Xuất khẩu lao động chỉ là sự đánh tráo khái niệm của cụm từ “mua bán nô lệ”

Thuc Tran shared David Truong Do‘s post.
Xuất khẩu lao động chỉ là sự đánh tráo khái niệm của cụm từ “mua bán nô lệ” mà Cộng sản Việt Nam muốn che đi sự yếu kém trong điều hành đất nước ,khi con người được xuất khẩu như một món hàng thì giá trị của con người không còn là con người mà họ phải sống dưới quyền một con người ,đó là nô lệ !

Dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng cộng sản Việt Nam ,người Việt được xuất khẩu như những món hàng ,người dân Việt phải phải cúi đầu đi làm thuê cho các nước lân bang mà ở đó thậm chí như Lào ,Campuchia ,Malaysia ..người dân Việt phải bán sức lao động làm lao nô mà ở đó họ phải chịu nhiều tủi nhục ,bị hành hạ ,bị ngược đãi ,bóc lột lao động trong quá trình làm việc sinh sống ở nước ngoài như tịch thu hộ chiếu và giấy tờ tùy thân, bị ép làm việc quá thời gian, quá sức mà không được trả lương ,bị phân biệt đối xử và bạo lực thể xác, tinh thần…

Nhưng với những lãnh đạo họ không dám nhìn nhận sự thật đó ,họ không dám nhìn nhận thực đó ,họ luôn sống mị dân bằng những tuyên truyền với những “khẩu hiệu” mỹ miều tốt đẹp ,họ cho người dân ăn bánh vẻ ,tự sướng …điều này nó càng làm cho đất nước tụt hậu ,kém phát triển mà thôi ..!

“Condition Of Slavery”

Fb Nguyen Hieu

Đạo Cao Đài: Một trường hợp bị đánh cắp căn cước

Đạo Cao Đài: Một trường hợp bị đánh cắp căn cước

  • Cú lừa trắng trợn dài 2 thập niên bắt đầu bị đưa ra ánh sáng

Ts. Nguyễn Đình Thắng

Ngày 2 tháng 3, 2018

http://machsongmedia.com

Chính quyền Việt Nam chọn cách riêng để triệt Đạo Cao Đài: đánh cắp căn cước.  Tại buổi họp với Uỷ Hội Hoa Kỳ về Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế và rồi Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ ngày 21 tháng 2 vừa qua, các giới chức dự họp đã ngỡ ngàng khi tôi đã phát biểu như vậy.

Đó là buổi họp mà BPSOS sắp xếp cho phái đoàn vận động tự do tôn giáo, gồm những tín hữu hay người am tường về Phật Giáo, Phật Giáo Hoà Hảo, Tin Lành Tây Nguyên, Tin Lành Hmong và Công Giáo. Tôi có mời một tín đồ Cao Đài tham gia phái đoàn, nhưng vào phút chót người ấy không đi được nên tôi phải nói thay.

Trong phần trình bày về Đạo Cao Đài, tôi khởi đầu bằng lời khẳng định rằng Bộ Ngoại Giao và Toà Đại Sứ Hoa Kỳ ở Việt Nam, cũng như các tổ chức quốc tế, đều bị qua mặt trong suốt 20 năm qua. Họ lẫn lộn giữa 2 tổ chức khác nhau đại diện cho 2 tôn giáo khác nhau: một đằng là Đạo Cao Đài được sáng lập cách đây gần một thế kỷ và đằng kia là một chi phái do nhà nước Việt Nam dựng lên mới được 20 năm và không được Đạo Cao Đài công nhận.

Đạo Cao Đài, sáng lập năm 1926, được chính quyền Việt Nam Cộng Hoà công nhận tư cách pháp nhân năm 1965, với tầm hoạt động quốc gia và quốc tế và có cơ sở trung ương đặt tại Toà Thánh Tây Ninh.

Sau khi chiếm miền Nam, chế độ Cộng Sản không chấp nhận Đạo Cao Đài. Ngày 20 tháng 7, 1978, Mặt Trận Tổ Quốc Tỉnh Tây Ninh công bố “bản án Cao Đài”, cáo buộc rằng Đạo Cao Đài là một tôn giáo phản động, chống đối chính quyền cách mạng. Tiếp theo đó, ngày 13 tháng 12, 1978 Hội Đồng Nhân Dân Tỉnh Tây Ninh ra nghị quyết giải tán cơ cấu hành chánh Đạo Cao Đài, và Uỷ Ban Nhân Dân Tỉnh Tây Ninh đã thực hiện nghị quyết này. Các cơ quan lãnh đạo Đạo Cao Đài phải ngưng hoạt động, chỉ để lại Hội Đồng Chưởng Quản dưới Hiệp Thiên Đài để liên lạc với tín đồ và đối phó với chính quyền.

Đại Sứ Lưu Động Sam Brownback và phái đoàn vận động tự do tôn giáo, ngày 21/02/2018 (ảnh HT TVL)

Năm 1996 Tỉnh Uỷ Tây Ninh của Đảng Cộng Sản đề ra kế mới để tiêu diệt Đạo Cao Đài, ghi trong bản Kế Hoạch 01, ngày 27 tháng 5, 1996. Bản kế hoạch này xác định rằng chủ trương của Đảng Cộng Sản là tiêu diệt Đạo Cao Đài bằng cách “khoanh lại trong địa phương Tây Ninh, đến một lúc nào đó sẽ tiêu vong” đã thất bại, cho nên phải thay đổi bằng cách lập ra một chi phái để làm phương tiện xóa Đạo Cao Đài. Ngày 29 tháng 5, 1996 Đảng Bộ Tỉnh Tây Ninh thành lập Ban Chỉ Đạo gồm các viên chức nhà nước để dựng lên một tôn giáo mới với những điều kiện:

  • Xác định tôn giáo Cao đài Tây Ninh là một chi phái
  • Không sử dụng cơ bút
  • Bộ máy giáo hội 2 cấp

Tôn giáo mới này, tạm gọi là Chi Phái Tây Ninh 1997. Tôi không dùng từ “Cao Đài” vì nghĩ rằng tôn giáo mới này không chỉ khác mà còn nghịch lại với Đạo Cao Đài.

Về danh hiệu thì Đạo Cao Đài có tên chính thức là “Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ” (6 chữ), gọi tắt là Đạo Cao Đài (3 chữ). Trong khi đó, chi phái mà nhà nước Cộng Sản dựng lên có danh hiệu là “Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Cao Đài Tây Ninh” (10 chữ), gọi tắt là Đạo Cao Đài Tây Ninh (5 chữ). Về luật pháp thì đây là 2 tổ chức khác nhau.

Về tín lý, hai tổ chức có nhiều điểm khác biệt về căn bản. Đạo Cao Đài 1926 có 3 Hội là Hội Nhơn Sanh, Hội Hội Thánh và Thượng Hội, lập nên quyền vạn linh ngang bằng với quyền của Đức Chí Tôn tại thế. Chi Phái Tây Ninh 1997 không có Thượng Hội nên cũng không có quyền vạn linh. Chi Phái Tây Ninh 1997 cũng không có Bàn Trị Sự. Trong Đạo Cao Đài, các Bàn Trị Sự cấu thành “Hội Thánh Em” để thay mặt Hội Thánh (còn được gọi là Hội Thánh Anh) hành đạo nơi địa phương; khi Hội Thánh Anh bị uy hiếp hay bị xóa bỏ thì Hội Thánh Em phải lo khôi phục. Không có Bàn Trị Sự thì Pháp Chánh Truyền của Đạo Cao Đài không được thể hiện ở phần hạ tầng, đến các tín đồ.

Cũng thể hiện tín lý là việc cầu phong chức sắc. Chức sắc của Đạo Cao Đài thì phải được thiên phong, nghĩa là qua thể thức cầu cơ bởi Hiệp Thiên Đài tại Cung Đạo để chấm phái (Thái, Thượng, Ngọc) tương ứng với Nho, Tiên và Phật. Trong khi đó, chức sắc của Chi Phái Tây Ninh 1997 là phàm phong, còn gọi là “banh phong” – nghĩa là dùng 6 trái banh sơn 3 mầu vàng, xanh, đỏ để bắt banh chọn phái cho các chức sắc. Như vậy, mọi chức sắc của Chi Phái Tây Ninh 1997 đều không đủ tiêu chuẩn chức sắc theo Đạo Cao Đài.

