Chiến tranh Nga-Ukraine: Nếu Hà Nội là Kyiv, Việt Nam sẽ làm gì khác?

BBC

  • Tác giả,Vũ Đức Khanh
  • Vai trò, Gửi cho BBC News Tiếng Việt từ Ottawa, Canada

Việc Tổng thống Donald Trump và Tổng thống Vladimir Putin bước ra từ cuộc gặp thượng đỉnh Alaska ngày 15/8/2025 với thông điệp mở đường cho một thỏa thuận hòa bình đã làm dấy lên nhiều so sánh thời cuộc giữa cuộc chiến Ukraine ngày nay và cuộc chiến Việt Nam nửa thế kỷ trước.

Từ góc nhìn lịch sử – chiến lược, một câu hỏi đáng giá được đặt ra: Nếu Hà Nội vào thời chiến Việt Nam phải đối mặt một cuộc chiến như Kyiv ngày nay, liệu Việt Nam sẽ làm gì khác?

Và vì sao Hà Nội đã có thể chiến thắng một siêu cường như Mỹ, trong khi Ukraine lại đứng trước nguy cơ phải chấp nhận một “hòa bình bất đối xứng” với Nga?

Chiến lược “trường kỳ” – điều kiện đủ và cần

Hà Nội từng theo đuổi một chiến lược tối thượng: “trường kỳ kháng chiến, nhất định thắng lợi”.

Sức mạnh của chiến lược này không chỉ nằm ở lòng quyết tâm, mà vì Hà Nội đặt cuộc chiến Việt Nam vào dạng chiến tranh sinh tử – không có đường lùi. 

Miền Bắc sẵn sàng hy sinh 10–20 năm, chấp nhận tổn thất của cải, dân số, hạ tầng – vì mục tiêu giành độc lập và thống nhất đất nước là tuyệt đối.

Ngược lại, Mỹ tham chiến tại miền Nam Việt Nam luôn phải trả lời câu hỏi: “giữ miền Nam có thật sự liên quan tới sự tồn vong của nước Mỹ không?”.

Khi câu trả lời nghiêng về “không”, sức mạnh chính trị của Washington tự nhiên suy giảm – hàng loạt áp lực nội bộ buộc Mỹ phải xét lại mục tiêu, cuối cùng là rút quân.

Ngày nay, Ukraine có lòng quyết tâm không kém bất kỳ quốc gia nào – nhưng chiến lược “trường kỳ” của Kyiv lại phụ thuộc nghiệt ngã vào ý chí chính trị của Mỹ và phương Tây.

Mỹ và phương Tây muốn Ukraine sống sót và không để Nga thắng – nhưng không muốn chiến thắng bằng mọi giá, và càng không muốn đánh Nga trực tiếp.

Do đó, “trường kỳ” của Ukraine là một cuộc chiến mà “nút dây” nằm trong túi nghị viện và lá phiếu của Paris, Berlin, Warsaw, Washington, London – nhiều hơn là tại Kyiv.

Putin có giới hạn như nước Mỹ tại Việt Nam?

Điểm sống còn thứ hai: nước Nga coi Ukraine – đặc biệt là Crimea và Donbas – không chỉ là lợi ích địa-chính trị mà còn là phần cốt lõi của bản sắc và sinh tồn của nhà nước Nga.

Các tuyên bố công khai của Putin từ 2014 đến nay đều thể hiện Nga không coi Ukraine là một quốc gia tách biệt hoàn toàn khỏi “thế giới Nga”.

Cuộc chiến với Ukraine vì thế là cuộc chiến “không có đường rút” cho Kremlin – khác hẳn với Mỹ tại Việt Nam.

Điều này mang ý nghĩa quyết định: nếu Washington có thể rút khỏi Sài Gòn mà vẫn là siêu cường số Một thế giới, thì Moscow khó có thể rút khỏi Donbas mà vẫn duy trì vị thế đế chế.

Vì thế, ý chí chính trị của Nga – dù bị trừng phạt, cấm vận, tổn thất quân sự – vẫn mang bản chất cố thủ tới cùng, đặt Ukraine vào thế khó trong đàm phán hoà bình.

Viện trợ, độc lập chiến lược và “câu giờ” khôn ngoan

Một khác biệt không nhỏ: Hà Nội nhận viện trợ từ Liên Xô, Trung Quốc nhưng luôn giữ được quyền chủ động “mục tiêu tối hậu” của mình; trái lại Ukraine ngày nay dù chiến đấu anh dũng, nhưng mức độ phụ thuộc vào tài chính – quân sự – hậu cần của Mỹ và phương Tây khiến Kyiv khó tránh khỏi áp lực nhượng bộ khi Washington chuyển hướng.

Nếu “Hà Nội là Kyiv”, cách phản ứng hợp lý nhất sẽ không phải là đập bàn nói “không” với Tổng thống Trump, mà là kéo ông vào một quá trình thương lượng phức tạp như “hòa đàm Paris” (5/1968-1/1973), khiến “Big Deal” trở nên ngày càng xa vời trong khi Nga bị kéo sâu hơn vào thế sa lầy.

Điều đó đòi hỏi Kyiv phải củng cố các “đường tiếp viện sống còn” ngoài Washington – từ Ba Lan, Lithuania, Latvia, Estonia, Phần Lan – những quốc gia coi Ukraine như tuyến phòng thủ sinh tử – đến Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Đài Loan và Australia – những đối tác có lợi ích chống xét lại và có thể hỗ trợ tài chính – tái thiết – ISR (Intelligence, Surveillance and Reconnaissance, tức là Tình báo – Giám sát – Trinh sát).

Chiến lược không phải “chờ” Mỹ và phương Tây, mà là buộc Mỹ và phương Tây phải lựa chọn: hoặc tiếp tục hỗ trợ để giữ Ukraine trên tuyến lửa Nga, hoặc chấp nhận nhìn Moscow tiến sát các biên giới NATO.

Thông điệp cuối cùng từ Alaska

Nhìn từ Alaska 2025, Hà Nội đã thắng vì biến cuộc chiến thành bài toán “không giới hạn ý chí” – trong khi buộc Washington phải đặt giới hạn cho chính mình.

Nếu Ukraine muốn tránh bị đẩy vào một thỏa thuận hòa bình mang tính đầu hàng từng phần, Kyiv phải học lấy điều đó: bằng cách kéo dài chiến tranh theo hướng khiến Moscow kiệt sức chính trị chứ không chỉ quân sự, đồng thời phá vỡ sự phụ thuộc duy nhất vào ý chí thay đổi của Washington.

Đây chính là mô hình “hòa bình có điều kiện” – thứ mà nếu Hà Nội bị ép phải ký vào năm 1972, có lẽ Việt Nam ngày nay sẽ bị chia cắt vĩnh viễn như bán đảo Triều Tiên.

Tổng thống Trump có thể mở lại trò chơi đàm phán kiểu Yalta, nhưng nếu Ukraine không đủ tỉnh táo, thỏa thuận hòa bình chỉ là cách viết lại thất bại bằng ngôn từ hoa mỹ.

Lịch sử không bao giờ lặp lại, nhưng nó thường để lại những cạm bẫy giống nhau.

Và trong thế giới ấy, những quốc gia không thể tự kéo dài được ý chí chiến lược của mình sẽ không còn tranh được thế chủ động – mà chỉ còn lại… quyền được hy sinh trên bàn mặc cả của các cường quốc.


 

SAU “GIẢI PHÓNG” LÀ CHUỖI NGÀY ĐEN TỐI-Nguồn fb Đỗ Ngà

Xuyên Sơn

Sau ngày 30/4/1975 những con người giỏi chém giết nhưng dốt nát về quản trị đã lên nắm quyền cai trị đất nước. Đây là chuỗi ngày kinh hoàng cho người dân Việt Nam.

Điều đầu tiên những cái đầu ngu dốt ấy làm là thực hiện chiến dịch đánh tư sản mại bản và ngăn sông cấm chợ.

Trong nền kinh tế có vô số chuỗi cung ứng, mỗi chuỗi cung ứng như vậy là mối liên kết chặt chẽ giữa sản xuất, lưu thông và tiêu thụ.

Đánh tư sản mại bản là đánh chết những doanh nghiệp sản xuất và thương mại, ngăn sông chấp chợ là cấm lưu thông hàng hóa.

Sản xuất bị diệt, vận chuyển bị chặn thì dân sống thế nào?

Nền kinh tế phát triển thế nào được? Vì thế mà dân miền nam chịu đựng cái đói kinh hoàng.

Dân phải ăn khoai lang và bo bo thay cơm.

Vì sao kinh tế đất nước điêu tàn như thế?

kẻ cầm đầu ĐCS khi đó là Lê Duẩn, một con người nổi tiếng với câu nói “Tôi hỏi thì nói không có tiền.

Kìa, không có thì in ra! In ra!

Không sợ lạm phát!

Tư bản đế quốc in tiền mới lạm phát chứ ta, chuyên chính vô sản thì sao lại là lạm phát mà sợ?”

đã điều hành đất nước một cách duy ý chí.

Cái duy ý chí dựa trên sự dốt nát thì nó nguy hiểm khôn lường.

Với một con người có trình độ như vậy thì điều hành đất nước thế nào được? Sự dốt nát, sự kiêu ngạo và duy ý chí cộng lại trong một nhà độc tài thì đất nước bị tàn phá khủng khiếp,

và thực thế đã chứng minh điều đó.

Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã đó là quy luật tất yếu.

Với con người đứng đầu đảng như thế thì dưới trướng là những con người dốt nát và nhiệt tình.

