Cậu bé bán bánh trước cửa nhà thờ năm nào ở Việt Nam giờ trở thành linh mục cho giáo xứ ở Mỹ

Cậu bé bán bánh trước cửa nhà thờ năm nào ở Việt Nam giờ trở thành linh mục cho giáo xứ ở Mỹ

Cậu bé bán bánh trước cửa nhà thờ năm nào ở Việt Nam giờ trở thành linh mục cho giáo xứ ở Mỹ

Nhân kỷ niệm 14 năm linh mục 22/5/2004 – 22/5/2018, mình muốn chia sẻ với cả nhà một trong những kỷ niệm của thời thơ ấu, mà khi nghĩ đến thì cảm xúc vui buồn lẫn lộn, đó là công việc buổi sáng của mình.

Trước tiên, cho mình xin cám ơn tất cả những ai đã cầu nguyện, gửi lời chúc mừng kỷ niệm 14 năm linh mục cho mình nhe, và nhất là những ai đã gửi quà cho mình nữa!

Lúc còn bé, mình không được may mắn như bao bạn trẻ khác. Sáng sớm 4 giờ phải dậy đi chợ sáng mua hàng tươi về bán. Nhiều lúc không muốn dậy vì mê ngủ mà, và là con nít nữa, nhưng cũng vì hoàn cảnh gia đình, phải cố dậy, mắt nhắm mắt mở, đi bộ đến chợ sáng, tranh dành hàng hoá với những con buôn khác để mua hàng như bánh bò, bánh tiêu, bánh cam, da lợn, ba chỉ, chả giò, chuối chiên, bánh đúc, bánh bèo và vv…. nói chung là đồ tươi mua về bán lại kiếm ăn. Chưa kể là mỗi sáng phải đi ngang nghĩa địa với bụi tre già, “sợ ma muốn chết”, khi gió thổi mạnh hay mưa rơi lác đác, mình luôn có cảm tưởng như ma đi theo mình. Con nít mà, ai không nhát ma????

Chợ về, lo kéo nước, cả mấy chục cặp thùng nước kéo từ cái giếng kế nhà, cho cả người và thú vật dùng, như con heo nái và đàn heo con mà nhà nuôi kiếm ăn.

Kế đến học bài chuẩn bị đi học.

Vào Chúa nhật, công việc cũng thế, nhưng thay vì học bài thì đi giúp lễ sáng và ngay sau lễ, mình đội một mâm bánh đủ loại đi bán cho người đi lễ ở trước cửa nhà thờ Mẫu Tâm, nhà thờ tôn sùng Trái Tim Cực Thanh Cực Tịnh Đức Bà Maria.
Nghĩ đến mà tủi, vì ngồi ở cổng nhà thờ, khi có người đi ra lễ là rao to: “mua đồ ăn sáng đi anh… đi chị… đi em… đi ông… đi bà… đi chú… đi bác…” hay “làm ơn mua giùm em… con… cháu… đi” nghĩ đến đây, mình rơi nước mắt!!!!

Có người cười nói cám ơn không mua. Có người nhìn mặt mình rồi liếc một cái đi. Có người la vào mặt, “không có mua đừng réo!” Có người làm ngơ. Tủi ghê luôn!!! Mới ra lễ mà chẳng có tình yêu, nhất là mới đón nhận bí tích Thánh Thể, bí tích Tình Yêu. Sao họ lại đối xử với mình như thế??? Mình buồn nhưng chịu thôi, biết làm gì??

Rao khan cổ, lâu lâu mới có người mua bánh cho. Ngồi bán mấy ván lễ mới hết nếu hên. Không may mắn thì ôm bánh về nhà bán tiếp hay ăn trừ cơm luôn. Không may nữa thì thấy mẹ mình buồn than thở!!!

Chắc vì Mẹ Mẫu Tâm (tên nhà thờ nơi mình bán bánh mỗi Chúa Nhật) đã nhìn thấy và thấu hiểu đời mình, nên đã âm thầm và trong sự quan phòng mầu nhiệm của Mẹ, đã cầu bầu và cùng đồng hành với mình “vượt biên” qua Thái rồi đến Mỹ, để rồi với Mẹ trải qua bao gian nan thử thách, cuối cùng được chịu chức linh mục theo gót chân Con của Mẹ.

Ngày nay, tôi vẫn ở nhà thờ, vẫn reo to, không phải reo mời người mua bánh, mà “reo mời người nghe Lời Chúa trong các bài giảng”.

Ngày nay, tôi không bán bánh ăn sáng cho cơ thể, mà là “làm Bánh Thánh” tại chỗ nuôi dưỡng linh hồn và cả thể xác (hoá bánh thành Mình Thánh qua và trong chức linh mục) rồi ban phát dân chúng mà không lấy đồng nào!

Cậu bé bán bánh trước cửa nhà thờ năm nào ở Việt Nam giờ trở thành linh mục cho giáo xứ ở Mỹ

Cám ơn Mẹ Maria đã cầu bầu che chở con trong hành trình ơn gọi bao nhiêu năm qua. Xin Mẹ luôn ở bên con mãi mãi.

Bạn thấy đó, Đức Mẹ của ta tuyệt vời như thế đó. Có nhiều việc Mẹ làm ta không biết liền được, mà đến lúc mọi sự đã hoàn tất tốt đẹp, ta mới nhận ra sự yêu thương và quan phòng của Mẹ trong cuộc sống.

Mời cả nhà xem hình kỷ niệm mình chụp ở cái góc trước cửa nhà thờ năm nào. Bây giờ có xe nước mía ở đó. Một kỷ niệm vui buồn của đời tôi ở đây!!!

Hoàng Nhật Tuấn

Giá Trị Tinh Thần Lập Hiến Việt Nam Cộng Hòa.

Giá Trị Tinh Thần Lập Hiến Việt Nam Cộng Hòa.

Phân tích của Nguyễn Quang Duy Melbourne Úc

Giá Trị Tinh Thần Lập Hiến Việt Nam Cộng Hòa.

Nguyễn Quang Duy

I. Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa 1956
II. Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa 1967 (Ấn bản chánh)

Nền Cộng Hòa non trẻ của miền Nam Việt Nam đã chấm dứt vào 30 tháng 4 năm 1975, nhưng giá trị tinh thần cộng hòa vẫn tồn tại cho đến ngày nay.

Nhân kỷ niệm 60 ngày bản Hiến pháp Đệ Nhất Cộng Hòa ra đời ngày 26-10-1956 xin được ôn lại các giá trị có thể học hỏi từ tinh thần lập hiến Việt Nam Cộng Hòa.

I. HIẾN PHÁP 1956

Ngày 26/10/1955 Thủ tướng Ngô Đình Diệm chính thức thông báo kết quả Trưng cầu Dân Ý truất phế Bảo Đại, thành lập Việt Nam Cộng hòa, với Hiến ước Tạm thời làm cơ sở pháp lý điều hành quốc gia.

Tháng 3/1956 một Quốc hội Lập hiến với 123 dân biểu được bầu. Đến tháng 7-1956 Quốc Hội bỏ phiếu thông qua bản Hiến Pháp. Ngày 26/10/1956 Hiến Pháp được Quốc Trưởng Ngô Đình Diệm ban hành.

1- Tinh thần lập hiến và dân chủ chưa đủ

Chiếu điều 95 và 96 của bản Hiến pháp 1956, Quốc Hội Lập Hiến tự động trở thành Quốc Hội Lập Pháp và Quốc Trưởng Ngô Đình Diệm trở thành Tổng thống đầu tiên Việt Nam Cộng Hòa.

Lẽ ra hai điều này không nên có vì đã mâu thuẫn với Điều 2 là điều căn bản nhất của thể chế Cộng Hòa: “Chủ quyền thuộc về toàn dân”.

Nói cách khác Quốc Hội Lập Hiến đã tước quyền người dân bầu chọn một Quốc Hội Lập Pháp và một Tổng thống đầu tiên của nước Việt Nam Cộng Hòa.

Điều 3 “Tổng thống lãnh đạo Quốc dân” mang xu hướng suy tôn chức danh Tổng thống. Điều 89 “Không thể sửa đổi hoặc hủy bỏ các Điều 1, 2, 3, 4, và điều này (89) của Hiến pháp.”, Nghĩa là Điều 3 được đặt ngang hàng và được bảo vệ tuyệt đối như Điều 2 “Chủ quyền thuộc về toàn dân”.

Nói cách khác quyền lực tuyệt đối đã được Hiến Pháp trao cho Tổng Thống do đó quyền dân chủ đã bị giới hạn trong Hiến Pháp Đệ Nhất Cộng Hòa.

Trong khi miền Nam đang bị cộng sản đe dọa lẽ ra vai trò của các đảng chính trị và của địa phương phải được đặt hàng đầu, Hiến pháp 1956 lại chỉ tập trung vào Trung ương không hề đề cập đến địa phương, thành phố, tỉnh, xã, thị xã… cũng không đề cập đến vai trò các đảng chính trị.

Thiên thứ 9, quy định việc sửa đổi Hiến pháp, với nhiều bước chặt chẽ. Chương này chỉ thuận lợi cho những chính trị gia đã tham gia guồng máy công quyền, nhưng lại giới hạn cơ hội của dân và của thành phần cấp tiến muốn thay đổi đất nước thông qua việc sửa đổi Hiến Pháp.

2- Tam Quyền Phân Nhiệm

Vai trò và nhiệm vụ của Tổng Thống, của Quốc Hội và của Thẩm phán được nêu rõ trong các Thiên (Chương) ba, bốn và năm của bản Hiến Pháp 1956.

Thiên thứ sáu dành cho Đặc biệt Pháp viện là một tòa án đặc biệt có thẩm quyền xét xử Tổng thống, Phó Tổng thống, Chánh án Tòa Phá án, và Chủ tịch Viện Bảo Hiến, trong trường hợp can tội phản quốc và các trọng tội.

Thiên thứ bảy về Hội đồng Kinh tế Quốc gia do Phó Tổng thống là Chủ tịch có nhiệm vụ trình bày sáng kiến và phát biểu ý kiến về các dự thảo, dự án kinh tế.

