Giáo Lý Cộng Đồng: Tuần 1 – Tháng 01/2013

Giáo Lý Cộng Đồng: Tuần 1 – Tháng 01/2013

Tháng 1/2013

Sau lễ Giáng Sinh, Hội Thánh có Mùa Giáng Sinh, mời gọi các tín hữu tiếp tục học hỏi, cử hành và sống đức tin vào Đấng Thiên Chúa làm người. Vì thế, chủ đề của tháng này là : ĐỨC TIN LÀ MỘT HỒNG ÂN.

Chúng ta sẽ tìm hiểu chủ đề này trong 4 tuần lễ:

Tuần 1: Đức tin là một hồng ân.

Tuần 2: Đức tin là một nhân đức.

Tuần 3: Đức tin là một di sản.

Tuần 4: Hồng ân và trách nhiệm.

TUẦN 1 ĐỨC TIN LÀ MỘT HỒNG ÂN

Khai triển nội dung:

1. Khi thánh Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, Người nói với ông rằng không phải huyết nhục mặc khải cho ông điều ấy, nhưng là Cha của Người, Đấng ngự trên trời (Mt 16,17). Khi chứng kiến những người đã thấy các phép lạ Người làm mà vẫn không tin, Chúa Giêsu thưa với Chúa Cha: “Con ngợi khen Cha vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Mt 11,25). Tất cả đều nói lên đức tin trước hết là một hồng ân chứ không phải là kết quả của nỗ lực nhân loại.

2. Đức tin là một hồng ân vì chính Thiên Chúa đi bước trước. Như thai nhi Giêsu trong lòng Đức Trinh Nữ Maria tìm đến Gioan Tẩy giả trong lòng bà Elisabeth, chính Thiên Chúa đến tìm con người trước khi con người tìm kiếm Ngài. Thiên Chúa đi bước trước bằng nhiều cách: “Để có được đức tin, cần có ân sủng Thiên Chúa đến trước giúp đỡ và sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh Thần. Ngài đánh động và quy hướng con tim về cùng Thiên Chúa, Ngài mở mắt lý trí và cho mọi người cảm thấy dịu ngọt khi ưng thuận và tin vào chân lý” (Hiến chế Dei Verbum, số 5).

3. Đức tin là một hồng ân nhưng không Thiên Chúa ban cho con người. Tuy nhiên chúng ta có thể đánh mất hồng ân vô giá đó như thánh Phaolô nói: “Một số người đã vứt bỏ lương tâm ngay thẳng, nên đức tin của họ đã bị chết chìm” (1Tm 1,19). Vì thế người tín hữu phải gìn giữ và vun trồng đức tin bằng cầu nguyện, lắng nghe Lời Chúa và thực thi Lời Chúa trong đời sống.

Để ghi nhớ (Sách Toát Yếu GLHTCG)

Hỏi: Chỉ với ánh sáng tự nhiên của lý trí, con người có đủ khả năng để nhận biết mầu nhiệm Thiên Chúa hay không?

Thưa: Chỉ với ánh sáng của lý trí, con người sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc nhận biết Thiên Chúa. Hơn nữa, tự mình, con người không thể nào đi vào mầu nhiệm sâu thẳm của Thiên Chúa. Vì thế Thiên Chúa đã muốn soi dẫn con người bằng cách mặc khải cho họ, không những về những gì vượt quá sự hiểu biết nhân loại, mà cả về những chân lý tôn giáo và luân lý, tự chúng vốn không vượt quá khả năng của lý trí, như vậy mọi người có thể biết được những chân lý đó cách dễ dàng, chắc chắn và không sợ sai lầm (số 4).

Hỏi: “Đức tin là một hồng ân” nghĩa là gì?

Thưa: Đức tin là hồng ân Thiên Chúa ban không, và tất cả những ai khiêm tốn cầu xin đều có thể đạt tới (x. số 28).

Ý cầu nguyện:

Lạy Chúa, con tin, nhưng xin Chúa nâng đỡ lòng tin yếu kém của con (x. Mc 9,24).

Năm mới tâm linh

Năm mới tâm linh

TRẦM THIÊN THU

Năm hết, Tết đến, ai cũng lo “đổi mới” bề ngoài, vậy cũng cần lắm đối với mọi người về việc “canh tân” đời sống tâm  linh trong năm mới. Hãy tập thói quen canh tân đời sống tâm linh, và hãy dạy trẻ em đổi mới tâm hồn ngay từ tuổi nhỏ.

Một năm mới bắt đầu, một khởi sự mới cũng bắt đầu. Do đó, đừng chỉ đặt ra các quyết định bình thường như giảm cân, bỏ hút thuốc, bớt say xỉn, bớt lải nhải, bớt độc đoán, bớt chuyên quyền, bớt ích kỷ, cố gắng ngoan ngoãn, cố gắng học tập,… Cũng đừng đặt ra các mục đích quá lớn hoặc xa vời, mà hãy đặt ra các mục đích đơn giản và thiết yếu, nhất là cố gắng cải thiện mối quan hệ với Thiên Chúa. Đây là vài cách khả thi:

1. Canh tân đời sống cầu nguyện

Cầu nguyện luôn cần thiết, vì Chúa Giêsu dạy: “Hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26:41). Có thể đó là việc đơn giản, cũng có thể phức tạp, nhưng không dễ thực hiện trong một sớm một chiều. Hãy cố gắng siêng năng hơn trong việc cầu nguyện hằng ngày. Nhiều người có quyết định này nhưng lại mau thất bại, vì họ muốn nhảy vọt ngay từ bước đầu tiên. Nếu bạn đã từng không thường xuyên cầu nguyện, bây giờ muốn cầu nguyện nhiều ngay thì rất khó. Hãy  bắt đầu tập bằng cách cầu nguyện mỗi buổi sáng khi vừa thức dậy, dù là bạn cầunguyện khi bạn đang đánh răng. Hãy bắt đầu dành cho Chúa mỗi sáng 5 phút. Rồi dần dần bạn cố gắng thêm 2, 3 hoặc 5 phút nữa. Bạn sẽ mau cảm thấy thích thú tâm sự với Chúa trước khi làm bất cứ điều gì. Đừng lo phải nói gì với Ngài, cứ hướng tâm hồn lên với Ngài, bạn cứ nói chuyện với Ngài bất cứ điều gì, hoặc có thể chỉ im lặng chiêm ngưỡng Ngài. Bạn sẽ thấy kết quả kỳ diệu.

2. Đọc trọn bộ Kinh thánh

Tập cho quen đọc Lời Chúa cũng là một quyết định quan trọng trong năm mới đối với mỗi Kitô hữu. Có nhiều kế hoạch cho việc đọc Kinh thánh để có thể đọc trọn bộ Kinh thánh trong một năm. Hãy quyết định đọc Kinh thánh mỗi buổi tối trước khi đi ngủ. Có thể bạn không đọc hết bộ Kinh thánh, nhưng có thể dùng cả năm để tập trung vào các chủ đề đặc biệt hoặc các vấn đề liên quan đời sống mà bạn muốn Thiên Chúa giúp bạn cải thiện. Hãy lập một “kế hoạch” về Kinh thánh, và quyết tâm thực hiện trong năm mới.

3. Giúp đỡ người khác

Qua Kinh thánh, Thiên Chúa mời gọi chúng ta làm việc thiện. Có nhiều cách giúp đỡ người khác, nhất là giúp đỡ người nghèo: “Người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng có” (Ga 12:8). Chi tiêu là việc cần thiết, nhưng đừng lãng phí. Tiết kiệm có lợi cho bản thân và gia đình, đồng thời cũng để có thể giúp người khác một cách thực tế. Hãy coi việc giúp đỡ người khác là một phần trong hoạt động của cuộc đời bạn trên cuộc lữ hành trần gian. Đa số các giáo xứ đều có các hoạt động “ngoại khóa”, hoặc bạn có thể tham gia các hoạt động từ thiện của giáo xứ, của hội đoàn, của trường học, của xã hội,… Có rất nhiều người cần sự giúp đỡ của bạn, việc giúp đỡ người khác là cách tốt để sống đức tin, sống yêu thương, làm gương sáng, và chúng tỏ mình là người có niềm tin vào Thiên Chúa.

4. Sinh hoạt giáo xứ

Đa số các giáo xứ đều có các hội đoàn hoặc nhóm sinh hoạt việc đạo đức (Dòng Ba Đa-minh, Cộng đoàn Lòng Chúa Thương Xót, Hội Con Đức Mẹ, Gia đình Phạt tạ Thánh Tâm, Hội cầu nguyện, Hội các Bà mẹ Công giáo, Ca đoàn, Lễ sinh, Thiếu nhi Thánh Thể, Giáo lý viên, lớp Giáo lý, lớp Kinh thánh,…). Hãy tham gia các sinh hoạt chung trong giáo xứ dành cho lứa tuổi của mình. Nhiều nhóm sinh hoạt gặp nhau hằng tuần hoặc hằng tháng, các cuộc họp mặt này là cách tốt để tạo sự thân thiện với nhau, tạo sự hỗ trợ lẫn nhau trong sinh hoạt hằng ngày và sinh hoạt tâm linh.

5. Khiêm nhường phục vụ

Một trong các vấn đề khó khăn đối với các Kitô hữu là chuyện phục vụ, đó là quá trình rất cần thiết: “Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28). Ai cũng được người khác phục vụ, bằng cách này hoặc cách khác, trực tiếp hoặc gián tiếp, vì thế chúng ta cũng phải biết phục vụ người khác. Tuy nhiên, Chúa Giêsu dạy là phải phục vụ, nhưng phục vụ trong khiêm nhường: “Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17:10).

6. Đọc sách thiêng liêng

Hãy dùng cách nào đó có lợi cho bạn, có thể là việc đọc sách thiêng liêng như đọc các sách đạo đức hoặc hạnh các thánh, miễn sao cách đó giúp bạn phát triển trên đường nhân đức. Các dòng tu thường có giờ đọc sách thiêng liêng, giáo dân ít có người có thói quen tốt lành này. Tốt nhất vẫn là đọc Kinh thánh. Đọc Kinh thánh là giao tiếp với Thiên Chúa, là phần thiết yếu của mọi người trong đời sống Kitô hữu, vì Kinh thánh là Lời Chúa, mà Lời Chúa thì chính xác đến độ “một chấm, một phẩy cũng không sai” (x. Mt 5:18) . Đọc sách là thời gian tĩnh lặng, giúp tâm hồn lắng đọng, có thể thấy rõ mình hơn.

7. Sống Đức Tin

Bạn đã loan truyền Phúc âm bao nhiêu lần cho bạn bè hoặc gia đình? Truyền giáo không phải đi xa tới nơi này, nơi nọ, mà có thể là truyền giáo ngay trong gia đình, cho bạn bè, cho láng giềng, thậm chí là tái truyền giáo cho chính mình bằng cách sống thể hiện đức tin. Nếu có điều kiện thì làm như Thánh Phanxicô Xaviê, không thì hãy bắt chước “bông hoa nhỏ” Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Sống đức tin là gieo hạt yêu thương, làm nảy mầm bác ái, bảo vệ công lý, tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền. Cứ  hiểu nhân quyền một cách đơn giản là “quyền sống của con người” để cảm thấy không “nặng nề”. Cứ hành động, đừng lo đến kết quả, như Thánh Phaolô nói: “Tôi trồng, anh Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên. Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên, mới đáng kể” (1 Cr 3:6-7).

8. Hiểu và cảm thông lẫn nhau

Trong hàng tỷ chiếc lá chẳng có hai chiếc lá giống nhau. Con người cũng vậy. Mỗi người là một cá thể với trình độ và hoàn cảnh sống khác nhau, như tục ngữ nói: “Cha mẹ sinh con, Trời sinh tính”. Vì thế người này cần chịu đựng người kia, cảm thông lẫn nhau, hiểu và tha thứ cho nhau. Đó là Luật Yêu Thương của Chúa: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13:34; Ga 15:12). Còn Thánh Phaolô khuyên: “Anh em đừng mắc nợ gì ai ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13:8). Cuộc sống nhiêu khê, nhiều vấn đề phức tạp, khó tránh khỏi xung đột. Ngay cả cha mẹ và con cái cũng vẫn xung khắc, ngay cả vợ chồng cũng vẫn bất đồng ý kiến, ngay cả trong các dòng tu cũng vẫn xảy ra tranh chấp. Vấn đề là khiêm nhường, hiểu biết và cảm thông.