Kẻ đầu tiên trong đám dốt nát và nhiệt tình đó chính là Đỗ Mười,

kẻ ngu dốt này được Lê Duẩn giao nhiệm vụ thực hiện chiến dịch

X1, X2, và X3 để loại bỏ sạch

“bọn tư sản bóc lột”.

X1 là cướp nhà những gia đình bị cho là “tư sản bóc lột” và đẩy họ “đi kinh tế mới” để rừng thiên nước độc làm họ chết dần chết mòn.

Chiến dịch X2 là tiêu diệt tư sản, tịch thu tài sản, xí nghiệp xung vào công quỹ.

Chiến dịch X3 là giao những căn nhà đã cướp cho quan chức CS từ bắc vào.

Sau 3 chiến dịch này, nền sản xuất và thương mại phồn vinh của miền nam tan nát không còn gì. Cả miền nam xây dựng bao năm, CS vào phá tan nát trong chốc lát.

Người thứ nhì phải kể đến, đó là gã văn nô Tố Hữu.

Một con người suốt đời chỉ viết làm thơ bưng bô thì lại được giao cho chức vụ phó chủ tịch thường trực Hội đồng Bộ trưởng (tức phó thủ tướng thường trực ngày nay) chịu trách nhiệm về vấn đề kinh tế – tài chính đất nước.

Dưới quyền ông này,Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã phát hành tờ 30 đồng  và Bộ tài chính ra chính sách “giá-lương-tiền”.

Về giá thì chính quyền ấn định giá hàng hóa thấp để dân dễ mua, về lương thì tăng lương cho công nhân viên chức,về tiền là in tiền để trả thêm phần lương tăng thêm đó.

Chính vì chính sách ngu dốt đó đã làm cho đồng tiền lạm phát phi mã, từ năm 1985 đến 1988, với tỉ lệ lạm phát từ 300% đến 800% mỗi năm.

Năm 1986,tỷ lệ lạm phát lên đến 774,7% khiến kinh tế rối loạn.

Giai đoạn từ năm 1975-1986 là giai đoạn kinh hoàng.

Toàn bộ nền kinh tế phồn thịnh dưới thời VNCH bị xóa sạch.

Người dân sống như súc vật, cơm không đủ ăn mà xã hội thì đầy rẫy bọn sai nha lùng sục bắt bớ những ai dám buôn bán trao đổi dù là miếng thịt heo hay con gà.

Mất tự do, mất quyền làm người,mất chén cơm làm sao dân sống nổi? Chính vì thế mà dù cho có bán nhà,dù có đối diện với nguy cơ bỏ mạng ngoài biển người dân cũng tìm cách vượt biên để tìm kiếm tự do.

Trước ông Lê Duẩn là ông Hồ Chí Minh.

Con người này được ĐCS phong thánh, câu nói nào cũng được dát vàng để đảng viên học tập.

Để xua quân từ Bắc vào Nam phá hoại nền dân chủ non trẻ của Miền Nam, ông Hồ Chí Minh có làm 2 câu thơ rằng:

“Còn non, còn nước, còn người,

Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!”.

Chuyện đánh giặc giỏi và xây dựng đất nước có liên quan gì nhau?

Xây dựng khó vạn lần phá bỏ, đấy là điều sơ đẳng ai cũng biết.

Và thực tế, sau ngày 30/4/1975 ĐCS chỉ có phá chứ xây dựng được gì?

Từ Hồ Chí Minh rồi đến Lê Duẩn, những con người nắm quyền sinh quyền sát trong tay thì nói cho cùng, họ đã để lại giá trị gì trong tư tưởng để giúp ĐCS quản trị tốt đất nước chứ? Không gì cả.

Hiện nay ĐCS đang dựng lên một mớ lý luận hổ lốn mà trong đó mọi câu nói của ông Hồ Chí Minh đều được quẳng vào, nó được gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh”.

Điều nguy hiểm hơn nữa là ngày nay ĐCS cho đảng viên các cấp của họ “học tập và làm theo” mớ hổ lốn đó.

Và hậu quả sự sáng suốt không hề xuất hiện trong đảng.

Bao năm rồi với biết bao nhiêu tiền của đổ ra để dạy đạo đức và lý luận cho đảng viên, nhưng rồi cái dốt, cái kiêu ngạo, cái duy ý chí và cả sự khốn nạn nó nó vẫn còn nhởn nhơ ở đó.

Chính những thứ đó, những thứ mà người CS học và làm theo nó đã, đang và sẽ tiếp tục tàn phá nỗ lực của toàn dân theo cách khác với những gì nó đã từng.

Nguồn fb Đỗ Ngà

Tham khảo:

https://www.vinadia.org/den-cu-tran-dinh/den-cu-chuong-15/

https://thanhnien.vn/…/tien-giay-menh-gia-30-dong-bat…


 

Người Việt Nam vẫn muốn đi Mỹ dù chi phí cao, xin visa khó

Ba’o Nguoi-Viet  

August 18, 2025

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Được đặt chân đến Mỹ một lần trong đời là giấc mơ của nhiều người Việt Nam, bất chấp chi phí du lịch đắt và chính sách visa (thị thực) ngày càng siết chặt hơn.

Báo VNExpress hôm 18 Tháng Tám, dẫn khảo sát “nhu cầu du lịch Mỹ của khách Châu Á” từ cuối Tháng Năm đến giữa Tháng Sáu vừa qua của công ty nghiên cứu thị trường Milieu Insight, cho biết trong khi người Signapore là nhóm né du lịch Mỹ năm nay ở mức cao nhất thì ở chiều ngược lại, tỷ lệ quan tâm đến Mỹ tăng tại Việt Nam và Philippines.

Du khách đổ xô đến chụp ảnh tượng Nữ Thần Tự Do ở New York, Mỹ. (Hình: TTG Asia/VNExpress)

Cụ thể, 57% người Việt Nam cho biết họ quan tâm đến việc được đến Mỹ nhiều hơn so với sáu tháng trước, mặc dù visa Mỹ có ba thay đổi quan trọng trong năm 2025, gồm: dừng chương trình miễn phỏng vấn khi gia hạn visa từ 2 Tháng Chín với hầu hết visa không định cư; phí visa Mỹ tăng tối thiểu $250 từ 1 Tháng Mười, và chương trình thí điểm yêu cầu du khách nộp bảo lãnh lên đến $15,000 khi xin visa, dự kiến có hiệu lực từ 20 Tháng Tám.

Hiện tại, lượng khách Việt Nam đặt tour đi Mỹ trong hai quý cuối năm 2025 tại công ty Du Lịch Việt có xu hướng tăng 5%-10% so với cùng kỳ năm ngoái. Còn tại Pan American, lượng người Việt nộp đơn xin visa và gia hạn thị thực Mỹ qua bưu điện “tăng đột biến” sau khi Mỹ công bố tăng phí visa.

Các chuyên gia tại Singapore lý giải nguyên nhân khách Việt Nam có tỷ lệ quan tâm tăng “đến từ việc quốc gia này có cộng đồng người Việt lớn tại Mỹ.”

Với nhiều người, được đứng ở Quảng Trường Thời Đại, lái xe xuyên bang hay đơn giản ăn chiếc burger “ngay trên đất Mỹ” là trải nghiệm “đáng để vượt qua” các rào cản.

Bà Vũ Thị Quỳnh Hoa, phó giám đốc khu nghỉ dưỡng Con Gà Vàng Ninh Thuận, từng bốn lần xin visa Mỹ thành công, cho rằng sức hút của Mỹ với người Việt Nam không chỉ ở danh thắng hay trải nghiệm du lịch.

“Đặt chân tới Mỹ là một cột mốc, một giấc mơ mà nhiều người ấp ủ từ lâu. Mặt khác, đậu visa Mỹ không chỉ mở ra cơ hội khám phá quốc gia này, mà còn giúp du khách Việt thuận lợi hơn khi xin visa các nước khác cũng như miễn visa ra vào nhiều nước. Vì vậy, visa Mỹ được xem là loại visa có giá trị cao trên sổ thông hành,” bà Hoa nói.

Trong khi đó, ông Ngô Văn Thỏa, giám đốc công ty Du Lịch Pan American, người có kinh nghiệm 15 năm làm tour về thị trường Mỹ cho rằng Mỹ là nước lớn, điểm đến có sức hút trên toàn thế giới, không chỉ ở Việt Nam. Vì vậy “Giấc Mơ Mỹ” là niềm mơ ước của rất nhiều khách Việt Nam, muốn một lần trong đời đặt chân đến.

Hai vợ chồng du khách Việt Nam chụp hình trước biểu tượng Hollywood tại Mỹ hồi Tháng Sáu vừa qua. (Hình: VNExpress)

Ngoài chính sách visa thắt chặt hơn, ông Phạm Anh Vũ, phó tổng giám đốc công ty Du Lịch Việt, cho biết vấn đề an ninh, an toàn tại Mỹ lại không phải mối lo hàng đầu của khách Việt Nam. Hầu như chưa đoàn khách Việt nào bày tỏ lo lắng về vấn đề này.

Theo ông Vũ, tour đi Mỹ là sản phẩm cao cấp, chiếm khoảng 10% lượng khách mỗi năm của công ty. Mùa cao điểm du lịch Mỹ của khách Việt Nam là mùa Thu, khi thời tiết ôn hòa, cảnh sắc đẹp với lá vàng lá đỏ và dịp lễ hội cuối năm.

“Nhiều du khách coi chuyến đi Mỹ là cột mốc, một ‘giấc mơ’ để đánh dấu thành tựu và sự thành công chinh phục một trong những visa khó nhất thế giới,” bà Hoa kết.

