Với Hội thánh Đức Chúa trời

Với Hội thánh Đức Chúa trời

28-4-2018

Hội thánh đức chúa trời. Ảnh: internet

Mình có một trải nghiệm cá nhân với Hội thánh Đức Chúa trời. Hôm kia, trước khi báo chí tấn công, mình đậu xe trước một trường đại học nọ thì có một bạn nữ đến hỏi mình có nghe về “tàu Seon” và “Hội thánh Đức Chúa trời” bao giờ chưa. Mình buồn cười quá bảo rồi, nghe “bên kia” rồi. Bạn ớ ra hỏi “bên kia là bên nào” ạ. Mình cười tiếp và bảo anh không theo tôn giáo, cảm ơn em. Bạn lịch sự đi chỗ khác.

Không có cái gọi là “tà đạo” trên đời này. Đức tin nằm ở trong trái tim và trải nghiệm tâm linh của mỗi người và không ai ở bên ngoài được phán xét. Tự do tôn giáo do đó là tự do tuyệt đối (nhưng thực hành tôn giáo thì không – cần phải phân biệt).

Xét cho cùng, không thờ cúng ông bà tổ tiên, dừng quan hệ vợ chồng, tin tưởng vào thiên đường và ngày tận thế… không phải là cái gì quá xa lạ với các tôn giáo, hay thậm chí là với các chủ thuyết chính trị. Nó không đi ngược lại truyền thống văn hoá dân tộc (come on!). Nó có thể làm gia đình chia rẽ, li tán, nhưng can thiệp càng không phải là chuyện của Nhà nước. Một người Thiên Chúa có thể không thờ cúng ông bà tổ tiên, một người theo Phật sẽ dừng quan hệ vợ chồng, và một người theo chủ thuyết Cộng sản tin vào một thiên đường xã hội chủ nghĩa về sau. Những đức tin đó là rất bình thường và cần được tôn trọng.

Tuy nhiên, nếu việc thực hành đức tin khiến nó ảnh hưởng đến quyền của người khác, hoặc tệ hơn là ảnh hưởng đến đức tin của người khác, thì đó là sự vi phạm. Và đó là trường hợp duy nhất Nhà nước có quyền can thiệp. Thờ cúng ông bà suy cho cùng là một loại tín ngưỡng, tôn giáo. Và các tôn giáo cần phải sống hoà thuận với nhau. Điều đó gọi là khoan dung. Người theo Hội thánh Đức Chúa trời có quyền dẹp bỏ bàn thờ tổ tiên của họ, nhưng phải đảm bảo rằng bàn thờ đó chỉ duy nhất thuộc về họ. Nếu bàn thờ đó là của một gia đình, một dòng tộc, thì việc khăng khăng đòi dẹp bỏ chính là vi phạm đến quyền tự do tôn giáo của người khác. Nó cũng giống như bắt người khác giáo điều tin vào đức tin của mình khi họ chưa có trải nghiệm. Ngược lại, nếu gia đình thấy người thân của mình thay đổi và không chấp nhận theo những lễ giáo ngày xưa nữa thì cũng phải chấp nhận như số phận.

Tất nhiên, đó là tranh luận thuần tuý về mặt lý tính. Sự đau khổ là chắc chắn xảy ra. Nhưng Nhà nước không thể hành xử theo cảm tính mà phải lý tính. Dẹp bỏ một hội thánh chỉ xảy ra khi và chỉ khi hội thánh đó khuyến khích người theo đạo phải về đập phá hết tất cả bàn thờ tổ tiên, ông bà cho dù nó có thuộc sở hữu riêng của người đó hay không. Còn lại thì không thể can thiệp. Chẳng ai can thiệp khi một người bỗng trở thành vô thần và tuyên bố rằng họ không muốn thờ cúng ông bà nữa mà thay vào đó là thờ một vị lãnh tụ, có phải không?

Xã hội luôn có những thay đổi như vậy và thay đổi có khi làm người ta đau khổ, hoặc vui sướng. Thông cảm với những đau khổ khi chứng kiến sự thay đổi quá nhanh chóng của người thân của mình, và mình không thích điều mà cái hội thánh đang nổi rao giảng. Nhưng mặt lý trí của mình thì nói rằng Nhà nước làm ơn ngồi yên trước khi những bài báo công kích trở thành những hành vi bài xích và đàn áp một loại đức tin cho dù có bị gọi là tà đạo so với chuẩn được chấp nhận xưa nay hay không.

CÓ THỂ BẠN CHƯA BIẾT

Hoang Le Thanh is with Phan Thị Hồng.

– Việt Nam Sử Liệu.

Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Chính Phủ Bắc Việt đã nhiều lần gửi thư và yêu cầu chính phủ VNCH hiệp thương. Nhưng Tổng Thống Ngô Đình Diệm nhiều lần từ chối và đưa ra các yêu cầu :

“Về các điều kiện để hiệp thương thì nhiều lần Tổng Thống Diệm đã nói, phải có 6 giai đoạn.

1- Bắt đầu bằng việc cho dân hai miền trao đổi thư tín tự do.
2- Rồi cho dân qua lại tự do.
3- Thứ 3 là cho dân hai bên được tự do chọn định cư sang bên kia nếu muốn.
4- Thứ 4 mới đến giai đoạn trao đổi kinh tế. Ví dụ miền Nam đổi gạo lấy than đá của miền Bắc chẳng hạn.
5- Qua được các giai đoạn đó rồi mới tiến tới hiệp thương.
6- Và sau cùng là tổng tuyển cử (để thống nhất trong hòa bình).

*
– “Một chế độ dân chủ và văn minh đã thua một chế độ độc đảng toàn trị và lạc hậu. Cái ác đã chiến thắng. Còn cảm xúc thì buồn và nuối tiếc cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa, bởi tôi và rất nhiều người đều cho rằng nếu ngày 30-4-1975, bên chiến thắng là Việt Nam Cộng Hòa thì giờ đây trong khu vực châu Á, Việt Nam có thể chỉ thua duy nhất Nhật Bản về kinh tế, còn chắc chắn sẽ ngang bằng hoặc hơn Hàn Quốc về cả kinh tế và quân sự”. (Theo Luật Sư Nguyễn Văn Đài).

.
Nếu Việt Nam Cộng Hòa Chiến Thắng?

Luật Sư Nguyễn Văn Đài

Mỗi dịp 30-4 hàng năm, tôi lại nhận được câu hỏi của những người đồng bào Việt Nam ở hải ngoại là “anh nghĩ và có cảm xúc gì khi sắp tới ngày 30-4?”. Tôi lại có dịp kể cho họ nghe về suy nghĩ và cảm xúc của mình.

Từ nhỏ cho đến năm mười chín tuổi, mỗi dịp 30-4 tôi thực sự vui mừng và tự hào bởi đó là ngày chiến thắng và thống nhất của đất nước. Việt Nam đã chiến thắng cường quốc số một thế giới về quân sự và kinh tế.

Cuối năm 1989, tôi có cơ hội được sang CHDC Đức (cũ) và được chứng kiến người dân Đông Đức lật đổ chế độ cộng sản để thống nhất với chế độ tư bản, dân chủ ở Tây Đức. Tôi lại có dịp may mắn được sang Tây Berlin để xem cuộc sống sung túc và tự do của chế độ tư bản, dân chủ. Và tôi hiểu tại sao người dân Đông Đức đã không cam chịu sống dưới sự cai trị độc đoán, phi lý, lạc hậu của chế độ cộng sản.

Cùng thời điểm đó, tất cả người dân các nước Đông Âu đã vùng lên đập tan sự cai trị của các chế độ cộng sản. Và họ đã xây dựng lại từ đầu chế độ tư bản, dân chủ. Cho đến nay, tất cả các nước Đông Âu, người dân đều có cuộc sống sung túc và hạnh phúc trong một chế độ chính trị tự do và dân chủ mà không có sự cai trị của chế độ cộng sản.
.

Hoài nghi, nuối tiếc

.
Cuối năm 1990, tôi trở lại Việt Nam, kể từ đó cứ mỗi dịp 30-4, tôi không còn cảm xúc vui mừng, mà thay vào đó là sự hoài nghi và nuối tiếc.

Năm 2001 và 2003, tôi có dịp được sang thăm Hàn Quốc và thấy đó là một quốc gia hùng mạnh về kinh tế và quân sự. Ở đó không bao giờ có sự hiện diện và tồn tại của đảng cộng sản. Trong khi đó, Bắc Triều Tiên dưới sự cai trị độc đoán và tàn bạo của chế độ cộng sản. Mỗi năm có cả trăm ngàn người chết đói mặc dù họ đã nhận được sự giúp đỡ to lớn từ Hàn Quốc và cộng đồng quốc tế. Tôi cảm thấy buồn và nối tiếc cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa.

Nhìn lại Việt Nam chúng ta, sau ngày 30-4-1975, trong chế độ quan liêu bao cấp, ngăn sông cấm chợ, nhân dân phải chịu đói khổ, lầm than. Khi tiến hành công cuộc đổi mới, kinh tế có phát triển, đời sống người dân khấm khá hơn, đủ ăn, đủ mặc, có được phương tiện sinh hoạt và đi lại hiện đại. Nhưng tham nhũng đã trở thành quốc nạn, thành giặc nội xâm của dân tộc. Sự suy thoái đạo đức và lối sống diễn ra một cách toàn diện, trên mọi phương diện của đời sống xã hội từ giáo dục, y tế, ngành tư pháp, cơ quan hành chính,… và trên mọi cấp độ từ trung ương đến địa phương.