Thiên thứ tám về Viện Bảo Hiến nhằm phán quyết về tánh cách hợp hiến của các đạo luật, sắc luật, và quy tắc hành chánh.

3- Kinh Tế Tự Do

Chương hai nêu rõ việc Quốc gia (chính phủ) công nhận và bảo đảm tất cả các quyền tự do cá nhân.

Đặc biệt Điều 20: “Quốc gia công nhận và bảo đảm quyền tư hữu.” Cùng với việc khuyếch trương kinh tế tự do, chiếu theo điều 20 này chính phủ đã có những chính sách vô cùng tích cực.

Lấy thí dụ, chính phủ quy định các loại xe chuyên chở công cộng như xe taxi, xe lam, xe xích lô… cho nhập cảng xe mới và đem bán trả góp cho tài xế. Các loại xe này nhanh chóng trở thành những phương tiện di chuyển thông dụng nhất tại miền Nam.

Chương trình Người cày có ruộng, chính phủ mua lại ruộng đất của điền chủ đem bán lại cho tá điền qua phương cách trả góp.

Ngoài một số hoạt động công ích xã hội, như điện, nước, hàng không,… sinh hoạt kinh tế hoàn toàn tự do. Chính phủ không cạnh tranh với tư nhân. Chính phủ chỉ giữ vai trò khuyết trương kinh tế và bảo đảm tư nhân cạnh tranh một cách công bằng và hợp pháp.

Ngay trong giáo dục Chương trình tư thục được chính phủ khuyến khích và nâng đỡ. Nhờ đó chia sẻ gánh nặng với chính phủ và đã đào tạo nhiều thế hệ thanh niên sẵn sàng đóng góp cho quốc gia dân tộc.

Chính phủ còn cho thành lập các khu kỹ nghệ như Thủ Đức, An Hòa, Nông Sơn, … nhiều nhà máy được xây dựng như nhà máy xi măng Hà Tiên, nhà máy thủy điện Đa Nhim, nhà máy vải sợi Vinatexco Đà Nẵng, Vimytex Sài Gòn, Nhà máy thủy tinh, mỏ than Nông Sơn…

Các quốc gia khác sau khi giành được độc lập đều có khuynh hướng bảo vệ thị trường, chính phủ trực tiếp làm kinh tế, quốc hữu hóa công xưởng, đề ra các chính sách bảo vệ thị trường.

Trong khi miền Nam lại theo kinh tế tự do nên kinh tế và kỹ nghệ đã phát triển nhanh hơn các quốc gia trong vùng.

4- Hòa giải tranh chấp lao công

Thiên thứ bẩy về Hội đồng Kinh tế Quốc gia mà hội viên gồm các nghiệp đoàn và các ngành hoạt động kinh tế, các tổ chức hoạt động xã hội liên hệ với kinh tế và các nhà kinh tế học.

Chính phủ cũng đề ra chính sách dung hòa quyền lợi giữa chủ và thợ, giảm thiểu các tranh chấp lao công, khiến cho xã hội hài hòa cùng nhau phát triển sản xuất nâng cao đời sống vật chất và tinh thần.

Đây là một điểm son của của xã hội miền Nam, nhờ đó cộng sản không thể lợi dụng biến các cuộc biểu tình đình công đòi hỏi quyền lợi của giới thợ thuyền thành những cuộc biểu tình chính trị.

5- Tinh thần nhân bản, khai phóng và dân tộc

Trong lời mở đầu Hiến Pháp nêu rõ: “…dân tộc ta sẵn sàng tiếp nhận các trào lưu tư tưởng tiến bộ để hoàn thành sứ mạng trước đấng Tạo hóa và trước nhân loại là xây dựng một nền văn minh và nhân bản bảo vệ phát triển con người toàn diện.”

Nhìn chung Hiến Pháp 1956 xây dựng trên tinh thần nhân bản, khai phóng và dân tộc, tinh thần này được tiếp tục duy trì trong Hiến Pháp 1967.

II. HIẾN PHÁP 1967

Sau đảo chánh 1-11-1963, miền Nam bị đẩy vào tình trạng khủng hoảng chính trị. Các chính phủ quân sự và dân sự liên tiếp được thành lập. Để có cơ sở pháp lý mỗi chính phủ đã ban hành Hiến Chương riêng.

Mãi đến tháng 9/1966, một Quốc Hội Lập Hiến gồm 117 Dân biểu được bầu ra. Một Ủy ban soạn thảo Hiến pháp được thành lập rút ưu khuyết điểm Hiến Pháp 1956, nghiên cứu và tham vấn nhiều bản Hiến pháp các quốc gia khác, đặc biệt là Pháp, Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc.

1- Hiến Pháp 1967 tam quyền phân lập, dân chủ và phân quyền

Ngày 01/04/1967 Hiến Pháp 1967 được công bố theo đó nguyên tắc kiểm soát và đối trọng giữa các nhánh quyền lực được triệt để tuân thủ.

Lập pháp gồm lưỡng viện, hành pháp và tư pháp hoàn toàn độc lập. Vai trò và nhiệm vụ của lập pháp, của hành pháp và của tư pháp được nêu rõ trong các Chương ba, bốn và năm của bản Hiến Pháp.

Để tránh nguy cơ độc tài, Hiến pháp 1967 đặt ra chế độ Tổng thống với Lưỡng viện Quốc Hội và với chức vụ Thủ Tướng nhằm chia sẻ trách nhiệm và quyền hành của Tổng thống.

Đặc biệt, Chương 5 Điều 70 nêu rõ: “Nguyên tắc địa phương phân quyền được công nhận cho các tập thể địa phương có tư cách pháp nhân như: xã, tỉnh, thị xã và thủ đô.” Các Điều 65, 70, 71, 72, 73, 74, 75 và 114 tạo cơ sở pháp lý cho các chính quyền địa phương.

Chương 6 về vai trò và nhiệm vụ của các Định Chế Đặc Biệt bao gồm Đặc Biệt Pháp Viện, Giám Sát Viện, Hội Đồng Quân Lực, Hội Đồng Văn Hóa Giáo Dục, Hội Đồng Kinh Tế Xã Hội, Hội Đồng các Sắc Tộc.

Vai trò chống tham nhũng của Giám Sát Viện được nêu rõ: “Thanh tra, kiểm soát và điều tra nhân viên các cơ quan công quyền và tư nhân đồng phạm hay tòng phạm về mọi hành vi tham nhũng, đầu cơ, hối mại quyền thế hoặc phương hại đến quyền lợi quốc gia.”

2- Chính Đảng và Đối Lập

Chương 7 về Chính Đảng và Đối Lập, nền Đệ Nhị Cộng Hòa khuyến khích việc tiến tới chế độ lưỡng đảng đối lập như sau:

Điều 99

1- Quốc Gia công nhận chánh đảng giữ vai trò thiết yếu trong chế độ dân chủ.

2- Chánh đảng được tự do thành lập và hoạt động theo các thể thức và điều kiện luật định.

Điều 100 – Quốc Gia khuyến khích việc tiến tới chế độ lưỡng đảng.

Điều 101 – Quốc Gia công nhận sự định chế hóa đối lập chính trị.

Điều 102- Một đạo luật sẽ ấn định quy chế chánh đảng và đối lập chính trị.

Sinh hoạt chính trị ở miền Nam cho đến 30-4-1975 đã chiụ nhiều ảnh hưởng chủ trương lưỡng đảng đối lập, các đảng Khối hay chính trị gia đã hình thành những liên kết đối lập về đường lối và chánh sách quốc gia.

Thêm vào đó để tránh tình trạng Quân Đội cấu kết với các đảng phái chính trị làm đảo chánh, Chương 2, Điều 23 cấm “Quân nhân tại ngũ không được sinh hoạt đảng phái”.

3- Hữu sản hóa nhân dân

Điểm mạnh nhất của mô hình Đệ Nhất Cộng Hòa là phát triển kinh tế tự do, điểm mạnh này đã được tiếp tục trong thời Đệ Nhị Cộng Hòa. Về Công Nghiệp, Khu Kỷ Nghệ Biên Hòa là một thành tựu phát triển vào bậc nhất trong vùng Đông Nam Á. Mặc dù chiến tranh kinh tế và kỹ nghệ miền Nam vượt hẳn các quốc gia trong vùng.

Điểm đặc biệt của Hiến Pháp 1967 Điều 19 phần 2 “Quốc Gia chủ trương hữu sản hóa nhân dân” và Điều 22 “Quốc Gia chủ trương nâng cao đời sống nông dân và đặc biệt giúp đỡ nông dân có ruộng đất canh tác.” Sự thành công của chánh sách Người Cày Có Ruộng và Chương trình cơ giới hóa nông nghiệp chính là nhờ các điều khoản nói trên.

4- Hiến pháp nhân bản, khai phóng và dân tộc

Thừa kế tinh thần Đệ Nhất Cộng Hòa, Hiến pháp 1967 lấy nhân bản, khai phóng và dân tộc làm quốc sách. Điều 11 ghi rất rõ “Văn hóa giáo dục phải được đặt vào hàng quốc sách trên căn bản dân tộc, khoa học và nhân bản.”

Điều 2 phần 2 nêu rõ tinh thần cộng hòa “Quốc Gia chủ trương sự bình đẳng giữa các công dân không phân biệt nam nữ, tôn giáo, sắc tộc, đảng phái. Đồng bào thiểu số được đặc biệt nâng đỡ để theo kịp đà tiến bộ chung của dân tộc.”

5- Các điểm nổi bật

Nhìn chung Hiến pháp 1967 vừa ngắn gọn, rõ ràng, vừa nêu rõ chính phủ phải bảo đảm những quyền tự do căn bản, kể cả quyền đối lập chính trị. So với các quốc gia trong vùng Đông Nam Châu Á cùng thời, Hiến pháp 1967 chỉ rõ sự tiến bộ vượt bực của Việt Nam Cộng Hòa.