9. Giúp người khác sống đạo đức hơn

Nghe chừng đơn giản nhưng lại cần nhiều can đảm mới có thể giúp người khác sống đạo đức hơn – nói chung, và siêng năng tham dự các giờ phụng vụ tại nhà thờ – nói riêng. Giúp người trong gia đình hoặc bạn bè cùng tôn giáo đã là khó, huống chi với người khô khan đạo hạnh. Thậm chí có những người sẽ cho là bạn “lên mặt đạo đức” hoặc “lên lớp” họ. Khó lắm, thế nên phải tế nhị và khéo léo lắm. Tuy nhiên, việc giúp người khác sống đạo đức hơn là nhiệm vụ truyền giáo chung: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16:15).

Năm Quý Tỵ, năm con Rắn, xin chúc mọi người năm mới hạnh phúc và thánh thiện, khôn ngoan như con Rắn chứ đừng xảo quyệt như con Rắn. Việt ngữ khó diễn tả “hết ý” như Anh ngữ: HAPPY NEW YOU and HOLY NEW YOU. Thiết nghĩ đó là một cách nói và là lời chúc hay với bất kỳ ai.

TRẦM THIÊN THU

Giao thừa Tết Dương lịch 2013

Maria Thanh Mai gởi

Mẹ vẫn chờ con

Mẹ vẫn chờ con
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Người ta kể rằng: có một cô gái ở nơi xa về thăm nhà, vừa mới xuống xe đã nhìn thấy mẹ đứng phía trước. Cô gái rất ngạc nhiên vì mẹ cô không hề biết cô sẽ trở về liền hỏi: ”Sao mẹ biết con về vậy?”. Thì ra cuối tuần nào người mẹ cũng ra chỗ này để “đón” cô.

Tâm tư người mẹ luôn như vậy, luôn lấy thường xuyên thành trùng hợp, biến có thành không khiến những đứa con không khỏi ngạc nhiên cũng không đoán trước được. Mẹ thường che dấu tình cảm của mình. Nước mắt của mẹ luôn chảy ngược vào tim khiến con cái không thể thấy nỗi khổ của mẹ mà chỉ thấy sự diu ngọt từ mẹ. Quả đúng như ai đó đã nói:

“Mẹ là dòng suối nước trong

Thơm, ngon, mát, ngọt như lòng mẹ yêu

Mẹ là gió nhẹ ban chiều

Khẽ ru con ngủ cưng chiều con thơ”

Tình mẹ thật mênh mông. Tình mẹ không có bến bờ chỉ có dạt dào tình yêu và tuôn chảy trên cuộc đời con cái. Vì:

Mẹ là biển rộng xanh lơ

Tình thương bát ngát đôi bờ đại dương

Mẹ là mây phủ ngàn phương

Chở che con dại trên đường nắng rơi

Mẹ là tất cả mẹ ơi!”

Là những người con khi đã nhận ơn của mẹ thì luôn mong mỏi được sống bên mẹ. Không chỉ để được mẹ yêu mà còn để phụng dưỡng ơn mẹ. Không chỉ để được mẹ vỗ về mà cả thèm nghe sự la rầy đầy tình yêu nồng nàn của mẹ.

“Con mong bên mẹ từng giây

Con thèm nghe tiếng la rầy mắng yêu

Bên mẹ nắng sớm mưa chiều

Để con săn sóc mẹ yêu suốt đời”

Trong đời sống thiêng liêng chúng ta cũng có một người mẹ thật yêu thương chúng ta. Mẹ cũng đánh đổi cuộc đời mình vì yêu thương chúng ta. Mẹ hy sinh cuộc đời, gác bỏ việc riêng để gánh lấy nhân loại chúng ta. Tình mẹ cũng mênh mông, bát ngát luôn theo sát con mẹ, đó chính là Mẹ Maria.

Với lời xin vâng, Mẹ Maria đã gác bỏ những dự định riêng của đời mình để sẵn lòng thực thi chương trình của Chúa. Dưới cây thập giá, Mẹ một lần nữa đã nói lời xin vâng khi đón nhận nhân loại làm con của Mẹ. Lời Chúa Giê-su đã thưa cùng Mẹ. “Thưa bà, đây là con của bà”. Mẹ đã không khước từ. Dù rằng, dưới cây thập giá lòng Mẹ đang tan nát bởi cái chết người Con yêu. Mẹ tiếp tục xin vâng để lại làm Mẹ nhân loại theo thánh ý Thiên Chúa.

Và hôm nay, Mẹ tiếp tục hiện diện trong cuộc đời từng người con để vỗ về, để yêu thương, để dìu dắt như ngày nào Mẹ đã yêu thương Con Chúa Trời. Mẹ tiếp tục đứng đó trên những đỉnh đồi thương đau của từng người con như Mẹ đã từng đứng bên thập giá để chia sẻ với Con yêu quý của mình. Mẹ vẫn đang đứng đợi con cái về bên Mẹ như bao bà mẹ vẫn mong con sum vầy bên Mẹ để được Mẹ dậy bảo, để được Mẹ vỗ về yêu thương.

Hôm nay, ngày đầu năm mới, Giáo hội mừng lễ Mẹ Thiên Chúa để nhắc nhở cho chúng ta về sự hiện diện của Mẹ Maria vẫn đi bên cạnh cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện của Mẹ bên cuộc đời chúng ta qua biết bao ơn lành hồn xác chúng ta lãnh nhận nhờ lời cầu bầu của Mẹ. Biết bao người vẫn được ơn này ơn kia qua lời cầu khẩn của Mẹ. Biết bao người vẫn đang bám vào Mẹ như sự ủi an duy nhất giữa chốn ba đào đầy khó nguy. Và có lẽ, Mẹ Maria vẫn đang chờ những con cái Mẹ biết chạy đến cùng Mẹ mỗi khi khó khăn, biết nương tựa vào Mẹ mỗi khi thất bại, biết cầm lấy tay Mẹ mỗi khi vấp ngã để Mẹ tiếp tục chia sẻ những thăng trầm trong cuộc đời chúng ta.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ thật có phúc vì đã cưu mang Con Thiên Chúa. Mẹ thật diễm phúc vì Mẹ được chọn làm Mẹ Thiên Chúa. Và  hôm nay chúng con cũng thật có phúc vì có Mẹ là Mẹ của chúng con. Chúng con xin cám ơn Mẹ đã nhận chúng con là con của Mẹ để tiếp tục chăm sóc chúng con. Xin cho chúng con luôn biết chạy đến cùng Mẹ mỗi khi gặp những khó khăn. Xin cho chúng con luôn sum vầy bên Mẹ để được Mẹ yêu thương chúc lành. Amen.

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Maria Thanh Mai gởi

TRI THIÊN MỆNH – ĐẠT LAI LẠT MA

ĐẠT LAI LẠT MA – TRI THIÊN MỆNH


“Sức mạnh của trẻ thơ là tiếng khóc. Sức mạnh của đàn bà là phẩn nộ. Sức mạnh của kẻ cướp là vũ khí. Sức mạnh của vua chúa là quyền uy. Sức mạnh của kẻ ngu là áp đảo. Sức mạnh của bậc hiền trí là cảm hóa. Sức mạnh của người đa văn là thẩm sát. Sức mạnh của sa môn là nhẫn nhục.”

“Bởi chúng ta không thể thay đổi được thế giới xung quanh, nên chúng ta đành phải sửa đổi chính mình, đối diện với tất cả bằng lòng từ bi và tâm trí huệ”

“Ra đời hai tay trắng. Lìa đời trắng hai tay. Sao mãi nhặt cho đầy. Túi đời như mây bay.”

“Thành thật đối diện với mâu thuẫn và khuyết điểm trong tâm mình, đừng lừa dối chính mình”.

“Sự khác biệt giữa con người là do mức tiến hóa khác nhau qua các kiếp sống. Có khi nào ta thù ghét một kẻ kém ta đâu? Suy luận rằng: “vạn vật đồng nhất”, ta sẵn sàng tha thứ cho kẻ khác, vì họ không hiểu biết, không ý thức hành động của mình, vả lại họ và ta nào có khác nhau đâu. Khi ta hiểu rằng: “nhất bổn tám vạn thù”, ta nhìn vạn vật như chính mình, từ loài người qua loài thú, thảo mộc, kim thạch, và ý thức
rằng mọi vật đều có sự sống, đều có Thượng đế ngự ở trong, ta sẽ cởi bỏ thành
kiến, mở rộng lòng thương đến muôn loài”.

“Là con Phật, nếu  không nói được những gì Phật nói, hãy im lặng như chánh pháp, đừng nói những lời ác, xuyên tạc, bịa đặt, vu khống, làm tổn hại kẻ khác, nếu không làm được những gì Phật làm, hãy im lặng và lắng nghe, quán sát, học hỏi những thiện tri thức, đừng vọng động làm những điều thương tổn đến tha nhân”.

“Ác khẩu, mãi mãi đừng để nó thốt ra từ miệng chúng ta, cho dù người ta có xấu bao nhiêu, có ác bao nhiêu. Anh càng nguyền rủa họ, tâm anh càng bị nhiễm ô, anh hãy nghĩ, họ chính là thiện tri thức của anh”.

“Người mà trong tâm chứa đầy cách nghĩ và cách nhìn của mình thì sẽ không bao giờ nghe được tiếng lòng người khác”.

“Khi trong tay anh nắm chặt một vật gì mà không buông xuống, thì anh chỉ có mỗi thứ ấy, nếu anh chịu buông xuống, thì anh mới có cơ hội chọn lựa những thứ khác.
Nếu một người luôn khư khư với quan niệm của mình, không chịu buông xuống thì
trí huệ chỉ có thể đạt đến ở một mức độ nào đó mà thôi.”

Đức Đạt Lai Lạt Ma

 

 

Nói cho con người: Lm Chân Tín (29)

Nói cho con người: Lm Chân Tín (29)

Đăng bởi lúc 2:00 Sáng 31/12/12

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (31.12.2012) – Sàigòn –

Trả lời phỏng vấn của đài VNCR

VNCR: Xin linh mục cho biết tiểu sử của linh mục khá chi tiết để đồng bào hải ngoại biết và hiểu linh mục hơn.

Lm Chân Tín: Tục ngữ Pháp có câu “Cái tôi là cái đáng ghét”. Nói về mình thật là khó nói. Nhưng vì được đài VNCR yêu cầu để tạo sự thông cảm giữa đồng bào hải ngoại với tôi, nhất là trước 75, có người cho tôi là “ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản”, nên tôi xin nói qua tiểu sử của tôi.

Tôi là linh mục Chân Tín, Dòng Chúa Cứu Thế- Việt Nam, 76 tuổi. Sinh ngày
15.11.1920, tại làng Vạn Xuân, họ đạo Lim Long, ngoại ô thành phố Huế, ngày
trước là thủ phủ của các Chúa Nguyễn.

Tôi học các lớp tiểu học ở trường làng và trường họ đạo. Học bốn năm trung học
ở trường Đệ tử Dòng Chúa Cứu Thế- Huế, và hai năm cuối ở trường Thiên Hựu cũng
được gọi là Providence. Sau khi thi đậu tú tài, tôi ra Hà Nội vào nhà tập Dòng
Chúa Cứu Thế, học các lớp thần học tại tu viện Dòng Chúa Cứu Thế- Hà Nội. Nhà
nước cộng sản đã biến tu viện này thành bệnh viện đa khoa của quận Đống Đa vào
năm 1954.

Tôi thụ phong linh mục ở Hà Nội năm 1949, cùng với Hồng y Trịnh Văn Căn, Hồng y
Phạm Đình Tụng. Năm 1950 tôi sang Italia để nghiên cứu vấn đề xã hội và trình
luận án tiến sĩ thần học. Đậu tiến sĩ tháng 6/1953, tôi trở lại Việt Nam vào tháng 10/1953 dạy khoa thần học và làm giám đốc Học viện Dòng Chúa Cứu Thế- Đà
Lạt. Không đầy một năm sau, vào ngày 19.5.1954, anh cả tôi đã chết trong một vụ
nổ mìn của Việt cộng, giết hại nhiều người vô tội trên chuyến tàu hàng Đà Nẵng-Huế. Ngày 19.5 được Đảng Cộng sản Việt Nam coi như ngày sinh của ông Hồ và vụ thảm sát đã được các con của anh tôi coi như một món quà sinh nhật đẫm máu mà Đảng Cộng sản Việt Nam dâng cho ông Hồ. Qua năm 1961, tôi trở về Sài Gòn điều khiển cơ quan ngôn luận của Dòng Chúa Cứu Thế- Việt Nam: chủ nhiệm nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, sáng lập và làm chủ nhiệm nguyệt san Tuổi Hoa, xuất bản sách Tuổi Hoa, sáng lập và chủ nhiệm nguyệt san Đối  Diện, Đứng Dậy. Nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp có tính cách giáo dục Đức tin Kitô giáo, Tuổi Hoa nhằm giáo dục trẻ em, thanh thiếu niên vào đời. Đối Diện, Đứng Dậy có tính cách xã hội chính trị, chống
chiến tranh, chống sự hiện diện quân đội Mỹ trên miền Nam, hoạt động cho Hoà
bình, tranh đấu đòi trả tự do cho tù chính trị. Cũng vì thế mà chế độ cũ đã
nhiều lần đưa tôi ra toà và lần cuối năm 1972 với án tù năm năm cấm cố phạt một
triệu đồng và đóng cửa Đối Diện, Đứng Dậy. Nhưng tôi chưa đi tù và chịu
phạt tiền vì còn kháng cáo.

