Công lý chỉ là diễn viên hài

Công lý chỉ là diễn viên hài

7-4-2018

Thế là phiên tòa xét xử vụ án Hội Anh em dân chủ cũng đã chấm dứt, với mức án tổng cộng là 66 năm tù và 17 năm quản chế cho 6 người. Mức án trên thật ra cũng đã có thể dự đoán được sau những bản án tàn nhẫn với chị Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (10 năm), chị Trần Thị Nga (9 năm), anh Hoàng Bình (14 năm)… Đảng cộng sản luôn ra những bản án nặng với những ai biết liên kết lại với nhau để tạo sức mạnh. Rõ ràng một cá nhân không bao giờ có thể làm nên chuyện gì lớn lao. 

Các luật sư bào chữa trong phiên tòa đã nêu lên rất nhiều điểm phi lý trong lập luận của viện kiểm sát như: lẫn lộn khái niệm giữa đảng và chính quyền, không mở băng ghi âm, không có người giám định để đối chất, không nêu ra được hành vi nào có thể dẫn tới “lật đổ chính quyền”, vi phạm trong thủ tục tố tụng khi tạm giam quá thời hạn…

Ở đây, căn cứ theo bản tốc ký diễn biến phiên tòa của luật sư Ngô Anh Tuấn, tôi chỉ muốn nói thêm về một số điểm liên quan tới Hiến pháp và luật pháp để góp thêm một tiếng nói bảo vệ chính nghĩa và công lý.

Việc lập hội là bất hợp pháp?

Quan điểm của bên công tố về quyền thành lập hội của người dân như sau: “Luật Hội chưa được thông qua nên các Hội chưa được bảo hộ, bảo vệ” và “Hiến pháp quy định công dân có quyền lập hội theo quy định của pháp luật nhưng luật hội chưa có nên việc lập hội là chưa hợp pháp”.

Ở đây, chúng ta thấy công tố viên hết sức khiên cưỡng khi cho rằng luật chưa có mà công dân làm là phạm pháp, dù điều công dân làm đã được Hiến pháp công nhận.

Theo điều 16 Hiến pháp “mọi người bình đẳng trước pháp luật”, nếu lập luận như công tố viên thì các hội do đảng cộng sản lập ra cũng đều “chưa hợp pháp” như Hội Cựu chiến binh, Hội phụ nữ, Hội nhà văn, Hội sinh viên,… Vậy thì phải truy tố các thành viên của các hội này về tội “lật đổ chính quyền”?

Ở Việt Nam cũng chưa có điều luật nào cho phép người dân … đi chợ, gặp bạn bè cà phê, ăn nhậu, hát karaoke,… Vậy thì tất cả những người dân đang phạm pháp hàng ngày? Và bất cứ người dân nào cũng có thể bị bắt vì chuyện suy diễn luật pháp tùy tiện.

Ví dụ như một anh công an nhìn thấy một thanh niên đang suy nghĩ công việc kinh doanh và đang ngồi uống cà phê một mình trong quán, anh công an này có thể suy diễn là trong đầu anh thanh niên này đang “mong ước đa nguyên đa đảng, tam quyền phân lập”, nghĩa là có ý định “lật đổ chính quyền nhân dân” và anh này bị bắt vì không có luật nào cho phép người dân được uống cà phê một mình. Uống cà phê một mình là đang tìm cách lật đổ chính quyền.

Trong bài phát biểu đầu năm 2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nhấn mạnh rất rõ: “Người dân có quyền làm tất cả những gì pháp luật không cấm và sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép.”

Việc công tố viên công khai nói ngược lại với nguyên tắc pháp luật căn bản này trong một phiên tòa được quốc tế chú ý sẽ ảnh hưởng ít nhiều tới niềm tin vào môi trường kinh doanh và pháp luật ở Việt Nam. Và điều này cũng chứng tỏ giới lãnh đạo cộng sản là những người không đáng tin cậy, không nhất quán.

Việc lập đảng cũng là bất hợp pháp

Một việc còn không được Hiến pháp công nhận là quyền tự do lập đảng. Rõ ràng là theo lập luận của công tố viên, Hiến pháp không công nhận quyền tự do lập đảng nên lập đảng là bất hợp pháp, là lật đổ chính quyền. Như vậy thì cần phải bắt hết các thành viên của đảng cộng sản vì đảng cộng sản đang “lật đổ chính quyền nhân dân”?

Tiếp nữa, không hề có luật nào cụ thể điều 4 Hiến pháp là “đảng cộng sản là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội” nên việc đảng cộng sản “lãnh đạo” cũng là chưa hợp pháp. Xin mời công tố viên chỉ ra bộ luật về quyền lãnh đạo của đảng cộng sản!

Chưa có luật về quyền tự do lập đảng và chưa có luật về quyền lãnh đạo của đảng cộng sản nên đảng cộng sản cũng “chưa được bảo hộ, bảo vệ”. Đó là chưa kể đảng cộng sản mới thực sự là “đe dọa tới an ninh quốc gia” chứ không phải Hội Anh em Dân chủ. Lý do là tài chính để đảng hoạt động lấy từ ngân sách nhà nước, là tiền thuế mồ hôi nước mắt của nhân dân, khiến nhân dân phải chịu cảnh sưu cao thuế nặng để nuôi đảng cộng sản, gây bất công và bức xúc xã hội. Còn Hội Anh em Dân chủ chưa hề lấy một đồng thuế nào của dân.

Có tiền là bất hợp pháp?

Viện kiểm sát cũng suy diễn luật sư Nguyễn Văn Đài không có công ăn việc làm mà có tiền thì tiền đó bất hợp pháp và sung công quỹ. Đây là suy diễn hết sức nguy hiểm và có thể là tiền đề cho nạn cướp bóc lặp lại, giống như thời mới sau 1975 người cộng sản đánh tư sản ở miền Nam.

Người dân, thậm chí cả báo chí của đảng cộng sản ở trong nước, đã nêu rất nhiều trường hợp quan chức, tức là những người ở vào vị trí có thể tham nhũng, có rất nhiều tiền bạc một cách lộ liễu. Nhưng các quan chức đó đều khai là họ làm những việc mà người dân phải phì cười: buôn rượu (lậu), bán chổi đót, nuôi heo, chạy xe ôm thâu đêm,… Các quan chức đó không hề chứng minh được nguồn gốc tài sản của mình mà chỉ có những lời thanh minh không thể tin được.

Vậy thì công an và viện kiểm sát nên đưa hết những quan chức có tài sản nhiều bất thường và không chứng minh được nguồn gốc vào ra tòa để cho thấy sự nghiêm minh của luật pháp Việt Nam dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam. Nếu không làm được như vậy thì rõ ràng việc bắt bớ các thành viên của Hội Anh em Dân chủ là hành vi đàn áp bất đồng chính kiến chứ không phải như bà phát ngôn bộ ngoại giao Lê Thị Thu Hằng tuyên bố là “Việt Nam không có cái gọi là tù nhân lương tâm” và “Như tại các quốc gia khác trên thế giới, ở Việt Nam, mọi hành vi vi phạm pháp luật đều bị xử lý nghiêm theo đúng các quy định của pháp luật.”

Qua ba điểm trên, hẳn mọi người cũng đã nhận ra tại sao nhà cầm quyền phải tổ chức một phiên tòa chớp nhoáng, xử sáu người mà trong vòng một ngày là xong, và không dám đối chất, không dám tranh luận với luật sư và các bị cáo mà chỉ nói cho qua chuyện để tuyên án. Lý do là các lập luận của công tố toàn là suy diễn, quy chụp, giải thích pháp luật tùy tiện, chẳng hạn như tùy tiện suy diễn là mong muốn “đa nguyên đa đảng” và “tam quyền phân lập” là “lật đổ chính quyền”, dù chẳng có luật nào cấm đa nguyên đa đảng hay cấm tam quyền phân lập.

Lời kết

Khi tham gia đấu tranh cho một xã hội công bằng, tốt đẹp hơn như khẩu hiệu của chính đảng cộng sản đã tuyên bố “dân chủ, công bằng, văn minh”, tôi tin các thành viên của Hội Anh em Dân chủ đã sẵn sàng chấp nhận tù đày. Sự đàn áp của giới lãnh đạo cộng sản với các anh chị em chắc chắn không thể nào khiến người dân hoảng sợ mà đẩy lùi tiến trình lịch sử dân chủ hóa. Rõ ràng Công Lý chỉ là một diễn viên hài chứ hoàn toàn không tồn tại ở Việt Nam.

