Ước muốn cuối cùng.

To Truong shared Ron Dinh‘s post.
 
 
Image may contain: 2 people

Ron Dinh

 

Ước muốn cuối cùng.

Một tử tù đang chờ thi hành án, anh cầu xin một điều ước cuối cùng là một cây bút chì và một tờ giấy. Sau khi viết cho một vài phút, anh nhờ nhân viên bảo vệ nhà tù gửi giúp bức thư này cho người mẹ ruột của mình.

Trong thư anh viết …

Mẹ, nếu có công lý trong thế giới này, con và mẹ nên bị kết án từ hình cùng nhau. Mẹ cũng có tội cũng như con vì những gì con đã làm.

Mẹ hãy nhớ lại đi, khi con ăn cắp chiếc xe đạp của thằng bé gần nhà. Mẹ đã giúp con giấu chiếc xe đạp đó đi để bố không nhìn thấy nó. 

Mẹ có nhớ lần con lấy trộm tiền từ ví của người hàng xóm không? Mẹ đã đi siêu thị mua sắm cùng với con.

Mẹ có nhớ ai đã bênh vực con khi con cãi lại bố đến nỗi bố phải bỏ đi không? Bố chỉ muốn sửa dạy con vì con đã gian lận trong bài thi và cuối cũng là con phải bị đuổi học.

Mẹ ơi, lúc đó con chỉ là một đứa trẻ, không lâu sau con đã trở thành một thiếu niên hư nghịch và bây giờ con đang là một tử tù chờ thi hành án.
Mẹ ơi, lúc đó con chỉ là một đứa trẻ con cần được bao biện, nhưng cái thực sự con cần là được sửa trị.

Nhưng thôi, con tha thứ cho mẹ! Con chỉ muốn viết thư này để nó có thể đến được nhiều người khác đang làm cha làm mẹ, với hi vọng rằng, họ có thể nhận ra điều tạo nên người tốt kẻ xấu trên thế giới này là sự giáo dục.

Cảm ơn mẹ đã cho con cuộc sống và cũng đã giúp con đánh mất nó.

Đứa con tử tù của mẹ.

“Giáo dục là vũ khí mạnh nhất mà bạn có thể sử dụng để thay đổi thế giới.” (Nelson Mandela)

Xã hội làm ‘nô lệ’ cho thánh thần và dấu hiệu ‘mạt vận’ của văn hoá

Xã hội làm ‘nô lệ’ cho thánh thần và dấu hiệu ‘mạt vận’ của văn hoá


Một xã hội khói hương

Nói ra thì bảo báng bổ, nhưng cứ thử nhìn mà xem, tháng Giêng năm nào, người ta cũng thấy rõ ràng nhất, đầy đủ nhất cái sự mê tín đến khủng khiếp của người Việt.

Một xã hội “khói hương”, với hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn người chen chân mang vác thủ lợn, gà luộc, vàng mã, đủ thứ lễ lạt cồng kềnh và cầu kỳ khắp các chùa chiền, miếu, phủ; từ nơi xa xôi hẻo lánh đến thị thành nhộn nhịp; từ đầu tuần tới cuối tuần, dai dẳng hết cả tháng Giêng, tháng Hai, có nơi còn vắt sang tháng Ba. 

Đâu đâu cũng thấy những người là người, nghi ngút khói hương, sì sụp khấn vái, cầu ước.

Xa xôi gì đâu, mới cách đây mấy ngày, dư luận khiếp đảm chứng kiến một cuộc hỗn chiến dã man bằng nắm đấm, gây gộc, hung hăng và máu để cướp cho bằng được quả “phết”, tại Phú Thọ. Vì tương truyền, có quả ấy trong nhà, cả năm sẽ may mắn, ăn nên làm ra, rồi cả …đẻ con trai. 

Tối hôm sau, hàng chục nghìn người xếp hàng dài cả cây số, tràn khắp các con đường, ngay trục giao thông trung tâm của Thủ đô, vái vọng xa tít tắp vào ngôi chùa Phúc Khánh vì đặt niềm tin vào sự linh thiêng của nơi này.

  Biển người chen chân đi lễ đầu năm ở chùa Phúc Khánh.

Biển người chen chân đi lễ đầu năm ở chùa Phúc Khánh.

 
 

Mùi của khói hương là mùi của bình an, của tĩnh tại, của thời khắc thiêng liêng, của ước vọng tốt đẹp và hướng thiện. Thứ mùi ấy, nhất định không thể tồn tại giữa xô bồ và toan tính.

Cũng đêm đó, ở đền Trần Nam Định, hơn vạn người chen lấn, giẫm đạp, nhảy bổ lên cả lư đồng, bàn thờ để cướp bằng được một chút lộc mang về nhà. Lộc ấy, dù được cướp theo cách báng bổ nhất, cũng được nâng niu như thứ bùa hộ mệnh cho lòng tin mãnh liệt vào đường công danh, thăng quan tiến chức.

Rồi các phủ, các đền, chùa, miếu mạo…cứ sau Tết là tấp nập người ra kẻ vào, khổ sở chen lấn, sớ cầu xin nào cũng dài dằng dặc ti tỉ ước mong.

Thôi thì, cầu mong những điều may mắn, tốt đẹp, an vui trong ngày đầu xuân năm mới vốn là truyền thống tốt đẹp của người Việt bao đời. Những địa danh tâm linh ấy, cũng được dựng lên từ ý nghĩa văn hóa và lịch sử đầy nhân văn của cha ông. 

Nhưng thử hỏi, bao nhiêu người trong số các khách thập phương xa gần kia, mang cái tâm hướng thiện và cầu bình an thực sự đến với những nơi linh thiêng. Hay nhiều hơn thế, những kẻ đang hùng hổ cướp lộc và len lén mua khói bán nhang, mua thần bán thánh đến cầu khấn những điều biểu lộ sự tham lam vô độ của lòng người.

  Nhảy bổ lên cả lư đồng, bàn thờ để cướp bằng được một chút lộc mang về nhà tại đền Trần (Ảnh: Zing)

Nhảy bổ lên cả lư đồng, bàn thờ để cướp bằng được một chút lộc mang về nhà tại đền Trần (Ảnh: Zing)

Mùi của khói hương là mùi của bình an, của tĩnh tại, của thời khắc thiêng liêng, của ước vọng tốt đẹp và hướng thiện. Thứ mùi ấy, nhất định không thể tồn tại giữa xô bồ và toan tính. 

Từ bao giờ, niềm tin của con người được “gá” vào thánh thần chứ không phải giữa con người với con người, giữa con người với ngay chính xã hội mà chúng ta đang sống, đang tồn tại hiển nhiên như vậy?

Cả một xã hội khấn vái, ước ao, một xã hội biến mình thành nô lệ của hương khói và thánh thần.

MƯỜI BỐN

Thanh Tran shared Kim Le‘s post.

 

Image may contain: one or more people, crowd and outdoor

Kim Le

MƯỜI BỐN

Bạn bảo: phải đến sớm nhận chỗ chứ đúng giờ thì đông kín không len nổi.