Về tổ chức, cơ cấu của Chi Phái Tây Ninh 1997 chỉ có 2 cấp, khác với cơ cấu tổ chức 5 cấp của Đạo Cao Đài. Trong Đạo Cao Đài thì Toà Thánh Tây Ninh đóng vai trò “trung ương” đối với các chi phái. Trong khi đó, Chi Phái Tây Ninh 1997 dù chiếm ngự Tòa Thánh Tây Ninh vẫn không thể xác định tư cách trung ương đối với các chi phái Cao Đài khác.

Về hiến chương, Đạo Cao Đài có đủ hai Hội Thánh Hiệp Thiên Đài lo về Tư Pháp (Điều 8) và Cửu Trùng Đài lo về Hành Pháp (Điều 9). Chi phái Tây Ninh 1997 không có Hội Thánh Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài mà chỉ có chức sắc Hiệp Thiên Đài và chức sắc Cửu Trùng Đài; Hội Đồng Chưởng Quản, do người của nhà nước cài cắm, nắm toàn quyền, một mình một chợ.

Về luật đạo, hai bên cũng khác nhau. Trong Đạo Cao Đài, Đạo Luật Mậu Dần (1938), Điều III, Mục 7 ghi: “Nếu như một ai còn đương quyền Đời mà muốn vào hàng phẩm Chức Việc, thì phải từ bỏ quyền Đời đặng để trọn tâm lo tròn trách nhậm Đạo.” Thế nhưng, các chức sắc thành lập và nắm quyền của Chi Phái Tây Ninh 1997 lại tham gia các tổ chức chính quyền và của đảng cộng sản, kể cả các tổ chức chịu trách nhiệm tiêu diệt Đạo Cao Đài:

  • Ông Hồ Ngọc Thơ, Hội Trưởng Hội Đồng Chưởng Quản, là Phó Chủ Tịch Uỷ ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam (Đại hội lần thứ IV nhiệm kỳ 1994 – 1999), đồng thời cũng là Ủy Viên Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam Tỉnh Tây Ninh, là tổ chức đã ra “bản án Cao Đài” năm 1978.
  • Ông Nguyễn Thành Tám, Phó Hội Trưởng thường trực Hội Đồng Chưởng Quản, là Ủy Viên Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam tỉnh Tây Ninh (Khóa V, nhiệm kỳ 1994 – 1999), tổ chức đã ra “bản án Cao Đài” năm 1978. Năm 1997, Ông Nguyễn Thành Tám là dân biểu Quốc Hội.
  • Bà Huỳnh Thị Nhìn, Ủy Viên Hội Đồng Chưởng Quản, cũng là Ủy Viên Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam tỉnh Tây Ninh (Khóa V nhiệm kỳ 1994 – 1999), tổ chức đã ra “bản án Cao Đài” năm 1978.

Về nội quy, tất cả nhân sự hành đạo của Đạo Cao Đài đều phải mặc đạo phục theo qui định. Chi Phái Tây Ninh 1997 lập ra Ban Trật Tự Nội Ô mặc thường phục là vi phạm nội quy của Đạo Cao Đài. Họ là lực lượng do nhà nước cài vào. Trên thực tế chính họ dùng bạo lực để trấn áp người theo Đạo Cao Đài.

Khi tín lý, luật đạo và hiến chương khác nhau thì rõ ràng đó là 2 tôn giáo khác nhau. Khi danh hiệu, nội quy và cơ cấu tổ chức đều khác nhau thì rõ ràng đó là 2 tổ chức khác nhau.

Trên nguyên tắc, khi khác nhau thì mỗi bên sinh hoạt riêng, tôn trọng lẫn nhau. Đằng này Chi Phái Tây Ninh 1997 đã chiếm lĩnh Toà Thánh Tây Ninh và các cơ ngơi của Đạo Cao Đài, và rồi tự giới thiệu với tín đồ, với quần chúng và với quốc tế rằng mình là Đạo Cao Đài. Trong các văn thư, giấy tờ, tài liệu, trang web, chương trình truyền hình… họ đều dùng danh hiệu Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ (6 chữ) mặc dù tên của họ là khác, gồm 10 chữ.

Theo luật pháp Hoa Kỳ, thì đó là đánh cắp căn cước (identity theft), dẫn đến hàng loạt các hệ luỵ về luật pháp như là lạm dụng danh hiệu (trademark), xâm phạm tài sản trí tuệ (intellectual property), chuyển quyền sở hữu tài sản (conversion), cạnh tranh bất công (unfair competition), gây tổn thương vật chất và căng thẳng tinh thần (physical damage và emotional distress)…

Tại buổi họp với Bộ Ngoại Giao và Uỷ Hội về Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế, để giải thích hiện tượng khá lạ lùng này, tôi đã ví von: Hãy tưởng tượng Đảng Phát-Xít Ý thời Đệ Nhị Thế Chiến dựng lên tổ chức, lấy tên là Catolica (nghe hao hao như Catholic), do người trong đảng cầm đầu với mục đích tiêu diệt Giáo Hội Công Giáo (Catholic Church). Tín lý của họ không tin rằng Chúa Giê-Su là con của Đức Chúa Trời. Về tổ chức họ không công nhận Giáo Hoàng và nghi thức tấn phong, mà chọn linh mục, giám mục và hồng y bằng cách rút thăm. Họ đã dùng bạo lực để trục xuất các chức sắc của Giáo Hội Công Giáo và chiếm ngự Toà Thánh Vatican. Và rồi họ tự nhận mình là Giáo Hội Công Giáo. Với sự ví von có chút tính khôi hài này, mọi người đã hiểu ngay.

 

 

 

 

 

 

 

 

Đại Sứ Lưu Động David Saperstein, vị tiền nhiệm của Ông Sam Brownback, đón tiếp phái đoàn của Chi Phái Tây Ninh 1997, tháng 9, 2016 (ảnh của Chi Phái Tây Ninh 1997)

Tôi chỉ ra rằng năm 2016, giới chức Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã đón tiếp phái đoàn của Chi Phái Tây Ninh 1997, đinh ninh đó là thành phần đại diện Đạo Cao Đài. Hàng năm Toà Đại Sứ Hoa Kỳ ở Việt Nam cũng mời chức sắc Chi Phái Tây Ninh 1997 đến dự các buổi khánh tiết mà tưởng rằng họ là chức sắc Đạo Cao Đài. Các giới chức Hoa Kỳ không phải là những người duy nhất đã bị mắc mưu bởi sự đánh cắp căn cước. Các giới chức của Liên Hiệp Quốc và của nhiều quốc gia Phương Tây cũng ngộ nhận như vậy. Và kể cả rất nhiều tín đồ Cao Đài ở trong và ngoài nước cũng lầm lẫn.

Nhưng để phân định trắng đen thì không gì bằng căn cứ vào phán quyết của các chức sắc của Hiệp Thiên Đài, cơ quan tư pháp của Đạo Cao Đài. Ngày 26 tháng 11, 2015, cơ quan Hiệp Thiên Đài đã ra thông báo, có phần ghi:

“Hành vi của Đầu Huynh Đạo Sư Phàm Phong Thượng Tám Thanh là nghịch Thiên, phạm Pháp không phải là chức sắc Thiên Phong của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Toà Thánh Tây Ninh nên chúng tôi gọi theo Thế danh Nguyễn Thành Tám không gọi Thánh danh Đầu Sư Thượng Tám Thanh…”

Cũng trong thông báo ấy, các chức sắc Hiệp Thiên Đài khẳng định rằng Chi Phái Tây Ninh 1997 là “bàng môn tả đạo”, không được Đạo Cao Đài công nhận dù chỉ trong tư cách một chi phái.

