Khoa Học Cuối Tuần: Hy vọng mới cho bệnh nhân ung thư tuyến tụy – Prancreatic Cancer

Theo nhật báo WSJ

Phương pháp điều trị mới mang lại hy vọng cho bệnh nhân mắc một trong những căn bệnh ung thư nguy hiểm nhất ở tuyến tụy (Prancreatic Cancer)

Một nửa số bệnh nhân ung thư tuyến tụy sống chưa đầy một năm sau khi được chẩn đoán. Nhưng các nhà nghiên cứu cho biết vẫn có khả năng thay đổi.

Pranathi Perati sắp hết thời gian để điều trị bệnh ung thư tuyến tụy giai đoạn bốn khi cô biết mình sẽ được tiêm thêm một mũi nữa: một thử nghiệm lâm sàng để kiểm tra một loại thuốc mới.

Tỷ lệ sống sót của Perati rất mong manh vì chỉ có 3% bệnh nhân ung thư tuyến tụy giai đoạn cuối vẫn còn được sống sau năm năm điều trị. Có tới một nửa số bệnh nhân ung thư tuyến tụy sống chưa đầy một năm sau khi được chẩn đoán. Đối với bà Perati, loại thuốc mới khám phá, có tên là daraxonrasib từ hãng bào chế  Revolution Medicines đã giúp bà sống sót trong 17 tháng qua và vẫn đang tiếp tục sống.

“Có người từng nói với tôi rằng tôi đã trúng số thử nghiệm lâm sàng, và tôi thực sự cũng cảm thấy như vậy”, Perati, 54 tuổi, một nhà sinh học phân tử sống tại Cupertino, California, và đang chiến đấu với căn bệnh ung thư tuyến tụy lần thứ hai, cho biết. “Tôi thấy rất nhiều hy vọng”.

Tuyến tụy

Ung thư tuyến tụy là một trong những loại ung thư khó điều trị nhất. Thường được phát hiện muộn, căn bệnh này giết chết gần 52.000 người ở Hoa Kỳ mỗi năm, khiến nó trở thành nguyên nhân gây tử vong do ung thư đứng thứ ba ở quốc gia này, sau ung thư phổi và ung thư đại tràng. Tỷ lệ ca bệnh tăng dần, đặc biệt là ở phụ nữ trẻ , một phần là do tỷ lệ béo phì gia tăng.

Các bác sĩ trong lĩnh vực điều trị ung thư có một niềm lạc quan mới, nhờ vào làn sóng các liệu pháp mới đang được phát triển. Nhiều loại, bao gồm cả thuốc của Revolution Medicines, nhắm vào một gen gọi là KRAS, giúp kiểm soát sự phát triển của tế bào. Khoảng 90% các trường hợp ung thư tuyến tụy có đột biến KRAS, khiến khối u của họ có khả năng dễ bị tổn thương. Các công ty bao gồm Pfizer và Eli Lilly hiện cũng có thuốc chặn KRAS trong các thử nghiệm trên người giai đoạn đầu.

Tế bào ung thư với gen KRAS bị tác động làm cho tê liệt, hình minh họa ngày 10 tháng 11 năm 2020 bởi bác sĩ  Ludovic Bourré, Tiến sĩ

Tiến sĩ Sunil Hingorani , giám đốc Trung tâm Ung thư Tuyến tụy, bác sĩ xuất sắc tại Trung tâm Y tế Đại học Nebraska, cho biết: “Kras là động lực chính thúc đẩy bệnh ung thư tuyến tụy”. “Và chúng tôi vẫn chưa thể tìm ra loại thuốc nào thực sự có hiệu quả mãi cho đến thời điểm chỉ có vài năm trở lại đây”.

Oncogenic KRAS Drives Immune Suppression in Colorectal Cancer: Cancer Cell

Gen KRAS ở bệnh nhân điều trị theo thuốc mới nhằm ức chế Gen. Hình minh họa cho thấy các tế bảo ung thư (màu lục và màu tím) bị hủy.

Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ,  khoảng 480 thử nghiệm lâm sàng giai đoạn đầu và 85 thử nghiệm lâm sàng giai đoạn cuối đối với bệnh ung thư tuyến tụy tiến triển đã mang lại năm loại thuốc mới được chấp thuận kể từ năm 2000.

Ukraine chính là tương lai của Việt Nam và các nước nhỏ khác

Ba’o Tieng Dan

27/02/2025

 Trần Hữu Huỳnh

LGTTác giả bài viết, LS Trần Hữu Huỳnh từng là Trưởng ban Pháp chế Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và là cựu Chủ tịch Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC)… Ông tốt nghiệp khoa Luật tại Trường Đại học Tổng hợp Kiev năm 1987.

LS Trần Hữu Huỳnh. Nguồn: Bộ Tư pháp VN

Lời bình của nhà báo Vũ Kim Hạnh: Vì có mấy người thích nói rằng, chuyện nội bộ nước mình sao không dám nói gì, mà nói chuyện thiên hạ xa xôi, nên sẵn dịp đọc bài này mình trả lời thắc mắc trên: Chuyện nước khác không xa xôi đâu ạ, khi mà nước giàu hơn, lớn hơn, mạnh hơn, bất chấp đạo trời, pháp luật quốc tế, đòi chiếm nước này, sáp nhập nước kia, tống tiền nước nọ mà thành công thì… đến phiên nước mình sẽ tính sao? Cứ làm ngơ, né tránh “chuyện khó nói” đó được không?

***

Sau đây là bài viết của LS Trần Hữu Huỳnh. Tựa bài do Tiếng Dân đặt:

Sáng nay, thấy tin dân Mỹ biểu tình ủng hộ Ukraine, yêu cầu “trả lại vũ khí hạt nhân lại cho Ukraine” (ảnh 1).

Vì có một số bà con chê Ukraine ngu, dại, phản trắc, gây cảnh “huynh đệ tương tàn, nồi da nấu thịt” tôi xin gửi bà con thông tin có liên quan về Ukraine sau khi Ukraine tách khỏi Liên Xô, đã có ít nhất là có 2 hiệp định lớn nhằm giải quyết vấn đề Ukraine hậu xô viết:

  1. Hiệp định 1994 về kho vũ khí hạt nhân trên đất Ukraine (Bản ghi nhớ Budapest)

Thời gian ký kết: Ngày 5 tháng 12 năm 1994 tại Budapest, Hungary.

Các bên tham gia: Ukraine, Nga, Mỹ và Anh.

Nội dung chính: Ukraine đồng ý từ bỏ kho vũ khí hạt nhân lớn thứ ba thế giới (thừa kế từ Liên Xô) và gia nhập Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT) với tư cách quốc gia phi hạt nhân.

Đổi lại, Nga, Mỹ và Anh cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền và biên giới hiện tại của Ukraine, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa Ukraine, đồng thời hỗ trợ nếu Ukraine bị tấn công (đặc biệt liên quan đến vũ khí hạt nhân).

Kết quả: Đến tháng 6 năm 1996, Ukraine hoàn tất việc chuyển giao toàn bộ vũ khí hạt nhân cho Nga và tháo dỡ các cơ sở liên quan với sự hỗ trợ của Mỹ.

Ý nghĩa và tranh cãi: Hiệp định được xem là bước đi quan trọng trong kiểm soát vũ khí toàn cầu thời hậu Chiến tranh Lạnh, nhưng sau này, nhiều người Ukraine cho rằng việc từ bỏ vũ khí hạt nhân là sai lầm khi Nga vi phạm cam kết (như vụ sáp nhập Crimea năm 2014).

  1. Hiệp định Minsk

Thời gian ký kết: Minsk I (tháng 9 năm 2014) và Minsk II (tháng 2 năm 2015) tại Minsk, Belarus.

Các bên tham gia: Ukraine, Nga, phe ly khai thân Nga ở Donetsk và Luhansk, với sự trung gian của Pháp, Đức (định dạng Normandy) và giám sát của OSCE.

Nội dung chính:

Minsk I: Nhằm chấm dứt giao tranh ở miền Đông Ukraine, kêu gọi ngừng bắn, rút vũ khí hạng nặng, trao đổi tù nhân và giám sát bởi OSCE, nhưng không được thực thi hiệu quả.

Minsk II: Củng cố Minsk I, yêu cầu ngừng bắn từ ngày 15/2/2015, rút vũ khí hạng nặng tạo vùng đệm, rút lực lượng nước ngoài khỏi Ukraine, tổ chức bầu cử địa phương ở Donetsk và Luhansk theo luật Ukraine, cải cách hiến pháp để trao quyền tự trị cho miền Đông, và khôi phục kiểm soát biên giới cho Ukraine.

Kết quả: Dù giảm cường độ xung đột, các bên không tuân thủ đầy đủ (Nga phủ nhận hiện diện quân sự, Ukraine phản đối bầu cử dưới sự kiểm soát của phe ly khai), khiến thỏa thuận không đạt được hòa bình bền vững.

Ý nghĩa: Là nỗ lực ngoại giao chính để giải quyết xung đột Nga-Ukraine ở Donbas, nhưng bị coi là thất bại do thiếu sự thực thi và bất đồng sâu sắc giữa các bên.

Cả hai hiệp định đều phản ánh những thời điểm quan trọng trong lịch sử Ukraine, liên quan đến an ninh quốc gia và quan hệ với Nga, nhưng đều để lại nhiều vấn đề chưa giải quyết.

Lời bàn của tui (Có tham khảo AI):

1 Quốc gia có quyền tự quyết không?

Câu trả lời là “Có”, Hiến chương LHQ đã quy định: “Tất cả các dân tộc đều có quyền tự quyết; dựa trên quyền đó, các dân tộc tự do quyết định chế độ chính trị của mình và tự do mưu cầu phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa”.

  1. Nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ có phải là nguyên tắc của LHQ không?

Câu trả lời là “có”! Nguyên tắc này cũng đã được Việt Nam nhiều lần sử dụng để đấu tranh với các thế lực nước ngoài.