Còn so với thực tế Việt Nam Cộng Hòa có một số đặc điểm nổi bật như:

1. Các quyền tự do căn bản đã được chính phủ bảo đảm, đặt biệt là quyền tư hữu;

2. Xây dựng được một nền dân chủ tam quyền phân nhiệm, phân lập và phân quyền;

3. Xây dựng thành công một nền văn hóa giáo dục, lấy nhân bản, khai phóng và dân tộc làm căn bản;

4. Tôn giáo, văn học, văn nghệ, nghệ thuật phát triển;

5. Báo chí tự do;

6. Theo kinh tế thị trường tự do;

7. Nhưng vẫn bảo đảm được công bằng xã hội và dân sinh như y tế đại chúng hay thực hiện luật Người Cày Có Ruộng;

8. Một xã hội dân sự phát triển.

Kinh nghiệm thế giới cho thấy các yếu tố trên là căn bản trong việc phát triển quốc gia. Nghĩa là nếu miền Nam không rơi vào tay cộng sản thì Việt Nam Cộng Hòa sẽ không thể kém xa các quốc gia Đông Nam Châu Á như hiện nay. Nếu không nói là sẽ vượt trội hơn nước người.

Tinh thần lập hiến và thượng tôn pháp luật pháp thời Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn đó và sẽ được học hỏi kế thừa khi Việt Nam có tự do dân chủ.

Nguyễn Quang Duy

Melbourne, Australia (Úc).
25-10-2016

No automatic alt text available.
Image may contain: text
No automatic alt text available.
No automatic alt text available.
Image may contain: 1 person, sunglasses and text

7 dấu hiệu cho thấy bạn là người có chỉ số EQ cao

7 dấu hiệu cho thấy bạn là người có chỉ số EQ cao

1. Không bị ảnh hưởng bởi cảm xúc của người khác

Người có chỉ số cảm xúc EQ cao thường cũng có sự đồng cảm, cảm thông với mọi người xuất hiện hay thậm chí là không xuất hiện trong cuộc đời họ. Nhưng họ luôn đủ tỉnh táo để không bị chi phối bởi cảm xúc hay sự đồng cảm của họ đối với tất cả, kể cả bạn bè hay người thân yêu.
 

2. Không phàn nàn

Người có EQ cao thường không bao giờ để bản thân trở thành nạn nhân hay bị bế tắc nên họ thường chẳng bao giờ phải phàn nàn về cuộc sống, công việc hay mọi thứ xung quanh họ. Họ sẽ không than vãn hay níu kéo một mối quan hệ đổ vỡ mà sẽ học yoga, ngồi thiền định hoặc vui chơi giải trí để lấy lại cân bằng.
 

EQ
Ngưng phàn nàn về mọi thứ – Ảnh: brandsvietnam

3. Biết kiềm chế bản thân

Chỉ số EQ cao giúp bạn có sự quyết đoán và giữ vững lập trường. Họ biết tiết chế bản thân, biết từ chối lời mời hay những cuộc vui tự phát để không phá hỏng mục tiêu và dự định của họ.
 

4. Không nói xấu sau lưng

Người có EQ cao không thích kể lể về sai lầm của người khác. Họ sẽ động viên, giúp đỡ trong việc giải quyết vấn đề. Việc nói xấu sau lưng sẽ làm xấu hình ảnh của họ, đó là một việc làm mà theo họ là thiếu khôn ngoan và chỉ gây ảnh hưởng không tốt mà thôi.
 

EQ
Đừng nói xấu sau lưng người khác – Ảnh: vitalk

5. Không dựa dẫm

Tự lập là khả năng quan trọng của người có chỉ số cảm xúc cao. Nếu trông mong người khác khi kết quả xấu, họ càng thất vọng và trì trệ. Thay vào đó, họ làm mọi thứ bằng chính đôi bàn tay của mình, để có thể hoàn thành tốt hơn và tìm được giá trị cũng như khả năng của bản thân.
 

6. Không suy nghĩ tiêu cực

Chỉ số EQ cao không phải không bao giờ suy nghĩ tiêu cực. Nhưng họ luôn tìm được cách riêng để gạt những suy nghĩ đó đi. Việc này giúp họ tích cực hơn trong suy nghĩ, giúp bản thân bớt trì trệ và mất niềm tin vào công việc cũng như cuộc sống.
 

EQ
Học cách loại bỏ sự tiêu cực – Ảnh: gandex

7. Không nhìn lại quá khứ

Nhìn mãi thất bại rồi hối tiếc và tự dằn vặt không làm mọi thứ tốt hơn. Thay vì sống trong quá khứ, hãy rút ra bài học kinh nghiệm để nếu mọi thứ có xảy ra lần nữa bạn sẽ có giải pháp ứng phó kịp thời, như cách những người có chỉ số EQ cao vẫn làm.
 

Nguồn: cafebiz

BÁC BA PHI TỨC KHÍ

Suong Khoimay shared a post.
Image may contain: outdoor
Image may contain: one or more people and outdoor

Từ Kế Tường

TỪ KẾ TƯỜNG

BÁC BA PHI TỨC KHÍ

Bá Ba Phi ngủm củ tỏi lâu rồi. Lẽ ra Bác Ba đã yên giấc nghìn thu, ngậm cười nơi chín suối nhưng vì nghe trên trần thế đám quan chức ăn nói tào lao bát xế quá. Nào là thu phí hô thu giá, kẹt xe thì kêu ùn ứ, mưa ngập đường thì cải tiến chữ nghĩa bảo là tụ nước. Lại có ông đại biểu không biết ăn trúng hóa chất gì mà ong óng hô mấy bà bán trà đá, vé số có thu nhập khủng, chỉ số lợi nhuận cao ngất mây xanh từ 5.000% đến 7.000%, thế mà không đóng đồng thuế nào vào ngân sách, chỉ góp phất phơ ở địa phương. Đại ý ông đại biểu này so bì, nói mấy bà bán trà đá, bán vé số có thu nhập khủng mà không thực hiện nghĩa vụ nộp thuế là rất bất công.

Bá Ba Phi nghe nói vậy tức hơn bò đá, đang nằm thẳng cẳng dưới ba thước đất ở rừng U Minh bỗng đội mồ sống dậy, cưỡi con rùa vàng hồi vụ cháy rừng năm nẵm nhờ Bác Ba Phi quăng dây thừng vô đám cháy rừng, con rùa này ngậm được đầu sợi dây thừng, được Bá Ba kéo thoát ra ngoài. Cảm ơn cứu mạng, con rùa vàng bị cháy một góc cái “mu” tự nguyện làm vật cưỡi cho Bác Ba Phi đi bất cứ đâu. Do vậy hôm nay Bác Ba Phi cưỡi rùa cháy mu lên gặp Từ Kế Tường chửi cho hả cục tức.

-Mẹ nó, tao ngủ giấc ngàn thu mà cũng không yên. Dốt thì chịu dốt, bày đặt dốt mà hay nói chữ, thu phí thì nói thu phí, nói thu giá đến Diêm Vương cũng không hiểu. Còn ngập thì nói mẹ nó là ngập, mắc gì tìm từ thay thế mà nói là tụ nước. Tụ cái…cái…cái…con…con…do tức quá Bác Ba Phi cà lăm luôn.

Từ Kế Tường liền dúi cho Bá Ba Phi ly cà phê pin, đặc sản của đất Sè Gềnh để Bá Ba uống hạ hỏa. Uống xong Bác Ba trợn mắt:

-Mẹ nó, còn kẹt xe thì nói thẳng là kẹt xe, ùn ứ là cái quái gì. Rồi mấy bà bán trà đá, vé số là những người bần hàn, cơ cực, sống dưới đáy xã hội bán mấy ly trà đá, mấy tờ vé số độ nhựt mà hô có thu nhập khủng, chỉ số lợi nhuận kinh doanh cao ngất ngưởng mà không đóng đồng xu thuế nào. Mẹ nó, ngu cũng vừa thôi. Cho cha nội đại biểu nói như người cõi trên này về vườn đi bán trà đá, vé số coi thu nhập khủng đến cỡ nào.

Từ Kế Tường cười hì hì:

-Bá Ba bớt giận, nuốt cục tức xuống kẻo tắt thở chết thêm lần nữa. Quan chức bây giờ ghê lắm, toàn tiến sĩ này, tiến sĩ kia nên ăn nói vung tí mẹt mà tưởng mình thông thái.

Bá Ba Phi chu miệng phun cái phẹt:
-Mẹ nó, xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ. Thôi tao cưỡi rùa dìa U Minh đây, thử qua mấy cái trạm BOT coi nó thu phí hay thu giá con rùa của tao để tao tính.

NIỀM TIN vs QUỐC TỊCH

Trần Bang shared a post.

Bỏ nước chạy đi trước

Image may contain: 1 person, smiling, text

Lê Ngọc Thanh

NIỀM TIN vs QUỐC TỊCH 

[Vũ Xuân Tráng]

Chồng chị là đảng viên. Chị cũng đảng viên, cả hai đều là đảng viên thứ gộc. Họ làm ăn rất tài và phất rất nhanh. Hết mua bán đất đến mua bán nhà, rồi mua bán chung cư, rồi đến chơi chứng khoán. Đầu tư quả nào trúng ngay quả đó.

Một hôm, chị nói với tôi rằng, “Chị vừa mua thêm căn hộ ở Singapore, em ạ.” Tôi rất ngạc nhiên khi nghe chị nói như thế. Trước đây, tôi có nghe kể rằng chị đã mua một ngôi nhà ở Australia và một ngôi nhà nữa ở Mỹ, bang Cali hẳn hoi. Nghĩa là cho con đi du học ở xứ nào thì chị mua nhà cho chúng ở xứ đó. Trước để khỏi phải tốn tiền thuê nhà, khi học xong thì cũng vừa trả xong tiền nợ, và giá trị căn nhà cũng tăng đủ để sinh lời. Tuy vậy, tôi hỏi thêm cho rõ, “Nhưng chị đã có nhà ở Úc và ở Mỹ rồi thì mua thêm ở Sing làm gì?”