Nhiều người trong chúng ta đã từng chứng kiến cảnh doanh nghiệp, quan chức chính quyền, các lực lượng vũ trang và xã hội đen hợp sức với nhau để cưỡng chế người nông dân lấy đi tư liệu sản xuất quan trọng nhất của họ là ruộng đất. Biết bao người dân vô tội khi bước vào đồn công an thì khỏe mạnh, nhưng chỉ ít giờ sau, họ chỉ còn là một cái xác không hồn. Và còn biết bao nhiêu những người dũng cảm đứng lên đấu tranh đòi quyền tự do, dân chủ đã bị sách nhiễu, đánh đập, và bị cầm tù. Thật sự đau lòng và xót xa.
.

Giờ đây, mọi người lại hỏi tôi: “Anh nghĩ và có cảm xúc như thế nào về ngày 30-4?”

.
Tôi trả lời:

– “Một chế độ dân chủ và văn minh đã thua một chế độ độc đảng toàn trị và lạc hậu. Cái ác đã chiến thắng. Còn cảm xúc thì buồn và nuối tiếc cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa, bởi tôi và rất nhiều người đều cho rằng nếu ngày 30-4-1975, bên chiến thắng là Việt Nam Cộng Hòa thì giờ đây trong khu vực châu Á, Việt Nam có thể chỉ thua duy nhất Nhật Bản về kinh tế, còn chắc chắn sẽ ngang bằng hoặc hơn Hàn Quốc về cả kinh tế và quân sự.

Luật Sư Nguyễn Văn Đài

Nguồn:https://www.facebook.com/VietNamSuLieu/posts/806832449509297:0

Image may contain: sky and outdoor

Nghị sĩ Canada hy vọng kiến nghị Biển Đông sẽ khiến Việt Nam hành động


Tàu chiến và máy bay chiến đấu của hải quân Trung Quốc tham gia tập trận trên Biển Đông hôm 12/4. Canada vừa thông qua một khuyến nghị chỉ trích cách ứng xử 'thù nghịch' của Trung Quốc trên Biển Đông.
Tàu chiến và máy bay chiến đấu của hải quân Trung Quốc tham gia tập trận trên Biển Đông hôm 12/4. Canada vừa thông qua một khuyến nghị chỉ trích cách ứng xử ‘thù nghịch’ của Trung Quốc trên Biển Đông.

Bản kiến nghị do thượng nghị sỹ gốc Việt thuộc đảng bảo thủ bảo trợ đã được Thượng viện Canada thông qua hôm 24/4 với tỷ lệ 43/29 phiếu.

 
 
 Kiến nghị được đưa ra từ năm 2016 tuy nhiên chỉ mới được thông qua sau 2 năm tranh luận ở Thượng viện, theo nghị sỹ có nhiều hoạt động trong cộng đồng người Việt tại thành phố Ottawa.

“Trong kiến nghị của tôi, tôi muốn Canada đóng một vai trò chủ đạo trong vấn đề thúc giục các quốc gia tranh chấp trong vùng (biển Đông) phải công nhận luật pháp quốc tế và chấm dứt mọi hành động làm leo thang tranh chấp để bảo vệ nền an ninh trong vùng biển Đông.” 

Sen. Thanh Hai Ngo

“This week, adopted my motion to urge the government to take the steps necessary to de-escalate tensions and restore peace and stability in the South China Sea” http://senatorngo.ca/statement-on-the-adoption-of-the-south-china-sea-motion/  It is now up too @CanadaFP to take action

 

Statement on the Adoption of the South China Sea Motion

April 24, 2018 Senator Thanh Hai Ngo today made the following statement regarding the adoption of the Senate motion to urge the government to take the steps necessary to de-escalate tensions and…

senatorngo.ca

Một ngày sau khi bản kiến nghị được thông qua, Trung Quốc lên tiếng phản pháo, nói rằng kiến nghị không có tính ràng buộc của Thượng viện Canada, kêu gọi chấm dứt các hành động của Trung Quốc trên Biển Đông là “vô trách nhiệm và sẽ “khuấy động rắc rối.”

Trong một thông cáo, Đại sứ quán Trung Quốc tại Ottawa nói nghị sĩ Ngô Thanh Hải đang tìm cách “khuấy động rắc rối” một tình hình đang yên ổn.

Trong những năm qua từ khi TQ tăng cường lấn chiếm biển Đông bằng cách xây dựng các cơ sở quân sự trên biển Đông, không có quốc gia nào đứng ra tiếp tục lên án TQ.
Ngô Thanh Hải, Nghị sỹ Canada

Giải thích lý do ông đứng ra bảo trợ kiến nghị này, Thượng nghị sĩ đại diện cho tỉnh bang Ontario cho biết ông muốn thông qua kiến nghị để “yêu cầu chính phủ Canada phải chủ động ủng hộ các quốc gia đồng minh ngoại giao của mình tại vùng Đông Nam Á” vì “chính phủ Canada không thể làm ngơ trước thực tế đang phát sinh từ các cuộc tranh chấp trên biển Đông.”

“Trong những năm qua từ khi TQ tăng cường lấn chiếm biển Đông bằng cách xây dựng các cơ sở quân sự trên biển Đông, không có quốc gia nào đứng ra tiếp tục lên án TQ,” theo nghị sỹ Canada. “Họ im lìm để cho các quốc gia có liên quan tại vùng Đông Nam Á phải đương đầu trực tiếp với TQ.”

Công trình xây dựng của Trung Quốc trên Đá Vành Khăn thuộc quần đảo Trường Sa mà Việt Nam cũng có tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông qua hình ảnh vệ tinh được CSIS công bố tháng 6/2017.
Công trình xây dựng của Trung Quốc trên Đá Vành Khăn thuộc quần đảo Trường Sa mà Việt Nam cũng có tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông qua hình ảnh vệ tinh được CSIS công bố tháng 6/2017.

Đô đốc Mỹ Philip Davidson hôm 17/4 nói Trung Quốc đã “bắt đầu” phát triển các tiền đồn quân sự trên Biển Đông từ tháng 12/2013, và từ đó tới nay đã “bồi đắp xây đảo nhân tạo”, “xây hanga chứa máy bay” và các hệ thống phòng thủ.” Trung Quốc phủ nhận các hoạt động này.

Phillipines từng đưa Trung Quốc ra tòa án trọng tài quốc tế ở La Haye và tòa án này bác bỏ đường lưỡi bò 9 đoạn của Trung Quốc trong đó nước này muốn mưu chiếm hầu như toàn bộ biển Đông. Tuy nhiên Trung Quốc không công nhận phán quyết của tòa trọng tài quốc tế đưa ra vào đầu tháng 7/2016.

“Trung Cộng không bao giời chấp nhận phán quyết của tòa án quốc tế La Haye do đó tời giờ phút này vấn đề đó vẫn chưa giải quyết được,” Nghị sỹ Canada nhận định với VOA. “Với hành động đó chúng ta thấy rằng Trung Cộng có thể dùng biển Đông để áp lực tất cả các quốc gia trên thế giới. Trung Cộng muốn làm bá chủ vùng châu Á Thái Bình Dương.”

Hy vọng (Đảng) Cộng sản Việt Nam sẽ nhận thấy rõ vai trò của mình đối với nhân dân Việt Nam là không thể nào để mất được Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngô Thanh Hải, Nghị sỹ Canada

Thượng nghị sĩ Ngô Thanh Hải, từng phục vụ trong vai trò Thẩm phán Di trú và Quốc tịch tại Ottawa, nói “Nếu chúng ta không quan tâm đến vấn đề biển Đông cứ để TQ xâm chiếm và không ai lên án thì TQ sẽ làm tới, chiếm đóng và mặc hồi phân giải.”

Việt Nam, trong chưa đầy 1 năm qua, đã phải 2 lần dừng dự án thăm dò dầu khí trên biển Đông vì áp lực của Bắc Kinh. Chính phủ Việt Nam chưa lên tiếng chính thức về động thái này nhưng tập đoàn dầu khí nhà nước PetroVietnam trong 1 lần hiếm hoi đã lên tiếng thừa nhận rằng tình hình căng thẳng trên biển Đông sẽ ảnh hưởng đến các hoạt động dầu khí của tập đoàn trong năm nay.

View image on Twitter

Press.Info.Dept.@PressDept_MoFA
  in response to media question concerning China’s recent activities in the area of Hoang Sa (Paracel) and Truong Sa (Spratly) archipelagos
Gần đây nhất, Trung Quốc lắp đặt các thiết bị tác chiến điện tử mới gây nhiễu sóng trên Đá Chữ Thập và Đá Vành Khăn. Bộ Ngoại giao Việt Nam hôm 24/4 đã liên tiếng phản đối các động thái này nhưng một số chuyên gia nghiên cứu Biển Đông nhận định với VOA rằng những lời “phản đối” lập đi lập lại của Việt Nam trước những hành động hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông tạo ra một vòng “luẩn quẩn”.

Tiến sỹ Nguyễn Nhã, một nhà sử học nhiều năm nghiên cứu về Biển Đông, nói với VOA rằng nếu không phản đối, theo luật pháp quốc tế, kể như Việt Nam công nhận những gì Trung Quốc làm là thuộc chủ quyền của Trung Quốc, cho nên đó là một việc làm đương nhiên”.

Theo Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, động thái “phản đối” của Việt Nam “ sẽ không đủ vì Trung Quốc hung hăng lắm. Họ cứ thế mà làm thôi. Việt Nam cứ phản đối, còn họ cứ làm.”

Về kiến nghị vừa được thông qua, Thượng nghị sĩ Canada Ngô Thanh Hải hy vọng “(Đảng) Cộng sản Việt Nam sẽ nhận thấy rõ vai trò của mình đối với nhân dân Việt Nam là không thể nào để mất được Hoàng Sa và Trường Sa” trên Biển Đông.

