Cái chết bước vào không cần gõ cửa

Anh Chi TTV2 

 Cái chết bước vào không cần gõ cửa.

Nó để lại một nỗi đau khó lòng chịu đựng,

bởi người ra đi sẽ chẳng bao giờ trở lại.

Dù có khóc bao nhiêu, buồn bao nhiêu,

cũng không thể làm ta quên,

vì hình bóng ấy đã khắc sâu trong tim.

Nhưng từ khoảnh khắc ấy,

cuộc đời ta thay đổi.

Ta chẳng còn muốn cười, chẳng còn muốn vui,

thậm chí nhiều khi không buồn ăn uống.

Màu hồng của cuộc sống dần hóa xám,

tiếng thở dài như bám lấy ta mãi.

Giọng nói của người xưa vẫn vang vọng,

nhưng chỗ ngồi trống trải chẳng gì lấp đầy.

Ta có cảm giác như cùng với sự ra đi ấy,

thời gian cũng ngừng lại.

Ta bị mắc kẹt trong miền ký ức,

chẳng còn muốn bước tiếp về phía trước.

Vậy nên, hãy bày tỏ tình yêu thương của bạn

với những người thân yêu khi họ còn ở bên.

Bởi nỗi đau mà cái chết để lại thật quá đắng cay.

Chúc những người bạn yêu thương một đời bình an và dài lâu.

St


 

 Loại thuốc có tên Scopolamine hay còn gọi là  “Hơi Thở Của Quỷ”

Một cuốn phim tài liệu mới đây đưa ra tiết lộ về loại thuốc đáng sợ nhất thế giới . Đó là loại thuốc mà bọn tội phạm thường dùng để xóa trí nhớ và làm mất ý thức tạm thời của nạn nhân. Loại thuốc có tên Scopolamine hay còn gọi là ‘Hơi Thở Của Quỷ” có nguồn gốc từ cây Borrachero, loại cây dại mọc phổ biến ở Bogota, Colombia. 

Trong tự nhiên, loại cây này tự sản sinh và phát tán chất Scopolamine. Các Bà Mẹ nơi đây thường dặn Con phải cẩn thận với những bông hoa màu vàng và trắng rất đẹp của loại cây này bởi phấn hoa có khả năng gây ra “những giấc mơ kì lạ”.

Chiết xuất từ hạt Borrachero không màu, không mùi và không vị không chỉ tạo ra “những giấc mơ kì lạ”. Đặc tính dễ tan trong nước, những tên tội phạm dùng chất này cho vào thức ăn, nước uống của Nạn nhân.

Hãng tin Reuters cho biết, Nạn nhân rơi vào trạng thái vô thức và trở nên ngoan ngoãn nghe lời, về nhà lấy hết của cải hay đến ngân hàng rút sạch tiền để đưa cho những tên tội phạm.

Đặc biệt, những người phụ nữ bị bỏ thuốc “hơi thở của quỷ” trong nhiều ngày bị hãm hiếp và bán vào nhà chứa. Anh Ryan Duffy, phóng viên của hãng tin VICE đã đến Bogota, Colombia làm 1 phóng sự mang tên “Loại thuốc đáng sợ nhất thế giới”.

Đoạn phóng sự dài 35 phút của Anh được đăng trải trên Youtube vào hôm 11-5 đã thu hút sự quan tâm lớn của Cộng đồng Mạng.

Tiến sỹ Stephen M.Pittel, Nhà Tâm lý học Pháp y và cũng là người tiên phong nghiên cứu về văn hóa thuốc ở San Francisco có viết:

– Các báo cáo hàng ngày cho thấy nhiều vụ cưỡng hiếp, trộm cắp, bắt cóc… ở Mỹ và Canada có liên quan đến thuốc Burundanga, 1 dạng khác của Scopalamine vốn được sử dụng trong nhiều thập kỷ qua ở Columbia trong các Nghi lễ Bản địa.

Tiến sỹ cho biết thêm:

– Thông thường, những tên Tội phạm bí mật bỏ thuốc vào nước hoặc vẩy bột thuốc vào mặt của Nạn nhân.

Nạn nhân đưa toàn bộ trang sức, tiền, chìa khóa xe, thậm chí còn rút cả tiền ngân hàng để đưa cho chúng. Khi tỉnh lại họ mới nhận ra đã mất đồ và hoàn toàn không biết kẻ đó là Ai.

Đó là lý do tại sao những năm gần đây, Bộ Ngoại giao Mỹ đưa ra cảnh báo đối với Du khách, cẩn thận với “những tên tội phạm ở Colombia sử dụng thuốc vô hiệu hóa tạm thời khách du lịch.

Chỉ 1 lượng nhỏ thuốc là có thể “Sai khiến” được Nạn nhân trong khi lượng lớn hơn có thể gây bất tỉnh ngay lập tức và gây mất trí nhớ.Bộ Ngoại giao và Thương mại Quốc tế Canada cũng đưa ra lời khuyên cho Du khách đến các vùng nông thôn Colombia.

Theo đó, Du khách phải cẩn thận, tránh đến các quán Bar 1 mình, cẩn thận với nước uống và đồ ăn nơi đây.

Ngay cả trên website của Bộ Ngoại giao Colombia cũng có lời cảnh báo Khách du lịch đến Colombia : – Cẩn thận với chất Scopolamine, thường được gọi là Burundanga khi Chúng được hòa với sữa, nước, thuốc lá hay qua đường hô hấp. Thuốc thường được những tên trộm và bắt cóc dùng trong các quán rượu địa phương.

* Colombia cũng nổi tiếng là đất nước có tỉ lệ bắt cóc cao nhất Thế giới.

LƯU Ý

* Gần đây có 1 số Chị bị bỏ “Bùa”, bị điều khiển làm những việc như đưa hết tiền bạc hoặc thậm chí bị hiếp. Thật ra đây chẳng phải bùa mê thuốc lú gì nhưng chính là tác hại của 1 loại cây phát xuất từ Columbia.

Theo lời 1 số Nạn nhân thì Bọn Gian thường xuất hiện ở Costco hoặc ngay tại Nhà Thờ và thường hỏi thăm cách thức trao tặng tiền bạc cho các Hội Từ thiện. Thường khi nghe những Tin “Lành” như thế, giới phụ nữ thường hân hoan giúp đỡ tận tình.Và kết quả là Nạn nhân bị mê đi, đưa Hắn về nhà, lấy hết tiền bạc và nữ trang giao cho Hắn. Khi tỉnh thuốc thì hỡi ôi.

Đã có 2 người đàn bà Việt nam ở ngay tại San Jose mà tôi quen biết là nạn nhân của loại Thuốc Mê này. Bị mất tiền bạc, nữ trang và đã khai báo với cảnh sát.  Theo lời Nạn nhân, nên cẩn thận nếu 1 người đàn ông da ngăm ngăm là Trung đông, Nam Mỹ tiến đến gần hỏi thăm làm thế nào để trao tiền cho các Cơ quan Từ thiện hoặc nhờ đưa đến gặp Cha Xứ để trao tiền.

Bọn Hắn thường cầm 1 bọc lớn, hé hé cho thấy bên trong toàn tiền.

From: Tu-Phung


 

THƯỢNG ĐẾ KHÔNG CHO AI QUÁ NHIỀU!

Nhung Nguyen

Ở một đất nước giàu có của châu Âu, có một cô ca sĩ rất nổi tiếng. Tuy mới chỉ 30 tuổi nhưng danh tiếng cô đã vang dội khắp nơi, hơn nữa cô có một người chồng như ý và một gia đình hạnh phúc mỹ mãn.

Một lần, sau khi tổ chức thành công một đêm diễn, cô ca sĩ cùng chồng và con trai bị đám đông người hâm hộ cuồng nhiệt bao quanh. Mọi người tranh nhau chuyện trò với cô. Những lời lẽ tán tụng khen ngợi tràn ngập cả sân khấu.

Có người khen cô tuổi nhỏ chí lớn, vừa tốt nghiệp đại học đã bước chân vào nhà hát tầm cỡ quốc gia và trở thành nữ ca sĩ trụ cột của nhà hát.

Có người tán tụng rằng mới có 25 tuổi mà cô đã được lựa chọn là một trong 10 nữ ca sĩ có giọng opera xuất sắc nhất thế giới.