Lập tức, Ông Nguyễn Thành Tám đã đóng cửa văn phòng Hiệp Thiên Đài và đuổi các chức sắc Hiệp Thiên Đài ra khỏi Toà Thánh Tây Ninh. Như vậy, cuối năm 2015, nghĩa là chỉ mới đây thôi, tổ chức do nhà nước dựng lên đã hoàn tất việc chiếm lĩnh triệt để Toà Thánh Tây Ninh của Đạo Cao Đài.

Tôi chia sẻ với các giới chức dự phiên họp rằng chính tôi trước đây cũng hiểu lầm rằng chính sách của nhà nước Việt Nam là rượu mới, bình cũ, nghĩa là cài người vào thành phần lãnh đạo của Đạo Cao Đài để rồi lèo lái và lũng đoạn. Nhưng không, chính sách của họ là rượu khác, bình khác: Tổ chức đang chiếm ngự Toà Thánh Tây Ninh của Đạo Cao Đài là một tổ chức hoàn toàn khác, đại diện cho một tôn giáo cũng hoàn toàn khác. Nhưng họ lại đánh cắp căn cước của Đạo Cao Đài.

Tôi chỉ tình cờ khám phá thực tế này cách đây chưa được một năm. Dựa vào một trao đổi ngẫu nhiên với một tín đồ Cao Đài mới ở Việt Nam sang Hoa Kỳ, tôi lục lọi các tài liệu về sự ra đời của Chi Phái Tây Ninh 1997. Rõ ràng, nó khác với Đạo Cao Đài.

Tôi đề nghị với các giới chức Bộ Ngoại Giao và Uỷ Hội Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế là từ nay chính quyền Hoa Kỳ phải phân biệt giữa 2 tổ chức đại diện cho 2 tôn giáo khác nhau, và tích cực tiếp xúc với những thành phần thực sự đại diện Đạo Cao Đài. Họ xin thêm thông tin để từ nay ứng xử cho đúng. Tôi để lại bản thông tin tóm tắt và hứa sẽ gửi thêm thông tin chi tiết và đầy đủ trong vài tuần tới đây. Tôi cũng sẽ phổ biến các thông tin này để mọi người cùng tìm hiểu.

Mục đích là cho yuan tràn vào vn để thay tiền hồ

Tai Nguyen shared Hiep Nguyen‘s post.

No automatic alt text available.

Image may contain: 1 person, text
Image may contain: one or more people
Image may contain: 1 person
Image may contain: one or more people and people standing

Hiep Nguyen added 5 new photos.Follow

Trong thời gian sắp tới người dân vn dù muốn hay không muốn, bắt buộc phải làm quen với đồng yuan (nhân dân tệ) của tàu cộng đi là vừa…!!!

Và khi 2 đồng tiền hồ tệ – mao tệ một khi đã đi song song trên mảnh đất vn thì bước kế tiếp là chúng sẽ cho rút tiền đồng vn từ từ và chỉ còn giao dịch tiền Trung cộng khi người dân VN đã bị luộc chín.

Nói tóm lại: Mục đích là cho yuan tràn vào vn để thay tiền hồ. Như vậy thì kinh tế, ngân hàng, thanh toán, thương mại của vn đều nằm hết trong tay của Trung cộng.

Một khi Trung cộng nắm được kinh tế, thì nó sẽ kiểm soát được cả chánh trị, quân sự và xã hội, vì có tiền thì sai khiến đám tay sai Việt cộng được và dân chúng vn được. Một khi tàu cộng nắm được bao tử của dân vn là dân hết đường phản kháng và nguy cơ diệt vong đang sát bờ vực thẳm.

Dưới đây là đường link mà người dân vn có thể vào đây xem sự chuyển đổi tỷ giá hối đoái giữa đồng hồ tệ và Mao tệ chênh lệch giá trị như thế nào.

https://vi.coinmill.com/CNY_VND.html#CNY=1

Những Người Già Hối Tiếc Điều Gì Nhất Trong Đời?

 Những Người Già Hối Tiếc Điều Gì Nhất Trong Đời?

“Khi nhìn lại cuộc đời mình, bạn hối tiếc điều gì nhất?”

Theo Business Insider, đây là câu hỏi mà Karl Pillemer, giáo sư về phát triển con người tại trường Đại học Cornell (Mỹ), tác giả của tập sách “30 bài học của cuộc sống: Lời khuyên từ những người thông thái nhất nước Mỹ”, đã hỏi hàng trăm người cao tuổi trên 65 tuổi trong chương trình nghiên cứu Legacy Project (tạm dịch: Dự án di sản) của Đại học Cornell.

Tình yêu, sự nghiệp, con cái, v.v…, không phải là câu trả lời mà giáo sư Pillemer được nghe thấy thường xuyên nhất, mà thay vào đó lại là câu:

“Tôi ước rằng tôi đã không dành quá nhiều thời gian của cuộc đời mình chỉ để lo lắng”.

Nhiều năm trước, khi giáo sư Pillemer, một chuyên gia lão khoa nổi tiếng thế giới gặp bà June Driscoll, một người phụ nữ đặc biệt. Bà Driscoll lúc nào cũng vui vẻ khi ở tuổi 90 và đang sống tại một nhà dưỡng lão. Bà Driscoll nói với giáo sư: “Sống vui vẻ, hạnh phúc nhất có thể chính là trách nhiệm của tôi, ngay tại đây, ngay hôm nay”.

Câu nói đó đã truyền cảm hứng cho Pillemer đi tìm câu trả lời cho việc làm sao một thế hệ trải qua nhiều mất mát đau thương, qua các sự kiện lịch sử thảm khốc và đau ốm lại có thể là những người hạnh phúc nhất. Ông muốn truyền đạt trí tuệ này lại cho thế hệ trẻ, những người dường như quá mong manh, khi chỉ một sự việc không vừa ý nhỏ nhoi cũng khiến họ mất phương hướng đến nỗi tự kết thúc cuộc đời mình.

Năm 2004, giáo sư Pillemer khởi động dự án Legacy Project và đã hỏi hơn 1.500 người Mỹ trên 65 tuổi về những bài học quan trọng nhất mà họ học được trong suốt cuộc đời mình. Trong cuốn “30 bài học cuộc sống”, ông gọi những người mình phỏng vấn là “chuyên gia của cuộc đời” vì chính họ, qua những hạnh phúc và khổ đau, thành công và thất bại đã nắm giữ những bài học trí tuệ nhiều hơn bất cứ nội dung của cuốn sách dạy kỹ năng sống nào.

Giáo sư Pillemer đã cho rằng những câu trả lời như “ngoại tình, công việc kinh doanh tồi tệ hoặc nghiện ngập” là những điều hối tiếc nhất trong cuộc đời của những người cao tuổi này.

Do đó, ông đã sửng sốt khi nghe đi nghe lại một câu trả lời: “Tôi ước rằng mình đừng lo lắng nhiều quá” và “Tôi hối tiếc vì đã lo sợ quá mức về tất cả mọi thứ”.

Trong cuốn “30 bài học cuộc sống”, Pillemer nói rằng ông không thể không ngạc nhiên về bài học này. “Những người này đều trải qua các thời kỳ khó khăn trong lịch sử và các bi kịch của cuộc đời, tôi tưởng rằng họ được phép lo lắng ở mức độ nào đó”.

Những người hầu như đã đi đến cuối cuộc đời này giải thích rằng thời gian là tài sản quý giá nhất của con người. Việc lo lắng về những điều có thể không bao giờ xảy ra, hoặc lo sợ về những thứ chúng ta không thể kiểm soát được là một sự lãng phí tài sản này một cách xuẩn ngốc.

Hành trình trên trái đất này của mỗi chúng ta là hữu hạn. Nếu lo lắng quá nhiều, bạn không còn mấy thời gian để tận hưởng, trải nghiệm và hạnh phúc. Vậy làm thế nào để giảm bớt thời gian lo lắng trong cuộc sống này? “Những người thông thái nhất nước Mỹ” nói với giáo sư Pillemer một số cách như sau:

Hãy sống từng ngày, đừng luôn nghĩ tới tương lai quá xa

Khi bạn sống và thấy mình lo lắng quá nhiều, hãy dừng lại và tự nhẩm “Điều gì rồi cũng sẽ qua”.