CÁI THẾ PHẢI HÒA

Huỳnh Phi Long and 2 others shared a post.
Image may contain: outdoor
Image may contain: one or more people, people standing, suit and outdoor

Bong Lau is with Trịnh Việt Anh and 7 others.

Cộng Sản ở đâu và thời nào đều mang bản chất lật lọng hiếu chiến và tàn bạo như nhau.

Tuy nhiên lãnh tụ Bắc Hàn Kim Jong Un rất phong độ và ngạo nghễ khi dám chửi lộn tay đôi với TT. Trump và chĩa hỏa tiễn dọa san bằng Washington. Trong khi đó lãnh đạo Việt Cộng thì hèn hơn, một mặt vuốt đuôi nịnh bợ đế quốc Mỹ, mặt ngầm thì vẫn chống Mỹ cứu nước và bưng bô cho Nga Tàu, mặt ngầm khác thì vơ vét của cải của dân nghèo để đi định cư bên xứ giãy chết.

Năm 1973 Hà Nội bị buộc ngồi vào bàn hội nghị để ký Hiệp Định Paris, sau khi TT. Nixon ra lịnh oanh tạc Bắc Việt đêm ngày vào Giáng Sinh 1972. Mở màn cho cái gọi là “rút lui có danh dự”.

Năm 1973 Hoa Kỳ bị đặt vào cái thế phải ép buộc VNCH ký đại vào cái Hiệp Định tháo chạy của phe đồng minh và cho phép mấy trăm ngàn quân CSBV ở lại miền Nam.

Nixon nhượng bộ để cứu mấy trăm tù binh con tin Mỹ đưa về nước. Chính quyền Nixon – Ford muốn đánh nữa cũng không được vì Quốc Hội thiên tả do đảng Dân Chủ nắm quyền đã bắt đầu khóa sổ hầu bao. Và đa số dân Mỹ khi ấy không muốn dính líu tới Việt Nam nữa.

Nhiều người hay tin vào thuyết âm mưu cho rằng Mỹ bán miền Nam cho Trung Cộng. Nhưng thực tế là Quốc Hội Hoa Kỳ nắm ngân sách quốc phòng. Và khi ngân sách ấy bị khóa sổ thì Tổng Thống và Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ chỉ ngồi ngáp ruồi.

Sau khi Hoa Kỳ rút quân, VNCH cô đơn chống trả đối chọi lại hàng hàng lớp lớp quân Cộng nô được Liên Xô, Trung Cộng và cả một hậu phương lớn của Cộng Sản quốc tế yểm trợ. Và dư luận thế giới khi ấy bị lừa bịp cho rằng phe CSBV có chính nghĩa, là cuộc giải phóng dân tộc. Đó là cái thế Nam Việt phải thua. Thua trong cô đơn.

Ngày hôm nay tình thế đảo lộn hoàn toàn ở bán đảo Triều Tiên. Bắc Hàn đang ở một vị trí cô đơn như VNCH trước khi mất nước 1975. Bắc Hàn đang đối đầu với cả thế giới, với các đồng minh hùng mạnh của Hoa Kỳ như Nhật, Nam Hàn, Úc, Âu Châu v.v. và nhứt là với các phi đạn mang đầu nổ nguyên tử của Mỹ sẵn sàng biến xứ thiên đàng Hàn Cộng thành một khối thủy tinh, nếu cần phải nhấn “những cái nút bự hơn”.

Đa số dân Mỹ cảm thấy bị Hàn Cộng đe dọa. Nhứt là không thích bị ăn hỏa tiễn liên lục địa của Kim Jong Un nên quần chúng Mỹ ủng hộ lập trường cứng rắn của chính quyền Trump. Hình ảnh Kim Jong Un đối với dân Mỹ là một thằng điên nguy hiểm.

Trong khi đó đồng minh thân cận của Bắc Hàn là Trung Cộng bị chính quyền Trump gây áp lực, để hợp tác phong tỏa cấm vận chế độ Kim Jong Un đến tận chân tơ kẽ tóc.

Trump có một ê kíp kinh doanh chuyên nghiệp biết cách bóp bao tử đối phương hiệu quả hơn các đợt cấm vận của những chính quyền Hoa Kỳ trước đây.

Những yếu tố áp lực trên làm Kim Jong Un tìm một lối thoát ôn hòa. Để cứu vãn một nền kinh tế đang hấp hối. Tổng Thống Nam Hàn Moon Jae-In đã cho Kim Jong Un lối thoát danh dự đó.

Kim Jong Un và Moon Jae-In thân ái nắm tay nhau là hình đẹp của “hòa hợp hòa giải” làm nhiều người cảm động. Nhưng đó là bề ngoài. Hãy đợi đến cuộc họp Thượng Đỉnh giữa Kim Jong Un và Trump trong một hai tháng tới để phối kiểm thêm một lần nữa về những toan tính của lãnh tụ Hàn Cộng.

Sau đó là các báo cáo của tình báo đồng minh về các chương trình phóng phi đạn mang đầu đạn nguyên tử của Kim Jong Un. Nếu không có dấu hiệu đe dọa nữa. Khi ấy chúng ta sẽ an tâm chào mừng nền hòa bình ló dạng trên bán đảo Triều Tiên. Dân tộc họ sẽ ấm no và hùng mạnh.

Bỗng nhớ lại lịch sử nước nhà vào thập niên 60 khi công dân Nam Hàn ùa qua miền Nam kiếm việc làm. Bi giờ thì công dân Việt Nam ùa qua Nam Hàn để mần dziệc. Nhưng điều kiện và tư thế bi thảm hơn.   

Kim Jong-un và Hội nghị Thượng đỉnh Nam – Bắc Triều Tiên.

 
 
 
Image may contain: 2 people, people smiling, people standing and suit
Image may contain: 2 people, people smiling, people standing and suit
Image may contain: 4 people, people smiling, people standing
Image may contain: 2 people, people sitting and outdoor
Image may contain: 2 people, people smiling, people standing
+2

Phan Thị Hồng is with Hoang Le Thanh and 4 others.

Việc trong nước viết không hết, nhưng cũng xin góp chút xíu quan điểm về việc nhà cai trị tối cao của cộng sản Triều Tiên – kể từ năm 1953 – lần đầu tiên bước chân qua vĩ tuyến 38.

Hôm nay 27/4/2018, nhiều hình ảnh “thân thiện”, những cái bắt tay “nồng ấm”, những nụ cười “cởi mở”, những lời nói “chân thành” vang lên ở làng Hòa bình Bàn Môn Điếm trong một khu phi quân sự Hàn quốc – Triều Tiên.

Báo chí cả thế giới lên tiếng chúc mừng và ca ngợi.

Tôi cảm thấy rất vui và sung sướng cho một cơ hội hòa bình cho đất nước Nam-Bắc Triều Tiên (!?).

Tự thưởng cho mình một niềm vui êm ái, giơ bàn tay nhỏ vuốt mái tóc sau gáy, tôi bổng giật mình kinh hoàng cho sự “ăn mừng” quá sớm của cả thế giới.

Thông báo chung: Chỉ toàn là những lời HỨA HẸN và SẼ GIẢI TRỪ, mà – chúng ta – ai cũng biết: Cộng sản hứa hẹn thì cũng như nước đổ lá môn.

Một nguồn tin ngoại giao riêng, báo chí Nhật cho biết: Trong chuyến gặp gỡ với Tập Cận Bình tại Bắc Kinh, Kim Jong Un đã tuyên bố Bắc Hàn có thể cân nhắc xem xét việc từ bỏ vũ khí hạt nhân, với điều kiện Hoa Kỳ chấp thuận 3 yêu cầu sau:

1- Hoa Kỳ giúp Kim Jong Un bảo vệ chế độ cộng sản hiện tại, bảo vệ vị trí lãnh đạo hiện tại của cộng sản Bắc Triều Tiên.
2- Hoa Kỳ rút quân khỏi Nam Hàn và bán đảo Triều Tiên.
3- Hoa Kỳ bỏ cấm vận và viện trợ cho Bắc Hàn cũng như ký kết các hiệp định thương mại song phương.

Điều này cho thấy Kim Jong-Un – Chủ tịch Bắc Triều Tiên – chỉ muốn duy trì chế độ độc tài và bảo vệ ngôi vi lãnh tụ độc tôn của mình. Kim Jong-Un – một tên cai trị tàn ác – không hề có thiện chí hòa bình hay tấm lòng vì sự thống nhất đất nước, dân tộc dân chủ, tự do cho đất nước bán đảo Triều Tiên !

Chẳng có gì bảo đảm là vài năm sau Kim Jong-Un – Chủ tịch Bắc Triều Tiên – lại không lật lọng ra lệnh cả nước chuẩn bị chiến tranh, tiếp tục khôi phục và thử nghiệm hạt nhân.

Kim Jong-Un đã từng 2 lần không giữ lời cam kết, lật lọng chữ ký của chính mình. Nếu thêm một (hay vài lần lật lọng nữa) thì cả thế giới cũng chỉ biết bản chất nó là cộng sản, tự trách mình chứ không làm gì được tên cộng sản độc tài và man rợ !

Tên cộng sản Kim Jong-Un mặt dày, cộng sản nói chung, tất cả bọn chúng đều quen thói dối trá, không có lòng tự trọng ! Người cộng sản luôn sẵn sàng nói láo, lừa bịp, lật lọng mà không một chút ngại ngùng !

