CSVN im lặng trước chất vấn của Slovakia về việc mượn chuyên cơ chở Trịnh Xuân Thanh

 
 

CSVN im lặng trước chất vấn của Slovakia về việc mượn chuyên cơ chở Trịnh Xuân Thanh

Slovakia hôm Thứ Năm 3 tháng 5 yêu cầu Việt Nam giải thích những tin tức cho rằng mật vụ CSVN đã sử dụng một chuyên cơ của chính phủ Slovakia, để bí mật đưa cựu giám đốc dầu khí Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc ở Berlin về Hà Nội qua ngả Moscow.

Hãng tin Reuters hôm Thứ Sáu 4 tháng 5 trích dẫn một thông cáo của Bộ Ngoại Giao Slovakia cho biết bộ này đã triệu tập đại sứ CSVN tại Slovakia để truyền đạt những câu hỏi và mối quan tâm về vụ này. Thông cáo của Bộ Ngoại Giao Slovakia đưa ra hôm Thứ Năm nói rằng, nếu các cáo buộc được xác nhận, phía Slovakia sẽ xem đây là một sự việc nghiêm trọng, tác động tiêu cực lên các mối quan hệ song phương.

Slovakia mạnh mẽ phủ nhận việc tham gia vào vụ bắt cóc. Bộ Ngoại Giao Slovakia cũng cảnh cáo sẽ có thêm những bước đi trong lãnh vực ngoại giao nếu phía Việt Nam không cung cấp một lời giải thích khả tín.

Reuters cho biết, nhà cầm quyền CSVN vẫn chưa hồi đáp yêu cầu bình luận của hãng thông tấn này.

Hôm Thứ Tư, Thủ tướng Peter Pellegrini của Slovakia lên tiếng phủ nhận cáo buộc cho rằng chính phủ của ông đã tiếp tay cho vụ bắt cóc, bằng cách cho một phái đoàn Cộng Sản Việt Nam mượn chuyên cơ. Ông Pellegrini nói rằng, lời giải thích duy nhất chấp nhận được là CSVN đã lạm dụng lòng hiếu khách của Slovakia, nhưng tới nay chính phủ của ông chưa có bằng chứng cho điều đó.

Được biết phái đoàn do Bộ trưởng Công An Cộng Sản Việt Nam Tô Lâm dẫn đầu đã mượn chuyên cơ của Slovakia để bay từ thủ đô Bratislava đi Moscow. Theo lịch trình, lẽ ra họ phải bay sang Vienna, nhưng bất ngờ đổi kế hoạch vào phút chót. Theo nhật báo Frankfurter Allgemeine, dữ liệu GPS mà cảnh sát Đức thu thập được cho thấy chiếc xe nghi dùng trong vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh đã đến đậu trước cửa khách sạn của chính phủ Slovakia, nơi diễn ra cuộc họp giữa các giới chức Slovakia và phái đoàn của ông Tô Lâm. Vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh tại Berlin diễn ra trước đó chỉ ba ngày.

Cướp chính quyền – Chính quyền cướp

Cướp chính quyền – Chính quyền cướp

Chỉ trong vài ngày ngắn ngủi đầu tháng 5, dư luận cả nước tập trung vào chuyện truy tìm tấm bản đồ quy hoạch 1/5000 của dự án Thủ Thiêm bỗng dưng “biến mất” trong hàng loạt cơ quan công quyền. Điều thú vị ở dự án Thủ Thiêm là đảng cầm quyền hiện ra rõ mồn một là một băng đảng tội phạm chuyên nói láo và bóc lột nhân dân.

Mốc sự kiện nói láo qua từng ngày

Ngày 2/5, trong cuộc họp báo, ông Nguyễn Thanh Nhã – giám đốc sở Kiến trúc – Quy hoạch TPHCM cho báo chí biết là UBND TPHCM không tìm thấy tấm bản đồ đó. Ông Võ Văn Hoan – Chánh văn phòng UBND TPHCM thì cho rằng, chưa tìm ra chứ không phải không có. Cả hai ông đều đổ thừa cho khoảng thời gian từ năm 1996 đến nay, nghĩa là hơn 20 năm là quá dài, cho nên không còn lưu giữ được bản đồ.

Ngày 3/5, trưởng Ban Tiếp công dân Trung ương là ông Nguyễn Hồng Điệp lại lật ngược lời nói của hai quan chức trên của TPHCM, nói thẳng ra là thừa nhận quan chức của TPHCM nói láo. Ông Điệp cho rằng: “Nói với dân mãi là thất lạc bản đồ quy hoạch là không đúng. Đừng có nói thế, bây giờ phải nói là không có. Chả lẽ có mà bị mất thì mất ở tất cả các cơ quan à? Ở đây có cả trách nhiệm của nhiều cơ quan nữa chứ”.

Tuy nhiên, đến ngày 4/5, người dân lại chứng minh là cả ông Điệp cũng … nói láo. Ông Lê Văn Lung, nhà số 9, đường Trần Não, quận 2, đã đưa ra cho báo chí bản đồ quy hoạch Thủ Thiêm 1/5000 có dấu mộc đỏ chót của Sở Xây dựng và Công ty Dịch vụ Phát triển Đô thị.

Thế thì đúng như ông Điệp tuyên bố, “sự lạ” đã xảy ra ở hàng loạt cơ quan của một nhà cầm quyền tuyên bố chỉ tin vào chủ nghĩa duy vật. Nhưng ở đây, vật chất đã biến vào hư không mà không có một chút dấu vết.

Hủ bại từ trung ương tới địa phương

Do đó, chỉ có một lời giải thích duy nhất cho việc mất bản đồ quy hoạch Thủ Thiêm: băng nhóm chính quyền chủ trương cướp đất của dân ở Thủ Thiêm đã đồng loạt thủ tiêu vật chứng từ các cơ quan địa phương TPHCM tới Trung ương. Chúng sợ phải vào “lò” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Điều này chứng tỏ bộ máy công quyền tha hóa từ trung ương tới địa phương.

Quả thật, hiếm có chỗ nào mà có thể đền bù đất cho dân với giá 200 ngàn đồng một mét vuông nhưng lại bán lại cho người giàu với giá 200 triệu đồng một mét vuông. Chỉ cần năm mét vuông đất là lũ cướp ngày đã ung dung bỏ túi một tỷ đồng. Không có ngành nghề kinh doanh nào kiếm siêu lợi nhuận nhanh như vậy, kể cả buôn vũ khí hay buôn ma túy.

Người dân oan mất đất ở Thủ Thiêm đã khiếu nại trong bao nhiêu năm trời từ trung ương tới địa phương, biết bao người tan cửa nát nhà, thậm chí có người quẫn bách quá đã phải tự tử. Tuy vậy, những quan chức “của dân, do dân, vì dân” không một chút chùn tay khi cướp bóc và không một chút ngượng miệng khi nói dối.

Bộ máy chính quyền tê liệt

Năm 2015, Thanh tra Chính phủ đã phát hiện nhiều sai phạm ở dự án Thủ Thiêm nhưng phó Tổng thanh tra chính phủ Ngô Văn Khánh lại bất ngờ ra văn bản bắt phải dừng thanh tra. Tức là đủ thứ quy trình, pháp luật bị vô hiệu hóa vì những người thực thi những quy trình, pháp luật đó đã tha hóa.

Phải đến khi “cái lò” của ông Trọng bắt đầu nhắm đến tập đoàn tội phạm Lê Thanh Hải ở TPHCM, thì báo chí mới được lên tiếng một cách tương đối thoải mái về những sai phạm ở dự án Thủ Thiêm. Nghĩa là phải đợi đến khi có một phe mạnh hơn trong đảng cộng sản muốn giải quyết tiêu cực của phe thất thế thì mọi việc mới được tiến hành. Cũng có nghĩa là đủ thứ ban bệ như thanh tra, công an, viện kiểm sát chỉ để trang trí. Nếu “cái lò” của ông Trọng chí công vô tư thì đã điều tra xong vụ tranh chấp đất ở Đồng Tâm, Hà Nội từ lâu.

Không nói láo không làm cách mạng được

Tôi còn nhớ triết gia Trần Đức Thảo, khi đang trên đường từ Pháp về Việt Nam vào khoảng đầu những năm 1950 để giúp cho cách mạng, ông đã bị cú sốc đầu tiên khi bị chính quyền cách mạng bắt phải khai lý lịch, trong đó ông phải đấu tố cha mẹ, người thân của ông là “phản cách mạng”, làm việc cho thực dân đế quốc. Triết gia Trần Đức Thảo đã kiên quyết không nói dối và không đấu tố cha mẹ mình, nhưng ông phải trả giá bằng sự nghi ngờ, đàn áp của chính quyền cách mạng cho tới hàng chục năm sau.

Triết gia Trần Đức Thảo cho rằng, không thể nào xây dựng một xã hội chủ nghĩa tốt đẹp mà lại dựa trên bạo lực và dối trá như vậy. Cuộc cách mạng đã sai ngay từ đầu.

Các thế hệ lãnh đạo cộng sản cứ tiếp tục truyền thống bạo lực và dối trá như vậy kể từ những ngày đầu cho đến ngày hôm nay, và điển hình là việc dối trá để cướp hàng trăm ha đất của dân, liên quan tới ít nhất 15 ngàn hộ dân ở Thủ Thiêm.

Người cộng sản cướp chính quyền để rồi trở thành một chính quyền cướp.

Liệu sẽ mất bản đồ … Việt Nam?

Chính quyền cướp này ở Việt Nam vẫn còn nhỏ so với chính quyền cướp ở Trung Quốc. Thế thì liệu sẽ đến lúc chính quyền cướp ở Việt Nam tuyên bố là … mất bản đồ Việt Nam, mất bản đồ Hoàng Sa, Trường Sa, và để chính quyền cướp bên Trung Quốc vào tiếp quản.

Đó là chưa kể đến việc nhà cầm quyền cũng “lộ hàng” là những kẻ vô văn hóa khi đòi phá bỏ những công trình kiến trúc cổ có giá trị thẩm mỹ, tôn giáo cao như Dinh Thượng Thơ, Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm…

Những sự vụ như thế này đã khiến người dân phải mở mắt về bản chất thực của nhà cầm quyền, và có lẽ những người trong Lực lượng 47 hay dư luận viên cũng đã được “sáng mắt sáng lòng”. Quốc gia bị cai trị bởi những lãnh đạo hủ bại thì chắc sẽ có ngày mất bản đồ Việt Nam thật.

Tham khảo: Không tìm thấy bản đồ quy hoạch khu đô thị mới Thủ Thiêm (TT). – Bản đồ quy hoạch Thủ Thiêm: “Làm gì có mà tìm!” (DT). – Bản đồ Thủ Thiêm “mất tích” và chuyện dừng thanh tra đột ngột (DV). – Chính quyền nói thất lạc, dân bức xúc công bố bản đồ gốc Thủ Thiêm (VNN). – Xóm tạm cư Thủ Thiêm, TP.HCM: Mét vuông đất bán 200 triệu đồng sao đền bù chỉ 200 ngàn đồng? (NTD).