Trong những ngày cuối của chế độ Sài Gòn, khi các sư đoàn Bắc Việt bao vây Sài
Gòn và bắt đầu pháo vào thành phố, sáng ngày 29.4.1975 tướng Dương Văn Minh vừa
mới nhận chức tổng thống hôm trước đã gởi một phái đoàn chính phủ vào trại
David ở Tân Sơn Nhứt để thương thuyết với phái đoàn Mặt trận Giải phóng miền
Nam, nhưng không thành công. Vào buổi chiều cùng ngày, tổng thống Dương Văn Minh nhờ luật sư Trần Ngọc Liễng, giáo sư Châu Tâm Luân và tôi là những người được coi là thành phần thứ ba ở miền Nam đến thuyết phục Mặt trận. Chúng tôi gặp
tướng Nguyễn Anh Tuấn và đại tá Võ Đông Giang, yêu cầu đừng bắn phá vào Sài Gòn
và họ đồng ý pháo chút ít để làm áp lực tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng.
Quân Bắc Việt bắt đầu tiến quân vào Tân Sơn Nhứt nên ba anh em chúng tôi không
về nhà được nên đành ở lại trong hầm của đại tá Võ Đông Giang cho đến 16 giờ
chiều ngày 30.4.1975 mới trở về nhà được.

Từ ngày 30.4.1975, tôi vẫn tiếp tục tranh đấu cho hoà giải dân tộc, cho nhân
quyền. Nguyệt san Đứng dậy tái bản và bị đóng cửa năm 1978 vì đường lối của
chúng tôi đi ngược mưu đồ của ĐCSVN.

Đứng trước sự kiên trì của tôi trong việc tố cáo những vi phạm nhân quyền của
chế độ cộng sản, họ đày tôi đi Cần Giờ ngày 16.5.1990 và quản chế tôi ba năm ở
xã Cần Thạnh, bị tước quyền công dân, không được ra khỏi xã, cấm làm lễ, giảng
dạy và 15 ngày trình diện công an. Cùng lúc ấy, Giáo sư Nguyễn Ngọc Lan cũng bị
lục soát nhà ở quận 10 và cũng bị quản chế ba năm. Ba ngày trước khi hết hạn ba
năm quản chế, anh tôi là linh mục Nguyễn Văn Cơ, bề trên Dòng Chúa Cứu Thế- Nha
Trang bị tai biến mạch máu não và đã ra đi vĩnh viễn ngày 12.5.1993. Tôi được
thông báo cùng ngày là thời gian quản chế của tôi đã mãn và tôi ra Nha Trang
làm đám tang cho người anh, và trở lại Sài Gòn hoạt động như cũ cho đến nay.

Từ khi trở về Sài gòn, tôi vẫn tiếp tục công việc linh mục của tôi và vẫn lên
tiếng chống lại những vi phạm nhân quyền ở Việt Nam, như tôi đã nói trên đài
RFI ba tháng sau khi được thả tự do, trước ngày Liên Hiệp Quốc tổ chức Đại hội
về Nhân quyền ở Vienne, nước Áo, cũng như trên đài RFI nhân dịp Đảng Cộng sản
này chiếm miền Nam được 20 năm (30.4.1995). Và vừa rồi, nhân lễ Giáng sinh tôi
cũng tố cáo vi phạm nhân quyền, đặc biệt là quyền tự do tôn giáo trên Đài
truyền thanh Oslo ở Na-Uy và hôm nay tôi cũng tiếp tục tố cáo vi phạm nhân
quyền qua quý đài ở Cali. Đó là vài nét về tiểu sử và hoạt động của tôi trong
thời gian qua như anh mong muốn.

– Thưa linh mục, cách đây sáu năm, linh mục đã giảng ba bài sám hối, từ ngày đó đến nay đã có những thay đổi nào, tốt hay xấu trên lĩnh vực nhân quyền? Xin cho một ví dụ cụ thể.

– Tôi đã chân thành kêu gọi Đảng và Nhà nước cộng sản sám hối, tôn trọng nhân quyền và dân quyền. Nhưng thay vì sám hối và đổi mới, Nhà nước cứ ngày càng lún sâu vào con đường bạo lực chống lại con người và người dân Việt Nam.

Những ví dụ cụ thể không thiếu, ngay việc họ đày tôi ra Cần Giờ và quản chế ba
năm, ba ngày sau khi tôi quả quyết quyền của người dân và của Giáo hội phê phán
sai trái của Nhà nước, cũng như họ quản chế giáo sư Nguyễn Ngọc Lan ba năm tại
gia là một bằng chứng họ không sám hối, tiếp tục vi phạm trắng trợn đến quyền
tự do phát biểu ý kiến của người dân.

Cũng trong thời gian đó, họ quản chế ông Tạ Bá Tòng và ông Nguyễn Hộ là những
Đảng viên lão thành vì đã tập hợp những người kháng chiến cũ để đấu tranh cho
nhân quyền. Luật sư Đoàn Thanh Liêm bị đưa ra tòa và bị án tù 12 năm, đã đưa
một đề nghị hòa giải dân tộc. Ông Đỗ Ngọc Long đã bị bắt giam ba năm vì đã cộng
tác với một người mỹ tên Morrow để làm ăn. Thích Quảng Độ, Thích Huyền Quang bị
bắt giam vì đã tổ chức cứu nạn lụt ở Đồng bằng sông Cửu Long mà không theo hệ
thống của giáo hội Phật giáo quốc doanh, bị lên án đã chia rẽ tôn giáo, và
trong năm vừa qua, ông Hoàng Minh Chính, ông Đỗ Trung Hiếu, ông Hồng Hà và ông Hà Sĩ Phu cũng bị bắt giam vì nói thẳng nói thật với Nhà nước về những vi phạm
nhân quyền. Riêng Giáo hội Công giáo Việt Nam, Nhà nước can thiệp vào nội bộ
một cách trắng trợn, chống lại việc Tòa thánh đề cử các giám mục cho các giáo
phận không còn người lãnh đạo.

Đặc biệt giáo phận Sài Gòn, Tòa thánh đã đặt đức Cha Nguyễn Văn Thuận làm tổng
giám mục phó từ trước 30.4.1975. Nhà nước chụp mũ có nợ máu với nhân dân để
giam ngài trong 13 năm và sau khi ngài ra khỏi tù, lại trục xuất ngài ra khỏi
Việt Nam. Khi cố tổng giám mục Nguyễn Văn Bình đau nặng sắp chết, Tòa thánh đặt
Đức Cha Huỳnh Văn Nghi, giám mục Phan Thiết, làm giám quản Tông tòa giáo phận
Sài Gòn, họ báo sát ngài, theo dõi ngài từng ngày, từng giờ, cản trở ngài về
Sài Gòn thăm giáo phận hay thăm họ hàng.

Đó là những việc nổi cộm. Nhưng còn bao nhiêu vụ vi phạm tự do tôn giáo,
như họ hạn chế các chủng viện, hạn chế sĩ số, kiểm soát lý lịch của giáo sư,
ngăn cản việc phong linh mục, làm khó dễ hoặc chuyển các cha từ họ đạo này sang
họ đạo khác vv… và vv…

Tất cả những sự việc nói trên cũng đủ chứng minh là Nhà nước vẫn vi phạm trắng
trợn và thô bạo đến nhân quyền và dân quyền của người Việt Nam.

– Đạo là con đường cứu đời, cứu người và cả loài người nhưng trong một cuộc
phỏng vấn của một ký giả Ba Lan vào năm 1995, ông Hoàng Minh Chính đã cho rằng Giáo hội Công giáo ở Việt Nam đã chịu khuất phục Nhà nước và từ chối can thiệp cho những người tù nhân lương tâm. Hội Văn bút Ba Lan đã làm môi giới để xin Giáo hội Thiên chúa giáo ở Việt Nam can thiệp cho tù nhân lương tâm, nhưng họ
đã từ chối. Ý kiến của linh mục như thế nào?

– Trong bài giảng Sám hối thứ hai, cách đây sáu năm, tôi đã nói đến tư cách
ngôn sứ của Giáo hội và đã thẳng thắn nói thật nói thật với các vị lãnh đạo
Giáo hội cũng như với giáo dân, là Giáo hội chưa thực thi chức năng đó, chưa
bênh vực phẩm giá con người, của người dân Việt Nam. Chết hay đi tù vì con
người cũng là tử đạo.

Từ đó đến nay, tôi thấy chưa có gì thay đổi. Ít nhất là bên ngoài, giáo hội
chưa đòi hỏi Nhà nước tôn trọng những nhân quyền và dân quyền của người Việt
Nam bất phân tôn giáo. Hình như các giám mục chỉ đòi hỏi Nhà nước tôn trọng tự
do tôn giáo chứ không đề cập đến những vi phạm nhân quyền và dân quyền. Đó là
điều đáng tiếc. Hàng giáo phẩm phải mạnh dạn bênh vực con người. Anh cho biết
có một ký giả nói với ông Hoàng Minh Chính là Hội Văn bút Ba lan có có xin Giáo
hội Công giáo Việt Nam can thiệp cho những người tù lương tâm đã bị từ chối.
Điều đó chúng tôi không được biết. Nhưng nếu có lời xin đó và Giáo hội Công
giáo từ chối, tôi rất tiếc, nhưng tôi cũng không ngạc nhiên, vì các ngài xưa
nay chỉ lên tiếng khi các quyền lợi của Giáo hội bị vi phạm chứ chưa lên tiếng
bênh vực con người Việt Nam nói chung. Phải chăng các ngài sợ bị chụp mũ làm
chính trị, sợ gây khó khăn cho sinh hoạt tôn giáo của mình, như vậy là muốn cầu
an, thêm vào đó các ngài nghĩ rằng nói cũng chẳng đi đến đâu, chỉ thêm rắc rối,
bị trả thù. Như vừa rồi, Hội đồng giám mục trong một bức thư gửi Thủ tướng Võ
Văn Kiệt đã nói thẳng nói thật về những vi phạm đến quyền lợi thiêng liêng của
Giáo hội, thì Nhà nước trả thù bằng cách cấm các giám mục qua Rôma hội kiến Đức
Giáo Hoàng Gioan-Phaolô. Các ngài đã có nhiều kinh nghiệm về cái vô hiệu của
lời phản kháng của mình và lối trả thù của Nhà nước. Riêng tôi, tôi nghĩ rằng
các giám mục phải lên tiếng dù không kết quả, dù bị trả thù, vì đó là sứ mạng
của Giáo hội với con người. Trong Tin Mừng, Gioan Tẩy giả đã nói với Hêrôđê nên
bị tống ngục và bị chặt đầu. Chúa Giêsu đã nói thật nên đã bị đóng đinh trên
thập giá. Các tông đồ Gioan và Phêrô đã trả lời thẳng với các vị lãnh đạo Do
Thái “Thà vâng lời Chúa còn hơn vâng lời người”, và họ bị tống giam và
lấy mạng sống của mình để trả giá. Và qua lịch sử Giáo hội, các thánh tử đạo
Việt Nam cũng đã từ chối khuất phục và mạnh dạn thi hành sứ mạng ngôn sứ. Các
giám mục Việt nam đã thiếu can đảm để hoàn thành sứ mạng cứu người, cứu nhân
loại bằng gióng lên tiếng nói lương tâm và tiếng nói của Chúa. Họ quá khôn
ngoan theo khôn ngoan của người đời, muốn cầu an, chứ không chấp nhận phải bị
bách hại vì Chúa và vì con người là hình ảnh Thiên Chúa.