Xin ghi lại vài lời nhắc nhở của của những người cộng sản đã từng nắm giữ các cấp lãnh đạo tối cao:

*Cựu Tổng bí thư đảng cộng sản Liên xô Mr. Gorbachev: “Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng cộng sản. Ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng: Đảng cộng sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá”

*Cố Tổng thống Nga Boris Yeltsin: ” Cộng sản không thể nào sửa chữa, mà cần phải đào thải nó.”

*Tổng thống Nga Putin: “Kẻ nào tin những gì cộng sản nói là không có cái đầu. Kẻ nào làm theo lời của cộng sản, là không có trái tim“.

Phan Thị Hồng

Quốc Hận!

 
 
 
Image may contain: water and nature

Van Pham

Quốc Hận!

Nước đã mất, nhà đã tan, gia đình ly tán! Ý nghĩ nầy in sâu vào trong trí não của những người đang lênh đênh trên biển cả, trong những chiếc thuyền nhỏ bé mong manh, phú thác mạng sống của mình cho vận mệnh rủi may, những mong thoát khỏi ngục tù của những người cộng sản từ miền Bắc, đang xây cất trên toàn cõi quê hương yêu dấu.

Trên đường trốn chạy, lìa bỏ quê cha đất tổ, đã có hàng trăm ngàn người vùi thây trong biển cả, trong bụng cá, trong bàn tay sát nhân của bọn hải tặc khát máu. Cũng có những người vượt thoát bằng đường bộ, xuyên qua ngã Cambochia, Lào, và cũng không ít người đã chết đói vì lạc đường, hoặc bị giết bởi bọn Miên cộng, Lào cộng. Số còn lại, hơn 2 triệu người đã đến được bến bờ tự do với hai bàn tay trắng, và có rất nhiều người bỏ lại sau lưng những người thân yêu trong gia đinh, dòng họ. Hầu hết những thuyền nhân đó đã nói với các phái đoàn tiếp nhận định cư của các nước: “Thà chết trên biển cả còn hơn sống trong chế độ của Việt cộng (tạm dịch: Rather die on the high sea than live under the Vietnamese communist regime). Điều đó đã nói lên cái ý chí liều chết để đi tìm TỰ DO.

Thảm cảnh đó đã làm cho thế giới bàng hoàng, xúc động. Họ đã gọi những người trốn chạy khỏi quê hương nầy bằng một biệt danh, mà trong lịch sử loài người chưa từng có: “BOAT PEOPLE” (Thuyền Nhân).

Thảm cảnh đó khởi đầu vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày mà bọn cộng sản Việt Nam, từ miền Bắc, đã bất chấp hiệp định Paris 1973, với sự trợ giúp của khối cộng sản quốc tế, đã tấn công và chiếm lãnh miền Nam, nước Việt Nam Cộng Hòa, với sự hững-hờ của thế giới không cộng sản.
Cái hận đã mất nước và cái hận đã bị đồng minh phản bội, đưa đến cảnh nước mất nhà tan, gia đình phân cách, chia ly, đã tạo nên sự thống hận trong lòng người dân Việt kể từ ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Từ đấy, chúng ta, những người Việt hải ngoại và kể cả đồng bào quốc nội, gọi ngày 30 tháng tư hàng năm là NGÀY QUỐC HẬN.

Không có từ ngữ nào để diễn tả ngày đó chính xác hơn từ ngữ Ngày Quốc hận. Nó diễn tả không những đúng về mặt hiện thực mà còn đúng về mặt tâm linh. Ngày đó, đời sống của những con người Việt Nam trên toàn quốc đã bị thay đổi một cách toàn diện, từ tốt đẹp biến thành cùng khổ; từ tương lai trong sáng trở thành tăm tối, không có ngày mai. Trong lòng mỗi người đều bị đè nặng bởi nỗi niềm u uất, căm phẫn vì đang bị một lũ người vong bản, tay sai của ngoại bang, dốt nát, tàn ác cai trị bằng chánh sách vô nhân nhứt trần gian. Đời sống của người Việt Nam không hơn không kém gì với đời của một con vật: ngoan ngoãn thì được cho ăn, bằng không thì bị bỏ đói cho đến ngày tàn tạ.

Trong lòng mỗi con dân Việt, ai mà không nhớ đến ngày 30 tháng tư, ngày đổi đời đó? Tuy nhiên, mỗi người nhớ đến nó một cách khác nhau.

Cái nhớ sâu sắc nhất, không bao giờ quên là tuổi thanh niên đã bị hủy hoại trong các nhà tù gọi là trại “cải tạo”. Những rường cột của Quốc Gia đã bi kềm hãm trong ngục tù khổ sai, ăn không đủ no, bệnh không thuốc chữa. Bọn người ác độc lợi dụng sức người hom hem yếu đuối đó, bắt họ đi làm muớn, làm thuê, làm những việc khổ sai, chúng lấy tiền bỏ vào những cái túi tham không đáy. Những người tù “cải tạo” đó, bị hành hạ không những trên thể xác, mà cả tinh thần của họ cũng bị dày vò cả ngày lẫn đêm, bằng những lời chửi bới,hăm dọa, kể cả những đòn thù bằng đánh đập, biệt giam trong những thùng sắt ngột ngạt, nóng bỏng khi nắng lên, không cho nước uống, và còn nhiều trường hợp đem người chống đối bọn chúng ra xử bắn tại nơi đông người. Những hành động nầy, bọn cai tù tàn ác, gọi là những bài “học chính trị”, do “Bác” và Đảng chủ trương đối với những người sa cơ, thất thế.

Những người tù lương tâm đó là ai?

Họ là những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, đã xả thân mình để bảo vệ phần đất miền Nam của Tổ Quốc, giữ gìn an ninh cho người dân miền Nam được sống một đời sống thanh bình, an cư lạc nghiệp.

Họ là những công chức phục vụ cho chánh quyền Việt Nam Cộng Hòa, để xây dựng một quốc gia hùng mạnh phú cường, có phần trội hơn so với các nước lân bang như Phi Luật Tân, Tân Gia Ba, Thái Lan, Đại Hàn, Đài Loan.

Họ là những nhà tư bản đã góp công xây dựng nền kinh tế phồn thịnh cho nước Việt Nam Cộng Hoà.

Họ là những người trong ngành giáo dục, đã tận tụy và miệt mài với trách nhiệm mở mang trí óc cho những thanh thiếu niên, mong xây dựng nên một thế hệ kế tiếp, văn minh, thông thái hữu dụng cho quốc gia.

Những người tù lương tâm nầy đã bị buộc tội là đã phục vụ cho chánh quyền trước, đã giúp đỡ cho “Ngụy Quân, Ngụy Quyền” chống phá lại “cách mạng của nhân dân” (sic).

Ngoài những người đã bị bắt đi tù “cải tạo”, những người dân thường sống tại các đô thị cũng bị đày đọa không kém. Họ đa bị ép buộc đi đến những nơi hoang dã, thâm sơn cùng cốc, mà bọn cầm quyền ác ôn là “nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” (hiện giờ là cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), gọi là “vùng kinh tế mới”. Nơi đây chỉ với hai bàn tay trắng, không thể nào tìm được cách sinh nhai. Sau khi đuổi họ đi vùng kinh tế mới, “nhà nước” đã tịch thu tất cả tài sản, cơ ngơi của họ để phân phát cho những cán ngáo (ngố), đã có công với “nhà nước” trong việc cưỡng chiếm miền Nam.

Ở nông thôn, không còn ai có quyền có ruộng đất, dù rằng những mảnh đất do ông cha từ nhiều đời trước để lại cho con cháu. Tất cả ruộng đất đều quy về “hợp tác xã”. Người nông dân canh tác trên những mảnh đất ruộng vuờn đó, được thu hoạch do quyết định của bọn đầu sỏ xã ấp, bằng một chính sách gọi là “bảng chấm công”. Ai nịnh bợ hay theo phe chúng thì được chia nhiều hơn. Do vậy, đời sống của người ở nông thôn thiếu thốn rất trầm trọng, có nơi đã có người chết vì đói, mà điều nầy chưa hề xảy ra trong lịch sử của miền Nam Việt Nam.

Tóm lại, sau khi bọn cường bạo cộng sản Việt Nam nhờ súng đạn của Trung cộng, của Liên sô, đã cưỡng chiếm được nước Việt Nam Cộng Hòa, thì toàn thể trên 26 triệu người dân miền Nam, bị cướp giựt một cách trắng trợn, không khoan nhuợng, bị nhốt trong một nhà tù vĩ đại, đó là quê hương của mình, bị đày đọa vô cùng tàn ác, sống như một con thú không hơn không kém.

Tình cảnh của người dân Việt Nam hiện nay, năm 2018, đã qua 43 năm, không khác gì ngày bắt đầu cuộc đổi đời 30 tháng 4 năm 1975. Có khác chăng là lối sống giàu sang, xa hoa, trụy lạc của những “cán bộ” Việt cộng và gia đình họ. Còn người dân ngày càng bị đàn áp mạnh mẽ hơn, bằng những thủ đoạn, bằng những xảo thuật nghề nghiệp, gian manh hơn, ác độc hơn.

Đã là người Việt Nam thì không ai có thể quên, trong lòng ai cũng đang âm ỉ một nỗi hận. Những kẻ nào quên đi là họ cố ý bị “bịnh quên” để đổi lấy những đồng tiền dơ bẩn, đẫm ướt máu của đồng bào quốc nội. Họ đã quên đi ơn nghĩa của quốc gia cưu mang họ như một người tỵ nạn. Họ đã quên đi lòng bao dung của cộng đồng tỵ nạn đã đùm bọc, giúp đỡ họ, đến khi họ thành tài, nổi tiếng, thì vì họ xem đồng tiền lớn hơn bánh xe trâu (câu nói khinh miệt của dân miền Nam), họ phủi hết đi ơn nghĩa, trở lại hợp tác với kẻ thù, tiếp tay với bọn Cộng Phỉ, đàn áp ngược lại đồng bào của mình.