Theo số liệu công bố hồi tháng 5 của Trung Tâm Nghiên Cứu Pew thuộc Quỹ Tín Thác Từ Thiện Pew có trụ sở tại Washington, DC, tính đến năm 2023, Việt Nam là một trong bốn cộng đồng người Châu Á có số lượng đông nhất tại Mỹ, với hơn 2.1 triệu người. (Tr.N)


 

CHUYỆN THẰNG TÂY

Chi NguyenNhững Câu Chuyện Thú Vị

Một thằng sinh viên Việt Nam du học ở châu  Âu dẫn bạn là một thằng Tây về nhà chơi. Hai thằng đi bằng xe máy, thằng Việt Nam đưa cho thằng Tây cái mũ bằng nhựa mỏng dính nói thằng Tây đội vào, thằng Tây nói :

– Tao có mũ vải rồi.

– Không được, cái này gọi là mũ bảo hiểm, theo luật giao thông, nếu không đội mũ này mày sẽ bị phạt.

– Nhưng cái mũ này làm sao có tác dụng bảo hiểm ?

– Mày đúng là thằng Tây, tao có nói để bảo hiểm đâu, chỉ để khỏi bị phạt thôi.

Đi một đoạn, thấy mấy tay công an đi xe máy không đội mũ bảo hiểm, thằng Tây hỏi :

– Luật giao thông Việt Nam không áp dụng cho công an à ?

– Có áp dụng.

– Vậy sao họ không đội,họ không lo bị phạt sao ?

– Vì đó là công an, không đội cũng không bị phạt, vì công an không ai lại đi phạt công an.

Đi tiếp, thấy mấy thanh niên không đội mũ bảo hiểm đi ngang qua cảnh sát giao thông cũng không bị phạt, thằng Tây hỏi :

– Đó cũng là công an à ?

– Mày lại hỏi đểu à, đó là bọn trẻ trâu, nó không bị phạt vì nó nhuộm tóc vàng và khoe hình xăm ở cánh tay, nó sẵn sàng bỏ chạy khi bị thổi còi, lâu dần nó không cần bỏ chạy cũng không bị phạt.

– Tại sao tóc tao cũng vàng, tay tao cũng có hình xăm mà mày bắt tao đội mũ bảo hiểm ?

Thằng Việt Nam bí quá nói đại :

– Tại tóc mày chỉ có một màu vàng, bọn kia tóc nó nhuộm hai màu. Mắt mày lại xanh, mũi lõ nên không giống mấy đứa đó được.

Đến ngã tư, có đèn đỏ thằng Việt Nam vẫn đi tiếp, thằng Tây kinh ngạc hỏi :

– Mày không nhìn thấy đèn đỏ à ?

– Có.

– Vậy sao mày không dừng ?

– Mày không hiểu cái gì hết, cần phải xem xe container đằng sau nó có dừng không, nếu nó vẫn lao nhanh thì phải chạy tiếp không nó húc chết.

Thằng Tây ngoái lại thấy một xe container lù lù chạy đằng sau, mặt xanh lét, vừa sợ vừa khâm phục kiến thức giao thông của thằng Việt Nam. Đến ngã tư khác, gặp đèn xanh, thằng Việt Nam dừng lại không đi, thằng Tây hỏi:

– Sao đèn xanh mày lại dừng ?

– Tại phải chờ cho các anh em nhân dân ở đường vuông góc với đường này nó vượt đèn đỏ xong đã rồi mới đi được, không nó húc chết.

Vừa nói xong thì một người nhân dân thiếu kinh nghiệm bị xe của làn vuông góc húc ngã vì liều lĩnh vượt đèn xanh. Thằng Tây lại càng khâm phục kiến thức giao thông của thằng Việt Nam. Xe vượt đèn đỏ gây tai nạn bỏ chạy, thằng Tây gọi thằng Việt Nam đến hỗ trợ người bị nạn, đỡ người, vẫy xe ô tô để chở nạn nhân đi viện nhưng không ai hỗ trợ, cũng không ai cùng vào giúp, thằng Tây hỏi :

– Tại sao không ai cùng giúp nạn nhân như chúng ta ?

– Tại người Việt Nam ai cũng bận.

– Người châu  u không bận sao ?

– Nhưng người Việt Nam bận hơn người châu  u, và cứu người cũng có thể gặp phiền phức, mà thôi không hỏi nữa, mày với tao chở nạn nhân vào viện bằng xe máy.

Hai thằng đến quá nửa đêm mới về đến nhà. Sáu giờ sáng hôm sau, đang ngủ, bị đánh thức bởi tiếng loa phường, thằng Tây hỏi:

– Tại sao loa không thông báo muộn hơn ?

– Tại muộn hơn thì mọi người đi làm, không có ai nghe.

– Vậy phát thanh sớm thì có người nghe không ?

– Cũng không có.

– Vậy tại sao phải phát thanh sớm ?

– Tại muộn hơn thì mọi người đi làm, không có ai nghe.

*****

Chuyện thằng Tây 2

Sáng hôm sau, chỉ có thằng Tây và thằng Việt Nam ở nhà, hai thằng tổ chức nấu ăn. Thằng Việt Nam nấu, nhờ thằng Tây đi…đổ rác :

– Mày ra cổng, rẽ trái, đi 40 mét gặp một cái biển ghi chữ “Cấm đổ rác” thì đổ ở đó.

– Lạy Chúa, sao lại đổ rác ở chỗ cấm đổ rác ?

– Vì đó là chỗ duy nhất có thể đổ rác, cả tổ dân phố này đều ngầm quy ước đó là chỗ đổ rác.

Nấu ăn một lúc, thằng Việt Nam phát hiện ra không còn thực phẩm, nói thằng Tây trông nhà để đi chợ, thằng Tây nói :

– Mày ở nhà, để tao thử đi chợ, tao thử đi một mình xem sao, tao muốn trải nghiệm. Mà chợ chỗ nào ?

– Mày đi ra cổng, rẽ phải 300 mét, thấy một cái biển ghi…

– Ghi “Cấm họp chợ” phải không ?

– Đúng, mày thành người Việt Nam mất rồi. Đó, chợ ở ngay sau cái biển đó.

Ăn xong, thằng Tây muốn đi ra trạm ATM rút tiền. Thằng Việt Nam nói :

– Chắc mày chuẩn bị muốn đi đến vùng không có máy rút tiền hả.

– Đúng, hôm trước tao rút mấy lần, có lần thì bị “nuốt thẻ”, có lần thì phải chờ gần nửa giờ chờ xong thì máy…hết tiền, nên tao muốn rút nhiều một chút đỡ phải đi rút.

– Để tao gọi taxi đi !

– Tao muốn đi xe máy, tao bắt đầu thích xe máy.

– Vậy mày cầm cái túi không quai này, ngồi sau tao chở đi rút tiền.

– Cái túi để làm gì vậy ? Đựng tiền hả ?

– Không, cái túi này không có gì, mày cứ cầm ngồi sau, cầm lỏng thôi để cho cướp giật nó giật.

– Không có quai để khi nó giật thì không bị ngã xe phải không ?

– Mày đoán như thần vậy.

– Còn tiền rút xong để đâu ?

– Mày để trong túi áo, túi quần chứ còn để đâu.

Trên đường về thì thấy một thằng ô tô biển xanh vượt qua các xe khác với tốc độ khoảng trên 100km/h ở làn đường chỉ cho ô tô chạy không quá 70km/h. Thằng Tây hỏi :

– Nó là xe ưu tiên à ?

– Không, như xe biển trắng thôi.

– Nhưng sao nó phóng vậy mà không bị “bắn” tốc độ, hay lái xe biển xanh nhuộm tóc vàng và xăm hình ở cánh tay ?

– Không phải, lái xe không nhuộm tóc xăm hình. Đó là xe của cơ quan nhà nước, tay sếp của cơ quan đó kiểu gì cũng quen biết bên cảnh sát giao thông, không quen trực tiếp thì quen gián tiếp. Cảnh sát giao thông có bắt thì lại phải nghe điện thoại “giải mã” rồi lại phải thả nên thà không bắt nữa cho khỏi mất thời gian.

Trên đường đi, thấy nhiều nơi ghi “Tất cả vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”. Thằng Tây hỏi:

– Ghi vậy làm gì mày?

– Khi mày đang rất đói thì mày muốn bàn chuyện đi đâu ?

– Tất nhiên là đi ăn.

– Đó, thiếu cái gì thì nói nhiều về cái đó.

Lv ; (Hình sưu tầm trên mạng chỉ có tính minh họa)

Nguồn Copy trên mạng


 

Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại. (Máccô 8:31)- Cha Vương

Tất cả những ai đặt hết niềm tin vào Thiên Chúa thì nhất định sẽ bình an và hạnh phúc hơn. Chúc ngày đầu tuần an lành và mạnh khoẻ nhé.