Có người lại ngưỡng mộ cô có người chồng tuyệt vời, một cậu con trai kháu khỉnh, dễ thương…

Trong khi mọi người thi nhau bàn luận, cô ca sĩ này chỉ im lặng lắng nghe, không thể hiện thái độ gì. Khi mọi người nói xong cô chậm rãi nói:

– “Trước tiên, tôi cảm ơn những lời ngợi khen của mọi người dành cho tôi và những người trong gia đình tôi. Tôi hy vọng có thể chia sẻ niềm vui này với mọi người. Nhưng các bạn chỉ nhìn thấy một số mặt trong cuộc sống của tôi còn một số mặt khác, các bạn vẫn chưa nhìn thấy. Cậu con trai của tôi mà mọi người khen là bé kháu khỉnh, đáng yêu, thật bất hạnh, nó không nói được. Ngoài ra, nó còn có một người chị tâm thần và thường xuyên bị nhốt ở nhà”.

Mọi người đều ngơ ngác, sửng sốt nhìn nhau, dường như rất khó chấp nhận một sự thật như thế. Lúc này, cô ca sĩ mới điềm tĩnh nói với mọi người:

– “Tất cả những chuyện này nói lên điều gì? Có lẽ chúng nói lên một triết lý. Đó là, Thượng đế rất công bằng, ngài không cho ai quá nhiều thứ bao giờ”.

Thượng đế rất công bằng, ngài không cho ai quá ít, cũng không cho ai quá nhiều. Vì thế, đừng nên chỉ nhìn thấy hoặc ngưỡng mộ những thứ người khác có, mà nên nghĩ và trân trọng những thứ bạn đang có, cho dù đó không phải là những vinh quang tột đỉnh.

Vậy nên, nếu ai hỏi bạn:

– “Bạn có hạnh phúc không?”.

Bạn hãy trả lời rằng:

– “Mình hạnh phúc. Hạnh phúc theo cách sống và những gì mình đang có trên đời này”.

Bài và ảnh:

Nhung Nguyen sưu tầm


 

SỬA SOẠN LÌA ĐỜI – Tác giả: Phùng Văn Phụng

Phùng Văn Phụng

Anh Trần Quang Minh gởi cho tôi bài “Sửa soạn lìa đời” của Hiếu Thuận ghi lại lời nhắn nhủ của Ni sư Tenzin Palmo như sau:

Ni sư Tenzin Palmo

Hướng về anh D, Ni sư Tenzin Palmo nói chậm rải từng tiếng một:

“Ai rồi cũng phải chết cả! Có những đứa bé chết từ thuở sơ sanh. Có kẻ chết trẻ, người chết già vì đủ mọi lý do: tai nạn, bịnh tật, già yếu… Ai cũng biết về cái chết nhưng cứ tưởng là nó đến cho người khác chớ chưa đến lượt mình… mãi cho đến lúc nó thình lình hiện ra trước mắt thì hoảng hốt, lo sợ, bấn loạn vì thiếu sự chuẩn bị. Chết vì bệnh tật là may mắn hơn vì có thời gian sửa soạn cho sự ra đi.

Để sửa soạn lìa bỏ cuộc đời:

1/ Điều trước tiên là buông bỏ mọi giận hờn, oán hận mà từ trước tới nay ta ôm ấp trong lòng. Mở lòng tha thứ hết mọi người. Buông xã hết.

2/ Hãy nói những lời yêu thương và biết ơn ta từng muốn nói mà chưa có dịp hay còn ngần ngại.

3/ Hãy di chúc về tài sản, ước muốn cuả mình. Cần phân minh và công bằng để thân nhân không tranh dành, cãi cọ trong thời gian ta mới lìa đời.

4/ Hướng tâm, nghĩ tưởng về Đức Chuá, Đức Mẹ nếu là tín đồ Công giáo, về Phật A Di Đà nếu là Phật giáo. Nếu không có tôn giáo thì nên hướng về Ánh Sáng.

5/ Thân nhân không nên than khóc và níu kéo: “Đừng đi, đừng bỏ em, đừng bỏ con…” vì sẽ gây quyến luyến, khó khăn thêm cho người sắp ra đi.

Điều nên làm là nhắc nhở kẻ hấp hối nhớ đến những điều thiện lành.

Dù người ấy có vẻ như đang hôn mê, không nói năng được nhưng thân nhân vẫn luôn nhắc nhở, cầu nguyện vì trong thâm sâu, họ vẫn còn biết.

6/ Nếu thân thể bị đau đớn thì cứ dùng thuốc giảm đau. Người tu tập cao có thể chịu đựng vì quán chiếu tánh không của cơn đau. Nhưng với người bình thường thì đau quá làm họ sân hận, bấn loạn. Hơn nữa, thuốc giảm đau không ảnh hưởng đến thần thức sau khi chết.

7/ Một điều cần nhắc nữa là:

“Khi ra đi, người chết thường thấy hình ảnh của ông bà, cha mẹ hay thân quyến quá cố hiện ra, vẫy gọi mình. Đừng đi theo họ mà chỉ hướng đến Chúa, Phật hay Ánh Sáng, là con đường hướng thượng.”

Ghi lại những lời khuyên hữu ích vì cảm niệm công đức của Ni Sư.

Xin chia sẻ cùng tất cả. Thực hành là chuyện của mỗi người.

Hiền Thuận

Tôi cũng đã chuẩn bị cho sư ra đi hơn 10 năm qua, đã viết sẳn bản báo tin khi lìa đời, viết sẳn bài phân ưu cho Nhóm Thân hữu Cần Giuộc và Cần Đước, lời cám ơn ở nhà thờ và lời dặn sau cùng khá đầy đủ cho một đám tang. Tôi cũng đã chuẩn bị cho cuộc ra đi, hy vọng sẽ yên tâm ra đi. Linh hồn tôi sẽ thanh thản ra đi và người ở lại cũng không có bối rối vì lúc đó không biết phải làm gì trước, làm gì sau?

Một linh hồn đã chuẩn bị trước cho sự ra đi cũng tốt hơn là không chuẩn bị.

Tôi rất tâm đắc bài kinh mà mỗi tối chúa nhật và mỗi sáng hằng ngày, giáo dân nhà thờ Ngôi Lời Nhập thể đều đọc như sau:

“Lạy Chúa Con, con xin dâng các lễ Misa, các Thầy cả ở khắp tứ phương thiên hạ làm trong ngày hôm nay. Để Chúa Con thương đến các kẻ có tội đang mong sinh thì bây giờ và sẽ chết trong ngày hôm nay. Chớ gì máu châu báu Đức Chúa Giêsu là đấng chuộc tội làm cho Chúa Con thương đến các kẻ ấy.”

Tôi rất thích lời kinh này để nhắc nhở tôi rằng tôi có thể chết bất cứ lúc nào ngay ngày hôm nay. Cho nên nghĩ đến sự chết thường xuyên để giúp tôi sống như thế nào cho đúng trong từng ngày. Như vậy với sự chuẩn bị đó giúp cho tôi bớt sợ chết.

Ngoài ra mỗi sáng sớm tôi đều đi dự thánh lễ ở nhà thờ Ngôi Lời Nhập Thể để gần với Chúa hơn, tâm sự với Chúa nhiều hơn. Tôi cũng đã nhìn thấy các người già cả, đi phải chống gậy mà vẫn thường xuyên đi lễ nhà thờ đều đặn mỗi sáng.

Chúa Giê-su đã dặn các môn đệ rằng:

“Anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy, trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không Thầy đã nói với anh em rồi vì Thầy đi để dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy để Thầy ở đâu thì anh em cũng ở đó.Và Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi.”

ÔngTô-ma nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao biết được đường?” Đức Giê-su đáp: “ Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy (Ga 14: 1-6)”

*Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống, ai sống và tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết. (Gioan 11: câu 26)

* Thật vậy, không ai trong chúng ta sống cho chính mình cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng chết cho Chúa. Vậy dù sống dù chết chúng ta vẫn thuộc về Chúa (Roma 14: 7-8)

* Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống lại với Người: đó là niềm tin của chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rằng: một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người. Người đã chết, là chết cho tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay sống lại cho Thiên Chúa, trong Đức Ki-tô Giê-su. (Roma 6: 8-11)

* Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Ki-tô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người. Nhưng không phải thế! Đức Ki-tô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai an giấc nghìn thu. (1 Cor 15: câu 19,20)

Tác giả: Phùng Văn Phụng

Tháng 01/2015


 

Bác sĩ Tín, chuyện về người làm ra chai dầu xứ Việt

    Nhìn Lại Lịch Sử                                        

Những ai đã sống qua thời miền Nam tự do, ắt cũng phải nhớ đến chai dầu khuynh diệp. Sản phẩm nội hoá của người Việt được tin dùng trong toàn dân, đã vậy lại là một phần lịch sử đáng nhớ của người Sài Gòn nói riêng, và miền Nam Việt Nam nói chung.