Để kết luận, cầu mong tất cả đồng bào Việt Nam hãy ghi nhớ, ngày Quốc Hận 30 tháng 4, bởi vì ngày đó là ngày mang đến nỗi hận xót xa cho cả nước, chúng ta hãy tưởng niệm đến quê hương đã mất đi, tưởng nhớ và tri ơn đến những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, đã hy sinh mạng sống để bảo vệ tự do cho quê hương và đồng bào. Hãy tưởng nhớ đến những người tỵ nạn kém may mắn đã chết trên đường đi tìm tự do. Và quan trọng nhất là hãy làm một vài việc gì đó mà mình có thể, để góp bàn tay với đồng bào quốc nội, đập nát chế độ Việt cộng, để sớm gây dựng lại một Nước Việt Nam Tự Do Nhân Bản và Phồn Vinh, để cho ngày quốc hận trở thành không còn hận nữa, mà chỉ còn là ngày đen tối nhất được ghi lại trong lịch sử Việt Nam.

Nhìn cái hình đủ các quan văn võ hai Miền Triều Tiên hôm nay tôi bật khóc.

Thái Hòa Lê shared a post.

Vn không có cha già dân tộc thì đã sánh vai với Nam Hàn rồi!

 
Image may contain: 17 people, including Minh Le, people smiling, people standing, suit and wedding

Nguyễn Tấn ThànhFollow

Nhìn cái hình đủ các quan văn võ hai Miền Triều Tiên hôm nay tôi bật khóc.

Nó làm cho tôi liên tưởng tới hai Miền Việt tưởng như cùng cảnh ngộ, bởi hai dân tộc bị chia đôi sau Thế chiến 2.

Tôi khóc vì nước Việt không may mắn để có thằng trẻ con như Ủn lãnh đạo, mà lại là một cha già lãnh đạo, để rồi đem súng đạn Nga, Tàu về tàn phá dân tộc Việt này.

Đau hơn khi rất nhiều người dân Việt còn nghĩ cha già dân tộc đó là có công lớn lắm mà không biết đích thị là nhận lương Quốc tế cộng sản, đem súng đạn về điêu linh nước Việt.  

Cái bắt tay lịch sử của hai nhà lãnh đạo Nam Bắc Triều

Hoa Kim Ngo shared a post.
 
Image may contain: 2 people, people standing
Image may contain: 1 person
Image may contain: 2 people, people smiling, people standing
Image may contain: 1 person, standing

Lê Công ĐịnhFollow

Cái bắt tay lịch sử của hai nhà lãnh đạo Nam Bắc Triều khiến hàng triệu gia đình người Việt thêm đau lòng vì chúng ta đã phải tổn thất sinh mạng quá lớn mới chấm dứt được một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn vào năm 1975. Đó là một sai lầm khó tha thứ.

Tuy vậy lịch sử không có chữ NẾU. Cách đối diện với sai lầm quá khứ hay nhất là hành động khôn ngoan ở hiện tại nhờ vào các bài học lịch sử trong và ngoài nước.

Vì vậy, nhà cầm quyền và đảng cầm quyền ở Việt Nam ngày nay nên nhìn vào Nam Bắc Triều ngõ hầu sớm hòa giải với đồng bào bất đồng chính kiến của mình, lắng nghe và làm việc với họ, để cùng mở ra một trang sử mới cho quốc gia, thay vì mở thêm cổng nhà tù cho đồng bào mình hôm nay và cho chính mình ngày mai.

Lời Chúa

 Phúc Âm: 1 Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.

2 Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em.

3 Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.

4 Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi.”

5 Ông Tô-ma nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường? “

6 Đức Giê-su đáp: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.”

30 Tháng Tư ‘cho ta sáng mắt, sáng lòng’

30 Tháng Tư ‘cho ta sáng mắt, sáng lòng’

Tạp ghi Huy Phương

Cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải, vĩ tuyến 17 chia đôi hai miền Nam-Bắc. (Hình: Wikipedia)

Từ sau ngày Hiệp Định Geneve năm 1954 lấy sông Bến Hải làm ranh giới chia cắt hai miền Nam Bắc Việt Nam, cả hai phe Quốc-Cộng đều tranh thủ nhân tâm đồng bào, lấy thông tin tuyên truyền làm vũ khí hàng đầu để tố cáo tội ác và nêu lên sự đau khổ lầm than của đồng bào bên kia giới tuyến.

Minh chứng sự tốt đẹp của việc “đất lành chim đậu,”thực tế là trong thời gian 30 năm chia cắt, chỉ thấy người miền Bắc vượt vĩ tuyến 17 vào Nam, chứ không thấy ai ở miền Nam ra miền Bắc tìm tự do.

Sau ngày 30 tháng 4-1975, nhờ thông thương đi lại, nhờ mắt thấy tai nghe, người Việt Nam của cả hai phe, đã thấy rõ sự tuyên truyền, tố cáo của chế độ bên này đối với phía kia là đúng hay sai.

Sự tuyên truyền và những thông tin của miền Nam đưa ra chưa thấm vào đâu so với sự thật tàn tệ và thảm cảnh của đồng bào miền Bắc. Sau này, chuyện đấu tố trong đợt cải cách ruộng đất năm 1949 còn kinh hoàng gấp trăm lần những gì miền Nam đã biết qua các tác phẩm của các nhân chứng miền Bắc được viết sau ngày “thống nhất” như “ Ngày Long Trời, Đêm Lở Đất” của Trần Thế Nhân, “Une Voix dans La Nuit” (Tiếng vọng trong đêm,) của Hoàng Văn Chí – Mạc Định, “Chuyện Làng Ngày Ấy” của Võ Văn Trực và rải rác hầu hết trong các tác phẩm của Dương Thu Hương, Trần Đĩnh… mà khả năng của người viết không đếm hết.

Một cuốn phim “Tố Cộng” của miền Nam như “Chúng Tôi Muốn Sống” không nói đủ 1/10 sự thật. Sau này, trong một cuộc phỏng vấn của ký giả Đinh Quang Anh Thái, nhà văn Dương Thu Hương đã kể: “Tôi còn nhớ lúc xảy ra chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất, ngay trước cửa nhà tôi là một người bị chết treo và lúc 8 tuổi, tôi đã phải đi theo các đoàn học sinh để chứng kiến các cuộc đấu tố địa chủ. Sau lưng nhà tôi, ngay đường xe hỏa, một người khác bị vu là địa chủ nên tự tử bằng cách đặt cổ vào đường ray cho xe lửa cán chết.”

Về chuyện đói nghèo của dân miền Bắc, dù giàu tưởng tượng, tôi không bao giờ nghĩ ra được cái cảnh đói của ngay gia đình của chị ruột tôi ở vùng Đức Thọ, Nghệ Tĩnh. Chị tôi đi lấy chồng trước năm 1954, sau này làm hộ sinh nông thôn, đi đỡ đẻ về, đói quá, có lần bị té xỉu dọc đường. Anh rể có thời gian làm Trưởng Ty Thương Binh- Xã Hội tỉnh Quảng Bình, sau về làm ở Ủy Ban Nhân Dân huyện Đức Thọ. Trong bốn năm chị tôi mất ba đứa con trong thời gian chỉ có vài tháng tuổi, vì mẹ thiếu ăn, không có sữa, nhà nhiều lúc phải ăn lá bí ngô nấu với sắn mốc qua ngày.

Ở miền Bắc, chế độ Cộng Sản tuyên truyền nói xấu miền Nam thì quá cường điệu, lếu láo, không có nổi 1% sự thật. Khi vào được để “tham quan” miền Nam và thăm bà con, dân miền Bắc còn ngây thơ mang vào Nam cứu trợ mấy ký gạo đỏ và chục chén ăn cơm. Sự thật thì miền Bắc đã mang về từ vùng đất “được giải phóng” hàng chục tấn vàng, kim cương cho Bộ Chính Trị đảng và cho hàng vạn xe gắn máy, đồng hồ, radio, quạt máy và vàng bạc đủ xây lại nhà cửa khang trang từ những thân nhân mà họ đã “khai tử” trên bản lý lịch trích ngang, vì không muốn liên hệ gì với những người đã di cư vào Nam năm 1954.

Bà chị tôi sau ngày “giải phóng” thương nhớ quay quắt cha già, nhưng chỉ có nước mắt làm quà cho cha. Phía Nam, gia đình tôi toàn là thầy giáo theo nghề sư phạm, không giàu có gì, nhưng lúc nào gạt lệ trước khi ra Bắc, chị cũng được cô em dâu dúi vào tay bà một hai chỉ vàng làm quà “thất trận!” Anh tôi, mỗi lần đi thăm bà chị “bên thắng cuộc” cũng kho một nồi cá lớn, khi cá sòng, khi cá thu vì gia đình chị tôi vẫn thường “thiếu chất!”

Sự nhồi sọ đến mù quáng, khó tưởng tượng nỗi, khi một thằng cháu, con bà chị tôi đã dẫn ở đoạn trên, tốt nghiệp kỹ sư Hà Nội, từng du học Liên Xô, khi vào gặp tôi sau năm 1982 tại Sài Gòn, đã thắc mắc:

– “Cậu mang quân hàm Đại Úy mà nhà cửa chỉ thế này sao?” (Nó được tuyên truyền sĩ quan miền Nam, cắt cổ mổ bụng, bóc lột nhân dân nên ai cũng có đời sống vương giả, nhà lầu xe hơi!)