Cha Vương

Thứ 2: 18/08/2025. 26-19

TIN MỪNG: Rồi Người [Đức Giê-su] bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại. (Máccô 8:31)

SUY NIỆM: Thái độ chúng ta—Vậy hãy sẵn sàng như một tôi trung Chúa Kitô, can trường vác lấy Thánh giá của Chúa đã chịu đóng đanh vì yêu bạn. Hãy chuẩn bị để chịu trăm nghìn trái ý và chướng ngại trong trót đời sống ô trọc này, vì đó là số mệnh của bạn, dầu bạn đi đâu, ẩn đâu bạn cũng vẫn không thoát nổi. Điều phải đến, bao giờ nó cũng đến, và chỉ có một phương pháp để thoát ly phiền muộn và đau khổ là nhẫn nhục chịu đựng. Muốn nên bạn thiết Chúa, muốn dự phần vinh hiển của Chúa, bạn hãy vui lòng uống cạn chén đắng của Chúa. Tất cả những an ủi bạn hãy phó thác mặc quyền Chúa phân định… Bạn, bạn hãy sẵn sàng chịu mọi thứ khổ nhục và hãy coi đó là những yên ủi lớn lao nhất. “Vì những đau khổ đời này, dầu một mình bạn chịu được tất cả cũng không cân xứng với danh dự bạn sẽ được hưởng sau này” (Rom.8,18). Khi bạn tới được trình độ lấy đau khổ làm êm dịu và sung sướng khi chịu vì lòng mến Chúa Kitô, lúc đó bạn hãy cho mình là hạnh phúc vì bạn đã gặp được thiên đàng dưới đất. Nhưng bao lâu bạn còn lấy đau khổ làm nặng nhọc và tìm lối thoát, bạn còn phải khổ cực. Vì đau khổ mà bạn trốn, sẽ theo bạn khắp nơi. Nếu bạn sẵn sàng làm điều bạn phải làm, nghĩa là sẵn sàng chịu đau khổ và chịu chết, bạn sẽ chóng được dễ chịu và bình an. Dầu được lên tầng trời thứ ba như Thánh Phaolô, cũng không vì đó mà bạn được đảm bảo khỏi phải chịu trái ý. Lời Chúa Giêsu : “Ta, Ta sẽ tỏ cho ngươi biết, ngươi còn phải chịu muôn vàn cơ cực vì Danh Ta” (Act. 1, 16). Bạn còn phải đau khổ, nếu bạn muốn mến Chúa Giêsu và bền gan phụng sự Ngài. Ước chi bạn chịu đôi chút vì Danh Chúa Giêsu ! Như thế vinh dự cho bạn biết mấy ! Vui mừng cho các thánh biết mấy ! Nêu gương cho người đời biết mấy. Vì ai cũng ca tụng đức nhẫn nhục nhưng ít người muốn nhẫn nhục. Bạn phải thành tâm chịu đôi chút vì Chúa Kitô trong khi bao người khác đã chịu những nặng nhọc vì trần tục.

(x. Sách Gương Chúa Giêsu, Q 2:ch.13

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, xin ban cho con ơn sức mạnh, nhẫn nhục và can đảm chịu đựng những đau khổ của thân phận con.

LẮNG NGHE: Quả thế, nhờ Đức Ki-tô, anh em đã được phúc chẳng những là tin vào Người, mà còn được chịu đau khổ vì Người. (Philípphê 1:29)

THỰC HÀNH: Hãy thành tâm dâng một lời nguyện cầu cho những kẻ đang làm Bạn đau khổ.

From: Do Dzung

************************

Nguyện cầu – Nguyễn Hồng Ân (Sáng tác Lm. Thành Tâm)

YouTube player

KHUỴU GỐI – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa!”.

“Kho báu lớn nhất của Nước Trời không dành cho những bàn tay đầy vàng, nhưng cho những đầu gối biết chạm đất và những tâm hồn trống rỗng sẵn sàng được lấp đầy!” – Thomas Merton.

Kính thưa Anh Chị em,  

Lời Chúa hôm nay nói đến một tâm hồn biết ‘khuỵu gối’ và trở nên ‘trống rỗng’ trước Thiên Chúa như là điều kiện để một người có thể vào Nước Thiên Chúa.

Trước hết, người giàu. Theo một truyền thống, “lỗ kim” là một cánh cổng nhỏ giữa cổng lớn của tường thành Giêrusalem. Ban ngày, cổng lớn mở để người và lạc đà đi qua; ban đêm, đóng lại, nhưng có một khe hở nhỏ, đủ cho một người. Lạc đà không thể đi qua trừ khi nó được tháo cởi mọi thứ cồng kềnh, quỳ xuống, rồi trườn tới. Cũng thế, bạn chỉ có thể đến với Chúa khi đã tháo cởi mọi thứ, trở nên trống rỗng. “Người giàu khó vào Nước Trời không phải vì Thiên Chúa khước từ họ, nhưng vì chính họ không thể quỳ gối bỏ xuống gánh nặng của cải đang đè nặng tâm hồn mình!” – Søren Kierkegaard.

Tiếp đến, người nghèo. Cần lưu ý, người ta có thể gắn bó với của cải ngay cả khi họ không có nó. Khao khát có thêm cũng là một sự gắn bó ‘cần được thanh tẩy’, chứ không chỉ việc sở hữu của cải thực sự. Thực tế, có thể có người có nhiều của cải nhưng họ không hề gắn bó với chúng. Đây chính là vẻ đẹp của sự nghèo khó tâm hồn. “Có những người nghèo nhưng tâm trí họ đầy khao khát chiếm hữu, và có những người giàu nhưng trái tim họ hoàn toàn thanh thoát! Sự nghèo khó đích thực không nằm ở túi tiền, mà ở tự do nội tâm!” – Richard Rohr.

Bạn giàu hay nghèo? Bạn có quá gắn bó với những gì bạn có hay quá khao khát những gì bạn chưa có? Hãy cẩn thận, đừng vội cho rằng, chúng ta đã hoàn thiện phúc lành này quá nhanh – không hề gắn bó cũng chẳng hề khao khát. Khẳng định của Chúa Giêsu “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn…” được nói ra vì tình yêu thương dành cho cả người giàu lẫn người nghèo. Vì vậy, nếu bạn rơi vào một trong hai trường hợp này, hãy thương xót bản thân và chú ý đến lời của Ngài cũng như chú ý đến cuộc đấu tranh nội tâm của mình. “Hãy thương xót chính bạn khi thấy mình còn vướng víu vào của cải hoặc khao khát thêm nhiều! Chính sự thương xót ấy mở ra con đường trên đó, bạn ‘khuỵu gối’ để nghe được lời mời gọi yêu thương của Thiên Chúa!” – Henri Nouwen.

Anh Chị em,

“Với Thiên Chúa, mọi sự đều có thể!”. Như vậy, giàu hay nghèo, bạn và tôi đều có thể rơi vào cám dỗ gắn bó với những gì mình có hoặc mơ ước những gì mình không có. Chỉ khi biết ‘khuỵu gối’, trở nên trống rỗng và mở ra trước Thiên Chúa, chúng ta mới được thanh tẩy để thoát khỏi xiềng xích của lòng mình; và chính khi ấy, ân sủng Ngài sẽ lấp đầy, để điều tưởng chừng không thể bấy giờ, trở thành có thể. “Ân sủng chỉ bắt đầu ở giới hạn của con người! Khi ta tưởng mình không thể tiến thêm bước nào, hãy khuỵu gối; ở đó, Thiên Chúa mở ra con đường mới!” – Dietrich Bonhoeffer.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, dạy con buông bỏ mọi gắn bó và mọi mơ ước vô độ, để chỉ còn khao khát một mình Ngài!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

**************************************************************

Lời Chúa Thứ Ba Tuần XX Thường Niên, Năm Lẻ

Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.     Mt 19,23-30

23 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Thầy bảo thật anh em, người giàu có khó vào Nước Trời. 24 Thầy còn nói cho anh em biết : con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.” 25 Nghe nói vậy, các môn đệ vô cùng sửng sốt và nói : “Thế thì ai có thể được cứu ?” 26 Đức Giê-su nhìn thẳng vào các ông và nói : “Đối với loài người thì điều đó không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được.”

27 Bấy giờ ông Phê-rô lên tiếng thưa Người : “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì ?” 28 Đức Giê-su đáp : “Thầy bảo thật anh em : anh em là những người đã theo Thầy, thì đến thời tái sinh, khi Con Người ngự toà vinh hiển, anh em cũng sẽ được ngự trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en. 29 Và phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gấp bội và còn được sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp.

30 “Nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, và nhiều kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu.”

 

Bắt Đầu Từ Đó – Trần Trung Đạo

Kimtrong Lam

Trần Trung Đạo

Từ những cửa biển Đà Nẵng, Sài Gòn, Vũng Tàu, Cam Ranh, Nha Trang sau những ngày tháng Tư, mùa bão lửa, năm 1975. Mẹ lạc cha. Vợ xa chồng. Anh mất em. Những đứa bé bị bỏ quên đứng khóc trên đường phố. Những chuyến hải hành vô định trên biển Đông trùng trùng gió bão. Đói khát. Lo âu. Bà mẹ quỳ lạy những tên hải tặc để xin tha cho đứa con gái chỉ mười lăm tuổi ốm o bịnh hoạn của bà. Nước mắt và những lời van xin của mẹ không lay động tâm hồn của những con người không còn một chút lương tri. Tiếng niệm Phật. Lời cầu kinh. Không ai nghe. Không có Chúa và không có Phật. Ở đó, trên bãi san hô của đảo Koh Kra, phía nam vịnh Thái Lan, chỉ có những thân thể trần truồng, máu me nhầy nhụa, chỉ có tiếng rên của những con chim nhỏ Việt Nam bất hạnh và giọng cười man rợ của bầy ác điểu Thái Lan.

Bắt đầu từ đó.

Từ trại tỵ nạn Camp Pendleton, , Palawan, Laem Sing, Pulau Bidong, Sungai Besi, Bataan, Whitehead, Phanat Nikhom, Galang. Những địa danh xa lạ đã trở nên thân thiết. Ngửa tay cầm chén gạo tình người. Thank you, merci, danke, gracias. Tuổi hai mươi, ba mươi, và ngay cả năm mươi, bảy mươi mới bắt đầu tập nói. Những câu tiếng Anh bập bẹ, những dòng chữ Pháp, Đức, Tây Ban Nha ngập ngừng.