Chai dầu của các thế hệ người Việt tự do

Dầu khuynh diệp Bác sĩ Tín bắt đầu phổ biến vào những năm 1950 của thế kỷ trước trên toàn miền Nam. Vào những năm ấy, trong túi các bà nội trợ, nhưng người buôn bán và các học sinh lúc nào cũng có chai dầu gió khuynh diệp Bác sĩ Tín.

Ngoài công dụng trị tứ thời cảm mạo, dầu khuynh diệp Bác sĩ Tín luôn gắn với các sản phụ và trẻ sơ sinh. Trong một gia đình có người ở cữ, mùi dầu khuynh diệp luôn thoang thoảng quanh nhà. Một nồi nước xông cũng cho vô vài giọt. Sản phụ sau khi xông xong, mùi khuynh diệp bao trùm cả người.

Đứa bé cũng thế, tắm rửa xong được xoa dầu ở lòng bàn tay, chân, ở thái dương. Người lớn, đau bụng cũng xoa. Đau răng, có người dùng cây tăm quấn bông gòn nhúng dầu chấm vào lỗ răng sâu. Người già nhức lưng đau tay chân cũng được xoa bóp bằng dầu khuynh diệp. 

Dầu khuynh diệp Bác sĩ Tín là một loại dầu màu xanh – sau này một số họa sĩ thường gọi là màu xanh khuynh diệp – đựng trong những chai nhỏ từ 5cc đến 100cc như trong một trích đoạn truyện ngắn: “Trước giờ chuyến xe đò Phi Long chuyển bánh đưa cậu con trai lên Sài Gòn trọ học, một bà má miền Nam, móc túi lấy ra một chai dầu tròn tròn, màu xanh lá cây đậm đang xài còn khoảng 2/3 đưa cho thằng con nói: “Con cất chai dầu khuynh diệp, phòng khi trái gió trở trời…”.

Dầu khuynh diệp Bác sĩ Tín ra đời khoảng cuối thập niên 40 của thế kỷ trước, sau khi Bác sĩ Bùi Kiến Tín chuyển nhà thuốc Đông Dược vào Sài Gòn thành lập nhà thuốc Bác sĩ Tín, bào chế ra loại dầu gió có thương hiệu cùng tên.

Ông sinh ra tại làng Bảo An, Điện Bàn (Quảng Nam) nhờ vậy lúc nhỏ ông biết được người dân quê ông hay dùng dầu tràm nấu từ lá chổi (chuổi). Sau khi tốt nghiệp y khoa tại Đại học Paris (1942), ông về nước và bắt đầu sản xuất loại dầu này và mua bản quyền dầu khuynh diệp của ông Viễn Đệ ở Huế. Ngoài dầu khuynh diệp Bác sĩ Tín còn có thuốc ho Bác sĩ Tín, thuốc bổ Bác sĩ Tín. Các sản phẩm của Bác sĩ Tín đều được ưa chuộng.

Dầu khuynh diệp Bác sĩ Tín có công thức đặc biệt riêng của nó. Đây là một loại dầu gồm hỗn hợp các loại tinh dầu như dầu tràm, dầu bạc hà, dầu hương nhu. Nhưng chủ yếu vẫn là tinh dầu khuynh diệp. Tràm, bạc hà, hay hương nhu… thì thời đó Việt Nam có thể trồng và chưng cất được, nhưng tinh dầu khuynh diệp với tinh chất Eucalyptol (lấy từ cây hồng tràm, tên khoa học là Eucalyptus) phải nhập từ Bồ Đào Nha.

Nhưng Bác sĩ Tín là ai?

Bác sĩ Bùi Kiến Tín sinh ngày 25 Tháng Chín năm 1912 (15-8 Nhâm Tý) tại quê ngoại làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Nguyên quán làng Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Thuở nhỏ ông còn có tên là Bùi Thứ. Ông là trưởng nam của ông Bùi Biên (ông Cửu Thứ) và bà Phan Thị Yến. 

Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống hiếu học và hào phú, gia đình ông là người khai hoang lập ấp ở vùng Trung Phước, huyện Quế Sơn và trở nên một gia đình giàu có vào hạng nhất nhì huyện ở tỉnh Quảng Nam trước Thế chiến thứ hai.

Năm 1930, đúng 18 tuổi, ông kết hôn với bà Nguyễn Thị Hòa con gái lớn của ông bà Nguyễn Liệu, tục gọi ông Nghè Liệu, ở làng Quảng Hóa, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Ông bà sanh hạ bảy người con gồm bốn trai, ba gái.

Ông Bùi Thứ thuở nhỏ học chữ Nho với một ông thầy đồ. Năm 1918 ông được gởi về bên ngoại đi học chữ Quốc ngữ tại trường làng Bảo An. Năm 1919, ông được gởi đi theo ông Giáo Hồ (anh cả của bà Cửu Thứ) làm hương sư ở làng Văn Cù tỉnh Thừa Thiên, ông bắt đầu học chữ Pháp. Năm 1925 học Đệ nhất niên trường Quốc Học Huế, nhưng sau đó một năm 1926 ông bị đuổi khỏi trường Quốc Học vì có tên trong sổ đen của sở Mật thám Pháp với lý do Hai Thứ thường hay lui tới chùa Từ Đàm nơi thực dân Pháp đang giam lỏng nhà Đại cách mạng Phan Bội Châu và tham gia vào phong trào bãi khóa tại trường Quốc Học cùng lễ truy điệu cụ Phan Chu Trinh. Cùng năm đó, Hai Thứ ra Hà Nội theo học tại trường Albert Saraut và đổi tên là Bùi Kiến Tín.

Tháng Tám năm 1932, Bùi Kiến Tín đậu Tú tài Tây. Cả làng, tổng, phủ, huyện, họ hàng bên nội, bên ngoại, bên vợ, đều tổ chức đón rước “Vinh quy Bái tổ” rất là trọng thể. Cờ trống võng lọng với một đoàn người cưỡi ngựa đi rước cậu Tú như rước một Trạng nguyên thuở xưa. Đám rước đi theo đường bộ từ đền thờ Khổng Tử ở Hội An (Faifo) về đến Vĩnh Trinh (bên nội), qua Bảo An (bên ngoại), đến Quảng Hóa (bên vợ), rồi đến Trung Phước. Đến đâu cũng “đóng quân” lại, mổ bò trâu, cúng bái, tiệc tùng mấy ngày đêm. Hồi đó cho đến 1935, cả tỉnh Quảng Nam trên 900,000 dân mà chỉ có hai người đậu Tú tài Tây, Lê Nhiếp đậu bên Pháp và Bùi Kiến Tín đậu ở Hà Nội.

Tháng Hai năm 1935, sau một thời gian học luật tại Đại học Luật khoa Hà Nội, ông được học bổng du học ở Pháp theo học ngành y khoa bác sĩ. Năm 1937 được tin thân mẫu từ trần, ông về nước thọ tang, xong trở qua Pháp học tiếp. Trong những năm tại Pháp ông đã cố công xem xét các phương pháp điều chế thuốc của Âu Mỹ, lại có cơ hội thí nghiệm những thảo mộc ở nước nhà gửi sang, lọc những nguyên chất dùng vào việc chế thuốc, thâu nạp cái hay của người đặng nâng cao giá trị những dược phẩm dồi dào của xứ mình.

Năm 1940 ông tốt nghiệp y khoa bác sĩ. Năm 1942 Bác sĩ Tín cùng với Bác sĩ Trương Đình Ngô và Dược sĩ Trương Xuân Nam lập một cơ sở sản xuất Âu Dược tại Qui Nhơn, tỉnh Bình Định, về sau vì thời cuộc, cơ sở nầy được dời vào Sài Gòn, Bác sĩ Tín chuyển sang nghiên cứu Đông Y. Năm 1944, ông đưa cả gia đình từ Quảng Nam vào lập nghiệp tại Sài Gòn và lập ra viện bào chế Đông dược miền Nam gọi là Nhà thuốc Bác sĩ Tín tại Phú Lâm Sài Gòn, Nhà thuốc Bác sĩ Tín được thành lập từ đó và phát triển không ngừng cho đến ngày 30 Tháng Tư 1975 và tạo nên thương hiệu “Dầu Khuynh Diệp Bác sĩ Tín”.