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Cho Chó Ăn Chè

Ảnh của tuongnangtien

đây là thời chủ nhân ăn mày ăn nhặt
trong khi đầy tớ nhân dân ăn ngập mặt ngập mũi ăn hớt, ăn bẩn, ăn tục, ăn lận, ăn chận, ăn cướp, ăn gian, ăn tham, ăn lường, ăn bịp, ăn suông, ăn ké, ăn chia, ăn sống, ăn lạnh, ăn nóng, ăn theo, ăn chực, ăn vạ, ăn lẻ, ăn si,
ăn tất tần tật
chỉ trừ ăn năn…

Phan Nhiên Hạo

Ba mươi bẩy năm trước, ông Đoàn Văn Toại có ghi lại (đôi dòng) liên quan đến “kế hoạch tịch thu tài sản tư nhân ở miền Nam,” trên báo:

“Sau khi Sài Gòn thất thủ được nhiều ngày, MTDTGPMN thành lập chính quyền Cách mạng Lâm thời, mời tôi gia nhập một uỷ ban tài chính, một nhóm bao gồm các trí thức có nhiệm vụ cố vấn cho chính quyền về các vấn đề kinh tế. Tôi hăng hái tham gia, chấp nhận mức cắt giảm lương đến 90%. Nhiệm vụ đầu tiên của tôi là giúp thảo ra một kế hoạch nhằm tịch thu tất cả các tài sản tư nhân ở miền Nam Việt Nam.

Tôi cảm thấy sốc, tôi đề nghị chỉ nên thi hành điều đó với tài sản những người từng cộng tác với chính quyền cũ và với những người đã làm giàu nhờ chiến tranh, và sẽ phân phối lại theo một cách thức nào đó cho các người nghèo và nạn nhân chiến tranh không phân biệt thuộc phe nào. Đề nghị của tôi bị bác bỏ.” (“A Lament For Vietnam,” New York Times, 29 March 1981. Trans. Felix. dcvonline.net June 30, 2015).

Đoàn Văn Toại, nếu còn sống – chắc chắn – sẽ đỡ “sốc” hơn nhiều, nếu biết rằng Nhà Nước Cách Mạng (thực sự) chả cần gì đến việc “soạn thảo ra một kế hoạch nhằm tịch thu tất cả các tài sản tư nhân ở miền Nam Việt Nam” của bất cứ ai. Họ đã thực hiện được điều này, một cách hết sức dễ dàng và bài bản, ngay khi mới vừa “giải phóng” được nửa phần đất nước:

 “Năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho tiến hành ‘cải tạo xã hội chủ nghĩa’ trên toàn miền Bắc, các nhà tư sản Việt Nam buộc phải giao nhà máy, cơ sở kinh doanh cho Nhà nước… Trong thời kỳ khôi phục kinh tế, 1955-1957, nền kinh tế miền Bắc phát triển ngoạn mục, chủ yếu nhờ vào lực lượng tư nhân: Công nghiệp tư bản tư doanh tăng 230%; cá thể, tiểu chủ, tăng 220,2%. Tư bản tư doanh và tiểu chủ, cá thể tạo ra một lượng sản phẩm chiếm 73,7% tổng giá trị công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp ở miền Bắc.

Nhưng ‘Công cuộc cải tạo công thương nghiệp tư doanh’ bắt đầu ở miền Bắc vào tháng 9-1957 đã gần như triệt tiêu hoàn toàn kinh tế tư bản tư nhân, tiểu chủ và cá thể bằng cách tước đoạt dưới các hình thức ‘tập thể hoá’ hoặc buộc các nhà tư sản phải đưa cơ sở kinh doanh của họ cho Nhà nước với cái gọi là công tư hợp doanh.

Chỉ hai năm sau cải tạo công thương nghiệp tư doanh, ở miền Bắc, tài sản của các nhà tư sản teo dần trong khi lực lượng quốc doanh bắt đầu chiếm tỉ trọng cao trong nền kinh tế. Văn kiện Đảng ghi ngắn gọn: ‘Đến cuối năm 1960, 100% hộ tư sản công nghiệp và 97,2% hộ tư sản thương nghiệp được cải tạo.’ Con số đó đủ để nói lên chính sách đối với tư nhân của chế độ miền Bắc.” (Huy Đức. Bên Thắng Cuộc, tập II. OsinBook, Westminster, CA: 2013).

Theo gương Chủ Tịch Hồ Chí Minh, và học tập từ kinh nghiệm của Người, Bác Đỗ Mười đã chỉ huy những trận đánh tư sản ở miền Nam rầm rộ và khí thế hơn nhiều:

  • “Tối 10-9-1975, ‘tin chiến thắng’ liên tục được báo về ‘Đại bản doanh’ của Trung ương Cục đóng tại Dinh Độc Lập… Các đoàn đưa ra những con số chi tiết: hàng chục triệu tiền mặt, hàng chục ký vàng, cả ‘kho’ kim cương, hàng vạn mét vải và cả một cơ sở chăn nuôi gồm ‘7.000 con gà, thu hoạch 4.000 trứng mỗi ngày’ ở Thủ Đức…” (Sđd, tập I, trang 71).
  • “Những gì mà Cách mạng lấy được của ‘nhà giàu’ trên toàn miền Nam được liệt kê: ‘Về tiền mặt ta thu được 918,4 triệu đồng tiền miền Nam; 134.578 Mỹ Kim [trong đó có 55.370 USD gửi ở ngân hàng]; 61.121 đồng tiền miền Bắc; 1.200 đồng phrăng (tiền Pháp)…; vàng: 7.691 lượng; hạt xoàn: 4.040 hột; kim cương: 40 hột; cẩm thạch: 97 hột; nữ trang: 167 thứ; đồng hồ các loại: 701 cái. Trong các kho tàng ta thu được: 60 nghìn tấn phân; 8.000 tấn hoá chất; 3 triệu mét vải; 229 tấn nhôm; 2.500 tấn sắt vụn; 1.295 cặp vỏ ruột xe; 27.460 bao xi măng; 644 ô tô; 2 cao ốc; 96.604 chai rượu; 13.500 ký trà; 1000 máy cole; 20 tấn bánh qui; 24 tấn bơ; 2.000 kiếng đeo mắt; 457 căn nhà phố; 4 trại gà khoảng 30.000 con và một trại gà giá 800 triệu; 4.150 con heo; 10 con bò, 1.475.000 USD thiết bị tiêu dùng; 19 công ty; 6 kho; 65 xí nghiệp sản xuất; 4 rạp hát; 1 đồn điền cà phê, nho, táo rộng 170 hecta ở Đà Lạt’ (Sđd, tập I, trang 80 -81).
  • “Tại Sài Gòn, 28.787 hộ tư sản bị cải tạo, phần lớn bị ‘đánh’ ngay trong bốn ngày đầu với 6.129 hộ ‘tư sản thương nghiệp’, 13.923 hộ ‘trung thương’. Những tháng sau đó có thêm 835 ‘con phe’, 3.300 ‘tiểu thương ba ngành hàng’, 4.600 ‘tiểu thương và trung thương chợ trời’ bị truy quét tiếp. Theo ông Huỳnh Bửu Sơn, người trông coi kho vàng của Ngân hàng, trong đợt đánh tư sản này, Cách mạng thu thêm khoảng hơn năm tấn vàng, chưa kể hạt xoàn và các loại đá quý. Có những gia đình tư sản giấu vàng không kỹ, lực lượng cải tạo tìm được, khui ra, vàng chất đầy trên chiếu.” (Sđd, tập I, trang 90).

Những “chiến tích” cùng “chiến lợi phẩm” kể trên – dường như – đã không được ghi vào chiến sử, và có lẽ đã hoàn toàn phai nhạt với thời gian khiến thế hệ của các đồng chí hiện đang lãnh đạo đất nước hôm nay hơi bị lúng túng. Họ “không biết” làm sao để thu hồi những khối tài sản khổng lồ đã bị thất thoát do tham nhũng – từ nhiều năm qua – theo như ghi nhận xét của phóng viên Thế Kha, trên tờ Dân Trí:

“Trong vụ án xảy ra tại Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam Vinashin, cơ quan thi hành án dân sự vừa ra quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án số tiền hơn 1.000 tỷ đồng vì xác nhận người phải thi hành án không còn điều kiện thi hành án (?!).”

Cũng trên diễn đàn Dân Trí, nhà báo Bùi Hoàng Tám viết thêm:

“Cứ nghĩ tham nhũng nó chỉ như kiểu bà đi chợ, mua 10 đồng nói 11 hay 12 đồng. Nhưng không. Bọn chúng mua một đồng nhưng khai lên 3 – 4 đồng thậm chí 5-6 đồng. Ví dụ như cái ụ nổi của Dương Chí Dũng, giá mua chỉ có 2triệu USD nhưng được khai khống lên đến 9 triệu USD (cao hơn khoảng 150 tỉ VND). Một  trạm biến áp tại Quy Nhơn nhà thầu trúng thầu với giá 30 tỉ đồng, khi đấu giá lại, số tiền cuối cùng chỉ là 7 tỉ, chênh lệch tới 23 tỉ đồng.

Và một chuyện cũng không mới, đó là hơn 1.000 tỉ đồng trong vụ Vinashin gần như chắc chắn mất tiêu.

Cách đây ít hôm, trên BLOG Dân trí, Nhà báo Lê Chân Nhân đã nói một ý rất hay. Đó là chống tham nhũng mà không thu hồi được tài sản tức là thất bại…”

Cú “thất bại” nhỏ nhoi này hẳn phải khiến nhiều người lấy làm ái ngại, và thất vọng về khả năng của Chính Quyền Cách Mạng hiện hành. Sao Nhà Nước ta đã thành công vượt bực, và vượt chỉ tiêu, trong những trận đánh tư sản long trời lở đất (khiến cho vô số người dân tán gia bại sản) mà lại thất bại trong việc thu hồi tài sản của quốc gia từ những … con sâu vậy cà?

Câu hỏi này đã được nhà báo Ngô Nhân Dụng  giải thích như sau:

“Ông Cầm Ngọc Minh, chủ tịch tỉnh Sơn La nói về con số 1,400 tỷ đồng mới bảo rằng ‘Không nên đặt vấn đề đắt rẻ.’ Ông lại còn than thở, ‘Chưa có tượng đài là thiệt thòi cho chúng tôi.’

Thiệt thòi trước mắt là mất cơ hội rút ruột. Ở Việt Nam người ta biết từ 30% đến 45% chi phí khi thực hiện các dự án được bỏ vào túi các viên chức. Không xây dựng tượng là mất toi 30 triệu đô la. Thiệt thòi! Thiệt thòi cho chúng tôi quá!

Cho nên không riêng tỉnh Sơn La, trên toàn quốc còn có 58 dự án xây dựng tượng đài, trong 14 năm nữa! Cứ mỗi vụ rút ruột được 30 triệu đô la, tổng số sẽ lên tới 1,740,000, 000 đô la!

Ðọc con số hơn tỷ rưỡi đô la này, thấy lớn. Nhưng thực ra cũng ‘chưa lớn’ bởi vì phải chia cho rất nhiều quan chức, chia rải ra đến 14 năm trường. Chúng ta sẽ không thấy nó lớn, khi so sánh với những vụ tiền chạy đi mất tích ở cấp cao hơn.

Một vụ Vinashin thôi, chỉ trong mấy năm đã thấy bốn tỷ đô la tiền nợ nước ngoài bay đi đâu mất để đến nỗi hết tiền trả nợ! Vì vậy, khi cả nước kêu lên về dự án phung phí 70 triệu đô la, bộ máy đảng và nhà nước ở trên cùng cũng không dám ngăn lại! Các anh đã nuốt mấy tỷ đô la ngon lành, đến lượt lũ chúng tôi chỉ ăn có bạc triệu anh lại dám ngăn cản à? Ðến đại hội đảng anh có cần phiếu của lũ chúng tôi không? Thế là im thin thít!”