Chị bình thản chia xẻ thật với tôi, “Chị đầu tư mà em. Vả lại vốn vay tại Singapore cực rẻ. Chị sẽ chuyển toàn bộ tài sản ra nước ngoài luôn. Cái quy chế có chừng nửa triệu đô thì được nhập tịch ở Canada rất thoáng, nhà chị đang lo. Như thế sẽ an toàn hơn. Ở mình, giờ nhìn đâu cũng thấy bóng dáng thần chết. Từ thực phẩm cho đến xe cộ, sơ sảy chút là không toàn mạng. Thậm chí, tháng nào bọn chị cũng bay qua Singapore mua thực phẩm rồi đem về Hà Nội sử dụng dần dần. Mấy cái siêu thị ở đây cũng không thể tin được. Làm sao mà biết chắc rằng chúng không bán hàng đểu cho mình. Ăn bậy vào nếu không ngộ độc thì cũng ung thư.”

Chị lại khuyên, “Mấy đứa nhỏ ở nhà ráng lo cho chúng đi du học hết đi. Ngày xưa thì hết tị nạn chính trị đến tị nạn kinh tế, còn bây giờ thì phải kể thêm tị nạn giáo dục nữa. Mà thật ra thì thời buổi này, ở cái đất nước này, mọi chuyện đều phải tính hết, không thể ù lì chờ nước tới chân mới nhảy. Em cố gắng mà chạy cho được thêm cái quốc tịch. Dù sao có hai cái quốc tịch vẫn hơn… Lỡ có chuyện gì… thì… bay hơn một tiếng đã đến Singapore.”

Trời ơi, cỡ làng nhàng dân ngu khu đen như tôi thì làm sao mà… chạy thêm cái quốc tịch? Quốc tịch chứ có phải là mớ rau ế mua ở chợ chiều đâu mà dễ chạy vậy ta? Làm sao mà sống tiếp đây? Chẳng lẽ, cái xứ này đến hồi vận mạt rồi sao?

Tôi tình thật hỏi tiếp luôn, “Vậy anh chị nghĩ sao về cái vụ đảng viên của mình chứ? Đảng viên mà còn tính như thế thì dân đen như em phải làm sao? Niềm tin đặt vào chỗ nào đây?”

Chị đáp, “Chị có còn sinh hoạt đảng gì nữa đâu, có cái thẻ thì giữ cho có để khỏi bị chúng hà hiếp. Ngó tới thêm nhục! Còn ông ấy thì phải giữ vì còn phải làm việc trong bộ. Rồi cũng tới lúc phải vất thôi. Chị còn nghe thằng bé nhà chị ở Mỹ nó nói là, ở nước ngoài các chính phủ họ căng với đảng viên lắm. Thậm chí khi thi quốc tịch ở Mỹ nó còn hỏi người ta khai ra có phải là đảng viên phát xít và cộng sản hay không, nếu có là phăng teo luôn.”

Tôi thầm nghĩ, trời ơi, làm sao mà sống tiếp đây? Các đại gia, các nhà tư sản đỏ mới có điều kiện để trở thành người tiêu dùng thông thái, nhà đầu tư thông minh như thế. Ai ai cũng thủ thế và chuẩn bị bài chuồn để bảo toàn mạng sống và của cải. Thường thường bậc trung như mình, nghĩ thì cũng nghĩ tới đấy nhưng chẳng thể làm được. Thôi thì có chết thì chết chung với nhau, chết chùm cả nước, chứ có riêng gì mình. Lỡ có chuyện gì thì làm ơn… lỡ sớm sớm giùm một chút.

Nguồn ảnh: Internet, chỉ để minh họa  

LẦN CUỐI VỀ “THU GIÁ”

Image may contain: night, sky, car and outdoor
Image may contain: 1 person

Chú TễuFollow

BÀI VIẾT HAY NHẤT VỀ “THU GIÁ” LÀ BÀI CỦA NHÀ BÁO TRẦN ĐĂNG TUẤN

LẦN CUỐI VỀ “THU GIÁ”

Tác giả: Trần Đăng Tuấn

1- “Thu giá” là sự ngu độn về ngôn ngữ. Nhưng đây chẳng phải sự ngu độn thật thà. Ngu cái này nhưng cáo già trong cái khác. Bởi vì:

2- ‘Thu giá” là sự trí trá về lập luận. Đường BOT không phải là “sản phẩm của doanh nghiệp”. Nếu doanh nghiệp mua quyền sử dụng đất, làm đường riêng không dính gì vào các tuyến đường của nhà nước, thì đó mới là sản phẩm doanh nghiệp, họ định giá vé thế nào, có ai đi là việc của họ. Còn BOT là sản phẩm của hợp tác công tư. Doanh nghiệp làm đường trên đất nhà nước cho, cải tạo đường vốn có của xã hội, được khai thác trong thời hạn nhất định để hoàn vốn và có lãi trong khuôn khổ được định ra qua phương án tài chính. Hiện nay đa số các dự án đó ký với nhà nước là hợp đồng “mở”. Nghĩa là thời gian họ được thu tiền căn cứ vào lưu lượng xe đi qua và mức phí xe đi qua phải trả. Cho nên họ mới được kêu ca là thu thấp thì phải thu lâu hơn. Bây giờ nói là sản phẩm của họ tức là phủi cái phần của dân của nước trong BOT đó.Thử hỏi nếu nó là sản phẩm của doanh nghiệp sao lại phải kiểm soát xác minh số tiền thực đầu tư, số tiền thực mỗi ngày thu vào như vừa qua đã buộc phải làm?

3- “Thu giá” là sự xảo quyệt về ý đồ. Việc thu tiền vé đi đường BOT theo cách thực hiện ở Việt Nam thời gian qua xung đột với quy định về phí theo pháp luật. Tách nó ra khỏi phí là để hợp pháp hoá việc thu tiền lần thứ hai đối với người dân trên nhiều đoạn đường BOT, đánh bật khỏi tay người dân vũ khí pháp lý hợp pháp để phản đối sự bất công thiếu minh bạch.

4- “Thu giá” là sự lỳ lợm và trắng trợn trong thái độ đối với người dân. Dân không phản đối BOT, dân không phản đối chuyện đi đường BOT tốt hơn thì phải nộp tiền. Cũng không phải BOT ở chỗ nào cũng không hợp lý. Có những đường, cầu BOT làm cả vùng xưa nay thiếu đường,thiếu cầu nay đi lại giao thương thuận lợi hơn. Cái đó dân ủng hộ. Dân phản đối cái gì?. Dân phản đối chuyện đường quốc lộ số 1 của đất nước tráng lên một lớp rồi thu như thể đường đó họ làm ra từ đầu. Dân phản đối chuyện không có lựa chọn, đi đường nào cũng phải nộp BOT. Dân phản đối chuyện khai khống giá trị đầu tư BOT rồi từ đó định ra giá vé và thời hạn thu. Dân phản đối chuyện cầu nhà nước làm vẫn đi được bị ngăn lại lùa xe sang bắt đi cầu mới phải trả tiền BOT. Dân phản đối chuyện cho thu BOT cả đường mới lẫn đường cũ để lùa dân sang đường mới BOT. Dân phản đối chuyện không dùng đường BOT nhưng buộc phải đi qua trạm và phải mất tiền. Dân phản đối chuyện ém giảm số lưu lượng xe qua trạm BOT để thu lời tối đa. Dân phản đối chuyện chẳng có cuộc đấu thầu nào cả mà chỉ số quan chức cùng doanh nghiệp ký với nhau làm BOT chỗ này, chỗ kia. Dân phản đối chuyện làm BOT có thể “tay không bắt..vàng”. Dân phản đối vì đóng thuế, đóng phí đường bộ và đóng góp suốt bao năm bây giờ đất nước đến con đường xuyên Việt đầu tiên cũng chi chít trạm thu tiền. Dân phản đối vì tiền nộp BOT nhiều hơn chi cho xăng dầu, mọi hoạt động kinh tế hay dân sinh đều bị thêm gánh nặng.

Những cái đó có không? Dân phản đối có sai không?

Đành là có những cái sai đã xảy ra nhưng khó xoá đi làm lại được, mà phải chấp nhận hậu quả, thì cách làm vẫn là phải nhìn vào bản chất sự thật mà nói với dân.

Thay vì thẳng thắn rành mạch với dân, cùng dân tìm giải pháp khắc phục, thì lấy chữ mà che đậy bản chất vấn đề, nặn ra cái cơ sở lý cùn để ép dân phải theo. Đó là cái cách mà ngài Thể chọn.

5- Do vậy, “thu giá” chỉ xuẩn về chữ, chứ rất gian về tâm, về trí. Khi sự gian xảo xuất phát từ một quan chức cấp Bộ và những cố vấn của ông ta, nó là sự phá hoại tính công chính của Nhà nước. Tôi sẽ rất thất vọng nếu cái cách cư xử này được Nhà nước cho qua.

Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em

 Thứ Ba VII Thường Niên – Năm B – II – 22-5-201

Gia-cô-bê 4:1-3

1Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em? Chẳng phải là bởi chính những khoái lạc của anh em đang gây chiếntrong con người anh em đó sao?2 Thật vậy, anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết; anh em ganh ghét cũng chẳng được gì, nên anh em xung đột với nhau, gây chiến với nhau. Anh em không có, là vì anh em không xin;3 anh em xin mà không được, là vì anh em xin với tà ý, để lãng phí trong việc hưởng lạc.

Gợi ý cầu nguyện:

  1. Lời Chúa từ thư của Gia-cô-bê hôm nay thật mạnh mẽ có thể đánh thức tôi về nguyên nhân của những xung đột giữa tôi với những người xung quanh.Trước khi trách người hãy trách mình và xét mình. Giờ cầu nguyện hôm nay có thể là lúc tôi xét lại chính mình, xem những bất hòa giữa tôi với những người xung quanh đến từ đâu?  Phải chăng đến từ tôi?  Từ những bám víu lệch lạc trong đời sống của tôi, như ghen tương, đố kỵ, nghi ngờ, tham lam, khinh khi người khác, tự ái, kiêu căng…?  Tôi có thể xin Chúa cho tôi biết kiêm nhường để có thể mưu cầu tình thương, sự bình an và hòa giải. 
  2. Gia-cô-bê hôm nay cũng chỉ cho tôi cách phải cầu nguyện như thế nào.  Ơn xin quan trọng nhất của các giờ cầu nguyện có lẽ là xin cho có lòng yêu mến Chúa Kitô.  Một khi tôi có lòng yêu mến Chúa Kitô, tôi sẽ cảm thấy tự do thanh thoát đến mức không còn ghen tương, đố kỵ, nghi ngờ, xét đoán, ích kỷ, thù hận hay tự ái, kiêu căng đối với tha nhân.  Một khi tôi có lòng yêu mến Chúa Kitô, tôi sẽ có thể yêu thương và tha thứ lẫn nhau.  Tôi có thể kết thúc giờ cầu nguyện bằng lời Kinh Hòa Bình của Thánh Phan-xi-cô Assisi, hoặc bài hát: Đâu Có Tình Yêu Thương.   