Bác sĩ Tín là vị bác sĩ Tây y người Việt Nam đầu tiên đem kiến thức Tây y để nghiên cứu các vị thuốc Nam (Việt Nam) vốn có rất nhiều tại nước ta và thuốc Bắc (Trung Hoa) kết hơp với nhau để bào chế ra những loại thuốc bình dân, rẻ tiền và công hiệu như VITOPORCE BST; ĐẠI Bổ BST; SIRO NHAU BST… và nổi tiếng nhất là “Dầu Khuynh Diệp Bác sĩ Tín” là một nhãn hiệu thương mại đã được cầu chứng tại Việt Nam trước 1975, ông sử dụng tiếng Việt trên các toa nhãn nhằm quảng bá rộng rãi đến công chúng, nhất là bà con nghèo ở thôn quê biết đến loại dầu gió do người Việt sản xuất. Khoảng năm 1959-1960 ông đã tiến hành quảng cáo tiêu dùng sản phẩm với giải thưởng trúng một chiếc xe sản xuất tại Anh Quốc hiệu AUSTIN… nên cũng có thể coi ông là người đầu tiên khai sinh ra môn Marketing ở Việt Nam.

Bác sĩ Tín được nhiều người biết đến không chỉ riêng trong lãnh vực Đông y dược mà ông còn là một nhà kinh doanh ở nhiều lãnh vực khác như về kỹ nghệ và tài chánh: Ông và trưởng nam Bùi Kiến Thành là đồng sáng lập viên công ty Bình Điện VABCO ở Biên Hòa (nay là nhà máy ACCU Đồng Nai), ông thành lập Đông Phương Ngân Hàng và Việt Nam Công Thương Ngân Hàng tại Sài Gòn. Trong ngành Địa ốc, ông thành lập công ty Địa ốc Tân Ba. Về Âu dược ông và các con lập ra các viện bào chế Tiandi tại Chợ Lớn và viện bào chế Hana tại đường Trương Minh Ký, Phú Nhuận. Ngoài ra Bác sĩ Tín còn có ý định thành lập một khu giải trí theo kiểu Disneyland tại khu đất đối diện Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa. Dự án đang tiến hành thì miền Nam bị cưỡng chiếm vào 30 Tháng Tư 1975 nên hoài bão của ông đành dang dở. 

Về lãnh vực văn hóa xã hội, Bác sĩ Tín cũng đã đóng góp rất nhiều công của cho các tôn giáo, hội đoàn, xây dựng nhiều công trình hữu ích cho hậu thế như Thích Ca Phật Đài tại Vũng Tàu; Viện Đại học Vạn Hạnh; trường Trung Học Bồ Đề tại Sài Gòn. Bác sĩ Tín cũng sáng lập và gia nhập nhiều tổ chức ái hữu, từ thiện và chuyên môn như Hội Khoa học và Kỹ thuật; Hội Ái hữu Quảng Đà; Hội Bùi Gia Vĩnh Thế; Phù Luân Hội (Rotary Club) khu vực Á châu và toàn thế giới. Khi di tản ra ngoại quốc, có lần Bác sĩ Tín đã cùng với cụ Phan Quảng Nam, ông Phan Bá Phụng, nhà thơ Phùng Minh Tiếng… vận động tái lập lại Hội Đồng hương Quảng Nam lại Nam Cali, nhưng công việc còn đang dang dở thì cụ Phan Quảng Nam bị thảm sát tại San Diego và Bác sĩ Tín phải về Pháp với gia đình nên công việc này đành xếp lại.

Về chính trị, Bác sĩ Tín đã tham gia vào nội các của Thủ tướng Ngô Đình Diệm với chức vụ Bộ trưởng Bộ Thông Tin (1954). Sau khi nền Đệ Nhất Cộng Hòa được thiết lập, ông không tham chính và được trưng tập phục vụ trong quân đội với cấp bậc y sĩ Trung tá làm việc tại Huế và Cà Mau một thời gian, sau đó ông được cử giữ chức Y sĩ Trưởng Phủ Tổng thống và Lữ đoàn Liên binh Phòng vệ Phủ Tổng thống (1960).

Năm 1969 ông ra tranh cử dân biểu Quốc Hội tại Sài Gòn nhưng thua phiếu Luật sư Trần Văn Tuyên. Kể từ đó ông chú tâm vào việc kinh doanh, công tác xã hội và tôn giáo cho đến ngày rời khỏi nước vào giờ phút chót của Tháng Tư năm 1975.

Đối với Bùi Tộc Vĩnh Trinh ông đóng góp rất nhiều công sức và tâm huyết cho tộc ta, giúp đỡ tạo điều kiện công ăn việc làm cho nhiều bà con còn khó khăn, lập Bùi Gia Vĩnh Thế Tương Tế Hội, lập Xá Lợi Phật Đài ở đồi Bác sĩ Tín (Biên Hòa), làm nơi cho bà con tộc Bùi giỗ tổ hằng năm xem như từ đường của Bùi Tộc trước 1975.

Với một tinh thần hiếu học và có tính cộng đồng xã hội cao, những năm 60-70 của thế kỷ 20 ông đã lập một quỹ học bổng cho những thanh niên ưu tú nhất của Quảng Nam có điều kiện được ra nước ngoài du học, góp phần canh tân đất nước bằng con đường giáo dục…

Ông mất ngày 23 Tháng Tám 1994 nhằm ngày 17-7 năm Giáp Tuất, thượng thọ 83 tuổi. Ông ra đi để lại bao tiếc thương cho con cháu, bà con dòng tộc và những người chịu ơn ông lúc sinh thời. Năm 1994 tại Sài Gòn có làm lễ truy điệu tưởng nhớ ông với rất nhiều người tham dự. Ông được an táng tại nghĩa trang thành phố Carqueiranne, Var, Pháp.

Sau năm 1975, chính quyền Bắc Việt chiếm hữu rất nhiều thứ ở miền Nam, bao gồm luôn cả công thức sản xuất dầu khuynh diệp. Hiện nay một số xí nghiệp dược phẩm Việt Nam đã dùng công thức của Bác sĩ Tín để tái sản xuất dầu khuynh diệp mang tên ông – nhưng lạ thay, một chai dầu đã đi theo cùng nhiều thế hệ, được yêu mến, nhưng rồi khi được sản xuất ra từ chế độ mới, nó cũng như phai nhạt dần và gần như bị quên lãng.

(Tài liệu trích từ văn bản do Thế thứ 18 cung soạn, Ban tu chính phổ hệ Bùi Kiến Tiến – Bùi Kiến Quang)


 

 Tại sao Chúa Giêsu muốn có những Kitô hữu cam kết sống trọn đời trong bậc tu trì qua các lời khấn độc thân, nghèo khó, vâng phục? – Cha Vương

 Bước sang Tháng 9 rồi bạn ơi! Xin Chúa an ủi và nâng đỡ bạn hôm nay. Hãy trân quý những giây phút mà bạn đang có nhé.

Cha Vương

Thứ 2: 01/9/2025  t6-22

GIÁO LÝ: Tại sao Chúa Giêsu muốn có những Kitô hữu cam kết sống trọn đời trong bậc tu trì qua các lời khấn độc thân, nghèo khó, vâng phục? Thiên Chúa là Tình yêu. Người cũng muốn chúng ta yêu Người, bằng cách dâng hiến trọn vẹn đời sống và tình yêu cho Thiên Chúa như Chúa Giêsu, nghĩa là sống: độc thân, nghèo khó, vâng phục. Những ai chọn lối sống này phải có trí óc, trái tim và đôi tay tự do để phục vụ Thiên Chúa và tha nhân.(YouCat, số 145)

SUY NIỆM: Có những bạn nam và nữ đã để Chúa Kitô hoàn toàn chinh phục mình, đến nỗi họ bỏ mọi sự vì Chúa, và Nước Trời (Mt 19,12) – bỏ cả những quà tặng rất tốt đẹp như tài sản, như quyền tự chủ, và tình yêu hôn nhân. Cuộc sống theo các Lời khuyên Phúc Âm trong khó nghèo, trinh khiết và vâng phục chứng tỏ cho mọi Kitô hữu rằng thế giới không phải là tất cả. Chỉ có sự “mặt đối mặt” với Chúa là hôn phu mới làm con người hạnh phúc thật sự.

Chúa Giêsu đưa mắt nhìn người thanh niên và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta, “Anh chỉ thiếu có một điều, hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” Mc 10, 21 Lời khuyên Phúc Âm: Sống khó nghèo, khiết tịnh, vâng phục là những lời khuyên mà Tin Mừng nêu lên để theo Chúa Kitô. (YouCat, số 145 t.t.)

❦ Theo Chúa Kitô luôn đòi hỏi phải can đảm lội ngược dòng. (ĐGH Bênêđictô)

LẮNG NGHE: Những ai thuộc về Đức Ki-tô Giê-su thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê. (Gl 5:24)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, quyết định theo Chúa là phải từ bỏ những gì thuộc về thế tục để dấn thân cho một lý tưởng cao đẹp hơn, xin Chúa gìn giữ và bảo vệ các linh mục, các nam nữ tu sĩ của Chúa để họ tự do làm chứng cho niềm tin và những giá trị cao quý của Kitô giáo.