Dù nền dân chủ, pháp quyền có thể đến sau vài năm hay vài chục năm nữa, người dân Việt Nam cuối cùng chắc chắn sẽ có công lý. Hiện tại thì giới lãnh đạo cộng sản có vẻ mạnh nhưng cuối cùng nhân dân Việt Nam sẽ mạnh hơn. Đó là bài học mà rất nhiều lãnh đạo đã học được như bà cựu tổng thống Hàn Quốc Park Geun-Hye mới bị tuyên án 24 năm tù vì lạm quyền, cựu Tổng thống Nam Phi Jacob Zuma đang ra tòa vì tội tham nhũng…

Trong một chừng mực nào đó, ngay ở Việt Nam, cựu ủy viên Bộ chính trị đảng cộng sản Đinh La Thăng, cựu Trung tướng công an Phan Văn Vĩnh,… cũng đã “thấm nhuần”, “quán triệt” về bài học “lên voi xuống chó”.

Một ngày nào đó, những kẻ có quyền lực hiện tại sẽ phải trả lời về những hành động của mình ngày hôm nay. Đó cũng là lý do mà rất nhiều cán bộ đảng viên cộng sản đã mua quốc tịch nước ngoài, đưa con cái và tài sản ra nước ngoài.

Tôi xin cảm ơn những người vợ của những tù nhân chính trị, tù nhân lương tâm, tù nhân tôn giáo. Hình ảnh những người vợ trong vụ án Hội Anh em Dân chủ thực sự làm tim tôi se thắt. Sự hi sinh của các chị thật quá lớn. Nhưng lịch sử rất công bằng, rồi tất cả mọi chuyện đều sẽ được ghi nhận lại.

LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT và CÔNG LÝ

LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT và CÔNG LÝ

 Cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá là để cứu chuộc các tội nhân chúng ta và toàn thế giới.  Trong sứ điệp Lòng Chúa Thương Xót (LCTX) được mặc khải cho Thánh nữ Faustina, Chúa Giêsu yêu cầu lúc 3 giờ chiều, chúng ta hãy đắm mình trong Cuộc Khổ Nạn của Ngài.  Thánh Gioan Tẩy giả đã ngâm mọi người vào trong nước vì đó là biểu hiện của việc thanh tẩy.  Qua cái chết trên Thập giá, Chúa Giêsu đã thanh tẩy linh hồn nhân loại bằng Nước chảy ra từ cạnh sườn của Ngài, và ban cho linh hồn sự sống mới bằng Máu chảy ra từ Thánh Tâm Ngài. 

Điều xảy ra trong Đại lễ LCTX là Chúa Giêsu làm cho hồng ân ngoại hạng này có sẵn thêm lần nữa dành cho các tội nhân, và linh hồn chúng ta có thể được thanh tẩy và nên mới, chúng ta được trao ban sự sống mới, một khởi đầu mới.  Vào ngày này, Chúa Giêsu cho phép chúng ta đứng dưới chân Thánh giá, lúc Ngài tắt thở, vì đó là thời điểm LCTX chiến thắng thế gian.

 Dismas (tử tội bị đóng đinh với Chúa Giêsu) là người đầu tiên được hưởng nhờ lợi ích từ việc Chúa Giêsu chiến thắng Tử thần, vì lúc đó Chúa Giêsu được Chúa Cha trao quyền về Lòng Thương Xót.  Canon Ignacy Rozycki, người được phong Tiến sĩ Thần học Tín lý để kiểm chứng những mặc khải được bày tỏ với Thánh Faustina, đã kết luận rằng Chúa Giêsu ban đặc sủng ngày lễ LCTX là tặng phẩm hồng ân chỉ được so sánh bằng Bí tích Thánh tẩy.  Với phương tiện trong ngày này, linh hồn bạn có thể trở nên thuần khiết như trong ngày lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy.  Nghĩa là bạn lại bắt đầu sống và bạn chỉ phải lo về tội lỗi bạn sẽ phạm trong tương lai, mọi tội lỗi của bạn trong quá khứ không còn nữa.  Dù bạn đã phạm tội gì trong quá khứ, bạn vẫn được tha thứ, miễn giảm các tội lỗi trong quá khứ mà không phải ở trong Luyện ngục. 

Thế nên vào ngày Đại lễ LCTX, chúng ta được đưa lên đồi Can-vê, và chúng ta – cũng như Dismas, được Chúa Giêsu đoái nhìn, Chúa Giêsu ở đó với chúng ta trong ngày đó để thanh tẩy chúng ta bằng Nước tuôn trào từ cạnh sườn của Ngài, điều này xảy ra khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Hòa giải, và lúc đó chúng ta bắt đầu cuộc sống mới nhờ truyền Máu Thánh từ việc rước lễ.

 Do đó, chúng ta được nhận chìm vào Máu và Nước trong ngày này.  Chúng ta tham dự Đại lễ LCTX cũng là chúng ta tín thác vào Đức Kitô, Đấng chịu chết trên Thập giá.  Trong ngày lễ LCTX, linh hồn chúng ta tín thác vào Chúa Cha, nhờ Đức Kitô, Thiên Chúa Ngôi Hai. 

Chúa Giêsu đã hứa chắc với Dismas, tên cướp cùng chịu đóng đinh với Ngài, rằng: “Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23:43). 

Tặng phẩm chúng ta nhận trong ngày lễ LCTX cũng giống như tặng phẩm mà Chúa Giêsu đã trao tặng “tướng cướp” Dismas.  Nếu bạn chết vào ngày hôm sau, bạn sẽ đi thẳng tới trước Tôn Nhan Chúa trên Thiên đàng.  Vì nhờ LCTX, quá khứ của bạn được tha thứ, bạn không phải bị xét xử gì nữa. 

Dĩ nhiên chúng ta quan ngại rằng lễ LCTX là sự tha thứ ngoại hạng, nhưng còn những sai sót khi làm người mà chúng ta đã không tha thứ cho người xúc phạm tới mình, mặc dù chúng ta muốn được tha thứ về những sai lầm khi sinh thời.  Nếu chúng ta muốn sạch tội trong ngày này thì chúng ta phải tha thứ cho những người đã xúc phạm tới mình, dù họ đối xử tồi tệ với chúng ta tới mức nào.  Trong ngày này, bạn phải dâng tất cả cho Chúa Giêsu và xin Ngài xử lý.  Chúng ta tự lừa dối chính mình, và sự thật không ở trong chúng ta, nếu chúng ta không tha thứ cho người khác trong ngày này. 

Trước khi nhớ tên những người đó, bạn có thể than thở và xin Chúa lấy hết mọi cay đắng trong lòng bạn.  Điều này quan trọng.  Nếu bạn thú nhận tội lỗi, chúng ta phải kể cả nỗi cay đắng mà bạn gặp trong đời sống khi đối nghịch với người khác. Nhờ rước lễ trong ngày này, chúng ta tuyên bố linh hồn mình sạch tội, đừng rước lễ nếu bạn chưa tha thứ cho người đã xúc phạm tới mình, nếu có điều gì đó chưa xưng thú, vì rước lễ lúc đó sẽ là tội trọng, thay vì đón nhận ơn Chúa thì chúng ta lại nhận lấy án phạt của Chúa. 

Trong ngày lễ LCTX, chúng ta phải tha thứ cho kẻ thù và cầu nguyện cho họ, xin ơn tha thứ tội lỗi chúng ta đã phạm.  Nếu chúng ta làm đúng vậy để chuẩn bị đón nhận tặng phẩm LCTX, Tình yêu Chúa sẽ ấp ủ chúng ta và ban hồng ân cho chúng ta như Ngài đã hứa ban trong dịp đặc biệt này:  Đại lễ LCTX. 

Kha Đông Anh 

(chuyển ngữ từ CatholicCulture.org)

From Langthangchieutim

Khởi tố và bắt giam nguyên tướng công an Phan Văn Vĩnh

RFA
2018-04-06
 

Tướng Phan Văn Vĩnh bị bắt.

Tướng Phan Văn Vĩnh bị bắt.

 Ảnh chụp màn hình của báo Tuổi Trẻ
 

Công an tỉnh Phú Thọ vừa ra quyết định khởi tố và bắt tạm giam ông Phan Văn Vĩnh, nguyên Trung tướng Tổng cục trưởng Cảnh sát thuộc Bộ Công an về tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”

Quyết định trên được Cơ quan An ninh điều tra, Công an tỉnh Phú Thọ đưa ra chiều ngày 6/4.

Theo Cơ quan an ninh điều tra, ông Phan Văn Vĩnh bị khởi tố vì liên quan đến đường dây đánh bạc xuyên quốc gia với quy mô lên tới hàng ngàn tỷ đồng do hai ông Phan Sào Nam và Nguyễn Văn Dương cầm đầu. Ông Vĩnh bị bắt tạm giam thời hạn 3 tháng về tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” theo điều 356 Bộ luật Hình sự.