  1. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp quốc tế bằng hoà bình, thương lượng, không được dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực, có phải đã được ghi trong Hiến chương LHQ không?

Câu trả lời là “Có”. Việt Nam ta luôn lên án mọi hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực trong việc giải quyết các tranh chấp quốc tế.

  1. Dựa trên các nguyên tắc đó, tui lên án bất kỳ mọi hành động quân sự, dưới bất kỳ danh nghĩa nào, viện bất cứ một lý do nào như để dạy cho ai “một bài học” hôm qua, hay “mở chiến dịch quân sự đặc biệt” hôm nay để chống lại một quốc gia có chủ quyền khác khi họ quyết định lựa chọn tương lai cho chính mình.

Biện minh cho xâm lược hôm nay có nghĩa là mình tự trói quyền tự bảo vệ trong tương lai. Có bạn chê tui ngây thơ, lý thuyết, rằng thế giới xưa nay “luật trong tay kẻ mạnh”, mình “yếu không nên ra gió”, nhưng:

  1. i) Nước nhỏ không dựa vào chính nghĩa và luật pháp quốc tế thì biết dựa vào cái gì và:
  2. ii) Nhiều khi “cây muốn lặng gió chẳng đừng”, bão hung tàn nó nổi lên thì ngả nghiêng tre pheo, liệu có chịu nổi?

(Biển Đông theo Luật biển của LHQ và theo cái gọi là “thực tế lịch sử” là tiếp cận theo hai cách khác nhau và kết quả có thể khác nhau đó nha).

Những lúc này tôi lại hay nhớ đến lời vua Lê Thánh Tông “Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại tự tiện vứt bỏ?… Nếu người nào dám đem một tấc đất của vua Thái Tổ để lại làm mồi cho giặc, thì tội phải tru di”. (Đại Việt sử ký toàn thư).

Biểu tình ủng hộ Ukraine ở Washington, DC ngày 22-2-2025. Nguồn: Ostap Yarysh/ Pravda

Ba nhân vật chính tham gia ký Budapest Memorandum ngày 14-1-1994: Tổng thống Mỹ Bill Clinton (trái), Tổng thống Liên bang Nga Boris Yeltsin (giữa) và Tổng thống Ukraine Leonid Kravchuk, cùng bắt tay ở Moscow, trong buổi lễ chính thức mà Mỹ và Nga đồng ý ngưng bắn tên lửa hạt nhân tầm xa vào nhau. Nguồn: AP/Wide World Photo 

Từ trái qua: Tổng thống Nga Putin, Tổng thống Pháp Hollande, Tổng thống Ukraine Petro Poroshenko và Thủ tướng Angela Merkel tại Hội nghị Misnk. Nguồn: Sergei Grits/AP


 

10 CHỮ “ĐỪNG” GIÚP BẠN SỐNG KHÔN NGOAN HƠN

Chính Trực

  1. Đừng vội hưởng thụ: Khi năng lực chưa đủ, hãy kiên nhẫn học hỏi và trau dồi, điều tốt đẹp sẽ đến khi bạn xứng đáng.
  2. Đừng buông thả bản thân: Nếu chưa sẵn sàng đối diện với hậu quả, hãy biết kiềm chế ham muốn và suy nghĩ cẩn trọng.
  3. Đừng mất bình tĩnh: Khi bị phản bác, hãy lắng nghe, im lặng đúng lúc và tìm cách học hỏi thay vì tranh cãi.
  4. Đừng nóng giận: Sự giận dữ chỉ khiến bạn mất kiểm soát. Hít thở sâu và bình tĩnh trước khi đưa ra quyết định.
  5. Đừng sợ thất bại: Thất bại là cơ hội để trưởng thành. Hãy mạnh dạn đối mặt và học hỏi từ nó.
  6. Đừng bỏ ngoài tai lời khuyên của cha mẹ. Kinh nghiệm của họ là tài sản quý báu, hãy lắng nghe và rút kinh nghiệm.
  7. Đừng cố làm hài lòng người khác: Hãy tập trung phát triển bản thân, sức hút sẽ đến từ giá trị thực của bạn.
  8. Đừng buồn khi bị lợi dụng: Hãy nhìn nhận đó là cơ hội để giúp đỡ và phát huy khả năng của mình.
  9. Đừng lãng phí: Trân trọng những gì bạn đang có, bởi đôi khi chỉ khi mất đi, ta mới nhận ra giá trị thực sự.
  10. Đừng quên những bài học cuộc sống: Những trải nghiệm, dù thành công hay thất bại, đều là bài học quý giá giúp bạn trưởng thành.

(Sưu tầm)


 

NHỮNG THỨ CẦN PHẢI QUÊN- Têrêsa NgọcNga (st)

Têrêsa NgọcNga (st)

Trong cuộc sống của mình, bạn đã học được nhiều thứ, đó là học sự yêu thương, học được cách nhớ nhung một ai đó và bây giờ bạn sẽ học cách quên. Vì trong cuộc sống có những chuyện nên gìn giữ, nên cất giấu nhưng cũng có những thứ cần phải quên đi.
Vậy những gì bạn cần phải quên đi?

Quên đi những đau khổ: Cuộc đời không ai lúc nào cũng vui vẻ và lúc nào những điều tốt đẹp nhất cũng đến với mình. Khi bạn chia tay với người yêu bạn sẽ giam cầm mình trong đau khổ, trong những lần khóc sướt mướt.

Bạn thu mình lại và có những lúc bạn tưởng chừng như trái tim mình vỡ tung ra. Bạn mềm yếu, cảm giác như chỉ có người đó mới đưa bạn ra khỏi cái nỗi đau đó mà thôi. Khi ấy bạn cần phải học cách quên đi người đó, học cách quên đi một người sẽ làm cho trái tim bạn lành lại theo thời gian. Mọi đau khổ sẽ tan biến. Mặc dù với một số bạn sẽ rất khó nhưng chưa thử làm sao chúng ta biết có làm được hay không.

Quên đi những hận thù: Ai đó đã lấy đi của bạn một thứ gì đó quý giá, ai đó đã lỡ xúc phạm bạn, ai đó vô tình đã làm bạn đau. Bạn cảm thấy tức giận, bạn cảm thấy lòng hận thù trong mình dâng cao. Nhưng Người ta nói tức giận là lấy sai lầm của người khác trừng phạt chính mình.

Cứ mãi nhớ đến những hận thù đó thì người bị tổn thương nhiều nhất chính là bạn. Suốt ngày bạn sẽ dằn vặt bản thân, bạn sẽ tìm mọi cách để trả thù lại người ta nhưng càng suy nghĩ càng khiến cho bạn cảm thấy nặng nề. Tâm hồn bạn sẽ chẳng khi nào được thanh thản. Vậy tại sao bạn không thử học cách quên đi mọi hận thù và dám tha thứ cho những gì người khác đã làm khiến bạn tổn thương . Cuộc sống sẽ đẹp hơn, nhẹ nhõm hơn nếu bạn biết quên đi thứ cần phải quên đấy bạn ạ.

Quên đi những khuyết điểm của người khác: Đối với chúng ta thường dễ dàng giang tay đón lấy những ưu điểm của bạn bè, người thân. Nhưng khi họ có khuyết điểm chúng ta lại khép tay lại và tránh thật xa họ. Trên đời này chẳng có gì là hoàn hảo, chính bản thân chúng ta cũng là một mảnh ghép của cuộc sống cũng có những lúc phạm phải một sai lầm, và có một vài khuyết điểm nào đấy.

Chúng ta học cách quên đi khuyết điểm của người khác là chúng ta đang học cách hoàn thiện bản thân mình, đang làm cho tâm hồn chúng ta trở nên rộng lượng hơn. Đừng lúc nào cũng nghĩ đến mặt xấu của người đối diện mà hãy nghĩ đến ưu điểm. Vì như thế sẽ làm cho mối quan hệ của bạn và người ta sẽ trở nên tốt đẹp, khăng khít hơn.

Quên đi những kỷ niệm, quên đi quá khứ: Những kỷ niệm đẹp, những quá khứ êm đềm hay đau khổ đối với một số người sẽ giữ mãi trong lòng để từ đó mà chiêm nghiệm mà sống tốt hơn. Nhưng trong một vài trường hợp bạn cũng phải cố quên đi quá khứ, quên đi những kỷ niệm. Bạn không thể lúc nào cũng sống trong cái kỷ niệm một thời tay trong tay với người yêu cũ. Bạn cũng không thể sống mãi trong cái quá khứ của một thời tuổi thơ êm đềm hay đau khổ mãi được.

Bạn cần phải quên nó đi, bỏ lại nó ở phía sau lưng để mà bước đi, để mà lớn lên. Quên ở đây không hẳn bắt bạn quên vĩnh viễn mà quên ở đây là bạn tạm thời cất giữ nó ở một góc nào đó sâu thẳm trong tim để rồi có lúc lấy ra mà nhớ, mà vui mà buồn. Rồi cũng có thể khi bạn lớn lên một chút bạn sẽ nghĩ về chúng như một cái gì đó quý giá. Bạn sẽ tự cười, “à thì ra mình đã lớn”…

Quên đi lợi ích cá nhân: Ai cũng chỉ biết sống cho mình thì cuộc sống này sẽ trở nên ích kỷ và hẹp hòi, sẽ chẳng còn ai quan tâm đến ai nữa. Bạn phải học cách quên đi cái tôi cá nhân để có thể hòa cùng nhịp sống chung của cộng đồng. Bạn đi mùa hè xanh nhưng luôn chọn những việc nhẹ nhàng, luôn nghĩ cho bản thân. Trước khi làm một việc gì đó bạn luôn nghĩ đến mình sẽ được gì và mình sẽ mất gì. Nếu mất nhiều hơn được bạn sẽ chẳng bao giờ làm. Triết lý đó sẽ đúng đối với một số trường hợp.