THỰC HÀNH: Mời bạn đọc 10 Kinh Kính Mừng cầu nguyện cho các linh mục và các nam nữ tu sĩ trong Giáo Hội.

From: Do Dzung

************************

Trọn Đời Hiến Dâng-Sáng Tác: Đinh Công Huỳnh

Thể Hiện: Tố Hà

 Một câu chuyện thật, nhói lòng – (Đào Nam Hoà)

Lê Trường Giang 

 Một câu chuyện thật, nhói lòng.

Suy chuyện người ngẫm như câu chuyện của chính mình.

(St từ Sài Gòn báo )

Con ghi lại bài này thay cho nén hương lòng để thành tâm tưởng nhớ đến Bố Mẹ nhân ngày giỗ Bố lần thứ 8 và giỗ Mẹ lần thứ 7

Tôi không biết bắt đầu câu chuyện từ lúc nào, nhưng có lẽ ấn tượng nhất và rõ nét nhất mà hầu hết người dân miền Nam Việt Nam nhớ mãi là ngày 30/4/1975.

Khi miền Nam sụp đổ cũng là lúc bất ngờ tất cả nỗi thống khổ đày đọa ập xuống.

Nhanh như một cơn cuồng phong thịnh nộ phá nát tan hoang.

Mất tất cả!

Ngày 10/06/1975 tôi vẫn còn nhớ rất rõ.

Trước khi đi cái gọi là “học tập cải tạo” 10 ngày, dù với suy nghĩ chỉ là 10 ngày như lời thông báo, cha tôi cũng không có lấy mấy ngàn dằn túi.

Ông bảo tôi (lúc đó 19 tuổi) đem 2 chỉ vàng cuối cùng còn lại của gia đình- là đôi bông tai của bà nội tôi để lại- ra tiệm vàng bán.

Đó là kỷ vật quý nhất nhưng đành phải bán để mua ít lương thực cho ông mang đi.

Hai chỉ vàng lúc ấy bán được 33 ngàn.

Ông mua khoảng 2 ngàn đồng lương thực các thứ và dằn túi 1 ngàn.

Còn lại 30 ngàn ông dặn ở nhà cố gắng 13 mẹ con dè xẻn ăn uống đợi Ông về.

Mười ngày trôi qua nhanh chóng- không ai trong số cải tạo trở về.

Tôi nghĩ đây là một cú lừa mà đã và sẽ được lịch sử ghi lại kỹ hơn.

Giá sinh hoạt tăng từng giờ.

Buổi sáng 100 đồng 1 ổ bánh mỳ thì chiều đã lên 120.

Sau 3 tuần thì 12 anh em tụi tôi và mẹ tôi không còn một đồng nào trong nhà.

Chị tôi lớn nhất 21 tuổi còn đang đi học, và em út mới có 2 tuổi.

Mười hai con tàu há mồm tuổi đang lớn nuốt bao nhiêu cho đủ!

Cơm và thức ăn mỗi bữa mẹ tôi phải chia cho từng đứa.

Vài hột cơm sót nơi đáy nồi cũng không yên.

Chúng tôi đổ nước vào và cạo sạch không còn một hột.

Còn hơn là gạo châu củi quế.

Mẹ tôi và vài đứa em phải đi xâm canh làm ruộng rau muống, một hình thức của kinh tế mới để giãn dân.

Không lên voi nhưng phải xuống chó, mẹ tôi và em tôi ngày ngày vào ruộng hái rau muống xong gánh bộ về tới chợ cách đó 6 cây số để bán.

Buổi sáng khoảng 3 giờ khi trời còn mờ mịt hơi sương và giá lạnh, mẹ và em tôi thay nhau gánh bộ cho kịp phiên chợ sáng.

70 bó rau oằn trên vai người phụ nữ nhỏ bé cao 1,45 nặng chưa tới 40Kg.

6kg rau mới đổi được 1 kg gạo.

Một tuần mới cắt được một lần chờ cho rau mọc.

Những ngày còn lại là cấy rau, nhổ cỏ, trồng khoai mỳ…

Sức ăn trước ngày 30/4/75 của gia đình tôi một bữa là 3 lít gạo, tức 1 tuần 42 lít, khoan nói chuyện thức ăn cá mắm gì hết.

Nay 1 tuần chỉ còn 13 lít!

Bắt đầu tháng 7/1975 lần lượt đồ đạc trong nhà mọc cánh nhẹ nhàng, nhanh chóng, lả lướt, bay đi theo chân những kẻ buôn hàng.

Từ cái quạt trần, tôn cống, hàng rào, tủ quần áo, đài radio, giường sắt, đồng hồ treo tường, đồng hồ đeo tay … đều giã từ để về với chủ mới.

Hết sạch đồ thì mấy kẻ đi buôn bảo giở gạch bông, giở bớt tôn ngoài mái hiên, tôn trần nhà… bán tiếp.

Bán cho đến khi căn nhà nhỏ bỗng trở nên rộng tênh vì chả còn thứ gì ngoại trừ vài cái nồi nấu bằng củi đen thui cũng đã sứt quai, gãy gọng.

Buổi tối trải chiếu ngủ dưới đất là xong với cái bụng lép kẹp và cơn đói hành hạ.

Không biết bao lần tôi phải ăn tưởng tượng trong đêm khuya bằng cách hình dung mấy món ăn tầm thường ngày trước như vài con khô, miếng dừa kho, tô canh bầu.. ( Mơ mà cũng hà tiện không dám mơ thịt cá hải sản.)

Bố tôi sau 6 tháng trong trại cải tạo lần đầu được viết thư về, Ông dặn khi lên thăm nuôi, không cần mang theo gì cả vì trong trại có đủ mọi thứ. Hic!

Ông hiểu hơn ai hết, còn cái gì để mà mang cho ông!

Tôi nhớ mãi ngày lên thăm nuôi ông ở trại Thanh Hoá (Hố Nai), cả nhà chỉ có 1 cái xe đạp, còn lại mẹ và các em tôi cuốc bộ 8 cây số mang theo 1 cái giỏ đi chợ lưng lửng với ít thịt kho mắm ruốc, 1 ký đường, 2 hộp sữa và 1 bộ quần áo.

Nhìn những người đi thăm nuôi, có người gánh 2 bao đầy mà lòng tôi trào dâng niềm tủi hổ.

Sau đợt đổi tiền ngày 22/9/1975, chúng tôi như đàn chim vỡ tổ, tất cả bỏ học ngang, vài đứa em nhỏ tiếp tục theo mẹ làm ruộng rau muống, còn lại mỗi đứa một phương trời kiếm sống.

Đứa lên Gia Ray vào rừng lấy củi, làm lò than, đứa theo xe lửa bán trà đá, hàng rong, đứa bán thuốc lá.

Hơn 3 năm sau Bố tôi được cho về để nhìn xác nhà tan hoang điêu tàn loang lở, nhìn bầy con xanh khướt, gầy rạc, tản mát.

Một chị tôi bệnh tâm thần không người chăm sóc phải lang thang ăn xin đầu đường xó chợ, có lần xin không được, quá đói, chị giựt mấy miếng đậu hũ bỏ chạy, chị bị người ta phang đòn gánh chảy máu lỗ đầu giữa ngày bố tôi được tha về.

Bố không khóc, cũng không nói gì! Qua hàng xóm xin ít bông băng.

Lòng ông như xát muối!

Có lẽ ông bấy giờ mới thấm sâu mệnh đề “mất Nước là tất cả mất”.

Khóc lóc than van ích lợi gì.

Giọt nước mắt chỉ làm cho kẻ chiến thắng hả hê say sưa thêm mà thôi.

Rồi theo chủ trương, ông không được ở lại thành phố.

Họ hàng nhà tôi đa số cũng là thành phần Ngụy quân, Ngụy quyền nên không ai giúp gì được cho nhau.

Cuối năm 1978 Ông lên rừng Gia Ray ngay chân núi, cất túp lều nhỏ bé xiêu vẹo, ngày ngày ông và 2 em tôi sống nhờ rừng.

Ai ở rừng mới biết: ăn của rừng rưng rưng nước mắt!

Và từ đó chuỗi ngày lầm than, buồn thảm lại tiếp tục sau hơn 3 năm trong trại cải tạo.

Đói nhiều hơn no, buồn nhiều hơn vui.

Cực khổ nặng nhọc quần quật suốt cả ngày chỉ đủ kiếm vài lon gạo vài con cá khô.