Chùa Phúc Khánh. Đêm 14. Mỗi suất 200 000 đ. Tổng thu 28 tỉ đồng. 14 vạn suất.

14 vạn suất cầu xin. Chầu chực mới được xin. Bỏ tiền mua suất được xin. Nghe một tên sư quốc doanh ban phát bố thí cho chút hy vọng về một tương-lai-bấp-bênh-có-thể-vì-lòng-thành-phủ-phục-mà-có-thể-có-bớt-chút-nào-đen-tối.

14 vạn người len nhau, để được quyền xin cái không có.

14 vạn. Cho một tối.

Tối nay sẽ 15 vạn hoặc hơn.

Tối 18 lại 18 vạn nữa.

Đến hẹn lại lên, lại nườm nượp rủ nhau cúi lưng đi xin giả dối.

Tôi, chăm chỉ cần cù, đã đi nhiều lần mười bốn tháng, qua nhiều lần mười bốn nghìn cây, mới gặp được, khắp mười bốn phương trời, mười bốn người bạn tâm đắc, mười bốn lứa tuồi, mười bốn con đường yêu quê hương, thương đồng loại.

Họ, 14 vạn, hình như cũng đi tìm gì đó. Có thấy không? Hay chỉ mong mãi được bình yên làm nô lệ? Nhưng khổ, cầu thế chứ cầu nữa cũng đâu có bình an rào rào từ trên trời rơi xuống! Nếu có thì đã chả kỷ lục thế giới về ung thư, về thức ăn độc hại, về ô nhiễm, về tệ nạn, về thất nghiệp, về xuất khẩu lao động, xuất khẩu mại dâm, xuất khẩu cô dâu tuyệt vọng.

Nhìn những đám đông tuyệt vọng này, nhất loạt hướng về tên sư quốc doanh Thích Thanh Quyết, hay một kẻ khác, như hắn, ma giáo kinh doanh nỗi sợ, tôi luôn ao ước có ngày nào, cùng bạn bè mười bốn phương trời, nắn được những dòng suối mười bốn vạn đó, chảy về miền yêu thương, ước vọng, miền thực sự có ánh sáng, nơi ta TẠO RA tương lai thay vì cầu xin ảo giả.

Mười bốn, mười rằm hay mười tám, tôi chúc cho mỗi người trong 14 vạn này đọc nhiều hơn chút, nghe, nhìn nhiều hơn chút, gặp gỡ thêm người tốt để tự cởi bớt dây trói u mê.

Vầng trăng trên cao, chứng cho lòng tôi mong nhé!

20180301

NẮNG

“KHÔNG CÓ LÝ DO GÌ CHÚNG TA CỨ NGHÈO MÃI”

Thanh Tran shared Amy Truc Tran‘s post.
 
Image may contain: 1 person, text
Amy Truc TranFollow

 

“KHÔNG CÓ LÝ DO GÌ CHÚNG TA CỨ NGHÈO MÃI”. Ông Trần Văn – nguyên Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội đã phát biểu như thế. Thấy hơi ngạc nhiên vì ông dùng từ “chúng ta”. Tại vì công tâm mà nói thì chỉ có dân nghèo, chứ quan chức như ông thì giàu sụ. 90 triệu dân, từ người trẻ cho đến người già, từ đàn bà cho đến trẻ em, ai nấy phải è cổ ra nuôi cả 1 lũ quan tham ăn tàn phá hại ko từ thứ gì, thử hỏi làm sao mà dân ko nghèo???

http://m.dantri.com.vn/…/khong-co-ly-do-gi-chung-ta-cu-nghe…

THƯ GỬI CHO NGƯỜI VỪA NẰM XUỐNG: NHẠC SĨ NGUYỄN VĂN ĐÔNG

Nghe tin anh vừa mất, đột nhiên, em như người tụt rơi xuống hố sâu, hụt hẫng, lao đao, hai tay quờ quạng như muốn níu kéo lấy một điểm tựa nào đó không có thật, và khi không nắm được chỗ nào cả thì hoảng hốt, sợ hãi vô cùng. Mắt em như mờ hẳn đi, không nhìn thấy gì dù màn ảnh của chiếc máy computer dựng ngay trước mặt.

Có thật anh đã ra đi rồi không? Sao lại không gọi em một tiếng nào? Mấy năm nay, tuy em bị cắt liên lạc với anh, nhưng em vẫn theo dõi tin anh qua những người quen, và có một lần, đọc một bài báo của ai đó phỏng vấn anh, em rất mừng vì thấy anh vẫn khỏe. Tết vừa rồi, em lại liều gửi điện thư chúc Tết anh chị dù biết rằng có thể như những lần trước, thư của em lại lọt vào trong thùng rác, hoặc bị lấy mất bởi những chuyên viên rình rập trên mạng. Chuyện này chắc chắn xẩy ra, vì cách đây mấy năm, sau khi các thư em gửi cho anh đều bị trả lại, em liều gọi điện thoại đến anh, để thăm hỏi vài câu ngắn ngủi, thì cũng chỉ được nghe anh nói vắn tắt vài lời: “Anh xin lỗi em, từ nay không liên lạc được với em nữa. Anh bị công an đe dọa: “cấm liên lạc với tên nhà văn phản động kia, kẻo sẽ bị cắt điện thoại”. Em thông cảm cho anh nhé.” Rồi anh cúp máy! Thế thôi! Từ đó đến nay, em không còn nhận điện thư của anh nữa. Em buồn lắm! Không được chuyện trò với anh như trước, em cảm giác chơi vơi cùng tận, vì trong tâm hồn của em, vẫn tràn đầy nhiều kỷ niệm với anh, với người Thầy đáng kính. Em vẫn nhớ ngày em đi Mỹ theo diện H.O.1, anh lập cập chống gậy, nhờ người quen chở anh đi xe gắn máy, đến tận phi trường tiễn em. Khi em bước vào trong hàng rào ngăn cách, anh còn đứng đó và giơ bàn tay gầy ốm vẫy mãi cho đến khi em phải quay lưng đi vào phòng cách ly. Thế là lần cuối cùng gặp anh đấy.