Bắt đầu từ đó.

Từ những buổi chiều âm thầm nhìn qua bên kia biển, tôi tự hỏi, phải chăng chấm đen cuối chân trời đó là quê hương. Cành hoa hồng được thả trôi trên biển để nhớ nhau trong ngày cưới. Con búp-bê được nhẹ nhàng đặt trên mặt nước xanh trong ngày sinh nhật của con. Vợ đã chết và con đã chết trong một lần vượt biển sau tôi.

Bắt đầu từ đó.

Từ đêm giao thừa đầu tiên. Không bánh chưng xanh. Không rượu nồng pháo nổ. Không một lời chúc tụng của bà con. Chỉ có tiếng hú của cơn bão tuyết dội vào khung cửa kính. Hai ngọn nến nhỏ, một bó hương thơm và những giọt nước mắt nhỏ xuống trong đêm giao thừa cô độc. Em bé mười ba tuổi lần đầu tiên tập cúng mẹ mình. Cúng về đâu và lạy về đâu. Trong lòng Biển Đông sâu thẳm, mẹ có còn nghe được tiếng khóc của đứa con đang lạc loài trên đất lạ.

Bắt đầu từ đó.

Từ hành lang phi trường Tân Sơn Nhứt, người lính già HO gạt nước mắt chào tạm biệt thân nhân, tạm biệt quê hương, nơi một lần máu mình đã đổ. Ra đi, mang theo những tên tuổi, những địa danh đã hằn sâu trong ký ức. Ra đi, để lại sau lưng tuổi thanh niên trong ngục tù xiềng xích. Ra đi, để lại bao đồng đội, chiến hữu, anh em đang tiếp tục đếm những ngày dài bất hạnh trên quê hương.

Bắt đầu từ đó.

Tiếng guốc không còn khua trên đường phố. Hàng cây sao đã héo. Hàng me xanh đã tàn. Hàng phượng vĩ không còn đỏ thắm. Những trụ đèn khuya trước cổng trường không còn ai đứng đợi. Những ô cửa của lớp học và của đời người đã đóng. Và cả một quê hương thân yêu cũng chừng như đã chết.

Ra đi.

Ra đi.

Và từ đó chúng ta đi. Cảnh đời tuy có khác nhau. Tuổi tác tuy có khác nhau. Thời điểm tuy có khác nhau. Nhưng chúng ta, những người Việt Nam may mắn còn sống sót, cùng mang một nỗi đau chung: nỗi đau Việt Nam.

Nỗi đau lớn dần theo mỗi ngày biệt xứ. Nước mắt của những bà mẹ Việt Nam khắp ba miền góp lại chắc đã nhiều hơn nước sông Hồng. Xương trắng của cha anh nếu chất lại chắc đã dài và cao hơn cả dãy Trường Sơn.

Hôm nay, cơn bão lửa dù chưa qua hết nhưng với ý chí vươn lên, những người Việt Nam may mắn còn sống sót, thay vì ngồi thở ngắn than dài cho số phận, đã dìu nhau đứng dậy, dìu nhau đi lên, sống một cuộc sống tích cực, làm những công việc tích cực cho bản thân, cho gia đình, cho đất nước. Nhờ thế, sau đêm tối trời của vận nước và đời mình, đa số chúng ta đã tìm được một cành mai hy vọng ở xứ người. Để từ đó làm điểm khởi hành lên đường đi dựng lại Mùa Xuân Dân Tộc.

Hôm nay, đau buồn vẫn chưa nguôi nhưng sức sống không phải vì thế mà ngừng lại. Những thuyền nhân tí hon trên những chiếc ghe bằng gỗ mong manh ngày xưa bây giờ đã lớn. Các em đã thành những kỹ sư, bác sĩ tài ba, những khoa học gia lỗi lạc trong nhiều ngành. Ai đã dạy em nên người? Cha mẹ. Vâng. Thầy cô. Vâng. Nhưng còn hơn thế nữa, còn từ trong dòng máu Việt Nam.

Hôm nay, những con nước nhỏ dưới chân cầu đã trôi ra biển rộng. Nhưng không phải vì thế mà tan loãng trong đại dương bát ngát như hàng triệu con nước khác. Trái lại, những giọt nước từ sông Hồng, sông Hương, sông Ba, Thu Bồn, Trà Khúc, Cửu Long, Vàm Cỏ, vẫn hẹn một ngày bốc thành hơi, bay về tưới mát ruộng đồng xứ Việt thân yêu đã nhiều năm đại hạn.

Tất cả, một ngày không xa sẽ rơi vào quên lãng, sẽ tan biến đi theo chu kỳ sinh, trụ, dị, diệt của nhân sinh. Không quan trọng. Điều quan trọng, trong giờ phút còn có mặt, còn được góp phần, xin làm một que củi nhỏ để ngọn lửa hy vọng, tình người, tình đất nước, trong lòng mỗi chúng ta, đừng tắt.

Cám ơn.

Trần Trung Đạo


 

50 Năm Tìm Bạn – Đỗ Duy Ngọc

Kimtrong Lam

Đỗ Duy Ngọc

Ba giờ sáng, không ngủ được, ngồi dậy mở máy vào messenger mục tin nhắn đang chờ xoá bớt tin nhắn, thấy một tin của một người lạ: “Bảo đây. Tìm mày gần 50 năm. Hello Ngọc Nhà Đèn…Tao biết mày không thích cái tên này nhưng vẫn gọi vì tao chỉ nhớ đến cái tính ngông của mày.” Ngọc Nhà Đèn, cái nick name này ở đâu ra ta? Tôi nghĩ hoài không ra. Bảo nào? Tôi có nhiều người bạn tên Bảo. Vào Facebook của người này. Nhìn hình lạ hoắc, không gợi khuôn mặt thân quen nào, bèn trả lời:”Xin lỗi bạn, chắc bạn nhầm tôi với ai rồi.” Bên kia nhắn lại ngay:”Tôi có người bạn cùng tên, trước học ở ĐHVH phân khoa GD….tất cả giống bạn? Xin lỗi nếu đã nhầm. Cảm ơn bạn đã trả lời.” Lại suy nghĩ, nếu học Giáo Dục Vạn Hạnh thì chắc là người có thể không quen nhưng phải biết. Nên viết nhắn lại:” Bạn học Vạn Hạnh khoá nào và phân khoa gì? Tôi cũng có bạn tên Bảo học khoa Sử Địa người Nha Trang”. Nhắn thế thôi chứ tôi chưa nghĩ đến người bạn cũ tên Bảo, lâu nay tôi vẫn cố tìm. Trả lời:”Thêm vài chi tiết nữa, may ra bạn nhớ? Cái bức tranh vẽ vội đã nuôi bạn lúc đói mèm vào thời điểm đó. Đúng rồi, tôi đấy. Người đã cùng trọ với Vinh, người DN.” Trong lòng tôi vỡ oà niềm vui, đúng là người bạn cũ đây rồi. Tôi nhanh chóng nhắn tiếp:” Trời ơi sao bây giờ khác thế. Bảo người gốc Quảng Bình và nhà ở Nha Trang”. Nhắn lại:”Hình như có lần bạn ghé NT ,tụi mình ra biển ngắm sao đêm? Nhớ quá ngày ấy…bác Trần Đới, Bùi Giáng…”. Thế rồi hai thằng nối điện thoại nói chuyện với nhau hơn tiếng đồng hồ đến khi trời ửng sáng, nhắc đủ thứ chuyện của hơn 50 năm trước.

Hơn năm mươi năm trước, tôi là thằng sinh viên nghèo từ Đà Nẵng vào Sài Gòn đi học. Vì nhiều lý do khó kể ra, tôi vào Sài Gòn mà không có ai trợ cấp, sống như đứa con hoang. Rất nhiều hôm đói, rất nhiều ngày đói. Lâu lâu có bài đăng báo có được chút tiền còm. Rồi vẽ biểu ngữ, bán tranh, viết thông báo cho trường, thiết kế sân khấu cho Đoàn Văn nghệ Sinh viên Vạn Hạnh do anh Phạm Thế Mỹ làm trưởng đoàn. Thu nhập rất bấp bênh. Túi thường rỗng và bụng rất nhiều lần đói. Không nhớ sao lại có tiền thuê nhà ở hẻm 108 Trần Quang Diệu, căn nhà trống trải chẳng bàn ghế, không giường chiếu có một căn gác lửng bằng gỗ và ngoài sân có cây mận đầy sâu. Từ đường vào nhiều con hẻm ngoằn ngoèo mới đến nhà nằm gần con kinh nước đen. Tôi ở chung với hắn, Trần Ngọc Bảo và mấy người bạn nữa. Hắn cũng vốn gốc Quảng Bình và cũng dân di cư như tôi. Gia đình hắn ở Nha Trang, bố là Trung tá quân đội Việt Nam Cộng Hoà. Hắn được gia đình tiếp tế hàng tháng, dù không nhiều vì sĩ quan hồi đấy sống nhờ lương lại đông con. Tuy vậy hắn còn khá hơn tôi vì đầu tháng có tiền để ăn học. Hắn thuộc tuýp người hiền lành, không đua đòi ăn chơi nên hợp với tôi, một thằng nghèo rớt mồng tơi ăn còn kiếm không ra lấy gì mà chơi. Hắn để tóc kiểu Beatles, mốt thịnh hành của thanh niên thời ấy, hai mắt to, tròn lúc nào cũng ngơ ngác và khuôn mặt dài. Hắn học cùng phân khoa Giáo Dục, Đại học Vạn Hạnh với tôi nhưng ban Sử Địa còn tôi ban Việt Hán. Hai thằng thường đi học chung với nhau. Đi bộ qua những con hẻm hẹp loanh quanh ra đến đường Trương Minh Giảng. Những lần tôi không có tiền ăn cơm, tôi ăn ké khay cơm của hắn. Hồi đó trường Đại học có câu lạc bộ sinh viên, bán phiếu cơm với giá rẻ cho sinh viên. Mỗi phần ăn gồm một khay có mấy ngăn, ngăn cơm, ngăn canh và ngăn món mặn thường là đậu hủ với vài miếng thịt bạc nhạc hay nửa khúc cá kho. Đồ ăn theo tiêu chuẩn nhưng cơm thì không hạn chế. Hắn mua phiếu, ngồi ăn hết cơm và thức ăn, thay vì mang khay vào trả thì hắn sẽ đứng lên và tôi thay vào chỗ hắn, mang khay vào lấy thêm cơm ra ăn với trái chuối hay chút nước mắm. Nhờ chiêu đó, tôi qua được những cơn đói ngặt nghèo.