10 năm sau, tôi đã làm ăn khá hơn, mua được chiếc xe máy Mini scootter, lần đầu tiên lên thăm Ông, quà cho Ông chỉ là 1 lít rượu đế nấu bằng rỉ mật. Ông mừng lắm vì tôi đã tương đối ổn định công việc.

Trong bữa cơm hôm đó, Ông nói:

-Bố năm nay 63 tuổi rồi, cuộc đời không dành cho Bố con mình được sống sum họp và đầy đủ.

Dù sao các con cũng cố gắng vươn lên để thoát khỏi bệnh tật, đói khát và tù đày.

Rồi Ông chỉ tay dưới chân ngọn núi Chứa Chan:

– Nhớ lời Bố dặn, nếu Bố có chết, các con không cần quan tài làm chi cho tốn kém, cứ bó chiếu vùi thây Bố dưới chân núi là Bố mát mẻ rồi.

Thú thật, lúc ấy nếu tất cả 12 anh em tôi gom lại chắc cũng không đủ tiền mua cái quan tài loại chót.

Ông biết và không muốn các con gánh nặng thêm!

Năm 1999, sau bao nhiêu là khó khăn vì không có tiền làm hồ sơ xuất cảnh diện HO, cuối cùng thì 4 bố con tôi cũng tới được Mỹ.

Ngày lên đường mẹ tôi và 9 em phải ở lại vì hộ khẩu lung tung không đuợc phái đoàn Mỹ chấp thuận.

Bốn bố con mà hành trang vỏn vẹn có 5 va ly nhỏ và nhẹ tênh, chưa tới 1/3 tiêu chuẩn trọng lượng.

Đến Mỹ 3 anh em tôi phải đi làm ngay sau tháng đầu tiên để kiếm tiền trả nợ lúc làm hồ sơ.

Bố tôi thì ăn welfare vì Ông đã 74 tuổi. Ban đầu hội thiện nguyện giúp thuê nhà, 4 bố con phải ở chung trong 1 căn apartment 2 phòng ngủ cùng với 2 người nữa là 6 người.

Quá chật, chúng tôi đành ra ở riêng trong khi Bố tôi được chính phủ Mỹ cho ở nhà Housing.

Và từ đó Ông sống cô độc, một thân một mình.

Nhưng cũng là lúc Ông làm được một việc lớn nhất, to nhất, ý nghiã nhất kể từ sau ngày 30/4/1975!

Hàng tháng Ông trả tiền điện và tiền nhà chưa tới tổng cộng 80$.

Thức ăn thì Ông đi xin các Hội từ thiện miễn phí.

Có lần tôi giận Bố kinh khủng.

Gia đình tôi cố tình chở Ông vào 1 quán kêu cho Ông mấy món ngon, Ông từ chối, chỉ xin cho 1 diã bánh cuốn là đủ.

Ông nói: Ở Việt Nam nhà mình còn quá khổ, Bố không đành ăn ngon bên này nhưng các con đi làm vất vả cần bồi bổ, cứ ăn đi.

Mỗi tháng số tiền dư còn lại gần 400$ Bố để dành và cứ 6 tháng Bố gởi về VN cho Mẹ và 9 đứa con còn ở lại.

Chị cả tôi viết thư qua có câu: “Bố ơi, nhiều lần con phải đi bán máu với số tiền 200 ngàn một lần để có tiền nuôi con.

Để có 200 ngàn đồng tiền Việt, tụi cò máu nó đã ăn chặn mấy chặng rồi. Cầm 300$ Bố cho mà con cứ ngỡ trong mơ. Đời con chưa bao giờ cầm số tiền lớn như thế… Phải bán 10 lần máu chỉ mới được 150$ …”

Bố đọc thư không khóc! mặc dù Bố biết chị chỉ cân nặng có… 34 Kg!

Hic! Gan góc đến thế là cùng!

Rồi việc phải tới!

Một ngày mùa đông năm 2006, tức sau gần 8 năm ở Mỹ.

Tự dưng Bố kêu và đưa tôi 8.000$ và một tờ di chúc – nét chữ vẫn còn rất đẹp dù đã có dấu hiệu nghệch ngoạc biểu hiệu của tuổi già – trong di chúc có nói rõ:

“Khi bố chết đi, bố đã hỏi cô Hoa, người của hội thiện nguyện, và biết rằng tiền hỏa thiêu không quan tài chỉ mất có 800$ thôi!.”

Bố nói bố không cần quan tài, không cần để nhà quàn làm gì cho tốn dăm ngàn, cứ để người ta đưa thẳng bố đi thiêu, trừ tiền thiêu ra, còn bao nhiêu con cứ làm theo di chúc gởi về cho người bên Viet Nam.

Sau đó mấy ngày, Bố đột qụy!

Người ta đưa Bố vào trại Dưỡng lão.

Rồi Bố hấp hối.

Ba anh em tôi họp nhau và quyết định làm theo di chúc của Bố.

Và chúng tôi phải ký một hợp đồng với nhà thiêu.

Khi Bố tắt thở, sau 1 tiếng người ta đuổi hết anh em tôi ra, trong phòng người ta bỏ Bố vào 1 cái bao và kéo cái fermeture là xong!

Quá đơn giản cho một kiếp người!

Khả năng 3 anh em tôi lúc đó mới đi làm ăn lương 1 giờ 8$ (lương tối thiểu) chỉ vừa đủ tiền nhà tiền ăn.

Vẫn biết có làm đám tang bỏ Bố vào quan tài bằng vàng với hàng ngàn người tham dự cũng vậy thôi vì Bố đâu biết gì nữa mà sao tôi vẫn cảm thấy xót xa vô bờ.

Cuối đời của một sĩ quan, từng chỉ huy hàng mấy trăm lính, từng chỉ huy mấy cung đường sắt, âm thầm, vắng lặng và quạnh hiu.

Không ai biết, không ai đưa tiễn!

Y như một chiến sĩ vô danh!

Người ta bỏ Bố lên chiếc xe kéo, đẩy ngang chỗ chúng tôi đang đứng, tất cả con, dâu và cháu chỉ có 5 người, họ dừng lại và hỏi chúng tôi có muốn nói gì không…

Tôi có cảm tưởng như một luồng điện lạnh chạy xé dọc sống lưng.

Tôi chỉ lắp bắp nói như kẻ không hồn:

– Vĩnh biệt Bố. Từ nay Bố không còn phải hy sinh nữa Bố nhé. Công ơn của Bố cao hơn núi Thái Sơn Bố ạ!

Rồi họ lạnh lùng kéo Bố tôi đẩy lên chiếc xe dài, đi chỗ nào thiêu hay làm gì, ở đâu, chúng tôi không được biết! Họ làm theo hợp đồng.

Tôi không khóc!

Không còn nước mắt để khóc!

Hai tuần sau tôi lấy tro cốt Bố.

Khi cô nhân viên nhà xác đưa hộp tro cốt ở dưới có ghi tên bố tôi, chỉ đến lúc bấy giờ, nước mắt tôi tự dưng tuôn ra đầm đìa – vô thức!

(Đào Nam Hoà)

Fb Lam Nguyen

” Cách đây vài năm mình đọc được câu chuyện này và cũng nghĩ là một truyện ngắn mà chất liệu được chắt lọc từ hiện thực cuộc sống của nhiều gia đình ở miền Nam sau 30/4/1975. Nay mới biết đây là câu chuyện có thật của một người con kể về người cha vĩ đại đáng kính trọng của anh Nam Hòa”

Ảnh: Vĩnh Long, tháng 6/1975 –

Một lớp học tập cải tạo sau ngày Sài Gòn sụp đổ.


 

VỢ CHỒNG SỐNG VỚI NHAU LÀ ĐỂ YÊU THƯƠNG, ĐỪNG NÊN HƠN THUA

Pham Nhat Minh

Trong đời sống hôn nhân, ai cũng mong tìm được một người để nắm tay đi cùng đến cuối con đường. Nhưng rồi, khi bước vào cuộc sống vợ chồng, ta mới thấy rằng hôn nhân không chỉ là mơ mộng ngọt ngào, mà còn là trách nhiệm, sự nhẫn nhịn và tình thương bền bỉ mỗi ngày.

Người ta thường nói: “Thuận vợ thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn.” Nhưng để được “thuận”, đâu chỉ là đồng ý hay chiều chuộng nhau, mà là biết yêu thương và nhường nhịn, biết bỏ đi cái tôi để giữ lấy cái chúng ta. Vợ chồng chung sống là để yêu thương, chứ không phải để hơn thua.

Có những gia đình tan vỡ, không phải vì hết tình, mà vì không ai chịu nhường ai một bước. Những lời nói vô tình, những cái nhìn đầy tự ái, những cuộc tranh cãi tưởng chừng nhỏ nhặt, nhưng lại khắc sâu dần thành khoảng cách. Người ta quên mất rằng, vợ chồng không phải là đối thủ, càng không phải là hai kẻ đứng ở hai đầu chiến tuyến để phân định thắng thua.