Phạm Đức Hạnh, SJ 

************************************************************

Kinh Hoà Bình:

https://www.youtube.com/watch?v=bXB9dVtWehk

Note: Xin nhớ học, hỏi và hành về phần trừ Tà những con Quỷ này và Trận Chiến Thiêng Liêng, Trận Chiến Nội Tâm nhé.

From: KittyThiênKim & KimBang Nguyen

DỤC VỌNG

 DỤC VỌNG

Có người hỏi Thiền sư: Điều đáng sợ nhất trên cõi đời này là gì?
Thiền sư đáp: Dục vọng!”
Người đó lộ vẻ hoài nghi.
Thiền sư nói: “Hãy để tôi kể vài câu chuyện cho ông nghe vậy”.

Chuyện thứ nhất: Bạc vàng đáng sợ

Một vị tăng nhân hốt hoảng từ trong rừng chạy đến, vừa khéo gặp hai người bạn vô cùng thân thiết đang tản bộ bên rừng. Họ hỏi vị tăng nhân: “Chuyện gì mà ông hốt hoảng quá vậy?”.
Vị tăng nhân nói: “Thật là kinh khủng, tôi đào được một đống vàng ở trong rừng!”.
Hai người bạn, không nhịn được liền nói: “Thật đúng là tên đại ngốc! Đào được vàng, việc tốt như thế mà ông lại cho là kinh khủng, thật không thể hiểu nổi!”.
Thế là họ lại hỏi vị tăng nhân kia: “Ông đào được vàng ở đâu? Chỉ cho chúng tôi xem với!”.
Vị tăng nhân nói: “Thứ xấu xa như thế, các ông không sợ sao? Nó sẽ nuốt chửng người ta đấy!”.
Hai người kia gạt phăng, hùng hổ nói: “Chúng tôi không sợ, ông mau mau chỉ chỗ xem nào!”.
Vị tăng nhân nói: “Chính là bên dưới cái cây ở bìa rừng phía tây”.
Hai người bạn liền lập tức tìm đến chỗ vị tăng nhân vừa chỉ, quả nhiên phát hiện được số vàng đó. Người này liền nói với người kia rằng: “Tên hòa thượng đó đúng là ngốc thật, thứ vàng bạc mà mọi người đều khao khát đang ở ngay trước mắt, thế mà lại trở thành quái vật ăn thịt người”. Người kia cũng gật đầu đồng tình.

Thế là họ bàn với nhau làm thế nào để chuyển số vàng này về nhà. Một người trong đó nói: “Ban ngày mà đem nó về thật không an toàn cho lắm, hay là đêm đến chúng ta mới vận chuyển, vậy sẽ chắc ăn hơn. Tôi ở lại đây canh chừng, ông hãy về mang chút cơm rau trở lại, chúng ta ăn cơm rồi đợi đến trời tối mới chuyển số vàng này về nhà”.
Người kia liền làm theo người bạn nói. Người ở lại nghĩ:“Nếu như số vàng này đều thuộc về sở hữu của riêng ta thì hay biết mấy! Đợi hắn quay lại, ta hãy dùng cây gậy gỗ đánh chết đi, vậy thì toàn bộ số vàng này là của ta hết rồi”.
Thế là khi người bạn đem cơm rau đến khu rừng, người kia liền từ phía sau lưng dùng gậy gỗ đánh mạnh vào đầu khiến ông ta chết ngay tại chỗ, sau còn nói rằng:“Bằng hữu ơi, chính là số vàng này buộc tôi phải làm như vậy”.
Sau đó ông ta vớ lấy thức ăn mà người bạn mang đến, ăn ngấu nghiến. Chưa được bao lâu, người này cảm thấy rất khó chịu, trong bụng giống như bị lửa thiêu đốt. Khi đó, ông ta mới biết rằng mình đã bị trúng độc. Trước lúc chết, ông mới nói rằng: “Lời hòa thượng đó nói quả thật không sai!”.
Đây thật là ứng với lời người xưa để lại: Người chết vì tiền tài, chim chết vì miếng ăn. Đều là họa do lòng Tham đưa đến, chính Dục Vọng đã khiến người bạn thân nhất trở thành kẻ thù không đội trời chung.

Chuyện thứ hai: Người nông dân mua đất
Có một người nông dân muốn mua đất, ông ta nghe nói một người ở vùng khác có đất muốn bán, liền quyết định đến đó hỏi thăm. Người bán đất nói với ông ta rằng: “Chỉ cần giao một nghìn lạng bạc, ta sẽ cho ông thời gian một ngày, bắt đầu tính từ lúc mặt trời mọc, đến khi mặt trời lặn xuống núi, ông có thể dùng bước chân khoanh tròn được bao nhiêu đất, thì số đất đó sẽ chính là của ông, nhưng nếu ông không trở về nơi khởi điểm, thì ngay cả một tấc đất ông cũng sẽ không có được”.
Người nông dân đó nghĩ thầm: “Nếu như hôm nay ta vất vả một chút, đi nhiều đường hơn một chút, thì chẳng phải có thể đi được vòng rất lớn, theo đó sẽ có được một mảnh đất rất lớn hay sao? Làm ăn như vậy quả thật là rất có lợi!”. Thế là ông ta liền ký kết giao ước cùng người chủ đất đó.

Mặt trời vừa mới nhô lên, ông ta liền cất bước thật dài đi nhanh về phía trước; đến giữa trưa, bước chân của ông vẫn không dừng lại giây phút nào, cứ mãi đi về phía trước, trong lòng nghĩ: “Hãy ráng chịu đựng một hôm nay, sau này sẽ có thể hưởng thụ hồi báo của vất vả hôm nay mang đến rồi”.
Ông ta cứ thế tiếp tục đi về phía trước, đến khi mặt trời sắp lặn rồi mới chịu quay trở về, trong lòng vô cùng lo lắng, bởi vì nếu như không về kịp thì một tấc đất cũng chẳng có. Thế là ông ta vội vàng trở về theo đường tắt. Tuy nhiên, mặt trời sắp xuống núi, ông ta đành phải liều mạng mà chạy, cuối cùng chỉ còn thiếu vài bước thì đến vạch khởi điểm, nhưng sức lực đã cạn kiệt, ông ngã nhào xuống nơi đó.
Dục vọng của con người và ranh giới với hiện thực mãi mãi cũng không cách nào vượt qua được, bởi lòng tham là vô đáy. Con người mãi mãi không biết thỏa mãn, đây chính là khuyết điểm lớn nhất trong nhân cách.

Chuyện thứ baPhật và Ma
Có một họa sĩ rất nổi tiếng, ông muốn vẽ Phật và Ma, nhưng không tìm được người làm mẫu phù hợp, vì đầu óc ông không tài nào tưởng tượng ra nổi hình dáng của Phật, nên rất lo lắng. Trong một lần tình cờ, ông lên chùa bái lạy, vô tình nhìn thấy một hòa thượng. Khí chất trên vị hòa thượng này đã thu hút người họa sĩ sâu sắc. Vậy là ông liền đi tìm vị hòa thượng đó, hứa cho hòa thượng một số tiền lớn để làm người mẫu cho ông.
Về sau, tác phẩm của họa sĩ đã hoàn thành, gây chấn động ở vùng đó. Nhà họa sĩ nói: “Đó là bức tranh vừa ý nhất mà tôi từng vẽ qua, bởi người làm mẫu cho tôi quả khiến người ta vừa nhìn thấy nhất định cho rằng anh ta chính là Phật, loại khí chất thanh thoát an lành trên người anh có thể cảm động bất kì ai”.

Người họa sĩ sau đó đã cho vị hòa thượng đó rất nhiều tiền như lời đã hứa.
Cũng nhờ bức tranh này, mọi người không còn gọi ông là họa sĩ nữa, mà gọi ông là “họa Thánh”.
Bẵng đi một thời gian, họa sĩ chuẩn bị bắt tay vào việc vẽ Ma, nhưng điều này lại trở thành một vấn đề khó của ông, vì chẳng biết tìm hình tượng ma quỷ ở đâu. Ông đã hỏi thăm rất nhiều nơi, tìm rất nhiều người có vẻ ngoài hung dữ, nhưng không ai vừa ý cả.

Cuối cùng, ông tìm được trong nhà tù một tù nhân rất phù hợp với đối tượng ông cần vẽ. Họa sĩ vô cùng mừng rỡ, nhưng khi ông đối diện phạm nhân đó, người này đột nhiên khóc lóc đau khổ trước mặt ông.