Ở chung còn có lão thi sĩ Trần Đới, người có khuôn mặt và hàm râu giống nhà văn Nga nổi tiếng Mikhaylovich Dostoyevsky. Lão cũng là kẻ lang thang, suốt ngày làm thơ và ôm cái đàn mandolin gảy những hợp âm lộn xộn.

Lâu lâu cũng có nhóm bạn âm hồn của tôi ghé vào, toàn là dân biệt kích, không quân lái máy bay chiến đấu đi bỏ bom về và cũng không thiếu vài tay du đãng. Mỗi lần đám đó tụ hội là râm ran, bày đủ trò phá phách nhưng tôi và hắn không bao giờ tham gia. Có một lần tay bạn du đãng của tôi lúc ấy đang dính với một em me Mỹ. Thằng chồng Mỹ của ả đi hành quân, ả và tay giang hồ bạn tôi dọn sạch sành sanh đồ đạc trong nhà mang qua gởi nơi tụi tôi ở trọ. Tôi sợ quá năn nỉ chúng dọn đi gấp. Lần đó MP của Mỹ tìm vào xóm, may mà không phát hiện được gì vì đã chuyển đi trước đó. Hú hồn!

Ở chung cũng có người hoạt động Việt Cộng. Tụi tôi biết nhưng việc ai nấy làm, đời ai nấy sống, hồn ai nấy giữ nên cũng chẳng quan tâm. Sau 75 người này làm việc bên Sở Văn Hoá Thành phố.

Ở chung với nhau một thời gian thì tan hàng, mỗi đứa một phương. Trải qua bao nhiêu biến cố và đổi thay của thời cuộc cùng đời sống của mỗi người nên chẳng liên lạc gì với nhau. Nhất là sau 75, tan hàng, rã đám tôi và hắn bặt tin nhau. Tôi đôi khi cũng hỏi thăm về hắn nhưng chẳng ai biết. Tôi nghĩ chắc hắn di tản hay vượt biên rồi vì gia đình hắn ở Nha Trang sát biển và bố hắn lại là sĩ quan cao cấp VNCH. Giờ gặp lại hắn cho biết là trong những ngày cuối của cuộc chiến, hắn được lùa đi với đám lính Đại Hàn nên rời Việt Nam rất sớm. Bố hắn kẹt lại đi cải tạo mấy năm.

Giờ hắn định cư ở Úc, đã có chắt rồi và hắn bảo hắn tìm tôi hơn 50 năm nay giờ mới gặp qua Facebook. Cũng cảm ơn Facebook, nhờ nó mà chúng tôi lại tìm được nhau sau bao thăng trầm, biến đổi. Thằng nào cũng đã quá tuổi bảy mươi, nằm nhắc lại những kỷ niệm, ký ức lại tràn về. Nhìn lại những năm tháng của một thời, khó khăn nhưng vui, rất vui và nhiều khát vọng ở tương lai. Bây giờ chân đã run, sức đã yếu, sự nghiệp cũng chẳng có gì, những ký ức của ngày tháng cũ tràn về, vẫn nhớ như in những bước chân trong những con hẻm nhỏ, ngôi nhà trống trải, những bữa cơm ở câu lạc bộ sinh viên. Thời gian đi mau quá, chớp mắt đã hơn nửa thế kỷ rồi. Chúc bạn ta và cũng tự chúc mình có sức khỏe và niềm vui với tuổi già. Hy vọng có ngày gặp lại nhau.

6.2.2024

DODUYNGOC

 


 

TÔI CHỌN LẦM BẠN GÁI – Trần Linh

Trần Linh

Tôi sinh ra trong gia đình nghèo có mẹ đơn thân. Mẹ tôi luôn cố gắng chăm chỉ đi làm đủ mọi nghề để có thể nuôi tôi ăn học, lớn khôn. Sau khi tôi tốt nghiệp cấp 3, mẹ động viên tôi không cần lo lắng, cứ lên thành phố học hành rồi lập nghiệp để có tương lai rộng mở. Mặc dù rất thương và nhớ mẹ, tôi vẫn lên đường theo lời khuyên của mẹ. Tôi biết để tôi có thể học đại học trên thành phố, mẹ đã phải làm nhiều việc hơn. Tôi luôn tự nhủ với lòng cần phấn đấu hết sức, kiếm được dâu hiền vợ thảo để báo đáp công ơn của mẹ.

Sau 10 năm học ngày học đêm, nỗ lực hết mình trong công việc, cuối cùng tôi cũng trở thành giám đốc một công ty, có thu nhập cao. Giờ đây, dù không giàu có, cuộc sống của tôi khá ổn, có thể mua nhà chung cư tại thành phố. Tôi mong muốn đón mẹ lên ở cùng nhưng mẹ không chịu. Mẹ bảo, mẹ ở quê quen rồi, không muốn đi đâu hết.

Khi sự nghiệp của tôi khá rộng mở, ở tuổi 33, tôi mới dám nghĩ đến chuyện yêu đương, kết hôn.

May mắn không mất quá nhiều thời gian, tôi đã quen một cô gái xinh xắn, hoạt bát. Em không ở đâu xa lạ, chính là cấp dưới của tôi. Em là người chủ động “tấn công” tôi. Em tiết lộ đã “thầm thương trộm nhớ” tôi từ lâu nhưng mãi đến giờ mới có cơ hội. Hẹn hò được gần một năm, tôi đã đến tuổi muốn cưới vợ, còn em cũng rất sẵn sàng cho chuyện hôn nhân. Chính vì vậy, tôi đưa em về quê ra mắt mẹ rồi sau đó sẽ đến xin phép gia đình em. Trước khi về quê, tôi nhiều lần muốn nói chi tiết cho em biết về hoàn cảnh gia đình tôi. Nhiều người thấy tôi hiện giữ vị trí giám đốc, cứ đồn bố mẹ tôi là ông này, bà kia, tôi sợ em hiểu lầm. Tuy nhiên, cứ mỗi lần tôi định kể sâu, em lại gạt đi nói: “Em hiểu mà anh, anh không cần nói quá nhiều đâu”.

Nghe em bảo vậy, tôi cũng yên tâm phần nào, vui vẻ đưa em về gặp mẹ. Vừa nhìn thấy ngôi nhà nhỏ, cũ kỹ ở quê của tôi, sắc mặt của em có chút thay đổi. Đang hào hứng xách túi quà, em bỗng dưng đứng khựng lại, còn hỏi đi hỏi lại đây có thực sự là nhà tôi không, tôi có nói đùa không…

Tôi chưa kịp trả lời, mẹ đã vui mừng chạy ra đón con dâu tương lai. Mẹ vừa hỏi han, quan tâm, vừa chạm tay vào người em thì em bỗng lùi lại. Nhìn qua tôi nhíu mày khó hiểu, em lại nở nụ cười chào hỏi mẹ.

Từ giây phút đấy đến sau bữa cơm trưa, tôi không thấy em cười nữa. Tưởng em ốm mệt, tôi hỏi thăm thì em nói không phải. Em cứ đi lòng vòng trong nhà tôi xong ra đến vườn ngó nghiêng như thể muốn tìm kiếm thứ gì đó.

– Em hỏi tôi: “Ở quê, anh còn ngôi nhà, mảnh đất nào nữa không?”.

– “Không em ạ, nhà anh chỉ có thế này thôi. Anh xuất thân nghèo khó, anh tưởng em biết rồi mà, anh lập gia đình sẽ đưa mẹ theo…”, tôi đáp.

– Bạn gái cứ ngớ người ra rồi xin phép đi vào nhà vệ sinh. Thấy em lâu quá chưa quay lại, tôi đi tìm thì thấy em ở sau vườn gọi điện cho ai đó. Đang định gọi em, tôi tình cờ nghe được đoạn hội thoại giữa em và mẹ em.

– “Ôi công ty đồn vớ vẩn rồi mẹ ơi, nhà anh ấy nghèo lắm, trong nhà còn chẳng có nổi thứ gì giá trị. Đã thế, mẹ anh còn là mẹ đơn thân, không hiểu hồi xưa ăn chơi hay làm sao mà không có chồng…”

–  Lời em nói khiến tôi như chết lặng…

Lấy lý do có công việc gấp, tôi nhanh chóng xin phép mẹ đưa bạn gái lên thành phố ngay. Suốt cả đường đi, tôi không nói lời nào, trong đầu bủa vây hàng đống suy nghĩ. Đưa em về đến cửa nhà, tôi chỉ nói ngắn gọn:

“Bọn mình chia tay đi, không ai có quyền xúc phạm mẹ anh, kể cả em”.