Kiểu “lý giải” thượng dẫn của nhà báo Ngô Nhân Dụng khiến tôi nhớ đến chuyện quanh bàn nhậu. Khi các bợm nhậu ăn uống vô độ (“vzô vzô” liên tục) thì bao tử – với dung tích giới hạn – sẽ bị nhồi đầy quá nhiều và quá nhanh khiến cho cơ thể bị nhộn nhạo, bất an.

Cách duy nhất để chấm dứt tình trạng khó chịu này là tự “móc họng” cho “chó ăn chè.” Số lượng bia rượu và thực phẩm nôn oẹ sẽ làm vơi bao tử, quân bằng lại sức chứa của nó, giúp cơ thể nhẹ nhõm, để có thể … nhậu tiếp! Móc họng để cho chó ăn chè là một thủ thuật quen thuộc và hiệu quả giúp cho nhiều người sống còn trên bàn nhậu.

Trên bàn tiệc của đất nước Việt Nam hiện nay không thiếu gì món hấp dẫn khiến nhiều vị lãnh đạo Đảng và Nhà Nước trở nên … tối mắt (và nuốt quá nhiều) nhưng chi ra hơi ít nên bị quẳng vô lò một mớ. Khác với nhiều người lầm tưởng, cái lò tôn của đồng chí TBT không nhằm thiêu đốt những đồng chí cùng chí hướng cách mạng mà chỉ nhằm tiêu diệt những kẻ khác phe hay không (hoặc chưa biết) cho chó ăn chè thôi.

TRƯỚC ĐÂY ĐỨC CHỈ BIẾT ĐẾN VN BẮT CÓC TXT ĐƯA QUA SLOVAKIA, NHƯNG PHẦN SAU ĐỨC CHƯA NẮM RỎ.

Nhan Nguyen shared a post.

 

 
 
Image may contain: 2 people, text

LE Giac Đau is with Nhan Nguyen and 71 others.

TRƯỚC ĐÂY ĐỨC CHỈ BIẾT ĐẾN VN BẮT CÓC TXT ĐƯA QUA SLOVAKIA, NHƯNG PHẦN SAU ĐỨC CHƯA NẮM RỎ.

Bây giờ nhờ sự hợp tác chặt chẻ của Tân Thủ Tướng Slovakia Peter Pellegrini nên Đức và Slovakia đã nắm chắc VN bắt cóc TXT và đưa về Hà Nội cách nào. Đồng thời cũng phăng dần ĐẦU MỐI MỘT LIÊN MINH MA QUỶ GIỮA TÔ LÂM VÀ ROBERT KALINAK cựu Bộ Trưởng Nội Vụ Slovakia người đã cho Tô Lâm mượn phi cơ

ĐIỀU GÌ ĐÃ XẢY RA Ở SLOVAKIA? TRỊNH XUÂN THANH ĐƯỢC ĐƯA VỀ HÀ NỘI BẰNG CÁCH NÀO?

Trong Bài tường thuật trên tờ Der Spiegel (Tấm gương), tạp chí đứng đầu nước Đức, ra ngày 02/05/2018, đã có một số chi tiết mới mà trước đây các nhà điều tra Đức chưa từng hé lộ.

Chính xác kẻ bị bắt cóc đã được đưa về Hà Nội bằng cách nào, đến nay các nhà điều tra Đức vẫn chưa làm rõ được. NHỮNG THÔNG TIN MỚI TỪ BRATISLAVA GIỜ ĐÂY CÓ THỂ GIÚP HỌ, GẦN ĐÂY NHẤT BỘ NGOẠI GIAO ĐỨC ĐÃ MỜI ĐẠI SỨ SLOVAKIA ĐẾN NÓI CHUYỆN VỀ VẤN ĐỀ NÀY.

Sau khi nghỉ qua đêm ở thành phố Brno tại Cộng hòa Séc, vào ngày 26/07/2017, chiếc xe Mercedes Vito màu xanh đen mang biển số 4SF-5888 được nghi phạm mật vụ Nguyễn Hải Long và ông cậu Đào Quốc Oai thuê một ngày trước đó tại văn phòng dịch vụ thuê mướn xe của Bùi Hiếu tại chợ Sapa ở Praha, đã chạy đến Bratislava thủ đô Slovakia và đậu xe trong khoảng thời gian 1 giờ và 40 phút trong bãi đậu xe của khách sạn Bôrik, là khách sạn của chính phủ – theo dữ liệu của hệ thống định vị GPS trang bị trong chiếc xe này mà các nhà điều tra thu thập được.

Trong ngày đó (26/07/2017) đang diễn một gặp gỡ chính thức giữa các quan chức an ninh cao cấp của Việt Nam và Slovakia trong khoảng thời gian từ 11 sáng đến 17 giờ chiều. Ngoài Bộ trưởng Bộ Nội vụ kiêm phó thủ tướng Robert Kalinak và ba cộng sự thì phía Việt Nam có Thượng tượng Tô Lâm, Bộ trưởng Bộ Công an Việt Nam dẫn đầu một phái đoàn Công an cao cấp gồm mười một người tham dự.

NHỮNG ĐIỀU ĐÃ KHIẾN CHO CUỘC GẶP GỠ BỊ NGHI NGỜ:
• Trong số những người trong phái đoàn tham dự cũng có sự góp mặt của ĐƯỜNG MINH HƯNG, một tướng hai sao và là Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh, và VŨ QUANG DŨNG, cũng là một quan chức tình báo. CẢ HAI NGƯỜI NÀY đều bị Tổng công tố viên từ Karlsruhe cáo buộc là ĐÃ THAM GIA VỤ BẮT CÓC CỦA TRỊNH XUÂN THANH.
• 
• Tướng Hưng đã rời Berlin đến Praha vào ngày mà vụ bắt cóc diễn ra và sáng hôm sau đã bay về Hà Nội qua ngả Moscow, về đến Hà nội ông ta lại lập tức bay trở lại châu Âu để tham dự cuộc họp nói trên tại Bratislava. 
• 
• Không tham dự cuộc họp, nhưng nghi phạm mật vụ NGUYỄN HẢI LONG và ông cậu ĐÀO QUỐC OAI cũng có mặt tại khách sạn Bôrik.
• 
• Như vậy có ít nhất 4 NGHI CAN THAM GIA VỤ BẮT CÓC CỦA TRỊNH XUÂN THANH ĐÃ CÓ MẶT TẠI KHÁCH SẠN BÔRIK: 2 người không tham dự cuộc họp và 2 người có tham dự cuộc họp, trong đó nhân vật mới lạ nhất là Vũ Quang Dũng.
• 
• Theo nguồn tin riêng mà Thoibao.de nhận được, Vũ Quang Dũng là một sĩ quan tình báo bay từ Việt Nam sang Berlin và là một trong 2 trợ lý đắc lực (cánh tay trái và cánh tay mặt) của Trung tướng Đường Minh Hưng trong vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh.
• 
• Các nhà điều tra Đức có cả hình ảnh gương mặt của Vũ Quang Dũng qua máy camera thu hình của khách sạn. VŨ QUANG DŨNG CŨNG LÀ NGƯỜI ĐÍCH THÂN THAM GIA TRỰC TIẾP TRONG GIÂY PHÚT BẮT CÓC TRỊNH XUÂN THANH VÀ ĐỖ THỊ MINH PHƯƠNG.
• 
• Sĩ quan tình báo Vũ Quang Dũng thời gian ngắn trước đây ĐÃ TỪNG SANG BERLIN TẬP HUẤN NGHIỆP VỤ DO CHÍNH PHỦ ĐỨC TÀI TRỢ, NAY QUAY LẠI ĐỨC ĐỂ GÂY ÁN.
Sau cuộc gặp gỡ với các nhân viên an ninh của Slovakia, phái đoàn Việt Nam đã bay đi Moscow bằng một chiếc chuyên cơ của chính phủ Slovakia. Nguyễn Hải Long đã trả lại chiếc xe Mercedes thuê ngay vào buổi tối hôm đó ở Praha. Đó có phải là chiếc xe đã được sử dụng để đưa Trịnh Xuân Thanh từ Praha đến Bratislava?

Hiện nay, tại thủ đô Bratislava đang lan truyền nhiều tin đồn về mức độ tham gia của Slovakia trong vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh. Những tin đồn này rộ đến mức độ có cáo buộc cho rằng CÁC CHÍNH TRỊ GIA SLOVAKIA ĐÃ ĐƯỢC NHẬN TIỀN HỐI LỘ CHO SỰ HỢP TÁC CỦA HỌ. Nếu nạn nhân bị bắt cóc vào ngày 26 tháng 7 năm 2017 quả thật đã có mặt ở trên chiếc chuyên cơ của chính phủ Slovakia, thì ít nhất một điều khó có thể xảy ra rằng chính quyền Slovakia đã không biết hoặc ít nhất là đã không nghi ngờ gì cả.

Điều đó không chỉ vì quy trình kiểm soát an ninh chặt chẽ tại sân bay, mà còn là MỘT PHÁI ĐOÀN NƯỚC NGOÀI ĐƯỢC CUNG CẤP HẲN MỘT CHUYÊN CƠ CỦA CHÍNH PHỦ. Cũng không có nước nào trong các nước thuộc khối EU lại có những mối quan hệ chính trị và kinh tế gần gũi với Việt Nam như Slovakia.

MỘT SỐ THÀNH VIÊN CHÍNH PHỦ CŨ CỦA SLOVAKIA CÓ MỐI LIÊN HỆ VỚI MAFIA

Tờ Der Spiegel, một tuần báo Đức có uy tín quốc tế, cũng đưa tin rằng một số thành viên chính phủ cũ của Slovakia có mối liên hệ với mafia. Hơn một năm về trước THỦ TƯỚNG SLOVAKIA KHI ĐÓ LÀ ROBERT FICO -hiện đã từ chức- là khách mời của bà thủ tướng Đức Merkel, phía Slovakia vẫn kiên quyết để trợ lý riêng của thủ tướng Fico là bà MÁRIA TROSKOVÁ cùng tham gia một tiệc chiêu đãi tối của Thủ tướng Đức, mặc dù trước đó phía Đức đã đặc biệt yêu cầu Slovakia nên loại bỏ tên bà ta ra khỏi danh sách những người tham gia bữa tiệc chiêu đãi này.

Với vai trò là trợ lý của thủ tướng Fico, Troskava là đối tác kinh doanh của Antonino Vadala, một doanh nhân người Ý và là người bị cáo buộc là thành viên của tổ chức Mafia N’Drangheta -đây là tổ chức tội phạm được coi là một trong những nghi phạm chính trong vụ SÁT HẠI NHÀ BÁO SLOVAK JÁN KUCIAK VÀ MARTINA KUŠNÍROVÁ, vị hôn thê của ông ta- hiện đang ngồi trong tù ở Slovakia chờ dẫn độ về Ý. Một bản mô tả công việc cụ thể của Trosková làm việc cho Fico chưa bao giờ có, cô ta trong thực tế gần như là TÌNH NHÂN CỦA THỦ TƯỚNG FICO.

Một thành viên khác của chính phủ Slovakia cũng có mối liên hệ đến Mafia: VILIAM JASAN, thư ký hội đồng An ninh Quốc gia của Chính phủ, người hiện giờ cũng đã từ chức. Jasan cũng là một đối tác kinh doanh của Vadala. Nhà báo điều tra Ján Kuciak đã điều tra ra được mối liên hệ này – cho đến khi ông ta bị giết chết cùng với vị hôn thê của mình trong ngôi nhà chung trong một ngôi làng gần Bratislava vào cuối tháng hai vừa qua.

