Lạy Thầy Giêsu, khi Thầy rửa chân cho các môn đệ

 

Lạy Thầy Giêsu,

khi Thầy rửa chân cho các môn đệ
chúng con hiểu rằng Thầy đã làm một cuộc cách mạng lớn.
Thày dạy chúng con một bài học rất ấn tượng
khi Thầy bưng chậu nước, bất ngờ đến với các môn đệ trong bữa ăn,
khi Thầy cúi xuống, dùng bàn tay của mình để rửa chân rồi lau chân cho họ.
Chắc Thầy đã nhìn thật sâu vào mắt của từng môn đệ và gọi tên từng người.
Giây phút được rửa chân là giây phút ngỡ ngàng và linh thánh.

Lạy Thầy Giêsu,
thế giới chúng con đang sống rất thấm bài học của Thầy.
Chúng con vẫn xâu xé nhau chỉ vì chức tước và những đặc quyền, đặc lợi.
Ai cũng sợ phải xóa mình, quên mình.
Ai cũng muốn vun vén cho cái tôi bất chấp lương tri và lẽ phải.
Khi nhìn Thầy rửa chân, chúng con hiểu mình phải thay đổi cách cư xử.
Không phải là ban bố như một ân nhân, nhưng khiêm hạ như một tôi tớ.
Từ khi Thầy cúi xuống rửa chân cho anh Giuđa, kẻ sắp nộp Thầy,
chúng con thấy chẳng ai là không xứng đáng cho chúng con phục vụ.
Lạy Thầy Giêsu,
Thầy để lại cho chúng con một di chúc bằng hành động.
Thầy đã nêu gương cho chúng con noi theo,
để rửa chân chẳng còn là chuyện nhục nhã, nhưng là mối phúc.
Xin cho chúng con thấy Thầy vẫn cúi xuống trên đời từng người chúng con,
để nhờ đó chúng con có thể cúi xuống trên đời những ai khổ đau bất hạnh.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

GIÀNH LẠI SỰ SỐNG CHO CON BỆNH

Đỗ Ngà

Vâng lời là mặc định kẻ lớn hơn luôn đúng. Đây là suy nghĩ ấu trĩ làm cho con người trở nên dễ dàng thỏa hiệp với bất công. Sẽ không có sự tiến bộ nào trong một cộng đồng được tôi luyện thành những kẻ vâng lời.

Trong văn hóa Việt Nam, các bậc cha mẹ vẫn thường hay tự hào rằng con mình là đứa “ngoan hiền dễ bảo”. Mà chính bậc cha mẹ quan niệm thế nên trong môi trường gia đình cũng giáo dục con cái mình như vậy. Kế tiếp, khi con trẻ rời môi trường gia đình để bước vào sân trường thì cũng được nhà trường giáo dục theo mục tiêu như thế. Mọi sự chất vấn với người thầy được cho là “hỗn láo” nên đã dập tắt tư suy độc lập của bọn trẻ. Đối với học sinh thì chỉ có 2 môi trường chính làm nên nhân cách cho nó, đó là nhà trường và gia đình. Khi cả 2 môi trường này mặc định kẻ lớn luôn đúng thì làm sao học sinh không thành cừu?

Tố chất mạnh mẽ dám phản kháng tới cùng những bất công đối với mình là một nhân tố tốt cho xã hội. Những đứa trẻ như thế này được gọi là những đứa cá tính. Cha mẹ có đứa con như vậy thì phải mừng, tuy vất vả trong vấn đề dạy bảo nhưng những đứa như vậy mới là những con người mà xã hội cần. Nếu cha mẹ bị lối mòn giáo dục cũ che mắt mà triệt tiêu tố chất đó của con là một tội rất lớn.

Sự mặc định kẻ lớn luôn đúng là nguồn gốc của độc tài tồn tại. Nó xuất phát từ quan điểm “quân xử thần tử thần bất tử bất trung” hay “phụ xử tử vong tử bất vong bất hiếu”. Nguồn gốc dân bạc nhược, chính quyền hung bạo được sinh ra từ đó. Dân là nơi sản sinh ra những mầm cải cách cho xã hội, mà dân nhu nhược thì lấy đâu ra mầm tốt cho đất nước? Chính quyền độc tài là một cản trở vô cùng lớn cho bất kì mầm mống tiến bộ nào. Nếu không cho nó tiêu vong thì tìm đâu ra điều kiện để tiến bộ? Như vậy kiểu độc tài toàn trị là giống phong kiến tập quyền phương Đông đến 90%, cần phải loại nó thì đất nước mới hồi sinh được. Độc tài toàn trị là virus gây bệnh, sự khiếp nhược nhân dân là căn bệnh do nó gây ra.

Hôm nay, nhờ có internet mà rửa đi sự vâng lời vô điều kiện tồn tại trong người dân. Nhưng Internet vào Việt Nam đã 27 năm và Facebook xuất hiện đã 12 năm mà vẫn chưa rửa được chất độc đó trong lòng dân tộc này. Lối giáo dục thuần hóa con người thành một động vật vâng lời là một cách giết chết dân tộc. 73 năm đã làm cho dân tộc này nhiễm độc quá nặng, khó mà chữa khỏi trong thời gian ngắn. Giống như bệnh nhân thập tử nhất sinh, ánh sáng tiến bộ là một loại thuốc đặc trị, loại thuốc này đang được truyền liên tục vào con bệnh qua Facebook, với mong ước rằng dân tộc này có chút chuyển biến. Thế nhưng sự chuyển biến quá nhỏ nhoi, bằng chứng vụ vâng lời Mobiphone và Viettel nói lên tất cả.

Hơn bao giờ hết, bây giờ xã hội cần nhiều người nữa lên tiếng lật mặt nạ kẻ đầu độc dân tộc. Như con bệnh đang giữa lằn ranh sống-chết, nếu không ra tay giành lại sự sống thì nó sẽ chết. Vậy nên, cần lắm những ngòi bút sắc sảo tham gia. Chính họ mà nản thì số phận con bệnh thật là hẩm hiu. Đã giành lại sự sống thì ai mong người bệnh khoẻ re như con ngựa kéo xe ngay lập tức được? Nên nghĩ, còn sức còn làm mà đừng kỳ vọng hiệu quả, nghĩ thế sẽ nản mà thôi.

THÁI ĐỘ CỦA HÒA THƯỢNG THÍCH TUỆ SỸ ĐỐI VỚI TỔ CHỨC PHẬT GIÁO QUỐC DOANH (GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM).

uỳnh Phi Long and Tho Nguyen shared a post.
Image may contain: one or more people and text

Việt Tân

THÁI ĐỘ CỦA HÒA THƯỢNG THÍCH TUỆ SỸ ĐỐI VỚI TỔ CHỨC PHẬT GIÁO QUỐC DOANH (GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM).

Vấn đề Giáo hội Phật giáo nằm trong Mặt trận tổ quốc, tôi không chấp nhận. Còn vấn đề liên hiệp giữa hai giáo hội (Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và Phật Giáo Quốc Doanh). Tôi nói lập trường của chúng tôi là không có vấn đề liên hiệp. Phật Giáo Quốc Doanh (Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam) là thành viên của mặt trận tổ quốc Việt Nam, một tổ chức chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Đó là một tổ chức chính trị; chúng tôi không làm chính trị, không liên hiệp với bất cứ tổ chức chính trị nào.

Rồi người ta có nói rằng trong qui chế, trong hiến pháp mình thì đảng cộng sản lãnh đạo tất cả. Tôi nói tôi biết điểm đó. Tôi còn biết Lenin đã nói “đảng phải thông qua tôn giáo để tập họp quần chúng”. Lenin nói, cán bộ cộng sản nào mà đàn áp tôn giáo là phản động. Lenin không chấp nhận chuyện đàn áp tôn giáo; trong cộng sản không có chuyện đàn áp tôn giáo, đó là Lenin đã chỉ thị. “đảng phải thông qua tôn giáo để tập họp quần chúng” có nghĩa là tôn giáo là một công cụ chính trị của đảng. Vì đảng không đủ khả năng tập họp, phải mượn tay tôn giáo tập họp dùm. Mà tôi không bao giờ để cho Phật giáo làm công cụ cho bất cứ đảng phái chính trị nào.

Như Liên xô, một đảng phái chính trị, 70 năm thì sụp. Cứ cho là đảng cộng sản Việt Nam tồn tại 1000 năm nữa đi, tôi cũng không bao giờ đem 2500 năm lịch sử truyền thừa Phật giáo ra làm công cụ cho bất cứ đảng phái nào. Tôi còn nói: “nếu mà lời nói này của tôi là tự đào hố chôn mình, tôi vẫn sẵn sàng tự chôn mình, chứ không thể chấp nhận chuyện đó.

Còn nếu nói là luật pháp, đúng, tôi tôn trọng luật pháp, nhưng luật pháp mà xâm phạm lý tưởng của tôi, tôi không chấp nhận cái luật pháp đó, chứ đừng có dùng chữ luật pháp với tôi”.

Đúng là ở trong đất nước nào thì phải tôn trọng luật pháp đó, nhưng nếu tự mình đặt ra luật pháp để dùng luật pháp đó xâm phạm tới giá trị, xâm phạm lý tuởng của người khác thì tôi không chấp nhận luật pháp đó, tôi sẵn sàng chịu chết. Tôi đã từng đứng trước bản án tử hình rồi, tôi không sợ, tôi chấp nhận nó. Đây không phải tôi thách thức, mà là vấn đề lý tưởng của mình…”

NAM MÔ ĐẠI CƯỜNG TINH TẤN DŨNG MÃNH PHẬT.

Trích bài “Định hướng tương lai với thế hệ Tăng sỹ trẻ” của Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ, nói với Tăng Sinh Thừa Thiên Huế.
————
Nguồn: Duyên Giác Ngộ
https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=848810485322783&id=461201424083693

Thầy Thích Tuệ Sĩ đã từng bị nhà nước CSVN kết án tử hình về tôi “Âm mưu lật độ chính quyền”

Vào ngày 1-4-1984, Thượng Tọa Tuệ Sỹ bị nhà cầm quyền Hà Nội bắt giữ cùng giáo sư Trí Siêu Lê Mạnh Thát và 19 Tăng ni, sĩ quan cũ của QLVNCH, bị kết án mưu võ trang lật đổ chính quyền và trong phiên tòa kéo dài nhiều ngày cuối tháng 9 1980, ngày 30 ông bị kết án tử hình cùng giáo sư Lê Mạnh Thát.

Những lời tuyên bố của người tù lương tâm Tuệ Sỹ, tại Tòa Án, cũng như khí phách kiên cường lúc trong tù, là gương sáng chói lọi, và niềm tự hào của Phật giáo và của dân tộc: “Lập trường của chúng tôi là lập trường của Phật giáo, là lập trường của toàn khối dân tộc”. Năm 1998, Hà nội thả Thượng Tọa, cùng với một số người khác. Trước đó, ông đã tuyệt thực trong tù. Trước khi thả, họ muốn Tuệ Sỹ ký vào lá đơn Xin Khoan Hồng để gửi lên ông Chủ Tịch Nhà Nước Trần Ðức Lương, Tuệ Sỹ trả lời: ‘Không ai có quyền xét xử tôi, không ai có quyền ân xá tôi”. Họ nói không viết đơn thì không thả. Tuệ Sỹ không viết, và tuyệt thực. Họ phải thả ông, sau 10 ngày tuyệt thực. Hôm đó là ngày 1.9.1998.

http://www.gdpt.net/tailieu/tuesy/tuesy.htm

CHUYỆN TRÚ MƯA

 
Image may contain: 3 people, people smiling

Kimtrong Lam to Lương Văn Can 75.

 

Hôm vừa rồi, đang đi dạo phố thì gặp trận mưa to, phải chạy vào trú dưới hiên một căn nhà. Cùng đứng trú mưa có vài người khác nữa, trong đó có một cô bé mặt quen quen. Suy nghĩ mãi hắn mới nhớ ra cô bé chính là một trong những nhân vật được chụp hình đăng báo, và tấm hình này không hiểu sao đã được lưu giữ cùng với một tỷ tấm hình linh tinh khác trong phôn tay của hắn.