Một hôm, có vẻ sau một hồi ngần ngại, “ông kỹ sư Hà Nội” này đã rụt rè hỏi tôi một câu rất mâu thuẫn với câu hỏi trước.

– “Thế Mợ có bị cảnh sát… không?” (Miền Bắc được tuyên truyền ở Miền Nam bị cảnh sát Ngụy kìm kẹp, cảnh sát muốn hiếp dâm ai cũng được, kể cả vợ… Đại Úy Ngụy!)

Biết là “Một sự bất tín, vạn sự chẳng tin” – Nếu một lần ta đã làm người khác mất lòng tin thì những lần sau không ai tin mình nữa! Nhưng trong vòng cương tỏa của đảng, bị bịt mắt che tai, đồng bào miền Bắc không có dịp để biết sự thật, chỉ biết nghe chuyện hoang đường. Từ chuyện Nguyễn Văn Trỗi bị trói tay vào cột, còn dùng tay giật băng vải đen bịt mắt, sau khi nhận một tràng đạn vào ngực còn dõng dạc hô to: “Hồ Chí Minh muôn năm!” đến chuyện hồi chánh viên Nguyễn Văn Bé còn sống sờ sờ, đã miền Bắc dựng thành liệt sĩ sau khi cầm quả mìn Claymor đập vào một chiếc xe tăng, làm chết 69 binh sĩ Mỹ và VNCH, phá hủy nhiều xe tăng. Từ chuyện Kim Đồng xa xưa tẩm xăng vào mình cho nổ kho đạn ở Thị Nghè, đến chuyện ngày nay “Hercule” Bùi Minh Kiểm tay không níu càng trực thăng chúi đầu xuống đất cho đồng đội bắn, máy bay nổ tan xác. Rồi chuyện đồng bào ở bờ Nam Bến Hải nghe tiếng loa đài phát thanh Vĩnh Linh vang lên, đã chạy ào ra bờ sông mừng rỡ reo hò: “Bà con ơi, o Nhạn, anh Tích (xướng ngôn viên) chưa chết. Đài Vĩnh Linh còn. Quốc gia nói láo.”

Rõ ràng quốc gia nói chưa được 1% sự thật của miền Bắc, trong khi cộng sản nói láo từ suốt 30 năm cho tới ngày cả nước được sáng mắt, sáng lòng.

Ai cũng nghĩ rằng nhà nước cộng sản dù chính sách ngu dân, làm cho dân càng ngày càng ngu, để tuyên truyền được hữu hiệu, nhưng ngu là đối với nông dân thất học, quanh quẩn trong rặng tre làng. Ở đây một kỹ sư có học, từng đi ngoại quốc lại nghe và tin sự tuyên truyền như vậy, thì không còn chỗ nói nữa.

Quả là nghệ thuật tuyên truyền của Cộng Sản Bắc Việt quá hay, nhưng không may Việt Nam có cái ngày 30 Tháng Tư đã làm rơi cái mặt nạ giả dối, phơi bày một sự thật trần truồng khiến người có lòng tự trọng thấy xấu hổ. Miền Bắc cảm thấy nếu được sống 1/10 cuộc đời bị đàn áp bóc lột của người dân miền Nam thì cũng đã sung sướng chán. (Huy Phương)

Cựu nhà báo thời chiến: “Tôi không nghĩ chiến tranh VN là chống Mỹ cứu nước”

Cựu nhà báo thời chiến: “Tôi không nghĩ chiến tranh VN là chống Mỹ cứu nước”

2018-04-26

Ông Nguyễn Mạnh Tiến, cựu nhà báo RFA với bút danh Nam Nguyên, trò chuyện cùng RFA nhân sự kiện 30/4.

Ông Nguyễn Mạnh Tiến, cựu nhà báo RFA với bút danh Nam Nguyên, trò chuyện cùng RFA nhân sự kiện 30/4.

 RFA
 Thưa quý vị, như vậy chỉ còn ít ngày nữa là đến ngày 30/4, ngày kỷ niệm chiến tranh Việt Nam chính thức kết thúc. Sự kiện này được nhắc đến với rất nhiều tên gọi khác nhau, tuy nhiên theo nhận định của ông Võ Văn Kiệt, nguyên Thủ tướng chính phủ Hà Nội thì đây là ngày triệu người vui nhưng cũng triệu người buồn.

Mời quý vị cùng theo dõi buổi trò chuyện giữa RFA và ông Nguyễn Mạnh Tiến, cựu nhà báo của RFA với bút danh Nam Nguyên, đồng thời ông cũng là một trong những phóng viên thời chiến tranh Việt Nam.

Xin chào nhà báo Nguyễn Mạnh Tiến, ông có thể chia sẻ những kỷ niệm đáng nhớ trước ngày 30 tháng 4 năm 1975?

Nhà báo Nam Nguyên: Trong tuần lễ cuối cùng, những sự kiện quan trọng gồm có Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, rồi phó Tổng thống Trần Văn Hương lên thay nhưng cũng chỉ được 5 ngày thì trao nhiệm cho Đại tướng Dương Văn Minh với hy vọng Đại tướng Minh có thể hòa giải với phía bên kia để ngăn tình trạng sụp đổ của miền Nam và có thể là thành lập một chính phủ liên hiệp chẳng hạn.

Ngày 28/4/1975, tôi làm truyền thanh trực tiếp (live) từ dinh Độc Lập lễ trao nhiệm cho Đại tướng Dương Văn Minh để lãnh nhiệm vụ Tổng thống. Các bạn chắc cũng lấy làm lạ lùng vì sao có thể trao nhiệm tại vì thường nếu Tổng thống xuống thì Phó Tổng thống lên, Phó Tổng thống xuống nữa thì người Phó của ông này sẽ lên, không có người đó thì Chủ tịch Thượng viện phải lên. Nhưng đây lại là trao nhiệm, có nghĩa là Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa rất minh bạch, rành rọt nhưng nó đã không được thi hành kể từ ngày 28/4.

Khoảng 5 giờ chiều hôm đó diễn ra lễ trao nhiệm, có vẻ như chính phủ của Đại tướng Dương Văn Minh coi chuyện này là nghiêm túc, không phải nhận công việc này để đầu hàng. Có thể Đại tướng Dương Văn Minh là một nhà quân sự nên ông ấy biết tình hình như thế nào. Phòng tuyến Xuân Lịch mất rồi, sư đoàn 18 vỡ, ông tướng Lê Minh Đảo đã giữ được 10 ngày rồi mà ông ấy rất anh hùng, báo chí thế giới cũng ca tụng ông ấy.

Cái nghề báo là không được xúc động. Phải nói là tôi đã rất cố gắng để dặn mình không được xúc động nhưng cuối cùng trong khi tường thuật live tôi đã bình luận một câu. Nhưng câu đó thành ra lại được nhiều người biết đến. Họ nhắc lại câu tôi nói: “Vào lúc này trời âm u đổ mưa, cũng giống như tình hình của đất nước vậy!”

Khi tôi về đến đài sau buổi chiều hôm đó là đã thấy lộn xộn lắm rồi. Máy bay đã bay vô oanh kích ở Tân Sơn Nhất. Ngay ở đài tôi nhìn ra, có những máy bay đi ngang đó thì ở dưới người ta bắn lên. Có thể bắn cả những máy bay tôi thấy không phải của bên kia. Tình hình lúc đó rất khó khăn.

Đó là dấu ấn ngày 28/4. Ông Tổng thống Dương Văn Minh thực tế chỉ tại chức 36 tiếng đồng hồ.

Tới ngày 30/4, trong đài tôi được ông Tổng trưởng Thông tin mới gọi điện yêu cầu cử người qua để thu thanh một bản hiệu triệu của Tổng thống Dương Văn Minh. Thu xong phải phát vào lúc 10 giờ, nếu không phát đúng giờ thì Sài Gòn sẽ biến thành một biển máu. Hôm đó tôi không ở trong đài, nhưng sau này tôi hỏi thì họ nói là ông Lê Phú Bổn, phóng viên trẻ tốt nghiệp trường báo chí Vạn Hạnh là người được cử đi thu thanh. Và người kỹ thuật viên đi cùng là ông Hồ Ổn. Hai người đi qua Phủ Thủ tướng ở đầu đường Thống Nhất thu và mang về phát. Những ngôn từ rất chững chạc, cũng với nội dung đầu hàng thôi, Đại tướng Dương Văn Minh nói rằng mọi người buông súng, quân đội ở đâu thì giữ nguyên ở đó để chờ người đại diện phía bên kia đến và bàn giao trong trật tự. Tôi thấy cách ông ấy đầu hàng như vậy cũng rất hợp lý. Khi bản thu thanh loan ra được một thời gian ngắn thì quân đội Bắc Việt mới tiến vào dinh Độc Lập. Câu chuyện đến đoạn này thì có nhiều điểm không rõ trong lịch sử, mỗi người nói một kiểu. Ông Bùi Tín thì nói rằng lúc đó vào trong dinh chỉ có cấp cao nhất là đại úy xe tăng, còn lại là nhỏ hơn, chưa có ông Chính ủy của đoàn đó. Bây giờ báo chí người ta cũng nói ông Chính ủy này có thể đến lúc kéo cờ lên rồi ông ấy mới tới.

Họ nói không chấp nhận lời đầu hàng ban đầu, đòi rằng bây giờ ông phải nói ông đầu hàng vô điều kiện bởi vì chính quyền của ông tan rã rồi, không có gì để bàn giao. Tôi thấy điều này cũng hơi cay đắng, bởi vì không nhất thiết phải như vậy vì người ta đã chấp nhận đầu hàng rồi, bây giờ làm mọi việc có thể để tránh đổ máu thôi. Những người cán binh Cộng sản lúc đó đã rút súng và nói ông phải đọc lại bản mới và đi thu. Thế rồi họ chở ông ấy tới đài phát thanh để thu bản đầu hàng mới.

