhiên một cách không thương tiếc và có chút gì đó hả hê, thỏa mãn trong đau khổ… Thì liệu sự tử tế có còn?

Một xã hội có cả ngàn năm Bắc thuộc, trải qua nhiều cuộc binh biến, chiến tranh và giữ nước, xây dựng đất nước. Nhưng cuối cùng cái tinh thần xây dựng đất nước lại gắn với tính lệ thuộc chính trị và mọi gái trị qui ước về đạo đức chính trị bị phá vỡ không thương tiếc, dẫn đến hệ lụy một dân tộc đáng tự hào trở nên đớn hèn và tội nghiệp thì liệu tương lai dân tộc sẽ về đâu?

Một năm mới ghé đến, nhưng nghe sao buồn vẫn cứ nhiều hơn vui? “Vui là vui gượng kẻo mà”!

Mậu Thân 1968: Tổng tấn công và nổi dậy, cuộc chiến xâm lược hay cuộc nội chiến tương tàn?

Mậu Thân 1968: Tổng tấn công và nổi dậy, cuộc chiến xâm lược hay cuộc nội chiến tương tàn?

Bởi  AdminTD

19/02/2018

FB Trương Nhân Tuấn

19-2-2018

 Ảnh: Tạp chí LIFE

Lập luận của nhà nước CSVN hiện nay cuộc chiến Mậu thân 1968 là cuộc “tổng tấn công và nổi dậy”. Theo lập luận này chiến tranh VN là một cuộc chiến tranh “giải phóng”, đánh cho Mỹ cút đánh cho Ngụy nhào. Mỹ là lực lượng xâm lược “thực dân kiểu mới”. “Ngụy” là lực lượng “tay sai” của Mỹ. Tổng tấn công là vì lực lượng quân đội tổng hợp đến từ miền Bắc (quân chính qui) và quân “nằm vùng”, gọi là quân “giải phóng” (thuộc MTQGGPMNVN). “Nổi dậy” là vì có yếu tố “nhân dân nổi dậy cướp chính quyền”, điển hình ở Huế.

Nhưng nếu ta xét dưới một lăng kính khác, như dưới cái nhìn của phía người Mỹ, hay của phía Việt Nam Cộng Hòa, trận Mậu Thân còn có tên gọi khác, không đơn thuần là “tổng tấn công và nổi dậy”.

Dưới cái nhìn của người Mỹ, chiến tranh VN là chiến tranh “quốc tế”, theo đó “quốc gia South Vietnam” là một “quốc gia độc lập có chủ quyền”. Quốc gia này bị quân miền Bắc “xâm lược”. Đạo quân miền Bắc được sự yểm trợ vũ khí đạn dược, cũng như ý thức hệ chính trị, của khối cộng sản, gồm Liên Xô, Trung Cộng và khối XHCN gồm các nước Đông Âu. Còn quân “giải phóng”, thuộc MTGPMN, là một “cánh tay nối dài” của CS miền Bắc. Bởi vì lực lượng này do miền Bắc vũ trang đồng thời nhân sự lãnh đạo tất cả đều là đảng viên của đảng CSVN. Tức là, quân “chính qui” miền Bắc hay quân “giải phóng” trong Nam, thực tế chỉ là một, do đảng CSVN lãnh đạo.

Sự có mặt của Mỹ ở miền Nam VN, tương tự như sự có mặt của quân đội này ở Nam Hàn (từ năm 1952), ở Tây Đức (từ sau Thế chiến thứ II cho đến đầu thập niên 90 của thế kỷ trước), hay ở một số nước Á Châu hay Châu Âu. Mục đích sự hiện diện quân đội Mỹ ở các nơi đây không nhằm “chiếm hữu lãnh thổ” mà nhằm bảo vệ “thế giới tự do”, chống lại thế lực cộng sản bành trướng, như làn sóng đe dọa nhuộm đỏ thế giới.