Thế là hắn chìa cái phôn ra và gợi chuyện làm quen :
– Có phải cháu đây không?
Cô bé không giấu được vẻ ngạc nhiên, thích thú:
– Vâng cháu và các bạn cháu đấy. Úi giời ơi, thích nhỉ?
– Nhưng chuyện gì mà các cháu khóc kinh thế? Bộ ba hay má cháu chết hả?
– Không. Ba má cháu có già phải đi theo trời theo phật cũng là chuyện nhỏ, việc gì phải khóc?
– Hay là các cháu đang đi đám ma của bạn bè thân quen ?
– Không. Đi đám ma thì phải vui chứ lị. Có mấy người pê-đê múa lửa với nhảy thoát y, thích lắm chú ạ.
– Hay là các cháu đang tỏ lòng tiếc thương cho chiến sĩ và đồng bào ta bị giết hại dã man bởi bọn Trung Quốc xâm lược ?
– Ơ, chú nói hay nhỉ ? Mấy chuyện linh tinh này can dự gì tới bọn cháu. Ai chết kệ người ta đi. Cháu thấy chú coi bộ hơi rảnh.
– Thì chú đang rảnh đây, đứng trú mưa chứ có làm gì đâu. Vậy nói chú nghe tại sao trong hình này các cháu khóc ghê thế ?
Cô bé vui vẻ hẳn lên:
– A, cái hôm ấy bọn cháu ra phi trường tiển đưa ca sĩ ….lên đường trình diễn ở nước ngoài. Đông lắm, ai cũng khóc, có đứa còn tính đập đầu xuống đất tự tử, phải hai chú bảo vệ mới giữ được nó đấy. Còn cháu khóc sưng mắt phải nghỉ học hết ba ngày.
– Nó ca sĩ ra nước ngoài hát, nó lãnh khẩm tiền, mắc chi các cháu phải khóc tập thể vậy ?
– Vậy là chú Hai Lúa rồi. Chú không biết bây giờ văn minh là phải bắt chước dân Âu Mỹ, phải khóc tối đa và sẳn sàng ngất xỉu vì thần tượng ca sĩ của mình. Nhờ vậy cháu mới được chụp hình lên báo đó. Còn chú, có ai chụp hình chú không ?

Hắn cứng họng. Không phải vì đuối lý, mà vì hắn ghê sợ cho sự xuống cấp trầm trọng của cái xã hội trăm năm trồng người hiện nay. Cứ thế này thì còn gì là thế hệ tương lai, còn gì là đất nước.

Hắn bước ra khỏi mái hiên dù trời vẫn còn đang mưa. Hắn không muốn đứng đó thêm chút nào nữa. Hắn cần sự khuây khỏa. Đi dưới mưa cũng là một cách để khuây khỏa, nhất là khi trong óc của hắn lại hiện lên mấy câu thơ của cô giáo Trần Thị Lam:

Đất nước này rồi sẽ về đâu anh
Anh không biết em làm sao biết được
Câu hỏi gửi trời xanh, gửi người sau, người trước
Ai trả lời dùm đất nước sẽ về đâu……/.

Lộc Dương.

   Những chuyện đổi đời

   Những chuyện đổi đời

HUY PHƯƠNG

 

 

Thuyền nhân Việt Nam ở trại tị nạn Hồng Kông năm 1994, gần 20 năm sau biến cố 30 Tháng Tư.

Tháng Tư lại về, khơi lại biết bao nhiêu chuyện não lòng cho cả một dân tộc. Đây là giai đoạn bi thảm nhất của miền Nam. Ba Mươi Tháng Tư được xem như một cơn đại hồng thuỷ, nôm na nhân dân gọi là ngày đứt phim, ngày tan hàng, ngày quốc hận. Nhân danh “cách mạng,” đây là một cuộc xâm lăng cướp bóc tàn bạo nhất trong lịch sử dân tộc, mà chỉ có tập đoàn Cộng Sản Bắc Việt, nhắm vào những người miền Nam, đặc biệt là những người thuộc chế độ VNCH, quân đội, hành chánh, đảng phái chính trị và những người bị ghép vào tội phản động. Nếu không với lòng căm thù và ganh tỵ vô biên từ chủ trương của đảng Cộng Sản, thì khó ai có thể tiến hành một cuộc trả thù tàn bạo như thế.

Sau ngày 30 Tháng Tư, 1975, Cộng Sản Bắc Việt bắt đầu chiến dịch đàn áp có hệ thống với hằng trăm ngàn vụ bắt bớ, đưa hàng trăm ngàn nhân viên quân cán chính miền Nam đến các trại “cải tạo,” nơi mà “thằng khôn đi học, thằng ngu làm thầy!” Thực chất đây là chuỗi trại tù tập trung theo kiểu Trung Cộng và Liên Xô, ở đó chúng giết dần mòn tù nhân vì đói, bệnh tật, lao động cật lực và bị giết chóc.

Từ một miền Nam an lạc, trù phú, Cộng Sản Bắc Việt sau ngày “giải phóng,” vơ vét các “chiến lợi phẩm” mang về Hà Nội, đã biến mảnh đất này thành một nơi hoang tàn, bệnh tật, đói rách, tối tăm, tưởng như nơi đây đã đi giật lùi về thời hoang dã.

Gia đình các công viên chức miền Nam đã chịu một cuộc đổi đời bi đát.

Theo Lewis Sorley (1999), một sử gia Hoa Kỳ có uy tín, có lẽ “65,000 người bị xử tử bởi những người giải phóng họ” và “có đến 250,000 người bỏ mạng trong những trại cải tạo tàn bạo.” Có hàng trăm trại tù cải tạo, rải trên khắp toàn cả nước, đã đem lại bao nhiêu cảnh khốn cùng, nhà cửa bị tịch thu, lấn chiếm, thân nhân bị đuổi việc, con cái học hành dở dang, vật vã kiếm miếng ăn, gia đình ly tán. Nhiều gia đình nghe lời dụ dỗ đường mật của chính quyền mới, “đi kinh tế mới cho chồng con mau về,” để trở thành những gia đình không nhà, cùng đường trở về sống vật vờ trên hè phố.

Vụ “nạn kiều” là một chương bi thảm nhất trong lịch sử loài người khi hàng trăm ngàn người Việt gốc Hoa trong vùng cực Bắc Việt Nam năm 1978 bị cưỡng bức về Trung Quốc. Những người Hoa nhiều đời trước, đã di dân đến Việt Nam làm ăn, sinh sống, có người không biết tiếng Hoa, không biết quê hương, gốc gác mình nơi đâu, nay được chỉ định khăn gói trở về Trung Quốc.

Ngay lúc đó, Xuân Thuỷ, Bộ Trưởng Ngoại Giao còn trơ tráo tuyên bố: “Đảng và chính phủ ta trước sau như một, vẫn đối xử với bà con người Hoa như bát nước đầy. Có một số bà con trốn đi Trung Quốc, là do bọn xấu tác động! (Bên thắng Cuộc. T1- 121.)

Quảng Ninh và Hải Phòng là hai nơi, người Việt gốc Hoa được chiếu cố nhiều nhất. Người Hoa được chở xe lửa đi từ Hà Nội đi Lào Cai rồi đến Cầu Kiều. Nhưng số phận những con người này ra sao?

Trước khi qua biên giới, công an Việt Nam tịch thu mọi giấy tờ họ mang trong người. Về phía Trung Quốc đã có người ra đón, loa nhạc vang lừng. Nhưng đến ngày thứ ba, trở về “tổ quốc” tất cả đều phải bắt buộc đăng ký đi nông trường trồng cao su Mông Xi, ai chậm trễ sẽ phải đi Tây Tạng. 90% muốn trốn trở lại Việt Nam, nhưng đây là điều bất khả.

Trước đó, một phó chủ tịch tỉnh Quảng Ninh, gốc Hoa đã rạch bụng tự tử. Trần Vĩnh Ngọc, hiệu trưởng một trường phổ thông, cha Hoa nhưng mẹ Việt, có vợ là người Việt gốc Thái Bình. Bị xếp vào diện phải “trở về Trung Quốc,” kêu ca không được, Trần Vĩnh Ngọc bắt ba đứa con “khăn quàng đỏ,” đội viên thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh lên giường, lấy chăn bông đè cho đến chết. Sau đó, Ngọc lấy búa đập vỡ đầu vợ và dùng dao đâm vào tim mình tự sát.

Không ít một số người bị cơn bão “cải tạo công thương nghiệp” xô đẩy đến đường cùng, tán gia, bại sản, bỏ thành phố, bị tù đày hay xô đuổi đi vùng “kinh tế mới,” hoặc bỏ thây trên biển cả. Không phải như lúc ban đầu, đối tượng tư sản chỉ có 92 người, mà gần 29,000 gia đình không phải chỉ là tư sản, mà trung thương, kể cả tiểu thương chợ Trời cũng bị xoá sạch, do Đỗ Mười chủ trương cùng với bầy đàn kéo từ Hà Nội vào.

Trong chiến dịch này, Cộng Sản Bắc Việt chiếm thêm 5 tấn vàng và vô số kim cương, hột xoàn. Số lượng người Sài Gòn bị mất hết tài sản tìm cách vượt biên hay bị cưỡng bức đi kinh tế mới. Con số của Hà Nội đề ra là một triệu hai trăm ngàn người Sài Gòn phải đi lập nghiệp ở các vùng kinh tế mới, tuy không thực hiện được chỉ tiêu, nhưng Sài Gòn đã trở thành hoang vắng, một đô thị “tối lửa tắt đèn.”

Sau ngày 30 Tháng Tư năm 1975, cả một miền Nam “bị” cảnh đổi đời.

Trái lại, dân miền Bắc cũng “được” cảnh đổi đời, kiểu “chó nhảy bàn độc.” Biết bao nhiêu anh từ thợ thiến heo, thợ bẻ ghi đường sắt, thợ đóng quan tài, hay làm nghề khiêng cáng, bắt thịt heo lậu, đổi đời thành những cấp lãnh đạo đất nước, giàu có lẫy lừng!

Nguyễn Quang Lập, một nhà văn của “Bên Thắng Cuộc” trong câu chuyện nội bộ của gia đình ông, đã cho đây là “sự đổi đời kỳ diệu.”

“Sau ngày 30 Tháng Tư cả nhà tôi đều vào Sài Gòn, trừ tôi. Ông bác của tôi dinh tê vào Sài Gòn năm 1953, làm ba tôi luôn ghi vào lý lịch của ông và các con ông hai chữ ‘đã chết,’ giờ đây là triệu phú số một Sài Gòn. Ba tôi quá mừng vì ông bác tôi còn sống, mừng hơn nữa là ‘triệu phú số một Sài Gòn.’ Ông bác tôi cũng mừng ba tôi hãy còn sống, mừng hơn nữa là ‘gia đình bảy đảng viên Cộng Sản.’ Cuộc đoàn tụ vàng ròng và nước mắt. Ông bác tôi nhận nước mắt đoàn viên bảy đảng viên Cộng Sản, ba tôi nhận hơn hai chục cây vàng đem ra Bắc trả hết nợ nần còn xây được ngôi nhà ngói ba gian hai chái. Sự đổi đời kỳ diệu!” 

Huy Phương

Sống giây phút hiện tại cho tràn đầy yêu thương

 Sống giây phút hiện tại cho tràn đầy yêu thương

 

Trong nhịp sống cuồng loạn của thời đại ngày nay, chúng ta phải dừng lại trong giây phút hiện tại để sống thực sự cuộc sống trần thế của chúng ta. Chỉ có giây phút hiện tại chúng ta mới có thể xử dụng tự do nội tâm của mình cách chính xác, chúng ta mới thực sự tiếp xúc với thực tại và sự hiện hữu.

Đức cố Hồng Y Phanxicô Xavier Nguyễn Văn Thuận đã được Giáo Hội Hoàn Vũ nâng lên Bậc Đáng Kính vào ngày 04.05.2017.

Khi còn là Tổng Giám Mục Saigon Việt Nam, vào lúc 2 giờ chiều 15.08.1975, Ngài được nhà cầm quyền cộng sản mời đến Dinh Độc Lâp rồi bắt Ngài và đem đi trên một xe hơi có hai công an kèm hai bên, đem nhốt tù luôn… Họ đưa Ngài về giam tại Cây Vông, Nha Trang. Thành phố Nha Trang nằm trên bãi biển rộng đẹp là cơ sở tiền nhiệm của Ngài.

Thời gian bị giam nơi đây, Ngài thương xót và nhớ đàn chiên của mình ở Nha Trang và ở Saigon đang không người chăn dắt. Hằng ngày nghe tiếng chuông nhà thờ vang lên, hằng đêm nằm cô đơn nghe tiếng sóng biển, Ngài đã khóc khi nghĩ đến thân phận một giám mục trẻ mới 41 tuổi khỏe mạnh và có nhiều kinh nghiệm mục tử mà phải bị giam cầm nơi đây, Ngài nghĩ đến có thể một ngày nào họ sẽ đưa mình đi xa nên Ngài suy nghĩ, mình nên bắt chước Thánh Phaolô viết thư cho giáo dân.