Trước khi ông Minh tới đài thì ông Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh đã tới rồi. Người hoàng viên (tên gọi người thu thanh lúc bây giờ) là một phụ nữ, đã quá sợ hãi, có lẽ vì lần đầu tiên trông thấy bộ đội nón cối, súng ống, trong khi ông Tổng thống gần như bị áp đảo. Cô ấy sợ hãi quá, chân tay run lẩy bẩy không thu được. Có một nhà báo ngoại quốc ở đó, đã dùng cát-sét để thu. Một lúc sau ở phòng thu phụ người ta trấn tĩnh lại và thu được bằng băng lớn.

Đó là lời đầu hàng vô điều kiện và có lời chấp nhận lời đầu hàng đó của phía bên kia. Sở dĩ tôi phải kể dài dòng như vậy là vì có hai bản tuyên bố đầu hàng. Lần thứ nhất do ông Dương Văn Minh soạn thảo và đi thu. Lần thứ hai ông ấy bị áp giải đi thu. Nhiều người thắc mắc tại sao phải kể những chi tiết đó làm gì, nhưng tôi nghĩ rằng đối với lịch sử, sự thật quan trọng hơn sự kiện. Trong cuốn sách “Đại Thắng Mùa Xuân” của ông Văn Tiến Dũng, ông ấy nói đài Sài Gòn bỏ trống không còn một ai nữa. Quân ta (tức là quân Bắc Việt) đã vô thoải mái. Nhưng điều đó không đúng! Chính phủ không phải đã tan rã. Quân đội có thể mất phòng tuyến này hay phòng tuyến kia, nhưng đài tiếng nói quốc gia lúc đó vẫn còn.

Trong tháng 4 tôi còn có một kỷ niệm nữa không quên được. Khi Đà Nẵng mất, chắc khoảng 28/3, hôm đó tôi đang trực sở thời sự, thì ở dưới phòng kỳ thuật họ nói tôi xuống nói chuyện với đài Đà Nẵng. Ông quản đốc của đài Đà Nẵng, anh Huỳnh Quy, có vẻ mất bình tĩnh và giọng xúc động lắm.  Anh ấy hỏi “Tiến ơi mày có thể cứu được tao và các nhân viên của tao không?” Tôi cũng biết mình không thể giúp được gì, nên chỉ trấn an anh ấy thôi. Anh ấy bảo đang bị kẹt ở trong đài không thể ra được. Chúng tôi đang tìm cách giúp anh ấy, thì khoảng 15 phút sau anh ấy gọi lại bảo rằng “Tiến ơi không còn hi vọng gì nữa rồi, đã trông thấy họ ở ngoài hàng rồi.” Anh ấy chào vĩnh biệt, rồi về sau tôi không biết anh ấy như thế nào nữa. Đó là câu chuyện ám ảnh tôi hoài.

Họ muốn mở rộng chủ nghĩa Cộng sản ra toàn thế giới, đâu phải đánh Mỹ để cứu nước hay giải phóng miền Nam. 
– Nhà báo Nam Nguyên

RFA: Qua những cảnh tượng ông được chứng kiến khi làm những phóng sự chiến trường, ông suy nghĩ như thế nào về cuộc chiến tranh Việt Nam?

Nhà báo Nam Nguyên: Đây là một câu hỏi lớn, tôi chỉ nêu ra suy nghĩ của một người phóng viên đã trải qua cuộc chiến thôi.

Tôi thấy rằng giá không có cuộc chiến này thì tốt hơn. Khi kết thúc cuộc chiến vào ngày 30/4, đã có tổng cộng khoảng 2 triệu người miền Bắc và miền Nam chết, hàng trăm ngàn người bị thương, không đếm xuể những người còn sống nhưng cụt tay, cụt chân của cả hai bên. Và cuộc chiến tranh đó mục đích là gì, giữa cùng là người Việt Nam với nhau? Bản thân tôi cũng có một phần gia đình ở miền Bắc. Tôi cũng sinh ra ở Hà Nội.

Nói không có thì tốt hơn là vì giả dụ ngay cả khi chưa có Điện Biên Phủ, cứ để nguyên thì chậm nhất đến thập niên 60, tất cả những nước có thuộc địa đều phải trả lại cho người ta hết, bang giao tốt đẹp, buôn bán làm ăn với nhau mà không bị chết người.

Trận chiến Điện Biên Phủ dành độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh coi như đã thành công, đưa đến Hiệp định Geneva chia hai miền đất nước. Giá mà dừng ở đó thì vẫn còn tạm ổn. Nhưng đằng này, chỉ vài năm sau, miền Bắc bắt đầu mang quân gây chiến, rồi chuyển vũ khí vào trong miền Nam với lý do Tổng tuyển cử đã không diễn ra như Hiệp định Geneva nên phải đánh. Miền Bắc đã chuẩn bị chiến tranh ngay từ lúc đó rồi.

Trên chiến trường khốc liệt quá! Những gì tôi được chứng kiến, nhận xét về quân sự cả hai bên, binh sĩ binh lính của cả hai bên rất can trường, anh hùng và sẵn sàng chết để phục tùng lệnh từ trên. Khi tôi và đồng nghiệp vào mặt trận An Lộc bằng máy bay, chưa kịp nhảy xuống thì khói đã bốc lên trên máy bay rồi. Trông thấy bãi đáp Khánh Ly rồi mà bị đánh bom phải lượn ra luôn. Tôi thấy bay được có một khúc là may bay bị rớt rồi, và ngay lập tức họ bắn hủy máy bay đó. Thế là chúng tôi vẫn chưa vào được An Lộc. Nhưng cuối cùng kiên trì tôi và một người phóng viên tên Dương Phục cũng đã vào được.

Đi đến đó thì thấy thành phố An Lộc không còn một căn nhà nào nguyên vẹn hết. Toàn bộ là gạch vụ và một vài bức tường. Chúng tôi đến bộ chỉ huy của ông tướng Lê Văn Hưng, là vị tướng tử thủ ở đó để phỏng vấn, và coi như thành công.

Khi về lại không về được, cứ đi ra bãi đáp, máy bay cứ đáp xuống là phía bên kia họ pháo kích máy bay không xuống được. Chúng tôi không có cách gì để lên được, cứ đi ra đi vô mấy lần rồi lại phải quay lại. May mắn cuối cùng đài truyền hình họ đi trực thăng vào quay. Ông sĩ quan báo chí của ông Lê Văn Hưng, là ông đại úy Qúy, nói ông ấy sẽ đưa bọn tôi ra ngay khi máy bay truyền hình tới, chờ sẵn ở đó, máy bay hạ cánh là nhảy lên liền. Tôi cũng làm như vậy, và đội truyền hình đã cứu mạng tôi. Nếu không, tôi sẽ phải ở lại trong đó không biết đến bao giờ.

Đến ngày 6/7 tôi được lệnh chuẩn bị kỹ càng để đi công tác đặc biệt, nhưng không nói đi đâu. Đến ngày hôm sau họ chở tôi vào dinh Độc Lập, và chỉ tôi lên một chiếc máy bay. Trên đó chỉ có tôi, một người bên truyền hình, còn lại toàn các ông lớn. Tôi nghĩ chắc phải đi đâu ghê gớm lắm. Có một chiếc máy bay có ông Tổng thống và cả ông Hoàng Đức Nhã. Máy bay bên bọn tôi có ông đại tướng Cao Văn Viên là Tổng tham mưu trưởng. Tới nơi, tôi thấy rừng cao su và đất đỏ, tôi linh cảm là vào An Lộc. Tôi nghĩ ông Tổng thống này gan thiệt, vì An Lộc tới lúc này chưa có giải phóng. Đằng xa mình nhìn thấy bom đạn nổ dữ lắm, phi cơ oanh tạc các vùng cao điểm để hộ tống máy bay này. Câu chuyện này cũng để lại nhiều dấu ấn, và ông Tổng thống Thiệu cũng thành công trong việc thực hiện chuyến đi này.

RFA: Với nhiều người trẻ sinh sau năm 1975, thậm chí sau đến 20 năm, đã được mái trường Xã hội Chủ nghĩa dạy là cuộc chiến tranh Việt Nam này là để chống Mỹ cứu nước. Không biết nhà báo suy nghĩ như thế nào về quan điểm này của Chính phủ Việt Nam?

Nhà báo Nam Nguyên: Tôi nghĩ là trong lúc học các bạn tin vào những câu chuyện như vậy. Tôi không nghĩ là chống Mỹ cứu nước, Việt Nam Cộng Hòa khi đó được thành lập và được viện trợ từ Hoa Kỳ để xây dựng lại đất nước. Khi chưa có chiến tranh, miền Nam trù phú, sung túc lắm, xuất cảng rất là khá, đời sống rất cao, được ví là hòn ngọc Viễn Đông. Đến ông Lý Quang Diệu cũng từng nói thời đó chúng tôi cũng chỉ mong được như miền Nam Việt Nam thôi. Đời sống rất sung túc mà không hề có quân Mỹ ở đó. Sở dĩ người ta giúp Việt Nam Cộng Hòa là vì theo chủ thuyết Domino, nếu cứ để Cộng sản tràn dần thì sẽ mất hết, tất cả sẽ là Cộng sản hết nên họ muốn chặn lại theo ý nghĩa Việt Nam Cộng Hòa sẽ là tiền đồ của thế giới tự do. Chiến tranh bên kia quá lớn thì người Mỹ mới đem quân vào vì họ sợ mất.