So sánh với thực tế hiện nay, khối cộng sản đã sụp đổ. Ai thắng ai thua đã rõ. Khẩu hiệu “chống Mỹ xâm lược” của CS miền Bắc là không có căn cứ. Mỹ không hề “xâm lược” miền Nam.

Cũng như việc gọi chính quyền miền Nam là “Ngụy”. Hà Nội đã từng gọi chính quyền Nam Hàn, chính quyền Tây Đức… là “ngụy”, là “tay sai thực dân Mỹ”, như đã từng gọi chính quyền VNCH. Đến nay ta thấy lãnh đạo VNCH không hề phụ thuộc Mỹ, ở các quyết định “kinh bang tế thế”.

Mục tiêu “giải phóng dân tộc” của CS miền Bắc vì vậy cũng không đúng. Người Mỹ không hề có tham vọng bành trướng lãnh thổ ở Tây Đức, ở Nam Hàn, hay ở miền Nam VN. Dân tộc miền Nam cũng không hề bị “kềm kẹp” bởi bất kỳ thế lực nào. Nếu so sánh mức độ “tự do và dân chủ”, chế độ miền Nam thời đó hơn xa các nước Châu Á bây giờ như Thái lan, Mã Lai, Phi v.v… Các bộ luật của miền Nam không hề hạn chế người dân ở các quyền tự do cơ bản (như luật của VN bây giờ). Người dân miền Nam không cần ai “giải phóng” hết cả.

Chiến tranh VN, miền Bắc từ cây súng viên đạn cho tới cục lương khô, đều đến từ TQ, LX hay từ khối XHCN “anh em”.

Tài liệu từ phía TQ được bạch hóa, quân TQ thường xuyên có mặt ở VN, có lúc đến 200.000 quân, trong những thời điểm gay cấn nhứt. Trận Điện Biên Phủ, tài liệu TQ bạch hóa, rõ ràng chiến thắng là chiến thắng của quân Tàu. Từ cấp chỉ huy chiến lược, cho tới mọi thứ vũ khí, đều do Tàu cung cấp. Hiệp định Genève 1954, ký kết do hai sĩ quan CSVN và Pháp, là ý nguyện của Tàu và Pháp, nhằm tránh một cuộc chiến tranh thế giới bùng nổ (kiểu Đại Hàn).

Lê Duẩn từng tuyên bố câu để đời “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, cho Trung Quốc”.

Dĩ nhiên, nhận viện trợ của LX và TQ thì phải đánh cho LX, cho TQ mà thôi.

Lập trường VNCH là “một quốc gia độc lập có chủ quyền” đã được nhìn nhận, không chỉ ở các nước đồng minh tham gia chiến tranh VN (Úc, Canada, Tân Tây Lan, Phi, Thái lan, Nam Hàn…). Các nước này trong thời điểm Mậu Thân đều có mặt ở VN. VNCH là một “quốc gia” còn được đông đảo học giả VN hiện nay công nhận.

Phần lớn các học giả “nghiên cứu Biển Đông” của VN hiện nay đều khẳng định “VNCH là một quốc gia độc lập, có chủ quyền”.

Nếu thật sự như vậy, chiến tranh VN là một cuộc chiến “xâm lăng”, quốc gia này đem quân chiếm một quốc gia khác, như Đức đánh chiếm nước Pháp năm 1940.

Vì vậy làm gì có chuyện “tổng tấn công và nổi dậy”!

Quân CS miền Bắc, cùng với tay sai MTGPMN, là quân “xâm lược”. Những “trí thức phật tử” nằm vùng như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân… là quân “cộng hòa gian”, ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản.

Nếu chiếu theo luật Hình sự của VN hiện nay, đám đồ tể “phật tử mài dao” HPN Tường, ND Xuân… đều bị kết vào tội “phản bội tổ quốc”, lý ra phải tử hình.

Nhưng luật của VNCH ngày xưa không có các điều 79, 88, 258 v.v… Vì vậy bọn “cộng hòa gian” mới lớn mạnh, trở thành một “lực lượng”. Họ muốn làm gì thì làm, muốn bán nước thì bán.