– Cũng trong cuộc đàm đạo ký giả Ba-Lan có nói với ông Hoàng Minh Chính là
các lực lượng đối lập ở Ba Lan gồm Giáo hội Công giáo, trí thức, Công đoàn đoàn
kết giành tự do cho Ba lan thay thế độc tài chuyên chính bằng một chế độ dân
chủ tự do, đấu tranh trả tự do cho tù chính trị. Trong bài giảng sám hối hai,
linh mục có nhắc đến hồng y Wyzinsky ở Ba Lan và Đức cha Tomaswk ở Tiệp Khắc
với cuộc biểu tình hằng trăm hằng ngàn người tín hữu, linh mục có nghĩ rằng
những người thiện chí cần học bài học đấu tranh cho nhân quyền?

– Ba Lan là Ba Lan, Việt Nam là Việt Nam. Ba Lan là một nước gồm đại đa số công
giáo và có một nền nhân bản Kitô giáo, cho nên cuộc đấu tranh cho nhân quyền là
những giá trị Kitô giáo, được đại đa số hưởng ứng và dễ đoàn kết để đấu tranh
có hiệu quả. Việt Nam, chỉ có một nhóm nhỏ sáu, bảy triệu công giáo trên 70
triệu dân, đa số theo Nho giáo, Phật giáo… công giáo chỉ là số nhỏ. Nho giáo ăn
sâu vào con người Việt Nam với một nền quân chủ chuyên quyền và một nền luân lý
độc đoán của người cha gia đình. Vua quan là cha mẹ dân. Mà cha mẹ có toàn
quyền sinh tử trên con cái. Thì những người cai trị coi mình có toàn quyền.
Người Việt Nam anh hùng chống ngoại xâm, nhưng nói chung cam chịu số phận, lụy
thuộc cha mẹ và vua quan. Nho giáo không có một nền luân lý tự do dân chủ, nên
dễ chấp nhận độc tài của vua quan. Phật giáo dạy diệt dục, diệt tham sân si,
kêu gọi sự nhẫn nhục. Nói chung cuộc đấu tranh cho người Việt Nam không dễ dàng
và đồng bộ như ở Ba Lan.

Tuy vậy, bài học của Ba Lan và của Tiệp Khắc rất quý giá cho những người thực
thi đấu tranh cho nhân quyền, tuy khó khăn hơn.

– Từ giữa năm 1995, sau khi các ông Hoàng Minh Chính, Đỗ Trung Hiếu, Thích
Huyền Quang, Thích Quảng Độ vị kết án rất trái pháp luật, dư luận thế giới đã
mong đợi giới độc lập trong nước đưa ra một bản kiến nghị lên án chế độ để
người bên ngoài hưởng ứng. Hồi cuối năm Hà Sĩ Phu, Hồng Hà cũng bị bắt giam,
linh mục có thấy động tĩnh gì về phía các lực lượng đấu tranh ở trong nước
không?

– Tôi không ngạc nhiên khi anh em ngoài thắc mắc chẳng thấy động tĩnh gì trước
một loạt bắt bớ giam cầm các vị chân tu và đảng viên có tinh thần dân tộc và
dân chủ. Không phải những lực lượng tranh đấu cho dân quyền, cho dân chủ trong
nước sợ không dám lên tiếng hay làm nhơ trước bạo lực và cảnh tù đày của các
anh đó. Chúng tôi ngồi yên nhìn các ngu dốt và cái sa lầy của một chế độ đang
trên đà tan rã. Họ càng bắt bớ, họ càng sa lầy, càng gây ý thức nơi người dân
về sự sa sút, thối nát và độc ác của họ. Họ nói họ bảo vệ chủ nghĩa xã hội, vậy
chủ nghĩa xã hội là cái gì? Đó là chủ nghĩa muốn xóa bỏ quyền tư hữu. Không
chấp nhận kinh tế thị trường, chỉ chấp nhận kinh tế tập trung vào Nhà nước, vào
các xí nghiệp quốc doanh. Nhưng nay ta thấy cái gì? Cái kinh tế đó đã đưa Việt
Nam đến tận cùng nghèo đói, lạc hậu. Bây giờ họ bỏ hết, chạy theo kinh tế thị
trường, chạy theo đô la thay vì phát triển để độc lập, họ xóa chữ “c” và chữ
“p” thành đô la rồi. Và theo đo la không phải cho dân nhờ, nhưng để bỏ túi. Vô
số những vụ tham nhũng, buôn lậu được tổ chức qui mô. Chủ nghĩa xã hội là một
thứ treo đầu heo bán thịt chó: một tập đoàn tham nhũng, buôn lậu mà nhân dân
gọi là mafia. Có gì là chủ nghĩa xã hội đâu. Trước sự tan rã này, những cuộc
bắt bớ kia chỉ làm trò đùa cho người dân. Làm trò cười khi bắt giam trái phép,
càng làm họ cười khi đưa ra xét xử rồi lên một cái án tức cười. Cho nên chẳng
cần kiến nghị, chả cần nói, chả cần động tĩnh gì, chỉ ngồi coi chơi và các anh
đang bị tù chắc cũng cười như anh Nguyễn Ngọc Lan và tôi cũng đã cười trong ba
năm quản chế, trước biện pháp lấy thịt đè người của Nhà nước.

– Chúng tôi ở ngoài được tin ông Hà Sĩ Phu ra Hà Hội để thảo luận bản Hiến
chương những nhân quyền cho Việt Nam tương tự như Tiệp Khắc, xin linh mục cho
biết tin tức này có cơ sở không. Nếu đáng tin, thì Nhà nước có dập tắt ngọn lửa
này. Theo linh mục có ai sẽ tiếp tục?

Tôi không nghe tin đó. Có những người bạn cho biết là anh Hà Sĩ Phú ra Hà Nội
thăm bạn bè và trao đổi về đủ thứ chuyện trên đời. Khi ra khỏi nhà bạn, công an
mời về bót và lục soát xắc tay của Hà Sĩ Phu và thấy có bức thư của Thủ tướng
Võ Văn Kiệt viết cho Bộ Chính trị về tự do dân chủ. Công an hỏi ai trao thư
này. Nghe nói Hà Sĩ Phu và Hồng Hà đều bị bắt giam. Chắc anh đã biết nội dung
bức thư của ông Võ Văn Kiệt? Ông Võ Văn Kiệt công khai hóa sự chia rẽ trầm
trọng trong Bộ chính trị. Võ Văn Kiệt chống việc đưa khu vực quốc doanh lên
hàng chủ đạo, chống dân chủ tập trung, đòi hỏi xây dựng Nhà nước Pháp quyền. Có
thế mới loại trừ nạn tham nhũng, buôn lậu.

– Trong ba bài giảm sám hối, linh mục đã kêu gọi cá nhân, Giáo hội, Đảng và
Nhà nước sám hối. Riêng linh mục, linh mục có sám hối không, vì trước 75 nhiều
người trong chế độ Sài Gòn đã coi linh mục như một người ăn cơm quốc gia, thờ
ma cộng sản như linh mục đã nói đầu cuộc phỏng vấn. Phải chăng qua những hoạt
động của linh mục trước 75 có ảnh hưởng đến thành công của cộng sản trong việc
làm sụp đổ miền Nam?

– Lòng sám hối phải là một thái độ mọi người phải có. Không ai dám tự cho mình
đã hoàn thành trách nhiệm của mình. Vì thế, tôi cũng phải sám hối. Nhưng không
vì đã hoạt động bảo vệ con người trong chế độ cũ. Chính chế độ vi phạm nhân
quyền, nên cộng sản mới lợi dụng những vi phạm ấy, lôi kéo dân chúng theo họ.
Và chính thiếu tài năng, thiếu đạo đức và tình trạng tham nhũng tuy nhỏ hơn bây
giờ, nhưng cũng đủ để cộng sản lợi dụng tuyên truyền, lôi kéo người dân theo
họ, đi lính cho họ và đã thắng chế độ cũ đưa đẩy Đất nước vào tròng nô lệ.

– Vừa rồi ông Nguyễn Đức Trấn đã viết một cuốn sách tố cáo vi phạm nhân
quyền. Chế độ đã lên án cuốn sách đó, ra lệnh tịch thu. Linh mục có biết hậu
quả của lệnh này có ai bị bắt bớ gì không?

– Ủy ban Nhân dân TP.HCM ra lệnh tịch thu cuốn sách Viết cho Mẹ và cho Quốc
hội
của bác Nguyễn Văn Trấn, một đảng viên cộng sản lão thành đã 81 tuổi.
Bác Trấn lên án chế độ, bằng cách đưa ra những vi phạm nhân quyền từ ngày có
Đảng Cộng sản ở Liên Xô cũng như ở Việt Nam. Đảng đã phân tích cuốn sách này và
đánh giá còn nguy hại cho Đảng  hơn cả những bài viết khác, như của Nguyễn
Hộ chẳng hạn. Tiếp theo bản phân tích đó, Ủy ban Nhân dân TP.HCM đã tuân lệnh
ra thông báo tịch thu, nhưng lại không cho phổ biến công khai trên báo chí, chỉ
nhằm tịch thu. Nhưng tịch thu ờ  đâu? Họ lại lục soát nhà bác Trấn. Lại có
vị đi mua về độc với một giá cao đặc biệt và ai đã đọc thì cất giữ kỹ và cho
bạn hữu đọc. Lệnh ấy cũng lạ kỳ, phải chăng, được lệnh trên, người ta làm thông
cáo cho có. Vì vậy cuốn sách càng được khắp nơi biết tới và nghe nói ở Hà Nội
cũng in ra dữ dội hơn. Và tôi cũng được biết ở bên Mỹ cũng đã in ra và được
đồng bào ta hoan nghênh. Như vậy, chưa có ai bị bắt vì cuốn sách này kể cả tác
giả. Tôi có nghe nói bí thư thành ủy có mời bác Trấn lên xác nhận những vi phạm
của Đảng, nhưng trách bác Trấn không viết những sự việc tích cực của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Bác Trấn bảo: chả có gì là tích cực cả. Thế là huề cả làng. Người
ta hăm dọa bác để sau đại hội VIII rồi sẽ tính. Mà làm gì bác, thì chế độ càng
hố. Chúng ta chờ một đám tang lớn: đám tang chế độ.

– Đúng là sách của bác Trấn được in ở Mỹ, in 2000 cuốn bán hết sạch, sắp in lần
thứ hai. Xin cảm ơn linh mục đã trả lời thẳng thắn những câu hỏi của chúng tôi.
Linh mục có nói thêm gì với đồng bào không?

– Năm cũ sắp qua, tôi xin gởi đến đồng bào trong nước cũng như ngoài nước lời
chúc mừng Năm Mới. Chúc đồng bào dồi dào sức khỏe, may mắn, hạnh phúc, đoàn kết một lòng đấu tranh để xây dựng đất nước giàu mạnh, tự do, dân chủ, con người và
gia đình được tôn trọng.

Thân ái chào đồng bào ở trong cũng như ngoài nước.

(28.1.1996)

(Tin Nhà số 23,tháng 3.96)

 

Giới trẻ, định hướng cho cuộc đời

Giới trẻ, định hướng cho cuộc đời

Tâm Thương

WGPSG — Người em cùng quê với tôi sắp thi tốt nghiệp ngành điều dưỡng.
Chỉ còn mấy ngày nữa thi nên tôi thấy em miệt mài học bài đến khuya. Tối nay có
sinh nhật nhỏ bạn nên em gác lại chuyện học bài để đi mừng sinh nhật. Tối hôm
trước khi thi môn thứ hai em cũng lai rai một két bia với mấy người bạn. Em
bình tĩnh dường như chẳng có chuyện gì xảy ra. Hình như chuyện thi cử đối với
em cũng bình thường thôi. Em học bài ôn thi kiểu cuốn chiếu. Hoàn toàn không có
sự đầu tư thật kỹ càng từ xa.

Bạn thân mến, câu chuyện trên đây làm tôi liên tưởng đến lối sống của
nhiều bạn trẻ hôm nay. Dường như họ không xác định được cái gì chính và cái gì
là phụ trong cuộc sống thường ngày. Dường như họ chỉ biết sống như lục bình
trôi sông hoàn toàn không có mục đích và định hướng. Bởi vậy mới có hiện tượng
học “cuốn chiếu”, gian lận trong thi cử, hay thi rớt và nợ môn không thể ra
trường được. Điều này dẫn đến biết bao tai hại cho chính bản thân người trẻ,
cho gia đình, nhà trường và xã hội. Vậy, nguyên nhân dẫn đến những hiện tượng
tiêu cực như thế là gì? Làm thế nào để người trẻ hôm nay sống một cuộc đời có ý
nghĩa và có định hướng? Còn đối với giới trẻ Công giáo chúng ta thì sao?

Nhiều bạn trẻ không biết mình đang muốn cái gì?