Tân Thủ tướng Slovakia, ông Peter Pellegrini cũng là một Bộ trưởng trong chính phủ cũ trước đây và được cho là người thân tín của cựu Thủ tướng Robert Fico mới từ chức vào giữa tháng 3 vừa qua.

BỘ TRƯỞNG NỘI VỤ SLOVAKIA, ROBERT KALINAK, NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU PHÍA SLOVAKIA TRONG CUỘC HỌP VỚI BỘ TRƯỞNG TÔ LÂM NÓI TRÊN VÀ LÀ NGƯỜI QUYẾT ĐỊNH CHO VIỆT NAM MƯỢN CHUYÊN CƠ, CŨNG ĐÃ TỪ CHỨC VÀO NGÀY 12/03/2018.

Hôm 02/05/2018 trả lời các phóng viên trên chuyến bay đến Đức để hội đàm với bà Thủ tướng Đức Angela Merkel, ông Peter Pellegrini Thủ tướng Slovakia đã phủ nhận chính phủ nước này đã giúp Việt Nam trong vụ bắt cóc và không có bằng chứng cho thấy ông Thanh có mặt trên máy bay. “Lời giải thích khả dĩ duy nhất có thể là Việt Nam đã lợi dụng sự hiếu khách của Slovakia, nhưng không có gì cho thấy chuyện đó đã xảy ra”, ông Pellegrini nói
.
Tờ Nhật báo độc lập “DenníkN” của Slovakia ghi nhận những vụ tai tiếng này cùng với những tiết lộ trong vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh mới đây đã tạo nên một hình ảnh thảm họa của chính sách của chính phủ Slovakia. “HOẶC LÀ CHÚNG TA LÀ MỘT BĂNG ĐẢNG CỦA NHỮNG KẺ ĐỔ ĐỐN”, tờ báo viết, „HOẶC THẬM CHÍ LÀ ĐỒNG PHẠM CỦA TỘI PHẠM QUỐC TẾ”.

Trích lược tin từ Thời Báo DE

Việt Nam đất nước thật sạch

 
 
Lai Hon Su shared a post.
 
 
Image may contain: outdoor
No automatic alt text available.
Image may contain: one or more people and food
No automatic alt text available.

Hong Thai HoangFollow

Việt Nam đất nước thật sạch.. Sạch đến lạ kỳ, sạch 1 cách đặc biệt và sạch đến đau đớn..

Tôi đã đi qua 5 nước: Trung Quốc, Thái Lan, Campuchia, Malaysia, Úc.. nhưng chưa hề thấy ở 1 đất nước nào có những thứ như ở Việt Nam.

– Cửa hàng rau sạch. 
– Cafe sạch nguyên chất 100%
– Thịt sạch không thuốc 
– Tiêu sạch, trái cây sạch…
– Sữa sạch 

Những biển quảng cáo tưởng như bình thường mà bên trong đó là 1 sự đáng thương đến khốn nạn cho chính người dân Việt Nam .

Ở đâu mà phải có sự cam kết đến thề sống thề chết vậy không? Ở đâu mà cái sạch không phải chuyện đương nhiên mà là chuyện đặc biệt? Ở đâu mà cái sự giả dối, dối trá nó lại là chuyện quá đỗi bình thường như Việt Nam ?

Xứ họ bán 1 sản phẩm là họ quảng cáo về “ ngon “ hay “ đẹp “ còn nước mình phải đảm bảo đó là hàng thật mới bán nổi hàng.. Dường như người ta quen, quen như máu thịt ruột già vậy, quen rằng chả có gì thật ở Việt Nam. Họ nghi ngờ tất cả, nghi ngờ mọi thứ nhưng họ lại không hề sợ hãi? Không hề phản kháng và thậm chí lại không muốn thay đổi? Kỳ lạ đến khôn tưởng một đất nước mà thấy ai cũng có thể nói: TÔI TỰ HÀO LÀ NGƯỜI VIỆT NAM nhưng không thể kể ra thứ để có thể tự hào?

Ở nước họ, làm gì có cái chuyện có những biển hiệu quảng cáo “ Sạch “, “ 100% hàng thật “ . Bởi đó là đương nhiên, là quyền họ phải được dùng đồ thật.. Ngon đẹp lại là tuỳ sở thích nhưng chắc chắn nó là thật.. Còn 1 đất nước hàng mấy ngàn năm văn hiến đến cái thời công nghệ 4.0 này vẫn quanh quẩn: “ Chúng tôi bán đồ thật, chúng tôi lấy uy tín ra đảm bảo”..

Bất hạnh cho một dân tộc mà luôn phải giăng treo khẩu hiệu từ nông thôn đến thành thị, từ đồng bằng lên miền núi: CÔNG BẰNG DÂN CHỦ VĂN MINH thì dân mới biết đến những điều đó.. Phải hô hào “ ĐẤT NƯỚC CỦA DÂN DO DÂN VÀ VÌ DÂN thì dân mới nhận thức chính mình là chủ đất nước..

Đất nước nào mà ra đường là thấy khẩu hiệu quảng cáo đất nước tôi có văn minh, có công bằng như quảng cáo rau “ Sạch “ như vậy?

Thói đời, kẻ có tiền có tài thực thì họ chả khoe bộ quần áo, chả khoe cái xe mà họ sống thong dong với cái vì đầy tiền. Kẻ ít tiền thì phải bầy cái này cái kia ra để chứng minh ta có của.. Đất nước càng nghèo thì khẩu hiệu càng lắm, càng lạc hậu thì cành hô hào văn minh và bẩn đến mức phải đưa khẩu hiệu sạch trong từng mớ rau, hộp sữa.

Mở mắt mở tai mở cả trái tim ra đi, tự hào gì khi không có nổi 1 cái gì an toàn trong cái đất nước này. Thực phẩm, môi trường, y tế, giáo dục, giao thông, an ninh.. , có cái gì mà bạn không phải lo lắng hay sợ hãi? Có cái gì để tự hào khi cái bẩn là bình thường còn cái sạch là đặc biệt?

Một đất nước làm ra cái gì cũng bẩn, cũng không an toàn nhưng lại hô rõ to: TÔI TỰ HÀO VỀ VIỆT NAM..

Ôi dân tôi ơi..

Lương tâm một người đáng giá bao nhiêu?

 

Lương tâm một người đáng giá bao nhiêu?

Lương tâm một người liệu có thể đo được bằng tiền?

Hà Tam là lái xe chở hàng hóa. Hôm nay, xe đang bon bon chạy trên đường bỗng nhiên “khực” một cái rồi dừng lại. “Xe hỏng rồi!”. Anh xuống xe, đến bên vệ đường vác hai hòn đá to chặn bánh sau lại, rồi chui vào gầm sửa xe. Khoảng hơn 2 tiếng đồng hồ thì xong. Anh lên xe nổ máy chuẩn bị đi tiếp.

Đúng lúc đó có một ông lão chăn bò bên cạnh đường chạy đến đập đập tay vào cửa xe, nói rất to: “Này anh lái xe, anh đánh rơi đồ kìa!”. Ông lão vừa nói vừa chỉ chỉ về phía sau xe. Hà Tam đoán ông lão nhắc đến hai hòn đá chặn bánh sau xe mà mình vác ra lúc nãy. Anh toét miệng cười, nói do vội đi nên quên mất. Nói vậy song anh vẫn cố ý nhấn ga cho xe chạy.

Ông lão vừa đuổi theo vừa quát to: “Anh làm người như thế à? Làm người phải có lương tâm chứ? Anh bỏ hai hòn đá to ở trên đường để cho người ta…”

Những lời trách cứ của ông lão chăn bò bị bỏ lại cùng đám bụi phía sau xe. Hà Tam cười thầm trong bụng: “Lương tâm giá bao nhiêu tiền một cân?”

Chạy hơn trăm cây số vào thành phố, đến trạm kiểm tra của cảnh sát, Hà Tam hết sờ túi này lại nắn túi nọ, tìm mãi không thấy giấy phép lái xe đâu. Anh thừ người ra: “Giấy phép lái xe rõ ràng là để trong chiếc ví da lúc nào cũng mang trong người, vậy sao lại tìm không thấy?”. Cẩn thận nhớ lại, anh mới chắc là chiếc ví da đã bị rơi khi mình chui vào gầm xe sửa chữa. Đành phải để xe lại trạm cảnh sát, Hà Tam vội vã vẫy taxi quay lại chỗ sửa xe ban nãy.

Khi quay lại, Hà Tam tìm khắp nơi không thấy cái ví cũng không thấy ông lão chăn bò đâu. Hai hòn đá chặn bánh xe đã được ai đó khuân vào để bên vệ đường. Trên hòn đá thấy dán mảnh giấy có mấy chữ xiêu xiêu vẹo vẹo: “Muốn lấy lại giấy tờ thì phải vác hòn đá này lên trên đồi”.

Ôi trời ơi! Hòn đá vừa to vừa nặng, ngọn đồi trước mặt lại vừa cao vừa dốc, vác hòn đá này liệu có bò lên được trên đó không? Hà Tam kêu to lên: “Đừng bắt ép người ta như thế! Cần bao nhiêu tiền cứ ra giá đi!”.

Khi Hà Tam vác hòn đá đến chân đồi thì thấy một cái mũ lá có kẹp một tờ giấy viết mấy chữ: “Đừng nói đến tiền, xin mời lên đồi”. Hà Tam tiếp tục đi, được một đoạn lại thấy cái mũ lá cũng có tờ giấy yêu cầu Hà Tam cứ vác đá lên đồi, các chuyện khác miễn bàn. Không còn cách nào khác, Hà Tam đành phải bê hòn đá vất vả từng bước bò lên.

Lên được đỉnh đồi thật không dễ gì. Vậy mà trên đó không thấy có người cũng không thấy giấy tờ lái xe, chỉ thấy có tờ giấy dán trên một thân cây yêu cầu Hà Tam vác hòn đá theo hướng chỉ dẫn đi xuống phía dưới.

Xuống được dưới chân đồi vẫn không thấy giấy tờ, ngoài một tờ giấy yêu cầu Hà Tam vác hòn đá đi ngược trở lên. Cứ như thế theo hướng chỉ dẫn trên các tờ giấy, Hà Tam vác hòn đá đi qua mấy quả đồi nhỏ, mệt tưởng chết, cuối cùng mới thấy cái ví da của mình đặt trên một nấm mồ đất trơ trọi.

Giấy tờ đủ cả, tiền bạc không thiếu một xu.

Dưới cái ví tiền còn có một tờ giấy viết:

“Cái ví này là do tôi nhặt được, bây giờ nó đã trở về với chủ của nó. Anh có biết vì sao tôi lại bắt anh vác hòn đá đi một quãng đường xa đến trước nấm mồ này không? Đây là mộ của con trai tôi. Vào một đêm 2 năm trước, nó đi xe máy về nhà, vấp phải hòn đá to của một kẻ nào đó không có lương tâm bỏ ở trên đường, bị ngã mà chết. Tôi đưa anh đến tận mồ của con trai tôi là mong anh hiểu rõ một đạo lý:

“Lương tâm là vô giá, làm người có thể để mất cái gì thì mất nhưng nhất thiết không được để mất lương tâm”.

(Sưu tầm)

Image may contain: flower and nature

AI BIỂU NGƯỜI GÌA KHÔNG CẦN CÓ CẶP, CÓ ĐÔI???

 
 

AI BIỂU NGƯỜI GÌA KHÔNG CẦN CÓ CẶP, CÓ ĐÔI???