Anh kính mến,

Ngày hôm nay, trong cơn gió lạnh của California, bao nhiêu kỷ niệm tràn về đầy ắp. Em nhớ lại thời gian khi còn trong tù, anh chỉ dẫn cho em từng nốt nhạc vọng cổ, và vì lúc đó anh bệnh nặng quá, nên sự cố gắng dậy bảo của anh làm anh ứa máu, em đã sợ hãi mà ngăn anh lại: “Thôi! Thôi! Anh nghỉ đi! Đừng nói nữa! Máu chẩy ra miệng anh kìa!” Anh lắc đầu, lấy vạt áo tay chùi máu miệng, và nói: “Không ngừng được! Anh phải dậy em bây giờ! Anh không biết lúc nào anh chết, nên phải truyền hết kinh nghiệm cho em, kẻo mai mốt anh chết, thì không có người tiếp tục!” Và cứ thế, bất chấp sức khỏe càng ngày càng sa sút, máu cứ chẩy ra ngoài miệng, anh đã dậy cho em từng câu nhạc Vọng cổ, từng cách viết kịch bản cho một vở tuồng cải lương, cổ nhạc. Vì các đốt ngón tay anh đã bị chất vôi phù lên, cứng ngắc, không sử dụng được, anh đã ngồi xổm trên chiếu, kẹp chiếc bút chì vào giữa ngón chân cái và ngón kế tiểp để vẽ lên các nốt nhạc to bằng quả trứng gà, cũng như các tiết tấu và kết cấu từng câu nhạc, thật công phu vô cùng. Em biết là viết như vậy, anh đau lắm và vất vả lắm, nhưng anh vẫn kiên trì truyền hết kinh nghiệm cho thằng em kém cỏi này và cũng vì biết nỗ lực của người Thầy như anh thật là hiếm có trên đời, nên em đã cố gắng làm vui lòng anh bằng cách sáng tác các bài ca Vọng cổ, cũng như các bài tân nhạc rồi hát cho anh nghe, để thấy anh mỉm cười, mãn nguyện là em mừng. Dĩ nhiên, khả năng của em không đủ để theo kịp sự dậy dỗ của anh, khiến có vài lần anh nhăn mặt, mắng: “Em cứ có cái tật phăng-tê-di! Không chịu theo khuôn phép gì cả! Hòa âm gì kỳ cục thế! Viết lại!” Để sau khi em sửa lại rồi, anh vẫn lắc đầu, thở dài: “Thôi! Cái tật ẩu không bỏ được!” rồi anh lại gật đầu, cười mỉm: “Thế mà lại hay! Mỗi người sáng tác đều có những cái riêng của mình, không ai giống ai.”

Em vẫn nhớ, ngoài những lúc học sáng tác, hòa âm, anh kể cho em nghe những chuyện tình thời trai trẻ của anh, độc đáo và hấp dẫn vô cùng. Ngày anh còn ở trường Thiếu Sinh Quân, tự viết nhạc cho anh em hát, ngày anh đeo lon Trung Úy, rồi Đại Úy.. và những lần anh làm trưởng ban nhạc đi trình diễn bên Pháp… bao nhiêu cô theo, trong đó có một mối tình thật ác liệt của một cô ca sĩ, kịch sĩ nổi tiếng…Rồi đến ngày anh cưới vợ, cô kia đánh ghen ra sao…ảnh hưởng đến quân vụ của anh như thế nào.. Và để trả thù, cô kia đã thuê một nhà văn cũng rất nổi tiếng viết lại chuyện tình của anh đăng báo, hầu làm chậm bước thăng tiến trong đời binh nghiệp của anh.. và cách anh giải quyết mọi chuyện như một giấc mơ.. vừa sáng trí vừa lãng mạn. Em ngồi nghe anh kể chuyện mà mắt cứ mở to, ngưỡng mộ quá chừng.

Rồi em được trả tự do trước anh. Vì không thể quên những tháng ngày được anh chỉ bảo, em vẫn đi thăm anh ở.. các bệnh viện! Bệnh anh càng ngày càng nặng, nên cai tù đành chấp nhận chuyển anh ra bệnh viện ngoài để chữa trị, nhưng họ đổi nơi chữa trị hoài vì ngại rằng nếu để lâu một chỗ, có thể có sơ hở và anh trốn được. Mãi đến năm 1985, anh mới được về nhà. Nhờ đó, mà anh có cơ hội tìm thầy, tìm thuốc để tự trị bệnh mình và đến khi em đi Mỹ vào năm 1990, thì anh đã có thể chống gậy đi lại được, không như ngày ở trong tù, anh chỉ có thể nằm trên một miếng ván nhỏ có gắn bánh xe do anh  em cùng tù làm cho anh, để anh lấy tay đẩy miếng ván trôi đi, y như một người bị què cụt sắp chết. Nhìn hình ảnh đó, anh em đều sa lệ. Còn đâu người hùng năm xưa? Còn đâu hình dáng người nhạc sĩ với cây đàn và những bản nhạc tuyệt vời, hát mãi không chán?

Sau khi đến Mỹ một vài năm, thấy một Trung tâm băng nhạc hồi đó thỉnh thoảng làm các cuốn băng đặc biệt với từng tác giả, em đã liên lạc với trung tâm và gợi ý là nên làm một cuốn băng đặc biêt về anh. Người chủ trung tâm rất mừng vì ông cũng từng là người hâm mộ nhạc Nguyễn Văn Đông, nên ngay sau khi biết được địa chỉ của anh, ông ta đã về Saigon ngay, tiếp xúc với anh và chuẩn bị một chương trình Nhạc Nguyễn Văn Đông với các ca sĩ từng là học trò của anh. Thoạt đầu, anh cũng đồng ý đi Mỹ và anh đã gửi cho em nguyên một tập nhạc của anh sáng tác để tùy nghi trung tâm lựa chọn. Chương trình tiến triển tốt đẹp. Trung Tâm băng nhạc đã làm Visa cho anh sang Mỹ. Nhưng đột nhiên, anh gọi điện thoại cho em và nói rằng anh không đi nữa. Anh nói:  “Anh biết là sau khi về lại Việt Nam thì thế nào anh cũng bị kiểm điểm bởi những thằng nhóc con. Mà anh lớn tuổi rồi, anh không muốn bị gọi lên đồn công an, để trả lời cuộc thẩm vấn bởi mấy tên con nít, không biết gì về âm nhạc cả! Mấy ca sĩ cải lương, tân nhạc gì sang Mỹ về cũng phải gặp công an, “dạ, dạ thưa anh, thưa chị.” Anh không thể làm được chuyện đó, em thông cảm cho anh. Anh cám ơn em đã lo lắng chu tất cho anh, nhưng anh không thể, em ạ!” Vì anh là người có Tư Cách và Nhân Cách lớn, không giống như nhiều người khác nên anh nhất định hy sinh một cơ hội rạng danh mình cũng như tạo được một kỷ niệm lớn, để lại cho hậu thế những thông tin về một người nhạc sĩ lớn, một trong những Bậc Thầy về Âm Nhạc của Việt Nam, người đã được tặng bằng Tiến Sĩ Âm Nhạc tại Pháp.

Với những kỷ niệm như thế, làm sao mà em không khóc được khi nghe tin anh mất? Viết đến anh những giòng chữ này mà mắt em nhòa đi… Nhớ anh, nhớ người Thầy vĩ đại quá chừng.. mà không thể diễn tả hết những tình cảm em dành cho anh, nên càng viết càng luộm thuộm. Vậy, thôi, em xin gửi đến anh lời cầu nguyện cho hương hồn anh sớm tiêu diêu miền cực lạc, nơi không còn bệnh tật, không lo âu, không tù đầy, đau khổ, chỉ có hạnh phúc miên viễn. Còn lại chúng em, “lòng trần còn tơ vương khanh tướng, thì đường trần mưa bay gió cuốn, còn nhiều”… mênh mang.