Hồi trung tuần tháng ba, Cơ quan điều tra Phú Thọ đã làm việc với ông Vĩnh để thu thập thông tin liên quan đến đường dây đánh bạc xuyên quốc gia, khi đó cơ quan điều tra không tiết lộ nội dung buổi làm việc.

Trước đó vào ngày 11/3, Công an tỉnh Phú Thọ đã khởi tố và bắt tạm giam ông Nguyễn Thanh Hóa, nguyên Thiếu tướng Cục trưởng Cảnh sát phòng chống tội phạm công nghệ cao C50 về tội tổ chức đánh bạc.

Hai ông tướng Phan Văn Vĩnh và Nguyễn Thanh Hóa là hai cựu cán bộ cấp cao của ngành công an bị khởi tố liên quan đến đường dây đánh bạc xuyên quốc gia với quy mô lên tới hàng ngàn tỷ đồng.

Bộ Công an Việt Nam đã cho biết những thông tin ban đầu về vụ việc sử dụng internet để thực hiện chiếm đoạt tài sản, tổ chức đánh bạc, mua bán trái phép và rửa tiền xảy ra tại Phú Thọ cùng với một số tỉnh và thành phố khác.

Những người làm chứng gian

 

Những người làm chứng gian

 

Trong ngành tư pháp, trước toà án hay trong vòng điều tra, một lời khai báo gian dối, không đúng sự thật được xem là một trọng tội; xâm phạm trực tiếp đến quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người khác.

Nếu người làm chứng khai báo gian dối khác với sự thật mà mình biết thì sẽ gây rất nhiều khó khăn trong công tác điều tra của cơ quan chức năng. Do đó, pháp luật có những quy định và hình phạt đối với hành vi người làm chứng gian.

Ngày nay tại hải ngoại, nơi có nhiều người Việt đang sinh sống, chúng ta thấy và nghe đầy dẫy những lời chứng gian trong các địa hạt, nhiều nhất hiện nay là món “dược thảo!” Ðể củng cố lòng tin của khách tiêu dùng, người ta đã mời rất nhiều khuôn mặt nổi tiếng trong cộng đồng trong giới thể thao, điện ảnh, âm nhạc, sân khấu… để mời mọc giới tiêu thụ bằng những lời lẽ không thật, gian dối, tức là những lời chứng gian.

Tâm lý quần chúng là nghe theo những lời chứng này. “Thuốc không hay sao trên đài phát thanh và truyền hình người ta khen dữ vậy!” “Thuốc không hay sao diễn viên này khen, ca sĩ nọ giới thiệu!”

nhung-nguoi-lam-chung-gian
Từ trái sang: Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trịnh Công Sơn, (chụp trong khai mạc triển lãm ảnh Dương Minh Long tại Huế 1995)

Cuối cùng họ đem số phận và sức khỏe của mình thử thách cùng một loại nghệ thuật quảng cáo rất tầm thường nhưng có mãnh lực thu hút và nhồi nhét ý niệm rất mạnh mẽ!

Quần chúng thì chạy theo thần tượng, tên tuổi nên “cả tin” những gì họ nói, phô này, đôi khi cả những lời thề thốt, nhưng sự thật chưa bao giờ người quảng cáo có can đảm, uống một viên thuốc hay dùng sản phẩm của viện bào chế hay nhà sản xuất nọ đưa ra thị trường. Cựu ứng viên Tổng thống Mỹ Bob Dole năm 70 tuổi đã quảng cáo cho loại thuốc cường dương Viagara, nhưng liệu thứ thuốc này hiệu nghiệm với ông như thế nào, vì đây là chuyện phòng the riêng tư của vợ chồng ông.

Trong chuyện chính trị, nói dối và hứa gian là những chuyện thường tình. Ðể tuyên truyền hay tán dương cho một chế độ người ta đã không thương tiếc khi dùng những kẻ gian dối để làm chứng gian cho họ, và những kẻ chứng gian đã sẵn sàng bỏ qua lương tâm và sự thật để “biểu diễn lập trường,” trả nợ cơm áo hay vì sợ hãi cường quyền.

Vụ thảm sát Mậu Thân tại Huế năm 1968, qua cuốn phim của Lê Phong Lan với những “nhân chứng” xứ Huế như Nguyễn Ðắc Xuân , Hoàng Phủ Ngọc Tường và Trịnh Công Sơn là những chuyện làm chứng gian nguy hiểm nhất!

Trong một khúc phim, Lê Phong Lan phỏng vấn Nguyễn Ðắc Xuân, Xuân đã phủ nhận hoàn toàn chuyện thảm sát, nghĩa là Cộng Sản không giết ai cả, đây là do phản kích tâm lý chiến của phe VNCH, và Huế là nơi duy nhất đã đạt được cả hai mục tiêu “tấn công” và “nổi dậy”. Sự thật việc “tổng nổi dậy” là một chuyện hoang tưởng của phe Cộng Sản, không ai minh chứng được tên tuổi hay đơn vị quân đội, quần chúng địa phương nào đã “nổi dậy!” Sự thật là Việt Cộng đi đến đâu, dân Huế bỏ chạy đến đó, nghe chữ Việt Cộng là dân Huế “vãi đái” rồi. Ðây cũng là một thứ miệng lưỡi gian xảo của một người chứng gian được gọi là nhà “sử học!” Hay ông cho rằng quân nổi dậy được đếm trên đầu ngón tay, là anh em nhà họ Hoàng, cha con Nguyễn Ðoá và ông?

Hoàng Phủ Ngọc Tường là một chứng gian tệ hại hơn. Luôn luôn nói rằng mình, trong thời gian Tết Mậu Thân, không có mặt ở Huế, nhưng trước ống kính truyền hình quốc tế thì Tường làm chứng gian rằng mình đã “lội” trong máu, mà không biết, khi bật đèn pin lên mới thấy đó là máu của 200 nạn nhân, trong một cuộc ném bom vào một bệnh viện trong thành nội Huế. Tôi chưa nói đến sự phi lý máu của 200 người chảy từ bệnh viện ra đường, thứ máu không đông đến nỗi ngập đường mà ông Tường phải “lội” mà không nghe mùi tanh. Tường cũng làm chứng gian nói rằng những phụ nữ miền Nam mang thai, có chồng tập kết ra Bắc đều bị công an, cảnh sát đạp cho văng thai nhi ra ngoài, và công chức Huế mỗi ngày Lễ Tết đều phải đến quỳ lạy tại nhà ông Ngô Ðình Cẩn. (số này đương nhiên là phải có HPNT và tác giả bài viết này!)

Khi nghe Nguyễn Ðắc Xuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường “ăn gian nói dối” chúng ta không ngạc nhiên vì họ là những người Cộng Sản, nhưng đến phiên Trịnh Công Sơn, một nhạc sĩ có tài đã để lại nhiều sự ái mộ trong lòng quần chúng, cũng chịu làm chứng gian cho bộ phim chối tội “Mậu Thân 1968” của Lê Phong Lan thì chúng ta hoàn toàn thất vọng!

Phát biểu của Trịnh Công Sơn trong bộ phim Mậu Thân 1968 của Lê Phong Lan là: “ …quân đội Bắc Việt Nam vô cùng nghiêm túc, kỷ luật, không hề có chuyện thảm sát!”.

Tôi là một nhân chứng có mặt Huế trong suốt thời gian 24 ngày trước khi quân Việt Cộng rút ra khỏi Huế. Trong thời gian này, gia đình Trịnh Công Sơn, có cả Ðinh Cường từ Saigon ra ăn Tết với Sơn, đã từ Phú Cam (nhà Sơn) chạy về trường Trung Học Kiểu Mẫu (toà Khâm Sứ cũ) được dùng như một trại tạm cư để tránh Việt Cộng.

Từ Saigon ra, gia đình tôi cũng từ Chợ Cống tránh VC chạy về đây. TCS đã ở đây cho đến ngày VC rút ra khỏi thành phố. Như vậy trong những ngày này, lúc nào, ở đâu, TCS đã tiếp xúc với bộ đội Bắc Việt, để có nhận xét rằng: “quân đội Bắc Việt Nam vô cùng nghiêm túc, kỷ luật, không hề có chuyện thảm sát?” Vậy thì ai là thủ phạm? Hay mấy nghìn dân Huế cùng nhau tự trói mình, tự nhảy xuống hầm và cùng… tự sát?