Sự việc bạn đang phải đối mặt, dù khó khăn, đau khổ đến đâu rồi cũng sẽ trôi đi. Bạn không thể hủy hoại cuộc sống của mình bằng những suy nghĩ lo sợ được.

Tuy nhiên, chắc chắn có những ngày u tối mà bạn cảm thấy lo lắng khủng khiếp, không cách nào ngừng lại. Lúc đó hãy cố nghĩ rằng: lo sợ không có tác dụng gì tốt cả. Nó giống như việc tự mình uống thuốc độc mà hy vọng tên hàng xóm đáng ghét sẽ chết vì đau bụng. Hãy gạt nó ra khỏi suy nghĩ hết mức có thể.

Sống vui vẻ từng ngày, đừng nghĩ đến tương lai xa xôi ảm đạm. Việc lập kế hoạch là tốt nhưng không phải lúc nào mọi việc cũng xảy ra theo ý muốn của chúng ta. Do đó, điều quan trọng nhất là hãy sống trọn vẹn từng ngày.

Thay vì lo sợ vô cớ, hãy hành động

Nếu bạn thấy mình hay có những nỗi băn khoăn lo sợ, hãy tìm hiểu về nó. Ít nhất tìm hiểu nguyên do mà bạn lo lắng là gì, xác định nó rõ ràng. Chỉ việc ngồi lại và phân tích suy nghĩ tiêu cực của bản thân cũng giúp bạn gạt bớt được những muộn phiền vô lý. Tất nhiên, có những lo lắng hoàn toàn hợp lý. Khi đã xác định được chúng, hãy hành động, bắt tay vào làm cái gì đó thay vì ngồi yên và lo sợ.

Học cách chấp nhận một cách tích cực

Bất chợt có điều gì đó xảy ra với bạn. Ai đó làm bạn tổn thương. Bạn thấy tức giận, bạn muốn trả thù. “Cô ấy không nên làm như thế với tôi, tôi sẽ nói cho cô ta như thế này, như thế này …”. Quan hệ nhân duyên của con người vô cùng phức tạp. Bạn chẳng thể nào biết được nguyên nhân chính xác tại sao tự dưng một người lại rời bỏ bạn, làm bạn bực mình hay bẽ mặt. Trong trường hợp này, những người cao tuổi từ nhà dưỡng lão sẽ mỉm cười và nói rằng: “Không biết bao nhiêu lần tôi đã tự cảm ơn bản thân vì đã không nói lời nào”.

Ít nhất hãy dừng lại và đừng làm gì khi tức giận. Bạn có thể nói những lời nặng nề, gây thương tổn đối phương, nhưng sau đó thì sao? Hãy nhớ rằng bạn chỉ có thể điều khiển suy nghĩ của mình chứ không thể thao túng tình cảm, tư duy hay cuộc đời của người khác được.

Hãy chấp nhận những thực tế mà chúng ta không có thẩm quyền thay đổi, gạt đi những suy nghĩ tiêu cực, nhanh chóng lấy lại cân bằng và tiếp tục trải nghiệm cuộc sống.

Suy cho cùng, chính bạn chứ không phải ai khác là người chịu trách nhiệm cho việc bạn sử dụng số ngày còn lại của mình trong cuộc đời này ra sao. Thù hận hay yêu thương, hạnh phúc hay thảm hại đều chỉ là những sự lựa chọn.

Minh Trí tổng hợp

THIÊN CHÚA MỜI GỌI MÙA CHAY

 THIÊN CHÚA MỜI GỌI MÙA CHAY 

 Trầm Thiên Thu 

Mùa Chay là mùa Thiên Chúa mời gọi riêng từng người: “Hãy trở về với Ta bằng cả tấm lòng.”  Chúng ta trả lời: “Chúng con sẽ trở về.”  Nhưng chúng ta lại chưa sẵn sàng, chúng ta chưa thực sự chuẩn bị tâm hồn, còn nuối tiếc!  Chúng ta muốn lòng vòng, lẩn tránh, lần lữa, viện cớ…  Tâm hồn chúng ta chưa hoàn hảo.  Chúng ta chưa sẵn sàng để Thiên Chúa yêu thương chúng ta! 

Đúng vậy, nhưng chúng ta rất muốn quan hệ thân mật với Thiên Chúa, chúng ta nhiệt thành tự nhủ như vậy.  Và chúng ta sẽ…  Không bao lâu nữa.  Chúng ta vẫn trì hoãn.  Thiên Chúa lại mời gọi chúng ta: “Hãy trở về với Ta bằng cả tấm lòng”

Vâng, lạy Chúa, con sẽ trở về với Ngài.  Con chỉ còn vài việc cần làm nữa thôi.  Trước tiên cho con thêm thời gian để cầu nguyện.  Rồi con sẽ hòa giải.  Xin cho con lau chùi nhà bếp, dọn dẹp nhà cửa, bán bớt mấy thứ lặt vặt, chăm sóc miếng đất con mới mua,…  Thiên Chúa nhắc lại: “Hãy trở về với Ta bằng cả tấm lòng”

Đó là lời mời gọi đặc biệt dành cho mỗi chúng ta, theo cách riêng của mỗi người.  Thiên Chúa mời gọi chúng ta đừng biện hộ vì điều đó là khoảng cách giữa chúng ta và Thiên Chúa.  Những gì Thiên Chúa muốn là chúng ta nhận biết các tiêu chuẩn của mình, cách phê bình và cách yêu thương của chúng ta cũng rất khác cách của Thiên Chúa.  Ngài cho chúng ta cả Mùa Chay, cả cuộc sống, vì yêu thương chúng ta vô điều kiện, dù chúng ta làm gì hoặc nghĩ gì mà chúng ta giấu giếm Ngài. 

Từ thứ Tư lễ Tro, ngày khởi đầu Mùa Chay, các bài đọc đều nhắc lại lời Chúa: “Hãy trở về với Ta bằng cả tấm lòng.”  Tv 51 cũng nhắc nhở: “Lạy Chúa, xin tạo cho con trái tim trong sạch.  Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ.”  Đó là chính xác những gì Thiên Chúa muốn trao ban cho chúng ta, đó chính là niềm vui ơn cứu độ. 

Ở Bắc Mỹ, Mùa Chay rơi vào mùa Đông, những ngày này lạnh lẽo và tối tăm, hoàn toàn phải giấu mình trong nhà, hoàn toàn ẩn mình khỏi Thiên Chúa – chúng ta nghĩ vậy.  Nhưng Thiên Chúa vẫn kiên trì, yêu thương, nhân hậu.  Thiên Chúa là Người Cha của Đứa Con Hoang Đàng, nhẫn nại chờ đợi, tha thiết muốn đứa con trở về, chờ suốt ngày thâu đêm.  Không hề khép vòng tay, không hề có ánh mắt xét đoán, chỉ có đôi mắt mỏi mòn chờ đứa con trở về.  Thiên Chúa khao khát được ôm choàng lấy chúng ta và vui mừng thấy chúng ta trở về.

Nhưng chúng ta vẫn quan ngại tìm cách nào để trở về và đắn đo lời nói, tìm cách để đối thoại.  Đó chỉ là lúc chúng ta còn ở xa, lúng túng và lẫn lộn, nhưng chúng ta không cần phải nói chi cả, chúng ta chỉ cần cho Ngài nhìn thấy chúng ta. 

Hãy nhìn con đường phía trước: Thiên Chúa yêu thương đang vui mừng khi nhìn thấy chúng ta trở về. Lời mời gọi của Ngài đã được chúng ta nghe thấy và đáp lại: “Chúng ta phải mau về nhà thôi!” 

Nhưng điều gì cản trở chúng ta về đoàn tụ với Cha?  Điều gì khiến chúng ta không đáp lại lời mời gọi để trở về sống với Thiên Chúa?  Đó là sự trì hoãn, lần lữa, so đo: “Từ từ… Chờ chút…  Vì không biết Thiên Chúa có biết mình hay không…” 

Tất cả không thành vấn đề.  Chỉ cần biết rằng chúng ta phải trở về với Thiên Chúa, Ngài đang mỏi mòn chờ đợi chúng ta trở về để được ôm hôn mỗi chúng ta.  Vậy chúng ta phải mau trở về!  Tiếng Chúa vẫn âm vang: “Hãy trở về với Ta bằng cả tấm lòng.”