Nhưng lực lượng “cộng hòa gian” ngoại trừ ở Huế, không đủ “mạnh” để “nổi dậy”. Dân chúng không ai theo cộng sản hết cả. Bọn này nhanh chóng bị dân chúng cô lập, tố cáo. Hầu hết lớp CS “nằm vùng” sau 1968 đều ra “hồi chánh”.

Tức là yếu tố “nổi dậy” cũng không đúng. Ở Huế là phản loạn nổi dậy, giết chóc dân lành. Không hề có dân chúng nào “nổi dậy” hết cả. Cuộc thảm sát ở Huế thuộc về “tội ác diệt chủng”.

*****

Nếu đứng trên một lập trường khác, nhìn chiến tranh VN qua một lăng kính khác. Hai bên VNDCCH và VNCH là hai thực thể chính trị cùng thuộc về một “quốc gia duy nhứt” gọi là Việt Nam. Hai bên VNCH và VNDCCH là hai “quốc gia chưa hoàn tất – Etat partiel”, mỗi bên đều có nguyện vọng “thống nhứt đất nước”.

Cái nhìn này thuộc “thiểu số”, do chính tôi đề xướng, nhằm mục đích khẳng định chủ quyền HS và TS vẫn thuộc về VN hôm nay.

Dưới quan điểm này thì chiến tranh VN là một cuộc “nội chiến” nồi da xáo thịt. Hai bên là “nạn nhân” của các thế lực quốc tế. Cuộc chiến VN là thí điểm “nóng” của “chiến tranh lạnh”, của hai thế lực toàn cầu là CS và tư bản.

Trận Mậu Thân, cũng như thảm sát Mậu Thân ở Huế, là “hệ quả tất yếu” của “chiến tranh cách mạng” ở hình thức “nóng”.

Các phong trào cách mạng như “cải cách ruộng đất”, “cách mạng văn hóa”, “cải tạo công thương nghiệp” ở VN hay ở TQ, hay các vụ “kinh tế mới” ở LX, … nạn nhân của cộng sản trên 100 triệu người (VN khoảng 4 triệu người). Đó là nạn nhân ở hình thức “lạnh”.

Thảm sát ở Huế, cũng như 100 triệu người là nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản, là “tội ác của cộng sản” mà những thành phần “đồ tể” như HPN Tường, ND Xuân là những kẻ phạm “tội ác diệt chủng”, “tội ác chống nhân loại”.

Từ hai cái nhìn, của Mỹ “VNCH là một quốc gia độc lập có chủ quyền”, hay cái nhìn (của tôi) “VNCH và VNDCCH là các quốc gia chưa hoàn tất. Cả hai đều thuộc về một quốc gia VN duy nhứt”. Thì chiến thắng của đảng CSVN là chiến thắng của một “lực lượng nội xâm”. Một chế độ “thực dân mới” đã xuất hiện ở VN. Chúng ăn của dân không từ một thứ gì. Chúng buôn dân, bán nước. Các chủ trương “xuất khẩu lao động” là một hình thức buôn dân. Các chủ trương “cho mướn đất 70 năm, 100 năm” như Formosa, Bô xít… là bán nước trá hình. Chúng ký kết các hiệp định đưa VN vào vòng lệ thuộc (vói TQ)…

Nếu CSVN là một “lực lượng dân tộc” thì họ đã không đi ngược lại quyền lợi của dân tộc.

Thảm sát Huế đã qua 50 năm. Các “bí mật” về cuộc thảm sát lý ra phải được bạch hóa. Vấn đề khó khăn là Hoàng Phủ Ngọc Tường có trách nhiệm (ít nhứt) vê 3 cái chết : hai người Mỹ và một người Pháp.

Vì vậy các bí mật này khó được bạch hóa. Các văn khố nước ngoài không nói chi tiết về các vụ này. Chỉ khi mà văn khố chiến tranh của VN được mở ra cho mọi người tham khảo. Ta mới có thể đọc được những “bản án” của các “tòa án nhân dân” tại Huế.