Chu Tất Tiến, 26 tháng 2 năm 2018.

ƠN PHÚC VÀ BẤT HẠNH

        ƠN PHÚC VÀ BẤT HẠNH

 Elisabeth Nguyễn

 Trong cuộc sống của đời người giữa xã hội nhân trần, chúng ta thường thấy điều gì ảnh hưởng nhiều nhất trên con người. Hay nói cách khác, cái gì con người trần thế cảm thấy:

 thích thì người ta gán cho cái tên thật đẹp là Ơn Phúc hay là được thưởng.

Cái gì khiến con người ta sợ thì gọi là bất hạnh hay là bị phạt….

Là con cái Thiên Chúa, chúng ta có một đức tin tuyệt đối vào Ngài, chúng ta có nên nhìn sự việc bằng con mắt thế gian như vậy không?

ới mắt Thiên Chúa, sự gì làm ích lợi cho linh hồn, sự đó chính là Ơn Phước.

Con người sống ở thế gian này ai cũng

thích sống lâu (Trong cơn nguy biến con người thường bỏ của chạy lấy người),

thích khỏe mạnh (cuộc sống mà bịnh kéo dài trên giường bệnh thì còn gì thú vị),

thích danh vọng (có cuộc sống, có sức khỏe thì ham mê danh vọng),

thích tiền tài (khi con người thấy mình có chút được tâng bốc (danh dự), có sức khỏe thì ham muốn giàu có).

Con người sống trên thế gian rất

sợ Chết (luật Tạo Hóa của Chúa, có sinh thì có tử. Đức tin Kitô Giáo chết là về với Chúa, chết là điều kiện được hạnh phúc sống bên Ngài),

S bệnh tật (Đành rằng bệnh sẽ làm mình đau, khó chịu, khổ sở v.v…nhưng đâu đáng sợ. Nếu khỏe mạnh mà tâm linh u tối thì là mối họa cho chính mình. Biết bao nhiêu người có tật từ bẩm sinh, mà họ lại có một đời sống tâm linh rất lành mạnh). 

s khinh chê (Nhiều người rất sợ bị khinh chê nghèo hèn ít học v.v… mà sinh ra kiêu ngạo nói dối, khoác lác v.v…).

s nghèo kh (Chúa Giêsu là người nghèo nhất thiên hạ. Ngài sinh ra trong hang bò lừa, cha làm nghề thợ mộc, sống hiền hòa trong gia đình bình thường đầy yêu thương và được dân làng quý trong về nhân đức, ở Bethlehem. Khiloan báo tin mừng, không có chỗ gối đầu).

Chúng ta là Kitô hữu mà lúc nào cũng có cái nhìn sợ chết , sợ bịnh, sợ bị khinh, sợ nghèo khó, thì đức tin của ta là đức tin chột.

Chúng ta phải hiểu rằng

ƠN KHÔNG PHẢI LÀ CÁI TA THÍCH.

ƠN LÀ SỰ HỮU ÍCH ĐƯA TA ĐẾN CUỘC SốNG TRUÒNG CỬU.    

tramtubensuoi gởi

Phúc trình lên án biện pháp tấn công có phối hợp đối với các quyền tự do căn bản tại Việt Nam

Phúc trình lên án biện pháp tấn công có phối hợp đối với các quyền tự do căn bản tại Việt Nam

2018-02-28
 
Anh Hoàng Đức Bình, giửa bên phải, và anh Nguyễn Nam Phong, giữa bên trái, tại tòa án tỉnh Nghệ An hôm 6/2/2018

Anh Hoàng Đức Bình, giửa bên phải, và anh Nguyễn Nam Phong, giữa bên trái, tại tòa án tỉnh Nghệ An hôm 6/2/2018

 AP
 

Một phúc trình về nhân quyền vừa được ‘Ủy Ban Bảo Vệ Quyền Làm Người’ trụ sở tại Paris, Pháp công bố ngày 28 tháng 2 tiếp tục lên án biện pháp tấn công có phối hợp đối với các quyền tự do căn bản tại Việt Nam.

Phúc trình 36 trang mang tên ‘Không gian bị thu hẹp: Đánh giá tình hình nhân quyền tại Việt Nam giữa chu kỳ thứ hai của Cuộc Kiểm Điểm Định Kỳ Phổ Quát’ đúc kết một trong những đợt đàn áp tệ hại nhất trong những năm gần đây tại Việt Nam đối với giới bảo vệ nhân quyền, bloggers và các tín đồ tôn giáo.

Phúc trình nêu ra tình trạng leo thang bắt bớ, bỏ tù, kết án tùy tiện và  công an bạo hành người biểu tình ôn hòa, cư xử côn đồ nơi tạm giam, gia tăng án tử hình và tăng cường nền ‘pháp trị’- thông qua nền pháp lý hạn chế không gian hoạt động của các xã hội dân sự và hình sự hóa việc thực thi những quyền con người cơ bản.

Phúc trình được công bố vào thời điểm mà các vụ bắt bớ và biện pháp kết án nặng nề các nhà bất đồng chính kiến gia tăng với tốc độ được gọi là đáng sợ.

Thống kê nêu ra trong phúc trình cho thấy chỉ riêng từ ngày 23 tháng giêng năm 2018 cho đến nay ít nhất 16 nhà hoạt động xã hội dân sự độc lập bị các phiên xử có động cơ chính trị kết án tù tổng cộng đến 95 năm rưỡi.

Phúc trình nêu rõ tình trạng đàn áp nặng nề không chỉ là hệ quả của sự lạm dụng và tàn ác ở cấp địa phương, mà còn là do quyết sách cố ý từ các cấp cao hơn trong đảng cộng sản Việt Nam và nhà nước.

Theo nhận định thì Bộ Luật Hình Sự được sửa đổi của chính phủ Hà Nội, trái với những cam kết của Việt Nam đưa ra tại Cuộc Kiểm Điểm Định Kỳ Phổ Quát (UPR).

Khái niệm mơ hồ ‘đe dọa an ninh quốc gia’ vẫn là ‘xương sống’ của chính sách và thực hành của Việt Nam liên quan đến biện pháp đàn áp có tổ chức các tiếng nói bất đồng chính trị và tôn giáo.

Quan ngại cũng được nêu ra trong phúc trình về tình trạng gia tăng việc sử dụng bạo lực, thường do những thành phần côn đồ do chính quyền thuê, nhằm gây nên bầu không khí sợ hãi khiến cho giới hoạt động không còn tham gia vào các công việc chung, hoặc bảo vệ các quyền của bản thân họ hay của những người khác.

Phúc trình vừa công bố dành một phần nêu ra biện pháp tấn công có phối hợp vào quyền tự do Internet mà chính phủ Hà Nội tiến hành do hai ngành quân đội và công an đi đầu. Cụ thể là Cục An Ninh Mạng thuộc Bộ Công An, mang bí số A68 hay ‘Lực Lượng 47’ với hơn 10 ngàn người thuộc Bộ Quốc Phòng.

NHÂN CÁCH CỦA CỐ TT TRẦN VĂN HƯƠNG.