Chấp nhận lời mời gọi này là điều đơn giản nếu chúng ta có thể vượt qua nỗi sợ hãi.  Những gì chúng ta cần làm là thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con đây.  Con phải bắt đầu từ đâu?  Vâng, con muốn được ở bên Ngài.”  Lòng chúng ta đã mở ra và chúng ta đã bắt đầu bước về phía người cha đang đứng ở phía trước.  Không cần giải thích chi hết, chỉ cần vui mừng trong yêu thương mà nhìn vào ánh mắt nhân từ của Thiên Chúa đang nhìn chúng ta. 

Bước kế tiếp trên đường về nhà là gì?  Chúng ta có thể dùng những giây phút đầu ngày, trước khi ra khỏi giường, để tạ ơn Chúa đã dành cho chúng ta lời mời gọi yêu thương như thế, và xin Ngài mở lòng chúng ta để chúng ta có thể đón nhận.  Hãy bắt đầu từ hôm nay, đang là thời gian Mùa Chay.  Suốt ngày, chúng ta có thể nhớ lời mời gọi của Chúa khiến lòng chúng ta lay động: “Hãy trở về với Ta bằng cả tấm lòng.”  Và chúng ta có thể cùng vui mừng với Thiên Chúa.

 Đó là lời mời gọi mỗi ngày trong Mùa Chay.  Và hôm nay là ngày chấp nhận lời mời gọi của Thiên Chúa.

 Trầm Thiên Thu 

(chuyển ngữ từ OnlineMinistries.Creighton.Edu )

Nhân chứng cuối cùng

Nhân chứng cuối cùng

3-3-2018

Sách ‘Chính trị bình dân’ của tác giả Phạm Đoan Trang. Ảnh: internet

Trong mấy ngày vừa qua, tôi nhận được rất nhiều hỗ trợ vật chất và chia sẻ tinh thần. Tiền mặt, quần áo, đồ dùng cá nhân, cả mì ăn liền, thuốc giảm đau, thuốc diệt muỗi và… nước hoa xịt phòng ùn ùn đổ về làm tôi đã bối rối càng bối rối hơn, vì vốn dĩ tôi không mang vác nặng được.

Bên cạnh đó là vô vàn lời chia sẻ từ rất, rất nhiều người. Tôi không sao trả lời hết, chỉ mong được bà con thông cảm mà lượng thứ. Tuy vậy, có một tin nhắn từ một nhà báo, bạn đồng nghiệp, mà tôi đã đọc và cố trao đổi lại dù lúc đó là gần 2h sáng:

“Chị. Em thấy hoảng sợ, em bị dằn vặt vì ý nghĩ em đang ở đây, Việt Nam, làm người viết, để làm gì? Làm gì khi mà mọi ý tưởng đều bị ném vào im lặng? Nhìn chị, em không hiểu điều gì đang diễn ra và sẽ nghiền nát những người viết”.

Tôi thẫn thờ mất vài phút, không biết phải nói với bạn thế nào, bởi vì chính tôi cũng không hiểu. Không thể nghĩ đến bây giờ, năm 2018, tức là cuối thập niên thứ hai của thế kỷ 21, mà chính quyền và công an Việt Nam vẫn hành xử hệt như hồi thập niên 50 của thế kỷ trước: tóm cổ một người viết sách lên đồn và “điều tra, làm rõ” xem động cơ viết là gì, yêu cầu tóm tắt nội dung sách, khai rõ in ở đâu, đã cho, tặng những ai, có quen biết gì với những người bị tịch thu sách, v.v.

Và họ vừa bất ngờ, vừa khó chịu khi tác giả trả lời: “Đúng, tôi viết cuốn ấy đấy. Nội dung là gì thì mời các anh tự tìm đọc. Còn việc tôi cho, tặng, biếu hay bán cho ai là chuyện riêng của tôi, các anh không có quyền và không có tư cách hỏi”.

Chỉ đơn giản là công an Việt Nam và các cảnh sát tư tưởng nói chung không quen bị từ chối như thế. Họ không tưởng tượng được là lại có những không gian, những lĩnh vực mà họ không thể thò đầu, thọc mũi vào để quản lý, kiểm soát, định hướng…

Dù sao chăng nữa, nói “hành xử như thập niên 50 thế kỷ trước” là nói về phía chính quyền. Còn về phía xã hội thì đã tốt hơn quá nhiều, vô cùng nhiều. Tôi đã không phải như người viết văn mấy chục năm về trước, viết tay, gói lá chuối bỏ chum sành chôn xuống đất, mong một ngày con cháu hoặc ai đó có hảo tâm, có điều kiện sẽ tìm ra, moi lên và in giúp. Tôi đã không phải đi câu cá trộm như nhà văn Phùng Quán, không phải về quê nhặt đá thồ gạch như thi sĩ Hữu Loan, không bị chòm xóm, họ hàng, bạn bè xua đuổi, xa lánh như hàng chục nạn nhân của Nhân văn Giai phẩm, Xét lại…

Ngược lại, tôi còn may mắn vô cùng vì được không biết bao nhiêu người giúp đỡ, cả những người công khai lẫn những người âm thầm ủng hộ.

Nhưng cho dù thế nào, tôi cũng muốn rằng tôi là nhân chứng của thế hệ người viết cuối cùng ở Việt Nam còn bị truy đuổi thế này. Mong rằng kể từ nay về sau, sẽ không còn những vụ đàn áp mang những cái tên như Nhân văn Giai phẩm, Xét lại, Đổi mới văn nghệ như ngày trước hay Dân chủ, Xã hội dân sự… như bây giờ nữa.

Bình Luận từ Facebook

Hoa Ho

Phấn son tô điểm sơn hà
Làm cho nở mặt đàn bà nước Nam…

Cảm ơn những gì chị đã làm cho đất nước Việt Nam!!!

Những ý tưởng trong cuốn sách Chính Trị Bình Dân của chị rất bình dân nhưng sao lại quá cao siêu với 95 triệu người dân Việt Nam? Tôi chắc rằng chỉ cần 1% người dân Việt Nam đọc và hiểu được ý tưởng cuốn sách của chị thì người dân Việt Nam sẽ không còn làm nô lệ cho đảng Cọng Sản.

Có phải người dân Việt Nam thật sự thông minh và anh hùng như họ đã tự hào hay chỉ là những tấm khẩu hiệu đầy rẫy ngoài đường?

 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Hơi Thở Kiều Bào

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Hơi Thở Kiều Bào

Ảnh của tuongnangtien

tuongnangtien

 

 

 

 

 

 

 

Tổ quốc lắng nghe hơi thở của bà con kiều bào…

Nguyễn Xuân Phúc

Đảng tắt thở thì cuộc đời mới thở.

Nguyễn Chí Thiện

Cambodia có nhiều nơi mà tên gọi bắt đầu bằng từ ngữ kampong: Kampong Thon, Kampong Speu, Kampong Cham, Kampong Chhnan… Tôi xem bản đồ thì thấy là những địa danh này đều nằm ở ven sông, rồi hỏi ra mới biết rằng kampong(trong ngôn ngữ Khmer) có nghĩa là bến bãi. Cũng tựa như người Việt gọi Bến Thành hay Bến Ngự vì cả hai ngôi chợ này đều nằm cạnh bờ sông.

Tôi ghé Kampong Chhnan nhiều lần nhưng mãi đến hôm rồi mới biết là nơi đây có một xóm nhỏ tên thuần Việt là Bến Ván. Cũng như tất cả những bờ bến khác, Bến Ván nằm sát mé sông (sông Tonlê Sap) cách Phnom Penh chừng 70 KM về hướng Bắc. Cứ đi theo quốc lộ 5 – đến ngay cột cây số 66 – sẽ thấy bên phải có ngã rẽ vào một hương lộ nhỏ, vắng tanh.