Mấy ai trong đời có được một mối tình “trọn kiếp nhân gian” như cặp vợ chồng trong câu chuyện này…

Người ta nói đời người có hai lần làm trẻ con, những tháng năm cuối đời, ông nội tôi đúng là đã trải qua tuổi ấu thơ một lần nữa.

Người già luôn khao khát tình yêu thương của gia đình, niềm vui sum vầy bên con cháu và sớm hôm bên người bạn đời của mình; nhưng khi cuộc sống vật chất dư dả, nhận được sự yêu thương, chăm sóc chu đáo, thì họ lại có xu hướng ghen tỵ với chính “nửa kia”.

Họ ích kỷ như một đứa trẻ, không muốn chia sẻ sự quan tâm của gia đình với đối phương, như ông nội tôi thường ghen tỵ với bà nội. Có lần bác cả từ Hà Nội gửi vào cho bà chai thuốc bóp chân vì bà thường đau nhức xương khớp khi trời trở lạnh.

Không có phần, thế là ông cũng giả vờ đau nhức để được… dùng ké thuốc. Chuyện bị lộ khi vài món khoái khẩu của ông bị loại ra khỏi thực đơn hàng ngày theo chế độ kiêng khem của bệnh khớp. Vì thế, ông khai thật: “Bố không bị đau nhức ở đâu hết, chỉ muốn dùng thử thuốc của mẹ xem sao thôi”.

Đây không phải là lần đầu ông “so bì” với bà nên cả nhà không mấy ngạc nhiên. Sau nhiều lần, mọi người thống nhất, dù là đồ ăn hay đồ dùng thì luôn phải chia đều cho cả hai cụ.

Từ khi bà trở bệnh, ông thay đổi hẳn, rất quan tâm tới bà. Sức khỏe bà yếu nhanh trong vòng chỉ một năm, bà không còn khả năng đi lại, mọi sinh hoạt cá nhân đều phụ thuộc vào người khác.

Ông cũng giúp đỡ mọi người một tay để chăm sóc bà. Những hôm không có ai ở nhà, ông sang phòng trò chuyện với bà cho vui, khi thì lấy ly nước, khi lại ngồi lau tay, xoa lưng cho bà.

Rồi ông bỏ dần thói quen ăn sáng ngoài tiệm, ở nhà ăn, dù không phải món ông thích ông vẫn thấy vui, miễn là được cùng ăn với bà. Hôm nào ăn bên ngoài, ông không quên dặn chủ quán: “Làm cho bà nhà tôi một phần thiệt ngon nghe!”.

Ông có thói quen đọc báo mỗi sáng, vì dù tuổi cao nhưng mắt ông vẫn còn rất sáng. Bà nằm trên giường mà vẫn cập nhật được thời sự là nhờ có ông đọc báo cho bà nghe. Nhiều lúc ông làm bà bật cười vì ông thích so sánh mình với các nhân vật nổi tiếng.

Ông hay vuốt chòm râu trắng, dài đến ngang cổ, tự khoe mình có bộ râu như… ông tiên, hay đoan chắc làn da của mình cũng căng mịn không thua gì… ông bụt. Ông tự hào mình không giỏi việc nước thì cũng đảm việc nhà. Nuôi tám đứa con thành tài như bây giờ cũng đáng khen lắm chứ!

Bởi vậy, xã mới cấp cho giấy chứng nhận “Ông bà mẫu mực, con cháu thảo hiền”. Nghe ông tếu táo, tinh thần bà cũng thoải mái hơn.

Nhiều hôm con cái đi làm về muộn giờ cơm trưa, ông ở nhà tự lấy cơm đút cho bà ăn. Tay run, ông đút không được gọn lắm, cơm vương vãi ra bàn. Ông thỏ thẻ: “Ngày xưa bà đút cơm cho mấy đứa nhỏ ăn, bà thường dụ tụi nó bằng cái kẹo, quả dưa. Giờ tôi có nước yến, bà muốn uống thì phải ăn hết chén cơm này”.

Toàn bộ sinh hoạt hàng ngày của ông bà được chúng tôi dùng camera ghi hình, cuối tuần con cháu cùng ngồi lại mở ra xem, cả nhà ai cũng xúc động trước sự chăm sóc ân cần của ông dành cho bà.

Bệnh tình ngày càng trở nặng, bà mất khả năng nhận thức, nằm mê man. Hôm đó, ông thức dậy đã nghe con cháu lục đục bên phòng bà, biết sắp có chuyện chẳng lành, ông bảo tất cả mọi người vào niệm Phật cho bà rồi đi ra ngoài để ông ở lại.
Ông nằm xuống bên cạnh, nắm lấy tay bà, hai hàng nước mắt cứ tuôn trào. Ông nhắc lại chuyện ngày xưa, từ lúc ông bà mới cưới nhau cho đến khi sinh các bác và bố.

“Nhớ những ngày loạn lạc, gia đình phải sơ tán trong nạn đói lịch sử năm 1945, những khó khăn, buồn tủi khi mới chân ướt, chân ráo vào miền Nam làm kinh tế mới. Trải qua nhiều khúc quanh của cuộc sống, tôi và bà đã nuôi dạy các con thành người, chúng ta may mắn vẫn được nắm tay nhau đi đến giờ phút này”.

Ông xúc động, nói: “100 tuổi viên mãn một đời người rồi, bà ra đi nhẹ nhàng và thanh thản, phù hộ cho tôi sớm được đoàn tụ với bà nơi chín suối. Có đôi có cặp suốt gần 80 năm qua, giờ bà đi rồi tôi cũng muốn đi theo để bà không cảm thấy cô đơn một mình nơi ấy”.

Hôm đó, ông khóc rất nhiều. Đến khi bà trút hơi thở cuối cùng, ông cũng kiệt sức, gục xuống cạnh bà. Những ngày tang lễ, ông bỏ ăn, ngồi hàng giờ tụng kinh, thi thoảng lại gần để nhìn bà qua tấm kính…

Nỗi đau quá lớn khiến sức khỏe và tinh thần ông suy sụp nhanh chóng. Dù cả nhà dồn sức lo lắng, chăm sóc nhưng ông cũng mất không lâu sau đó.

Người ra đi luôn để lại trong lòng người ở lại một nỗi buồn khắc khoải, nhất là với tuổi già, sự cô đơn và trống vắng luôn thường trực. Ai bảo tuổi già không cần có đôi?

Image may contain: 3 people, people smiling, people sitting, table and indoor
Image may contain: 2 people, people sitting
 

Sức khỏe tâm lý gia đình – điều phụ huynh Việt cần quan tâm

Sức khỏe tâm lý gia đình – điều phụ huynh Việt cần quan tâm

Nhiều phụ huynh và thanh thiếu niên đến dự hội thảo an toàn gia đình người Việt. (Hình: Thiện Lê/Người Việt

Thiện Lê/Người Việt

HUNTINGTON BEACH, California (NV) – Nhiều phụ huynh và một số thanh thiếu niên đã đến phòng sinh hoạt sinh viên của đại học cộng đồng Golden West College để tham dự hội thảo an toàn gia đình người Việt vào hôm Thứ Bảy, 28 Tháng Tư.

Diễn giả chính của hội thảo là ông Paul Hoàng, một bác sĩ tâm lý ở Westminster, đã mặc bộ trang phục người “homeless” với mục đích thông điệp của ông sẽ được truyền đạt mạnh mẽ hơn. Ông cho biết trẻ em gốc Việt sinh ra và lớn lên ở Mỹ thường hay bị lẫn lộn văn hóa, rồi nhiều khi còn bị đè nén dẫn đến nhiều bệnh tâm lý.

Ông Paul Hoàng trong trang phục người “homeless”, diễn giả chính của hội thảo an toàn gia đình người Việt. (Hình: Thiện Lê/Người Việt)

Ông Paul chia sẻ câu chuyện về cuộc đời mình. Ông cho biết từ lúc ông học lớp 6 cho đến hết trung học, ông từng bị trầm cảm nặng và đã ba lần định tự tử nhưng không thành.

Theo lời ông kể, lần đầu định tự tử, ông biết người chú làm bảo vệ có khẩu súng. Ông lấy súng nhét vào miệng. Nhưng lúc định bóp cò, thì ông nghe có một tiếng kêu ông “dừng lại” khiến ông không dám bóp cò.

Lần thứ hai ông định tự tử nhưng cũng không dám làm, nên ông quyết định mình sẽ không ra tay mà sẽ nhờ người khác giết mình.

Ở lần định tự tử thứ ba, ông kể: “Tôi chạy ra một con đường đông xe vào ban đêm, mặc đồ đen để người ta không thấy rồi nằm ra đường cho xe cán nhưng đợi mãi ba tiếng đồng hồ, không có một chiếc xe nào chạy qua. Đây là một con đường thường có xe chạy nhiều mà không hiểu tại sao không có xe vào đêm đó. Đợi mãi mà tự sát không thành, nên tôi quyết định về nhà ngủ.”

Theo ông, tự sát là một cách chạy trốn, để thoát khỏi những sự khó khăn của cuộc đời. Những người tự sát muốn trách người khác vì sự điên cuồng và “độc hại” của thế giới nên mới tìm cách “giải thoát”. Còn có những người bị bắt nạt, rồi trong lòng mang thù hận, đi giết người khác để trả thù. Giết người để chấm dứt những mối đau thương trong đời.

Câu chuyện của ông Hoàng là mục đích của buổi hội thảo, để cho các gia đình người Việt thấy sự quan trọng của sức khỏe tâm lý. Ông cho rằng mọi người đừng nên gọi các bệnh liên quan đến tâm lý là bệnh tâm thần vì những người bị bệnh này còn được gọi là những người điên. Theo ông, nên gọi bệnh liên quan đến tâm lý của các em là “tâm bệnh” thôi vì đó chỉ là những rối loạn trong tâm lý chứ không phải là bị điên.

Ông khuyên các phụ huynh nên tạo ra một không gian và điều kiện để con cái chia sẻ và trò chuyện với cha mẹ để tránh cảnh các em bị đè nén rồi dẫn đến trầm cảm và nhiều chuyện nguy hiểm hơn.

Bà Suzie Xuyến Đông-Matsuda, một trong những diễn giả của hội thảo. (Hình: Thiện Lê/Người Việt)

Ngoài ông Hoàng ra, cũng có một bác sĩ tâm lý khác phát biểu là bà Suzie Xuyến Đông-Matsuda. Bà cũng cho rằng sức khỏe tâm lý rất quan trọng và 95% những trường hợp các thanh thiếu niên bị “tâm bệnh” hoàn toàn có thể đề phòng và ngăn chặn được. Bà khuyên mọi người nên áp dụng kiến thức nghe được hôm nay vì kiến thức mà không dùng thì không được gì hết. Sau bà Suzie là một số phụ huynh và thanh thiếu niên chia sẻ kinh nghiệm của bản thân. Câu chuyện của ai cũng có mục đích cho biết nếu cha mẹ kỳ vọng và bắt ép con cái quá nhiều thì sẽ rất nguy hiểm vì dẫn đến trầm cảm và nhiều “tâm bệnh” khác.

Theo lời của các diễn giả, phụ huynh và các thanh thiếu niên có mặt tại hội thảo, sức khỏe tâm lý trong gia đình là một vấn đề là mà nhiều người Việt ở Hoa Kỳ cần phải biết và cảnh giác các dấu hiệu “tâm bệnh” của con cái trong gia đình. (Thiện Lê)

Tại sao 43 năm vẫn xa mặt cách lòng?

Tại sao 43 năm vẫn xa mặt cách lòng?