 Hoang mang trong những cảm giác buồn sầu, sợ hãi, căng thẳng lẫn lộn trong tâm hồn, làm cho trái tim tan vỡ, Ngài đang phải chìm trong bóng tối dày đặc của những đêm kinh hoàng đó, Ngài được ánh sáng Chúa Giêsu Kitô soi rọi. Ngài từ từ tỉnh thức:

Tôi phải trực diện với thực tại. Tôi đang bị tù. Nếu tôi chờ đợi lúc nào có thời cơ sẽ làm việc lớn; không biết đời tôi thời cơ sẽ đến được mấy lần! Chỉ có một điều chắc chắn là tôi sẽ chết.

Hãy cướp thời cơ mỗi ngày để thực hiện cách phi thường những việc tầm thường .

 Niềm xác tín đó gây cảm hứng cho lời cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu, con sẽ sống giây phút hiện tại cho tràn đầy yêu thương  (trích Chứng nhân Hy Vọng )

 Quá khứ và tương lai không hiện hữu trong cái rời rạc trừu tượng của chúng nên không đạt tới sự vĩnh cửu. Sự vĩnh cửu chỉ quy hướng về giây phút hiện tại và chỉ được trao ban cho những ai hoàn toàn hiện diện vào lúc đó.

Chỉ trong giây phút này, ta mới đạt tới và sống trong hình ảnh của hiện tại vĩnh cửu  (Chứng Nhân Hy Vọng) a: P.Endokimov, Le Eta della Vita Spirituale (Các tuổi trẻ của đời sống thiêng liêng), Bologna 1968 tr.257-258)

Ngài dùng thời gian đó, sống giây phút hiện tại bằng cách viết lại những kinh nghiệm sống đức tin của Ngài để hướng dẫn con chiên của Ngài.

Giây phút hiện tại của Ngài là giây phút hy vọng.

Nhờ vậy ngày nay chúng ta có cuốn Đường Hy Vọng , một cuốn sách với 1001 câu hướng dẫn cách sống đức tin rất thiết thực.

Tại trại giam Cây Vông, anh công an gác cổng, người nào được anh cho phép mới được vào thăm, nhưng trẻ con thì không ai để ý. Có một em bé mỗi sáng đi lễ 5 giờ, cha ngoắc bé vào và dặn, về nhà nói mẹ mua cho cha những bloc lịch cũ nhé. Và từ đó Ngài viết vào ban đêm lên mặt trái của tờ lich cũ, mỗi ngày một tờ. Em bé này đem về cho các anh chị in ra phổ biến. Ngài viết trong một tháng rưỡi. Sau đó họ đưa Ngài cùng các quân nhân bị giam giữ ra ngoài Bắc.

Những giây phút sống hiện tại với tràn đầy yêu thương của Ngài trong mười một năm bị tù, có chín năm biệt giam trong phòng tối, chỉ có một lỗ nhỏ dưới sàn nằm, Ngài đã phải nằm sấp người để lỗ mũi hướng vào lỗ nhỏ đó mà hít thở không khí ngoài trời.

Vậy mà, với tình thương của Thiên Chúa, Ngài có thể thay đổi tâm hồn người khác, đã hoán cải được số đông các cán bộ công an có nhiệm vụ canh giữ Ngài, họ trở nên tốt hơn, họ biết quý trọng người khác. Họ được lãnh nhận tình yêu thương từ Ngài và tình yêu này giúp họ sống an hòa với tù nhân Nguyễn Văn Thuận. (trong tù không ai được gọi là cha Thuận hay linh mục Thuận, mà là tù nhân Thuận) Ngài dạy họ học tiếng Anh, tiếng Pháp, tiêng Nga, và Latin, họ thích thú và vui vẻ lắm.

Trong khi bất cứ ai bị nhốt trong bốn bức tường trại cải tạo cũng đều chờ đợi ngày được trả tự do. Dưới chế độ tàn ác của việt công, tất cả tù cải tạo là những Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, những công chức cao cấp của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đều được phe thắng cuộc, việt cộng, bắt đi tù cải tạo. Ai ai cũng sống trong chờ đợi ngày được tự do, về với gia đình vì tất cả đều nghĩ, mình có tội tình gì đâu… Khi mời họ đi trình diện, việt công đã nói chỉ đi có 10 ngày nhưng họ đã đánh lừa tất cả. Có người 10 năm, có người 15 năm chưa ra khỏi cái trại khổ sai cải tạo của họ. Ông xã trưởng nhà tôi, nhờ vì bị thương tích nặng khi làm lao động nên mới hân hạnh, chỉ được khổ sai trong 5 năm ở trại cải tạo. Khi về đến nhà thì chỉ còn da bọc xương và nỗi sợ hãi luôn luôn ám ảnh anh trong giấc mơ, kể cả thời gian sống ở Hải Ngoại mà thỉnh thoảng vẫn mơ thấy mình bị ở tù.

Quá khứ trong tay Thiên Chúa, tương lai thì trong tay quan phòng của Thiên Chúa, chỉ có giây phút hiện tại là thời gian duy nhất hiện hữu  với chính mình, thời gian tràn trề ân sủng của Thiên Chúa.

Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến ngày tận thế .

Thiên Chúa hiện diện ở với, thì ta không thiếu thốn gì. Thánh Teresa Hài Đồng Giêsu đã sống giây phút hiện tại trong yêu thương thắm thiết.

Thánh Nữ thốt lên: Ôi Giêsu, yêu thương chỉ có giây phút hiện tại .

Thánh Giacôbê: Trong khi các ngươi không biết cuộc đời mình ngày mai sẽ ra sao. Thật vậy, các ngươi chỉ là hơi nước xuất hiện trong giây lát rồi lại tan biến đi  (Gc 4,14)

Nếu ta ý thức được mình Chỉ là hơi nước trong giây lát rồi tan biến đi  thì mình chọn sống giây phút hiện tại cho tràn đầy yêu thương  là tuyệt vời nhất, là ý nghĩa nhất.

Muốn sống giây phút hiện tại chúng ta phải tập ý thứcnhững gì ở trước mặt chúng ta. Nếu những gì ở trước mắt chúng ta và xung quanh chúng ta mà ta không để ý, không hay biết, là ta đang sống không có ý thức.

Ý thức trong giây phút hiện tại là khả năng của đời sống tinh thần và là tinh hoa của đời sống tâm linh.

Khi tôi nấu cơm, nhặt rau mà tôi ý thức mình đang nấu cơm, đang nhặt rau cùng với Chúa Giêsu. Tôi đang trong giây phút hiện tại của tôi. Nói cách khác Thiên Chúa có mặt với tôi, sống một cách trọn hảo trong từng phút giây với tôi.

Sáng thức dậy tôi cám ơn Chúa đã gìn giữ tôi qua một đêm an lành. Làm mọi việc chuẩn bị cho một ngày sống và ý thức rằng mình đang làm việc nên rất an bình và vui.

Cuối ngày tôi làm phút hồi tâm, nhìn lại một ngày xem những gì mình đã làm đẹp ý Chúa, những gì mình nói hay làm sai trái hoặc mất lòng ai thì xin lỗi rồi cám ơn Chúa trước khi đi ngủ.

Ngài luôn hiện diện với tôi trong từng giây phút hiện tại.

Tôi cố gắng sống giây phút hiện tại cho tràn đầy yêu thương  với tất cả trân trọng trong từng ý nghĩ, từng lời nói, từng việc làm trong sinh hoạt hằng ngày.

Nhờ vậy, mỗi khi có lời nói hay cử chỉ phiền lòng ai, tôi nhận ra ngay và có cách sửa sai ngay.

Tôi sẽ luôn cảm nhận niềm vui sâu sắc và bình an trong tâm hồn. Tạ ơn Chúa.

Elisabeth Nguyễn (28.03.2018)

From: tramtubensuoi

HOẠNH TÀI

 

HOẠNH TÀI

Người ta nói của hoạnh tài là thứ của cải lấy không của kẻ khác. Cướp giết người để cướp lấy tài sản về mình là hoạnh tài. Gài bẫy để lấy tiền nạn nhân là của hoạnh tài. Lừa gạt lòng tin người dân lấy sạch tiền của họ bỏ trốn, người ta gọi là của hoạnh tài. Ở đâu có của hoạnh tài, ở đó có bất công.

Trong dân gian có câu nói “bạo phát thì bạo tàn”. Có nghĩa là dùng những thủ đoạn bất chính để hốt những thứ không thuộc về mình để có sự phát tài đột biến thì đó là bạo phát. Hậu bạo phát là sự trả sạch những thứ hoạnh tài một cách nhanh chóng người ta gọi là bạo tàn hay gọi là hoạnh tử. Đã hoạnh tài thì ắt hoạnh tử đấy là những gì dân gian đúc kết được. Cái bạo tàn có khi là sự vong mạng. Từ kinh nghiệm dân gian, người ta kết luận cái bạo phát là do nhân thì bạo tàn là do thiên, con người cướp thì trờ sẽ lấy lại.

Của cải của quan chức CS toàn là của hoạnh tài. Tất cả tài sản như nhà trăm tỷ, tiền con cái du học, tiền mua nhà Mỹ, tiền mua thẻ xanh, tiền gởi ở các tài khoản ngân hàng nước ngoài vv.. đều là tiền tước đoạt từ xương máu hàng triệu đồng bào mà ra.

Người nghèo bị bệnh không có tiền chữa trị phải về nhà nằm chờ chết. Bà mẹ khổ quá bảo con đập chết mình đi cho thoát khỏi kiếp trần ai. Những mạng sống này phải chết đi cho quan đầy túi, vì nếu không bị tham nhũng, số tiền đó đã có thể xây dựng một hệ thống y tế miễn phí cho dân nghèo. Thay vì cứu mạng dân nghèo, thì số tiền đó lại chui vào các biệt phủ, cách căn nhà bên Mỹ, các tài khoản ở ngân hàng Thụy Sỹ. Đồng tiền của quan chức nó chứa máu, nước mắt và cả mạng sống dân trong đó.

ĐCS, một đảng đang sống trên khối tài sản còm cõi của dân. Dân gần trăm triệu phải nghèo đi để nuôi vài vạn thằng quan chức ăn trên ngồi trốc. 73 năm, cướp có, giết có và đẩy đưa toàn dân đến đói nghèo để những người CS ngày một giàu khủng. 73 năm là thời gian quá dài với một đời người, các thế hệ CS vẫn chưa trả giá. Do đâu mà chúng nó bạo phát nhưng chưa bạo tàn? Do cái chủ thuyết của Lenin quá ác làm dân sợ. Mà dân càng sợ thì CS càng bền. Không biết ơn Lenin sao được? Nếu không có chủ thuyết này thì bọn họ làm sao giàu như ngày hôm nay? Nếu không có chủ thuyết này thì làm sao có triệu đô này đến triệu đô khác tự rót vào túi?

Và như là điều tất nhiên, tựa con bạc cầu cơ trúng số làm mâm cơm tạ ơn hồn ma đã mang lại tiền từ trên trời rơi xuống, thì những người CS cũng thế, họ xếp hàng và tạ ơn vong hồn ác quỷ Lenin đã mang lại cho họ nguồn tiền vô tận mà không phải trả giá cho cái ác. Đấy là lý do cả đám đến tượng đài Lenin thành kính dâng hương. Chúng ta khổ chúng ta kinh tởm con người Lenin và chủ thuyết tà ác của ông ta, nhưng người CS thì ngược lại.

CS chưa trả giá, nhưng chắc chắn phải trả. Có một triều đại tàn bạo với nhân dân nào mà tồn tại được bền lâu? 73 năm so với đời người thì quá dài, nhưng so với một triều đại của lịch sử thì ngắn ngủi thôi. Liên Xô và đông Âu đã từng bạo phát và có lúc kèn cựa với thế giới tự do. Nhưng cái bạo tàn của nó đã được chứng thực bằng sự đổ nhào nhanh chóng của những năm cuối thập kỷ 90 của thế kỷ trước. CSVN lẽ nào ngoài quy luật?

Việt Nam Cộng hòa có thật sự thua trận?

Việt Nam Cộng hòa có thật sự thua trận?

Phi Cảnh
2018-04-23

Một xe tăng Bắc Việt lăn bánh qua cổng Dinh Độc Lập ở Sài Gòn hôm 30/4/1975

Một xe tăng Bắc Việt lăn bánh qua cổng Dinh Độc Lập ở Sài Gòn hôm 30/4/1975

 AP
 

Người Việt Nam Cộng sản cho rằng Việt Nam Cộng hòa đã thua trận thì chẳng còn tư cách gì để nói người khác. Nhưng thắng thua liệu có phải là tất cả?

Cuộc chiến không công bằng

Một cuộc đấu võ đúng tinh thần thể thao phải diễn ra trên võ đài với đầy đủ luật lệ và yêu cầu về hạng cân thì mới công bằng. Đương nhiên cũng có loại đánh nhau trên đường phố bất chấp luật lệ. Giống như thời La Mã, ngoài võ sĩ trên đấu trường thì còn có những võ sĩ thi đấu vô luật lệ dưới hầm mỏ.