Nó sẽ hoàn toàn là ích kỷ nếu đó là làm vì lợi ích cộng đồng, làm vì tập thể. Chắc trong chúng ta chẳng lạ lẫm gì với những chiếc áo xanh tình nguyện, đêm ngày túc trực nơi bến xe để tiếp sức cho các thí sinh thi Đại học. Họ chẳng nề hà một công việc gì dù nắng làm cho cháy da, áo ướt đẫm mồ hôi. Bởi lẽ họ đã quên lợi ích cá nhân mà dốc sức vào lợi ích của tập thể. Cho và nhận đôi khi có thể mang ra để so sánh nhưng không phải lúc nào cũng so sánh được đâu bạn ạ. Có thể bạn sẽ mất nhiều hơn được nhưng đến một lúc nào đấy bạn sẽ cảm thấy cái mất ấy của mình là một điều đáng tự hào.

Và mỗi khi như vậy bạn sẽ cất cao tiếng hát “ ai cũng chọn việc nhẹ nhàng gian khổ sẽ thuộc về ai…”

Nhớ và Quên là hai phạm trù trái ngược nhau. Hãy nhớ những cái gì cần phải nhớ và hãy quên đi những thứ đáng phải quên. Chỉ khi quên đi những thứ gọi là “spam” trong tâm hồn mình bạn sẽ cảm thấy thật thanh thản. Tâm lí của bạn khi ấy sẽ trở nên cân bằng hơn. Vì ai đó đã nói rằng “ Trong cuộc sống phải biết thứ gì cần nhặt lên và thứ gì cần bỏ xuống”.

 Têrêsa NgọcNga (st)

 From: ngocnga_12 &NguyenNThu


 

Campuchia yêu cầu gia hạn tập trận chung với Hoa Kỳ trong bối cảnh lo ngại về căn cứ Ream

Theo Đài RFA

Tướng Ronald P. Clark, bên trái, tư lệnh Lục quân Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương, gặp Tướng Vong Pisen, tổng tư lệnh Lực lượng vũ trang Hoàng gia Campuchia, vào ngày 24 tháng 2 năm 2025.
Tướng Ronald P. Clark, bên trái, chỉ huy Lục quân Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương, gặp Tướng Vong Pisen, tổng tư lệnh Lực lượng vũ trang Hoàng gia Campuchia, vào ngày 24 tháng 2 năm 2025. (Lực lượng vũ trang Hoàng gia Campuchia)

Quân đội Campuchia đã yêu cầu Hoa Kỳ xem xét việc nối lại Angkor Sentinel, cuộc tập trận quân sự chung thường niên mà Phnom Penh đã hủy bỏ vào năm 2017 khi nước này tăng cường quan hệ với Trung Quốc.

Theo một tuyên bố từ RCAF, Tướng Vong Pisen, tổng tư lệnh Lực lượng vũ trang Hoàng gia Campuchia (RCAF), trong một cuộc họp với một vị tướng Hoa Kỳ đang đến thăm, đã yêu cầu “xem xét và thảo luận về khả năng nối lại huấn luyện quân sự chung, chẳng hạn như cuộc tập trận Angkor Sentinel  .

Tướng Ronald Clark, tướng chỉ huy Lục quân Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương, đang có chuyến thăm chính thức kéo dài hai ngày tại Campuchia. Vào thứ Hai, ông đã “có các cuộc họp mang tính xây dựng với Thủ tướng Campuchia Hun Manet và các nhà lãnh đạo quân sự cấp cao” bao gồm Bộ trưởng Quốc phòng Tea Seiha và Tướng Vong Pisen, Quân đội Hoa Kỳ cho biết.

Clark và các quan chức Campuchia “đã tìm hiểu những cách thức tăng cường mối quan hệ quốc phòng song phương giữa Hoa Kỳ và Campuchia nhằm thúc đẩy hòa bình và an ninh ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương”.

Quân đội Hoa Kỳ cho biết: “Các cuộc đàm phán bao gồm trao đổi huấn luyện quân sự tập trung vào cứu trợ thiên tai, hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc và các nỗ lực nhằm xóa bỏ bom mìn ở Campuchia”.

Quân nhân Campuchia biểu diễn võ thuật trong cuộc tập trận Angkor Sentinel vào tháng 3 năm 2016. Tín dụng: Lực lượng vũ trang Hoàng gia Campuchia
Quân nhân Campuchia biểu diễn võ thuật trong cuộc tập trận Angkor Sentinel vào tháng 3 năm 2016. (Lực lượng vũ trang Hoàng gia Campuchia)

Campuchia quyết định hủy cuộc tập trận chung Angkor Sentinel với quân đội Hoa Kỳ sau bảy lần tổ chức, lần gần đây nhất là vào năm 2016.

Thay vào đó, nước này đã tổ chức cuộc tập trận chung thường kỳ mang tên Rồng Vàng với quân đội Trung Quốc.

Mối quan hệ Hoa Kỳ-Campuchia trở nên lạnh nhạt một phần vì Hoa Kỳ chỉ trích tình trạng vi phạm nhân quyền của Phnom Penh và đàn áp phe đối lập chính trị.

Tháng 12 năm ngoái, một tàu hải quân Hoa Kỳ đã được phép ghé thăm Campuchia lần đầu tiên sau tám năm.

Nghi ngờ về căn cứ hải quân Ream

Paul Chambers, một nhà phân tích tại Trung tâm Nghiên cứu Cộng đồng ASEAN thuộc Đại học Naresuan ở Thái Lan, cho biết dấu hiệu tan băng rõ ràng trong quan hệ quân sự giữa hai nước có thể liên quan đến chính quyền mới tại Hoa Kỳ.

Tea Banh, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Campuchia, đang thăm các sĩ quan hải quân Trung Quốc trên tàu hộ tống Trung Quốc tại Căn cứ Hải quân Ream.
Tea Banh, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Campuchia, đang thăm các sĩ quan hải quân Trung Quốc trên tàu hộ tống Trung Quốc tại Căn cứ Hải quân Ream. 

ảnh của Trang Quốc phòng Campuchia

Chambers nói với Đài phát thanh Châu Á Tự do rằng: “Dưới thời Tổng thống Trump, điều kiện về nhân quyền để được viện trợ [cho Campuchia] có thể được dỡ bỏ”.

Một nhà phân tích khác, Kin Phea, chủ tịch Viện Quan hệ Quốc tế tại Học viện Hoàng gia Campuchia, cho rằng Campuchia nên làm rõ những lo ngại của Hoa Kỳ về căn cứ hải quân Ream trong chuyến thăm của Clark.


Ông Tô Lâm có là chất xúc tác cho tiến trình hòa giải dân tộc?

Theo Đài RFA

Một chiếc tàu chở người Việt vượt biên năm 1979.

Một chiếc tàu chở người Việt vượt biên năm 1979. (FRANCOIS GRANGIE/AFP)

Trong một cuộc thảo luận tại Quốc Hội hôm 13 tháng 2 năm 2025, Tổng bí thư Tô Lâm đã đưa ra một nhận định bất ngờ, trái với đường lối tuyên truyền cổ điển về những thành quả “vĩ đại” của 40 năm đổi mới. Ngài Tổng Bí thư chọn dội lên đầu những đồng chí của mình một gáo nước lạnh.

“Lúc ấy mà họ được sang Sài Gòn khám ở Bệnh viện Chợ Rẫy thôi đã là niềm mơ ước. 50 năm sau thì ngược lại, mình lại mơ ước được sang Singapore khám bệnh”. Người đứng đầu đảng Cộng sản nói về sự tụt hậu của Việt Nam so với Singapore.

Điều đáng chú ý hơn cả nằm ở chỗ ông đảng trưởng dùng Sài Gòn, thủ đô cũ của Việt Nam Cộng Hòa, kẻ thù không đội trời chung với đảng Cộng sản, để làm ví dụ về một thời hoàng kim của đất nước “mình”.

Trước đó ông cũng thừa nhận “Sài Gòn là hòn ngọc viễn Đông mà Thái Lan, Singapore, Malaysia… rất phục.”

Phát ngôn của người đứng đầu đảng cầm quyền được đưa ra trong bối cảnh, đất nước đang ở bên thềm của dịp kỷ niệm 50 năm ngày kết thúc chiến tranh Nam-Bắc. Điều đó không khỏi khiến người ta đặt câu hỏi, phải chăng đảng Cộng sản đã thay đối thái độ đối với cựu thù của mình?

Nhận định về phát biểu của ông Tô Lâm, ông Nguyễn Gia Kiểng, cựu phụ tá Tổng trưởng Kinh tế thời Việt Nam Cộng Hòa, tỏ ra nghi ngờ về khả năng đảng Cộng sản thay đổi chính sách tuyên truyền về Việt Nam Cộng Hòa, vốn chất chứa đầy thù hận. Thay vào đó, ông cho rằng “Tô Lâm là một con người giản dị thấy gì nói đó.”

“Bây giờ ông ta vươn lên tới đỉnh cao quyền lực, phải ra những quyết định để lãnh đạo đất nước thì ông ta mới nhận ra đất nước có quá nhiều vấn đề. Những vấn đề mà trước đây ông ta không bao giờ nghĩ tới.” Ông Nguyễn Gia Kiểng nói thêm.

Tuy không nghĩ những câu nói của ông Tô Lâm phản ánh chủ trương của nhà nước Việt Nam, nhưng ông Nguyễn Gia Kiểng cho rằng nó cũng có lợi là “mở mắt” cho rất nhiều người trong đảng Cộng sản.

Ngoài những phát biểu tích cực về Việt Nam Cộng Hòa, một vài động thái gần đây của ông Tô Lâm cũng được dư luận chú ý, như thắp hương tri ân nhạc sĩ Văn Cao, người từng là nạn nhân của phong trào Nhân văn giai phẩm; thăm nghĩa trang Vị Xuyên, nơi an nghỉ của hàng ngàn bộ đội Việt Nam trong cuộc chiến với Trung Quốc ở biên giới phía Bắc.