Trong hôn nhân, thắng thua chỉ làm cả hai cùng thua. Bởi khi một người thắng, nghĩa là người kia phải chịu tổn thương. Mà tổn thương của người kia, cuối cùng cũng chính là nỗi đau của mình. Hơn thua nhau một lời, một việc, có thể thoả mãn cái tôi trong chốc lát, nhưng lại gieo vào lòng nhau vết rạn không dễ gì hàn gắn.

Yêu thương mới là gốc rễ nuôi dưỡng hôn nhân. Người chồng khi thấy vợ mệt mỏi, hãy một lời an ủi thay vì trách móc. Người vợ khi thấy chồng thất bại, hãy một cái nắm tay thay vì chì chiết. Cuộc đời ngoài kia vốn đã quá nhiều giông bão, khi bước về nhà, hãy để gia đình là nơi ấm áp, là chỗ dựa bình yên, chứ đừng biến nó thành chiến trường.

Thật ra, hạnh phúc vợ chồng không nằm ở chỗ ai đúng ai sai, mà ở chỗ còn nắm tay nhau đi tiếp được hay không. Đôi khi, hạ cái tôi xuống một chút, chịu thua thiệt một chút, lại chính là cách để giữ lấy bình yên dài lâu. Một lời xin lỗi đúng lúc, một cái ôm nhẹ nhàng, một sự im lặng đầy bao dung… đôi khi quý giá hơn nghìn lời lý lẽ.

Vợ chồng sống với nhau, quan trọng nhất không phải là người này giỏi hơn hay người kia yếu hơn, mà là cùng nhau đi qua mọi vui buồn, cùng nhau vun đắp yêu thương, cùng nhau biến mái ấm thành nơi tràn đầy hạnh phúc.

Đừng đợi đến khi mất đi rồi mới nhận ra, hóa ra những lần cãi vã ngày xưa chẳng đáng là bao. Đừng để một đời người đi qua trong tiếc nuối, vì đã sống cạnh nhau mà chưa kịp yêu thương đủ đầy.

Hãy nhớ rằng, trên đời này chẳng có ai hoàn hảo. Vợ chồng đến với nhau, chẳng phải để đòi hỏi sự hoàn mỹ, mà là để bù đắp cho nhau, cùng nhau trưởng thành, cùng nhau đi đến cuối con đường.

Vậy nên, thay vì hơn thua, hãy chọn yêu thương. Thay vì trách móc, hãy chọn bao dung. Bởi rồi mai này, khi nhìn lại, bạn sẽ thấy điều quý giá nhất không phải là mình từng “thắng” bao nhiêu lần, mà là còn giữ được bàn tay đã nắm từ thuở ban đầu.

Vợ chồng sống với nhau là để yêu thương, đừng nên hơn thua – bởi hạnh phúc vốn dĩ chẳng cần lý lẽ, mà chỉ cần một trái tim biết nhường nhịn và một tình yêu đủ lớn để bao dung tất cả.

Cuộc đời này ngắn lắm, một đời người trôi qua thoáng chốc, đừng để những giận hờn, những lời hơn thua vô nghĩa làm lãng phí những tháng năm đáng quý. Tiền bạc rồi cũng sẽ hết, danh vọng rồi cũng phai, nhưng tình nghĩa vợ chồng, sự yêu thương và đồng hành mới là thứ bền lâu nhất.

Nếu hôm nay bạn còn có vợ, có chồng bên cạnh, hãy biết trân trọng. Đừng ngần ngại ôm lấy nhau, nói một lời yêu thương, buông bỏ một lời cãi vã. Hạnh phúc đâu cần lớn lao, đôi khi chỉ là một bữa cơm giản dị, một ánh mắt sẻ chia, một bàn tay nắm chặt.

Hãy sống sao để sau này, khi tóc bạc, mắt mờ, vẫn có thể tựa vào nhau mà mỉm cười: “Cảm ơn vì suốt đời ta đã không buông tay.”

Bởi vợ chồng sống với nhau, rốt cuộc, đâu phải để hơn thua, mà chỉ là để yêu thương…

tg phạm nhật minh

ngày 29/08/2025


 

Trả trăm năm lại bụi hồng rồi đi…

Nguyễn Duy Nhân 

Ngày xưa chào Mẹ, ta đi

Mẹ ta thì khóc, ta đi thì cười

Mười năm rồi lại thêm mười

Ta về ta khóc, Mẹ cười lạ không

Ông ai thế? Tôi chào ông!

Mẹ ta trí nhớ về mông mênh rồi

Ông có gặp thằng con tôi

Hao hao tôi nhớ nó người như ông

Mẹ ta trả nhớ về không

Trả trăm năm lại bụi hồng rồi đi…

* Nhà thơ Đỗ Trung Quân

* Thư pháp: Cô Mỹ Lý

BẼ BÀNG- Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Người băng qua giữa họ mà đi!”.

Thần học gia Jan Hus tin rằng, Lời Chúa là quyền lực tối cao, không thể sai lầm. Sinh nhật 40, tại Constance, Đức, ông chết vì niềm tin đó bởi những người chối từ Lời Chúa. Trước khi tắt hơi, Hus la lớn, “Những gì tôi dạy bằng môi, tôi sẽ đóng ấn bằng máu!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng hôm nay không nói đến việc chối từ Lời Chúa, nhưng nói đến việc chối từ “Ngôi Lời Thiên Chúa!”. Phúc Âm tường thuật sự ‘bẽ bàng’ của Chúa Giêsu khi những người cùng quê không nhận biết Ngài – Con Thiên Chúa – và sứ điệp Ngài mang đến.

Thật dễ hiểu, một người trẻ rời quê đã lâu, nay trở về làng và cất lời huấn giáo. Không lạ, họ tẩy chay; tệ hơn, muốn hại chàng! “Sự quen thuộc thường sinh ra khinh thường!” – Aesop. Vậy mà việc Chúa Giêsu trở lại quê nhà đích thực là một cuộc ‘hiển linh’, ‘epiphany’; đúng hơn, một cuộc viếng thăm uy nghi của Thiên Chúa giữa dân Ngài. Thánh Vịnh đáp ca ‘bất ngờ’ diễn tả, “Chúa ngự tới cai quản địa cầu!”. “Người ta chậm chạp nhận ra sự vĩ đại nếu nó lớn lên ngay trong sân sau của họ!” – George Eliot.

Sự ‘bẽ bàng’ này nhiều lúc cũng là trải nghiệm của bạn và tôi. Chúng ta cảm thấy việc nói về Chúa với một người lạ sẽ dễ hơn so với một người thân. Nhưng điều quan trọng ở đây là cách thức chúng ta ‘đón nhận phản ứng’ từ những con người này. Họ có thể tẩy chay, dèm pha và có thể hành xử tệ; nhưng đây là lúc mức độ khiêm tốn của chúng ta được thử nghiệm, “Sự bẽ bàng chính là phép thử của lòng khiêm nhường!” – Henry Newman. Như Chúa Giêsu, nhiều lúc, chúng ta cũng phải “băng qua giữa họ mà đi!”.

Ngược lại, sẽ khó hơn nhiều, khi bản thân chúng ta để cho ai đó truyền cảm hứng bởi niềm tin và lòng đạo đức của họ; đặc biệt, khi người ấy là một người thân! Sự thật là chúng ta dễ thấy những lỗi lầm của họ hơn là nhận ra những nhân đức nơi họ. Vậy mà việc của chúng ta không phải là tập trung vào những thiếu sót của họ nhưng là nhìn thấy Chúa trong họ; và dẫu họ thế nào, họ vẫn là sứ giả của Chúa! “Ta tôn kính các thánh của quá khứ, nhưng lại vấp ngã trước các thánh đang sống cùng ta!” – F. Mauriac.

Anh Chị em,

“Người băng qua giữa họ mà đi!”. Chớ gì bạn và tôi không để Chúa Giêsu băng qua mỗi khi Ngài viếng thăm! Ngài đang đến – ‘hiển linh’ – và vào ngày sau hết, sẽ đón chúng ta để “ở cùng Ngài mãi mãi” – bài đọc một. “Trong ngày Ngài quang lâm, chúng ta không bị bỏ lại trong bẽ bàng, nhưng được cất lên trong sự hiện diện của Ngài mãi mãi!” – C.S. Lewis. Không chỉ đến trong Thánh Thể, trong Lời, Ngài còn đến trong tha nhân, dưới mọi dạng thức – những ‘nhà tạm di động’ – chung quanh chúng ta mỗi ngày. “Bi kịch không phải là Đức Kitô không hiện diện, nhưng là Ngài đi ngang qua mà chẳng được để ý!” – Thomas Merton. Hãy nhận ra Ngài, nghe Ngài; và nhất là để Ngài biến đổi! “Chỉ nhận ra Đức Kitô – không đủ – chúng ta còn phải để Ngài tái tạo cuộc đời mình!” – Bênêđictô XVI.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con khiêm tốn đón nhận khước từ của người đời, nhưng luôn mở toang tâm hồn để không từ khước Chúa!”, Amen. 