Xe tiếp tục chạy tung bụi đỏ mịt mù khiến tôi có cảm tưởng là mình sẽ đi vào một … cõi hư vô nào đó nhưng chả bao lâu thì chợt thấy lờ mờ phía trước là một đám đông. Hoá ra là một cái chợ lộ thiên. Có lẽ vì không mấy khi có một chiếc xe bốn bánh lạc lõng tới đây nên lòng đường bị bạn hàng lấm chiếm đến hơn phân nửa. Phải bóp còi inh ỏi không ngừng mới vượt qua thêm được một đoạn đường chỉ chừng hai hay ba trăm mét.

Sau chợ đến chùa, nếu có thể gọi một gian nhà sàn với vài ba tượng phật là một ngôi chùa – chùa Bến Ván. Kề cạnh là một gian khác (nhỏ nhắn hơn) tứ bề cũng trống huơ trống huếch. Bên trong có kê mấy cái bàn thô ráp, hơi dài, được giới thiệu là trường học – trường Bến Ván.

 

 

 

 

 

 

Chùa & Trường Bến Ván. Ảnh chụp năm 2018

Thầy trụ trì tuy chưa bước vào ngưỡng cửa tứ tuần nhưng tóc đã lốm đốm bạc rồi. Cử chỉ và ngôn từ của ông đều vô cùng điềm đạm:

  • Sư đệ mất gần mười năm nhưng mới thực hiện được có bi nhiêu đó thôi à.
  • Bộ Phật tử không cúng dường gì hết trơn, hết trọi sao?

Nhà sư chỉ tay xuống mấy chụp túp lều lụp xụp, bồng bềnh dưới mé sông, với ít nhiều ái ngại:

  • Đồng bào mình ở đây nghèo lắm, và đều là dân chài hết nên kêu gọi họ đóng góp chả khác nào khuyến khích sát sanh nên sư đệ sợ mang tội.  
  • Còn Hội Việt Kiều có giúp đỡ gì mình không sư?

Tôi hỏi theo thói quen nghề nghiệp chớ cũng đã đoán trước được câu trả lời:

  • “Không dám giúp đỡ” đâu. Họ không sách nhiễu là mừng muốn chết rồi. May nhờ mấy ông xã ấp người Miên họ thương và bênh vực dữ lắm lắm nên bây giờ mới được yên như vậy đó, chớ mấy năm trước hội cứ cho người tới kiếm chuyện rầy rà hoài hà!

Tôi niệm thầm (“Nam Mô A Di Đà Phật”) thay cho một tiếng thở dài, cố nén:

  • Thiệt ra thì ở đâu có hội này là chỗ đó phải có chuyện thôi, sư ơi.

Tôi nói hết sức nhỏ nhẹ, và cũng rất thực lòng, như một lời an ủi gửi đến một vị tu sĩ trẻ đang bơ vơ hoằng pháp giữa quê người đất khách. Dù chỉ loanh quanh ở Biển Hồ vài ba năm nay thôi nhưng thái độ, cũng như cung cách làm việc của nhân viên Đại Sứ Quán Việt Nam (và Hội Việt Kiều) ở cái Xứ Chùa Tháp này thì tôi … rành lắm. Tôi “đụng chuyện” với họ hoài mà.

Lẽ ra tui cũng không thèm nói đâu nhưng mới rồi nghe ông Nguyễn Xuân Phúc lên giọng giả nhân/giả ngãi (“Tổ quốc lắng nghe hơi thở của bà con kiều bào, đặc biệt lắng nghe những nguyện vọng, những ý kiến đóng góp quý báu của bà con dành cho đất nước …) nên cũng xin có đôi lời xin thưa cùng “tổ quốc” cho nó tỏ tường.

Là thành viên của một hội thiện nguyện (Hiệp Hội Vì Dân – Vidan Foundation) tôi được cử đến làm việc ở trường làng Kandal – cũng thuộc Kampong Chhnan, cách Bến Ván cỡ 70 cây số về hướng Bắc – do Hội Đồng Hương Perth Tây Úc (cùng với sự bảo trợ của 2VNR Radio) khởi công xây cất từ năm 2010.

Khi tới nơi, vào cuối năm 2014, tôi mới biết rằng ngôi trường khang trang này không có nước cũng không có điện luôn. Loay hoay mãi mới bắt được nước, câu được điện, để có thể xử dụng được nhà vệ sinh, và gắn đèn với quạt cho ba lớp học. Trước khi rời khỏi đây, tôi cũng xin được Hiệp Hội cho phép gửi lại một số tiền tráng xi măng nền trường, vốn bằng đất nện, để biến nó thành sân chơi cho học sinh (vào mùa nước cạn) và hẹn sẽ quay lại trước Hè.

Về chưa được nửa đường, mới tới sân bay Taoyuan (Đài Loan) đã nghe có chuyện phiền hà̃: Hội Việt Kiều cho người tới điều tra coi nguồn tiền ở đâu ra mà bắt nước, kéo điện, lắp đèn, lắp quạt tùm lum thứ vậy? Có biết tên tuổi, lý lịch của người tài trợ không? Họ còn đòi kiểm soát sách giáo khoa, sợ dậy sai đường lối chính sách, dù trường làng Kandal chỉ dậy tới lớp ba thôi!

Qua năm 2015 – 2016, tôi được cử đi làm việc với mấy trường học có dậy tiếng Việt ở Neak Loeung (tên Việt là Hố Lương) một thành phố nhỏ giáp biên Miên/Việt, cách thủ đô Nam Vang 65 KM về hướng Đông Nam.

Thì cũng gọi là trường vì quen miệng chứ thực ra thì đây là những lớp học tuyềnh toàng, tạm bợ. Tuy học phí mỗi ngày chỉ là 500 riels tiền Miên (cỡ 12 xu U.S.D) nhưng số học sinh hiện diện vẫn rất thất thường vì còn tùy thuộc vào khả năng (chạy ăn từng bữa) của cả gia đình.

Trường Hố Lương. Ảnh chụp năm 2016

Với khả năng tài chính (rất giới hạn) của Hiệp Hội, chúng tôi chỉ có thể thực hiện được những trợ giúp vô cùng nhỏ nhặt: tặng sách bút chỗ này, thêm bàn ghế chỗ kia, cơi nới chỗ nọ cho thêm rộng, và mọi trường đều được tài trợ để cả thầy lẫn trò yên tâm hơn … trên con đường học vấn!

Chỉ vậy thôi nhưng khi chúng tôi trở lại lần thứ hai là có chuyện liền. Đang ngồi ăn trưa tại nhà của một người dân địa phương thì mấy cái xe Honda đã lạng tới lạng lui trước cửa, với mấy khuôn mặt rất cô hồn cùng ánh mắt vô cùng soi mói.

  • Đám công an bên Hồng Ngự đó. Sao mà họ biết tin lẹ qúa, vậy Trời!

Chủ nhà nói như than. Ngay sau đó thì điện thoại kêu. Không rõ nội dung cuộc điện đàm ra sao, chỉ nghe khổ chủ cuống quýt vâng dạ liên hồi. Xong, ông nhỏ giọng phân trần:

  • Nhân quyền không biết ở tận đâu, chớ chính quyền thì gần lắm. Dù nằm ở bên kia biên giới nhưng đồn công an Hồng Ngự chỉ cách nhà tui có vài chục cây số thôi hà!Ngay lúc đó, tôi thực tình không tin rằng đám công an VN có thể lộng hành đến như vậy trên lãnh thổ của một nước láng giềng có chủ quyền. Chả qua vì dân Việt ở Cambodia hiền lành quá nên bị họ bắt nạt thôi. Nhưng đến giờ thì tôi biết rằng mình lầm lớn, và lầm lắm.
  • Ngày 17 tháng 2 năm 2018 vừa qua, nữ biên tập viên Zeitmagazin cho hay rằng mật vụ Việt Nam có thể sẽ vươn tay tới những người bất đồng chính kiến tại Đức. Hai hôm sau, tờ báo này cho biết thêm: “Ngay tại nước Đức người Việt Nam cũng không nên nói và viết lên sự thật – bằng không họ sẽ bị hăm dọa và tấn công.”