Phạm Trần (Danlambao) – Lần kỷ niệm thứ 43 ngày “30 tháng 4” năm 2018 ở Việt Nam không còn được người dân quan tâm bằng những cuộc vui chơi, tắm biển và giải trí, nhưng hận thù dân tộc lại được phe Tuyên giáo và Quân đội khơi lên gay gắt hơn bao giờ hết.

Ở Trung ương, đảng và nhà nước đã thay việc tổ chức các lễ kỷ niệm hào nhoáng và tốn phí bằng những buổi ca nhạc để phô trương thành tích đã mờ nhạt và phản cảm gọi là “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”. Các buổi lễ ở địa phương cũng chỉ bày ra để cho các viên chức lãnh đạo xếp hàng chụp ảnh để báo cáo nhưng rất ít có dân tham dự.

Trong khi ấy thì hàng triệu người dân đã lợi dụng 4 ngày nghỉ lễ dịp 30-04 và Lao động 01/05 (từ 28/04 – 01/05/2018) để trốn khỏi cảnh sống chật hẹp và oi bức ngộp hơi ở thành phố đến những nơi có biển tắm mát và nghỉ ngơi thoải mái.

Tuy nhiên, có nhiều người ra đi mà không bao giờ trở lại. Theo báo cáo của Bộ Công an thì: “Trong bốn ngày nghỉ lễ, từ 28-4 đến 1-5, cả nước xảy ra 113 vụ tai nạn giao thông, làm chết 79 người, bị thương 79 người. Riêng ngày cuối cùng kỳ nghỉ lễ 1-5 có 27 người chết, 33 người bị thương.”

So với bốn ngày nghỉ lễ năm 2017 (29-4 đến 2-5-2017), tai nạn giao thông (TNGT) năm nay, giảm 12 vụ (9,6%); giảm 19 người chết (19,4%), giảm 11 người bị thương (12,2%).

Đó là những chuyện bề nổi của ngày đã được cơ quan tuyên truyền của đảng tô son vẽ phấn gọi là “Đại thắng mùa Xuân 1975”, một bi hài kịch tự kiêu Công sản. 

Nhưng khác với các năm trước, lần đầu tiên trong 43 năm kỷ niệm ngày Quân đội Cộng sản vào Sài Gòn ngày 30/04/1975, Ban Tuyên giáo và Tổng cục Chính trị Quân đội đã phải tập hợp một số người viết bài đề cao ý nghĩa của “Đại thắng mùa Xuân”. Mục đích là để bác bỏ những quan điểm cho rằng, dù phải vừa chiến đấu và xây dựng, nhưng “chế độ Việt Nam Cộng hòa” ở miền Nam trước 1975, vẫn có nhiều lĩnh vực thành công và đáng trân trọng hơn Chính phủ Cộng sản của thời bình.

Báo quân đội nhân dân

Báo Quân đội Nhân dân viết: “Chiến tranh đã lùi xa, Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam mong muốn khép lại quá khứ để nhìn về tương lai hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển. Đại thắng mùa xuân năm 1975 thực sự là động lực để chúng ta vượt qua mọi gian nan, thử thách, vững bước tiến lên vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho hôm nay và muôn đời sau.

Thế nhưng đến nay vẫn có những kẻ cố lừa phỉnh dư luận qua việc ngợi ca chế độ dân chủ, tự do và kinh tế phát triển dưới thời chính quyền Sài Gòn, phủ nhận giá trị của chiến thắng trong thời kỳ mới. Những luận điệu ấy lan truyền trên internet dưới nhiều hình thức, như bài viết, clip hòng đánh lừa những người ít thông tin, thiếu hiểu biết, đặc biệt là nhắm vào thế hệ trẻ.” (QĐND, ngày 01/05/2018)

Ăn nói như thế là tự lừa dối mình, bởi vì, dù có xuyên tạc đến đâu thì cũng không thế phủ nhận:

  1. Việt Nam Cộng hòa, từ 1954 đến 1975, không hề có chủ trương “đảng cử dân bầu”. Dù bị chiến tranh tàn phá và đe dọa, khủng bố, chế độ ứng cử và tranh cử ở miền Nam hoàn toàn tự do. Ở miền Bắc, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong giai đoạn này không có ứng cử và bầu cử dự do. Chỉ có một đảng Cộng sản cầm quyền toàn trị.

Ngay đến bây giờ, sau 43 năm thống nhất đất nước, cả nước Việt Nam vẫn chỉ có một đảng cầm quyền và chỉ có đảng viên Cộng sản hay những cảm tình viên Cộng sản mới được bầu vào các chức vụ đại diện dân ở Quốc hội và trong các Hội đồng Nhân dân. Đảng tiếp tục không chấp nhận đa nguyên, đa đảng.

  1. Nền kinh tế ở miền Nam là “kinh tế thị trường, tự do kinh doanh và phát triển”. Và mặc dù phải lệ thuộc vào viện trợ kinh tế của Mỹ để tồn tại và phát triển trong khi cùng lúc phải chiến đấu chống Cộng sản miền Bắc xâm lược, người dân miền Nam cũng chưa bao giờ phải xếp hàng trước các cửa hàng quốc doanh hay hợp tác xã để mua từng lon gạo, lạng thịt, cân đường, bó rau hay sợi chỉ cây kim bằng tem phiếu như người dân miền Bắc.

Tiến Sỹ Bùi Kiến Thành

Riêng trong lĩnh vực kinh tế, bài viết của QĐND đã trích lời chuyên gia kinh tế Việt kiều Mỹ, ông Bùi Kiến Thành để cố ý hạ thấp giá trị chính sách kinh tế thời VNCH. 

QĐND nói trong cuộc phỏng vấn của BBC tiếng Việt, ông Thành đã: “Từng đánh giá, kinh tế dưới chế độ Sài Gòn là “nền kinh tế phát triển ảo”, “không vững chắc”, “không dựa vào cơ sở kinh tế mà chỉ dựa vào chiến tranh là chính”. Ông Bùi Kiến Thành nhận định đây là nền kinh tế “chưa trong sáng”, cụm từ chỉ tình trạng tham nhũng tràn lan của chính quyền Sài Gòn.”

Trích dẫn mà chắp vá và cắt xén như thế là “không có đạo đức” và suy diễn thiếu nghiêm chỉnh. Sự thật thì Tiến sỹ Bùi Kiến Thành đã nói nguyên văn ý của ông trong vế “chưa trong sáng” như thế này: “Trong những năm dưới Đệ nhị Cộng hòa thì có khó khăn do cơ chế quản lý nhà nước vẫn chưa có những kinh nghiệm trong vận hành kinh tế thị trường, quản lý‎ nhà nước vẫn chưa hoàn toàn trong sáng.”(BBC Tiếng Việt, phát thanh ngày 25/4/2015)

Như vậy thì những chữ “cụm từ chỉ tình trạng tham nhũng tràn lan của chính quyền Sài Gòn”, được ráp vào sau 3 chữ “chưa trong sáng” là của báo QĐND tự chế ra để nhét vào miệng Tiến sỹ Bùi Kiến Thành, con Bác sỹ nổi tiếng Bùi Kiến Tín, bạn thân của cố Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm, chủ hãng dầu Khuynh Diệp, với chủ ý xuyên tạc Chính phủ thời VNCH.

Đáng chú ý là báo QĐND đã bỏ qua mấy câu nói khác của ông Thành như: “Việt Nam ngày nay nên học chế độ Việt Nam Cộng Hòa trong cách nhìn về kinh tế thị trường cũng như cách đào tạo, trọng dụng nhân tài.”

BBC viết tiếp: “Ông Thành cũng cho rằng “dư âm của nền kinh tế tập trung” đang hạn chế sự phát triển của Việt Nam trong thời điểm hiện tại, cũng như trong tương lai.”

BBC hỏi: Ông có thể cho biết một số đặc trưng của nền kinh tế miền Nam trước năm 1975?

Ông Bùi Kiến Thành: “Trước 1975 thì kinh tế miền Nam, dù có những khó khăn do chiến tranh, nhưng vẫn là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường.

Vì trong bối cảnh chiến tranh nên chính sách thời đó là mở rộng tất cả những gì có thể. Nông nghiệp thì gặp khó khăn về chiến tranh, thương mại cũng chỉ trao đổi hàng hóa, chứ việc phát triển công nghiệp thì chưa được bao nhiêu.

Nhưng nó vẫn là nền kinh tế cho phép nhân dân tự do tham gia, để những người có ‎ý chí muốn làm kinh tế được tạo điều kiện tốt.”

Ông Thành, hiện đang làm việc ở Việt Nam bảo thẳng: “Nói chung nền kinh tế Việt Nam Cộng Hòa là một nền kinh tế thị trường có nhiều tiềm năng, nếu được phát triển trong hòa bình thì sẽ có nhiều khả năng phát triển tốt hơn là chính sách phát triển tập trung sau 30/4/1975.

Nếu Việt Nam có hòa bình thì những chính sách phát triển kinh tế bắt đầu từ nền Đệ nhất Cộng hòa vẫn được duy trì, như khu công nghiệp Biên Hòa, các trung tâm phát triển công nghiệp. Khi đó chúng ta học dần dần thì bắt đầu tích lũy kinh nghiệm và bắt đầu đi lên.

Tuy nhiên, sau 30/4 thì tất cả những kinh nghiệm đó bị chặn đứng, áp dụng kế hoạch tập trung của miền Bắc vào miền Nam, bao nhiêu doanh nghiệp bị quốc hữu hóa, doanh nhân thì vào trại cải tạo hoặc bỏ xứ ra đi.

Nền kinh tế tan vỡ ra hết và nền kinh tế tập trung không phát triển được, việc ngăn sông cấm chợ khiến nền kinh tế đi vào ngõ cụt.

Đến khi đó nhà nước cộng sản mới áp dụng chinh sách Đổi Mới. Nhưng Đổi Mới không phải là kinh tế thị trường mà là nền kinh tế ‘nhiều thành phần vận hành theo kinh tế thị trường dưới sự quản lý‎ của nhà nước”.

Cho đến nay định nghĩa của nền kinh tế Việt Nam sau Đổi Mới vẫn chưa có gì mới hơn là định nghĩa năm 1986, là kinh tế nhiều thành phần có sự quản l‎ý của nhà nước.

Vì vậy nên đến 2015, chúng ta vẫn bị sự chi phối nặng nề của các doanh nghiệp nhà nước, không thoát ra được tư duy kế hoạch tập trung của một số lãnh đạo, và không thoát ra khỏi sự vận hành của kinh tế nhà nước, trì trệ và không có hiệu quả.

Từ năm 1985 đến giờ ta không bắt kịp các nền kinh tế khác vì tư duy không rõ ràng, không ai biết kinh tế xã hội chủ nghĩa là cái gì.

Một mặt thì nói là kinh tế thị trường, một mặt thì nói là có sự quản l‎ý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Chúng ta đã mất hết 30 năm mà vẫn còn loay hoay trong những việc làm không rõ ràng.”

Giáo dục – văn hoá

  1. Bước sang lĩnh vực Giáo dục và Văn hóa thì dù một hay trăm thợ viết thuê của Ban Tuyến Giáo hay Tổng cục Chính trị Quân đội cũng không thể đổi trắng thay đen để xóa đi những thành tựu sáng chói và tính nhân văn của nền giáo dục và nhân bản của văn hóa dân tộc thời VNCH trước 1975.

Trước hết, hãy nghe Tiến sỹ Bùi Kiến Thành phát biểu trên BBC ngày 25/04/2015: “Ở miền Nam trước 75 thì là một nền giáo dục rất mở, người sinh viên và các thầy giáo được quyền tiếp cận các nền giáo dục tư tưởng, dù là tư bản hay cộng sản, không hạn chế.”