Những hành động đó được cho nhằm thống nhất lòng người, và là chỉ dấu cho tiến trình hòa giải, hòa hợp dân tộc thành hiện thực.

Tuy vậy, theo nhà báo Song Chi, chỉ từ vài câu nói của ông Tô Lâm mà nói tới chuyện hòa giải hòa hợp thì đó là một quãng đường rất xa. Nó không có ý nghĩa gì nếu không có hành động cụ thể.

“Việc ông Tô Lâm thấy sự lạc hậu, yếu kém của Việt Nam là điều tích cực. Nhưng thấy rồi làm gì tiếp theo mới là điều quan trọng. Trước mắt, các ông hãy trả lại cho dân những quyền tự do căn bản như tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do biểu tình, tự do ứng cử, bầu cử…

Nếu các ông thực sự muốn hòa giải, hòa hợp thì tu sửa Nghĩa trang Biên Hòa đi. Quan tâm đến những thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa còn lại đi. Đó là những việc làm thiết thực cho tiến trình hòa giải dân tộc.”

Hòa hợp, hòa giải dân tộc từng được cố thủ tướng Võ Văn Kiệt đề cập đến trong một bài viết nhân kỷ niệm 60 năm ngày Quốc khánh, tháng 9 năm 2005. Ông khẳng định đại đoàn kết dân tộc là cội nguồn sức mạnh của đất nước, và lấy làm tiếc khi tư tưởng đại đoàn kết đã bị coi nhẹ, quan điểm giai cấp đã được vận dụng một cách máy móc, một chiều.

Đến hôm nay, dù đảng Cộng sản vẫn một mực nói chính sách hòa hợp, hòa giải dân tộc được coi là chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước Việt Nam, với phương châm xóa bỏ phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp; xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, cùng hướng tới tương lai cũng từ mấy chục năm qua. Nhưng trên thực tế, chính sách tuyên truyền của Đảng lại thể hiện một tư duy hoàn toàn trái ngược.

Việt Nam Cộng Hòa và những biểu tượng của chế độ cũ vẫn bị bêu rếu hàng năm mỗi độ tháng tư về. Lá cờ vàng ba sọc đỏ vẫn bị coi như vật phẩm nguy hiểm và đáng nguyền rủa, hễ ai dính tới thì hoặc bị phạt, hoặc bị công kích. Những chiến sĩ của chính quyền Sài Gòn hy sinh khi giữ đảo Hoàng Sa vẫn chưa được công nhận.

Bây giờ ông ta vươn lên tới đỉnh cao quyền lực, phải ra những quyết định để lãnh đạo đất nước thì ông ta mới nhận ra đất nước có quá nhiều vấn đề. Những vấn đề mà trước đây ông ta không bao giờ nghĩ tới.” Ông Nguyễn Gia Kiểng

Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc, nhận định về phát biểu của ông Tô Lâm với tiến trình hòa giải, hòa hợp dân tộc cho rằng “đất nước đã chấm dứt chiến tranh 50 năm nhưng chính phủ vẫn còn nhiều việc phải làm về tất cả các lĩnh vực.”

“Nhưng tôi tin rằng, khi đã nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược với cựu thù là Mỹ; đã nâng tầm quan hệ với Trung Quốc và với các nước là đồng minh của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam, thì vấn đề hòa giải, hòa hợp dân tộc tại sao không? Tôi hy vọng người Việt sẽ đoàn kết để tạo thành sức mạnh, cùng nhau xây dựng một nước Việt Nam hùng mạnh để “không ai ăn hiếp mình được nữa, không ai khi dễ mình được nữa”, ông nói thêm.


 

Anh lớn Trung Cộng lại tiếp tục ăn hiếp đàn em CHXHCN Việt Nam

Theo Đài RFA

Đường cơ sở được dùng để xác định vùng lãnh hải, và vùng đặc quyền kinh tế của một quốc gia.

Minh họa đường cơ sở
Minh họa đường cơ sở (RFA)

Việt Nam và Trung Quốc đã ký Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ vào năm 2000. Hai nước sau đó đã công bố đường cơ sở để xác định vùng biển chủ quyền của mình trên vùng biển này.

Năm 2024, Trung Quốc đưa ra đường cơ sở mới ở Vịnh Bắc Bộ với 7 điểm. Các chuyên gia cho rằng đường cơ sở mới của Trung Quốc đã lấn thêm từ 20 đến 30 hải lý (từ 37 đến 55,5 km) vào vùng biển quốc tế.

Động thái của phía Trung Quốc được cho là nhằm mục đích ép Việt Nam đàm phán lại Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ, với tham vọng mở rộng vùng lãnh hải của nước này.

Phản ứng trước việc Trung Quốc công bố đường cơ sở mới, Việt Nam đã kêu gọi Bắc kinh tôn trọng Hiệp định đã ký kết giữa hai bên vào năm 2000 và UNCLOS.

Việc Việt Nam công bố đường cơ sở mới hôm 21 tháng 2 năm 2025, với 14 điểm, kéo dài từ vùng biển Quảng Ninh xuống Quảng Trị, có thể được hiểu là động thái nhằm củng cố chủ quyền của mình ở khu vực Vịnh Bắc Bộ trước sức ép từ Trung Quốc.

Cơ quan An toàn Hàng hải của Trung Quốc đưa ra thông báo ngày 21 tháng 2 về một cuộc tập trận bắn đạn thật trên vùng biển Vịnh Bắc Bộ. Thời gian của cuộc tập trận được thông báo sẽ diễn ra từ 8:00 ngày 24 tháng 2 tới 18:00 ngày 27 tháng 12 giờ địa phương.

Vị trí của cuộc tập trận nằm ở vùng biển phía tây bắc của đảo Hải Nam, cách đảo Bạch Long Vĩ của Việt Nam khoảng 150km.

Không rõ liệu cuộc tập trận bắn đạn thật của Trung Quốc có liên quan tới việc Việt Nam công bố đường cơ sở mới hay không. Bộ Ngoại giao nước này cho tới giờ vẫn chưa đưa ra phản ứng chính thức.

Hãng Thông Tấn AP

BANGKOK (AP) — Chính quyền Trung Quốc cho biết họ đã bắt đầu các cuộc tập trận bắn đạn thật ở Vịnh Bắc Bộ vào thứ Hai, 24-2-2025, chỉ vài ngày sau khi Việt Nam công bố đường ranh giới mới đánh dấu những gì họ coi là lãnh thổ của mình tại vùng biển giữa hai nước.

Cục An toàn Hàng hải Trung Quốc cho biết cuộc tập trận sẽ tập trung vào khu vực Vịnh Bắc Bộ, gần phía Trung Quốc của Vịnh Bắc Bộ hơn và sẽ kéo dài đến tối thứ Năm.

Không có thông tin chi tiết nào được đưa ra, nhưng cuộc tập trận này diễn ra sau thông báo vào tuần trước của Việt Nam về việc thiết lập đường cơ sở để tính chiều rộng vùng biển lãnh thổ của nước này tại Vịnh Bắc Bộ.

Hãng thông tấn nhà nước Vietnam News đưa tin rằng đường cơ sở này tuân thủ Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển và sẽ cung cấp “cơ sở pháp lý vững chắc để bảo vệ và thực hiện chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam”.


 

Ukraina không phải là nước duy nhất bị thao túng số phận -Phan Minh -RFI

RFI

Từ Hội nghị Berlin năm 1885 giữa các cường quốc thực dân châu Âu để phân chia châu Phi cho đến Hội nghị Yalta năm 1945 chia châu Âu thành các vùng chịu sự ảnh hưởng của Mỹ và Liên Xô, từ thỏa thuận Sykes-Picot về Trung Đông năm 1916 cho đến thỏa thuận Munich về Sudetenland năm 1938.

Ảnh minh họa : Quốc huy trên nền lá cờ Ukraina.

 

Ảnh minh họa : Quốc huy trên nền lá cờ Ukraina. © Armando Franca / AP

Phan Minh

Không kể đến hàng loạt những cuộc họp quốc tế khác đã định đoạt số phận của các dân tộc mà không có sự tham gia của đại diện của chính họ, giống như cuộc họp cấp cao về tương lai của Ukraina vừa diễn ra tại Ả Rập Xê Út giữa các quan chức Nga và Mỹ, nhưng không có sự tham gia của đại diện phía Kiev.

Tổng thống Volodymyr Zelensky đã tuyên bố “sẽ không bao giờ chấp nhận” những quyết định được đưa ra mà không có sự tham gia của Kiev trong các cuộc đàm phán nhằm chấm dứt chiến tranh mà Nga đã khơi mào và tiến hành ở Ukraina từ 3 năm qua.

Quyết định đàm phán về chủ quyền của Ukraina mà không có sự tham gia của Kiev, cùng với những áp lực bắt chẹt của tổng thống Mỹ Donald Trump, tìm cách giành lấy một nửa lượng khoáng sản quý hiếm của Ukraina và đe dọa ngưng viện trợ quân sự cho Kiev, cho thấy cách mà chủ nhân Nhà Trắng nhìn nhận Ukraina nói riêng và châu Âu nói chung.

Tuy nhiên, đây không phải là lần đầu tiên các cường quốc quyết định đàm phán về việc thiết lập đường biên giới mới hoặc vùng ảnh hưởng mà không có ý kiến của dân cư sống ở đó. Những cuộc đàm phán như vậy hiếm khi mang lại kết quả tích cực cho những nước và dân cư bị ảnh hưởng.

Sự phân chia châu Phi (1885)

Trong mùa đông 1884-1885, nhà lãnh đạo Đức Otto von Bismarck đã mời các cường quốc châu Âu đến Berlin để dự hội nghị nhằm chính thức hóa việc phân chia toàn bộ lục địa châu Phi. Không có một đại diện châu Phi nào có mặt.