Nhưng không phải chiến thắng nào cũng như chiến thắng nào. Ngoài đường phố nếu dùng mọi trò bẩn hoặc thắng một đối thủ quá chênh lệch thì có gì vinh hạnh? Võ sĩ La Mã chỉ có thể giành được vinh quang trên đấu trường, chứ không phải chiến thắng vô luật lệ ở hầm mỏ – nơi dơ bẩn và bị khinh bỉ.

Trong chiến tranh cũng thế, đâu phải cứ là chiến tranh thì anh có thể dùng bất cứ thủ đoạn nào để giành phần thắng. Nếu nói cứ đánh nhau là bất chấp luật lệ, thì anh còn ngồi vào bàn để ký mấy cái hiệp định làm chi? Nếu là một tổ chức tự phát như tổ chức khủng bố chẳng hạn, thì không cần luật lệ; còn khi đã là một quốc gia thì phải có luật chứ. Sau này Việt Nam Cộng sản chẳng xin vào các tổ chức khu vực và quốc tế như ASEAN, Liên Hợp Quốc, WTO… để nâng cao vị thế là gì? Và đã xin vào thì phải chấp nhận luật của người ta, đâu dùng luật rừng được nữa.

Có nghĩa là gì, nếu muốn được tôn trọng như một quốc gia thì phải có luật pháp và tôn trọng luật pháp. Kể cả chiến tranh cũng vậy.

Chiến tranh Việt Nam không phải là chiến tranh quy ước – loại chiến tranh mà các lực lượng tham chiến của mỗi bên đã được xác định rõ. Phe Việt Nam Cộng sản trộn lẫn vào trong dân gây khó khăn cho Việt Nam Cộng hòa, vì bản chất của chiến tranh là tiêu diệt đối phương, nhưng nếu giết dân thì thế giới lại lên án. Khi không thể xác định rõ kẻ thù thì đánh kiểu gì?

Rất nhiều người nghĩ rằng kiểu “Chiến tranh du kích” ấy là bình thường. Nó không bình thường đâu! Mỹ cũng có một cuộc nội chiến Nam – Bắc. Khi phe miền Nam sắp thua cuộc, Bộ tham mưu của tướng Lee đề nghị phân tán lực lượng, ẩn nấp trong nhà dân, trong rừng núi để đánh du kích nhưng vị tướng chỉ huy quân đội miền Nam đã từ chối vì “Chiến tranh là nghiệp của người lính, là nhiệm vụ của chúng ta, không được đẩy trách nhiệm này vào người dân vô tội. Cho dù ta là tướng bại trận cũng không thể dùng cách này, nếu phải dùng sinh mạng của mình để đổi lấy bình an cho người dân miền Nam thì ta thà lựa chọn trở thành tội phạm chiến tranh và chịu hành quyết còn hơn”.

Nó khác hẳn với Chủ nghĩa Cộng sản sẵn sàng “hy sinh tất cả” hay “phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn” để đạt được mục đích. Phía Bắc Việt huy động mọi thành phần dân tộc tham gia cuộc chiến gồm cả phụ nữ, trẻ em lẫn người già – một đối tượng là phái yếu cần được bảo vệ, một đối tượng cần phải cho ăn học, một đối tượng đã đến lúc nghỉ ngơi mà phải chịu đói khổ, dấn thân vào nguy hiểm chết người. Cái gọi là cuộc chiến “của toàn dân tộc” ấy chẳng có gì đáng để tự hào cả.

Người Việt Nam Cộng hòa không coi chiến tranh là tất cả, không dồn tất cả để đánh nhau, họ còn phải sống, làm việc và phát triển; vì thế, tất nhiên chỉ có quân đội chiến đấu. Trong quân đội ấy chỉ có nam giới đủ tuổi đi quân ngũ, không người già, không trẻ em và phụ nữ không phải tham gia tác chiến. Lực lượng tham chiến hai bên như vậy đã không rõ ràng (phía Cộng sản), lại còn không cân bằng.

Việc cho cả trẻ em, người già tham gia chiến tranh còn một mục đích khác, đấy là tạo nên sự thương sót của dư luận nếu những đối tượng này tử trận. Nó giống việc đặt các cơ sở quân sự gần các khu dân cư, bệnh viện… vậy. Người dân đáng lẽ ra là đối tượng được bảo vệ thì lại bị đem ra làm bia đỡ đạn.

Cuộc chiến còn không công bằng ở chỗ Việt Nam Cộng hòa là một đất nước tự do dân chủ, người dân có quyền chỉ trích, biểu tình, mà có nước tự do dân chủ nào mà lãnh đạo làm hài lòng được người dân? https://www.rfa.org/vietnamese/news/ReadersOpinions/what-if-the-republic-of-vietnam-survived-04132018130758.html

Việt Nam Cộng hòa tất nhiên còn tự do báo chí – điều tối kỵ trong chiến tranh. Thế nên mới có chuyện ông Nick Út được đi theo lính miền Nam để chụp ảnh, máy bay đánh bom tiêu diệt Cộng sản nhưng ai ngờ lính miền Bắc xâm nhập chui vào nơi có dân để chốn. Dân chạy ra cầu cứu lính Việt Nam Cộng hòa thì bị Nick Út giơ máy ảnh lên chụp xong đăng lên toàn thế giới mà ai nhìn vào cũng nghĩ rằng “lính Mỹ ăn thịt trẻ em Việt Nam”. Vậy mà bức ảnh ấy cũng có thể trở thành biểu tượng của chiến tranh Việt Nam được?

Bức ảnh chỉ nói lên một nửa sự thật ấy khi về Mỹ được trao giải Pulitzer – giải thưởng danh giá bậc nhất cho báo chí để rồi cả nước Mỹ lên án cuộc chiến. Như thế thì còn đánh đấm gì?

Mai Chí Thọ từng nói toạc với tù nhân chính trị rằng: “Hồ Chí Minh có thể là một kẻ độc ác, Nixon có thể là một người vĩ đại. Người Mỹ có thể có chính nghĩa, chúng tôi có thể không có chính nghĩa. Nhưng chúng tôi đã thắng và người Mỹ đã bị đánh bại vì chúng tôi đã thuyết phục được người dân rằng Hồ Chí Minh là một người vĩ đại, rằng Nixon là một kẻ giết người và người Mỹ là những kẻ xâm lược. Yếu tố then chốt là kiểm soát được người dân và quan điểm của họ. Chỉ có chủ nghĩa Marx-Lenin là có thể làm được điều đó”.

Chính vì sự giả dối ấy nên những vụ giết người của Bắc Việt với cách thức không khác gì khủng bố như đánh bom nhà hàng Mỹ Cảnh, ném lựu đạn vào dân đang xem hát ở Cần Thơ hay thảm sát Huế Mậu Thân chẳng hạn thì bị xem nhẹ, dường như người nào sống ở miền Nam đều đáng chết cả. Còn khi người Cộng sản bị chết thì lại thành sự kiện nổi tiếng.

Quân đội Mỹ luôn tin vào chính nghĩa nên luôn hành động chính trực, thẳng thừng giữa thanh thiên bạch nhật, chính vì vậy nên dễ bị hiểu lầm. Họ đã thua trên mặt trận tuyên truyền trước những kẻ nham hiểm.

Tại sao dám vu khống Mỹ xâm lược khi họ chỉ giúp giữ chế độ tự do dân chủ ở miền Nam? Việt Nam Cộng hòa chỉ lo phòng thủ chứ đâu có đánh ra Bắc. Mỹ chỉ ném bom vì miền Bắc đã xâm phạm miền Nam.

Trong khi Mỹ vẫn xử phạt binh lính nếu có hành động đi quá giới hạn thì Bắc Việt lại trao huân chương cho những kẻ đánh bom khủng bố chết dân thường. 2 thái cực hoàn toàn trái ngược cho thấy truyền thông đã hết sức bất công. Trong một cuộc chiến mà trọng tài chỉ bênh một bên thì bên kia có cơ hội giành phần thắng?

Một ví dụ nữa là phe Cộng sản luôn cố tình tạo cho người ta cảm giác rằng họ với vũ khí thô sơ phải đánh nhau với một phe được trang bị vũ khí hiện đại. Thực tế bộ đội miền Bắc không hề thiếu vũ khí, ra trận là có đạn “bắn thoải mái” do Nga Tàu cung cấp; đó là sự hỗ trợ tương đương nhưng kín đáo. Chính vì vậy nói rằng miền Nam không làm được gì khi không có Mỹ là không công bằng, miền Bắc nếu không được viện trợ từ nước ngoài thì chắc chắn phải cưỡi ngựa bắn cung để ra trận, vì họ đâu có tự sản xuất ra được đạn dược, xăng dầu…

Thắng rồi để làm gì?

Người Việt coi việc Nhật Bản “phải chấp nhận để Mỹ đóng quân” là kém cỏi, nhưng gặp người Nhật thì không khác gì gặp thánh sống. Người Việt cũng xem việc Triều Tiên không thể thống nhất đất nước là không bằng Việt Nam, nhưng bây giờ thậm chí không dám mơ có ngày được như Nam Triều Tiên.

Nói đâu xa, Việt Nam Cộng hòa bị coi là “đu càng” , nhưng những cư dân “đu càng” như cầu thủ bóng đá Lee Nguyễn, đầu bếp Christine Ha thì được trọng vọng hơn bất cứ đồng nghiệp nào tại Việt Nam. Thù lao mà Lee Nguyễn nhận được khủng khiếp đến mức cho đến nay không ai biết đích xác là bao nhiêu, chỉ biết rằng trong 2 năm ngắn ngủi ở Việt Nam, cầu thủ “đu càng” này nói rằng đã kiếm đủ cho phần đời còn lại. Chắc chắn không một cầu thủ Việt Nam Cộng sản nào dám mơ có một ngày đội bóng quê hương sẽ trả mức lương như vậy cho mình.

Gia đình Việt Nam Cộng sản cũng co ro cúm rúm khi tiếp đón gia đình Việt Nam Cộng hòa “đu càng” từ Mỹ, Pháp… trở về, đi ăn cũng gia đình “đu càng” trả tiền. Vậy thì ai thắng ai? Ai mang tư thế của người chiến thắng?

Thái Lan không dám đánh nhau, Nhật Bản từng thua trận, Đức cũng thua, Pháp thì khỏi nói: nổi tiếng về đánh nhau kém. Nhưng hỡi ôi, đánh nhau quan trọng đến thế ư? Chỉ những anh choai choai mới khoái đánh nhau như thế. Chả trách mà Tản Đà làm thơ: “Dân hai nhăm triệu ai người lớn. Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con.”

Mà ngay trong cái việc đánh nhau thôi, tại sao anh không tiếc xương máu lúc đánh nhau với Pháp, Mỹ, mà giờ động đến một chữ Trung Quốc cũng không dám? Suốt ngày tự hào đánh Pháp đánh Mỹ nhưng nếu có ai nhắc đến giặc Tàu là cả quan lẫn dân đều nạt ngay: “Thế muốn chiến tranh hay hòa bình? Nó mà đánh cho thì…”.

Chao ôi, dân tộc “Việt Nam anh hùng” đây ư? Té ra việc chửi giặc Pháp giặc Mỹ hàng ngày là do biết chúng nó là người quân tử, chúng nó người lớn không thèm chấp mình, chứ chẳng phải mình anh dũng anh hùng gì cho cam.

Cái giá của thủ đoạn đê hèn

Nói tóm lại rằng: bất chấp luật lệ, dùng mọi thủ đoạn để thắng không phải hành động của người quân tử. Việt Nam Cộng hòa cũng như các nước văn minh khác: tôn trọng pháp luật ngay cả trong thời chiến – lúc mà đáng lẽ có thể áp dụng tình trạng khẩn cấp hay thiết quân luật để siết chặt quyền tự do dân chủ.

Người Cộng sản có thể mãi hát bài ca chế giễu phe thua cuộc nhưng trên thực tế, người Việt Nam Cộng hòa lên tiếng chỉ vì họ còn có tâm với đất nước đấy thôi. Sau năm 1975 họ được các nước giàu có văn minh dang tay đón nhận, họ có cuộc sống sung túc ở nơi mà chỉ số ít doanh nhân và chủ yếu là con cháu quan chức Cộng sản mới có cơ hội đặt chân đến.

Người Việt Nam Cộng hòa ừ thì “thua” đấy, nhưng họ được sống cùng những người quân tử. Còn những người “chiến thắng” ở lại, khi anh không phải người quân tử, sẽ có thằng không quân tử khác trị anh.