Trước tiên, nhiều người trẻ hôm nay sống không có định hướng. Nguyên nhân
sâu xa là do họ không biết mình đang muốn cái gì. Thật vậy, họ có thể biết
nhiều thứ văn minh hiện đại, nhưng không biết được chính mình. Nào là điện
thoại di động đắt tiền hiện đại với nhiều chức năng. Nào là nhiều nhà hàng nổi
tiếng với những món ăn đắt tiền. Nào là vi tính xách tay trị giá mấy chục
triệu. Nào là facebook, yahoo messenger hay những kỹ thuật vi tính như đồ họa,
lập trình, tạo trang web. Nào là sưu tầm những game thật hot v.v… Giá trị của
người trẻ phải chăng hệ tại ở những phương tiện vật chất như thế?

Người em cùng quê với tôi cũng rơi vào vết xe đổ như đã nêu trên. Tôi
nhận thấy em không có một định hướng và động cơ học hành nghiêm túc. Cứ tà tà
rồi cũng qua. Như vậy không được. Hơn nữa nghe nói rằng cái ngành điều dưỡng mà
em đang học là do cha mẹ của em chọn. Đã có lần em muốn bỏ cuộc giữa chừng cuốn
gói về quê làm thợ hồ phụ cha. Vậy đó, em làm cái điều mà mình không thích thì
làm sao có được động lực dấn thân cho ngành điều dưỡng được. Hơn nữa, cái ngành
này đòi hỏi cái Tâm và sự khéo léo tỉ mỉ của đôi bàn tay thầy thuốc. Nếu em
không muốn học thì hậu quả sẽ tai hại biết bao!

Thế nên, sống có mục đích và định hướng là chìa khóa dẫn con người dẫn
tới thành công. Thế nhưng, thực tế nơi phần đông những người trẻ thì ngược lại.
Bởi vậy, một tác giả đã nhận định thế này: “Ngày nay, khi chúng ta đang ở vào
thời điểm cạnh tranh gay gắt, nhiều người vẫn không biết mình sẽ làm gì ở tương
lai. Bởi vì họ chưa từng lên kế hoạch cho cuộc đời của mình. Hoạch định cuộc
đời là yếu tố quan trọng để bạn có một phương châm và đường đi đúng đắn rõ ràng
trong cuộc sống.” Quả thật, từ việc không biết chính mình dẫn đến việc đánh mất
chính mình. Lối sống không có định hướng dẫn đến những lệch lạc và mất định
hướng cho cuộc đời. Đó là lối sống chỉ biết hưởng thụ và lệch lạc nơi phần đông
người trẻ hôm nay.

Nhiều bạn trẻ chỉ biết sống hưởng thụ và lệch lạc

Bạn tôi không thích học hành và làm việc. Xu hướng của bạn ấy thích nhiều
thứ vui tiêu khiển như rượu chè, cờ bạc, hát karaokê, tiệc tùng, chở bạn gái đi
ăn uống vui chơi v.v… Anh ta chỉ biết đến cái nhất thời mà quên đi cả một tương
lai dài phía trước. Anh lấy cái phụ làm cái chính cho cuộc sống của mình. Anh
đánh bài thua sạch hết tiền. Anh đã từng bị mất hai chiếc xe. Ở Sài Gòn này
toàn người dưng nước lã nên biết mượn ai bây giờ. Anh chỉ biết điện về nhà cầu
cứu bà mẹ làm nghề đan lát ở dưới quê. Anh nói dối mẹ rằng anh bị mất tiền, mất
xe…Anh kéo lê cuộc đời trong những thú vui hưởng thụ lệch lạc như thế. Rồi cuộc
đời anh sẽ đi về đâu? Hoàn toàn không định hướng. Hoàn toàn không có một tương
lai ở phía trước.

Thực tế lối sống của phần đông người trẻ hôm nay là thế. Có mấy ai chịu
đầu tư cho chuyện học hành thi cử? Có mấy bạn trẻ ưu tư chọn cho mình một ngành
nghề hợp với sở thích, khả năng và có thể kiếm được nhiều tiền để nuôi sống bản
thân và gia đình? Thật vậy, nhiều người trẻ hôm nay lãng phí quá nhiều thứ.
Lãng phí thời gian. Lãng phí sức khỏe. Lãng phí tiền bạc. Lãng phí tuổi trẻ
v.v… Như lục bình trôi lênh đênh trên dòng nước, nhiều người trẻ sống không có
mục đích và định hướng cho đời mình. Họ không tìm ra được ý nghĩa và giá trị
của cuộc sống này là gì. Giá trị của con người là gì? Giá trị của tiền bạc là
gì? Giá trị của tình yêu là gì? Tôi sẽ là ai và làm gì trong tương lai? Thực tế
cho thấy họ thích sống tự do và hưởng thụ tối đa. Vậy lối sống ấy có làm cho
cuộc đời họ hạnh phúc, bình an không?

Phải chăng khởi đi từ những thực tế trên đây mà nhạc sĩ Ý Vũ đã sáng tác
những lời ca như sau: “Ta đi, ta đi tìm lại màu xanh. Cho hôm nay tuổi trẻ tràn
dâng sức sống” (Bài hát Xanh Lên Màu Mạ Non). Còn một tác giả nào đó đã mời gọi
người trẻ thế này: “Hãy định hướng cho tương lai của bạn ngay từ khi còn học
phổ thông theo đúng năng lực và sở trường để bạn không phải hối hận. Tiếp đó,
bạn nên hoạch định cụ thể cuộc đời của mình. Mất bao nhiêu năm để bạn tìm kiếm
điều mình muốn? Hãy biết nắm giữ tương lai của mình, đừng bao giờ sợ những gì
trong tương lai bởi vì chúng ta không hề biết tương lai sẽ là gì!” Còn đối với
những người trẻ Công giáo chúng ta phải sống thế nào?

Vậy, giới trẻ Công giáo phải làm gì để sống có ý nghĩa?

Bạn thân mến, mỗi người trẻ Công giáo chúng ta ít nhiều cũng bị lây nhiễm
những khuynh hướng xấu của xã hội. Sống không định hướng. Sống lệch lạc và
buông thả. Sống tự do muốn làm gì thì làm. Lối sống ấy nguy hại đến đời sống
đức tin và cuộc đời mỗi người trẻ chúng ta. Bởi thế, thánh Phaolô đã khuyên nhủ
chúng ta rằng: “Anh em đừng có rập khuôn theo đời này, nhưng hãy cải biến con
người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên
Chúa: cái gì là tốt, cái gì là đẹp lòng Thiên Chúa, cái gì là hoàn hảo” (Rm
12,2). Vậy, một cuộc đời có ý nghĩa đối với mỗi chúng ta là một cuộc đời có
Chúa. Không để lạc mất Chúa trong đời sống thường ngày.

Cuối cùng, cái gọi là “hoàn hảo” mà thánh Phaolô nói tới là gì? Xin mượn lời một bài hát để chúng ta suy nghĩ và tự trả lời cho mình: “Tuổi trẻ hôm nay, không biết hận thù. Tuổi trẻ vô tư, tâm hồn cao cả… Tuổi trẻ hôm nay, không sống riêng mình. Tuổi trẻ thênh thang, tâm hồn trời biển. Tuổi trẻ hôm nay, sống cho lý tưởng. Hiến dâng chính mình, dệt thắm màu xanh” (Bài hát Xanh Lên Màu Mạ Non, Ý Vũ).

Maria Thanh Mai gởi

Giấc Mơ Nước Mỹ

Giấc Mơ Nước Mỹ

(12/10/2012)

nguồn: Vietbao.com

Bài dự viết về nước Mỹ gửi từ Sài Gòn bằng email, được đăng nguyên văn, không thêm bớt. Bài viết ngắn, tác giả 30 tuổi, cho biết đây là những câu hỏi mong được các chú bác anh em ở Mỹ trả lời.

Tôi muốn được đặt chân tới Mỹ!

Đó là điều mơ ước cháy bỏng của tôi từ khi biết nhận thức sau khi rời Trung Học
để bước vào đời. Vì sao ư? Để tôi tìm hiểu về nền văn hóa, chính trị, giáo dục,
kinh tế của nước này. Để tôi tự trả lời cho nhiều câu hỏi cứ thôi thúc trong
đầu mình bao nhiêu năm qua từ khi tôi biết nhận thức về đời sống.

Tôi muốn đến Mỹ, để tôi hỏi vì sao đồng bào tôi có mặt ở đây, và sự ra đi này kéo dài hơn một thế hệ rồi, mà đến bây giờ hằng ngày đi ngang Tòa Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn vẫn còn lũ lượt người chờ đợi một tấm vé đặt chân vào Mỹ, dù đất nước Việt tôi đã im tiếng súng đã lâu, từ khi tôi chưa chào đời.

Tôi muốn đến Mỹ xem coi có phải đó là Thiên Đường không mà đồng bào tôi, bạn bè
tôi sau khi định cư vài năm có trở về thăm quê họ như một con người khác, lịch
sự nhã nhặn, có kiến thức giỏi giang hơn rất nhiều. Tôi tự hỏi điều gì đã làm
nên đôi hia bảy dăm đó?

Tôi muốn đi để hỏi các cô gái lấy chồng “Việt Kiều Mỹ” niềm vui rạng ngời hơn các cô gái phải bán thân đi Đài Loan, Hàn Quốc, Campuchia?

Tôi muốn đi để thấy, để biết Tổng Thống Mỹ có phải ông Trời không mà sao cả thế
giới phải nghe ngóng, chờ đợi mỗi mùa bầu cử Tổng Thống Mỹ?

Và tôi muốn đi để hỏi các Chú Bác những chiến hữu của Ba tôi ngày xưa được chìa
khóa HO để đến thiên đường nước Mỹ, có còn nhớ đến bạn bè chiến hữu, quê hương
hay không. Mà sao ai cũng chen chân bỏ lại “chùm khế ngọt” mà hân hoan làm kẻ
lưu vong?

Tôi muốn gặp những người cùng lứa tuổi tôi là Người Mỹ Gốc Việt để thử xem cách
xa hai nửa bán cầu, tuổi trẻ có gì giống và khác nhau.

Cuối cùng tôi muốn đi để xem vì sao, hấp lực gì mà hàng triệu người miền Nam đổ
xô ra biển không định hướng những năm sau 1975 đến những năm 1990 và tiếp tục
đến bây giờ bằng nhiều cách.

Nhưng đường đến nước Mỹ với mình chắc xa diệu vợi. Thôi thì các Chú, Bác anh em
đồng bào ở Mỹ có ai còn tâm tình với những người bên này vui lòng trả lời dùm
tôi, một thanh niên 30 tuổi những câu hỏi vừa nêu, để tôi khỏi khắc khoải về
một nước Mỹ vô cùng lạ lẫm, và thần kỳ. Nếu vậy thì âu cũng là một niềm vui lớn
rồi, chứ chưa dám nghĩ ngày nào đó mình đạt chân đến Mỹ quốc!

Mong lắm thay!

Nguyên Giang

 

Nói cho con người: Lm. Chân Tín (27)

Nói cho con người: Lm. Chân Tín (27)

Đăng bởi lúc 1:33 Sáng 29/12/12

nguồn: Chuacuuthe.com

VRNs (29.12.2012) – Sàigòn –

Cụ Nguyễn Văn Huyền và Mặt trận Tổ quốc

Cần Giờ, ngảy 30 tháng 9 năm 1994

Anh chị thương,

Sáng nay, Chân Tín về Cần Giờ như thường lệ, mỗi tháng 3, 4 ngày. Thêm vào đó, ngày mai là lễ Thánh Têrêxa, bổn mạng nhà xứ và ca đoàn, nên càng phải xuống. Về đây, rảnh rỗi hơn; không có khách, không đi kẻ liệt, không đi ăn cưới, ăn giỗ, ăn sinh nhật của ai hết. Thế là có thời giờ viết thơ cho các anh chị.