Nếu VC gặp một thanh niên đeo kính trắng, trắng trẻo, tóc dài, dáng dấp thư sinh như TCS thì chắc chắn người nhạc sĩ này không thoát cảnh nằm chung với đồng bào trong các hầm chôn tập thể. Thời đó, bọn ở trong rừng ra, biết TCS là ai?

Lời chứng gian này là một điều xúc phạm đến nỗi đau của hàng nhìn gia đình có thân nhân chôn chung trong 22 hầm tập thể. Vậy mà Lê Phong Lan dám nói rằng: “Không có nhân chứng nào có thể nói dối trong những cuộc phỏng vấn này.”

Ngày mai toàn dân tộc sẽ xét xử các vị.

Tai Do shared Hoang Le Thanh‘s post.
 
 
Image may contain: 5 people, people standing

Hoang Le Thanh is with Phan Thị Hồng and Nghia Xuan Nguyen.

Ngày mai toàn dân tộc sẽ xét xử các vị.

Luật sư Luân Lê đã ghi lại một số câu nói của các thành viên HAEDC tại phiên toà hôm nay:

Luật sư Nguyễn Văn Đài:

– “Khoan dung cho những người bất đồng chính kiến chính là khoan dung với chính mình ngày mai”.

Ký giả Trương Minh Đức:

– “Tôi không có gì hối tiếc cả. Hôm nay các vị xét xử tôi nhưng ngày mai có thể là các vị. Bất công nó xoay vòng không chừa một ai”.

Anh Nguyễn Bắc Truyển:

– “Tôi sẽ luôn đấu tranh và nếu phải ngồi tù thì những người khác ngoài kia vẫn sẽ tiếp tục đấu tranh cho tôi mà sẽ không bao giờ họ dừng lại”.

Hình ảnh: 

Sau phiên tòa Hà Nội bất công và tàn bạo:

Giọt nước mắt vẫn còn vương trên khóe mắt của mẹ cô giáo Lê Thu Hà !

Các người vợ của các TNLT Trương Minh Đức, Nguyễn Trung Tôn, Nguyễn Văn Đài, Phạm Văn Trội, Nguyễn Bắc Truyển mắt đỏ hoe, dìu dắt nhau sang đường, những bàn tay gầy guộc và tâm trạng uất ức, đau khổ.

Họ đã gánh chịu đau thương cho cả dân tộc !.

Tại sao quan tâm Chúa Giêsu phục sinh?

Tại sao quan tâm Chúa Giêsu phục sinh?

Hằng ngày, càng ngày càng có nhiều người lưu tâm con người lịch sử là Giêsu Nadarét. Với một người bị người ta ghét cay ghét đắng đến nỗi giết chết mà tại sao ngày nay người ta vẫn quan tâm tới cuộc đời và các giáo huấn của Ngài như vậy?

ĐIỀU PHÁT HIỆN
Mọi điều về Ngài đều xảy ra chính xác: Các lời tiên tri về việc Ngài đến, sinh ra, cuộc sống, giáo huấn, phép lạ, sự chết, và nhất là sự sống lại của Ngài. Đó là các sự kiện quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại.

Hiệu quả chính xác về chính Ngài đối với sự Phục Sinh – dù Ngài đã sống lại từ cõi chết hay vẫn còn trong mộ đá. Nhiều người đa nghi nói rằng tin vào Đức Kitô phục sinh không gì hơn chỉ là “bước nhảy mù quáng của niềm tin vô căn cứ” (sic!).

Tuy nhiên, khi đối diện với các sự kiện này, những người chân thật một cách thông minh đã phải chân nhận rằng sự phục sinh của Chúa Giêsu là một sự kiện lịch sử dựa trên các chứng cớ không thể bác bỏ.

Trên hành trình tâm linh từ không biết gì tới lúc tin vào Đức Kitô, người ta có vấn đề về sự phục sinh. Nhưng xét kỹ thì chúng ta thấy sức thuyết phục rằng sự sống lại về thể lý là lời giải thích duy nhất về ngôi mộ trống, nơi đã mai táng thi hài Đức Kitô.

Đây là vài chứng cớ lịch sử khiến tâm phục khẩu phục:

CHỨNG CỚ PHỤC SINH

• Đức Kitô đã báo trước việc Ngài phục sinh. Kinh thánh nói: “Từ lúc đó, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16:21). Mặc dù những người theo Ngài không hiểu Ngài nói gì với họ lúc đó, nhưng họ vẫn ghi nhớ lời Ngài.

  • Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với những người theo Ngài. Ngài an ủi những người than khóc bên ngoài mộ vào sáng Chúa Nhật. Trên đường đi Emmaus, Ngài đã giải thích những điều nói về chính Ngài từ Cựu Ước. Sau đó, Ngài ăn uống trước mặt họ và mời họ chạm vào Ngài. Kinh thánh nói rằng Chúa Giêsu được hơn 500 người thấy một lúc. Một số người có thể cho rằng chỉ có một số ít người đồng ý với sự dối trá đó, nhưng làm sao người ta có thể giải thích về sự cộng tác của 500 người đó?
  • Đức tin kiên cường của các Tông đồ đủ thuyết phục chúng ta về việc Chúa Giêsu phục sinh. Các Tông đồ này đã từng sợ hãi mà bỏ trốn và chối bỏ Thầy, nhưng nay họ can đảm công bố tin vui này, rao truyền mà không sợ chết. Hành động kiên cường và can đảm của họ sẽ vô nghĩa nếu họ không biết với sự chắc chắn tuyệt đối rằng Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết.
  • Sự phát triển của Kitô giáo đủ xác minh Chúa Giêsu phục sinh. Bài giảng đầu tiên của ông Phêrô, nói về sự phục sinh của Chúa Giêsu, đã khiến người ta tin nhận Đức Kitô là Đấng Cứu Độ hằng sống của họ. Thánh Luca cho biết một con số kỷ lục: “Hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn ngườitheo đạo” (Cv 2:41). Cho tới nay, số người tin đó càng ngày càng tăng thêm trên khắp thế giời. Ngày nay, có hàng tỷ người tin.
  • Chứng cớ của hàng tỷ người đã thay đổi đời sống qua các thế kỷ qua cho thấy sức mạnh của Đức Kitô phục sinh. Nhiều người đã bỏ được các chứng nghiện. Những người nghèo khổ và những người thất vọng đã tìm được niềm hy vọng. Những cuộc hôn nhân đổ vỡ đã được hàn gắn. Chứng cớ thuyết phục nhất về sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô là ngày nay Ngài vẫn đang sống giữa những người tin vào sự sống lại và sức mạnh hoán cải.

Sự Phục Sinh làm cho Kitô giáo trở nên đặc biệt. Chưa có một vị lãnh đạo tôn giáo nào đập tan sức mạnh của Tử thần và chiến thắng tội lỗi như Đức Giêsu Kitô.

TẦM QUAN TRỌNG CỦA SỰ PHỤC SINH

Sự Phục Sinh xác nhận rằng Chúa Giêsu là Đấng mà chính Ngài đã tuyên bố. Chúng ta hãy cân nhắc tầm quan trọng của sự kiện này:

  • Sự Phục Sinh chứng tỏ rằng Đức Kitô là Thiên Chúa. Việc Chúa Giêsu chết trên Thập Giá không chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa. Chúa Giêsu chứng tỏ thần tính của Ngài bằng việc hoàn tất các lời tiên tri về cái chết của Ngài và bằng việc Ngài trỗi dậy từ trong mộ. Kinh thánh tuyên bó: “Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng” (Rm 1:4).
  • Sự Phục Sinh chứng tỏ quyền năng của Đức Kitô trong việc tha tội. Kinh thánh quả quyết: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em” (1 Cr 15:17). Qua việc sống lại từ cõi chết, Chúa Giêsu chứng tỏ quyền năng và quyền lực phá vỡ mối ràng buộc của tội lỗi, bảo đảm ơn tha thứ và sự sống đời đời cho những ai tin vào Ơn Cứu Độ của Ngài.
  • Sự Phục Sinh mặc khải quyền lực của Đức Kitô đối với sự chết. Kinh thánh cho biết: “Một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người” (Rm 6:9). Sự Phục Sinh bảo đảm chúng ta cũng chiến thắng sự chết: “Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời” (Ep 2:6).
  • Sự Phục Sinh đánh bại kẻ thù của Thiên Chúa. Từ cuộc nổi loạn đầu tiên cho đến Thập Giá, ma quỷ đã nham hiểm đấu tranh và xảo quyệt muốn lật đổ Thiên Quốc. Satan phải biết rằng nó đã bị một đòn chí tử trong cuộc chiến xưa kia. Nhưng cuộc chiến này là sự tính toán sai lầm của ma quỷ. Thập Giá là chiến thắng của Nước Trời. Khi Đức Kitô sống lại, quyền lực của tội lỗi và Tử thần đã bị đập tan vĩnh viễn. Nhờ sự Phục Sinh của Đức Kitô, các Kitô hữu không còn sợ Satan hoặc Tử thần nữa!