Một thần đồng làm thế giới sửng sốt

Một thần đồng làm thế giới sửng sốt

Phạm Việt Hưng

Ngay khi Hawking rời khỏi thế gian, một em bé thần đồng ở Mỹ làm cho thế giới vật lý sửng sốt. Em tuyên bố lý thuyết của Hawking về vũ trụ hình thành tự phát là sai, và Chúa thực sự hiện hữu. Đó là bé trai William Maillis, 11 tuổi, một sinh viên đại học đam mê nghiên cứu vật lýthiên văn. Lập luận của William có nhiều khả năng đúng vì nó phù hợp với Định lý Gödel…

 1/ Thần đồng 11 tuổi William Maillis

William Maillis là một bé trai sinh năm 2007, sống tại Penn Township, Pennsylvania, Mỹ cùng với cha là ông Fr. Panteleimon Ilias Maillis, một mục sư chính thống giáo, mẹ là bà Presvytera Nancy. William có một chị gái và một anh trai.

William đã tốt nghiệp phổ thông trung học từ Tháng 5 năm 2016, lúc 9 tuổi. Sau đó em theo học đại học cộng đồng Community College ở Allegheny County, rồi nhập học Đại học Carnegie Mellon ở Pittsburgh từ mùa thu năm ngoái (2017).

Mặc dù mới 11 tuổi nhưng William đã có định hướng rõ ràng cho cuộc sống: chứng minh sự hiện hữu của Chúa thông qua khoa học!

Khó tưởng tượng được một em bé 11 tuổi nhưng đam mê nghiên cứu nguồn gốc vũ trụ, đọc và hiểu những sách vật lý cáo cấp về vũ trụ, quyết tâm se lấy bằng tiến sĩ về vật lý thiên văn (Astrophysics), hăng say giải thích trong những cuộc phỏng vấn tại sao lỗ đen không phải là “siêu khối lượng” mà các nhà khoa học lão thành như Albert Einstein hay Stephen Hawking từng nói,…

Đièu lạ lùng là em có những lập luận khoa học hồn nhiên phù hợp với Định lý Gödel: “Tôi muốn chứng minh với mọi người rằng Chúa thực sự tồn tại, bằng cách chỉ ra rằng chỉ có một sức mạnh bên ngoài vũ trụ mới có khả năng tạo ra vũ trụ”, William nói.

Cha của William, ông Peter Maillis cho biết về cậu con trai William của ông:

  • 6 tháng tuổi, bắt đầu nhận dạng được chính xác các con số.
  • 7 tháng tuổi, nói được những câu hoàn chỉnh.
  • 21 tháng tuổi, biết làm tính cộng.
  • 2 tuổi biết làm tính nhân, đọc được sách dành cho trẻ em, và viết được một cuốn sách 9 trang của chính mình, nhan đề “Chú mèo hạnh phúc” (Happy Cat).
  • 4 tuổi, học đại số, ngôn ngữ ký hiệu, đọc tiếng Hy Lạp. “Nó luôn luôn có mối quan tâm đặc biệt đến các con số”, ông Peter nói.
  • 5 tuổi, đọc toàn bộ một cuốn sách giáo khoa hình học dầy 209 trang chỉ trong một đêm và lúc thức dậy vào sáng hôm sau đã giải những bài toán về chu vi, bộc lộ thiên hướng toán học rõ rệt.
  • Lúc 7 tuổi, là một chuyên gia về lượng giác…

Nhà tâm lý học Joanne Ruthsatz ở Đại học Tiểu bang Ohio tuyên bố cậu bé này là một THIÊN TÀI theo nghĩa đen.

Aaron Hoffman, giáo sư lịch sử của William ở đại học, nói cậu bé giống như tất cả các sinh viên khác ở đại học. Ông nói: “Chúng tôi không miễn trừ cho cậu ấy bất kỳ một chủ đề nào: từ Hitler, Mussolini, đến trại tập trung, chiến tranh… Nếu đã học ở đây, cậu ấy sẽ phải học mọi môn ở trình độ đại học”.

Điều khác biệt duy nhất ông nhận thấy ở William là em không ghi chép như các sinh viên khác, mà chỉ lắng nghe, đọc và thẩm thấu kiến thức.

Nhưng điều làm cho ông Peter ngạc nhiên nhất là con trai mình sớm có định hướng hiến dâng cuộc đời cho vật lý thiên văn, với ý định chứng minh sự hiện hữu của Chúa. Và không chỉ mong muốn, cậu đang thực sự tiến bộ trên con đường thực hiện mơ ước: Cậu đã có một số nghiên cứu khảo sát về một số lý thuyết ở trình độ cao. Những nghiên cứu này bắt đầu cho thấy nhà vật lý Stephen Hawking sai về vấn đề nguồn gốc vũ trụ.

Thực ra ngay từ trước khi kết thúc phổ thông trung học, William đã bắt đầu tìm hiểu một số lý thuyết theo những chủ đề mà em quan tâm. Em đã đọc một số sách của Stephen Hawking, kể cả cuốn “Grand Design” (Thiết kế vĩ đại), một cuốn sách rất khó hiểu đối với ngay cả những người lớn có trình độ khoa học. Trong cuốn này, Hawking nói rằng vũ trụ có thể tự tạo ra nó từ hư không, tức là vũ trụ cố thể hình thành một cách tự phát, và do đó Chúa là không cần thiết. Nhưng William có những lý lẽ để bác bỏ quan điểm của Hawking.

Một tờ báo viết: “Không có nhà khoa học lớn nào có thể an toàn với cậu bé này”.

Đến nay, William đã trải qua một năm nghiên cứu vật lý thiên văn. Một số người nói có thể trong hai năm nữa em sẽ bắt đầu viết sách về những gì em đã nghiên cứu. William tự tin nói: “Tôi đang chứng minh rằng chỉ có Chúa mới có khả năng sáng tạo ra vũ trụ này; dữ liệu của tôi là chính xác… Nghiêncứu của tôi đã tiến triển được 70% và ngay khi tôi hoàn thành tôi muốn chia sẻ nó với thế giới”.

Một tờ báo khác viết:

Khát vọng của William muốn trở thành một nhà vật lý thiên văn bắt nguồn từ đức tin mạnh mẽ của em. William không tán thành với những lý thuyết của Einstein và Hawking về lỗ đen và có quan điểm riêng của mình để chứng minh sự ra đời của vũ trụ.

Là con trai của một linh mục Chính thống giáo Hy lạp, William muốn chứng minh rằng một lực bên ngoài vũ trụ là thứ duy nhất có khả năng sáng tạo ra vũ trụ, điều đó có nghĩa là “Chúa thực sự tồn tại”. Điều này hoàn toàn trái với tư tưởng của Stephen Hawking. Nhà vật lý nổi tiếng này nói:

Trước khi chúng ta hiểu khoa học, điều tự nhiên là chúng ta tin rằng Chúa sáng tạo ra vũ trụ, nhưng hiện nay khoa học cung cấp một sự giải thích thuyết phục hơn. Cái mà tôi ngụ ý khi nói ‘chúng ta sẽ biết được ý Chúa’ là chúng ta sẽ biết được mọi thứ mà Chúa có thể biết, nhưng không có Chúa. Tôi là một người vô thần[1].

Cha mẹ của Williams nói họ không bao giờ thúc ép con trai mình nghiên cứu hoặc cố gắng chứng minh Chúa, mà chỉ mong con mình là một cậu bé 11 tuổi “bình thường”. “Chúng tôi là những người bình thường”, ông Peter giải thích. “Và William là một cậu bé bình thường. Bạn không thể phân biệt nó với những đứa trẻ 11 tuổi khác. Nó thích thể thao, các chương trình TV, computer và video games như mọi đứa trẻ khác”.

Nhưng thực tế William vẫn khác với những đứa trẻ cùng tuổi khác: định hướng chủ yếu cho cuộc sống của William hoàn toàn rõ ràng. Khi hỏi “ước mơ” của em là gì, cậu bé thần đồng khồng do dự trả lời.

Em muốn trở thành một nhà vật lý thiên văn để làm sao có thể chứng minh cho thế giới khoa học rằng Chúa thực sự tồn tại”, William nói trong một cuộc phỏng vấn mới đây tại Đại học Hellenic College Holy Cross.

Khi được hỏi tại sao cậu cảm thấy cần phải chứng minh điều đó cho các nhà khoa học, William trả lời sâu sắc hơn:

Vâng, bởi vì có những nhà khoa học vô thần cố nói rằng không có Chúa, trong khi trên thực tế thì để tin không có Chúa phải có nhiều đức tin hơn là tin có Chúa… Bởi vì có một cái gì đó tạo ra vũ trụ sẽ hợp lý hơn là vũ trụ tự tạo ra nó. Để nói rằng vũ trụ tự tạo ra nó đòi hỏi phải có nhiều đức tin hơn là nói rằng có một cái gì đó bên ngoài vũ trụ tạo ra vũ trụ, bởi vì như thế sẽ logic hơn[2]

 

 

 

 

 

 

Điều lạ lùng là ham muốn của William về việc chứng minh sự hiện hữu của Chúa đã xuất hiện ngay từ “khi em mới khoảng 5 hoặc 6 tuổi”, William bộc lộ, và mong muốn này đã dần dần tiến triển thành một lý thuyết phức tạp mà em hy vọng một ngày nào đó sẽ chứng minh được. Em nói rõ ràng là “khoa học và thần học không tách biệt với nhau… tri thức khoa học là một quà tặng từ Chúa, giống như mọi quà tặng khác. Chúng ta phải học hỏi thêm về đức tin của chúng ta và về việc chúng ta đang ở đâu trong vũ trụ… Chúng ta cần trau dồi tài năng của chúng ta, quà tặng mà chúng ta đã nhận được từ Chúa, chứ đừng chôn vùi nó”.

Sẽ là quá sớm để khẳng định một điều gì về tương lai của William Maillis. Nhưng trực giác và sự hiểu biết của tôi nói với tôi rằng William sẽ thành công, vì quan điểm của em phù hợp với Định lý Bất toàn của Kurt Gödel.Điều lạ lùng là ham muốn của William về việc chứng minh sự hiện hữu của Chúa đã xuất hiện ngay từ “khi em mới khoảng 5 hoặc 6 tuổi”, William bộc lộ, và mong muốn này đã dần dần tiến triển thành một lý thuyết phức tạp mà em hy vọng một ngày nào đó sẽ chứng minh được. Em nói rõ ràng là “khoa học và thần học không tách biệt với nhau… tri thức khoa học là một quà tặng từ Chúa, giống như mọi quà tặng khác. Chúng ta phải học hỏi thêm về đức tin của chúng ta và về việc chúng ta đang ở đâu trong vũ trụ… Chúng ta cần trau dồi tài năng của chúng ta, quà tặng mà chúng ta đã nhận được từ Chúa, chứ đừng chôn vùi nó”.

2/ Định lý Gödel ủng hộ quan điểm của William

Trước hết, William hoàn toàn đúng khi bác bỏ quan điểm của Hawking về “vũ trụ có thể tự tạo ra nó từ hư không”. Không rõ lập luận của William thế nào, nhưng theo Định lý Gödel thì quan điểm của Hawking là sai lầm, vì cái hệ thống VŨ TRỤ TỰ TẠO RA VŨ TRỤ của Hawking chính là một HỆ THỐNG TỰ QUY CHIẾU (Self-Referential System).

Theo Định lý Gödel, mọi hệ tự quy chiếu đều dẫn tới mâu thuẫnChính Hawking, trong bài báo “Gödel và Sự kết thúc của Vật lý[3] đã nói rằng các lý thuyết vật lý về vũ trụ đều là những hệ tự quy chiếu, và do đó sẽ không nhất quán và không đầy đủ. Nói cách khác, không bao giờ có một lý thuyết nào có thể mô tả vũ trụ một cách đầy đủ và chính xác.

Vậy giả thuyết VŨ TRỤ TỰ TẠO RA VŨ TRỤ là giả thuyết về một hệ vũ trụ tự quy chiếu, do đó giả thuyết ấy ắt sẽ dẫn tới mâu thuẫn.

William Maillis càng đúng hơn nữa khi em khẳng định rằng chỉ có một lực bên ngoài vũ trụ mới có thể tạo ra vũ trụ. Ý tưởng này cũng hoàn toàn phù hợp với Định lý Gödel.

Định lý này nói rằng một hệ A không thể tự phán xét nó một cách đầy đủ và nhất quán. Muốn phán xét một hệ A một cách đầy đủ hơn và chính xác hơn, phải đi ra ngoài A.

Vậy muốn “phán xét” vũ trụ phải đi ra bên ngoài vũ trụ. Hiểu rộng ra, có thể nói, muốn TẠO TÁC VŨ TRỤ phải có một TÁC ĐỘNG TỪ BÊN NGOÀI VŨ TRỤ.