“Côn đồ Đặng Tiểu Bình” từng chủ trương xóa bỏ Việt Nam

“Côn đồ Đặng Tiểu Bình” từng chủ trương xóa bỏ Việt Nam

Polpot và Đặng Tiểu Bình. Ảnh: internet

Những bồi bút, văn nô của đảng trong thời gian qua xuất bản hàng loạt sách ca ngợi Đặng Tiểu Bình với những cái tựa đọc lên rất dễ bị tăng xông máu như “Con đường phi thường của Đặng Tiểu Bình”, “Đặng Tiểu Bình, một trí tuệ siêu việt” v.v…

 Lẽ ra nên có một tác phẩm kể tội ác của y đối với dân tộc Việt Nam và đặt tựa là “Côn đồ Đặng Tiểu Bình” mới đúng. “Côn đồ” là chữ y dùng để chỉ Việt Nam.

Lý do vì “Côn đồ Đặng Tiểu Bình” đã từng chủ trương xóa bỏ nước Việt Nam trong bản đồ thế giới bằng một cuộc chiến đánh phủ đầu (preemptive war).

“Đánh phủ đầu” theo chủ trương của “Côn đồ Đặng Tiểu Bình” không phải là để dời vài cột mốc, đụng độ lẻ tẻ dọc biên giới mà là cuộc tấn công quyết định trước khi Việt Nam có khả năng chống trả.

“Côn đồ Đặng Tiểu Bình” nói với Tổng thống Jimmy Carter trong chuyến viếng thăm Mỹ đầu năm 1979: “Bất cứ nơi nào, Liên Sô thò ngón tay tới, chúng ta phải chặt đứt ngón tay đó đi.”

Cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger giải thích quan điểm này trong tác phẩm Về Trung Quốc (On China):

“Những gì Đặng Tiểu Bình đề nghị về căn bản là chính sách đánh phủ đầu, đó là một lãnh vực trong chủ thuyết quân sự ngăn chận tấn công của Trung Quốc… Nếu cần thiết, Trung Quốc sẽ chuẩn bị phát động các chiến dịch quân sự để phá vỡ kế hoạch của Liên Sô, đặc biệt tại vùng Đông Nam Á”.

“Đông Nam Á” và “ngón tay” theo ý “Côn đồ Đặng Tiểu Bình” không phải là mục tiêu nào khác mà là Việt Nam.

Trong chuyến viếng thăm Mỹ đầu năm 1979, Đặng không mua chuộc được sự ủng hộ công khai của Mỹ. Mỹ chỉ đồng ý giúp theo dõi sự động binh của 55 sư đoàn Liên Sô phía Bắc và chụp không ảnh các trận đánh vùng biên giới.

Đặng tưởng đó là một thành công nhưng hóa ra là một thất bại. Nhờ những tấm ảnh chụp từ vệ tinh mà các cơ quan truyền thông quốc tế biết dân quân Việt Nam vùng biên giới dù không chuẩn bị đã dạy cho Trung Cộng một bài học đích đáng.

Theo nhận xét của Đại Tá Russell D. Howard thuộc Học Viện An Ninh Quốc Gia của Không Quân Hoa Kỳ, Trung Cộng thiệt hại chỉ trong vài ngày bằng hơn một nửa số tổn thất của Mỹ trong 10 năm tham dự chiến tranh Việt Nam.

Sau tuần lễ đầu chịu đựng nhiều thiệt hại nhưng danh sách các vùng chiếm được chỉ là những làng xã dọc biên giới, “Côn đồ Đặng Tiểu Bình” ra lịnh bằng mọi giá phải chiếm cho được thành phố Lạng Sơn, thủ phủ tỉnh Lạng Sơn để lấy tiếng trước khi rút lui. Chiều ngày 4 tháng Ba, sau nhiều trận giao tranh đẫm máu quân Trung Cộng tiến vào Lạng Sơn.

Khi rút khỏi những nơi này, quân Trung Cộng san bằng tất cả nhà cửa để trả thù cho số thương vong quá lớn.