    HOÀN TẤT ƠN CỨU ĐỘ

    40 ngày sau khi Chúa Giêsu chết và sống lại, Ngài đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ. Có lần Ngài quy tụ 11 môn đệ (không còn Giuđa) trên núi tại Galilê và trao cho họ sứ vụ quan trọng. Ngài nói: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:18-20).

Rồi sau đó, sách Công vụ nói: “Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Đồ, Đức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là: ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần. Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt,8 nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:4-5, 7-8).

Ngay sau đó, Ngài lên trời và biến vào trong đám mây, để các môn đệ ngơ ngẩn nhìn theo, mắt chữ O mà miệng chữ A. Chúa Giêsu lên trời là hành động cuối cùng trong công cuộc cứu độ. Sứ vụ của Ngài hoàn tất, Đức Giêsu Kitô được tán dương và vinh quang. Sự Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô là sự kiện cách mạng nhất trong lịch sử nhân loại.

Người ta không thể từ chối rằng Ngài đã làm rung động thế giới khi Ngài làm người trên thế gian. Nhưng cuộc đời Ngài đã hình thành lịch sử cả trong thời đại chúng ta. Sự Phục Sinh là minh chứng cuối cùng rằng Đức Giêsu Kitô là Đấng mà chính Ngài đã tuyên bố.

Nhân chứng sống của chàng trai trẻ Gioan, người luôn kề cận Chúa Giêsu và chứng kiến từ đầu tới cuối, ngay cả khi đứng dưới chân Thập Giá, đã viết: “Chính môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra. Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực. Còn có nhiều điều khác Đức Giêsu đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra” (Ga 21:24-25).

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ ccci.com)

Xâm lăng Không Tiếng Súng: Trung Quốc Biến Nợ Thành Lãnh Thổ

Xâm lăng Không Tiếng Súng: Trung Quốc Biến Nợ Thành Lãnh Thổ 

Trong chiến lược xây dựng đế quốc của Trung Quốc, dựa theo mô hình của Hoa Kỳ là bằng kinh tế và dùng quân sự hậu thuẩn phía sau, nhưng lộ liễu và võ biền hơn, đó là hình ảnh anh thương gia mặc đồ vest tay xách chiếc cập đầy tiền nhưng trên vai có mang khẩu súng, TQ vừa muốn khai thác thị trường và tài nguyên thế giới vừa biến các nước cận biên thành chư hầu. Kế hoạch “Vành Đai và Con Đường” còn gọi là “Con đường tơ lụa của thế kỷ 21” (BRI – Belt Road Initiative), với số tiền tung ra khoảng 1,700 tỷ đôla mỗi năm và 26,000 tỷ đôla tính đến năm 2030 đang biến nợ của các quốc nghèo thành lãnh thổ của Trung Quốc (http://cnb.cx/2tWJJUV

Ở Brunei, TQ đang xây dựng một khu phúc hợp lọc dầu và hóa dầu và một cây cầu nối khu liên hợp với thủ đô Bandar Seri Begawan, trị giá 3.4 tỷ đôla trên đảo Muara Besar, đây là dự án đầu tư nước ngoài lớn nhất từ trước đến nay ở Brunei. Nhưng đó chỉ là giai đoạn 1 và giai đoạn 2 trị giá khoảng 12 tỷ đôla (http://bit.ly/2tPxlWs).

Ở Sri Lanka, TQ cho vay khoảng 85% để xây cảng Hambantota trị giá 1.3 tỷ đôla, Sri Lanka không đủ sức trả nợ phải cho TQ thuê 99 năm, có nghĩa cảng này bây giờ là nhượng địa của TQ trong một thế kỷ. Hơn nữa, Sri Lanka cũng giao cho TQ vùng đất rộng lớn chung quanh cảng để làm khu Kinh Tế Đặc Quyền (Special Economic Zone), và cựu tổng thống Mahinda Rajapaksa thân TQ đang tái trổi dậy ở chính trường Sri Lanka (http://bit.ly/2FQx9YC).

Ở quần đảo Maldives, một quốc gia đảo quốc nhỏ bé, diện tích chừng 298 km2, tức chỉ bằng 1.7 thủ đô Hoa Thịnh Đốn, có tổng sản lượng khoảng 7 tỷ đôla/năm và chỉ khoảng 393,000 dân (2017) thì việc TQ chi tiền tỷ đôla dễ dàng mua chuộc đảo quốc này.

Đầu tháng 2/2018 Maldives bị khủng hoảng chính trị mà nguyên nhân sâu xa là chính quyền của tổng thống Abdulla Yameen thân TQ đụng độ với đối lập thân Ấn Độ. Ông Yameen đảo chánh tổng thống dân cử thân Ấn Độ Mohammad Nasheed năm 2013 và ông Nasheed chạy qua Sri Lanka tỵ nạn. Hôm 6/2/18 ông Yameen ra lệnh bắt ông Chủ Tịch Tối Cao Pháp Viện và cựu TT Nasheed và tuyên bố tình trạng khẩn cấp. Ông Nasheed cầu cứu Ấn Độ can thiệp quân sự. Ấn đã từng can thiệp quân sự vào Maldives năm 1988. Lâu nay Ấn giúp đỡ tài chánh cho Maldives để đổi lấy chính sách “Ấn Độ Trước Tiên” (India First) của Maldives.

 TQ dùng Maldives trong chương trình BRI của họ, biến nó thành một vị trí chiến lược qua 2 công trình hàng đầu: Cây cầu từ thủ đô Male đến hòn đảo lân cận, và công trình mở rộng phi trường. Ngoài ra, Maldives cho TQ thuê hòn đảo Feydhoo Finolhu 50 năm để phát triển du lịch và ký hiệp ước tự do mậu dịch với TQ ngày 7/12/17. TQ chiếm 70% nợ quốc gia của Maldives. Hồi tháng 8/2017 TQ mang 3 tàu chiến cập cảng Maldives trong chương trình huấn luyện chung. Tháng 2/2018 trong khi Maldives khủng hoảng chính trị thì TQ cho 11 tàu chiến vào đông Ấn Độ Dương nhằm dằn mặt Ấn Độ không nên can thiệp (http://bit.ly/2FZP5Du).

Cũng như Ski Lanka, Maldives nằm ngay trên đường ra biển lớn của Ấn Độ, cho nên Ấn Độ không thể nào ngồi yên nhìn TQ bao vây. Xét theo địa chiến lược, hai nước này tựa như Cuba nằm ngay yết hầu của Hoa Kỳ, nếu nó tự đứng một mình thì không gây nguy hiểm cho HK, nhưng nếu liên minh quân sự với một cường quốc khác như Liên Sô thời thập niên 1960s trước đây thì HK không dung thứ.

 Ở Nepal, ông Khagda Prasad Sharma OLI, Chủ Tịch Đảng Cộng Sản Nepal nắm quyền trở lại vào tháng 2/2018 sau khi liên minh với lãnh tụ Maoist là Pushpa Kamal DAHAL (biệt danho”Prachanda”) tạo thành cánh tả cực mạnh, ông làm thủ tướng hồi 2015-2016, mà khủng hoảng giữa TQ-Ấn Độ gây ra vụ phong toả vùng biên giới Ấn-Nepal vào tháng 9/2015, khi lực lượng các đảng đối lập Madhesi thân Ấn đụng với ông OLI xảy ra. Ông OLI bây giờ càng thân TQ hơn. TQ đầu tư đường xe lửa nối Hy Mã Lạp Sơn và Nepal cũng như hệ thống thuỷ điện ở nuớc này (http://bit.ly/2tPIJla).

 Ở Pakistan, trục Hành Lang Kinh Tế TQ-Pakistan (The China Pakistan Economic Corridor) đi qua vùng Kashmir (phần Pakistan chiếm giữ) cho phép TQ tiếp cận vùng nuớc ấm của cảng Gwadar ở Biển Á Rập. Đầu tư TQ từ 46 tỷ đôla đã tăng thành 60 tỷ và Pakistan không cách gì trả nỗi, cho nên cũng như Sri Lanka, TQ sẽ biến nợ thành lãnh thổ, kiểm soát cảng Gwadar và hành lang đi đến cảng này.