Nhà họa sĩ rất lấy làm kinh ngạc, liền hỏi rõ ngọn ngành.
Người phạm nhân đó nói: Tại sao lần trước khi người mà ông tìm để vẽ Phật là tôi, bây giờ khi vẽ Ma Quỷ, người ông tìm đến vẫn là tôi!”
Người họa sĩ giật cả mình, thế là ông lại nhìn kỹ người phạm nhân đó, rồi nói: “ Sao lại có thể chứ ? Người mà tôi tìm để vẽ Phật ấy khí chất phi phàm, còn cậu xem ra chính là một hình tượng ma quỷ thuần túy, sao lại có thể là cùng một người được? Điều này thật kì lạ, quả thật khiến người ta không thể nào lý giải được”.
Người kia đau khổ bi ai nói: “Chính là ông đã khiến tôi từ Phật biến thành ma quỷ”.
Họa sĩ nói: “Sao cậu lại nói như vậy, tôi vốn đâu có làm gì đối với cậu đâu”.
Ngươi đó nói: “Kể từ sau khi tôi nhận được số tiền ông cho, liền đi đến những chốn ăn chơi đàng điếm để tìm thú vui, mặc sức tiêu xài. Đến sau này, tiền tiêu sạch hết, mà tôi lại đã quen với cuộc sống đó rồi, dục vọng đã khởi phát mà không thể thu hồi lại được. Thế là tôi liền giật tiền người ta, còn giết người nữa, chỉ cần có được tiền, chuyện xấu gì tôi cũng có thể làm, kết quả đã thành ra bộ dạng này của ngày hôm nay đây”.
Người họa sĩ nghe xong những lời này, cảm khái vạn phần, ông sợ hãi than rằng Bản tính con người trước Dục Vọng lại biến đổi mau chóng đến thế. Con người chính là yếu nhược như vậy đó. Thế là ông áy náy quăng cây bút vẽ xuống đất, từ đó về sau không còn vẽ bức tranh nào nữa.

Con người ta, một khi rơi vào trong cạm bẫy theo đuổi ham muốn vật chấtthì rất dễ đánh mất bản thân mình, muốn thoát ra khỏi đã trở thành mục tiêu rất khó khăn, vậy nên bản tính con người không thể đi cùng với lòng tham.

Thiền sư kể xong mấy câu chuyện, nhắm nghiền mắt lại không nói gì cả, còn người kia đã biết được đáp án từ trong những câu chuyện này: Thì ra điều đáng sợ nhất trên cõi đời này chính làDục Vọng, dục vọng của người ta càng nhiều, thì sẽ càng không thỏa mãn, vậy nên sẽ càng không vui vẻ và phiền não vì thế cũng sẽ càng nhiều hơn.

Dịch giả: Tiểu Thiện

****************************** ****************************** *****

“Tuyệt vời của cuộc đời là sự khác biêt !”

From: Do Tan Hung & KimBang Nguyen

Những điều luật trong Bộ Luật Hình Sự trái với Cương lĩnh ĐCSVN

Những điều luật trong Bộ Luật Hình Sự trái với Cương lĩnh ĐCSVN

Nguyễn Ngọc Già (Danlambao) – Thông tin trên mạng xã hội gần đây có những bài viết đáng chú ý:

– “Trở lại trường hợp Trần Huỳnh Duy Thức” [1] của Luật sư Lê Công Định.


– “Về Tù nhân lương tâm Trần Huỳnh Duy Thức” [2] của Luật sư Ngô Ngọc Trai (gồm 3 phần và còn nữa).

Sau khi đọc xong những bài phân tích và viện dẫn một cách chuyên nghiệp của 2 vị Luật sư nói trên, tôi xin phép góp thêm một góc nhìn về triết lý xây dựng và thực thi pháp luật, tuân theo đặc thù của xã hội Việt Nam.

Mọi chủ trương và quyết sách phải tuân theo Cương lĩnh của ĐCSVN

Báo VNExpress ngày 28/9/2013 dẫn lời của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, khi sửa đổi Hiến Pháp, ông cho biết [3]: “Hiến pháp – văn kiện chính trị pháp lý quan trọng vào bậc nhất sau Cương lĩnh của Đảng”. Vậy, phải khẳng định: Cương lĩnh là một văn kiện pháp lý cao nhất trong toàn bộ hệ thống “văn bản pháp lý” của Nhà nước CHXHCNVN. Cương lĩnh ĐCSVN xuyên suốt và chi phối toàn diện và căn bản cho quản trị điều hành của Chính phủ.

Với đặc thù của xã hội Việt Nam, chấp nhận tiền đề nói trên là một điều mà tất cả cơ quan Đảng và Nhà nước cũng như công dân Việt Nam cần phải tuân thủ. Theo đó, mọi kiến giải, yêu cầu, đề đạt đều phải lấy Cương lĩnh của ĐCSVN làm căn cứ cao nhất.

Cương lĩnh ĐCSVN đã được chỉnh sửa, bổ sung và khai triển theo đúng quy luật triết học “vận động là tuyệt đối”, nhằm mục tiêu cải tạo xã hội Việt Nam ngày càng văn minh, tiến bộ và thích ứng với thời buổi hội nhập quốc tế mà Đảng và Nhà nước đang kiên trì theo đuổi. 

Thật vậy, Cương lĩnh ĐCSVN đã có những thay đổi rất quan trọng. Tại Đại hội XII diễn ra từ ngày 20 đến 28 tháng 1 năm 2016, ĐCSVN đã thông qua Cương lĩnh về lĩnh vực tư tưởng, trong đó có một thay đổi rất tiến bộ và vô cùng quan trọng [4]: 

“…tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia – dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam…”

Hiến Pháp 2013

Song song với thay đổi về lĩnh vực tư tưởng – lĩnh vực quan trọng bậc nhất trong Cương lĩnh, Hiến Pháp 2013 đã dành hẳn một chương nhấn mạnh về Quyền Con Người, trong đó, điều 14 quy định:

  1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.

Tính “Liên Tục & Kế Thừa” khi xây dựng và áp dụng luật

Đó là thuộc tính khoa học căn bản mà bất cứ một nhà soạn luật nào cũng đều hiểu và nắm chắc khi soạn thảo và áp dụng luật. Thật vậy, trong Lời Nói Đầu của Hiến Pháp 2013 đã viết:

“Thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kế thừa Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Lời Nói Đầu đã trình bày 2 tính chất căn bản nhất:

– Thể chế hóa Cương lĩnh của ĐCSVN.

– Kế thừa các Hiến pháp trước đây.

Như vậy, 2 tính chất nêu trên là tiền đề để ba cơ quan “Lập pháp – Hành pháp – Tư pháp” tuân thủ, sao cho tất cả cả mọi chủ trương, quyết sách, hành động phải bảo đảm đúng với Cương lĩnh của ĐCSVN. Cụ thể, về mặt tư tưởng, người dân có quyền suy nghĩ, viết ra tất cả các ý tưởng, miễn sao “KHÔNG TRÁI VỚI LỢI ÍCH CHUNG CỦA QUỐC GIA – DÂN TỘC”.

Những điều luật trái với Cương lĩnh ĐCSVN

Đó là các điều luật trong Luật Hình Sự 1999 như: điều 79, điều 88, điều 258 và sau này được thay thế bằng những điều luật tương ứng trong Luật Hình Sự 2015 như: điều 109, điều 117, điều 331. 

Trước đây, những điều luật nói trên đã được nhiều tác giả phân tích và chứng minh thành công về “tính chất mơ hồ” mà thế giới và quốc nội đều biết. Nay, Luật sư Lê Công Định đã chỉ rất rõ và cụ thể về trường hợp của ông Trần Huỳnh Duy Thức bị kết án 16 năm tù giam và 5 năm quản chế về điều luật mơ hồ này. Góp thêm vào đó, Luật sư Ngô Ngọc Trai đang tiến hành các bước theo đúng trình tự pháp lý để đề nghị Nhà nước CHXHCNVN nghiên cứu xem xét, ngõ hầu “đặc xá” cho vị doanh nhân vô tội này.

Xoay quanh “trục cốt lõi” – Cương lĩnh ĐCSVN, chúng ta thấy, những vấn đề nêu trong cáo trạng quy tội cho doanh nhân Trần Huỳnh Duy Thức (như Luật sư Ngô Ngọc Trai phân tích) hoàn toàn là “NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT KHÔNG TRÁI VỚI LỢI ÍCH CHUNG CỦA QUỐC GIA – DÂN TỘC”.

Thêm vào đó, Luật sư Lê Công Định qua bài viết của mình, đã chứng minh thành công: “…trong BLHS 1999 không có bất cứ điều khoản nào quy định, dù cụ thể hay tổng quát, các yếu tố định danh và định tính về một “tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”…” mà có lẽ không có một học giả hay chuyên gia về luật có thể chứng minh rõ hơn được nữa.

Đặc xá là một điều đúng theo khoa học và tiến bộ

Với các phân tích nêu trên, việc đề xuất “đặc xá” cho ông Trần Huỳnh Duy Thức là một điều đúng theo khoa học và tiến bộ, bởi:

– Cương lĩnh trước đây vì chưa quy định rõ về mặt tư tưởng, nên khi người dân bày tỏ ý kiến, suy nghĩ hay phát ngôn v.v… trên mọi lĩnh vực dễ bị quy chụp “lật đổ chính quyền nhân dân” hay “tuyên truyền chống nhà nước” hoặc”lợi dụng tự do dân chủ”, nhưng nay nhờ có việc “…TÔN TRỌNG NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT KHÔNG TRÁI VỚI LỢI ÍCH CHUNG CỦA QUỐC GIA – DÂN TỘC” làm căn cứ, cho nên, những gì ông Trần Huỳnh Duy Thức bị quy tội trong cáo trạng đã không còn giá trị “bảo chứng”, nhờ sự thay đổi của Cương lĩnh. Nghĩa là tư duy và ý tưởng của ông Thức “KHÔNG TRÁI VỚI LỢI ÍCH CHUNG CỦA QUỐC GIA – DÂN TỘC”.

– Hiến pháp 2013 tại điều 2 khoản 2 quy định “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Theo đó, những ý tưởng của ông Thức không những đúng theo thay đổi tiến bộ của Cương lĩnh ĐCSVN mà còn không hề vi phạm vào khoản 2 điều 2 Hiến pháp 2013.

– Tất cả các luật đều phải xoay quanh Cương lĩnh và Hiến pháp. Khi Cương lĩnh và Hiến pháp chưa sửa đổi, ông Trần Huỳnh Duy Thức bị quy tội một cách “mơ hồ”, nên khiên cưỡng phải chấp nhận. Nay Cương lĩnh đã được sửa đổi và Hiến pháp đã đề cao Quyền Con Người.

Về đối ngoại và đối nội

Việc trả tự do cho ông Trần Huỳnh Duy Thức còn có ý nghĩa rất lớn cho ĐCSVN và Nhà nước CHXHCNVN trong tình hình hiện nay.