Giữa thủ đô Đức Quốc mà đám đàn em của Đại Sứ Côn Đồ Đoàn Xuân Hưng còn dám hăm he cho nhà báo Bùi Thanh Hiếu và Lê Trung Khoa “ăn tiết canh ngan” thì xá chi cái mạng (nhỏ xíu xiu) của một ông kiều bào vô danh, đang sống lây lất ngay sát cạnh ranh giới Việt/Miên.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Kiều bào Cambodia. Ảnh chụp năm 2017

Hung hãn như vậy đó nhưng khi “Campuchia tước quyền công dân 70.000 người gốc Việt” thì tất cả im re. Bản tin của Đại Sứ Quán Việt Nam tại Cambodia  còn không hề có được một dòng chữ nào về sự kiện vô đạo lý và pháp lý này. Trong lúc thiên hạ vô cùng hoang mang thì người phát ngôn của bộ ngoại giao ta, bà Lê Thị Thu Hằng, “phát ra” một câu thúi hoắc –  y như tiếng rắm: 

Việt Nam và Campuchia có quan hệ láng giềng hữu nghị truyền thống tốt đẹp. Cộng đồng người Campuchia gốc Việt sinh sống ở Campuchia đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của Campuchia cũng như vun đắp quan hệ hữu nghị truyền thống giữa hai nước. Trên tinh thần đó, Việt Nam mong muốn Campuchia tiếp tục tạo điều kiện pháp lý thuận lợi và có biện pháp phù hợp để đảm bảo các quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người Campuchia gốc Việt.

Sau bà Hằng lại đến ông Phúc: “Tổ quốc lắng nghe hơi thở của bà con kiều bào…”  Tôi lậy cả ông lẫn bà, đám dân trôi sông lạc chợ ở Cambodia đã khổ lắm rồi, cho họ xin hai chữ bình an đi!

Việt Nam bị xếp hạng thấp về thượng tôn pháp luật

RFA
2018-03-02
 
 
 

Ảnh chụp màn hình báo cáo về Việt Nam của WorldJustice

Ảnh chụp màn hình báo cáo về Việt Nam của WorldJustice

 Courtesy Worldjusticeproject.org
 

Dự án Công lý Thế giới (World Justice Project) vừa công bố “Chỉ Số Thượng Tôn Pháp Luật” của thế giới năm 2017-2018 qua đó cho thấy Việt Nam tụt 7 hạng so với năm 2016, xếp hạng 74 trên 113 quốc giá được đánh giá.

Cụ thể theo báo cáo Việt Nam chỉ đạt điểm số 0,5; xếp hạng 74. So với Trung Quốc, Việt Nam cao hơn 1 hạng (75). Trong khu vực Đông Á- Thái Bình Dương, Việt Nam  xếp thứ 11/15, và ở vị trí 10/30 nước có mức thu nhập trung bình thấp.

Các nước khác trong khu vực Đông Nam Á có thứ hạng trên thế giới lần lượt là Singapore 13, Malaysia 53, Indonesia 63, Thái Lan 71, Philippines 88, Myanmar 100, Cambodia 112…

Dự án Công lý Thế giới thực hiện bản báo cáo dựa trên hơn 100.000 khảo sát đối với người dân và chuyên gia tại 113 quốc gia và vùng lãnh thổ về các quy định của pháp luật được thực thi như thế nào trong từng tình huống cụ thể, hàng ngày.

Điểm số dành cho mỗi quốc gia được dựa trên 44 yếu tố trong 8 nhóm gồm: kiểm soát quyền lực chính phủ, không có tham nhũng, chính phủ minh bạch, các quyền căn bản, trật tự và an ninh, khả năng chấp pháp, công bằng dân sự và luật hình sự.

03/03/1952: Tối cao Pháp viện ra phán quyết về giáo viên cộng sản

03/03/1952: Tối cao Pháp viện ra phán quyết về giáo viên cộng sản

Nguồn: Supreme Court rules on communist teachersHistory.com

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng

Vào ngày này năm 1952, trong một cuộc bỏ phiếu với tỉ lệ 6-3, Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ đã quyết định duy trì một luật của bang New York cấm các giáo viên cộng sản giảng dạy ở các trường công lập. Xuất hiện trong thời kỳ “Nỗi sợ Cộng sản” bao trùm khắp đất nước, quyết định của Tối cao Pháp viện là bằng chứng bổ sung cho thấy nhiều người Mỹ đang quan ngại về hoạt động lật đổ của Cộng sản có thể sẽ xảy ra ở nước họ.

Đạo luật của bang New York – được gọi là Luật Feinberg (Feinberg Law) – cấm bất kỳ ai kêu gọi lật đổ chính phủ trở thành giáo viên, đạo luật đặc biệt nhắm vào phe cộng sản. Một số tiểu bang khác cũng thông qua các biện pháp tương tự. Tại New York, một nhóm giáo viên và phụ huynh đã phản đối đạo luật này, và cuối cùng vụ việc được đưa lên Tối cao Pháp viện.

Tờ New York Times tuyên bố quyết định của đa số đã ủng hộ Luật Feinberg, ủng hộ niềm tin rằng “nhà nước có quyền hiến định để bảo vệ những tâm hồn non nớt của trẻ em trong các trường công lập khỏi tuyên truyền lật đổ, dù là kín đáo hay lộ liễu, được phổ biến bởi chính những người ‘mà các em noi theo để nhận sự hướng dẫn, uy quyền và lãnh đạo.’”

Ý kiến bất đồng quan điểm của các thẩm phán William O. Douglas, Hugo Black và Felix Frankfurter đã cáo buộc rằng đạo luật của bang New York đã “biến hệ thống trường học thành một dự án gián điệp.” Ở New York, Liên đoàn Giáo viên tuyên bố sẽ tiếp tục phản đối Luật Feinberg. Đã có tám giáo viên bị sa thải theo quy định của đạo luật và nhiều người khác phải đối mặt với các phiên điều trần.

Quyết định của Tối cao Pháp viện là một thước đo cho tình hình của cả nước. Trong những năm trước vụ việc, cựu quan chức Bộ Ngoại giao Alger Hiss đã bị kết án về tội khai man liên quan đến lời khai về mối liên hệ của ông với Đảng Cộng sản; Julius và Ethel Rosenberg đã bị luận tội và kết án tử hình vì đã chuyển giao bí mật nguyên tử cho Liên Xô; và Thượng nghị sĩ Joseph McCarthy đã có một sự nghiệp lẫy lừng nhờ việc săn lùng thành viên cộng sản trong chính phủ.

Đến năm 1952, nhiều người Mỹ đã bị thuyết phục rằng rất nhiều đặc vụ cộng sản và những người ủng hộ họ đang hoạt động tích cực tại Mỹ và lực lượng của họ đã thâm nhập vào mọi khía cạnh của đời sống nước Mỹ. Luật Feinberg tiếp tục có hiệu lực cho đến khi một quyết định của Tối cao Pháp viện năm 1967 tuyên bố hầu hết các điều khoản của nó là vi hiến.

Niềm tin

 
 
Image may contain: 3 people, people smiling, text
Đinh Văn HảiFollow

 

Niềm tin.