Các nước tham dự hội nghị đã nhất trí thành lập Nhà nước Tự do Congo, đặt dưới sự kiểm soát của Bỉ, nơi sau đó trở thành nơi diễn ra những tội ác thực dân với hàng triệu người chết.

Nhân hội nghị này, Đức cũng đã thành lập thuộc địa Tây Nam Phi (nay là Namibia), nơi mà cuộc diệt chủng đầu tiên của thế kỷ XX được tiến hành vài năm sau đó chống lại người Herero.

Công ước Ba bên (1899)

Năm 1899, Đức và Hoa Kỳ đã tổ chức một hội nghị tại Washington, bàn thảo chia nhau quần đảo Samoa, mặc dù cư dân ở đó đã bày tỏ mong muốn tự trị hoặc thành lập một liên bang các quốc gia Thái Bình Dương với Hawaii. Với khoản “bồi thường” cho việc tự rút khỏi Samoa, Vương Quốc Anh đã nhận được quyền kiểm soát tuyệt đối với quần đảo Tonga.

Samoa thuộc Đức đã được chuyển giao cho New Zealand sau Đệ Nhất Thế Chiến và chỉ giành được độc lập vào năm 1962. Samoa thuộc Mỹ (cùng với một số đảo khác ở Thái Bình Dương) vẫn là một lãnh thổ của Hoa Kỳ cho đến bây giờ.

Thỏa thuận Sykes-Picot (1916)

Trong Đệ Nhất Thế Chiến, các đại diện Anh và Pháp đã gặp nhau để quyết định phân chia Đế quốc Ottoman sau khi chiến tranh kết thúc. Với tư cách là một cường quốc đối địch, đại diện Ottoman không được mời tham dự các cuộc thảo luận.

Các nhà ngoại giao Anh Mark Sykes và Pháp François Georges-Picot đã vẽ lại biên giới Trung Đông theo lợi ích của nước họ.

Thỏa thuận Sykes-Picot đã đi ngược lại với những cam kết được đưa ra trong một loạt văn bản được biết đến với tên gọi Thư tín giữa Hussein-McMahon. Trong những văn bản này, Luân Đôn hứa ủng hộ nền độc lập của các quốc gia Ả Rập khỏi sự thống trị của Thổ Nhĩ Kỳ.

Thỏa thuận này đã đi ngược lại với những cam kết mà Vương Quốc Anh đưa ra trong Tuyên bố Balfour, tức là cam kết ủng hộ những người theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái muốn xây dựng một quê hương mới ở Palestine thuộc Ottoman. Đó cũng là nguồn gốc của nhiều thập kỷ xung đột với chính sách thuộc địa tồi tệ ở Trung Đông, và hậu quả vẫn có thể kiểm chứng cho đến tận bây giờ.

Thỏa thuận Munich (1938)

Tháng 09/1938, thủ tướng Anh Neville Chamberlain và đồng nhiệm Pháp Édouard Daladier đã gặp các nhà độc tài Ý Benito Mussolini và Đức Adolf Hitler để ký Thỏa thuận Munich.

Luân Đôn và Paris tìm cách ngăn chặn sự lan rộng của chiến tranh ở châu Âu sau khi phe Quốc xã đã khơi mào một cuộc nổi dậy và bắt đầu tấn công các khu vực nói tiếng Đức của Tiệp Khắc, được biết đến với tên gọi Sudetenland, với lý do bảo vệ cộng đồng thiểu số người Đức sống ở đó. Không có đại diện Tiệp Khắc nào được mời tham dự cuộc họp.

Thỏa thuận đúc kết từ cuộc họp này vẫn thường được gọi là “sự phản bội Munich” và được coi là một ví dụ kinh điển về những cố gắng vô ích nhằm xoa dịu một cường quốc hiếu chiến với hy vọng sai lầm là có thể tránh để xảy ra chiến tranh.

Hội nghị Évian (1938)

Năm 1938, 32 quốc gia đã tập trung tại Évian-les-Bains (Haute-Savoie), Pháp, để quyết định về việc tiếp nhận người tị nạn Do Thái chạy trốn khỏi sự đàn áp của Đức Quốc xã.

Trước khi hội nghị bắt đầu, Vương Quốc Anh và Hoa Kỳ đã nhất trí không gây áp lực với nhau về vấn đề hạn ngạch người Do Thái mà họ sẽ chấp nhận tại Palestine thuộc Anh hoặc Mỹ.

Mặc dù Golda Meir (sau này trở thành thủ tướng Israel) đã tham dự hội nghị với tư cách quan sát viên, bà cũng như bất kỳ đại diện nào khác của Nhà nước Do Thái đều không được phép tham gia đàm phán. Ngoại trừ Cộng hòa Dominica, các quốc gia tham dự đều không chấp nhận tiếp nhận di dân Do Thái. Hầu hết người Do Thái ở Đức không thể rời khỏi đất nước trước khi chủ nghĩa Quốc xã đạt đến đỉnh điểm diệt chủng trong Holocaust.

Hiệp ước Molotov-Ribbentrop (1939)

Khi lên kế hoạch xâm lược Đông Âu, Hitler nhận ra rằng trở ngại chính của mình là Liên Xô. Đức đã ký một hiệp ước không xâm lược Liên Xô.

Hiệp ước, được đặt theo tên ngoại trưởng Liên Xô Vyacheslav Molotov và đồng nhiệm Đức Joachim von Ribbentrop, bảo đảm Liên Xô sẽ không đáp trả việc Hitler xâm lược Ba Lan. Hiệp ước cũng chia châu Âu thành các vùng chịu sự ảnh hưởng của phe Quốc xã và Liên Xô. Điều này cho phép Liên Xô mở rộng lãnh thổ đến các quốc gia vùng Baltic, tấn công Phần Lan và chiếm một phần lãnh thổ của Ba Lan và Rumani.

Không có gì ngạc nhiên khi mà một số nước Đông Âu coi các cuộc đàm phán hiện tại giữa Hoa Kỳ và Nga về tương lai của Ukraina như một sự trở lại của loại hình ngoại giao bí mật đã chia các quốc gia nhỏ ở châu Âu giữa các cường quốc lớn trong Đệ Nhị Thế Chiến.

Hội nghị Yalta (1945)

Khi thất bại của Đức Quốc xã cận kề, thủ tướng Anh Winston Churchill, nhà độc tài Liên Xô Joseph Stalin và tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt đã gặp nhau vào tháng 02/1945 để định đoạt số phận của châu Âu sau chiến tranh. Cuộc họp này được biết đến với tên gọi Hội nghị Yalta.

Cùng với Hội nghị Potsdam 1 năm sau đó, Yalta đã tạo ra “kiến trúc” chính trị dẫn đến sự chia cắt châu Âu trong Chiến tranh Lạnh.

Tại Yalta, “ba đại cường” đã quyết định chia cắt Đức, trong khi Stalin được trao một vùng ảnh hưởng ở Đông Âu.

Liên Xô sau đó đã biến một số quốc gia Đông Âu thành các quốc gia vùng đệm dưới sự kiểm soát của mình, mô hình mà một số quan sát viên cho rằng đang truyền cảm hứng cho Vladimir Putin ở Đông và Đông Nam Âu ngày nay.

Nguồn : The Conversation


 

Nguyễn Viện: “Chúng ta bị ràng buộc ngay trong giấc chiêm bao”

Ba’o Nguoi-Viet

February 25, 2025

Tuấn Khanh thực hiện

Cuộc trò chuyện với nhà văn Nguyễn Viện ở Sài Gòn trong những ngày đầu năm mới 2025 mở ra một cái nhìn khác về thân phận trí thức hôm nay trước ngưỡng cửa sáng tạo và ý thức tồn tại, như đứng trước cánh cửa mùa Xuân mới, mà bàn tay không thể nào mở.

*Tuấn Khanh: Lại một năm nữa đã trôi qua, văn chương Việt Nam như đứa trẻ gầy guộc ngay trên chính quê hương của mình. Ông có thể điểm lại, nửa thế kỷ qua, ông nhìn thấy những điều làm được, và cả thất bại của văn học trong nước lẫn hải ngoại là gì?

-Nhà văn Nguyễn Viện: Cho đến tận hôm nay, sau 50 năm máu lửa, có vẻ như chúng ta vẫn máu lửa với nhau, vẫn nghi kỵ một mất một còn với nhau. Trong bối cảnh hận thù chia rẽ ấy, hệ luỵ trong đời sống cá nhân hay sự phát triển của đất nước hẳn là không tránh được ảnh hưởng.

Tôi có thể nói ngay, một số thành tựu về kinh tế và phát triển của đất nước mà không ít người trong nước tự hào, hoàn toàn không tương xứng với thời gian và tiềm lực chúng ta có. Trong lãnh vực văn học cũng vậy, sự thống khổ mà cả dân tộc này đã hứng chịu vượt tầm thời đại, nhưng sự sáng tạo của chúng ta lại không lớn hơn một bàn nhậu. Có vẻ như chúng ta muốn trả thù đời hơn là chúng ta muốn trở thành những con người khoan dung. Chúng ta không thoát được cái tâm lý nhược tiểu ngay cả khi chúng ta “tự hào quá Việt Nam ơi” hoặc “chưa bao giờ Việt Nam được như hôm nay.” Chúng ta sợ nhìn vào chính mình, vào dân tộc mình. Chúng ta thiếu dũng cảm để đối diện với sự thật.

Nền giáo dục trong nước đào tạo được rất nhiều người có bằng cấp, nhưng không tạo ra được một tầng lớp trí thức như một mũi nhọn điều hướng và động lực phát triển. Nơi chúng ta sống, trí thức như lươn trạch và xu thời. Họ sống hai mặt, cần kiếm cơm hơn lòng tự trọng và lương tâm công chính.

Chúng ta thất bại từ nội tại mỗi cá nhân. Bởi thế, cái thất bại trong văn học của chúng ta không phải là thiếu tính nhân loại, mà văn học của chúng ta thiếu tính cá nhân.