Cũng như mỗi tháng, Chân Tín đến giải tội và ban Mình Thánh cho cụ Nguyễn Văn Huyền, bị tim đã 5, 6 năm nay. Tôi có hỏi cụ sao lại có cái kỳ cục là tên cụ nằm trong danh sách Ủy ban Mặt trận Trung ương. Cụ bảo rằng hôm tết, ông Nguyễn Hữu Thọ (ngày trước hai người cùng làm luật sư) đến thăm và nói xa gần việc mời cụ vào Mặt trận. Cụ lờ đi nói chuyện khác. Rồi cách đây vài tháng, ông Phan Khắc Từ đến thuyết phục cụ. Cụ từ chối vì cụ nằm giường không thể nằm Mặt trận. Rồi 10 ngày trước Đại
hội Mặt trận, ông Hanh và một vị khác trong Mặt trận Thành Phố đến mời cụ, và
họ đến mỗi ngày làm áp lực. Họ bảo: “Nếu cụ bệnh, Nhà nước sẽ cho một bác sĩ
tháp tùng”. Cụ bảo: “Bao nhiêu bác sĩ cũng chẳng làm gì được, tôi chết là tôi
chết”. Không thuyết phục cụ đi được, nên sau Đại hội, họ để tên cụ Huyền vào
danh sách Ủy ban Trung ương Mặt trận. Thật hề và thật dã man. Họ coi mạng sống
con người không ra gì. Chỉ cần có một uy tín trong Giáo hội và là Phó Tổng
thống chế độ cũ vào Mặt trận, để reo hò đoàn kết và đại đoàn kết. Cụ Huyền lắc
đầu tỏ vẻ rất buồn. Có lẽ có nhiều cụ cũng đã “bị bắt nằm với Mặt trận”. Một vụ
cưỡng hiếp tinh thần. Ôi đoàn kết, đại đoàn kết! Ôi đổi mới! Ôi dân chủ!

Sắp có bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp. Mấy ‘Anh Nông Dân’ tuyên bố: “Kỳ này sẽ bầu cử dân chủ, tự do, thực sự, có tự do ứng cử”. Bầu cử Quốc hội vừa rồi cũng nói thế, nhưng mấy ‘ứng cử tự do’ phải rút lui vì bị áp lực chỉ còn vài người làm “cò mồi” rồi
cũng rơi đài . Kỳ này trên báo chí cũng cho biết 5, 10 người gì đó cũng ‘tự do
ứng cử’. Chắc rồi cũng vậy. Bao lâu còn độc đảng, độc tôn, độc quyền, thì họ
vẫn trắng trợn bảo đảm 100% người của Đảng hay tay sai. Buồn cho Đất nước.

Ngày 28/9, lễ đám tang của một tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế, 73 tuổi, 53 năm tu Dòng. Trong bài giảng (lại giao cho Chân Tín giảng), Chân Tín có đề cập đến tình trạng bi đát của gia đình thầy ở Bến Tre. Tôi đặt hoàn cảnh của thầy ấy trong bối cảnh Đất nước: Sau 75, cả nhân dân miền Nam phải chịu nhiều đau khổ và bất công. Hàng trăm ngàn người trí thức và người của chế độ cũ phải đi học tập cải tạo mười mấy năm, có người chết trong trại, đa số đói khát bệnh tật, để lại vợ con ở ngoài nheo nhóc thiếu
chồng, thiếu cha; hàng triệu người đi di tản, và hàng trăm ngàn người chết trên
biển; tư sản bị bóc lột hết cả tiền bạc cơ sở; ở nông thôn không có đấu tố như
54 ở miền Bắc, nhưng nông dân mất hết ruộng đất. Nhà thẩy Bernard Thái Văn
Hưởng có nhiều ruộng đất trước 75, nhưng trong chín anh em thì bảy người đã
chết, thầy Hưởng là trai trưởng cũng như cô gái út đi tu. Trước 75, hai anh em
yên tâm đi tu, vì cha mẹ già với ruộng đất có thể tự túc được. Sau 75, gia đình
thầy mất hết ruộng đất, chỉ còn hai ông bà già, thầy Hưởng và cô em đành phải
về quê để lấy lại vài công ruộng, tự tay cày cấy để nuôi cha mẹ già. Lúc ấy
thầy đã 57 tuổi, không quen làm ruộng, thời tiết xấu, không đủ ăn. Dòng Chúa
Cứu Thế cũng đã yểm trợ, nhưng dòng cũng mất nhiều tiền của, cơ sở làm ăn, nên
sự giúp đỡ gia đình thầy cũng có giới hạn. Trong hoàn cảnh bi đát của Đất nước,
cũng như của riêng thầy, thầy đã can đảm vừa tiếp tục ơn gọi tu sĩ vừa phụng
dưỡng cha mẹ già. Thầy đã ra đi. Khi mẹ già trên 90 tuổi vẫn còn đó.

Sau bài giảng này, có người bảo Chân Tín thù dai! Chân Tín không thù, như Chúa dạy và riêng Chân Tín không có gì để thù. Trái lại rất yêu thương người Việt dù cộng hay không cộng. Nhưng chúng ta “không có quyền quên” những người nằm xuống và những người  đau khổ vì chế độ hả khắc. Lai rai, Chân Tín vẫn nhắc nhở, kẻo có người thấy phồn vinh giả tạo với những khách sạn khổng lồ, với đàn khách sộp đến ăn và chơi, đến hốt tiền và con cái nhà lành, rồi quên đi những nhân quyền đã bị chà đạp và
đang bị chà đạp.

Người ta khéo bày trò  dân chủ và đoàn kết, như vụ cụ Huyền, để lừa dối thế giới tự do. Nhưng than ôi! Thế giới tự do cũng nhắm mắt, để thủ lợi trong cái chợ chiều đang nhộn nhịp bán đất bán nước.

Mến thương.

Lm. Chân Tín

Tái bút: Cần Giờ, 1/10/94

Anh chị thương,

Hôm qua, mới về Cần Giờ đã viết thư cho anh chị. Hôm nay, Chân Tín viết thêm vài hàng về “kế hoạch hóa gia đình” để bớt dân số.

Hôm 8/9/94, tại nhà thờ Phaolô 3, cha sở chúc mừng 50 năm khấn Dòng của thầy Tôma (Dòng Chúa Cứu Thế) đã phục vụ ở đó cả chục năm nay. Chân Tín được mời giảng, vài phút trước thánh lễ. Được mời đột xuất, vì cha giám tỉnh mời cha sở và cha sở mời giám tỉnh giảng, rốt cuộc không ông nào giảng cả, chẳng đặng đừng, Chân Tín được mời. Chân Tín nói với cha sở là Chân Tín có giảng sao ở tù ráng chịu. Cha sở chịu chơi. Cứ giảng.

Tự nhiên, Chân Tín không giảng về 50 năm khấn Dòng, mà giảng về tình trạng bất thường của đời sống tu ở Việt Nam. Nhà nước rất dễ dãi với việc ăn chơi trác táng, còn những người dấn thân phục vụ con người như người đi tu thì gặp nhiều khó khăn. Các Dòng tu bị cấm hoạt động xã hội giáo dục, cấm chiêu sinh, phải sống chui đời sống tu trì, vv và vv…

Phần hai: mấy tháng nay, trên thế giới, báo chí nói nhiều về việc phá thai để bớt dân số. Bản thảo của Liên Hiệp Quốc đang nhóm họp ở Cairô như vấn đề phá thai lên hàng đầu. Vatican và các Hội đồng Giám mục khắp thế giới lên án mạnh mẽ chủ trương đó. Nhưng biện pháp đó đã được chế độ Cộng sản Việt nam thực thi triệt để lâu năm rồi. Ở miền Nam sau ngày giải phóng, chủ trương phá thai để bớt dân số: một thai nhi được sống và một thai nhi phải chết. Phá thai ở mọi lứa tuổi. Ở các nước Âu Mỹ, có phá thai cũng chỉ dưới sáu tuần. Ở VN sáu tháng tuổi vẫn cứ phá. Và nay, chủ
trương ‘một sống, một chết’. Thế nhưng ở Cairô, đại diện VN đã chối leo lẻo và
bảo VN không chủ trương phá thai làm phương tiện giảm dân số. Chân Tín kết thúc
bằng đề nghị một phương thế hiệu nghiệm để giảm bớt dân số VN: Nhà nước thôi áp
lực trên các dòng tu, cho mở nhiều tu viện nam nữ, nhiều thanh niên nam nữ đi
tu, tức không sanh đẻ là phương thức tuyệt hảo bớt dân số ở VN. Anh em gọi
phương pháp của Chân Tín là “Cairotin”! Chắc nay mai ông Nhà nước sẽ tháo gỡ
việc tu hành?!

Lm. Chân Tín

(Tin Nhà số 17, trang 11-12)

 

Nỗi niềm Giáng sinh

Nỗi niềm Giáng sinh

Huỳnh Thục Vy

Không khí Giáng sinh đang tràn ngập khắp địa cầu. Các thành phố lớn trên thế giới trong những đêm trước Noel đã được trang hoàng lộng lẫy: Stockholm lung linh với cây thông Noel cao 36m, Lisbon sặc sỡ với quả cầu khổng lồ, đại lộ Chams Elyses Paris sáng bừng trong hàng ngàn bóng đèn rực rỡ. Khắp nơi người ta hân hoan đón chào thêm một mùa mua sắm- vui chơi mới lại đến.

Mặc cho những khốn đốn kinh tế và những bế tắc về chủ quyền quốc gia, ở các thành phố lớn của Việt Nam như Sài Gòn, Đà Nẵng, Hà Nội, khung cảnh Noel cũng không kém tưng bừng . Rồi sẽ có những tiệc tùng tụ hội…những cây  thông Noel lớn được dựng lên, những hang đá đẹp rực rỡ đã được bài trí sang trọng trong những gia đình khá giả.

Quả tình tôi không có ấn tượng đặc biệt với những rộn ràng, xa hoa đó. Những chốn ồn ào hoang phí như nhà hàng, tiệc tùng, lễ hội đối với  tôi là những thứ xa lạ. Tất nhiên giàu có và hưởng thụ không có gì là xấu, hơn nữa nó còn là một quyền chính đáng với sự lao động tương xứng. Nhưng là một cô gái sinh ra trên một miền quê nghèo của một đất nước bất hạnh với những bất công vẫn diễn ra hằng ngày, tôi luôn có cái cảm giác ngậm ngùi vô cớ đối với những xa hoa lễ lạc. Khung cảnh vui chơi tốn kém đó dường như đối lập một cách tàn nhẫn với những mảnh đời cô đơn, nghèo khó, thiếu mặc đói ăn trên khắp đất nước này. Sự đối lập đó làm rỉ máu những trái tim biết rung cảm trước nỗi đau của đồng loại.

Chúng ta kỷ niệm ngày Chúa cứu thế sinh ra đời. Nhưng không giống như cách chúng ta đang mừng đón, ngày xưa Chúa Jesus đã khởi đầu Công cuộc ở trần gian của Ngài bằng việc sinh ra trong một máng cỏ tồi tàn ở Bethlehem . Và như chúng ta đã biết, Kitô giáo lúc sơ khởi đã là tôn giáo của những người nô lệ bần cùng, đau khổ, trước khi nó trở thành quốc giáo của Đế chế La Mã. Tượng Chúa đã ở trong những túp lều rách nát của những nô lệ châu  Âu trước khi hiện diện ở Roma trong những vương cung Thánh đường tráng lệ.

Một thông điệp “Yêu Thương và Hòa Giải” được đem đến với nhân loại từ một Người Thanh Niên xuất thân bần hàn rồi chấp nhận cái chết đau đớn trên Thập Giá chắc phải để lại trong chúng ta điều gì đó hơn là những thú vui phù phiếm chứ?! Dù không cổ vũ cho sự khó nghèo, cũng không coi thường sự giàu có, nhưng sự hiện diện của chúng ta trong cuộc đời này phải mang ý nghĩa gì đó thiêng liêng hơn là hưởng thụ chứ?!

Mỗi dịp Giáng sinh về, bên cạnh những niềm vui sum họp, ký ức về câu chuyện “Cô Bé Bán Diêm” vẫn như là tiếng chuông ngân lên nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm với cộng đồng, đặc biệt là những người kém may mắn. “Cô bé bán diêm” của Andersen hôm nay chính là mỗi một người dân quê tôi trong những ngôi nhà tồi tàn trên sườn núi rét mướt ở Bắc Trà My, vì họ đã rời bỏ những ngôi nhà nứt đổ do động đất Sông Tranh 2. “Cô bé bán diêm” của Đan Mạch ngày xưa, ngày hôm nay đang hiện diện trong những bà con dân oan mất đất, mất nhà, phải chịu cái giá rét của Hà Nội mà đi đòi Công lý (dù Công lý từ lâu không có mặt trên xứ sở này). “Cô bé bán diêm” ấy đang là những tù nhân lương tâm trong nhà tù Cộng sản ở vùng xa xôi, hẻo lánh. Cô bé cũng hiện diện trong những nông dân bỏ con thơ, mẹ già, từ quê lên thành phố làm công nhân trong các nhà máy bóc lột, cuối năm không có tiền về quê…

Mùa Giáng Sinh, mùa của lòng nhân ái, xin tất cả chúng ta hãy dành cho những người cùng khổ, tù đày trên đất nước này một chỗ khiêm tốn trong tim; để chúng ta còn biết thổn thức, âu lo; để bên những dạ tiệc linh đình, chúng ta còn nhận thức sống động rằng, trong cái đất nước đầy bất công đau khổ này, sự may mắn mà chúng ta đang có được đã không đến với đại đa số người khác.