 Thượng Viện Pakistan đã thông qua một nghị quyết nói rằng do nhu cầu gia tăng cộng tác giữa TQ và Pakistan để phát triển Hành Lang Kinh Tế China-Pak nên tiếng Mandarin được công nhận là ngôn ngữ “quốc gia” ở Pakistan, các lớp tiếng Tàu được cưỡng bách dạy ở các trường lớp để đào tạo nhân lực. Nghị quyết này khá kỳ cục vì thông thường người của nước đầu tư phải học ngôn ngữ của nước sở tại. Điều này cho thấy TQ không những biến nợ thành lãnh thổ mà còn muốn đồng hoá Pakistan, khống chế văn hoá xứ này (http://bit.ly/2GtUXTl).

 Ở Miến Điện, cũng trong kế hoạch BRI, TQ đầu tư khoảng 85% (gần 10 tỷ đôla) vào cảng biển nước sâu chiến lược Kyauk Pyu  phía tây bang Rakhine trong vịnh Bengal, làm nơi trung chuyển dầu khí từ Trung Đông bằng đường biển qua đường bộ để tránh qua eo biển cổ chai Malacca. Ngoài ra TQ còn phát triển khu kỹ nghệ và vùng đặc quyền kinh tế ở Rakhine. TQ cũng đầu tư 3.6 tỷ đôla cho đập thuỷ điện Myitsone ở phía bắc Miến Điện gần Vân Nam (http://reut.rs/2FSgnZq).

 TQ có quan hệ chặt chẽ với quân đội Miến Điện. Người Rohingya ở phía bắc bang Rakhine bị quân đội Miến Điện đàn áp hầu như đến độ diệt chủng để chiếm đất là nhằm mục đích phục vụ cho TQ trong vấn đề cảng biển BRI. Bà Aung San Suu Kyi tuy trị vì nhưng vô quyền đối với quân đội, bà bị Tây Phương lên án vi phạm nhân quyền.

 Ấn Độ đang bị TQ bao vây bằng cách dùng tiền đầu tư để biến thành nợ, và từ nợ biến thành lãnh thổ ở những tiểu quốc ven biên và những đảo quốc ở Ấn Độ Dương.

Cam Bốt và Lào, sườn tây của Việt Nam, cũng đang bị TQ biến nợ thành lảnh thổ. Hai nước này, về địa chiến lược quá quan trọng cho an ninh của VN nên sẽ dành riêng cho một bài viết sau.

 Việt Nam nằm ngay thềm cửa phía nam của TQ nên chẳng những không ngoại lệ mà còn thê thảm hơn. Bởi lẽ TQ bị thất thế về địa chính trị, nằm chéo ngoe bên ngoài các đường vận chuyển quốc tế và trong 4 mặt đông-tây-nam-bắc thì có đến 3 mặt bị thất thế: phía bắc là Mông Cổ và Siberia là những vùng khô cằn hay băng giá, ít dân, kinh tế gần như không có gì, phía tây là sa mạc và các quốc gia nghèo có đuôi -stan, phía đông là Thái Bình Dương mà Nhật và Đại Hàn đã án ngữ. Chỉ còn phía nam là đường tiến về một Đông Nam Á đông dân, trù phú, tấp nập các sinh hoạt kinh tế. Nhưng muốn tiến về vùng này thì đường bộ hay đường thuỷ đều phải bước qua ngưỡng cửa Việt Nam. Cho nên VN là cái gai phải nhổ, phải khống chế của TQ.

 Thế là TQ chẳng những muốn biến nợ thành lãnh thổ mà còn muốn đồng hoá về văn hoá và diệt chủng về môi trường hay thực phẩm. 

 Formosa Vũng Áng với 70 năm nhượng địa, TQ thuê đất rừng đầu nguồn ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Nam, Bình Định, Kon Tum, Bình Dương… 50 năm, những cơ sở đầu tư của Trung Quốc ở thành phố địa đầu Móng Cái-Quảng Ninh được TQ thuê 50 năm…

 Mối hiểm nguy của VN, ngoài việc cho thuê đất 50-70 năm ở các vùng an ninh chiến lược, còn là sự mất thăng bằng quá to về mậu dịch với TQ và nó cứ chất chồng từ năm này qua năm khác, tích luỹ thành nợ khổng lồ, không cách gì trả được, đưa đến việc có thể biến nợ thành lãnh thổ cho TQ, thí dụ như năm 2015 thâm hụt là 32 tỷ đôla (http://bit.ly/2FSnbpB). 

Chính trị với hai đảng cộng sản đàn anh và đàn em là đã lệ thuộc, kinh tế với thâm hụt mậu dịch và nợ đầu tư không trả được là đã lệ thuộc, quân sự với quân đội tuyệt đối trung thành với đảng và đảng lệ thuộc đảng nên quân sự không bảo vệ được biên cương, cũng vậy an ninh với công an lệ thuộc đảng nên công an không bảo vệ được an sinh của dân chúng trước sự xâm thực của thực dân mới.

 Trong khi TQ biến nợ thành lãnh thổ ở các nơi khác thì thê thảm hơn, họ có thể biến nợ thành con đường mòn tiến nam Tập Cẩn Bình của TQ ở Việt Nam!

Lê Minh Nguyên

17/3/2018

 From:  KimBằngNguyễn gởi

LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA

LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA

Chúa Nhật II Phục Sinh – Năm B

Phanxicô Xaviê

Chuyện “Nghìn lẻ một đêm” của người Ba Tư có kể lại một phiên tòa như sau :

Có hai người anh em ruột nọ bắt trói được thủ phạm giết cha mình. Họ lôi kéo tên sát nhân đến trước quan tòa và yêu cầu xử theo luật mắt đền mắt răng thế răng. Kẻ sát nhân dùng đá để ném chết cha của họ, thì hắn cũng phải bị ném đá theo như luật đã qui định… Trước mặt quan tòa, tên sát nhân đã thú nhận tất cả tội lỗi của mình. Nhưng trước khi bị đem ra xử, hắn chỉ xin một ân huệ, đó là được trở về nhà trong vòng ba ngày để giải quyết mọi vấn đề có liên quan đến một người cháu được ký thác cho hắn trông coi từ nhỏ. Sau thời hạn đó, hắn sẽ trở lại để chịu xử tử… Quan tòa xem chừng như không tin ở lời cam kết của tên tử tội. Giữa lúc quan tòa đang do dự, thì từ trong đám đông những người tham dự phiên tòa, có một người giơ tay cam kết :”Tôi xin đứng ra bảo đảm cho lời cam kết của tử tội. Nếu sau ba ngày, hắn không trở lại, tôi sẽ chết thế cho hắn”.

Tên tử tội được tự do trong ba ngày để giải quyết việc gia đình. Sau đúng kỳ hạn ba ngày, giữa lúc mọi người đang chờ đợi để chứng kiến cuộc hành quyết, hắn hiên ngang tiến ra giữa pháp trường và dõng dạc tuyên bố :”Tôi đã giải quyết mọi việc trong gia đình. Giờ đây, đúng theo lời cam kết, tôi xin trở lại để chịu tội. Tôi muốn trung thành với lời cam kết của tôi để người ta sẽ không nói : chữ tín không còn trên mặt đất này nữa”.

Sau lời phát biểu của kẻ tử tội, người đàn ông đã đứng ra bảo lãnh cho hắn cũng ra giữa đám đông và tuyên bố :”Phần tôi, sở dĩ tôi đứng ra bảo lãnh cho người này, vì tôi không muốn để cho người ta nói : lòng quảng đại không còn trên mặt đất này nữa”.

Sau hai lời tuyên bố trên, đám đông bỗng trở nên thinh lặng. Dường như ai cũng cảm thấy được mời gọi để thể hiện những gì cao quí nhất trong lòng người. Từ giữa đám đông, hai người thanh niên bỗng tiến ra và nói với quan tòa :”Thưa ngài, chúng tôi xin tha cho kẻ đã giết cha chúng tôi, để người ta sẽ không nói : lòng tha thứ không còn hiện hữu trên mặt đất này nữa”.

Giữa sa mạc cằn cỗi, một cụm cỏ hay một cánh hoa dại là cả một bầu trời hy vọng cho những người lạc lõng. Giữa sa mạc nắng cháy, một tiếng suối róc rách là cả một nguồn hy vọng tràn trề cho những ai đang đói khát… Giữa một xã hội khô cằn tình người, một xã hội mà những giá trị tinh thần bị bóp nghẹt và đạo đức thì suy đồi, chứng từ của người Kitô hữu cần thiết hơn bao giờ hết. Giữa biển khơi mù mờ, có biết bao kẻ chơi vơi đang cần một chiếc phao của chữ tín, của lòng thành, của lòng quảng đại, của sự tha thứ… Người Kitô hữu phải sống thế nào để người ta có thể nói : Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương con người và con người vẫn có thể yêu thương nhau. Cả ba bài đọc Thánh kinh cùng với đáp ca của Chúa nhật XXIV thường niên như đan quyện vào nhau, sẽ dẫn dắt chúng ta đi vào cung lòng yêu thương từ đời đời của Thiên Chúa đã sớm dành cho nhân loại.