*Vẫn miệt mài sáng tác từ trước đến giờ và trung thành với con đường tự do sáng tạo, dù được mặc định đó là một phong cách không thể thay đổi của cá nhân, nhưng ông có thấy mình mòn mỏi và dị biệt trong một thế giới sống mà hôm nay, sự tự do sáng tác đã trở thành một định nghĩa khác, thậm chí là chấp nhận tự do có định mức để được tồn tại với sáng tác?

– Cho đến thời điểm này, tôi vẫn viết như tôi từng viết và không ngừng kiếm tìm cái mới cho chính mình. Cái mới cho tôi niềm hưng phấn không mòn mỏi. Dị biệt với tôi là sự sống còn. Vì thế, chẳng có lý do gì tôi lại phải chấp nhận tự do có định mức để tồn tại. Cũng vì bởi, tôi không cho rằng tự do là thứ được ban phát. Trong đời sống xã hội, không một ai trên thế giới này thoát khỏi những luật định. Nhưng trong sáng tạo, chẳng có luật định nào cho một tâm thức tự do. Với tôi, hoặc là không tất cả, hay là có tất cả. Điều hiển nhiên, tôi không phải kiếm cơm bằng cách viết. Nếu phải theo đuổi danh vọng (cái danh vọng hão ấy) thì chẳng phải tự do danh giá hơn lệ thuộc sao?

*Có một nhà phê bình văn học từ hải ngoại về nước làm việc phát biểu rằng ‘một tác phẩm chỉ gọi là tồn tại, khi được chính thức in ra và đến với độc giả.’ Là một trong những nhà văn hiếm hoi của Việt Nam trong suốt 50 năm qua, ông vẫn viết và tự in, gửi đi hàng loạt tác phẩm không thông qua kiểm duyệt, ông nghĩ sao về nhận định nói trên?

-Tôi và tác phẩm của tôi vẫn tồn tại đấy chứ. Sách tôi vẫn được in ra và đến với độc giả. Vấn đề chỉ là cách thức xuất hiện và tiếp nhận, cũng như cách thức xác lập vị trí của một tác giả trong mối tương quan với độc giả, bối cảnh xã hội và lịch sử. Không kiểm duyệt, cũng có nghĩa là sách in ra không được quảng bá chính thức trên các phương tiện truyền thông của nhà nước và không được bày bán trong các cửa hàng. Nhưng thời đại hôm nay, không chỉ có các phương tiện truyền thông nhà nước và các cửa hàng ngoài phố. Cũng không chỉ có trong nước khi chúng ta đang sống một thời đại toàn cầu. Có phải bạn đang phỏng vấn tôi như cách nhìn nhận một tồn tại?

Nói thật, tôi chưa bao giờ cảm thấy thiệt thòi vì không một nhà phê bình nào trong nước đề cập đến văn chương tôi. Tôi là kẻ không đáng nói đến, hoặc họ là những người không đáng để tôi quan tâm, cũng chỉ là ở chỗ đứng hay góc nhìn thôi, phải không?

*Năm 2024 sôi động với câu chuyện Han Kang – nhà văn nữ Á châu, người Nam Hàn đoạt giải Nobel. Cũng có những bình luận từ phía Việt Nam mơ ước rằng một ngày nào đó, người Việt cũng sẽ có một tác phẩm đoạt giải Nobel như vậy, ông nghĩ sao và nhận định này, và về chuyện được hay không được, ông bình luận như thế nào?

-“Một ngày nào đó Người Việt cũng sẽ có một tác phẩm đoạt giải Nobel.” Mơ ước thì không tốn tiền. Cũng nên mơ để còn có niềm tin hay động lực cho cái nghề của mình. Tuy nhiên, để có ngày đó, ngoài những nỗ lực cá nhân của người viết, tôi nghĩ cần có một chiến lược quốc gia cho việc giới thiệu văn chương Việt với thế giới. Bởi vì Viện Hàn Lâm Thuỵ Điển hay hội đồng xét giải của các giải thưởng uy tín khác không đọc được tiếng Việt. Theo tôi cũng còn một lý do khác để văn học Việt có thể tìm được chỗ đứng trên bản đồ thế giới, đó là vị thế quốc gia. Bản thân tiếng Việt đã là một ngôn ngữ yếu thế, nếu vị thế quốc gia không đủ mạnh thì hẳn nhiên chúng ta khó cầu mong sự quan tâm của thế giới.

*Han Kang được coi là một nhà văn thể hiện đầy tính chính trị, diễn đạt lịch sử với những ngóc ngách chân thực nhất mà xã hội không phải ai cũng dám chạm đến. Kim Bo-young – cây viết cũng người Nam Hàn phát biểu “giải thưởng này trực tiếp bác bỏ sự ngu ngốc của việc cố gắng che giấu và bóp méo lịch sử quá khứ của Nam Hàn.”

Rõ ràng lịch sử và sự thật nằm trong sức mạnh văn chương của thời đại hôm nay. Trung Quốc từng có một nhà văn quân đội là Mạc Ngôn đoạt giải Nobel với văn chương phục vụ nhà nước. Ông nghĩ gì về nhà văn với lịch sử chân thực và lịch sử phục vụ? Ở thời buổi văn chương hiện nay, viết trung thành với sự thật lịch sử, tự do sáng tác theo ý của mình mà ông vẫn theo đuổi, có là một lựa chọn sai lầm?

-Tôi là người vốn quan tâm đến lịch sử cũng như bối cảnh chính trị đương thời, vì thế khi Han Kang của Hàn Quốc nhận giải Nobel và biết bà cũng là một tác giả dám đương đầu với sự thật lịch sử nơi bà đang sống, tôi lại càng tin rằng mình đã có một chọn lựa đúng. Cho dù trước đó, một ông quan văn nghệ của Trung Quốc cũng đã nhận được giải thưởng danh giá này là Mạc Ngôn như chúng ta đã biết.

Có một số vấn đề cần phải được nhìn nhận lại:

Một là chúng ta cần phải thấy giải Nobel Văn học vẫn bị chi phối bởi yếu tố chính trị mà Mạc Ngôn không phải là trường hợp duy nhất trong toàn bộ lịch sử của giải này. Ngay tại Trung Quốc, chúng ta cũng từng chứng kiến những phản ứng chính trị khác nhau của chính quyền nước này với các giải Nobel Văn học lần lượt dành cho Cao Hành Kiện (mang quốc tịch Pháp), Mạc Ngôn và một Nobel Hòa Bình cho Lưu Hiểu Ba.

Hai, một số tác phẩm của Mạc Ngôn như “Phong nhũ phì đồn,” “Tửu quốc”… không chỉ là “hiện thực xã hội chủ nghĩa” theo tiêu chí Đảng Cộng sản về văn nghệ, mà trong đó chúng ta còn thấy một xã hội Trung Quốc sa đoạ về nhân tính. Chẳng phải đấy cũng là sự thật lịch sử sao?

(Hình Nhân vật cung cấp)

*Di sản hôm qua và hiện thực hôm nay có tác động như thế nào đối với những tác phẩm của ông, khác với những nhà văn ở hải ngoại, viết và chất đầy những vấn đề của quá khứ, những nhà văn trong nước lại viết và vẫn mang theo đường ray của chuyến tàu chính trị ý thức hệ, còn với ông thì sao?

-Trong đầu của bất cứ nhà văn trong nước nào cũng có một Ban Tuyên Giáo và một ông công an tư tưởng văn hoá hiện hữu một cách thường trực, kể cả trong giấc ngủ hay chiêm bao. Chưa kể, chúng ta còn một gánh nặng của di sản lịch sử và truyền thống văn hoá. Nhà văn hải ngoại cũng không trút bỏ được quá khứ. Chúng ta quá bận tâm với những thứ như “sứ mệnh,” “nhiệm vụ”…

Dẫu sao với tôi, viết vẫn là một nhu cầu bức thiết. Nhưng, cái chúng ta gọi là tự do sáng tạo, thật ra cũng không đơn giản. Tôi không tự đeo cái vòng kim cô của chế độ lên đầu. Nhưng truyền thống văn hoá vẫn là một bàn tay xương xẩu bóp cổ tôi. Vì thế, nhiều khi tôi cũng không khỏi ú ớ khi muốn diễn đạt sự thật theo cách chân thật vốn có của nó.

*Tự do trong chế độ độc tài có phải là sự tưởng tượng của cá nhân hay không và làm sao ông có thể biến sự tưởng tượng đó thành ngôn ngữ viết hoàn chỉnh trong tiểu thuyết của mình được?

Bạn nói đúng, tự do trong chế độ độc tài là một tưởng tượng như cách tự an ủi. Đường lối hay định hướng của Đảng chi phối mọi thứ của đời sống, hay nói cách khác, Đảng lãnh đạo toàn diện. Điều này được minh định cụ thể trong điều lệ của các hội nhà văn. Tuy nhiên, không phải nhà văn nào cũng sẵn lòng để Đảng lãnh đạo. Rất tiếc, như mọi kẻ tầm thường khác, nhà văn phần lớn lại rơi vào những định kiến hay những mặc định về nghệ thuật, và họ thật sự không thể vượt thoát khỏi những khuôn khổ, mẫu mực.

Thật ra, trong điều kiện bị áp chế, vẫn không thiếu những tài năng xuất chúng đâu đó lộ diện. Tôi cho rằng đó là do năng lực tự tại nơi mỗi cá nhân, sự dũng cảm và liêm khiết trong nhân cách.

Phần tôi, làm sao có thể biến cái ảo tưởng về tự do ấy thành ngôn ngữ viết hoàn chỉnh trong tác phẩm của mình? Bí mật này, chỉ có Chúa biết.