Một tuần nay, tôi xin nghỉ phép, không đến cơ quan. Bạn gái liên tục tìm đến nhà, khóc lóc trước cửa. Cô ấy gọi điện, nhắn tin cho tôi không ngừng nói xin lỗi rồi lại bảo chắc tôi đã hiểu lầm chuyện gì đó.

Nhưng tôi đã quyết tâm hủy hôn, không có ý định thay đổi. Đối với tôi, sau những gì mẹ đã hy sinh cho tôi, mẹ luôn là nhất, không ai có quyền có thái độ không đúng với mẹ tôi. Tôi có thể không có chút kinh nghiệm nào trong chuyện yêu đương nhưng tôi tin lần này, tôi làm đúng.

Càng suy nghĩ về những chuyện từ trước đến nay, nhất là hôm về quê, tôi càng thấy rằng, bạn gái là người ham vật chất, coi thường người nghèo. Thậm chí, cô ấy còn tỏ ý chê mẹ tôi quê mùa, chê tay mẹ tôi không sạch. Tự dưng tôi chảy nước mắt vì thương mẹ, tôi đã quá có lỗi với mẹ khi không tìm hiểu kỹ, đưa về ra mắt người con dâu không xứng đáng. Tôi đang tìm mua nhà đưa mẹ lên thành phố ở với tôi, nhà cũ của mẹ tôi sẽ sửa sang thật ấm cúng để ngày nghỉ tôi đưa mẹ về kỷ niệm của mẹ ..


 

Nhà Sư Và Linh Mục – phan ni tấn 

Nghệ Lâm Hồng

Mời đọc cốt truyện xẩy ra vào cuối đời của Đảng trưởng VNQDĐ: Nguyễn Thái Học.

Nhà Sư Và Linh Mục

phan ni tấn 

Linh mục Nguyên Khải vừa lên tới chân núi Yên Tử thì trời mưa tầm tã. Núi Yên Tử thuộc xã Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, là một dải núi cao nằm ở phía đông bắc Việt Nam. Mặc dù Cha Khải có mang theo chiếc ô, vừa che mưa che nắng vừa làm gậy phòng thân, nhưng đụng phải cơn mưa giông, sấm sét rền trời buộc ông phải lách mình vô sơn động núp mưa. Vừa bước vào cửa động Cha Khải suýt dẫm phải con rắn hổ mang bành dài khoảng 6m nằm chắn ngang đang nuốt con rắn lục to bằng hai ngón tay. Đúng lúc đó con chim bồ câu trắng sà xuống đậu trên cành muỗm gần chỗ Cha Khải đứng.

Con bồ câu vẫn nhận ra ông. Nó kêu cúc cúc, đưa cặp mắt màu hồng tươi lúc ngúc cái đầu nhìn ông. Như những lần trước, khi Cha Khải vừa tới lưng chừng núi ghé am cổ tự Bảo Sái thăm sư Lâm Mộc là con bồ câu xuất hiện như đại diện nhà sư chào đón khách phương xa. Lần nào cũng thế, Cha Khải nhẹ nhàng vuốt đầu nó, thì thầm với nó đôi câu xong là nó bay đi ngay. Năm ngoái, lúc nghỉ chân nơi am Ngọa Vân, Cha Khải đã kịp thời cứu con bồ câu thoát khỏi móng vuốt chim ưng. Lúc đem nó vô chùa, sư Lâm Mộc thấy đốm lông xám trên đỉnh đầu chim nên sư đặt tên là Lam câu và nuôi dưỡng nó đến nay.

Chùa Bảo Sái, xưa kia là một cái am thô sơ được Thiền sư Bảo Sái, đệ tử của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông, dựng nên. Vì am cổ tự nằm cheo leo bên vách núi Yên Tử nhiều lần bị sụt lở vì mưa bão, về sau trải qua những biến đổi thăng trầm dần hồi am được trùng tu thành chùa mang tên của Thiền sư Bảo Sái.

Theo dòng thời gian mãi đến cuối thập niên 1930, một hôm chùa Bảo Sái tiếp nhận một đạo sư lang thang lạ mặt. Trang phục của sư thật giản dị, nhiều phần chắp vá và rách rưới. Ông mang đôi giầy vải, cổ đeo tràng hạt lớn, trên vai quàng một tấm vải nâu, râu ria lờm xờm. Cái thân hình hộ pháp trông dữ tợn nhưng ánh mắt thật hiền từ, nồng ấm. Điểm nổi bật ở ông là uyên thâm đạo pháp.

Đó là nhà sư Lâm Mộc, đến rồi đi, như con giao long ẩn hiện rầy đây mai đó. Sư vân du khắp nơi, hoằng pháp khắp xứ Bắc kỳ, mùa mưa mới âm thầm trở về chùa. 

Sư Lâm Mộc là một cao tăng không chủ trương ở chùa. Ngay từ thuở thiếu thời, chịu ảnh hưởng cuộc sống cách mạng chống thực dân Pháp của bố mẹ nên sau một thời gian dài ẩn tu thành tựu tì kheo sư Lâm Mộc đã vân du hoằng pháp đó đây, coi trời đất là nhà, trần gian là chỗ tạm dung. Hằng năm vào mùa mưa, sư Lâm Mộc mới trở về chùa Bảo Sái náu mình trong kho củi ở khu vườn đá phía sau chùa. Thỉnh thoảng vào trung tuần tháng Sáu, linh mục Nguyên Khải từ giáo phận Vinh lặn lội đường xa vượt núi, đội mưa ghé thăm sư Lâm Mộc vấn an sức khoẻ, thăm hỏi sự tình.   

Sư Lâm Mộc và linh mục Nguyên Khải có cùng một huyết thống. Hai ông là con sinh đôi của nhà cách mạng Nguyễn Khúc Thụ, đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, mẹ là bà Đỗ Thị Nâu thuộc đội hậu cần của Đảng trưởng Nguyễn Thái Học. Năm 1930, ông Nguyễn Khúc Thụ hy sinh tại Yên Bái trong cuộc Tổng Khởi Nghĩa rạng mồng 10 tháng 2 năm 1930, chiều cùng ngày bà Nâu bị mật thám Pháp treo cổ trong nhà bếp của Cô Giang, người bạn đời chung thủy của Đảng trưởng Nguyễn Thái Học.

Cuôc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng thất bại, Nguyễn Thái Học cùng 12 nghĩa sĩ bị đưa lên đoạn đầu đài ở Yên Bái. Hai hôm sau, Cô Giang, tức nữ chí sĩ cách mạng Nguyễn Thị Giang, đã âm thầm trở về làng Thổ Tang tự sát bằng khẩu súng lục của Nguyễn Thái Học đã tặng cô ở đền Hùng ngày nào. Riêng Cô Bắc, em ruột của Cô Giang, cùng các nghĩa sĩ bị bắt đi tù 5 năm cấm cố. Nguyễn Thị Bắc qua đời năm 1943, khi mới 35 tuổi.

Lúc 13 anh hùng Việt Nam Quốc Dân Đảng bị xử chém thì một số đồng đảng thân cận của Nguyễn Thái Học may mắn chạy thoát khỏi sự săn đuổi của mật thám Pháp. Trong cuộc săn đuổi đó có hai người thanh niên tuổi vừa 20, cũng là đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, hoạt động tích cực cho mục đích đấu tranh giành độc lập dân tộc, tức nhà sư Lâm Mộc và linh mục Nguyên Khải sau này.

Để tránh bị sát hại, hai ông đã phải thay tên đổi họ, chia tay nhau được các nghĩa sĩ bí mật gởi vào nương náu nơi cửa Phật ở Sầm Sơn và nhà thờ Chúa ở Ninh Bình.

Dòng đời cứ thế trôi mau. Thỉnh thoảng các nghĩa sĩ sống sót âm thầm trở về chốn thanh tu vấn an hai vị tu sĩ, nhưng dần hồi không còn thấy họ trở lại nữa. Dù vậy, cả nhà sư và linh mục đều nương vào đấng tối cao để sống còn. Họ không để oán thù dầy xé hoặc đau buồn quật ngã, vẫn hành trì đạo pháp.

Mười năm sau, lúc sư Lâm Mộc đi hóa duyên ngang qua nhà thờ đá Phát Diệm tình cờ gặp Cha Nguyên Khải vừa từ giáo phận Vinh trở về nhà Chúa. Sư và Cha vừa giáp mặt nhau trước cửa Chính Tòa, cả hai đều sửng sốt trố mắt nhìn nhau như thể hai ông đang nhìn vào chính bản thể mình. Là anh em sinh đôi nên họ giống như hai giọt nước, ngay cả các giáo dân của Cha Khải cũng ồ lên kinh ngạc. Từ khi trở thành tu sĩ, hai ông đều đi khắp nơi vừa truyền bá đạo pháp vừa âm thầm dò la tung tích người thân, kết cục cả Cha và Sư không thể ngờ lại có ngày tri ngộ ở Giáo xứ này.

Thoáng nhìn qua, sư Lâm Mộc biết ngay đây là sư đệ thất lạc của mình lúc chạy loạn, nhưng sư rất trầm tĩnh, âm thầm niệm hồng danh đức Phật thế tôn. Còn linh mục Nguyên Khải, qua những hoạt động mục vụ của nhà thờ, bản tánh thoáng hoạt hơn, Cha buột miệng nói rất khẽ: “Lạy Chúa tôi! Sư huynh…”.