Thiên Chúa đã xót thương Israel tội lỗi và tha thứ cho họ. Người đã đoái thương Phaolô khi biến đổi một con người hung hăng lùng bắt các tín hữu trở nên vị Tông đồ nhiệt tâm của Tin mừng cứu độ. Và Đức Giêsu trong bài Tin mừng không những cho chúng ta thấy Người đã xuống thế để đi tìm các chiên lạc là loài người tội lỗi, mà còn khẳng định điều đó biểu lộ lòng thương xót của chính Thiên Chúa.

Khởi đầu, bài Xuất hành (32,7-11.13-14) thuật lại một câu truyện thời Môsê : Bấy giờ ông đã ở trên núi Sinai lâu ngày với Thiên Chúa. Dân chúng ở dưới sốt ruột. Họ xin Aharôn đúc cho họ một tượng thần là con bò vàng, để họ có một tôn giáo như mọi dân tộc khác. Tâm lý của loài người ở cách chúng ta trên dưới ba ngàn năm, khó giữ vững được tinh thần trong một tôn giáo không có hình tượng nào cả. Mọi dân chung quanh đều có thần tượng của họ. Vì sao con cái Israel lại không có tượng để thờ ? Do đó, việc xin Aharôn đúc cho họ một tượng, chẳng qua cũng vì yếu đuối… nhưng vẫn là một xúc phạm tới Thiên Chúa và là một bội phản Giao ước. Thiên Chúa đã buộc họ không được đồng hóa, hình dung Người dưới bất cứ biểu tượng nào, vì Người là Đấng Thánh, tức là Đấng khác hẳn mọi sự hữu hình. Việc này làm Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ và muốn giáng phạt dân nổi loạn. Nhưng nhờ lời van xin của Môsê, Người đã quên tội lỗi của dân và không giáng phạt nữa. Thiên Chúa đã tha thứ cho họ.

Thiên Chúa luôn yêu thương muốn cứu độ tất cả mọi người, Chúa Giêsu qua các dụ ngôn trong bài Tin mừng Lc 15,1-32 đã nêu bật lòng thương xót của Thiên Chúa. Ngài yêu thương cứu độ từng người, chủ động tìm kiếm và vui mừng khi một người tội lỗi quay trở về. Các dụ ngôn đều nhấn mạnh đến lòng quảng đại của Thiên Chúa : người mục tử đi tìm con chiên lạc, người đàn bà tìm kiếm đồng tiền bị mất và người cha nhân hậu chờ đón, vui mừng tha thứ cho người con hoang đàng quay trở về. Thiên Chúa là người cha nhân hậu, là người mục tử nhân lành luôn yêu thương chăm sóc cho từng con người. Mỗi người trước mặt Chúa cho dù có tội lỗi đến đâu đi nữa vẫn luôn được hưởng trọn tình yêu của Ngài. Tình yêu ấy được thể hiện qua việc Chúa Cha đã sai Chúa Con đến tìm kiếm và cứu vớt tất cả nhân loại tội lỗi. Lòng thương xót được thể hiện khi không trách phạt mà lại yêu thương cứu độ những con người luôn quay lưng phản bội Ngài.

Kết thúc của các dụ ngôn là kết thúc vui mừng. Người mục tử vui vẻ vác con chiên lạc trên vai khi tìm thấy, người đàn bà vui mừng khi tìm được đồng bạc bị mất và người cha nhân hậu tràn đầy sung sướng khi người con hoang đàng trở về. Thiên Chúa vui mừng khi người tội lỗi ăn năn trở lại. Thánh Phaolô qua cuộc đời của mình đã minh chứng điều ấy. Nếu Thiên Chúa không thương xót ông, thì suốt đời Phaolô sẽ là Saul, một kẻ thông thái nhưng chẳng hiểu biết Chúa và do đó cũng chẳng hiểu biết anh em, nên đã lùng bắt sát hại đồng bào của mình. Saul đã xử sự như vậy vì không biết. Ông không biết Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, mà cứ nghĩ là đấng hay thưởng phạt. Nhưng Saul cũng đã nhận được lòng thương xót của Chúa. Thiên Chúa không chỉ yêu thương tha thứ cho Phaolô mà còn trao phó cho ông sứ mạng công bố lòng thương xót của Thiên Chúa cho muôn dân.

Lời Chúa hôm nay mời gọi Kitô hữu nhìn lại thái độ của mình khi đối xử với những người tội lỗi, những người xúc phạm đến mình. Lòng thương xót của Thiên Chúa không chỉ dừng lại ở việc tha thứ, mà còn phải chủ động tìm kiếm và vui mừng thực sự khi một người anh em trở về.

TIN VÀ YÊU

TIN VÀ YÊU

Niềm tin vừa là hồng ân nhưng cũng vừa là sự dấn thân của bản thân.  Niềm tin có điểm xuất phát từ tình yêu và cũng từ niềm tin để dấn thân trong tình yêu.  Hai khía cạnh tin và yêu cùng hòa nhịp với nhau để mỗi ngày thêm xác tín hơn.

Trong cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu Phục Sinh và Toma, chính Toma đã xác tín niềm tin của mình bằng một tình yêu mãnh liệt: “Lạy Chúa của con, Lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20, 28).

 

Tin là một sự dấn thân.

Cuộc đời người môn đệ từ ba năm trước, khi Chúa Giêsu ra đi rao giảng công khai.  Chúa đã gọi các ông từ nơi đang làm việc, họ bỏ mọi sự để đi theo Người.  Điểm hẹn đầu tiên của người môn đệ với Thầy luôn là một nơi ghi dấu ấn tượng đầu đời của dấn thân.  Như đôi bạn đầu tiên gặp nhau một nơi điểm hẹn, rồi lần lượt thời gian nhắc lại điểm hẹn đầu tiên ấy, sống lại kỷ niệm của thưở đầu quen nhau, yêu nhau.  Ký ức ấy sống động cùng tình yêu.  Chúa Giêsu cũng hẹn các môn đệ nơi gặp gỡ sau Phục Sinh ở nơi điểm hẹn đầu tiên của ba năm về trước ở Galilê.  Từ điểm hẹn đầu tiên, người ta có thể trắc nghiệm về lòng tin vào nhau.  Người ấy có đúng hẹn không, người ấy có biết và nhớ sở thích của mình không?  Những quan tâm đầu tiên đến nhau đủ mạnh để xây dựng niềm tin không?  Tất cả những điều ấy sẽ dẫn tới một quyết định, dấn thân, sống cùng nhau, chia sẻ cuộc đời với nhau.  Đó là một tình yêu đủ mạnh để tin vào người mình yêu để dấn thân vào chặng đường mới.

Chân thành về khiếm khuyết.

Tin là một tín thác, chân thành nói về khiếm khuyết cũng như thiếu sót của mình.  Toma không ngần ngại nói về sự thiếu lòng tin của mình: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi không tin” (Ga 20, 25).  Là một tình yêu thật sự, điều thiếu sót của bạn sẽ được lắng nghe chân tình, và còn được chia sẻ lại về những vấp váp của người kia.  Tình yêu là thật thà, là sẻ chia những vui buồn, những vấp ngã và cả những thành công để thêm niềm tin vào nhau.

Gặp gỡ và đối thoại.

Gặp gỡ nhau thường xuyên là một điều nói lên tình yêu hướng về nhau.  Tình yêu có thể làm mờ đi tiếng nói của lý trí; thế nên, lý trí đòi hỏi trong tình yêu luôn luôn cần có một sự thức tỉnh qua đối thoại.  Đời sống tin yêu của các môn đệ cũng qua chặng đường ấy.  Sự kiện hai môn đệ trên đường Emmau, họ nghe và thuật lại câu chuyện về Chúa Giêsu, chết, an táng, rồi sống lại, một cách nghi ngờ.  Chúa Giêsu giải thích cho họ về Kinh Thánh, rồi bẻ bánh là một trong những điều Chúa Giêsu làm trườc khi tử nạn.  Họ nhận ra Người.