Ký giả Nayan Chanda thăm vùng giao tranh vài ngày sau cuộc chiến đã ghi nhận không chỉ các công sở mà cả trường học, bịnh viện đều bị quân Trung Cộng giựt sập.

Để ngăn chận khối Việt Miên Lào liên minh nhau, tháng 8 năm 1975, “Côn đồ Đặng Tiểu Bình” chia sẻ với Khieu Samphan, nhân vật số ba trong Khmer Đỏ “Khi một siêu cường [Mỹ] rút đi, một siêu cường khác [Liên Sô] sẽ chụp lấy cơ hội mở rộng nanh vuốt tội ác của chúng đến Đông Nam Á”.

Để xóa bỏ Việt Nam, “Côn đồ Đặng Tiểu Bình” ủng hộ CS Campuchia giết một cách dã man đồng bào Việt sống dọc biên giới Việt Miên.

“Côn đồ Đặng Tiểu Bình” gặp riêng “khát máu Pol Pot” từ 28 tháng 9 đến 22 tháng 10, 1977 tại Bắc Kinh.

“Khát máu Pol Pot” chủ trương chỉ cần một người Campuchia diệt được ba chục người Việt, dân Campuchia sẽ tiêu diệt toàn bộ dân tộc Việt Nam. Các cuộc đột kích vào đảo Thổ Châu, Phú Quốc, nhiều địa phương thuộc các tỉnh An Giang, Tây Ninh, đốt phát làng mạc, giết người, bắt cóc, bịt mắt thả sông của Khmer Đỏ trong giai đoạn 1977-1978 phát xuất từ chủ trương này.

Về mặt đối ngoại, “Côn đồ Đặng Tiểu Bình” cố gắng thuyết phục các quốc gia Đông Nam Á, Á Châu và Mỹ.

Từ cuối năm 1978 đến đầu năm 1979, Đặng viếng thăm hàng loạt quốc gia châu Á như Nhật, Thái Lan, Mã Lai, Singapore, Miến Điện, Nepal. Tại mỗi quốc gia thăm viếng, họ Đặng luôn đem thỏa ước Việt-Sô ra hù dọa các nước láng giềng như là mối đe dọa cho hòa bình và ổn định Đông Nam Á.

Đặng phát biểu tại Bangkok ngày 8 tháng 11 năm 1978: “Hiệp ước [Việt Sô] này có ý nghĩa quan trọng hơn đối với Á Châu và Thái Bình Dương. An ninh và hòa bình châu Á, Thái Bình Dương và toàn thế giới bị đe dọa”. Ngoại trừ Singapore, Đặng nhận sự ủng hộ của hầu hết các quốc gia Đông Nam Á.

Lý Quang Diệu sáng suốt chỉ ra cho “Côn đồ Đặng Tiểu Bình” thấy: “Không có một cộng đồng Nga kiều nào tại các nước Đông Nam Á có thể dẫn đến các cuộc nổi dậy của Cộng Sản do Liên Sô ủng hộ nhưng ở đâu cũng có các cộng đồng Hoa kiều được đảng và nhà nước Trung Cộng xúi dục và ủng hộ”.

Việt Nam, quốc gia vùng trái độn giữa hai quyền lực thế giới, chưa bao giờ đứng trước một chọn lựa sinh tử như hôm nay.

Một người có trách nhiệm với tương lai đất nước, dù cá nhân mang một thiên kiến chính trị nào, cũng phải biết thức tỉnh, đặt quyền lợi dân tộc lên trên, chọn hướng đi thích hợp với đà tiến văn minh dân chủ của thời đại, chấm dứt việc cấy vào nhận thức của tuổi trẻ một tinh thần bạc nhược, đầu hàng, vinh danh kẻ thù dân tộc.

Chỉ với vài trong số rất nhiều tội ác mà lịch sử sẽ lần lượt viết ra trong tương lai, Đặng Tiểu Bình xứng đáng được gọi “Côn đồ”.