Bên kia từ thời trước đã tuyên truyền nhiều, đặc biệt những năm xưa không phải giống như giới trẻ được biệt về miền Bắc sau này, thời trước miền Bắc khép kín không khác gì Bắc Hàn bây giờ. Người trong Nam chúng tôi không bao giờ được biết ngoài Bắc có cái gì, cũng không có hình ảnh luôn vì họ không cho người ngoài vào thăm, chỉ số ít những người thân chế độ mới được vào. Hình ảnh mà tôi biết được là khi ông Phạm Huấn ra Hà Nội công tác một ngày với một số phóng viên, họ có chụp một số hình ảnh và viết bài Một ngày tại Hà Nội. Hình ảnh rất nhiều và tôi cũng được xem. Khi xem, cảm giác Hà Nội y nguyên như hồi gia đình tôi di cư năm 1954. Không có thay đổi, không cất nhà thêm, trông nghèo nàn lắm. Ngoài đường phố ô tô không có, toàn xe đạp không à, và rất nghèo khổ rách rưới. Tôi hiểu miền Bắc họ dồn hết viện trợ vào chiến tranh và đời sống của người dân với họ không quan trọng. Một bên quan trọng đời sống của người dân, một bên làm sao thắng chiến tranh và tất cả dồn cho chiến tranh. Giáo dục từ nhi đồng, đều là tinh thần yêu tổ quốc, chiến đấu theo gương Bác Hồ vĩ đại. Đối với những người miền Nam nghe rất sáo rỗng và buồn cười, nhưng tôi hiểu người miền Bắc lúc đó tinh thần họ như một và họ tin cái đó. Và nhờ những cái dối trá đó đã đưa đến chiến thắng. Mục đích của họ là muốn đánh chiếm miền Nam thì tiền vào súng đạn hết. Dân đói, ăn độn, dùng tem phiếu một tháng được mua mấy lạng thịt hay một năm được mua mấy mét vải. Trong khi miền Nam là một thế giới khác. Bây giờ lại nói đi giải phóng miền Nam, cả những gia đình không phải Cộng sản và Cộng sản, đều có lấn cấn trong đầu bởi vì trong Nam họ sống quá sung sướng, đời sống cao. Phương tiện có rất nhiều, tất cả những tân tiến đã có rất sớm ngay trong thập niên 60.

Nói chống Mỹ cứu nước thì họ phải nói vậy vì họ rất nhất quán. Nghe mới đầu có thể không tin còn ngờ vực nhưng nghe hoài rồi cũng tin. Ông Hồ Chí Minh còn nói đại khái là nếu đánh thắng sẽ giàu mạnh gấp 10 lần năm xưa nên họ càng muốn đi đánh. Nhưng tôi không thể tin được họ có thể nói ra những điều như đi giải phóng miền Nam vì 20 năm người dân miền Nam sống dưới ách nô lệ của thực dân mới Hoa Kỳ, rồi chế độ ngụy,…mà toàn dân vẫn tin. Nên tôi phải bái phục người Cộng sản họ có những lý thuyết như vậy, nhưng trình độ người dân lúc đó không thoát ra được vì họ phải sống khép kín.

Nói đánh Mỹ cứu nước, nhưng ông Hồ Chí Minh là Cộng sản quốc tế từ thời ông qua bên Nga, bên Pháp. Và ông Lê Duẩn thì nói chúng ta đánh Mỹ là đánh luôn cho cả Trung Quốc và Liên Xô. Tức là họ muốn mở rộng chủ nghĩa Cộng sản ra toàn thế giới, đâu phải đánh Mỹ để cứu nước hay giải phóng miền Nam.

RFA: Sau năm 1975, có một khoảng thời gian nhà báo vẫn sống ở Sài Gòn dưới sự điều hành của Chính phủ Hà Nội. Vậy ông nhận thấy điểm khác biệt gì nổi bật ở thời kỳ đó so với trước năm 1975?

Nhà báo Nam Nguyên: Chúng tôi thấy mình ở dưới địa ngục. Những người giàu, kha khá thì ở tầng đầu địa ngục, còn những người nghèo thì ở tầng giữa, hay tầng đáy. Tôi khổ lắm. Khi giải phóng là tôi mất hết nghề nghiệp, rồi bị bóc lột lấy luôn tiền bạc bằng các trận đổi tiền giới hạn số tiền đổi. Nhiều người mất nhà mất cửa, và nền kinh tế suy sụp hoàn toàn vì áp dụng chính sách xã hội chủ nghĩa. Lúc đó ông Đỗ Mười bảo rằng kinh tế quốc doanh theo đúng xã hội chủ nghĩa là tốt nhất, ngăn sống cấm chợ. Lý thuyết của ông ấy là quốc doanh hết, tỉnh này xài không hết thì trung ương sẽ lấy mang đi tỉnh khác chia. Đại khái là kinh tế không có sự lưu thông. Thành ra miền Nam trong 10 năm đầu tiên tan hoang luôn. Nếu họ áp dụng kinh tế thị trường của miền Nam có kiểm soát ngay từ đầu, và đừng có đánh tư sản hay cướp giật của người ta để giải phóng, thì có lẽ không đến nỗi tệ. Về sau ông Võ Văn Kiệt nói rằng có sự tự kiêu của Cộng sản và đã bỏ phí những cơ hội mà để cho mãi đến khi đổi mới 1986 nhưng thực tế phải đến 1990 thì đời sống mới khá lên. Nhưng nó sẽ đến một ngưỡng nào đó thôi, bởi vì vẫn còn là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì nó nửa nạc nửa mỡ giống như độc tài chuyên chế nhưng do tổ chức của Đảng Cộng sản làm.

Những câu chuyện này xảy ra sau giải phóng thật đáng tiếc. Tôi muốn nêu thêm một ví dụ nữa, ở miền Nam năm 1965 dưới thời ông Nguyễn Cao Kỳ, lúc đó là Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương, tức là Thủ tướng. Ông ấy có Chính phủ vì người nghèo, ông ấy đã làm một điều mà tôi thấy đến bây giờ Nhà nước Cộng sản vẫn chưa làm được. Ông ấy đã mở Tổng cục Tiếp tế và ở đó bán những thứ mà những người công chức quân đội có thể đến mua với giá rẻ, không có quota hay tem phiếu gì hết. Đặc biệt nữa là hữu sản hóa xe lam cho những người chạy xe lam, bán trả góp. Ông ấy đã thành công điều đó. Đối với cá nhân gia đình quân đội hay công chức, họ được mua trả góp hoặc trả hết. Chính phủ bây giờ còn chưa làm được điều đó cho quân đội hay công chức của mình. Và hữu sản hóa những cái như xe lam tôi thấy lại càng khó. Bây giờ thì họ đã thay đổi, nhưng lại nhiều vấn nạn sinh ra theo kiểu tư bản hoang dã, như lợi ích nhóm,…Cho nên tôi vẫn còn thương người Việt Nam mình lắm!

RFA: Xin chân thành cám ơn những chia sẻ của nhà báo!

HÃY LẦN CHUỖI CẦU NGUYỆN CHO BÀ ẤY !

No automatic alt text available.

Loc Teresa

Có 1 linh mục già rất tốt, được mọi người yêu mến và không mất lòng ai. Ngày kia, ngài có việc phải đi xa.

Vừa mới lên xe khởi hành thì có 1 bà hàng xóm, sống cạnh nhà xứ hay có tính chê trách người này người nọ, hỏi xem có thể đi cùng xe với cha không, cha đồng ý. Đi được 1 lát, bà gợi chuyện:

– Thưa cha, con kể cho cha biết về 1 người đàn bà xấu nết, đó là người hàng xóm của con.

– Bà ấy xấu nết lắm sao? 
– Dạ vâng. Xấu lắm ạ.

– Vậy chúng ta hãy lần chuỗi Mân Côi cầu nguyện cho bà ấy để bà có thể bỏ được nết xấu.

Thế rồi, cha xướng kinh:
Nhân danh Cha…. Và bà phải thưa suốt 50 Kinh Mân Côi. Vừa đọc xong 50 kinh, bà lại tiếp tục phàn nàn:

– Cha ạ. Con đã phải chịu đựng bà ta quá nhiều. Con không thể kiên nhẫn hơn được nữa.

– Con nói đúng. Với 1 người như thế, phải kiên nhẫn lắm mới có thể chịu đựng được. Vậy chúng ta hãy lần thêm 50 Kinh Mân Côi nữa cho con. Xin Chúa ban thêm ơn kiên nhẫn cho con. Và rồi cha đọc tiếp: Nhân danh Cha…. Và thế là họ cùng đọc thêm 50 kinh nữa. Khi kinh cuối cùng vừa dứt, bà chớp lấy cơ hội nói luôn:

– Thưa cha, bà ấy sống rất tệ với chồng. Ông ấy khổ lắm cha ạ.

– Thật tội nghiệp cho ông chồng ấy lấy phải người vợ không ra gì. Vậy chúng ta hãy lần thêm 1 chuỗi nữa để cầu cho ông ấy. Và rồi cha lại xướng lên: Nhân danh Cha…

Khi đã xong 50 kinh lần thứ 3, mãi không thấy bà nói gì, cha hỏi lại:

– Thế còn ai khổ vì bà ấy nữa không con, để cha con mình đọc tiếp?

– Dạ, thưa cha… thưa cha… hết người khổ rồi ạ.

Tíctop CRM – Kỷ niệm 100 Đức Mẹ hiện ra tại Fatima 1917 – 2017