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

***************************************************

Lời Chúa Thứ Hai Tuần XXII Thường Niên, Năm Lẻ

Chúa sai tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 4,16-30

16 Khi ấy, Đức Giê-su đến Na-da-rét, là nơi Người đã được dưỡng dục. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh. 17 Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ I-sai-a. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng : 18 Thần Khí Đức Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, 19 công bố một năm hồng ân của Đức Chúa.

20 Đức Giê-su cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường rồi ngồi xuống. Trong hội đường, trăm con mắt đều đổ dồn về phía Người. 21 Người bắt đầu nói với họ : “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai quý vị vừa nghe.” 22 Mọi người đều tán thành và thán phục những lời ân sủng từ miệng Người nói ra.

Họ bảo nhau : “Ông này không phải là con ông Giu-se đó sao ?” 23 Người nói với họ : “Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ : Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình ! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào !” 24 Người nói tiếp : “Tôi bảo thật các ông : không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.

25 “Thật vậy, tôi nói cho các ông hay : vào thời ông Ê-li-a, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Ít-ra-en ; 26 thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Xa-rép-ta miền Xi-đôn. 27 Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Ê-li-sa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Ít-ra-en, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Na-a-man, người xứ Xy-ri thôi.”

28 Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. 29 Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành -thành này được xây trên núi-. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. 30 Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.


 

Thiên Chúa tỏ mình ra trong Cựu ước thế nào?- Cha Vương

Nguyện xin phúc lành và bình an của Thiên Chúa đến với bạn trong lúc này nhé.

Cha Vương

CN 31/08/2025   1-9-21

GIÁO LÝ: Thiên Chúa tỏ mình ra trong Cựu ước thế nào?Thiên Chúa tỏ mình ra trong Cựu ước như là Đấng dựng nên thế giới này vì Tình yêu, và Người trung tín với loài người, cả sau khi họ sa ngã phạm tội xa cách Người. (Youcat, số 8)

SUY NIỆM: Thiên Chúa tự mặc khải trong lịch sử: Người đã ký giao ước với ông Nôê để cứu độ mọi loài sinh vật. Rồi kêu gọi ông Abraham để ông trở nên Cha của nhiều dân tộc (Kn 17,5) và Người qua ông mà chúc phúc cho muôn dân trên trái đất (Kn 12,3). Dân Israel, phát xuất từ Abraham trở nên sở hữu riêng của Người. Với ông Môsê Người tỏ cho ông Tên của Người. Tên rất huyền bí được ghi chép thường là dưới hình thức Yahvê, nghĩa là, “Ta là đấng hiện hữu”. Người giải thoát Israel khỏi nô lệ Ai Cập, ký với dân giao ước ở núi Sinai và ban cho dân Luật của Người qua ông Môsê. Thiên Chúa không ngừng sai đến với dân các tiên tri để kêu gọi họ ăn năn trở lại và đổi mới giao ước. Các tiên tri loan báo rằng Thiên Chúa sẽ ký kết một giao ước mới và vĩnh viễn để đem lại một sự đổi mới triệt để và sự cứu độ dứt khoát. Giao ước này sẽ ban cho cả nhân loại.

  Mặc khải là gì? Mặc khải là việc Thiên Chúa biểu lộ bằng cách tự cởi mở, tự bày tỏ và nói cho thế giới biết về sáng kiến riêng của Người.

LẮNG NGHE: Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật. (Ga 1:14)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, con không thể nhận biết Tình Yêu mà Chúa đã dành cho con nếu Chúa không tỏ ra, và nếu con không quyết tâm tìm kiếm. Xin cho con không dừng lại ở những niềm vui hay an ủi mau qua nhưng luôn tìm kiếm và thi hành ý Chúa trong mọi sự để được sống với Chúa muôn đời.

THỰC HÀNH: Tin tưởng mình đã tìm ra đúng Đấng đáp ứng được mọi khát vọng của đời người, mời bạn dành thời gian để học hỏi, tìm hiểu về Đấng mà bạn tin qua việc đọc Kinh Thánh.

From: Do Dzung

********************

Con Nhớ…Chúa Ơi! (Sáng tác: Lâm Hoàng Ân) – Xuân Phương 

VÌ SAO CHỬI KIỂU “NGU XUẨN NHẤT NHÌ LÀ TT MỸ” NHƯNG NƯỚC MỸ KHÔNG PHẢN ỨNG?

Lê Thọ Bình

23 Th8, 2025

Hiếm có nguyên thủ quốc gia nào trên thế giới bị chỉ trích, bị gọi tên một cách cay nghiệt như Tổng thống Mỹ. Từ “gã cao bồi ngu ngốc” (George W. Bush), “gã hề tóc vàng” (Donald Trump), đến “lão già lẩm cẩm” (Joe Biden), những cách gọi mỉa mai này xuất hiện không chỉ trong dư luận quốc tế mà cả ngay trong nội bộ nước Mỹ.

Điều đáng chú ý: Washington chưa từng gửi công hàm phản đối hay tìm cách trả thù những người buông lời xúc phạm. Vì sao?

Trước hết, đó là hệ quả của nền dân chủ lâu đời. Tại Mỹ, Tổng thống là người đứng đầu hành pháp, nhưng không đứng trên nhân dân. Họ được bầu lên, có nhiệm kỳ, chịu sự giám sát chặt chẽ của Quốc hội, Tòa án, truyền thông và chính công dân. Bị chỉ trích, thậm chí bị mỉa mai, châm biếm, là “quyền được bao gồm” trong bản chất chức vụ. Một xã hội tự do coi sự hài hước, châm biếm chính trị là bình thường, thậm chí là một phương thức kiểm soát quyền lực.

Thứ hai, Mỹ hiểu rằng sức mạnh quốc gia không đến từ việc bảo vệ danh dự cá nhân của lãnh đạo. Một công hàm phản đối vì “ai đó gọi Tổng thống là ngu xuẩn” chẳng những vô nghĩa mà còn làm nước Mỹ trở nên nhỏ bé.

Với Washington, giá trị cốt lõi cần bảo vệ là hình ảnh của thể chế, một nền dân chủ đủ tự tin để chấp nhận tiếng chửi. Sức mạnh của Mỹ nằm ở chỗ: dù Tổng thống bị chế giễu, bộ máy quốc gia vẫn vận hành và luật pháp vẫn được tôn trọng.

Thứ ba, việc lãnh đạo bị công khai chỉ trích lại góp phần củng cố niềm tin vào dân chủ Mỹ. Khi người dân thấy họ có thể gọi Tổng thống bằng những từ ngữ khắc nghiệt nhất mà không bị bắt giam, khi thế giới thấy báo chí Mỹ công khai điều tra và phơi bày sai phạm của lãnh đạo, đó chính là bằng chứng thuyết phục về một xã hội tự do.

Không phải ngẫu nhiên mà các tờ báo lớn nhất Mỹ, như The New York Times hay The Washington Post, lại là những “người chỉ trích số một” của các đời Tổng thống.

Tổng thống Mỹ có thể bị chửi, nhưng chính việc chấp nhận bị chửi lại giúp nước Mỹ mạnh hơn. Nó khiến các đời lãnh đạo phải nỗ lực hơn để thuyết phục công chúng. Nó gửi ra thế giới thông điệp: “Chúng tôi đủ vững để chịu đựng sự chỉ trích.” Và chính điều đó, chứ không phải những phản ứng giận dữ trước lời xúc phạm, mới tạo nên vị thế toàn cầu của Hoa Kỳ.

Một chính quyền thật sự mạnh không cần bịt miệng ai để giữ uy tín; uy tín của nó đến từ kết quả và sự minh bạch. Và đó là lý do, dù Tổng thống Mỹ bị chửi thậm tệ, nước Mỹ vẫn chẳng cần phản ứng, vì sức mạnh thực sự không đến từ việc đòi người khác tôn trọng, mà từ việc tự chứng minh mình xứng đáng được tôn trọng.

Nguồn: FB Lê Thọ Bình

https://www.facebook.com/share/p/1FeWM3FmR2/