***
Vì sao dân không còn tin vào cách xử lý của “chính quyền”?
1. Khi thảm họa môi trường xẩy ra thì “chính quyền” đã làm gì?
A/ Tìm mọi cách che dấu thủ phạm gây ra thảm họa môi trường.
B/ Tổ chức các hoạt động tuyên truyền mị dân để che đậy hiểm họa sức khỏe cho dân chúng.
C/ Tổ chức ngăn chặn, đàn áp hoạt động biểu tình phản đối môi trường ô nhiễm.
C/ Lừa bịp thương nhân mua trữ cá nhiễm độc, làm nhiều doanh nghiệp nghề cá phá sản.
2. 42 năm độc quyền mà vẫn chưa chuẩn hóa hoạt động giao tiếp với người dân. Thích mời là mời, thích triệu tập là triệu tập. Thích thì bắt bớ giam cầm, bức cung, nhục hình, tra tấn vô tội vạ.
3. Quyền biểu tình, quyền tự do ngôn luận, tự do tiếp cận thông tin, lập hội lập nhóm của người dân bị xâm hại.
4. Sản xuất quá nhiều chủ trương, chính sách, văn bản luật và dưới luật để “chính quyền” tự do hành xử kiểu luật rừng.
5. Dùng quyền lực chính trị để bảo kê cho hoạt động đặc quyền kinh doanh. Đặc biệt là mọi cty, tổng cty, tập đoàn kinh tế nhà nước đều thua lỗ và bắt dân gánh chịu hàng núi nợ công.
6. Tự đặt ra hơn 432 loại thuế, phí, phụ phí, phụ thu nhằm vắt kiệt sức dân.
7. Tước đoạt quyền tư hữu tư liệu sản xuất, đất đai bởi tự đặt ra luật một cách phi lý.
8. Chế độ tuyển nhân viên quan chức theo chủ trương nhất hậu duệ, nhì quan hệ, ba tiền tệ, còn thì mặc kệ. Tuyển dụng con cháu quan chức dốt nát kế thừa quyền lực kiểu hôn nhân cận huyết loạn luân.
9. Luật chỉ để xử ép dân chứ không xử quan chức đảng viên khi họ phạm tội.
10. Hành xử bội ước với Hiến pháp, luật pháp quốc gia và các công ước đã ký kết với quốc tế.
Vậy thì dân nào còn đặt niềm tin và cách hành xử của “chính quyền”?

Ước muốn cuối cùng.

To Truong shared Ron Dinh‘s post.
 
 
Image may contain: 2 people

Ron Dinh

 

Ước muốn cuối cùng.

Một tử tù đang chờ thi hành án, anh cầu xin một điều ước cuối cùng là một cây bút chì và một tờ giấy. Sau khi viết cho một vài phút, anh nhờ nhân viên bảo vệ nhà tù gửi giúp bức thư này cho người mẹ ruột của mình.

Trong thư anh viết …

Mẹ, nếu có công lý trong thế giới này, con và mẹ nên bị kết án từ hình cùng nhau. Mẹ cũng có tội cũng như con vì những gì con đã làm.

Mẹ hãy nhớ lại đi, khi con ăn cắp chiếc xe đạp của thằng bé gần nhà. Mẹ đã giúp con giấu chiếc xe đạp đó đi để bố không nhìn thấy nó. 

Mẹ có nhớ lần con lấy trộm tiền từ ví của người hàng xóm không? Mẹ đã đi siêu thị mua sắm cùng với con.

Mẹ có nhớ ai đã bênh vực con khi con cãi lại bố đến nỗi bố phải bỏ đi không? Bố chỉ muốn sửa dạy con vì con đã gian lận trong bài thi và cuối cũng là con phải bị đuổi học.

Mẹ ơi, lúc đó con chỉ là một đứa trẻ, không lâu sau con đã trở thành một thiếu niên hư nghịch và bây giờ con đang là một tử tù chờ thi hành án.
Mẹ ơi, lúc đó con chỉ là một đứa trẻ con cần được bao biện, nhưng cái thực sự con cần là được sửa trị.

Nhưng thôi, con tha thứ cho mẹ! Con chỉ muốn viết thư này để nó có thể đến được nhiều người khác đang làm cha làm mẹ, với hi vọng rằng, họ có thể nhận ra điều tạo nên người tốt kẻ xấu trên thế giới này là sự giáo dục.

Cảm ơn mẹ đã cho con cuộc sống và cũng đã giúp con đánh mất nó.

Đứa con tử tù của mẹ.

“Giáo dục là vũ khí mạnh nhất mà bạn có thể sử dụng để thay đổi thế giới.” (Nelson Mandela)

Xã hội làm ‘nô lệ’ cho thánh thần và dấu hiệu ‘mạt vận’ của văn hoá

Xã hội làm ‘nô lệ’ cho thánh thần và dấu hiệu ‘mạt vận’ của văn hoá


Một xã hội khói hương

Nói ra thì bảo báng bổ, nhưng cứ thử nhìn mà xem, tháng Giêng năm nào, người ta cũng thấy rõ ràng nhất, đầy đủ nhất cái sự mê tín đến khủng khiếp của người Việt.

Một xã hội “khói hương”, với hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn người chen chân mang vác thủ lợn, gà luộc, vàng mã, đủ thứ lễ lạt cồng kềnh và cầu kỳ khắp các chùa chiền, miếu, phủ; từ nơi xa xôi hẻo lánh đến thị thành nhộn nhịp; từ đầu tuần tới cuối tuần, dai dẳng hết cả tháng Giêng, tháng Hai, có nơi còn vắt sang tháng Ba. 

Đâu đâu cũng thấy những người là người, nghi ngút khói hương, sì sụp khấn vái, cầu ước.

Xa xôi gì đâu, mới cách đây mấy ngày, dư luận khiếp đảm chứng kiến một cuộc hỗn chiến dã man bằng nắm đấm, gây gộc, hung hăng và máu để cướp cho bằng được quả “phết”, tại Phú Thọ. Vì tương truyền, có quả ấy trong nhà, cả năm sẽ may mắn, ăn nên làm ra, rồi cả …đẻ con trai. 

Tối hôm sau, hàng chục nghìn người xếp hàng dài cả cây số, tràn khắp các con đường, ngay trục giao thông trung tâm của Thủ đô, vái vọng xa tít tắp vào ngôi chùa Phúc Khánh vì đặt niềm tin vào sự linh thiêng của nơi này.

  Biển người chen chân đi lễ đầu năm ở chùa Phúc Khánh.

Biển người chen chân đi lễ đầu năm ở chùa Phúc Khánh.

 
 

Mùi của khói hương là mùi của bình an, của tĩnh tại, của thời khắc thiêng liêng, của ước vọng tốt đẹp và hướng thiện. Thứ mùi ấy, nhất định không thể tồn tại giữa xô bồ và toan tính.

Cũng đêm đó, ở đền Trần Nam Định, hơn vạn người chen lấn, giẫm đạp, nhảy bổ lên cả lư đồng, bàn thờ để cướp bằng được một chút lộc mang về nhà. Lộc ấy, dù được cướp theo cách báng bổ nhất, cũng được nâng niu như thứ bùa hộ mệnh cho lòng tin mãnh liệt vào đường công danh, thăng quan tiến chức.

Rồi các phủ, các đền, chùa, miếu mạo…cứ sau Tết là tấp nập người ra kẻ vào, khổ sở chen lấn, sớ cầu xin nào cũng dài dằng dặc ti tỉ ước mong.

Thôi thì, cầu mong những điều may mắn, tốt đẹp, an vui trong ngày đầu xuân năm mới vốn là truyền thống tốt đẹp của người Việt bao đời. Những địa danh tâm linh ấy, cũng được dựng lên từ ý nghĩa văn hóa và lịch sử đầy nhân văn của cha ông. 

Nhưng thử hỏi, bao nhiêu người trong số các khách thập phương xa gần kia, mang cái tâm hướng thiện và cầu bình an thực sự đến với những nơi linh thiêng. Hay nhiều hơn thế, những kẻ đang hùng hổ cướp lộc và len lén mua khói bán nhang, mua thần bán thánh đến cầu khấn những điều biểu lộ sự tham lam vô độ của lòng người.

  Nhảy bổ lên cả lư đồng, bàn thờ để cướp bằng được một chút lộc mang về nhà tại đền Trần (Ảnh: Zing)

Nhảy bổ lên cả lư đồng, bàn thờ để cướp bằng được một chút lộc mang về nhà tại đền Trần (Ảnh: Zing)

Mùi của khói hương là mùi của bình an, của tĩnh tại, của thời khắc thiêng liêng, của ước vọng tốt đẹp và hướng thiện. Thứ mùi ấy, nhất định không thể tồn tại giữa xô bồ và toan tính. 

Từ bao giờ, niềm tin của con người được “gá” vào thánh thần chứ không phải giữa con người với con người, giữa con người với ngay chính xã hội mà chúng ta đang sống, đang tồn tại hiển nhiên như vậy?

Cả một xã hội khấn vái, ước ao, một xã hội biến mình thành nô lệ của hương khói và thánh thần.