Thuyết đa vũ trụ dường như cũng tìm cái bên ngoài vũ trụ. Nhưng vì họ không thừa nhận Chúa nên buộc họ phải sáng tác ra các thế giới vật chất bên ngoài vũ trụ. Đó là cái mà họ gọi là những “vũ trụ khác” hay “vũ trụ song song”. Đó là GIẢ THUYẾT TƯỞNG TƯỢNG 100%, KHÔNG THỂ VÀ KHÔNG BAO GIỜ CÓ THỂ KIỂM CHỨNG ĐƯỢC. Chỉ có những người mắc bệnh tôn sùng khoa học một cách mù quáng mới tin vào những giả thuyết siêu hình đó. William Maillis hoàn toàn đúng khi nói rằng để tin vào những giả thuyết hoang đường đó, phải có nhiều đức tin hơn là tin vào Chúa.

Tôi không rõ William Maillis đã biết đến Định lý Gödel hay chưa. Tôi sẽ tìm cách liên lạc với em để thông báo cho em rằng Định lý Gödel sẽ là trợ thủ đắc lực cho em để hạ bệ các giả thuyết siêu hình của Hawking và ủng hộ lý thuyết của chính em.

  PVHg 12/04/2018

CHÚ THÍCH

[1] Before we understood science, it was natural to believe that God created the universe, but now science offers a more convincing explanation,” once said the renowned physicist. “What I meant by ‘we would know the mind of God’ is we would know everything that God would know if there was a God, but there isn’t. I’m an atheist

[2] Well because there’s these atheists that try to say that there is no God, when in reality it takes more faith to believe that there’s no God than it does to believe that there is a God… Because it makes more sense that something created the universe than that the universe created itself. It takes more faith to say the universe created itself than to say something other created the universe because that is more logical

[3] Đã đăng trên Khoa học & Tổ quốc Tháng 04/2012

NGUỒN TÀI LIỆU:

 From: Cam Tuyet & Nguyen Kim Bang

Nghĩ về 30/4 _TS.Mai Thanh Truyết .

Nghĩ về 30/4 _TS.Mai Thanh Truyết .

TÁC PHẨM-TÁC GIẢ – TIẾN SĨ MAI THANH TRUYẾT

 

Mài gươm mãi đến bao giờ nhỉ

Bao giờ chém chết nỗi đau thương

Nỗi đau vẫn đó ngày Quốc Hận

30 tháng 4 sông núi ngẩn ngơ!

Thơ Huỳnh Công Ánh

 

Không biết tự lúc nào sau ngày 30 tháng tư năm 1975, mỗi năm vào dịp nầy lòng tôi dường như chùng xuống. Trước khi về hưu vào năm 2012, công việc hàng ngày vẫn chu toàn 8 giờ để trả nợ áo cơm, một vài giờ cho dịch vụ tư vấn về môi trường của tôi, cũng như thì giờ cho các buổi phỏng vấn hay ngồi suy tư và viết bài hoặc đi đó đi đây…tôi đã cảm nhận được một nỗi niềm u uẩn nào đó trong tôi. Nhưng bây giờ, mặc dù đã giã từ nợ cơm áo, nhưng niềm u uẩn trên vẫn tiếp tục còn trong tôi ngày càng…dai dẳng hơn thêm, càng cô đọng hơn nữa đến nỗi nhiều khi tôi chỉ muốn nói… một mình!

 

  1. Tại sao lại có hiện tượng như vậy trong tôi?

 

 

Có lẽ, vì tuổi đời ngày càng cao, và niềm hy vọng về một ngày mùa xuân nở hoa trên quê hương còn xa vời vợi…cho nên nỗi buồn của tôi càng thêm ray rứt và điểm thêm đôi nét tuyệt vọng trong tâm tư?

 

Mà cũng có lẽ, theo lời của một người bạn xưa, Ngộ Không nhận xét về tôi trong bài “Thằng… chào cờ” là: “Thêm một lần với biệt hữu thiên địa phi nhân gian, và ông hiểu là gã làm như đang sửa soạn cho một chuyến đi xa… Lại thêm một lần sau ánh mắt xa vắng như vắt ngang dòng sông Bến Hải đang lặng lờ với nước chẩy đôi dòng. Dòng sông vẫn tiếp tục trôi đi, ở giữa dòng có một giải phân cách ý thức hệ tích tụ đã bao năm. Cùng một cảm hoài, ông cảm thấy thanh thản ở cái tuổi cổ lai hy nên hiểu được cuộc đời là dòng sông đã gần đến cửa biển. Mà biển là tàng thức chứa chấp mọi nhân sinh. Thời gian trên những dòng sông chính là những mảnh đời. Qua ánh mắt thằng Nam Kỳ quốc dường như đã mệt mỏi. Ông nhìn thấy ánh mắt ấy vắt qua một khoảng không gian nào đó mà gã đã từng hoài bão, kể cả những hoài vọng thầm kín như giấc mơ của một đời người với … mơ gì ấp Tiết thiêu văn tự, giầy cỏ, gươm cùn ta đi đây. (Nguyễn Bính)”.

 

– Bỏ qua những ngày tháng nghiệt ngã còn lại ở Việt Nam trước khi vượt biên sau 30/4/1975, phải thành thật mà nói, lúc đó tôi không có thì giờ để “buồn” như hôm nay, vì miếng cơm manh áo và mãi lo “tìm đường ra đi” (cứu nước?) cho một gánh nặng với 4 đứa con dại…

 

– Bỏ qua những năm đầu tiên sống đời tị nạn, tôi cũng chưa thực sự quan tâm gì mấy cũng như không có thì giờ để buồn…như nỗi buồn hôm nay vì một đời sống tạm dung nơi xứ người.

 

Nhưng chỉ trong vòng 30 năm trở lại đây, khi gia đình tương đối ổn định và sau khi bắt đầu bước vào con đường tranh đấu cho Việt Nam qua ngã môi trường, tôi mới thực sự cảm thấy buồn. Và mỗi năm nỗi buồn đó càng se sắc hơn, ngậm ngùi hơn, vì nghiệm thấy con đường mình đang đi vẫn còn quá xa…mà ước mơ một ngày Việt Nam ơi! Quê hương réo gọi – Những người con Việt hẹn nhau về – Chung vai vá lại dư đồ rách – Cùng nhau xây đắp mảnh Tình Quê …vẫn còn quá xa…

 

  1. Buồn để mà buồn một mình!

 

Không thể nào nói tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn được. Mà tôi hiểu và hiểu rất rõ nỗi buồn thực sự của tôi vì hai lý do:

 

 

– Đất Nước còn điêu linh,

 

– Và Bà con mình vẫn còn chìm đắm trong nỗi nhục nhằn làm công dân hạng hai cho một chế độ phản dân tộc chưa từng thấy trong lịch sử Việt Nam.

 

Nhìn lại những ngày bắt đầu từ giữa tháng tư năm 75, có thể nói cả thành phố Sài Gòn đang lên cơn sốt. Nào là chạy đôn chạy đáo thăm dò tình hình… mặc dù biết rằng miền Nam đang trong cơn hấp hối, nhưng cũng mong tìm và hy vọng một phép lạ. Nào là, đối với những người có chút tiền, lo chạy đi đổi đô la, làm…áp phe, hay do là tin tức tìm đường ra đi. Tin tức đồn đãi nhiều khi trái ngược nhau, tin vui lẫn với tin buồn.

 

Nhưng nỗi buồn của tôi thực sự buồn khi rời trụ sở USAID ở đường Lê Văn Duyệt sau khi làm “thủ tục”…ra đi. Cầm tấm thẻ vô tri có hình của một “ông giáo trẻ” đầy nhiệt huyết, mà khi về lại Việt Nam năm 1973, nguyện sẽ làm một cái gì cho thanh niên Việt Nam. Tôi không thiết ăn cơm chiều hôm đó. Nếu tôi nhớ không lầm, đó là ngày thứ tư 09/4/1975.

 

Tới thứ hai tuần sau đó, vào khoảng tuần lễ thứ hai của tháng tư, lên Đại học Cao Đài Tây Ninh, tôi gặp mấy anh chàng “CIA” trẻ đóng trên đài phát tuyến ở đỉnh Núi Bà vừa xuống chợ Tây Ninh, cho tôi biết rằng ngày mai, họ sẽ rút về Mỹ và khuyên tôi nên rời bỏ quê hương qua một giọng Bắc rất rành rọt. Suốt các buổi lên lớp sau đó, tôi nói như người mất hồn, một tâm trạng mà chính giờ phút viết lên dòng chữ nầy, tôi lại thêm một lần “phiêu diêu” nữa.

 

 

  1. Đi? hay Ở?

 

Hai chữ nầy ám ảnh mãi nơi tôi trong suốt thời gian còn lại cho đến ngày 30/4 năm đó.

 

Hình ảnh Ba tôi lẩn quẩn trong đầu. Hình ảnh một ông giáo già đã về hưu từ lâu, căm cụi viết thư cho con mình đi du học mỗi buổi sáng thứ năm trong tuần, để rồi, sang sáng thứ bảy đem thư ra Bưu diện gửi đi cho kịp chuyến máy bay Air France bay về Pháp, để con mình nhận được thư đúng ngày thứ hai. Việc nầy xảy ra đúng như in, không hề sai sót suốt hơn hai năm trời sau khi tôi du học bên Pháp cho đến khi Ba tôi mất. Ba tôi mất ngày chủ nhật và thứ hai sau đó tôi vẫn nhận được thư ba viết trước khi nhận được điện tín của anh tôi.

 

 

Còn Má tôi. Một người mẹ già gặp lại và sống với con chưa đầy hai năm…sau khi tôi về nước. Mà cũng chính trong thời gian nầy, tôi luôn bận bịu với những “đam mê” cho cuộc sống, mải mê chuẩn bị cho con đường “công danh” của mình… thì làm sao tôi có thì giờ chăm sóc hay hỏi han đến mẹ già. Và mỗi khi nhìn lại mình, chính tôi cũng phải tự thú rằng mình cũng không có thì giờ để nghĩ đến mẹ mình nữa trong thời gian nầy. Tôi thật có lỗi với má tôi nhiều và nỗi ân hận vẫn còn ray rứt mãi trong tôi. Và giờ đây, khi viết những dòng chữ nầy, tôi chỉ còn biết mỗi đêm nhìn ảnh mẹ để sám hối.

 

 

Trở lại thời gian giữa tháng 4 năm xưa. Tâm trí tôi luôn bị ray rứt với tâm trang nửa Ở nửa Đi.

 

– Đi không đành cũng vì mẹ già đơn côi.

 

– Đi không đành cũng vì bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ níu kéo lại để làm một “cái gì” cho quê hương.

 

– Và đi cũng không đành vì một suy nghĩ non dại (mà chắc cũng có nhiều người suy nghĩ như tôi), đó là “Mình có thể đối thoại với người cộng sản, vì trước khi họ là cộng sản, họ cũng là người Việt Nam với đầy đủ dân tộc tính; vì vậy mình có thể hợp tác được”.

 

Một khi đã biết sai lầm thì đã muộn, tôi phải trả cái giá gần 8 năm trong nhà tù lớn Việt Nam dưới chế độ nầy. Biết là sai lầm trong giai đoạn đó, nhưng tôi không bao giờ hối hận vì quyết định trên. Vì sao? Vì chính cái sai lầm oan nghiệt nầy đã làm cho tôi hiểu được người cộng sản Bắc Kỳ như thế nào…và chính điều sau này làm cho tôi dứt khoát hơn là chúng ta, những người con Việt hiền hòa không thể nào sống chung với những người luôn mang não trạng chuyên chính vô sản và không có tình người.

 

Cái sai lầm nầy cũng giống như cái sai lầm của người thầy giáo Tạ Ký dạy Văn chương của mái trường thân yêu của người miền Nam; đó là Trường Petrus Trương Vĩnh Ký, mà thời tôi đi học có tên là Lycée Petrus Trương Vĩnh Ký – LPK. Anh Ký khi đi “tù” về cùng ngồi uống rượu với Gs Tôn Thất Trung Nghĩa bên Trường Luật và tôi tại Chợ Đuổi nằm tại góc đường Lê Văn Duyệt và Trần Quý Cáp năm 1981 như sau:“Hai mươi năm mới biết chuyện xưa lầm. Thì tuổi trẻ đã biến thành uất hận!”

 

Chiều thứ hai 28/4, khi một tên phi công (tôi không muốn nhắc tới tên nầy lên đây, vì làm sao tôi quên được tên những kẻ phản bội quê hương) dội bom dinh Độc Lập, và từ đó lịnh giới nghiêm 24/24 được ban hành. Tôi liền chạy lên nhà một người bạn vong niên trên cư xá giáo chức ở đường Tự Đức. Đó là GS Nguyễn Văn Trường, vừa qua đời ngày 3/1/2018 tại Houston.