Tình yêu đủ lớn nhưng khối óc cũng cần đủ lớn để hiểu biết lẫn nhau, nhận ra nhau từ trái tim chân thành và lý trí lành mạnh.  Tin không bị lừa, yêu không gặp dối.

Tin yêu là một dấn thân liên tục.

Niềm tin không đủ lớn một lần cho tất cả và yêu cũng không đủ một lần cho trọn vẹn.  Tin luôn luôn là một đòi hỏi thực hiện lời hứa một cách trung tín.  Cam kết đi trong tình yêu để xây dựng niềm tin, đó là một tình yêu đã đi đến kết ước vĩnh viễn.  Niềm tin trao cho nhau để không phải là nắm giữ tim nhau, nhưng là để sống trong niềm vui của nhau.  Đi bên nhau mà không nghi kỵ nhau, sống bên nhau mà không kiểm soát lẫn nhau, nói với nhau mà không giả dối nhau…

Với các môn đệ một khi đã tin vào Chúa là dám sống chết cho điều mình tin, trở nên nhân chứng cho điều mình tin.

Tin yêu là một đòi hỏi không ngừng dấn thân.  Xin cho chúng con luôn biết cầu nguyện: Yêu mến Chúa hơn để trọn niềm tin vào Chúa hơn, thêm niềm tin vào Chúa hơn để yêu mến Chúa hơn qua những năm tháng đời sống, chúng con nên chứng nhân Phục Sinh của Người.

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

****************************** ********* 

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh

Lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt, xin hãy gọi tên chúng con như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.

Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc, xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.

Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi, xin hãy đến và đứng giữa chúng con như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.

Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em, xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.

Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không được gì, xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn, như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin tỏ mình ra cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày, để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến, và đang ở thật gần bên chúng con.  Amen!

From Langthangchieutim

Ba giá trị làm nên nước Mỹ

                                       Ba giá trị làm nên nước Mỹ

Mỗi quốc gia trên thế giới đều đặc biệt ở khía cạnh nào đó, có thể là về văn hoá, lịch sử, ngôn ngữ hay địa lý. Nhưng điều làm nên sự thành công độc đáo của nước Mỹ mà cả thế giới ngưỡng mộ là hệ thống giá trị của họ.

Nếu sống ở Mỹ bạn có lẽ quen thuộc với các đồng xu kim loại. Nhưng một điều có lẽ khiến bạn ngạc nhiên rằng hệ thống 3 giá trị xây dựng lên một xã hội Hoa Kỳ tự do, cởi mở và giàu có nhất thế giới đều được in trọn trên những đồng xu nhỏ bé này.

3 giá trị làm nên nước Mỹ là:

  • E Pluribus Unum (từ rất nhiều, một)
  • In God we trust (Chúng ta tin vào Chúa)
  • Liberty (Tự do)

E Pluribus Unum: từ rất nhiều, mộtcó nghĩa là người Mỹ không quan tâm đến việc bạn đến từ đâu, không quan tâm đến dòng máu đang chảy trong người bạn là gì, nguồn gốc sắc tộc, tôn giáo của bạn của bạn như thế nào. Miễn là bạn tới Mỹ (một cách hợp pháp) và sẵn sàng làm việc để làm cho cuộc  sống của bạn và những người xung quanh trở nên tốt đẹp hơn thì bạn được coi là người Mỹ, là một thành viên chính thức và trọn vẹn trong xã hội.

Nước Mỹ là một quốc gia trẻ hình thành bởi dân nhập cư, và bây giờ vẫn vậy. Một điểm khác biệt so với các quốc gia Châu Âu, Á và Úc là người nhập cư vào Mỹ hoà nhập rất nhanh vào các cộng đồng dân cư ở Mỹ và sự kỳ thị đối với những người mới đến là rất ít nếu so với các quốc gia khác. Chẳng hạn nếu bạn là người Thổ Nhĩ Kỳ và tới Đức nhập quốc tịch, bạn sẽ được coi là người Thổ sống ở Đức trong rất nhiều thế hệ, còn nếu bạn tới Mỹ mà sẵn sàng hoà nhập vào cộng đồng, chỉ trong vài tuần không ai sẽ có cái nhìn khác biệt về bạn. Đó chính là sự độc đáo của nước Mỹ, một quốc gia nhập cư.

Chúng ta tin vào Chúa nghĩa là nước Mỹ thành lập trên niềm tin rằng Chúa là nguồn gốc của mọi giá trị trên đời. Đó chính là lý do tại sao trong Tuyên ngôn độc lập, các vị Quốc phụ công thần tuyên bố “chúng ta có quyền không ai có thể tước đoạt được”. Tại sao không ai có thể tước đoạt được? Vì những quyền này không đến từ con người, chúng được trao cho con người từ Chúa trời, do đó không thể bị con người tước đoạt. Chúa đã, đang là trung tâm của xã hội Mỹ.

Thứ 3, là Tự do . Tất nhiên sẽ có người nói: “Trong cuộc Cách mạng Pháp, họ cũng tuyên ngôn Tự do, Bình đẳng, Bác ái, thì sao? Người Mỹ đâu phải là quốc gia duy nhất tôn trọng Tự do. Đúng là như vậy, còn rất nhiều xã hội phương Tây và phương Đông tiến bộ hiện cũng rất tôn trọng quyền Tự

 do, nhưng Mỹ là xã hội duy nhất đặt Tự Do cùng với ‘Chúng ta tin vào Chúa’ và E Pluribis Unum. Tự do ở Mỹ khác với Tự do mà người Pháp hiểu trong  cuộc cách mạng – họ nhấn mạnh vào Công bằng. Công bằng không phải là một giá trị của người Mỹ, nó là giá trị của Châu Âu. Vì nếu đặt công bằng lên  trước tự do, thì chắc chắn tự do cá nhân sẽ bị nhỏ lại. Người Mỹ yêu thích tự do đến mức bị ám ảnh bởi việc tự quyết định vận mạng của mình.

Vậy ở Mỹ không có công bằng sao? Không phải vậy, công bằng ở điểm khởi đầu là giá trị ở Mỹ, nhưng đòi hỏi công bằng ở kết quả là giá trị Châu Âu. Ở Mỹ, bạn có thể học bất cứ thứ gì bạn thích, khởi nghiệp kinh doanh hay làm chính trị, nhưng kết quả cuối cùng là do nỗ lực, tài năng và may mắn của bạn. 

Ở một số nước Châu Âu, chẳng hạn Đức, đến cả việc bạn mở cửa hàng sớm hơn cửa hàng đối diện một chút cũng không được, vì như thế sẽ không công bằng với ông chủ cửa hàng kia. Người Châu Âu bị ám ảnh bởi công bằng đến như vậy.

Cố Tổng thống Hoa Kỳ Calvin Coolidge vào những năm 1920 đã nói “Công việc của nước Mỹ là làm ăn kinh doanh”. Tự do ở Mỹ cho phép bạn đạt được mọi thứ mà bạn xứng đáng có được với công sức, tài năng và cả may mắn nữa. Người Mỹ không tin vào công bằng như người Châu Âu, bởi vì tự do và  công bằng là có mâu thuẫn. Nếu bạn cưỡng ép công bằng lên người khác thì chính là đã tước đoạt tự do khỏi họ.

Chính vì vậy, E Pluribus Unum (từ rất nhiều, một), In God we trust (Chúng ta tin vào Chúa) và Liberty (Tự do) là 3 giá trị khiến nước Mỹ khác biệt, giúp Mỹ trở thành một xã hội tự do, cởi mở, giàu có và nhiều cơ hội nhất trong lịch sử hiện đại của nhân loại.

Trọng Đức

Một tấm hình không thể đẹp hơn về thần thái của anh Đài, Trội, Tôn.

 
Tai Do and Hangnga Lê shared Lê Văn Sơn‘s post.
Image may contain: 6 people
Lê Văn Sơn is with Chú Tễu.

 

Một tấm hình không thể đẹp hơn về thần thái của anh Đài, Trội, Tôn.

Khuôn mặt của các anh tự tại, đanh thép, hiên ngang và bất khuất. Hai vị thiếu tá công an tỏ vẻ mệt mỏi, suy nghĩ, chán trường.

Tấm hình là sự phản chiếu rõ nét giữa cái thiện và cái ác, giữa chính nghĩa và phi nghĩa, giữa công lý và tội ác. Những người bị xét xử là những người đang nắm giữ chính nghĩa, công lý và sự thiện, những kẻ nhân danh Pháp luật để xét xử người yêu nước lại là kẻ thuộc về cái ác, bất nghĩa.

Yêu mến các anh chị trong HAEDC, hôm nay là ngày các anh chịu nạn để phục hồi sức sống cho cả dân tộc Việt Nam.