Son Ngo shared Hoang van Nguyen‘s post.
Đôi điều về cố TT Trần văn Hương
 
Image may contain: 1 person, suit
Hoang van Nguyen is with Tam Tong  Brisbane, QLD, Australia · 

 

NHÂN CÁCH CỦA CỐ TT TRẦN VĂN HƯƠNG.
….
Trong ngày 29 tháng 4, dù rất bận rộn trong việc di tản hàng chục ngàn người Mỹ và người tỵ nạn Vietnam. Đại sứ Martin cũng đã tìm cách đến gặp cụ Trần Văn Hương, cựu Tổng Thống VNCH tại phủ Phó Tổng thống trên đường Công Lý lần chót.

Theo GS Nguyễn ngọc An, bạn thâm giao của cụ Hương thì cuộc gặp gỡ nầy đã diễn ra như sau:

Cũng ngày đó 29 tháng 4 năm 1975, đại sứ Hoa Kỳ ông Martin đến tư dinh đường Công Lý với một tham vụ sứ quán nói tiếng Pháp. Đại khái đại sứ nói:

« Thưa Tổng Thống, tình trạng hiện nay rất nguy hiểm. Nhơn danh chính phủ Hoa Kỳ, chúng tôi đến mời Tổng Thống rời khỏi nước, đi đến bất cứ xứ nào, ngày giờ nào với phương tiện nào mà Tổng thống muốn. Chính phủ chúng tôi cam kết bảo đảm cho Ngài một đời sống xứng đáng với cương vị Tổng thống cho đến ngày TT trăm tuổi già »

Tổng thống Trần Văn Hương mĩm cười trả lời :

« Thưa Ngài đại sứ, tôi biết tình trạng hiện nay rất là nguy hiểm. Đã đến đỗi như vậy, Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong đó. Nay ông đại sứ đến mời tôi ly hương, tôi rất cám ơn Ông đại sứ. Nhưng tôi đã suy nghĩ và quyết định dứt khoát ở lại nước tôi. Tôi cũng dư biết Cộng sản vào được Saigon, bao nhiêu đau khổ nhục nhã sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam. Tôi là người lãnh đạo đứng hàng đầu của họ, tôi tình nguyện ở lại để chia xẻ với họ một phần nào niềm đau đớn tủi nhục, nổi thống khổ của người dân mất nước. Cám ơn ông Đại sứ đã đến viếng tôi »

Khi nghe câu « Les États-Unis ont aussi leur part de responsabilités (Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong đó), đại sứ Martin giựt mình nhìn trân trân ông Trần Văn Hương. Năm 1980, ông Hương thuật lại với tôi: Dứt câu chuyện, on se sépare sans même se serrer la main ». (GS Nguyễn Ngọc An. Cụ Trần Văn Hương, đăng trên Thời Luận không rõ ngày). Cựu đại úy Nguyễn Văn Nhựt sĩ quan tùy viên của phó Tổng thống Trần Văn Hương cho người viết biết vào những ngày tháng cuối cùng trong tháng 4 năm 1975, cụ Trần Văn Hương đã nói với anh em phục vụ tại phủ Phó Tổng thống rằng:

« Thấy các em còn trẻ tuổi mà phải chịu hy sinh gian khổ vì chiến tranh, qua rất thương, nhưng số phận của đất nước mình là như vậy, mình phải đánh cho tới cùng »

Sau khi bàn giao chức vụ TT cho Dương Văn Minh, tối 28 tháng tư, cụ Trần Văn Hương đã dọn ngay về tư gia ở trong hẻm đường Phan Thanh Giản. Tuy nhiên, sáng hôm sau, ngày 29 tháng tư, cụ phải trở lại dinh Phó Tổng thống ở đường Công Lý một lần cuối để tiếp kiến đại sứ Martin khi Martin đên từ giã cụ.

Trong một cuộc tiếp xúc với BS Nguyễn Lưu Viên, cựu Phó Thủ Tướng VNCH, tại Westminster vào cuối 2002, BS.Viên có cho người viết biết rằng vào sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, ông và bà Trần Văn Văn có đến thăm cụ Trần Văn Hương một lần cuối và cụ Hương đã nói với hai người rằng hai vị đại sứ Pháp và Hoa Kỳ có đến mời ông đi tị nạn, nhưng ông đã từ chối lời mời của họ.

Vào năm 1978, khi chính quyền CH-XHCNVN trả lại « Quyền công dân cho Dương Văn Minh, các anh em đang bị tù học tập cải tạo đều bị đi xem hình ảnh và phim chiếu lại cảnh cựu «Tổng thống » Dương Văn Minh đang hồ hỡi hân hoan đi bầu Quốc Hội « đảng cử dân bầu » của người Cộng sản.

Cụ Trần Văn Hương cũng được chính quyền đề nghị trả lại quyền công dân, nhưng cụ đã từ chối. Cựu Tổng thống VNCH Trần Văn Hương đã gởi bức thư sau đây đến cấp lãnh đạo chính quyền Cộng sản:

«… Hiện nay vẫn còn có mấy trăm ngàn nhơn viên chế độ cũ, cả văn lẫn võ, từ Phó Thủ tướng đến Tổng bộ trưởng,các tướng lãnh, quân nhân công chức các cấp, các chính trị gia, các vị lãnh đạo tôn giáo, đảng phái, đang bị tập trung cải tạo, rĩ tai thì ngắn hạn mà cho đến nay vẫn chưa thấy về. Tôi là người đứng đầu hàng lãnh đạo chánh phủ VNCH, xin lãnh hết trách nhiệm một mình. Tôi xin chánh phủ mới thả họ về hết, vì họ là những người chỉ biết thừa hành mạng lệnh cấp trên, họ không có tội gì cả. Tôi xin chánh phủ mới tha họ về sum họp với vợ con, còn lo làm ăn xây dựng đất nước. Chừng nào những người tập trung cải tạo được về hết, chừng nào họ nhận được đầy đủ quyền công dân, chừng đó, tôi sẽ là người cuối cùng, sau họ, nhận quyền công dân cho cá nhân tôi »

Cụ Trần Văn Hương không hề nhận quyền công dân của Cộng sản và cho đến khi từ trần vào năm 1981, thì cụ vẫn còn là công dân của Việt Nam Cộng Hòa.

Theo: Trần Đông Phong
(Việt Nam Cộng Hòa – 10 ngày cuối cùng)

Copy từ:

https://www.facebook.com/caulacbonhabaotudo/posts/1702729956481787

Tu hành không phải là buông bỏ, mà là thấu hiểu lẽ hoán đổi trong đời

 Tu hành không phải là buông bỏ, mà là thấu hiểu lẽ hoán đổi trong đời

Một bữa nọ, hai thầy trò cao tăng ngồi nói chuyện với nhau:

Đệ tử: Thưa thầy, đạo Phật khuyên người ta buông bỏ mọi thứ đúng không?

Sư phụ: Không đúng!

Đệ tử: Rõ ràng có câu “buông bỏ tất cả” đấy thôi?