Không những thế…

– Tất cả những người bị kết án với tội danh theo điều: 79, 88, 258 đang thụ án cũng cần được “đặc xá” theo phân tích trên.

– Tất cả những người đang chịu án quản chế (như cá nhân người viết bài này) cũng được chấm dứt thi hành án quản chế.

– ĐCSVN và Nhà nước CHXHCNVN nên nghiên cứu và vận dụng đúng theo sửa đổi của Cương lĩnh và Hiến pháp để, hoặc là xóa bỏ những điều luật 109, 117, 331 hoặc là định nghĩa rất rõ các nội dung buộc tội, sao cho những ai bị kết án từ những “tội danh này”, họ phải thấy rõ tư tưởng, hành vi của mình là “trái với lợi ích chung của quốc gia – dân tộc”.

Tù Nhân Nhân Quyền Nguyễn Đình Ngọc – Blogger Nguyễn Ngọc Già

_____________________________________________________________

[1] https://www.facebook.com/LSLeCongDinh/posts/2037462326527541 (Luật sư Lê Công Định)

[2] https://www.facebook.com/photo.php?fbid=1136823149791479&set=a.334810426659426.1073741827.100003914154408&type=3 (Luật sư Ngô Ngọc Trai)

[3] https://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/tong-bi-thu-de-phong-the-luc-muon-xoa-bo-dieu-4-hien-phap-2886937.html (báo điện tử VNExpress)

[4] http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/PrintStory.aspx?distribution=44966&print=true. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr. 158 – 159 (Tạp Chí Cộng Sản).

Nguồn dẫn đều từ hai công dân với đầy đủ quyền hạn: Lê Công Định, Ngô Ngọc Trai và các trang báo hoạt động hợp pháp tại Việt Nam. Nhấn mạnh điều này để thưa rõ với dư luận, những phân tích trên hoàn toàn là học thuật, tác giả bài viết không có bất kỳ “ý đồ xấu” nào để bị ghép vào “Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo điều 117 – Bộ Luật Hình Sự 2015 mà trước đây bản thân người viết đã buộc phải nhận lãnh án oan sai với 3 năm tù giam và 3 năm quản chế từ điều 88.

Bài viết cũng được gởi tới: Tạp Chí Cộng Sản,Báo Nhân Dân, Báo Sài Gòn Giải Phóng, Báo Thanh Niên thông qua email: dinhngocnguyen1234@gmail.com

Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể đang đùa với dân?

Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể đang đùa với dân?

Bộ trưởng GTVT Nguyễn Văn Thể – Tác giả “trạm thu giá BOT” đang “giỡn mặt bầu cua” với dân, với Quốc hội và đổ tội nhiệm kỳ trước!

Bộ trưởng Thể gốc nông dân miền Tây – vùng đất cư dân vốn sống chất phác, “có sao nói vậy”; không lắt léo câu chữ, ma mị ngôn từ. Cụ thể ông Thể là dân huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp nên chắc hiểu từ “giỡn mặt bầu cua” của dân miền Tây; nó na ná như “múa rìu qua mắt thợ” của bà con miền Bắc – tức làm cái trò mà ai cũng biết tẩy đó là trò con nít khi đổi tên các trạm thu phí BOT thành thu giá.

Giữa sóng gió dư luận đang đồng loạt lên án cái trò “giỡn mặt bầu cua” này thì trong buổi họp Quốc hội sáng 22-5-2018, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể, đại biểu Quốc hội đoàn Sóc Trăng sau khi thừa nhận: “Thời gian qua có vấn đề trạm thu giá BOT là việc hết sức nóng, có thể nói chưa lúc nào nóng như vừa qua” đã đổ tội: “Đây là sản phẩm của giai đoạn trước”.

Ông Thể quên hay cố tình không nhớ chính ông là người ký hơn 20 dự án BOT giao thông, trong đó có BOT Cai Lậy tai tiếng – khi ông là thứ trưởng GTVT? Rồi ông khẳng định trước các đại biểu của dân: “Đến thời điểm này có thể nói tương đối ổn định. Chúng tôi sẽ nghiên cứu, vận dụng để làm sao những trạm thu giá BOT sắp tới sẽ thực hiện nghiêm“.

Các trạm thu phí BOT hiện đồng loạt thay bằng trạm thu giá. Ảnh: Internet

Thu phí hay thu giá, thu gì cũng là thu tiền; không chỉ là một kiểu làm dơ bẩn, lập lờ tiếng Việt vốn trong sáng và đẹp đẽ mà còn vi phạm pháp luật; cụ thể là Luật Phí và lệ phí 2015 – được Quốc hội thông qua ngày 25-11-2015, có hiệu lực từ ngày 1-1-2017, không hề có một từ nào quy định về thu giá mà chỉ có thu phí.

Ở điều 3 – Giải thích từ ngữ – của luật này, các từ ngữ được hiểu:

1. Phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải trả nhằm cơ bản bù đắp chi phí và mang tính phục vụ khi được cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và tổ chức được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao cung cấp dịch vụ công được quy định trong Danh mục phí ban hành kèm theo Luật này.

2. Lệ phí là khoản tiền được ấn định mà tổ chức, cá nhân phải nộp khi được cơ quan nhà nước cung cấp dịch vụ công, phục vụ công việc quản lý nhà nước được quy định trong Danh mục lệ phí ban hành kèm theo Luật này.

Trả lời câu hỏi của phóng viên: “Tại sao Bộ GTVT lại chuyển tên gọi từ “thu phí” thành “thu giá” BOT?”, ông đã thú thật: “Phí mang tính chất quản lý Nhà nước liên quan đến HĐND, Quốc hội quyết định. Hình thức đầu tư BOT (Kinh doanh – Xây dựng – Chuyển giao) được xem là một sản phẩm của doanh nghiệp nên họ tự định giá. Do vậy, chúng ta cần điều chỉnh từ phí sang giá cho chính xác.

Bộ trưởng GTVT Nguyễn Văn Thể – Ảnh: Việt Dũng/ báo Tuổi Trẻ

Việc chuyển đổi tên trạm “thu phí” thành trạm “thu giá” không có gì khác mà còn linh động hơn rất nhiều cho việc điều chỉnh mức thu. Bởi lẽ muốn điều chỉnh phí thì phải thông qua HĐND nên rất chậm”.

Ông buộc phải thú thật điều này cho thấy ông rất rành Luật Phí và lệ phí, trong đó quy định ai được quyết định việc thu phí (khoản 2 điều 4 Luật Phí và lệ phí quy định): “Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền quy định các khoản phí, lệ phí trong Danh mục phí, lệ phí, được quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng các khoản phí, lệ phí”.

Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật! Bộ trưởng GTVT Nguyễn Văn Thể đã am hiểu luật rất rõ mà vẫn cố tình lách luật để vi phạm Luật phí và lệ phí mà Quốc hội đã ký mới hơn 1 năm, liệu có thể khởi kiện được không?

Có cần một bộ qui tắc ứng xử cho mạng xã hội hay không?

Có cần một bộ qui tắc ứng xử cho mạng xã hội hay không?

Kính Hòa RFA
2018-05-22
 
Một quán cà phê tại trung tâm Hà Nội. Việt Nam có hơn 50 triệu người sử dụng mạng xã hội. Ảnh chụp tháng 11/2013.

Một quán cà phê tại trung tâm Hà Nội. Việt Nam có hơn 50 triệu người sử dụng mạng xã hội. Ảnh chụp tháng 11/2013.

 AFP
 

Ngày 18/5/2018 Bộ Thông tin và Truyền thông Việt Nam tổ chức một buổi tọa đàm tại Hà Nội, đặt ra vấn đề là cần phải có một bộ qui tắc ứng xử cho mạng xã hội tại Việt Nam.

Ý kiến cho rằng cần phải có bộ qui tắc ứng xử

Tiến sĩ xã hội học Trịnh Hòa Bình cho rằng tình trạng phát triển của mạng xã hội tại Việt Nam hiện nay đặt ra yêu cầu cần phải có bộ qui tắc ứng xử:

Khi đặt ra vấn đề là cần có một bộ qui tắc ứng xử trên mạng có nghĩa là vấn đề giao thương giao tiếp, va chạm trên mạng đã cần phải có sự kiểm soát, điều tiết. Một thực tế chúng ta không thể chối cãi được là có những vấn đề rất là phức hợp, nhạy cảm, không rõ ràng, về quốc kế dân sinh, về sinh hoạt văn hóa tinh thần, đặc biệt là sự va chạm trong vấn đề con người và xã hội.”

Nhưng ông cho rằng bộ qui tắc ứng xử này không phải là những điều luật mà là những qui định dưới luật, và việc xử lý những điều xảy ra trên mạng xã hội là không đơn giản vì mạng xã hội là một bức tranh phức hợp, đa dạng.

Cũng đồng ý là cần phải có những qui tắc ứng xử, nhưng nhà báo Bút Lông Phan Lợi cho rằng nó nên được thực hiện theo những nhóm tự nguyện qui ước với nhau về những điều gì mà các thành viên nên làm và không nên làm. Ông Phan Lợi cho biết là ông đã thực hiện việc này với các nhóm mà ông thành lập trên Facebook.

Ông Phan Lợi nói cụ thể những chuyện cần phải tránh đối những thành viên của các nhóm mà ông tham gia, hay thành lập:

“Ví dụ họ có thể tấn công những người khác, hay là có những người bị đem ra bêu riếu về những vấn đề tôn giáo, giới tính, hay sự sử dụng hình ảnh, liên quan đến những nhóm yếu thế, những nhóm dễ bị tổn thương như là trẻ em, những người dân tộc thiểu số, v.v…”

Áp dụng như thế nào? Hay là không cần thiết?