Một mùa Noel và một năm mới nữa lại đến trong những sự kiện đáng đau buồn của đất nước, xin cầu chúc cho chúng ta, dù là Phật tử hay Kitô hữu, biết sống để làm nhân chứng cho những giá trị mà chúng ta tôn thờ, biết sống như các Ngài đang sống trong chúng ta, biết sống như một Thái Tử rời bỏ cung vàng điện ngọc và như một vị Vua không ngồi trên ngai vàng thế gian.

Xin kính chúc cô chú bác anh chị em, cùng quý độc giả một mùa Giáng sinh an lành và một Năm mới với nhiều thắng duyên.

Huỳnh Thục Vy

Buôn Hồ ngày 16 tháng 12 năm 2012

 

CHỖ Ở

CHỖ Ở

1. Từ vấn đề chỗ ở hiện nay

Càng ngày đất càng chật vì người đông, nhất là ở đô thị. Có những quốc gia không còn chỗ ở cho người dân. Người ta đang phải đặt ra nhiều vấn đề, nhiều giải pháp cho chuyện này. Vấn đề nhà cửa đất đai hiện nay đang lên cơn sốt. Đây là điều rất quan trọng trong cuộc sống. Vì có an cư mới lạc nghiệp. Vì quan trọng như thế cho nên người ta mới đầu tư và đổ dồn rất mạnh cho việc này.

Người giàu sang, kẻ có quyền muốn ở nơi sang trọng, đẹp đẽ. Người nghèo khổ, kẻ yếu thế phải chịu ở nơi tồi tàn, thiếu thốn.

Thực tế đã có nhiều sự thách thức, tranh giành, chiếm đoạt, chém giết nhau để có được mảnh đất, căn nhà…Tất cả cũng chỉ vì chỗ ở. Có khi bất chấp mọi mối tương quan miễn là làm sao có được một chỗ ở ngon lành là được ; vì vậy có thể xảy ra bất cứ điều gì khủng khiếp nhất người ta cũng sẵn sàng.

Giới ‘cò mồi’ nhà đất rất chịu khó luồn lách để kiếm mồi vì đó  là nghề của họ. Nghe mấy ‘cò’ nói chuyện giới thiệu được căn nhà, mảnh đất ngon cho khách thì họ cũng vui lắm vì vừa được hoa hồng vừa giúp được việc cho khách.

Người còn sống lo chỗ ở cho mình đã vậy mà còn quan tâm đến thế hệ con cái nữa. Trước khi chết, nếu chưa lo cho con cái được mảnh đất, căn nhà hẳn hoi thì cha mẹ chưa an tâm. Đó cũng là trách nhiệm lớn.

Đang ở đâu sung sướng rồi thì cũng không muốn đi chỗ khác. Chết lúc này thì tiếc lắm ! Bắt phải đến chỗ mình không thích thì cũng không vui mấy. Kể cả được chọn chưa chắc đã muốn đổi chỗ nếu nơi đang ở tốt hơn, hay hơn, thuận lợi hơn. Chính vì thế khi phải dời bỏ căn nhà trần gian này người ta nghĩ cũng buồn. Người thân thì khóc lóc.

Có nhiều lý do để buồn. Buồn vì mình không được ở căn nhà này nữa. Buồn vì mình không được sở hữu điều gì nơi căn nhà này nữa. Buồn vì chỗ ở của mình phải thay đổi vĩnh viễn. Buồn vì không còn sống với người thân nữa. Buồn vì tiếc nuối đủ thứ cả. Tất cả những thói quen ấy đã xây dựng cho mình một chọn lựa, một nếp sống không muốn thay đổi nên cũng có thể nghĩ : giá đừng chết thì hay ! Cũng vì thế, người ta quên mất hay không dành bao nhiêu cho chỗ ở đời sau mà đáng lẽ ra mình phải đầu tư rất mạnh, rất sớm ngay khi đang ở đời này. Để đến khi phải chuyển chỗ ở trần gian mới cuống cả lên thì chẳng kịp sự gì nữa, chứ chưa nói đến việc có thời gian mà viết tờ di chúc. Rồi có khi vì thế mà mất cả chì lẫn chài ấy chứ. Đấy là điều mà mình phải cố gắng suy nghĩ ngay bây giờ. Nếu bây giờ nghĩ luôn thì kể ra cũng còn chưa muộn lắm.Cuộc đời của người Ki tô hữu là một hành trình đi tìm chỗ ở. Chỗ ở cho hôm nay và mai sau.

2. Đến chỗ ở mai sau

Linh hồn có một chỗ ở riêng của nó. Chỗ ở này rất quan trọng. Quan trọng nhất. Người vô thần hay kẻ không tin có đời sau thì chẳng quan tâm đến việc này. Có khi họ còn mỉa mai nữa. Làm sao biết được linh hồn có và cần có một chỗ ở riêng ? Nơi nó sống ở đâu ? Hỏi chuyện này xem ra rất trẻ con và viển vông, không thực tế. Nhưng chúng ta cần phải đặt vấn đề lại để suy tư cho nghiêm túc, chính xác và đầy đủ.

Nhân viên của ông chủ đã giới thiệu, quảng cáo, maketing về một vùng đất mới cho chính cha của mình. Vùng đất có nhiều chỗ ở. Nhưng giá cả rất cao. Thế nhưng ai cũng có thể mua được. Ngược lại có người không biết cách mua dù có khả năng trong tay. Vùng đất đó là vùng Đất Hứa hay là Nước Trời hoặc Thiên Đàng hoặc nói thân mật hơn gọi là Nhà Cha. Chúa Giêsu Kitô một nhân viên tiếp thị, môi giới, cò mồi về nhà đất đã quảng cáo cho nhân loại về chỗ ở trong Nhà Cha mình như sau : « Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở ; nếu không Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó » (Ga 14, 2-3). Nhà Cha rộng đến như thế. Nhà Cha có nhiều chỗ ở đến như thế. Nhà Cha lý tưởng đến như thế. Nhưng điều kiện để có được chỗ ở trong Nhà Cha thì rất cao. Đòi hỏi thì rất khó. Việc tuyển chọn thì rất kỹ. Mà lối đi thì chỉ có một con đường như Chúa Giêsu đã quả quyết : « Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy » (Ga 14,6).

Có được chỗ ở trên trời không dễ dàng đâu. Phải chấp nhận hy sinh, đánh đổi rất lớn. Cũng chưa hẳn là có nhiều tiền nhiều quyền là mua hay chạy chọt được. Muốn có một chỗ ở nơi vùng Đất Hứa đòi người ta phải hy sinh đánh đổi cách dứt khoát. « Nước Trời chỉ chiếm được bằng sức mạnh »… Phải đánh đổi cả thân xác, mạng sống, danh dự, tiền bạc, sức khỏe,vv …để có thể vào được Nhà Cha.

Chúa Giêsu đã đi trước dọn chỗ ở cho chúng ta. Hành trình dọn chỗ ở của Ngài thật vất vả gian nan. Hành trình đó chính là con đường trải qua thập giá và sự chết. Ngài mời gọi tất cả mọi người : « Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình mà vác thập giá hằng ngày mà theo tôi ». Có được chỗ ở trong Nhà Cha không đơn giản. Mặc dù Chúa Giêsu luôn muốn rằng : ‘Thầy ở đâu thì anh em cũng sẽ được ở đó với Thầy’ nhưng liệu chúng ta có muốn để rồi dám dấn thân triệt để theo những đòi hỏi của Ngài không ?

Giáo hội muốn đọc lên cho chúng ta trong mỗi thánh lễ an táng và cầu hồn câu này « …và khi nơi nương náu ở trần gian bị hủy diệt tiêu tan thì lại được một chỗ ở vĩnh viễn trên trời » (Kinh tiền tụng I, Cầu cho người đã qua đời) để người ta luôn sống trong niềm hy vọng phấn khởi và dù có chết cũng không đau buồn nuối tiếc điều gì. Đó cũng là một cái nhìn, một sự so sánh rất rõ ràng, chính xác mà mỗi kitô hữu cần hiểu thấu đáo.

Thực tế người ta lo đầu tư cho nhà cửa, đất đai, chỗ ở trần gian quá nhiều mà lo cho chỗ ở đời sau quá ít hay thậm chí quên luôn nữa. Quả là sự lệch lạc nghiêm trọng, nguy hiểm quá.

Người ta lo đặt cọc đặt móng cho căn nhà tạm bợ vật chất nhưng lại quên lo đặt cọc, đặt móng cho chỗ ở vĩnh viễn trên trời.

Liệu xác thì có chỗ ở ngon lành, sang trọng, mát mẻ còn linh hồn mình có được như thế không hay lại phải ở nơi « lửa không hề tắt » (Mt 3,12), nơi « phải khóc lóc nghiến răng » (Mt 13,42), nơi « giòi bọ rúc rỉa » thì khổ biết chừng nào ?!

Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn

Maria Thanh Mai gởi

Một niềm phó thác

Một niềm phó thác

WGPSG  — “Xưa kia, có một bà cụ hay ủ rũ khi nghĩ đến 2 người con ở xa : trời
mưa thì bà nghĩ đến người con bán dép rơm bị ế ẩm, vì không ai mua dép
rơm để đi mưa; trời nắng thì bà lại nghĩ tới người con bán dù, vì ai lại
mua dù mùa nắng.

Hàng  xóm thấy vậy xúm vào khuyên bà hãy nghĩ ngược lại: trời nắng thì nghĩ
tới người con bán dép rơm được đắt hàng, còn trời mưa thì nghĩ tới đứa
con làm dù không đủ bán.

Bà cụ nghe theo và từ đó sống thật vui vẻ.”

Câu  truyện như lời nhắc nhở chúng ta hãy sống phó thác mọi sự trong tay
Chúa. Muốn cho cuộc đời đầy hoan lạc thì phải để Chúa dẫn dắt theo ý
Ngài. Thánh Phêrô và các bạn ngư phủ đầy kinh nghiệm biết không thể bắt
được cá nếu thả lưới vào lúc Đức Giêsu bảo, nhưng vì vâng lời Người nên
các ông đã nghe theo. Các ông đã được hưởng niềm vui bất ngờ vì đã làm
theo thánh ý Chúa.

Lạy  Chúa Giêsu mến yêu, Chúa đã bảo chúng con đừng sợ nhưng chúng con cứ
mãi lo âu khi thấy biển đời đầy sóng gió. ‘Nắng mưa là chuyện của Trời’
mà chúng con muốn bắt phải theo ý mình. Chúng con xin mượn lời bài hát
“Phó thác” để dâng cuộc đời chúng con trong tay Chúa:

“Một niềm phó thác đời con trong tay Ngài. Đừng bỏ con mồ côi, gục ngã trong đêm dài…” Đừng sợ (Lc 5,10).

Maria Thanh Mai gởi

“Lấp đất, hố tôi, lấp với tay cô nàng,”

“Lấp đất, hố tôi, lấp với tay cô nàng,”

Thì hãy chôn, trái tim non buồn thương.”

(Paul Simon/Scarborough Fair- Giàn Tiên Lý Đã Xa)

(Lc 21: 25-26)

Lúc tan ánh mặt trời”, giờ đã đến! “Trái tim non buồn thương”, thì hãy chôn! Ôi thôi. Phải chăng đó là giờ phút anh “lấp đất”, “hố tôi”, “giàn thiên lý đã xa mãi người ơi”? Người xa mãi, cứ tít mù lời đồn đại, về thế tận? Phải chăng ý/lời bài hát trên là lời “tiên tri”, “hạ hồi sẽ rõ”? Rõ như ban ngày. Như, ngày thế tận có thông tin dồn cục ở trang mạng?

Trả lời câu hỏi này, cũng nên tóm tắt vài bản tin đọc được ở Úc rất như sau:

“Tại sao thế giới không tận tuyệt ngày hôm ấy?

Vâng. Đó, chỉ vì mấy ông bạn làm lịch người sắc tộc Maya đã tính sai những tháng ngày còn dài, có thế thôi. Nhưng, chuyện này vẫn không ngăn cản cơ quan NASA của Hoa Kỳ vừa cho ra đĩa hình đặc biệt cho thấy lời tiên tri trên lịch của dân Maya, nước Mexicô đã không thành hiện thực.