*Người chọn sáng tác tự do trong một chế độ độc tài kiểm duyệt, có phải họ đang dựng một giấc mơ của mình về văn bản không bị trói buộc ý thức, có thể vượt qua, tìm thấy mình ở một nơi khác ngày mai, tìm được một lớp độc giả chân thành mà họ không thể nghĩ tới. Đó có phải là giấc mơ quá mong manh và thậm chí là còn là một sự an ủi để tự mình đi ngoài bóng tối kiểm duyệt?

– Có vẻ như bạn đã biết bí mật của tôi. Ít nhất là trong thời điểm này, tôi đã chọn để văn bản văn chương của mình khai sinh bên ngoài biên giới quốc gia, và bên ngoài sự can thiệp của bức tường lửa trên không gian mạng. Quả thực, giấc mơ cho ngày mai là một giấc mơ mong manh và đầy tính an ủi, nhưng nếu không có giấc mơ xa xỉ ấy, làm sao con người còn hy vọng cho sự hiện hữu tối tăm này?

Nhưng nói cho đúng hơn, tôi lại nghĩ tôi chẳng có một giấc mơ nào. Đơn giản là tôi chỉ đang làm điều phải làm cho chính bản thân mình. Không băn khoăn.

*Nếu nhìn về văn chương Việt Nam nói chung, và ý khác nếu muốn phân tích riêng biệt văn chương người Việt hải ngoại với văn chương trong nước, ông hình dung bức tranh nào cho tương lai?

-Với thế hệ nhà văn tuổi khoảng 50 trở lên, trong và ngoài nước, tôi coi như đã xong. Họ có viết nữa cũng chỉ đến thế. Riêng ở hải ngoại, chẳng bao lâu nữa, sẽ không còn người đọc tiếng Việt. Ở trong nước, một thế hệ mới sẽ hình thành. Tất nhiên, chúng ta không thể trông cậy vào số đông. Tính bầy đàn và hội hè sẽ mãi mãi tồn tại. Cái làng nhàng vẫn mãi mãi là thị hiếu. Nhưng tôi tin vào sự đột phá của một vài cá nhân kiệt xuất. Cho dù, chế độ chính trị vẫn là độc tài, nhưng con đường đi tới của dân tộc không phải là tuyệt lộ. Những mầm mống tươi sáng vẫn được gieo trồng. Những khát vọng vươn dậy vẫn tiềm tàng đâu đó. Và may thay, chúng ta vẫn đồng hành cùng nhân loại, vẫn cập nhật được mọi tri thức và thông tin cần thiết. Cánh cửa mở ra với thế giới không đóng kín. Ai có chân thì đi. Cứ đi thì sẽ tới.

*Cuối cùng, ông có ấp ủ ý tưởng nào mới, hoặc muốn giới thiệu tác phẩm nào đến với người đọc trong năm 2025?

-Mặc dù viết vẫn là một nhu cầu bức thiết như tôi đã nói, nhưng tôi không bận tâm hay ấp ủ điều gì. Cái gì phải đến sẽ đến. Những ý tưởng mới cho một tác phẩm thường là ngẫu nhiên. Và tôi không phải mất công “thai nghén.” Bởi thật sự chẳng có gì mới, mọi thứ trong tôi như một trầm tích, cơ duyên đến thì nó mở ra. Tôi viết rất nhanh.

À, ngoài viết văn, tôi cũng làm thơ. Số thơ chưa in còn rất nhiều. Có thể trong những ngày còn lại, tôi sẽ in thêm một tập thơ để đắp trên nấm mộ gió đời mình, bớt lạnh.


 

Đắk Lắk: Cặp vợ chồng lừa đảo $3.9 triệu bằng chiêu ‘tu thành tiên’

Ba’o Nguoi-Viet

February 24, 2025

ĐẮK LẮK, Việt Nam (NV) – Hôm 24 Tháng Hai, Công An Tỉnh Đắk Lắk đã khởi tố, bắt giữ hai bị can là vợ chồng Nguyễn Anh Tuấn và Nguyễn Thị Nhớ ở thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản.”

Báo Pháp Luật TP.HCM dẫn điều tra từ công an cho biết, năm 2021, hai vợ chồng ông Tuấn, 39 tuổi, và Nhớ, 37 tuổi, có học chút ít về Phật pháp và truyền đạt lại cho những người tham gia tu hành.

Bị can Nguyễn Anh Tuấn (trái) nghe đọc lệnh khám xét nhà. (Hình: Cao Nguyên/Người Lao Động)

Trong lúc tu tập, vợ chồng ông Tuấn thấy nhiều người khá giả có mong muốn thực hiện nhanh việc tu tập để sớm “đắc đạo thành tiên” nên nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Hai vợ chồng ông Tuấn mua 6 hécta đất tại huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk, và yêu cầu các bị hại nộp tiền xây dựng nhà thờ tổ và sáu tịnh thất để tu hành. Đồng thời, hai vợ chồng Tuấn-Nhớ không quên giới thiệu các vật phẩm có tác dụng “hỗ trợ cho việc tu tập” nhanh được “đắc đạo thành tiên.”

Những vật phẩm này được bày bán nhiều trên thị trường với giá cao nhất chỉ 250,000 đồng ($9.8) nhưng vợ chồng ông Tuấn lại thổi phồng là “rất hiếm có, rất khó tìm” được nhiều sư tăng trên thế giới “làm phép” và bán ra từ 1-5 tỷ đồng ($39,260 tới $196,300).

Để tạo thêm lòng tin, bà Nhớ còn lập nhiều email giả các “sư phụ, sư mẫu” đã tu hành “đắc đạo,” có khả năng “tách phần hồn đi khắp thế giới,” hoặc “di chuyển đồ vật bằng phép thần thông” để nhắn tin dẫn dụ, ép buộc bị hại mua các đồ vật phục vụ cho việc tu tập.

Ngoài ra, vợ chồng ông Tuấn còn thuê người chôn nhiều đồ vật vào nhiều vị trí khác nhau tại khu đất của mình rồi nói dối với bị hại là do “sư phụ dùng phép di chuyển đến,” và thuê người đóng giả sư mẫu “Hoàng Milan” đến giảng Phật pháp.

Do tin tưởng, nhiều người đã bỏ ra tiền tỷ để mua các đồ vật của vợ chồng ông Tuấn về tu tập.

Một trong những đồ vật được vợ chồng ông Tuấn chôn dưới đất nhằm mục đích lừa đảo. (Hình: S.Đ/Pháp Luật TP.HCM)

Một nữ nạn nhân bị vợ chồng ông Tuấn hù rằng trước cửa nhà luôn có nhiều “vong nhi” và sẵn sàng nhập vào người. Tin lời, người phụ nữ này đã bỏ ra 800 triệu đồng để mua đồ “trấn yểm.” Ngoài ra, tin lời vợ chồng ông Tuấn sẽ được “đắc đạo thành tiên,” bà này còn bị lừa hàng chục tỷ đồng.

Tương tự, một nạn nhân khác tin lời tu tập đã bán ba căn nhà, hai công ty ở Hà Nội để mua một “la bàn trấn yểm” với giá 5 tỷ đồng ($196,300) của vợ chồng ông Tuấn, giờ trắng tay do thiệt hại hơn 50 tỷ đồng ($1.9 triệu).

Qua khám xét, công an đã thu giữ 10 “sổ đỏ” (giấy quyền sử dụng đất), ba thẻ tiết kiệm với trị giá gần 12 tỷ đồng ($471,120); một xe hơi trị giá 2.7 tỷ đồng ($106,002); hơn 100 triệu đồng ($3,926) tiền mặt; nhiều trang sức bằng vàng cùng hàng trăm đồ vật để tu tập.

Bước đầu, công an đã làm rõ vợ chồng bị can Tuấn đã dùng thủ đoạn tu tập “đắc đạo” để lừa ba bị hại, chiếm đoạt gần 100 tỷ đồng ($3.9 triệu). (Tr.N) [kn]


 

Sài Gòn và Singapore – âm binh và nghiệp quật!-Đồng Phụng Việt-RFA

Ba’o Tieng Dan

25/02/2025

RFA

Đồng Phụng Việt

Tô Lâm không phải là nạn nhân duy nhất của các phần tử cực đoan do đảng của ông tạo ra.

Tổng Bí thư Tô Lâm bị chỉ trích sau khi phát ngôn tích cực về Sài Gòn trước 1975. Ảnh: RFA

Đến giờ, dường như Tifosi vẫn bình an, vô sự cho dù đã trực tiếp công kích ông Tô Lâm, Tổng Bí thư đảng CSVN vì hàm hồ mà nói bừa, thiếu hiểu biết nên nói bậy.

Cách nay mươi ngày, khi tham gia kỳ họp bất thường lần thứ chín của Quốc hội khóa 15 (13/2/2025 – 19/2/2025), đề cập đến năng lực cạnh tranh và vị thế quốc gia trên bình diện quốc tế, ông Tô Lâm đã so sánh Việt Nam với Singapore: Năm mươi, sáu mươi năm trước, họ nói được sang Bệnh viện Chợ Rẫy chữa bệnh là mơ ước. Giờ đây thì ngược lại, mình mơ sang họ khám bệnh [1].

So sánh của ông Tô Lâm đã tạo ra một trận bão dư luận nhưng đáng ngạc nhiên nhất là Tổng Bí thư đảng CSVN lại bị Tifosi – xưa nay vẫn sắm vai tiên phong trong việc chống diễn biến hòa bình, bảo vệ nhà nước XHCN – lôi lên “đoạn đầu đài” như thỉnh thoảng vẫn áp giải ai đó ra trước đám đông “yêu đảng, yêu CNXH” để đàn hạch với cáo buộc “phản dân, hại nước” [2].