Bỏ qua những chương trình giáo dục học vẹt, vừa hồng vừa chuyên, chỉ biết thầy đọc trò viết cho đầy tập, chạy điểm, mua bằng thật và bằng giả và những tệ trạng “muốn lên lớp, được điểm cao” thì phải “ngủ với Thầy” v.v… đã và đang diễn ra ở Việt Nam mà hãy nhìn vào khả năng lao động của công nhân Việt Nam để thấy tương lai đang đi về đâu.

Theo bà Saranya Skontanarak, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Thái Lan (TBA) thì năng suất lao động của người Việt Nam khá thấp so với các quốc gia xung quanh. Một số kết quả nghiên cứu cho thấy năng suất lao động của một người Singapore cao gấp 20 lần năng suất lao động của một người Việt Nam.

Ngay người Thái Lan cũng có năng suất lao động gấp 3 lần người Việt Nam.

Bà Saranya Skontanarak đã đưa ra nhận xét tại cuộc gặp gỡ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh ngày 21/4/2018.

Và tại cuộc Hội thảo chuyên đề “Cải thiện năng suất trong bối cảnh công nghiệp hóa”, ông Ngô Văn Tuấn, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, cho biết: “Năng suất lao động của Việt Nam chỉ bằng 7% năng suất lao động của Singapore; 17,6% của Malaysia và đặc biệt chỉ tương đương với 87,4% của Lào.”(theo VNNET ngày 13/01/2018)

Trong khi ấy thì Hiệp hội Bia – rượu – nước giải khát Việt Nam, báo cáo năm 2017 lượng bia các loại tiêu thụ trên cả nước đạt hơn 4 tỉ lít, tăng 6% so với năm 2016.

Con số này chưa xấu hổ cho bằng đánh giá trong sáng trong kinh doanh của Thế giới đã đặt Việt Nam xếp hạng 141/180 với 53,1 điểm, mức tổng điểm thấp hơn điểm bình quân khu vực và thế giới. Trong 43 nền kinh tế khu vực châu Á – Thái Bình Dương, Việt Nam đứng hạng 35, thua Lào (53,6 điểm, hạng 34), Myanmar (53,9 điểm, hạng 33) và Campuchia (58,7, điểm hạng 22).

Về số thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam năm 2017, theo lời Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng thì rất thấp, tương đương 2.385 USD. Ông nói với báo Tuổi Trẻ: “Trong khối ASEAN, con số này thua Lào, chỉ hơn Campuchia và Myanmar.” (Miến Điện)

Như vậy thì vinh hạnh gì, nếu so với thời Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam trước năm 1975?

Văn hoá đồi truỵ?

  1. Trong lĩnh vực Văn hóa, hãy tạm gác sang hành động “gục mặt bước dồn” của những nhóm cán bộ lãnh đạo thiếu học, vô văn hóa, kém văn minh khi họ ra lệnh đốt sách, bắt giam các Văn nghệ sỹ miền Nam sau ngày vào Sài Gòn 1975, mà hãy nói đến phong trào “hát nhạc vàng”, hay dòng nhạc Bolero của miền Nam đang lên cơn sốt ở khắp miền đất nước, sau 43 năm mấy anh Bộ đội mũ tai mèo, dép râu bước vào Sài Gòn hoa lệ.

Những cán bộ Tuyên giáo, Dân vận hãy tự hỏi mình xem tại sao bây giờ nhân dân lại say mê những dòng nhạc của Đoàn Chuẩn và Từ Linh, Văn Cao một thời bị cấm? Hay vì sao mà nhạc Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Anh Bằng, Minh Kỳ, Lê Dinh, Ngô Thụy Miên, Duy Khánh, Nhật Trường Trần Thiện Thanh v.v… của miền Nam đã được ưa chuộng hơn nhiều Nhạc sỹ miền Bắc, kể cả Phạm Tuyên, con Nhà văn hóa Phạm Quỳnh?

Luôn tiện những người còn mê ngủ của Tuyên giáo cũng nên tự vấn lương tâm xem do đâu mà Mầu Tím Hoa Sim của Nhà Thơ Hữu Loan, người đã can đảm bỏ đảng và công khai mạt sát đám “cai thầu văn nghệ” làm tay sai cho đảng thời Nhân văn Giai phẩm, đã đi vào lịch sử văn học và được hàng triệu người yêu mến gấp triệu lần hơn những vần Thơ thờ nhà độc tài Cộng sản (Joseph Vissarionovich) Stalin, hay chứa đầy dao găm mã tấu thời Cải cách Ruộng đất của Tố Hữu và Xuân Diệu?

Ôn lại những chuyện cũ để thấy sự so sánh thành công và thất bại ở miền Nam thời Việt Nam Cộng hòa, trước vào sau ngày gọi là “Đại thắng mùa Xuân 1975”, không phải là không có lý.

Bởi vì, sau 43 năm của cái gọi là “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước” ấy, nhân dân miền Nam đã hoàn toàn mất hết các quyền: Tự do ngôn luận và Tự do báo chí; Tự do Lập hội và Biểu tình; Tự do Ứng cử và Bầu cử. Và trong nhiều trường hợp, quyền tự do Tín ngưỡng và Tôn giáo đã bị quản chế khe khắt.

Thời VNCH, khi ra đường người dân không sợ bị cướp giật và xâm phạm an ninh cá nhân như thời Cộng sản. Họ cũng không phải đem theo tiền để hối lộ dọc đường hay mánh mung chạy chức chạy quyền, lo đút lót để cho con được điểm cao hay tốt nghiệp ra trường, và có việc làm ổn định.

Cũng dưới thời VNCH ở miền Nam, làm gì có chuyện truyền thống “tôn sư trọng đạo” trong giáo dục đã bị bị xúc phạm trắng trợn như vụ Cô giáo phải qùy xin lỗi phụ huynh tại Long An tháng 2/2018. Rồi sau đó vào tháng 3/2018 cô giáo mang thai Phan Thị Hiên, tập sự tại trường mầm non Việt-Lào ở Nghệ An, cũng đã phải qùy gối van xin tha đánh bởi một phụ huynh, chỉ vì trước đó cô giáo đã xử phạt kỷ luật con người này.

Chỉ kể sơ ra đây ít chuyện làm quà để thấy thời Việt Nam Cộng hòa, tuy chưa có dân chủ như nhiều nước khác vì có chiến tranh, cũng đáng sống hơn thời tham nhũng ngập đầu và xã hội có nhiều trộm cắp và giết người như ngóe mất an ninh ở Việt Nam thời Xã hội Chủ nghĩa.

Gay gắt hù doạ

Thế mà cán bộ Tuyên giáo vẫn có thể bô bô nói rằng: “Chiến tranh đã lùi xa, Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam mong muốn khép lại quá khứ để nhìn về tương lai hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển. Đại thắng mùa xuân năm 1975 thực sự là động lực để chúng ta vượt qua mọi gian nan, thử thách, vững bước tiến lên vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho hôm nay và muôn đời sau.

Thế nhưng đến nay vẫn có những kẻ cố lừa phỉnh dư luận qua việc ngợi ca chế độ dân chủ, tự do và kinh tế phát triển dưới thời chính quyền Sài Gòn, phủ nhận giá trị của chiến thắng trong thời kỳ mới. Những luận điệu ấy lan truyền trên internet dưới nhiều hình thức, như bài viết, clip hòng đánh lừa những người ít thông tin, thiếu hiểu biết, đặc biệt là nhắm vào thế hệ trẻ.” (Quân đội Nhân dân, 01/05/2018)

Phân bua như thế xong, báo này quay sang hù họa: “Đảng, Nhà nước ta đã chủ động đề ra và thực hiện phương châm “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai”, “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”, nhưng trong bối cảnh mới, hoàn cảnh mới, mỗi người dân của “con Lạc cháu Hồng” dù ở trong nước hay đang định cư, học tập, công tác ở nước ngoài, không bao giờ được lãng quên lịch sử hào hùng chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam; càng không được vào hùa với các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội, bất mãn để bóp méo, bôi nhọ, xuyên tạc, đòi đánh giá lại lịch sử, phủ nhận tầm vóc vĩ đại của Đại thắng mùa xuân năm 1975 nhằm phục vụ cho những mưu đồ đen tối.” (báo Quân đội Nhân dân, 30/04/2018)

Cũng tát nước theo mưa là bài viết trên Tạp chi Quốc phòng Toàn dân (QPTD) của Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Hưởng, cũng đưa ra luận điểm bảo vệ cho cái gọi là “chiến thắng” mùa Xuân 1975.

Ông Hưởng cảnh giác hiện vẫn có “những ý kiến lạc lõng xuyên tạc về ý nghĩa lịch sử của Chiến thắng đó, cần phải cảnh giác, kiên quyết đấu tranh, bác bỏ.”

Ông viết: “Suốt hơn bốn thập kỷ qua, những luận điệu xuyên tạc bản chất, tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống xâm lược của nhân dân ta; những mưu đồ bóp méo, hạ thấp, phủ định ý nghĩa và giá trị của Đại thắng mùa Xuân 1975 liên tiếp được các thế lực chống đối, thù địch tung lên trên mọi phương tiện thông tin với nhiều hình thức, cả ở trong nước và nước ngoài. Họ thường “thảng thốt” rằng, chiến thắng lịch sử của nhân dân ta ngày 30-4-1975 đối với họ là “tháng 4 đen”; “ngày quốc hận”. Đồng thời, xuyên tạc bản chất, tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, rằng đó là cuộc chiến tranh “huynh đệ tương tàn” giữa hai miền Nam – Bắc.” (theo QPTD, ngày 26/04/2018)

Viết như thế, nhưng liệu ông Hưởng có sờ lên gáy xem những dư luận không đồng tình với mấy chữ “Đại thắng mùa Xuân 1975” có phản ảnh sự thật trong đời sống nhân dân như mọi người chưa được “no cơm ấm áo” và đất nước chưa thật sự “có độc lập tự do” , hay những thứ này mới chỉ dành cho một thiểu số có chức, có quyền và những tay sai của đảng cầm quyền?

Hay xa hơn, vẫn đang có những kẻ nội thù và tay sai ngoại bang muốn phân hóa dân tộc?

Đó là lý do tại sao sau 4 năm mà “kẻ thắng” và “người thua” vẫn còn xa mặt cách lòng bởi những con người “kêu ngạo Cộng sản” tiếp tục giáo điều, lạc hậu và chỉ biết đặt quyền lợi cá nhân và phe nhóm trên quyền lợi tối cao của dân tộc. -/-

(05/018)

Phạm Trần

danlambaovn.blogspot.com

Nghi vấn về cái chết của Cục phó C50

 
 

Cái kết của những tên theo đảng cướp mafia HCM… Làm theo lệnh cũng chết, cũng bị thủ tiêu khi phe nhóm thanh toán nhau!!!
***************

Nghi vấn về cái chết của Cục phó C50

Đại tá Võ Tuấn Dũng, Cục phó Cục Cảnh Sát Phòng Chống Tội Phạm Sử Dụng Công Nghệ Cao (C50) đột tử hay tự tử trong phòng làm việc là nghi vấn được truyền thông trong nước đồng loạt loan tải ngày 04/05.

Tin cho biết ông Võ Tuấn Dũng đến cơ quan tại trụ sở Bộ Công an, 47 Phạm Văn Đồng, Hà Nội, lúc 6 giờ sáng và được phát hiện chết trong phòng làm việc vào khoảng 7 giờ cùng ngày.