Sư phụ: “Buông bỏ tất cả” để làm gì?

Đệ tử: Đúng thế, đệ tử cũng thấy rất nghi ngờ! Đệ tử thấy đạo Phật luôn nhìn vấn đề tiêu cực. Nhiều người hỏi đệ tử: “Nếu mọi sự đều buông bỏ thì lấy đâu ra tiền? Quần áo? Mọi người đều không làm việc thì thế giới này sao có thể tồn tại?”.

Sư phụ: Mọi sự buông bỏ thì dẫn đến sụp đổ, cái gì cũng không buông bỏ thì cũng dẫn đến sụp đổ.

Đệ tử: Như vậy phải làm thế nào?

Sư phụ: Thay thế và hoán đổi!

Đệ tử: Nhờ thầy chỉ rõ cho con!

Sư phụ: Con có thể kêu một người ăn mày cam tâm cho con số tiền đang nắm chặt trong tay họ không?

Đệ tử: Không thể được.

Sư phụ: Con có thể dùng hòn sỏi đổi lấy số tiền trong tay người ăn mày không?

Đệ tử: Con nghĩ không được.

Sư phụ: Tại sao?

Đệ tử: Vì tiền đáng giá hơn.

Sư phụ: Vậy nếu dùng vàng để đổi thì sao?

Đệ tử: Vậy thì được.

Sư phụ: Tại sao?

Đệ tử: Vì vàng đáng giá hơn.

Tinh Vệ biên dich

Sư phụ: Vì thế, cách buông bỏ đơn giản nhất chính là hoán đổi. Nguyên nhân khiến người ta không buông bỏ là vì không giành được thứ tốt hơn. Dùng thức ăn chay thay cho thức ăn mặn, con sẽ buông bỏ được con dao mổ. Dùng bố thí thay cho giành giật, con sẽ buông bỏ được lòng tham. Dùng tín ngưỡng thay cho hư vô, con sẽ buông bỏ được nỗi trống rỗng. Dùng trí tuệ thay cho ngu dốt, con sẽ buông bỏ được cố chấp. Dùng chính niệm thay cho tạp niệm, con sẽ buông bỏ được ngông cuồng. Dùng nhẫn nại thay cho báo thù, con sẽ buông bỏ được giận dữ. Dùng yêu thương thay cho tham lam, con sẽ buông bỏ được đau tim. Tu hành không phải là buông bỏ, mà là để hiểu lẽ hoán đổi.

Do Tan Hung & Nguyen Kim Bang gởi

ĐỐT SÁCH CHÔN HỌC TRÒ THỜI HIỆN ĐẠI

Cat Bui shared Huynh Ngoc Chenh‘s post.
 
 
Image may contain: 7 people, people smiling, people sitting and indoor
Huynh Ngoc Chenh is with Dũng Trương and 4 others.

 Hanoi, Vietnam · 

 

ĐỐT SÁCH CHÔN HỌC TRÒ THỜI HIỆN ĐẠI 

Sau khi cướp được chính quyền, để thống nhất tư tưởng về một mối nhất nguyên, thủ tiêu tất cả ý thức hệ khác với phái Pháp Gia, như Bách Gia chư Tử và Nho Giáo, dẹp bỏ mọi ý kiến phản biện, Tần Thủy Hoàng đã cho thu gom đốt sạch mọi sách vở có từ thời trước, bắt bỏ tù và giết sạch những người viết sách đương thời, chôn sống gần 500 nho sinh vì tội bàn luận và phản biện chính sách nhà nước.

Tuy sau đó không lâu nhà Tần sụp đổ, nhưng tàn dư chủ trương nhất nguyên độc tài vẫn được các triều đại phong kiến tiếp theo áp dụng để dễ cai trị dân đã đẩy đế quốc Trung Hoa vào vòng tăm tối suốt hơn 2000 năm lịch sử cho mãi đến thế kỷ 20 mới được phương Tây và Nhật Bản đến khai sáng.

Ngày nay, đến thế kỷ 21 rồi mà vẫn có những kẻ học theo Tần Thủy Hoàng, tiếp tục “đốt sách chôn học trò” để bảo vệ chủ trương nhất nguyên độc tài.
Vì viết ra cuốn sách CHÍNH TRỊ BÌNH DÂN nhằm cung cấp kiến thức cơ bản cho người bình dân hiểu biết về chính trị mà nhà báo Phạm Đoan Trang bị công an săn lùng từ giữa năm 2017 đến hiện nay. Từ đó, nữ nhà báo phải trốn ra khỏi nhà, lang thang nương tựa nhà bạn bè từ Hà Nội vào đến Sài Gòn để tránh bị khủng bố và bắt bớ.

Tết vừa rồi vì thương nhớ mẹ già đơn độc, thêm chân cô do trước đây bị an ninh đánh gây thương tích nặng, phẫu thuật nhiều lần không lành trở nên đau đớn hơn không đi lại được, Đoan Trang đành phải về nhà ăn tết với mẹ và để được ổn định chữa trị.

Đến hôm qua, mồng 9 tết Nguyên Đán, công an xông vào nhà riêng của cô trái luật, bắt cóc cô mang lên đồn công an tra khảo suốt cả ngày về cuốn sách CHÍNH TRỊ BÌNH DÂN. đến gần nửa đêm mới cho về, đồng thời bố trí lực lượng an ninh hàng chục người bao vây quanh chung cư để mong “chôn sống” cô trong một căn hộ nhỏ bé đã bị cắt hết điện và tất cả các phương tiện liên lạc.

Các ông đang học theo Tần Thủy Hoàng và các ông cũng sẽ bị sụp đổ. Sự sụp đổ của các ông sẽ vô cùng khủng khiếp.   

Phần “Con” và phần “Người”

Phần “Con” và phần “Người”

Ngo Du Trung (FB)

 

 

 

 

 

 

 

 

Một cặp trai gái Việt du lịch ở Mỹ, đi thăm nhiều nơi. Một bữa đang ngồi uống cà phê trong một khu mua sắm nổi tiếng ở New York, trao đổi với nhau những nhận xét về nước Mỹ thì bất ngờ một người Mỹ ngồi bàn bên cạnh lên tiếng bằng tiếng Việt thật chuẩn:

“Chào mừng hai bạn đến thăm nước Mỹ!”
Cặp trai gái người Việt hơi bất ngờ, nhưng cùng đáp lại:
“Chào ông!…”
Người đàn ông Mỹ cười, nói tiếp:
“Tôi có thể ngồi chung bàn trò chuyện với hai bạn được không?”
Cặp trai gái Việt vẻ lúng túng, rồi gật đầu:
“Ok. Ông nói tiếng Việt giỏi quá!”
Người đàn ông Mỹ bưng tách cà phê của mình sang kéo ghế ngồi xong cười đáp:
“Cảm ơn hai bạn. Trước năm 75 tôi có ở miền Nam VN khoảng 10 năm.. Tôi yêu đất nước và con người ở đó nên đã bỏ công ra học tiếng Việt! Cũng may là tôi không đến nỗi dốt lắm nên dù tiếng Việt rất khó cũng học nói được chút chút…”
Người đàn ông Mỹ nói xong cười lớn rất thoải mái. Còn cặp trai gái Việt thì có vẻ bẽn lẽn, chắc lo lắng không biết mình đã có nói gì không tốt trước đó. Người đàn ông Mỹ gợi chuyện:
“Hai bạn thấy nước Mỹ thế nào?”
Anh trai Việt đáp:
“Dĩ nhiên là giàu có rồi.”
Người đàn ông Mỹ quay sang nhìn cô gái:
“Còn cô?”
Cô gái Việt ngập ngừng:
“Tôi cũng thấy nước Mỹ thật là giàu!”
Người đàn ông Mỹ cười lớn rồi hỏi tiếp:
“So với nước bạn thì thế nào?”
Cô gái Việt nhanh nhẩu đáp:
“Dĩ nhiên đất nước chúng tôi không giàu bằng Mỹ, vì mới thoát ra khỏi chiến tranh.