Ở xứ sở mà chỉ post tấm ảnh chụp một sĩ quan CSGT ngang nhiên đặt “cục vàng” của anh ta sau tay lái xe hai bánh gắn máy và diễu phố đã bị công an tìm đến tận nhà, áp giải về đồn, buộc “làm việc”, sau khi đương sự thành kính phân bua “không có ý đồ gì” rồi ngoan ngoãn cam kết không tái phạm mới được công an chiếu cố, bỏ qua [3], trong bối cảnh bất kỳ ai chỉ nói điều mình nghĩ, mình tin là đúng cũng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự do “lợi dụng các quyền tự do, dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” thì việc Tifosi trực tiếp công kích Tổng Bí thư như một đối tượng “thù địch, phản động” rõ ràng là… lạ! Lạ hơn là sau đó, Tifosi vẫn có thể tiếp tục “phục vụ cách mạng”.

Trên thực tế, đây là lần thứ hai ông Tô Lâm – Tổng Bí thư đảng CSVN bị các cá nhân, các nhóm chống diễn biến hòa bình, bảo vệ đảng, bảo vệ nhà nước XHCN chỉ trích. Đầu tháng trước, khi gặp những cá nhân đại diện giới cán bộ lão thành từng lãnh đạo đảng, nhà nước và đại diện giới trí thức, văn nghệ sĩ các tỉnh thành phía Nam, ông Tô Lâm đã từng bị “nhắc nhở” khi cho rằng: Những năm 1960, Sài Gòn – TP HCM là điểm sáng, là Hòn ngọc Viễn Đông, Singapore cũng không bằng nhưng giờ đây tốc độ phát triển đã vượt rất xa [4]. Ngay sau đó, Bùi Ngọc Trâm Anh người tự nhận là… “Phát ngôn viên Google.TienLang” đã gửi thư ngỏ cho Tổng Bí thư đương nhiệm, lưu ý ông ta rằng, phát biểu như thế là “tùy tiện, sai sự thật lịch sử”!

Khoan bàn đến chuyện tại sao gần đây, trong quá trình thảo luận về “con đường mới, bước đi mới”, ông Tô Lâm thích so sánh khoảng cách giữa xưa với nay hay khác biệt giữa ta với họ, cũng khoan bàn đến chuyện ông Tô Lâm đúng hay sai, thật sự chân thành hay tiếp tục thực hiện các “động tác kỹ thuật”, chỉ cần nhìn vào phản ứng của những Tifosi, Google.TienLang với một số phát biểu của ông Tô Lâm hồi thượng tuần tháng trước và trung truần tháng này, có thể dễ dàng nhận ra, dẫu là Tổng Bí thư, ông Tô Lâm cũng không được phép nói khác những điều mà đảng của ông “độc quyền sản xuất và phân phối”. Dẫu là Tổng Bí thư thì trình bày những ý tưởng vốn bị xem là “ngoài luồng” vẫn có thể bị xếp vào loại “chống cộng cặn bã” ngay lập tức!

Vì sao lại thế?

Nếu chịu khó theo dõi các diễn biến tại Việt Nam hẳn sẽ thấy, đồng hành với công cuộc “đổi mới” chính là việc lặng lẽ “nhận thức lại” nhiều vấn đề thuộc loại cốt lõi của CNXH nói chung và công cuộc xây dựng nhà nước XHCN ở Việt Nam nói riêng.

Cho dù tình thế buộc đảng CSVN phải nhận thức lại, phải thay đổi toàn diện theo hướng đã từng phủ nhận và phá bỏ triệt để, song tham vọng nắm giữ quyền lãnh đạo tuyệt đối không đổi nên đảng CSVN vừa mò mẫm tái thiết, vừa hô hào chống “tự diễn biến, tự chuyển hóa”!

Việc tạo ra tình thế kỳ quái ấy chính là nguyên nhân khiến Tổng Bí thư đương nhiệm bị những cá nhân, những nhóm tự nhận là trung thành với sự nghiệp của đảng, xưa nay vẫn hăng hái tiên phong trong “phòng, chống diễn biến hòa bình” xếp chung với thành phần bị quy kết là “chống cộng cặn bã”.

Tô Lâm không phải là nạn nhân duy nhất của các phần tử cực đoan do đảng của ông tạo ra và chính ông góp phần phát triển. “Độc quyền sản xuất và phân phối” cái gọi là “sự thật lịch sử” đã, đang cũng như sẽ còn gây ra nhiều rắc rối khó lường cho cả đảng CSVN lẫn người Việt!

Hạ tuần tháng 11 năm ngoái, báo chí Việt Nam cho biết, Công an thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương đã… “tống đạt các quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, bắt tạm giam Bùi Tiến Lợi, 56 tuổi để điều tra hành vi ‘lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân’ liên quan đến các bài viết xuyên tạc trên mạng xã hội”. Ông Lợi bị bắt khi đang ở Thái Bình và đã bị di lý về Bình Dương để phục vụ công tác điều tra [5]

Ông Lợi là một trong những người làm các video clip, lập kênh “Chống diễn biến hòa bình” trên YouTube để phản bác luận điệu của các “thế lực thù địch, phản động” và chỉ trích những phần tử cơ hội trong đảng xuyên tạc, lật ngược lịch sử. Khác với nhiều đồng chí, đồng đội chỉ thích ẩn danh, ông Lợi thường xuyên khoác quân phục, mang đầy đủ quân hàm, quân hiệu khi đăng đàn bảo vệ đảng. Ông Lợi chống lại việc công nhận VNCH như thực thể độc lập để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam tại biển Đông vì theo ông, đó là… “lật sử”, là… “ngụy sử”.

Thế rồi năm 2018, Đảng ủy trường Sĩ quan Công binh đột nhiên công bố quyết định: Loại Thượng tá Bùi Tiến Lợi – Chủ nhiệm Bộ môn CNXH khoa học, thuộc Khoa Khoa học xã hội và Nhân văn khỏi Lực lượng 47 của nhà trường vì… đưa thông tin trên mạng xã hội.

Tháng 7/2020, UBKT của Ban Chấp hành Trung ương BCH TƯ đảng CSVN khóa 12 công bố kết quả Kỳ họp thứ 46. Theo đó, ủy ban đã bác khiếu nại của ông Bùi Tiến Lợi – “giữ nguyên quyết định khai trừ ông Lợi ra khỏi đảng của tổ chức đảng cấp dưới”.

Ông Lợi không đơn độc. Điều ông răn đe đảng CSVN cách nay vài năm: Cộng đồng đấu tranh chống xét lại lịch sử, chống diễn biến hòa bình trên không gian mạng sẽ không bỏ cuộc, sẽ tiếp tục đương đầu cả với thế lực thù địch, phản động lẫn những kẻ đang ăn cơm dân, mặc áo đảng mà đề cao… ngụy sử” – dường như vẫn còn giá trị. Mới nhất, rõ nhất là những Google.TienLang, Tifosi,… Gần hơn một chút là cuộc tấn công của kênh truyền hình Quốc phòng Việt Nam vào Đại học Fulbright Vietnam, quy chụp cơ sở giáo dục này là nơi nuôi dưỡng “mầm mống cách mạng màu” vì không giáo dục thế hệ trẻ biết căm thù Mỹ. Cuộc tấn công đã đẩy chính quyền Việt Nam đến chỗ phải cử Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao phân bua: “Đại học Fulbright Việt Nam là thành quả của hợp tác giáo dục giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, nhất là trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Việt Nam hoan nghênh các hoạt động của Đại học Fulbright Việt Nam” [6].

“Độc quyền sản xuất và phân phối” cái gọi là “sự thật lịch sử” đã giúp hoài thai và cho ra đời nhiều nhân vật, nhóm như Bùi Tiến Lợi, Google.TienLang, Tifosi,… khiến sân khấu chính trị Việt Nam trở thành nơi trình diễn “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”. Những sử gia góp phần tạo ra cái gọi là “sự thật lịch sử” như Trần Huy Liệu, Phan Huy Lê, Trần Quốc Cường,… đột nhiên trở thành “tội đồ dân tộc”. Bộ “Lịch sử Việt Nam” với 15 tập bị xem là “lật sử”, hoặc “ngụy sử” chỉ vì thừa nhận vai trò của VNCH trong một giai đoạn lịch sử và một số viên tướng trước nay vẫn đứng dưới lá cờ vẻ vang của đảng như Hoàng Kiền, Nguyễn Thanh Tuấn, Nguyễn Quốc Thước đột nhiên hiệu triệu tấn công vào công trình thực hiện theo đúng đường lối, chủ trương của đảng CSVN khiến ông Nguyễn Đình Cống cho rằng không thể không bàn về cuồng tín [7].

Việc một số cá nhân, nhóm phò đảng, lên tiếng phê phán Tổng Bí thư, dạy dỗ Tổng Bí thư về nhận thức, lập trường chính là quà tặng dành riêng cho đảng CSVN, giúp tổ chức này nếm trải thế nào là chơi dao – đứt tay, gieo gió – gặt bão, dùng âm binh thì ắt sẽ có lúc bị nghiệp quật!

_________

Tham khảo

[1] https://tuoitre.vn/tong-bi-thu-to-lam-80-cac-nuoc-co-chinh-quyen-chi-3-cap-20250213125334188.htm

[2] https://www.facebook.com/tifosihpo

[3] https://www.facebook.com/lethuongtien8386/posts/pfbid0osYCiGvdnqsFDTCrpPpX12kTvameL94B6Mpj1aVqiZX1ujFok8L1U9axeaP3zmMAl

[4] https://vnexpress.net/tong-bi-thu-nguy-co-tut-hau-neu-khong-tim-con-duong-moi-4837417.html

[5] https://thanhnien.vn/binh-duong-khoi-to-bi-can-dang-thong-tin-xuyen-tac-xuc-pham-lanh-dao-185241120114702353.htm

[6) https://www.vietnamplus.vn/nguoi-phat-ngon-bo-ngoai-giao-binh-luan-hoat-dong-cua-truong-fulbright-viet-nam-post972639.vnp

[7] https://www.facebook.com/ngdinhcong/posts/pfbid0Nc3jRSVpAQvginqX6goyDN19gxepQLu2w5zmRqhNzoYiBLt8pWWHQQY1T5eqZZnql