Từ đó, khi có dịp thỉnh thoảng Sư xuống núi hoặc Cha lên núi vấn an nhau. Là bậc tu hành của đấng đại trí đã giác ngộ, Cha Nguyên Khải và Sư Lam Mộc lấy đức báo oán, lấy bác ái của trí nhân làm hướng đi và lấy máu mủ tình thâm mà thăm hỏi sự tình.

Tuy nhiên, cuộc chiến tranh Đông Dương do Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo chống thực dân Pháp tạo nên cảnh loạn lạc, đói kém, bệnh tật và chết chóc khiến sự đi lại của công chúng bị trở ngại và hạn chế rất nhiều.

Năm 1954, sau khi quân Pháp thất thủ tại Điện Biên Phủ, Hiệp Định Genève được ký kết chấm dứt chiến tranh Đông dương, chia đất nước ra làm hai tại vỹ tuyến 17, đưa đến cuộc di cư vĩ đại vào miền Nam Việt Nam từ tháng 8-1954 đến tháng 5-1955. 

Trong những cộng đồng Thiên chúa giáo miền Bắc dưới thời Pháp thuộc, các linh mục giữ vai trò lãnh đạo về dân sự và tinh thần. Nhận thức được viễn cảnh không tươi sáng do Việt Minh lãnh đạo, các Cha đã kêu gọi các tín đồ di cư vào Nam. Cuộc di cư 1954 là một cuộc di cư lịch sử của khoảng một triệu người dân miền Bắc (đa số là người Công giáo) đã ra đi trên những chuyến tàu há mồm do Mỹ và Pháp thực hiện. 

Trong tất cả những chuyến tàu di cư không tiền khoáng hậu đó không có mặt linh mục Nguyên Khải và sư Lâm Mộc.

* * *

Tôi, người được nghe kể câu chuyện này mà tâm không ngớt dao động. Năm ngoái từ Huế, nhóm Phật tử chúng tôi đã làm một cuộc hành hương ra Hà Nội, từ đó đi xe đò ra Ninh Bình dài khoảng 90km ghé thăm nhà thờ chính tòa Phát Diệm (còn gọi là nhà thờ đá), hôm sau vượt núi Yên Tử lên viếng chùa Bảo Sái.

Điểm đặc biệt của nhà thờ đá Phát Diệm được khởi công xây cất từ năm 1875, tuy là nhà thờ Công giáo nhưng lại kiến trúc theo hình thể chùa chiền.

Viếng nhà thờ Phát Diệm, cá nhân tôi chỉ là khách thập phương không có ý dò hỏi, hay mạo muội tìm kiếm dấu vết của linh mục Nguyên Khải. Nhưng chiêm ngưỡng giá trị trăm năm của nhà thờ đá tôi có cảm tưởng như Cha Khải vẫn bàng bạc đâu đó, trong nhà nguyện, trên tường đá hay dưới chân tượng Đức Mẹ Hằng Sống.

Còn chùa Bảo Sái, sau nhiều công trình trùng tu trải dài theo năm tháng, nay đã được mở rộng, gồm chánh điện, nhà Tổ, tượng Phật Bà Quán Thế Âm, tượng Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông nhập niết bàn, tượng Thiền sư Bảo Sái, tượng hổ, giếng thiêng và vườn đá phía sau chùa.

Khi lần vào vườn đá, tôi đứng lặng trước biến thiên của dòng đời. Nhà củi, nghe nói nơi nhà sư Lâm Mộc từng cư ngụ, không còn nữa. Tuy vậy, cái nền đất hoang phế cỏ mọc vẫn không phủ lấp hết những thanh củi dựng theo chiều đứng của mô đất. Những thanh củi rêu phong, mục nát, có vẻ như cam chịu nhưng vẫn đứng nghiêng mình theo tuế nguyệt dần qua.

Ở đời có nhiều bậc anh hùng vì nước mà hy sinh, trong đó có những người sống âm thầm như chiếc bóng và chết đi trong vô danh. Nhưng cũng có những người vì hoàn cảnh buộc phải rời khỏi vòng gươm giáo, như sư Lâm Mộc và linh mục Nguyên Khải, với tấm lòng nhân ái mang lại lợi ích cho người, tặng cho đời những suy nghĩ tốt lành, những việc làm dễ thương, họ không là Thánh nhân thì cũng thành nhân.


 

BUÔNG – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Người thanh niên buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải!”.

“Mỗi thế hệ đều có bụt thần riêng của nó. Với Israel, đó là Baal và vàng bạc; với chúng ta, chính là sự mê hoặc của cải, quyền lực và cái tôi. Tất cả đều ngăn cản chúng ta gặp được Thiên Chúa thật!” – Timothy Keller.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay nói đến ‘bụt thần riêng’ của Israel và của người thanh niên đến với Chúa Giêsu, Đấng muốn hướng anh tới một điều gì đó cao cả hơn. Nhưng người trẻ ấy đã “buồn rầu bỏ đi”, vì anh ta không ‘buông’ nổi những gì anh có.

“Hồi ấy, con cái Israel đã làm điều dữ trái mắt Đức Chúa”. Chúa sai các thủ lãnh đến với họ, kêu gọi họ hãy ‘buông’ các bụt thần mà trở về với Ngài, “Nhưng rồi các thủ lãnh của họ, họ cũng chẳng nghe mà cứ đàng điếm với các thần ngoại lai và sụp lạy các thần đó”. Vậy là Chúa để họ rơi vào tay quân thù và lâm cảnh khốn cùng – bài đọc một.

Với câu chuyện Tin Mừng, xét về mặt con người, chàng thanh niên khá hoàn hảo; nhưng với Chúa Giêsu, những gì tối thiểu ấy xem ra không đủ – cũng không ổn – cho một người muốn nên trọn lành! Ngài cho biết, anh cần ‘buông’ những gì đang cột chặt anh để bước tiếp trên con đường vốn sẽ đem đến cho anh kho tàng trên trời! “Buông không phải là phủ nhận, nhưng là chấp nhận có một điều gì đó lớn lao hơn đang chờ tôi khi tôi thả ra những gì mình đang níu giữ!” – Richard Rohr.

Có một mối quan hệ giữa nỗi buồn và khả năng ‘buông’. Người thanh niên nắm giữ tài sản, vì ở một mức độ nào đó, anh cảm thấy nó mang lại hạnh phúc và an toàn. Cũng thế, bạn và tôi có thể bám víu vào một người, một hoàn cảnh với niềm tin rằng, hạnh phúc nằm ở đó. Trên thực tế, hạnh phúc, bình an và niềm vui thực sự nằm ở việc ‘buông’ bất cứ điều gì đang ngăn cản chúng ta đáp lại tiếng Chúa. Bi kịch của người thanh niên là anh ta yêu ‘của’ hơn yêu ‘người’; tài sản của anh ‘sở hữu’ anh chứ không ngược lại. “Nỗi buồn của việc buông không là dấu hiệu của yếu đuối, nhưng là ngưỡng cửa: một cửa hẹp mà trái tim phải bước qua để tìm thấy kho tàng vĩnh cửu!” – Fulton Sheen.

Anh Chị em,

“Người thanh niên buồn rầu bỏ đi”. Trong cuộc sống, có lẽ không ít lần bạn và tôi cũng tiu nghỉu bỏ đi. Nhiều người xem ra thường hài lòng với những gì ‘tối thiểu’, đơn giản là ‘ổn’; nhiều người có ý định tốt, nhưng xem ra rất ít người cam kết hoàn toàn với những gì cần thiết để thực sự đạt đến sự trọn lành – nói cách khác – nên thánh! Lời Chúa mời gọi chúng ta dám ‘buông’ để có thể đạt được điều tối thượng. Và mặc dù sẽ luôn thiếu sót, nhưng nhờ ơn Chúa, “Lạy Chúa, xin Ngài nhớ đến con!” – Thánh Vịnh đáp ca – chúng ta cố gắng để nên thánh thiện hết mức có thể. “Sự thánh thiện không bao giờ đạt được bởi những ai dừng ở mức tối thiểu; nó dành cho những ai dám đi xa hơn sự dễ chịu để bước vào phó thác!” – Gioan Phaolô II.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, con buồn khi ‘buông’ những gì từng tưởng là hạnh phúc, xin biến nỗi buồn ấy thành khởi đầu của một niềm vui vĩnh cửu nơi Ngài!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

***********************

Lời Chúa Thứ Hai Tuần XX Thường Niên, Năm Lẻ

Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh, anh sẽ được một kho tàng trên trời.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.     Mt 19,16-22

16 Khi ấy, có một người đến thưa Đức Giê-su rằng : “Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt để được hưởng sự sống đời đời ?” 17 Đức Giê-su đáp : “Sao anh hỏi tôi về điều tốt ? Chỉ có một Đấng tốt lành mà thôi. Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn.” 18 Người ấy hỏi : “Điều răn nào ?” Đức Giê-su đáp : “Ngươi không được giết người. Ngươi không được ngoại tình. Ngươi không được trộm cắp. Ngươi không được làm chứng gian. 19 Ngươi phải thờ cha kính mẹ”, và “Ngươi phải yêu đồng loại như yêu chính mình.” 20 Người thanh niên ấy nói : “Tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ, tôi còn thiếu điều gì nữa không ?” 21 Đức Giê-su đáp : “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ có được một kho tàng trên trời.

Rồi hãy đến theo tôi.” 22 Nghe lời đó, người thanh niên buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.