 

 

Ngay từ những ngày đầu còn chập chững bước vào ngưỡng của trường ĐH Sư Phạm Sài Gòn với tâm thức đầy tự tin, Anh đã từng khuyên tôi:”Cuộc sống vốn bất toàn. Vì thế mà con người cầu toàn. Vì cầu, và muốn cho bằng được, cho nên mới có thất vọng. Cuộc sống vốn vô thường, không ngừng biến đổi. Nhưng ta lại muốn ngưng giòng đời, gói nó trong những ước vọng của ta, cho nên mới có khổ đau. Vọng tâm là duyên tạo thành, và biến đổi tùy duyên, ta lại đồng nhất mình với nó, cho nó là chân lý, căn cứ vào nó để phê phán thiệt hơn, đúng sai, phải trái. Thế thì làm sao ta không nhìn sai lệch, không sống trong giả tưởng của vọng. Cho nên, nhà Phật dạy vô trụ. Đừng trụ vào bất cứ một niệm nào, Đừng trụ vào Phật Tánh, Chân Tâm, Thiên Đàng, Địa Ngục. Đừng trụ ngay cả vào cái ý niệm vô trụ”.

 

  1. Tôi đã chứng kiến được gì và đã học được gì?

 

Xin ghi lại vài dòng để chiêm nghiệm nỗi đau thương, nhục nhằn của những người con Việt trước cảnh quốc phá gia vong trong những ngày cuối cùng của Miền Nam. Đó là:

 

– Hình ảnh một Trung tá TQLC chạy từ Đà Nẵng về nhà người anh cũng ở cùng cư xá, hình ảnh giọt nước mắt lưng tròng khi anh cổi chiếc áo trận và cắt từng nút áo cũng như hai bông mai bạc trên cầu vai. Anh nói với người anh qua giọt nước mắt và trong từng tiếng nấc “Anh xem như em đã chết ngày hôm nay”;

 

– Hình ảnh từng đoàn trực thăng Mỹ chiếu đèn sáng rọi vào mặt chúng tôi trên sân thượng của cư xá trong lúc tháo chạy và chở người di tản đi ra hạm đội;

 

– Hình ảnh những người lính tôi không còn nhớ Dù tiếp tục chiến đấu ở cầu Phan Thanh Giản trên con đường đi ra Ngã tư Hàng Xanh. Tiếng súng bắt đầu ngay sau khi tướng Minh tuyên bố đầu hàng lúc 10 giờ 37 phút sáng 30/4. Và tiếng súng chỉ im lặng lúc xế trưa, có nghĩa là tất cả anh em binh sĩ đã chiến đấu cho đến quả lựu đạn cuối cùng.

 

Chuyện ĐI và Ở đã được tôi quyết định ở khúc quành định mệnh nầy, không khác chi khúc quành của nhân vật Thiệu “phải” rời bỏ khúc quành của con sông Đuống đầy kỷ niệm tuổi thơ với Yến, người bạn thời trẻ thơ mà sau nầy trở thành…người tình muôn thuở cho đến cuối đời, để di cư vào Nam tìm tự do. (trong quyển tiểu thuyết “Dòng sông định mệnh” của nhà văn Doãn Quốc Sĩ).

 

  1. Những ngày sau đó

 

Qua ngày thứ năm 1/5, lệnh trên radio yêu cầu (bắt buộc thì đúng hơn) mọi công chức phải đến trình diện tại trụ sở làm việc của mình. Sáng đó, tại cư xá có mặt Ông Khoa trưởng, Ông Phó Khoa trưởng và một số giáo sư, tôi và một giảng nghiệm viên tình nguyện vào Trường Sư phạm xem tình hình.

 

Mọi sự có vẻ êm xuôi vì “họ” chưa có người vào tiếp quản, ngoài một số “cơ sở” địa phương thôi. Nhưng một hình ảnh khác làm bẽ bàng và làm đảo lộn những suy nghĩ tốt đẹp trong tôi khi nhìn thấy một số đồng nghiệp của mình mới chỉ vừa cách đây một ngày, nay đã mang “băng đỏ cách mạng” từ cung cách hướng dẫn chỗ để xe, cho tới thái độ trong lúc nói chuyện. Đáng phỉ nhổ nhứt là những người nầy ngày nào thưa anh, xưng em với tôi, mà nay trở mặt dương dương tự đắc tự xưng tôi, tôi, anh, anh một cách trơ trẻn. Có những chị giáo sư thước tha, dịu hiền trong khi lên lớp mà nay ngoài băng đỏ, thậm chí còn để lá cờ vàng ba sọc đỏ dưới chân bàn đạp ga xe nữa. Thế mà, rốt cuộc, họ cũng phải liều thân vượt thoát và hiện đang sống rải rác tại Canada, Hoa Kỳ, Pháp, và Úc châu. Thật là nẽ bang cho chính họ!

 

Và hơn nữa, có giáo sư trong suốt thời gian chưa đầy hai năm ngắn ngủi của tôi, đã xem tôi như “thần tượng” mặc dù biết rằng tôi đã lập gia đình rồi, thường xuyên đi ăn uống chung. Tết đến, cô cũng không quên hái vài trái xoài trước nhà để biếu tôi, thậm chí đã dám cùng tôi “nhậu thịt chó” nữa…Người đó bây giờ là một “công thần” của chế độ. Chính là Tôn Nữ Thị Ninh.

 

– Làm sao tôi quên được lần đổi tiền đợt I ngày 22/9/1975, đổi 1Đ tiền “chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam” tức tiền “ngân hàng Việt Nam” lấy 500Đ tiền Việt Nam Cộng Hòa hay “tiền Ngân hàng Quốc gia Việt Nam”. Người dân chỉ đổi được mỗi gia đình 100.000Đ mà thôi.

 

– Làm sao tôi quên được lần đổi tiền đợt II ngày 3/5/1978, đổi 1Đ “tiền thống nhứt XHCN” tức tiền “ngân hàng nhà nước” lấy 1Đ tiền “ngân hàng Việt Nam” và mỗi gia đình chỉ được đổi 100Đ mà thôi.

 

 

– Làm sao tôi quên được lần đổi tiền đợt III ngày 14/9/1985, đổi 1Đ tiền ngân hàng nhà nước cũ lấy 1Đ tiền ngân hàng nhà nước mới (tiền thống nhứt Bắc Nam).

 

– Làm sao tôi quên được lần đánh tư sản đợt I ngày 11/9/1975, cướp của và tịch thu nhà những người được cho là tư sản cùng bắt đi vùng kinh tế mới. Chiến địch nầy gọi là X1;

 

– Làm sao tôi quên được lần đánh tư sản đợt II, tức chiến dịch X2, từ tháng 3/1978 tới cuối năm 1990 nhắm vào tư sản tiểu thương, những nhà tiểu thủ công nghệ, ước tính trên 14.000 gia đình tại Sài Gòn;

 

 

– Làm sao tôi quên được lần đánh tư sản đợt III tức chiến dịch X3, song hành với chiến dịch X2 tại Sài Gòn nhằm mục đích trục xuất người củ ra khỏi nơi ở và điền khuyết vào bằng gia đình cán bộ ngoài Bắc vào. Đây là một âm mưu thâm độc nhằm “Bắc kỳ hóa” thành phố Sài Gòn. Tính đến tháng 9/1989, ước tính có đến 950.000 người bị đuổi khỏi Sài Gòn, và có khoảng 150.000 gia đình cán bộ Bắc kỳ được điền khuyết vào;

 

– Làm sao tôi quên được những đợt bị bắt buột đi “học tập cải tạo”, đáng kể nhứt là đợt cuối cùng vào tháng 6/1975, kêu gọi công quân cán chính tập trung mang theo lương thực cho một tháng…để rồi tất cả bị lường gạt và phải chịu lao động khổ sai từ một hai năm cho đến hơn 17 năm đối với những cán bộ hành chánh và quân đội cao cấp của Việt Nam Cộng hòa…. 

 

  1. Những ngày hôm nay và sắp tới

 

Một người bạn trong nước vừa viết những nhận định của anh về CSBV như sau:

 

– Cuộc Cách mạng Môi trường hiện tại chưa phải là “ý chí của cả dân tộc”, đứng dậy, dứt khoát và trực diện “đối đầu” với một đảng độc tài đang đi dần đến sự tự hủy! Vì vẫn còn nhiều chữ “nếu” “nếu toàn dân đã ý thức được vận mệnh đất nước, tương lai của mình mà nổi dậy, biểu tình lớn thì …”

 

– Thế trận hiện tại trong nước: Thành phần trong Đảng CSBV chống đối với nhau tới cùng …” chứ không hẳn phải “thành phần thứ ba luôn “quyết tử” với đảng …”

 

– Đảng viên: niềm tin lý tưởng đảng Cộng sản hiện nay không phải là mối liên kết hay trở lực lớn, vấn đề chính chi phối mọi người là quyền lực và quyền lợi. Lý tưởng đảng hiện nay đã trở nên vật trang trí rẻ tiền cho toan tính quyền lợi…”

 

– Lớp cầm quyền: Lớp lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước, Lớp doanh nhân ăn theo, Lớp hy vọng hưởng lợi, Lớp công lực: công an, quân đội;

 

– Tầng lớp muốn thay đổi: cuộc sống bế tắc, ủng hộ thay đổi;

 

 

– Người Việt trong nước: Đây là một trở lực lớn khi mà người dân trong nước sau bao nhiêu năm sống trong môi trường thiếu tin tức, đã bị nhiễm độc âm mưu tuyên truyền của Cộng Sản, xem những thành phần chiến đấu cho dân chủ tại Hải Ngoại là hoạt động chống phá nhà nước, rước ngoại bang để chịu hàng phục làm nô lệ! Tuy nhiên, ngoài lực cản như trình bày thì lực lượng trí thức của người Việt nước ngoài đông đảo mang nguồn tư tưởng dân chủ tiến bộ là một nguồn lực vô cùng quí giá sẵn sàng cổ vũ sự thay đổi, xây dựng lại đất nước sau ách toàn trị.

 

– Quốc nội: Số ít chưa nhận ra đại họa Tàu Cộng. Trong số Dân đã nhận thức được đại họa của Quốc Dân, thì đa số Dân quá ù lì thụ động, kể cả hàng ngũ Chức Sắc các Tôn giáo, Nhân sĩ, Trí thức, chỉ thở dài thất vọng hoặc khóc, mà không biết nên làm gì (?)

 

– Cái khó là nhìn thấy hướng đúng, hướng phù hợp với từng người! Cái khó vạn nan kế tiếp là hăng hái bước lên đi vào hành động.

 

Qua sự nhận xét của một người con Việt trong nước cùng với những lời biện bạch trên, người viết xin diễn lại bức tranh vân cẩu chập chùng những ý nghĩ lộn xộn trong những ngày quốc phá gia vong và suy nghĩ miên man sau 43 năm trong cuộc hành trình chưa thấy …Điểm đến!

 

Xin chia xẻ cùng bà con. 

 

Đây không phải là lời tự thú hay than thở, hay nói về mình.

 

Nơi đây tôi chỉ muốn nói lên vài điều suy nghĩ của một người con Việt mà thôi.

 

Đó là:

 

– Đừng bao giờ mơ tưởng những người Việt cộng sản Bắc kỳ là người Việt Nam.

 

Và để thoát khỏi ý nghĩ tiêu cực trong những ngày đau thương của Đất và Nước, tôi tự điều hướng cho chính mình cần phải hành xử trong tương lai như:

 

– Đứng trước quá khứ, hãy ngả mũ. Đứng trước tương lai, hãy XẮN TAY ÁO (H.L.Mencken) và chúng ta phải tiếp tục giữ lửa Quê Hương trong lòng mãi mãi.

 

 

– Lời ca của cố nhạc sĩ du ca Nguyễn Đức Quang đã kéo tôi về với thực tại, bài “Không phải là lúc”, bắt đầu bằng “Không phải là lúc ta ngồi đặt vấn đề”, để rồi kết thúc bằng một quyết tâm dứt khoát “…Làm việc đi không lo khen chê, làm việc đi hãy say và mê, cứ bắt tay gan lỳ, chúng ta giải quyết. Mình chậm chân đi sau người ta, mà ngồi đây nghĩ lo viễn vông, thắc mắc ngại ngùng biết khi nào mới làm xong!”

 

Và cũng chính vì mang quyết tâm trên mà tôi vẫn “Không đặt vấn đề với anh em, nhưng chắc chắn đứa con Việt nầy dứt khoát đặt vấn đề những người đang tàn phá Đất và Nước của Ông Cha để lại.

 

Và tôi ”đặt vấn đề” với người Cộng sản Bắc Kỳ, đã và đang chấp nhận và tiếp tục đóng vai trò “thái thú biết nói tiếng Việt” cho Trung Cộng thực thi “Đại Họa Mất Nước” để hoàn tất công cuộc Bắc thuộc lần thứ V.