Báo Pháp luật Thành Phố Hồ Chí Minh dẫn nguồn tin có thẩm quyền thuộc cơ quan tố tụng tỉnh Phú Thọ cho biết, việc đại tá Dũng tử vong sẽ ảnh hưởng đến quá trình điều tra đối với vụ án đánh bạc ngàn tỉ do hai nghi can Phan Sào Nam và Nguyễn Văn Dương cầm đầu.

Mạng báo Một thế giới cho biết trước đó, công an tỉnh Phú Thọ và Viện Kiểm sát Nhân Dân (VKSND) tỉnh Phú Thọ đã nhiều lần làm việc với ông Võ Tuấn Dũng tại trụ sở của C50 tại Hà Nội, riêng VKSND tỉnh Phú Thọ đã 3 lần làm việc với ông này và buổi làm việc gần đây nhất mới diễn ra vào chiều 03/05 liên quan đến đường dây đánh bạc nghìn tỷ nói trên. Báo này cũng cho biết ông Dũng đã bị đình chỉ công tác, phục vụ việc xác minh và làm rõ các sai phạm trong vụ án nói trên. Liên quan đến quyết định đình chỉ công tác, Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm đã ký quyết định số 4019/QĐ-BCA-X11 ngày 7.11.2017 trong đó yêu cầu trong thời gian bị đình chỉ, đại tá Võ Tuấn Dũng phải có mặt tại đơn vị khi được yêu cầu và Bộ Công an giao Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát có trách nhiệm quản lý đối với ông Dũng trong thời gian này.

Mạng báo Tuổi trẻ cũng dẫn nguồn tin từ cơ quan tố tụng tỉnh Phú Thọ thông tin rằng trong nhưng lần làm việc này, ông Dũng đều hợp tác, tinh thần hoàn toàn bình thường và không có biểu hiện gì bất ổn. Việc làm việc với ông Dũng của cơ quan chức năng cũng là hoàn toàn bình thường vì lãnh đạo của C50 có liên quan đến đường dây đánh bạc nghìn tỷ. Báo Tuổi trẻ cũng dẫn lời lãnh đạo của VKSND tỉnh Phú Thọ cho biết hiện công an vẫn chưa có kết luận gì về vai trò, trách nhiệm của ông Dũng.

Về đường dây đánh bạc ngàn tỉ có sự bảo kê của tướng công an, hiện Công an tỉnh Phú Thọ đã khởi tố gần 90 người trong đó có 2 cấp trên của ông Dũng là ông Phan Văn Vĩnh, cựu trung tướng – tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát và ông Nguyễn Thanh Hoá, cựu cục trưởng C50..

Đại tá Võ Tuấn Dũng sinh năm 1963 và công tác tại Cục C50 từ khi cục này được thành lập, giữ chức trưởng phòng tham mưu và mới được bổ nhiệm giữ chức phó Cục trưởng C50 khoảng 2 năm trở lại đây.

RFA.ORG
 
Đại tá Võ Tuấn Dũng, Cục phó Cục Cảnh Sát Phòng Chống Tội Phạm Sử Dụng Công Nghệ Cao (C50) đột tử hay tự tử trong phòng làm việc là nghi vấn được truyền thông trong nước đồng loạt loan tải ngày 04/05.

Cái Tôi Và Sự Hiểu Biết

 Cái Tôi Và Sự Hiểu Biết

Khi bàn về cái tôi, người ta thường nói hóm hỉnh rằng: trong cuộc sống, cái tôi mà nặng thì thành tội; cái tôi huyền thì thành tồi; và cái tôi sắc thì thành tối. Mà sống trong tội lỗi, tồi tàn và tăm tối đều là sống trong sự thiếu hiểu biết. Vậy phải chăng sự hiểu biết và cái tôi có sự đối lập như Albert Einstein đã từng nói: “Cái tôi và sự hiểu biết tỷ lệ nghịch với nhau. Hiểu biết càng nhiều thì cái tôi càng nhỏ. Hiểu biết càng ít thì cái tôi càng lớn.”

Phát biểu của Albert Einstein đưa ra một vấn đề cần được xem xét và chứng minh. Vấn đề đó là mối liên hệ tỷ lệ nghịch giữa sự hiểu biết và cái tôi. Để có thể thấy được mối liên hệ tỷ lệ nghịch này, chúng ta cần xem xét một số vấn đề như định nghĩa về “cái tôi”, đặc điểm của “cái tôi” và phân tích “cái tôi” trong mối quan hệ với sự hiểu biết”

Một cụ ông hỏi một cụ bà về định nghĩa của tình yêu. Cụ bà lắc đầu, không thể đưa ra một khái niệm chắc chắn về tình yêu bởi “yêu” là một khái niệm trừu tượng. Cũng như thế, rất khó để có thể đưa ra một định nghĩa hoàn hảo về khái niệm “cái tôi”. Bởi chúng ta không thể chỉ vào một vật nào đó và nói rằng đây là “cái tôi” hay kia là “cái tôi”. Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận biết và gọi danh cái tôi thông qua những biểu hiện của nó. Cái tôi của một người có thể được xem là thái độ nhận định của người đó về chính mình, thái độ đó có xu hướng đề cao bản thân, xem bản thân hơn người khác. Vậy câu nói của Albert Einstein có ý cho mọi người thấy rằng: người càng hiểu biết sâu rộng thì càng tự hạ mình, tôn trọng và chấp nhận người khác. Còn người càng ít hiểu biết thì lại càng cho là mình hơn người khác, đặt bản thân lên trên người khác. Nói đến đây, chúng ta cũng đã có thể phần nào hiểu được về cái tôi. Tuy nhiên, chúng ta cần phải bàn thêm nhiều hơn để có thể thấy rõ những đặc điểm của cái tôi trong mối liên hệ với sự hiểu biết.

Cái tôi đi liền với việc cá nhân luôn cho mình là đúng là hơn người. Người có cái tôi lớn tự tin một cách thái quá vào khả năng của bản thân, nên họ cho rằng suy luận, ý kiến của họ là đúng, là tốt nhất. Và khi nghĩ như vậy thì họ không chịu chấp nhận những ý kiến trái chiều hay những lời phê bình và chỉ trích. Họ sẵn sàng phồng mang trợn má, dùng mọi nỗ lực để bảo vệ cho “cái tôi” to lớn kia. Khi nhìn vào các cây liễu và cây dầu trong cơn bão, cây liễu mềm dẻo, uốn mình thừa nhận sự yếu đuối của nó trước những cơn gió mạnh bạo. Trong khi đó, cây dầu lại đứng hiên ngang, giương tất cả các cành to khỏe nhất, cứng cáp nhất để thể hiện sức mạnh của mình, để khẳng định “cái tôi” của nó. Kết quả là cây dầu đã bị quật đổ, cành cây xơ xác, còn cây liễu thì mỗi ngày mỗi lớn hơn dẫu cho biết bao nhiêu cơn bão đã qua đi. Người có cái tôi càng lớn thì họ lại càng không sẵn sàng tiếp thu những đóng góp của người khác nên chẳng thể thu tích được những tư tưởng hay những điều hay điều mới lạ. Dần dần, cái tôi của họ trở nên lớn hớn và sự hiểu biết thì đâm ra hạn hẹp. Còn đối với những người có cái tôi càng nhỏ, họ sẵn sàng rộng mở, đón nhận những yếu đuối của bản thân từ đó mà khắc phục và hoàn thiện hơn, hiểu biết nhiều hơn.

Thêm một đặc điểm nữa khi nói về cái tôi, người có cái tôi lớn là người có xu hướng che giấu, giữ lấy cái xấu, cái dở và cả cái ngu của họ mà không thèm đến cái hay cái tốt nơi người khác. Lý do khiến họ muốn che giấu là vì cái tôi to lớn của họ không muốn người khác biết được yếu điểm của họ, vì như thế thì sẽ rất dễ bị thua người khác. Khi che giấu cái dốt của bản thân, họ đã vô tình đóng lại cánh cửa duy nhất của sự hiểu biết. Họ chặn không cho mình tiếp thu những bài học mới mà cứ giữ lấy những quan điểm, những định kiến cũ rít của mình. Một cái ao tù muốn đem lại sức sống mới thì không còn cách nào khác ngoài việc bỏ đi những khối nước tù đọng và nghèo nàn, thay vào đó là những dòng nước mới và giàu phù sa. Chúng ta không thể tiếp thu một điều mới mẻ và cấp tiến nếu cứ giữ lấy những tư tưởng bảo thủ. Giống như chúng ta không thể nào cầm lấy những quyển sách mà trên tay chúng ta lại ôm lấy cả một đống giấy vụn. Cách duy nhất là chúng ta hãy bỏ đống giấy đó xuống và đưa tay đón lấy những quyển sách. Hãy đặt cái tôi của chúng ta xuống và đón lấy những điều mới mẻ.

Khi xem xét sự hiểu biết trong mối quan hệ với cái tôi, chúng ta có thể thấy rằng người có cái tôi lớn là người hiểu biết rất ít về chính họ. Còn người có cái tôi nhỏ hóa ra lại là người biết rất nhiều về bản thân. Dựa trên đặc điểm của cái tôi, chúng ta dễ nhận ra rằng, người có cái tôi càng lớn thì càng hành động theo cảm xúc. Có thể chỉ cần một lời nói tựa như một giọt nước lạnh đụng chạm đến cái tôi to lớn của họ, chê bai hay chỉ trích chẳng hạn, thì họ tưởng chừng như đang bị dội cả một gáo nước lạnh hay cả một xô nước lạnh lên đầu, thế là họ có thể đã bực tức, cau có phản ứng dữ dội và để cảm xúc lấn áp lý trí. Những người như thế thật thiếu hiểu biết về chính mình. Ngược lại, người có hiểu biết sâu rộng sẽ tìm để biết mình và hành động dựa trên lý trí, thay vì tình cảm. Người càng hiểu biết thì càng bình tĩnh và điềm đạm, họ suy xét kỹ lưỡng và sẽ nhận ra được những khiếm khuyết của bản thân. Từ đó, người càng hiểu biết thì càng hiểu bản thân hơn. Khi đã nhận ra yếu đuối của bản thân, thì cái tôi của họ sẽ càng ngày càng nhỏ lại. Dù có bị dội cả xô nước thì họ vẫn cảm thấy mát lạnh, sảng khoái, và thậm chí là họ còn cảm ơn người đã giúp họ rửa sạch những nhơ bẩn nơi họ.

Sau khi phân tích mối quan hệ giữa cái tôi và sự hiểu biết, chúng ta có thể khẳng định rằng Albert Einstein đã đúng khi cho rằng “Hiểu biết càng nhiều, cái tôi càng bé. Hiểu biết càng ít, cái tôi càng lớn”. Cái tôi là một khái niệm thật khó để diễn tả hết. Cái tôi nằm trong ngay chính mỗi người, nhưng không phải ai trong chúng ta cũng đủ hiểu biết để nhận thức và làm cho nó nhỏ lại. Không ai trong chúng ta muốn bị người khác gán cho cái mác là “cái tôi lớn” và cũng không ai muốn trở thành một kẻ ngu si, thiếu hiểu biết, nên mỗi chúng ta cần nhận biết và kiểm soát cái tôi của mình. Chúng ta cần làm cho mình trở nên hiểu biết hơn và làm cho cái tôi bé hơn mỗi ngày.

Micae Thân Trọng Hưng, MF

From Do Tan Hung & Kim Bang Nguyen