 

 

 

 

 

 

 

Chúng tôi đang phấn đấu để tiến lên. Và trên thực tế thì đất nước tôi cũng đã tiến bộ vượt bực. Thành phố, khu đô thị được xây dựng nguy nga; đường sá được mở rộng; nhiều khu nghỉ dưỡng, ăn chơi; nhiều người có xe hơi nhà lầu. Ở Việt Nam bây giờ không thiếu thứ gì… “
Cô gái vừa nói vừa quơ quơ cái điện thoại iphone x cố ý cho người đàn ông Mỹ nhìn thấy.
Người đàn ông Mỹ khen:
“Cái điện thoại của bạn… hiện đại thật! Mà công nhận hai bạn giàu thật. Trên người hai bạn toàn hàng hiệu. Chuyện đó cũng không có gì lạ. Theo tôi biết thì nhiều quốc gia trên thế giới, cộng với ngân hàng thế giới mấy chục năm nay, vừa cho không, vừa cho vay nhẹ lãi cho VN mấy trăm tỷ đô la; còn cộng đồng người Việt mỗi năm gởi về trên dưới chục tỷ đô la, và liên tục mấy chục năm như vậy rồi. Với số tiền khổng lồ đó, nếu phần lớn không chạy vào túi lãnh đạo của các vị thì chắc đủ để mua cho mỗi gia đình ở Việt Nam một chiếc xe hơi…”

 

 

 

 

 

 

 

 

Người đàn ông Mỹ ngừng lại nhìn hai người VN thăm dò, rồi tiếp:
“Nhưng thôi, vì cách nào mà đất nước bạn “giàu có” lên thì cũng không nên “moi móc” ra làm chi, đúng không?; miễn sự “giàu sang” đó làm cho các bạn hãnh diện là được rồi, đúng vậy không?…”
Người đàn ông Mỹ ngừng lại chờ đợi vì thấy anh thanh niên Việt mấp máy môi như định nói gì đó. Nhưng chờ một lúc không thấy gì nên người đàn ông Mỹ nói tiếp:
“Tiếng Việt thật thâm thuý. Cái chữ human being của chúng tôi thì tiếng Việt gọi là “con người”. Tức là trong cái “con người” có hai phần. Một phần “con” và một phần “người”. Một đất nước văn minh tốt đẹp, một thể chế văn minh tốt đẹp là một đất nước, một thể chế trong đó con người được phát triển cân bằng, đầy đủ về cả hai phần: phần “con” và phần “người”.

Đất nước của các bạn hiện nay chỉ mới có phát triển phần “con”, dù vẫn còn nhiều người nghèo đói, nhưng có vẻ như các bạn đã cảm thẩy đầy đủ, thoả mãn rồi, tự thấy mình văn minh tiến bộ ngang ngang với thế giới rồi… Chính vì cái suy nghĩ đó mà khi các bạn đi du lịch sang nước tôi, các bạn chỉ trầm trồ sự giàu sang, sung túc, tức là các bạn chỉ thấy cái phần “con”….”
Người đàn ông Mỹ nhìn thấy vẻ ngượng ngùng trên hai khuôn mặt người Việt, mỉm cười tiếp:
“Vì tôi thích VN nên thích kết bạn với người Việt. Tôi có mấy người bạn là Người Việt tỵ nạn cs ở đây. Các bạn ấy cho tôi xem nhiều cmts của người Việt trong nước trên các trang mạng facebook. Người Việt trong nước bảo rằng họ không cần nhân quyền, không cần đa nguyên đa đảng; họ bảo mỗi ngày họ được ăn nhậu phủ phê; họ nói mỗi sớm mai thức dậy họ thấy mặt trời vẫn mọc trên quê hương… v.v… . Ha ha… thoả mãn được cái phần “con” là họ thấy thoả mãn rồi, thấy hạnh phúc rồi… Hai bạn có thấy như vậy không?”

Nói xong người đàn ông Mỹ đứng dậy đưa tay bắt tay hai người Việt Nam, cười cười nói:

“Tôi có việc không ngồi được lâu hơn. Chúc hai bạn một chuyến du lịch thật vui vẻ và học hỏi được nhiều điều mới mẻ. Hy vọng khi các bạn về nước sẽ nói cho bạn bè của bạn trong nước hiểu về cái phần “người” của nước Mỹ, chứ không phải chỉ cái phần “con”…”

Ngô Trung Du

Tiếng ngáy làm tôi yên tâm

 Tiếng ngáy làm tôi yên tâm
 
Trần Mỹ Duyệt
 
Tháng này tôi phải tiễn chân 4 người bạn về bên kia thế giới. Những người bạn thân thiết đã một thời quen biết già có, trẻ có cứ lần lượt bỏ tôi đi khiến dù muốn hay dù không tôi cũng phải suy nghĩ về thân phận của mình.
 
Nghĩ đến lúc mình phải từ giã cõi đời cũng thấy nao nao và có cái gì xao xuyến. Nhưng nếu là số phận thì biết làm sao, chi bằng nhìn vào cuộc đời để rút ra một vài điều bổ ích cho cuộc sống. Sống tốt để sau khi nằm xuống khỏi hối hận.
 
Suy nghĩ vẩn vơ, tôi chợt nhớ ra câu truyện được kể trong một Khóa Nazareth. Thuyết trình viên kể rằng, trước đây bà thường dành 1 hoặc 2 tháng xa nhà để trông nom cho các con bà sau khi sinh nở. Nhưng gần đây bà chỉ dành 1 hoặc 2 tuần cho các con trong những trường hợp như vậy. Các con bà có hỏi tại sao, thì bà trả lời: “Má nghĩ đã đến lúc má cần dành nhiều thời gian cho ba các con. Ba các con lúc này mới thật sự cần má. Miếng cơm manh áo của ba, giấc ngủ và sức khỏe của ba luôn luôn là điều mà má phải quan tâm. Ba má nay đã cao tuổi, thời gian còn ở với nhau được bao lâu, nên má thấy cần ba, và ba cũng cần má.”
 