 

 

Nhưng tôi cũng không quên dứt khoát đặt vấn đề với những kẻ cuối đời vẫn còn bon chen – danh lợi, bất kể cố ý hay vô tình, bị rơi vào cái bẫy lợi danh của Cộng sản, cái bẫy của “cây gậy và củ cà rốt” với cây gậy đập trên đầu mà củ cà rốt vẫn không cho ăn, cái bẫy của Cộng sản muốn mượn tay người Quốc gia “bôi đen” người Quốc gia chống Cộng, cái bẫy “gây rối cộng đồng” do những tay ăn bã của cộng sản; những kẻ dễ đánh mất thân phận làm “người” của mình, bất kể đó là loại “người” gì; lắm khi đó là những con “ếch” muốn làm con “bò”, cho dầu “ếch” hay “bò”, “nhỏ” hay “lớn”, vẫn không phải là… “người”.

 

 

Xin ghi lại và góp phần vào những Ngày Buồn Tháng Tư của những người con Việt.

 

Mùa Quốc hận tại Ottawa ngày 30/4/2018

 

  1. Mai Thanh Truyết 

   © Tác giả gửi bài đến Ban biên tập.

    © Diễn Đàn Người Dân ViệtNam

 

Nạn nhân

Nạn nhân

Ảnh: internet

Cách đây vài năm, khi nghe câu “Ai biểu đi xe tay ga, đeo hột xoàn chi cho nó chém?!” Của người nhà hung thủ vụ chặt tay cướp xe SH, tôi đã shock!

Nạn nhân không có quyền đi xe tay ga, mang hột xoàn ư? Và vì đi xe tay ga, mang hột xoàn thì đáng bị xâm hại sức khỏe, thân thể, tính mạng một cách vi phạm pháp luật, vi Hiến ư? Nghĩ gì kỳ vậy?

“Chắc phải sao nó mới hiếp…” là một câu nói tương tự. Phải sao là phải sao? “Đừng bắt chúng tôi ăn mặc ra sao. Hãy yêu cầu chúng nó đừng hãm hiếp!”- đó mới là một thông điệp nhân văn.

Ở nước ngoài, tại các bãi biển… tắm truồng, người ta vẫn lịch sự. Ở Việt Nam, một cái váy xẻ hơi cao, một cổ áo hơi sâu của phụ nữ cũng có thể làm thú tính của một số kẻ nổi lên. Thậm chí, nạn nhân có khi chỉ là những đứa trẻ…

Tâm lý đổ lỗi cho nạn nhân là một tâm lý phổ biến của đám đông. Từ tâm lý đến hành động, lời nói, văn bản đổ lỗi cho nạn nhân là 1 quá trình nhanh chóng. Và điều đó rất đáng kinh tởm!

Nhân vật của tôi- người phụ nữ ở Long An bị hiếp dâm và làm đơn xin… ở tù- là một nạn nhân như vậy. Khi tôi phỏng vấn, chị ấy đã khóc. Đơn thuần là câu hỏi của tôi được tích tụ từ việc tiếp xúc với hơn 100 nạn nhân hiếp dâm, ấu dâm trước khi gặp chị. Nó phá vỡ những nghi kỵ, lo âu, sợ hãi mà chị từng bị những “kẻ đổ lỗi cho nạn nhân” gây ra.

Nếu gọi hành vi hiếp dâm/ấu dâm là đâm một vết thương thể xác lẫn tinh thần cho nạn nhân; thì việc đổ lỗi cho nạn nhân chính là “xé toạc” vết thương tinh thần của họ. Vết thương tinh thần luôn lâu lành hơn! Thậm chí, nó gây chết người “tốt hơn” vết thương thể xác…

Tôi quan sát mấy ngày gần đây và thấy những “kẻ đổ lỗi cho nạn nhân” rất đông. Có nhiều phụ nữ trong số ấy. Và cả những người làm báo. Tìm hiểu sâu, tôi biết họ đều có lý do…

Hãy đặt mình vào vị trí nạn nhân. Nạn nhân luôn đơn độc ở xã hội có nhiều “kẻ đổ lỗi cho nạn nhân”. Trong một cuộc nói chuyện với một người… suýt là nạn nhân của 1 cuộc hiếp dâm, tôi có nói đại ý nạn nhân tương tự vụ của em không có hoàn cảnh gia đình đầy đủ như em, không có bản lĩnh dám yêu (nghề) và dám bỏ (một tòa soạn danh tiếng) như em vì không chấp nhận thỏa hiệp với những thằng tinh trùng lên não.

Hiểu và đứng về nạn nhân mới là cách khiến những “hung thủ tương lai” phải chùn bước khi nghĩ tới cách phạm tội. Kể cả người phụ nữ nào thỏa hiệp chấp chận vị hiếp dâm để nhận một vị trí thì cũng cần xem nguyên nhân là gì. Một đứa trẻ bị ấu dâm đôi khi chỉ bị dụ vì viên kẹo hay vài nghìn đồng…

Giả sử một cô gái vừa ra khỏi Đại học Báo chí bị hiếp dâm bởi 1 trưởng ban hay một đàn anh nào đó; thì cô ấy chỉ là con cừu non trước những người đàn ông không chỉ từng trải đường đời mà từng trải đường nghề- thứ nghề đặc thù. Cô ấy có được ai “giúp sức” thì vẫn chỉ là hạt cát trước một tập thể của những con người mà đầu lắc không kêu vì não “hóa thạch” chứ “có sạn” là chuyện thường!

Lần nữa, hãy nghĩ cho nạn nhân!

GIÀU SANG, QUYỀN LỰC

GIÀU SANG, QUYỀN LỰC 

Thời trước, người ta ít nói đến “sống trên đời” cho bằng việc rỗi linh hồn.  Họ không lưu tâm nhiều đến những vấn đề kinh tế, chính trị như chúng ta ngày nay.  Họ chú tâm nhiều về những vấn đề luân lý, đạo giáo.  Ngày nay, sức lôi cuốn của Trời Cao đã giảm bớt đối với nhiều người, và người ta quan tâm gắn bó với trần thế nhiều hơn.  Khát vọng tìm kiếm Thiên Chúa đã và đang nhường chỗ cho khát vọng săn đuổi giàu sang, quyền lực.  Thần tượng của thế kỷ này không phải là các thánh, mà là những kẻ đạt tới “đỉnh cao”.

Xoay quanh việc xác định tầm mức quan trọng cho các tiêu chuẩn thành công trên đời này, người ta có hai thái độ trái ngược nhau.  Liệu có nên tôn sùng và tìm kiếm sự thành công, cho đó là điều thiện hảo nhất trong cuộc đời hay không?  Hay ngược lại, phải kết án chuyện đó bởi vì nó xấu xa?  Những kẻ đầy tham vọng chấp nhận thái độ cực đoan đầu.  Thái độ sau là của hai nhóm phản kháng: nhóm vô chính phủ – lên án mọi thứ quyền bính, và nhóm Cộng sản – phỉ báng mọi người giàu có.

Chỉ có một tiêu chuẩn đúng đắn và đầy đủ lý lẽ để đánh giá các quan điểm trên đây.  Đó chính là cuộc đời của Chúa chúng ta.  Những chuyện thuật lại trong Tin Mừng cho thấy rằng quyền lực và giàu sang đều là những lý tưởng và tham vọng chính đáng, nhưng chúng phải tuân theo một số qui định mà thế gian này thường không đếm xỉa gì đến.  Những qui định này được mặc khải cho ta qua cuộc đời ẩn dật của Chúa Giêsu tại Nazareth.  Đó là hai điều này: không ai có thể cầm giữ quyền bính nếu kẻ ấy không học biết vâng phục, như Đức Kitô hằng vâng phục cha mẹ mình vậy.  Và không ai có thể tận hưởng giàu sang được nếu kẻ ấy không học biết cách từ bỏ nó, như Chúa đã làm, Ngài đã chọn cho mình một nghề khởi đầu là nghề thợ mộc nghèo nàn.

Vậy thì, ở đây là Uy Quyền đã trở thành Hèn Kém, Chủ trở nên nô lệ, vị Chúa Tể trở nên kẻ phục vụ.  Qui phục Chúa Cha là khúc dạo đầu cho các phép lạ và quyền lực kế tiếp.  Và chúng ta cũng phải bắt chước như thế.  Hết thảy mọi thứ quyền lực… chính trị, công nghệ, xã hội, kinh tế… đều phải qui phục Quyền Năng trên cao và phải khép mình vào kế hoạch của Thiên Chúa trước đã, sau đó mới có thể chính đáng qui phục kẻ khác được.  Quyền lực không phải được kiểm tra từ phía dưới, kiểu như thái độ thách thức vô chính phủ hoặc đảo chánh, mà chính nó phải biết tự giới hạn từ trên xuống.  Quyền lực trần thế có quyền yêu cầu mọi người tuân phục chỉ khi nào biết vâng phục Đấng Toàn Năng trên cao.  Quyền bính trần thế được tôn trọng khi phù hợp với ý muốn của Đấng Tạo Hoá.  Kẻ cầm quyền chỉ được tôn phục khi họ biết tôn kính Thiên Chúa.

Với giàu sang cũng vậy: Chúa đã dạy ta rằng không ai trở nên giàu sang nếu họ không học biết từ bỏ nó.  Những năm ẩn dật ở Nazareth không phải có ý nhắn nhủ ta phải tôn vinh sự nghèo khổ, cam chịu những điều kiện sống tồi tệ nhếch nhác, hoặc sống gian khổ trong cảnh đói rách bần hàn.  Chúa chúng ta nghèo khó thật sự.  Ngài lao động cật lực mới kiếm đủ ăn đủ mặc.  Ngài là một thợ mộc nghèo nàn, nhưng Ngài cũng là một Thiên Chúa giàu sang, làm chủ cả thế giới.  Ngài còn là vị Thiên Chúa quyền uy nhưng lại tự mình trở nên hèn kém.  Giàu sang và quyền uy tự bản thân của chúng đều không có gì xấu xa, bởi vì chúng thuộc về Thiên Chúa.

Bởi thế người Cộng sản căm thù kẻ giàu có chỉ vì họ giàu.  Người Cộng sản không hề tìm thấy sự tán đồng của Kitô giáo trong việc đó.  Không ai có quyền khinh miệt người giàu có, nếu cũng như Chúa, họ đã chứng tỏ rằng mình không bị đam mê chiếm hữu ràng buộc… và như thế, họ cũng không muốn miệt thị ai cả.  Cuộc sống đạm bạc ở Nazareth không phải là để lên án sự phú quý hoặc tôn vinh sự nghèo hèn: mà là minh họa cho học thuyết tuyệt diệu về việc từ bỏ.  Các môn đệ theo Chúa Kitô, họ cũng dứt bỏ được của cải để tìm kiếm vinh quang Thiên Chúa, dù rằng sản nghiệp của họ chỉ vỏn vẹn một ít ngư thuyền và lưới đánh cá, và quí báu nhất là ý chí của họ.

Thiên Chúa không hề xúi kẻ nghèo chấp nhận sự nghèo đói, hay bảo ta phải đi tìm kiếm bần cùng.  Ngài không tôn vinh người nghèo cũng như kẻ giàu.  Nhưng Ngài đã khen ngợi người nghèo khó kia, kẻ đã một thời gian giàu sang, nay vui lòng sống nghèo khổ… chính người nghèo, do sẵn sàng từ bỏ mọi sự, mà trở thành có mọi sự – kẻ nào không muốn gì cả, lại có tất cả.  Bởi vì Thiên Chúa không hề khuyên răn phải “từ bỏ” sự phú quý để được sự “hư không”; đúng hơn, Ngài thừa nhận việc đánh đổi sự phú quý để được giàu có lớn lao hơn trên Nước Trời.  Ngài không bảo “Phúc cho kẻ nghèo” hay “Phúc cho kẻ giàu.”  Ngài bảo “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó.”

Cuộc đời ẩn dật ở Nazareth không chỉ nói lên lý lẽ đơn giản về “thanh bần” hoặc “yếu hèn trong sự thánh thiện”; bản thân những điều này không phải là nhân đức theo nghĩa của đạo Công giáo.  Bài học Nazareth dạy ta biết về sự giàu sang của những ai đạt tới tinh thần khó nghèo bằng sự từ bỏ, và về quyền lực của những ai biết trở nên hèn kém để phục vụ anh em.  Chúa của chúng ta là Đấng duy nhất từ xưa tới nay đã đồng hành với thế giới mà hết thảy những người, giàu hoặc nghèo, chủ hoặc tớ, mạnh mẽ hay yếu đuối đều được quyền gọi Ngài là Chúa, đều có quyền thành tâm gọi Ngài là đồng loại với mình, Ngài là Người như ta.

Đức cha Fulton Sheen

(Nguyên tác: Way to Happiness)

From langthangchieutim