Tiếp nối ý kiến của nhà báo Phan Lợi, ông Trương Duy Nhất, một nhà báo tự do và là một blogger nói rằng thực ra tất cả những cơ quan đều có ban hành qui định phải ứng xử như thế nào trên mạng xã hội, và những nhà báo có trong biên chế của báo chí nhà nước cũng đã bị ràng buộc bởi những qui định như vậy, nhưng điều đó không có nghĩa là rằng một bộ qui tắc như vậy có thể được áp dụng lên những nhà báo tự do như ông:

“Bây giờ Bộ Thông tin Truyền thông có ra những bộ qui tắc gì đó, thì nó cũng ngoài tầm, ngoài cuộc sống của chúng tôi. Nó chả có tác động gì với chúng tôi, chả có hiệu lực gì với chúng tôi cả, bởi chúng tôi có ràng buộc gì với họ đâu?”

Không ai đưa ra thông tư để hướng dẫn hay chế tài những nguyên tắc, qui tắc ứng xử của những người tự do cả.
-Nhà báo Phan Lợi.

Ông nói rằng tác động của những nhà báo tự do trên mạng xã hội là mạnh hơn rất nhiều so với những nhà báo làm cho báo chí chính thống của nhà nước.

Bà Nguyễn Thị Hậu, một chuyên gia ngành khảo cổ cho chúng tôi biết là bà cũng có chứng kiến những chuyện rắc rối liên quan đến ứng xử trên mạng xã hội, nhưng bà nghi ngờ về khả năng áp dụng một bộ qui tắc chung:

“Thực sự nếu xã hội không có những điều đó thì mạng xã hội nó sẽ không phản ánh. Đó là cái thứ nhất. Cái thứ hai là bộ qui tắc ứng xử, đặt ra thì dễ, nhưng để kiểm soát, và xử lý tất cả theo bộ qui tắc đó như thế nào thì đó là cái mà tôi rất quan tâm.”

Nguyên nhân của việc mà Tiến sĩ Nguyễn Thị Hậu đưa ra cho câu hỏi của mình là mạng xã hội có một điều kiện kỹ thuật riêng, cho nên những sai phạm hay những hành vi ứng xử trên đó sẽ không được quan sát, xử trí theo như trong một không gian xã hội truyền thống được.

Luật sư Hà Huy Sơn ở Hà Nội thì nói rằng một bộ qui tắc ứng xử cho mạng xã hội là không cần thiết, ông giải thích lý do:

“Tôi cũng chưa biết người ta sẽ qui định cái gì, nó có hạn chế quyền của công dân theo hiến pháp qui định hay không? Nhưng theo chủ quan của tôi thì chắc là người ta muốn quản lý, siết chặt tự do tư tưởng. Còn nếu mà người ta có những mặt tích cực, hạn chế những chuyện như là đưa tin sai, vi phạm văn hóa, thì tôi nghĩ những cái đó luật dân sự, luật hình sự cũng đã qui định rồi, quan điểm của tôi là đưa những qui tắc này ra nó cũng không cần thiết.”

Tính đạo đức và pháp luật của mạng xã hội

Theo Tiến sĩ Nguyễn Thị Hậu, mạng xã hội chỉ khác đời thường ở chổ là có những quan hệ rất trực tiếp mặc dù người ta không biết nhau ngoài đời, và điều đó xóa đi làn ranh của sự vị nể, làm cho người tham gia mạng xã hội phải chấp nhận những chỉ trích đến với mình, cũng như phải có trách nhiệm cao hơn với những hành động của mình, do đó theo bà, những yêu cầu về đạo đức trên mạng xã hội cao hơn đời thường:

“Ở ngoài đời nếu có một tin đồn thì ngồi quán trà nói xong thì thôi, nhưng trên mạng xã hội, do đặc điểm kỹ thuật của nó thì do tính tương tác lan truyền của nó rất nhanh, mà lại trực diện nữa, cho nên con người mình phải có trách nhiệm hơn. Thế nên tôi thấy đạo đức trên mạng xã hội nó vẫn thuộc phạm trù đạo đức, nhưng rõ ràng nó đòi hỏi cao hơn môi trường xã hội bình thường, môi trường truyền thống.”

Nhưng đạo đức và pháp luật là hai lĩnh vực khác nhau.

Nhà báo Phan Lợi quan niệm rằng mạng xã hội cũng giống như là một xã hội dân sự, mà trong đó nhà nước nên là một thành viên tham gia chứ không thể là một tác nhân ngồi lên trên để quán xuyến tất cả những gì xảy ra trên mạng xã hội. Theo ông cơ quan pháp luật không thể căn cứ vào những qui chuẩn của một bộ qui tắc ứng xử nào đó mang tính đạo đức, để xử lý những cá nhân vi phạm. Ông nói về buổi tọa đàm vừa qua tại Hà Nội:

“Có đoạn cuối trong bài báo tường thuật buổi tọa đàm đó thì tôi thấy nói rằng việc đưa ra qui tắc cho người sử dụng mạng xã hội, rồi căn cứ vào đấy để ban hành các thông tư để dựa vào đấy mà xử lý thì tôi thấy là không chuẩn. bởi vì thông tư chỉ có thể hướng dẫn những vấn đề pháp luật thôi, chứ không ai đưa ra thông tư để hướng dẫn hay chế tài những nguyên tắc, qui tắc ứng xử của những người tự do cả.”

Mạng xã hội Facebook được lan truyền rộng rãi tại Việt Nam ngay từ khi nó mới ra đời tại Mỹ, và theo nhiều số liệu khác nhau thì hiện có đến hơn 50 triệu người Việt Nam tham gia mạng xã hội.

Đạo đức trên mạng xã hội nó vẫn thuộc phạm trù đạo đức, nhưng rõ ràng nó đòi hỏi cao hơn môi trường xã hội bình thường.
-Tiến sĩ Nguyễn Thị Hậu.

Nhiều nhà hoạt động dân sự, chính trị, bất đồng chính kiến đã sử dụng mạng xã hội để nêu lên chính kiến của mình, cũng như thúc đẩy các hoạt động xã hội như biểu tình vì môi trường, chống Trung Quốc,… Người ta cũng chứng kiến những tranh cãi rất dữ dội giữa những nhóm khác nhau trên mạng xã hội Việt Nam với những quan điểm chính trị đối lập nhau.

Nhiều người tham gia mạng xã hội với những phát biểu mang tính chính trị hay chỉ trích nhà cầm quyền đã bị bắt bỏ tù.

Ngày 19/5/2018, Báo Quân đội nhân dân có đăng bài viết nói rằng “cần xử lý hiện tượng loạn ngôn trên mạng xã hội,” trong đó có nêu trường hợp ông Nguyễn Văn Đực, một thành viên của Hiệp hội bất động sản Thành phố Hồ Chí Minh. Báo Quân đội nhân dân cáo buộc rằng ông Nguyễn Văn Đực đã xúc phạm các cán bộ cấp cao và làm ảnh hưởng đến đường lối chính sách của nhà nước, và của Đảng Cộng sản.

Chúng tôi có liên lạc với ông Nguyễn Văn Đực, nhưng ông không có bình luận gì về cáo buộc đó.

Theo quan sát của chúng tôi trong thời gian gần đây, ông Nguyễn Văn Đực không phải là người duy nhất có những chỉ trích các viên chức cao cấp của Đảng Cộng sản và nhà nước Việt Nam, mà có rất nhiều người, ẩn danh có mà dùng tên thật cũng có, và đối tượng bị chỉ trích bao gồm cả các quan chức cao cấp nhất như Tổng Bí thư Đảng, Chủ tịch nước, Thủ tướng chính phủ…

CON RÁI CÁ BỊ LỘT DA KHIẾN THỢ SĂN XUẤT GIA ?

CON RÁI CÁ BỊ LỘT DA KHIẾN THỢ SĂN XUẤT GIA ?

 Đây là một câu chuyện có thật, do một vị hòa thượng đích thân kể lại. Ông nói rằng khi chưa xuất gia, ông từng là một người chuyên đi săn rái cá.
Một ngày nọ, ông vừa ra ngoài đã săn được một con rái cá cái. Sau khi đã lột bộ da quý của nó, ông đặt con rái cá còn thoi thóp lên một bãi cỏ. Sẩm tối, ông quay về chỗ cũ, nhưng không thấy con rái cá đâu cả. Ông quan sát kĩ, phát hiện trong đám cỏ có dính một chút máu, vết máu dẫn đến một cái hang nhỏ gần đó. 
Khi đến hang, nhìn vào trong, ông ngỡ ngàng giật mình: Thì ra con rái cá chịu nỗi đau đớn bị lột da, cố lết về hang của mình. Tại sao nó lại phải làm như thế?
Khi ông ta lôi con rái cá đã tắt thở ra, liền phát hiện có hai con rái cá con vẫn còn chưa mở mắt, chúng đang ngậm chặt đầu vú khô của rái cá mẹ đã chết.
Nhìn cảnh tượng ấy, ông bàng hoàng sửng sốt, ớn lạnh cả sống lưng. Từ xưa đến nay, ông chưa từng nghĩ đến việc động vật lại có tình cảm mẹ con thiêng liêng đến mức ngay cả con người cũng không thể làm được. Trước lúc chết vẫn còn nghĩ đến cho đứa con sơ sinh bú sữa, vì sợ con mình đói. Nghĩ tới đó, bất giác người thợ săn thấy cay cay cánh mũi, nước mắt tuôn rơi, cảm thấy tội lỗi, xấu hổ vô cùng vì hành động không thể dung thứ của mình. Thế là, ông gác bỏ đồ đao, giã từ nghề săn rái cá, xuất gia tu hành. 
Mỗi lần vị hòa thượng ấy nghĩ lại chuyện quá khứ của mình, trong mắt lại ngấn lệ, chỉ trực trào ra…
Mục đích thấp nhất của ăn uống là để chống đói bụng, nhằm đảm bảo sinh mệnh, mục đích cao nhất là vì khoái khẩu. Mà giữa chống đói và khoái khẩu, khoảng cách của chúng đâu chỉ có trăm ngàn dặm, nhưng vị giác của chúng ta từ miệng cho đến yết hầu chỉ có hơn 10 xen-ti-mét, nuốt qua họng là chẳng còn cảm nhận được gì nữa. Chúng ta vì sao không nhịn đi cảm giác kéo dài 10 xen-ti-mét mà lại đi tàn sát biết bao nhiêu sinh linh vô tội?

From Tu-Phung gởi