Đúng vậy, câu trả lời của bà rất ý nghĩa và đánh động tôi rất nhiều. Và nghĩ đến điều này tôi càng thấy thương cho các cặp vợ chồng trẻ mà không hiểu sao họ lại coi nhau như cỏ rác, như kẻ thù, và như những tạo vật đáng ghét. Cãi vã, chửi rủa, và làm cho nhau đau lòng là những chuyện thường ngày xảy ra mà họ không hề để ý quan tâm tới. Nhưng sẽ có một ngày mà nếu không nghĩ lại, họ sẽ hối hận rất nhiều.
 
Cũng một câu truyện trong nhiều câu truyện mà tôi vẫn nghe về đời sống hôn nhân, về những khó chịu, về những hiểu lầm, về những xích mích giữa vợ chồng. Nhưng trong những cái làm cho nhau khó chịu ấy, lần này tôi được nghe một nhận xét tích cực và xây dựng. Truyện do một người vợ trẻ kể lại:
 
“Tôi thường ngày rất khó chịu và hay cằn nhằn chồng tôi vì anh có cái tật ngủ ngáy to. Bình thường thì cũng không đến nỗi nào, nhưng những đêm mất ngủ thì tiếng gáy của anh là một tra tấn dã man đối với người mất ngủ như tôi.. Những đêm như vậy tôi khó chịu và ghét anh vô cùng. Nhưng gần đây thì tôi không còn thù ghét tiếng ngáy đó nữa, mà ngược lại, bất cứ lúc nào thức giấc ban đêm mà tôi không nghe tiếng gáy đó là tim tôi đập thình thịch, và ngớ ngẩn suy nghĩ không biết chuyện gì xẩy ra cho anh.
 
Thời gian gần đây tôi thường bị lo lắng, hốt hoảng, và sợ hãi. Chuyện lớn, chuyện nhỏ, chuyện quan trọng, chuyện tầm thường, chuyện trong nhà, chuyện ngoài ngõ hễ cái gì đập vào mắt tôi, lọt vào lỗ tai tôi đều làm cho tôi suy nghĩ và lo lắng. Tôi trở thành mất ăn, mất ngủ, và mất hết nghị lựcđể sống.
Nhưng người mà phải gánh chịu mọi dằn vặt, kêu ca, cằn nhằn, khó chịu từ tôi đó chính là chồng tôi.
Tôi đã được khuyến khích đi gặp những bác sỹ chuyên môn và uống những thứ thuốc đắt tiền, nhưng cũng chẳng giúp gì ngoại trừ tôi phải trút đổ trên đầu chồng tôi hết mọi thứ lo lắng, bực bội trong tôi, họa may tôi mới được nhẹ nhõm một chút.

Thì ra, chồng tôi chính là cái thùng rác để tôi trút bỏ mọi thứ ngổn ngang trong cuộc sống vào đó.

Cho đến một ngày tôi bừng nhận ra tôi đã gây đau khổ cho chồng tôi quá nhiều. Tôi hối hận, và tôi cảm thấy hết sức lo lắng.

Tôi lo lắng cho sức khỏe của anh cũng như tôi đang lo lắng cho chính mình. Tôi sợ rằng điều mà tôi gây ra cho anh sẽ làm anh sớm bỏ tôi hơn là do căn bệnh quái ác của tôi khiến cho tôi phải bỏ lại anh. Tôi vẫn thường nghe nói, những người chăm sóc cho người bệnh thường lại chết trước người bệnh. Và điều này khiến tôi chợt tỉnh. Nó giúp tôi từ từ bình phục cùng với sự giúp đỡ, thương yêu và lo lắng của người chồng rất mực yêu thương tôi.
 
Cũng từ đó, mỗi đêm tôi đều ôm sát lấy anh dù là trong giấc ngủ vì sợ rằng anh sẽ vuột mất. Nhất là mỗi đêm tôi phải để ý, nghe ngóng từng hơi thở, tiếng ngáy của anh. Tiếng ngáy của anh lúc này đối với tôi có một ý nghĩa rất tuyệt vời. Nó bảo tôi rằng anh hãy còn khỏe mạnh, đang ngủ saybên tôi, và vẫn còn đang sống với tôi. Tiếng ngáy làm tôi yên tâm. Làm tôi thấy hạnh phúc”.
 
Có những mối tình già mà người này không thể quên săn sóc cho người kia. Có những mối tình trẻ mà tiếng ngáy đã có lần làm khó chịu nhưng bỗng trở nên âm thanh mang lại hạnh phúc cho nhau 

Cái đó gọi là tình yêu. Là quan tâm và lo lắng cho nhau.

Là vợ chồng, và là một xương một thịt. Còn gì trên đời đáng yêu, đáng quí, và đáng gìn giữ hơn người chồng, người vợ. Nhưng cũng không biết trên đời có bao nhiêu người đã khám phá, tiếp tục khám phá và trân quí món quà thiêng liêng nhưng cũng rất vật chất này? Hay phải chăng phải đợi đến khi không còn thấy mặt nhau, nghe tiếng nhau, nghe tiếng ngáy của nhau mới hốt hoảng, mới đau khổ đi tìm.  

Có tốt với tôi thì tốt với tôi bây giờ 

Đừng đợi ngày mai đến lúc tôi xa người

Đừng đợi ngày mai đến khi tôi phải ra đi

Ôi muộn làm sao nói lời tạ ơn

 Nếu có bao dung thì hãy bao dung bây giờ 

Đừng đợi ngày mai đến lúc tôi xa đời 

Đừng đợi ngày mai biết đâu tôi nằm im hơi

Tôi chẳng làm sao tạ lỗi cùng người

 Có nhớ thương tôi thì đến với tôi bây giờ 

Đừng đợi ngày mai lúc mắt tôi khép lại

Đừng đợi ngày mai có khi tôi đành xuôi tay

Trôi dạt về đâu, chốn nào tựa nương

 Nếu có yêu tôi thì hãy yêu tôi bây giờ 

Đừng đợi ngày mai đến lúc tôi qua đời

Đừng đợi ngày mai đến khi tôi thành mây khói

Cát bụi làm sao mà biết lụy người.”

 Tiếng hát của ai đó qua nhạc phẩm “Nếu Có Yêu Tôi” của Trần Duy Đức vang vọng trong đêm khuya như âm vang tiếng ngáy của người chồng trẻ. Tiếng gáy mà theo vợ anh là “Tiếng ngáy làm tôi yên tâm.. Làm tôi thấy hạnh phúc”.

Cũng như thức tỉnh cái nhìn của những cặp vợ chồng sau những năm dài chung sống:
“Ba má nay đã cao tuổi, thời gian còn ở với nhau được bao lâu, nên má thấy cần ba, và ba cũng cần má.”
 
Đúng vậy, hạnh phúc luôn ở bên ta, quanh quẩn bên ta trong người chồng, người vợ mà hàng ngày gặp gỡ, chỉ cần ta :
thay đổi thái độ,
thay đổi cái nhìn,
và thay đổi lại phán đoán về người đó