Làm sao hiện thực được, khi ở đầu đĩa đã thấy ghi lời phân trần, như sau: “Xem đĩa, bạn sẽ thấy rõ một điều là: ngày hôm qua, thế giới của ta chưa đi vào “ngõ cụt”, tựa hồ ngày tận thế đâu. Đĩa hình nói ở trên chỉ muốn chứng tỏ một điều là: hành tinh
Nibiru được biết dưới tên “Sumêrian” sẽ đụng vào trái đất, xoá sạch sự sống của
mọi sinh vật ở đây. Nhưng sự thực, làm gì có hành tinh nào giống như thế.”

Lại có lời đồn này khác, cứ đưa ra những lời đoán rất bậy bạ những bảo rằng: Mặt trời sẽ hủy hoại trái cầu của chúng ta, cũng chóng thôi. Nhưng, một lần nữa, may cho con người, là đã có cơ quan NASA cũng chứng minh rằng điều này vẫn sai tuốt luốt. Chuyên gia Lika Guhathakurta lại cứ đoán già đoán non rồi bảo:

Ngay lúc này, mặt trời đang đi vào giai đoạn chóp đỉnh của chu kỳ 11 năm vần vũ vẫn cứ quay, nhưng nay là giai đoạn chót có hiện tượng kỳ lạ nhất trong 50 năm qua.”

Nói thế, có nghĩa là: từ trường mặt đất, lúc này đây, sẽ đi ngược chiều khiến cấu tạo nhiều biến động về khí hậu cực kỳ khó chịu? Và, hành tinh ta đang sống có rơi vào hố sâu đen ngòm mà trước đây ta chưa từng thấy? Cơ quan NASA một lần nữa lại nói tiếng“Không”, rất chắc nịch. Ts John Carlson cắt nghĩa trong đĩa hình rằng: “Ý niệm về thời gian mà sắc dân Maya khi xưa sử dụng đã đụng phải ý niệm của các nhà khoa học ngày nay, kiểu thoái hoá. Theo hiểu biết của ngành khoa học hiện đại,
thì Vụ Nổ Big Bang đã xẩy ra cách nay những 13,7 tỷ năm trời, rồi còn gì. Thế
nhưng, tháng ngày được ghi trong đống tro tàn mảnh vụn của nền khoa-học dân-tộc
Maya lại thấy những tháng ngày ngược ngạo đến tỷ tỷ năm xưa hơn thế. Lịch của
sắc dân này bới những cân-đong-đo-đếm như thế chỉ để dõi theo khoảng cách sai
biệt quá xa vời đối với hệ thống viết nên lịch chưa từng triển khai khi nào.
Thành thử, như quý vị thấy đó, chẳng có cái-gọi-là tận thế hay tận mạng gì hết
cả. Đấy chỉ là ý niệm vẩn vơ tương đương với chuyện quên không lấy lại đồng hồ
báo thức, chỉ thế thôi.”
(x. au.news.yahoo.com/world/a/-/world/15636301/why-didnt-the-world-end-yesterday 14/12/2012)

Thật đúng như phim tập! Phim, là phim về sự sống trên hành tinh mang tên địa cầu,
cũng rất rầu. Thế nghĩa là một số bà con ta hết chuyện để bàn rồi, bèn chui vào
địa hạt khoa học không gian với khoa chiêm tinh/bói toán rồi đồn rồi đoán. Đoán
thật hay đoán giả thế nào không biết, nhưng cũng đã làm nhiều người bấn loạn
lên, hết tự tử, rồi lại bắn giết các trẻ bé ở trường Mẫu giáo nọ, đến nực cười.

Thế nhưng, chuyện đáng cười của người đời không chỉ là đoán già đoán non ngày
thế tận. Mà là, những ý tưởng vẩn vơ, chết chóc, tựa hồ lời thơ với ca nhạc như
nghệ sĩ nọ vẫn từng hát:

“Tội nghiệp thằng bé cứ nhớ thương mãi quê nhà.


Giàn thiên lý đã xa, đã rời xa.


Đứa bé lỡ yêu, đã lỡ yêu cô em rồi.


Tình đã quên mỗi sớm mai lặng trôi.”

(Paul Simon – bđd)

Quả là, mỗi sớm mai im lặng trôi, tình quên thật. Người cứ mải quên sót mọi thứ
tình, để rồi luận bàn mãi những điều ít thấy, ít xảy ra. Chẳng thế mà, đấng bậc
nọ đã phải lên tiếng cả trong nhà thờ, qua bài chia sẻ rất nổi cộm như sau:

“Cuối năm 1999, dân chúng khắp nơi chừng như vẫn hối hả, ưu tư khi thế giới đang từ từ bước dần vào những ngày đầu của thiên niên kỷ mới. Có người dựa vào Phúc âm, để quyết đoán rằng: ngày thế tận đã gần kề. Và, Đức Kitô nhất định sẽ quang lâm giáng thế một lần nữa, vào ngày sinh thứ 2000 của Ngài.

Những ai quả quyết chuyện này, xem ra đã liên tưởng đến câu ngạn ngữ mà các cụ ngày xưa vẫn dặn dò: hãy luôn đặt mình vào tình huống xấu nhất, để rồi từ đó mình mới tự tìm cách thoát ra, mà đi vào chốn lạc quan, đầy ân huệ. Thật ra, Đạo Chúa đã bước vào chốn lạc quan niên lịch từ thế kỷ thứ tư, sau công nguyên. Đúng hơn, đấy là năm 526 tại La Mã, tu sĩ uyên bác tên là Dionysius Exiguus đã dày công nghiên cứu các niên biểu ghi rõ ngày Đức Giêsu sinh ra, tử nạn và sống lại để biên
soạn làm niên lịch cho Hội thánh.

Nhiều năm sau, ông đã định ngày cho các nghi lễ phụng vụ để rồi đúc kết thành một bộ gọi là lịch Hội thánh. Với các dụng cụ sơ sài tự kiếm, một thày dòng chuyên tu như thày Dionysius làm được niên lịch Hội thánh như thế, cũng là chuyện phi thường, hiếm thấy. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào các nguồn sử liệu bên ngoài và nhất là vào Tân Ước, khi kể về các vị cầm quyền Do Thái và La Mã ở Palestine, thì dứt khoát là lịch của Dionysius đã đi trễ, những 4 năm.

Đến năm 1582, Giáo hội biết rõ những sơ hở này, đã định sửa đổi. Tuy nhiên nếu sửa, thế giới sẽ phải bỏ phí đi, mất 4 năm. Chung cuộc, đã có quyết định là ta cứ để vậy. Như thế, tính đúng thực tại, phải thừa nhận rằng ngày Đức Giêsu quang lâm, lẽ đáng phải là năm 1996, chứ không phải 2000, như số dân con nhà Đạo từng khẳng định. Thêm một thực tế khác nữa, là: mỗi khi bắt đầu kỷ nguyên mới, tín hữu Đạo Chúa lại  được nghe kể về điềm thiêng dấu lạ trên mặt trời, mặt trăng cùng các ngôi sao, tinh tú. Rồi đến, thiên tai hạn hán mất mùa, động đất sóng thần, cứ liên tục
xảy đến. Và, người dân ngoan hiền ở quận huyện lại sẽ cho rằng: ngày Chúa tái
lâm đã gần kề. Tuy nhiên, rõ ràng là ta vẫn chờ. Và, vẫn cứ chờ.

Nếu ai muốn xác minh về điềm báo khốc liệt như thế, có lẽ nên nhớ lại lời dặn dò của Chúa hôm trước: “Các con chẳng thể biết được thời gian và nơi chốn khi Con Người đến trong vinh quang.” Chính vì lời dặn này, mà cộng đoàn thánh Luca nghĩ rằng Đức Kitô sẽ nhanh chóng quang lâm, trong tương lai gần. Ngài sẽ đến lại trong huy hoàng, lộng lẫy. Thời gian vẫn cứ trôi. Điềm báo, dấu hiệu vẫn cứ đến. Và, cộng đoàn tiên khởi lúc đó mới vỡ lẽ rằng: ngày Chúa quang lâm không mang mốc chặng thời gian và không gian gì rõ rệt hết.

Thực tế cho thấy: thời gian và không gian luôn thuộc về Ngài. Hy vọng đợi chờ từ nơi tín hữu thời ban sơ đã phản ảnh tình huống bách hại, những là khổ đau. Tín hữu Đạo Chúa nay đà hiểu rõ: chẳng thể tuyên xưng lòng tin vào Đức Kitô một khi hành vi, cuộc sống của mình không phản ảnh được sự sống ở Nước Trời, Ngài hằng nói đến. Đó là mấu chốt của niềm tin. Đó mới là mốc chặng của Tin Mừng mặc khải.

Nói rõ hơn, nếu tín hữu Đạo Chúa sống và thực hiện điều Đức Kitô truyền dạy nơi Tin Mừng, bằng và qua cuộc sống thường nhật, thì chắc chắn thế giới này cần phải đổi thay. Thế  giới này sẽ có thay đổi. Thay đổi rất nhiều. Thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Và khi đó, Đức Kitô mới quang lâm trong huy hoàng lộng lẫy, như mọi người chờ mong.

Cho đến nay, chưa nắm rõ được ngày giờ thế giới nhân trần đã đi vào giai đoạn tận tuyệt chưa. Nhưng ở đây, vào những giây phút đầu của niên lịch Hội thánh, ta biết rõ được hai điều: Đức Chúa sẽ trở lại bất cứ lúc nào khi ta thực hiện được tình yêu thương – tha thứ. Khi ta biết san sẻ tài sản ta có. Và, biết xót xa, độ lượng. Biết hy sinh cho những người có nhu cầu hơn ta. Thứ đến, vào ngày quang lâm Ngài đến lại, có thể sẽ không có hiện tượng mặt trời mặt trăng quay cuồng, nhảy múa. Và có thể,
cũng chẳng thấy hiện tượng thủy triều dâng sóng ngút ngàn, đâu. Và cuộc đời ta
vẫn cứ phẳng lặng. Vẫn trĩu nặng tình thương yêu, như trước.

Thực tế Nước Trời quang lâm đang diễn tiến. Quang lâm chính là lúc tình yêu dũng cảm của bậc cha mẹ đối xử với con. Quang lâm, là lòng thương yêu triển nở của vợ hoặc chồng đang diễn tiến với người phối ngẫu yếu đau.

Quang lâm còn là, lòng cảm thương yêu giúp đỡ của thế giới đã phát triển đang đùm bọc các quốc gia nghèo, thuộc thế giới thứ ba. Đại để là, mỗi khi ta có được những tình thương cao cả như thế, thì Vương quốc Nước Trời đã nguy nga, tráng lệ đủ để chứng minh rằng những điều Đức Giêsu loan báo về việc Ngài quang lâm, vẫn đến với chúng ta mỗi ngày, mỗi giờ. Ở mọi nơi, vào mọi lúc.” (xem Lm Richard Leonard, Suy Niệm Lời Chúa Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Vọng Năm C 02/12/2012 Bản Tin Giáo xứ Fairfield, Úc)

Có thể là bà con ta cứ mải bàn luận những chuyện tréo cẳng ngỗng như thế là do
hiểu không hết ý nghĩa của lời thánh hiền khi xưa từng viết:

“Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao.

Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang

trước cảnh biển gào sóng thét.

Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc,

chờ những gì sắp giáng  xuống địa cầu,

vì các quyền lực trên  trời sẽ bị lay chuyển.”

(Lc 21: 25-26)

Hiểu sự đời như thế, có khác nào người nghệ sĩ lại cứ viết:

“Này! Nàng hỡi nhớ may áo cho người.


Giàn Thiên lý đã xa tít mù khơi.


Tấm áo cắt ngay, đã cắt trên khăn lụa là.


Là, chiếc chăn đắp chung những ngày qua.”

(Paul Simon – bđd)

Chăn đắp chung, những ngày qua”, có phải là những tư tưởng buồn sầu ảo
não, vì tin vào ngày chấm hết của thế giới? “Giàn thiên lý đã xa tít mù khơi”,
phải chăng là cõi đất trời nay, tít mù tắp?

Để giải đáp, lại xin nghe những lời của đấng bậc thượng thừa, rất như sau

“Anh chị em có bao giờ về thăm nông trại nào đó vào một mùa hè nóng bỏng không? Nếu có, chắc anh chị em cũng có kinh nghiệm không ít về chuyện khan hiếm nước, như thế nào. Bản thân tôi, có nhiều dịp từng về quê thăm nông trại của ông chú ruột. Lúc ấy, chúng tôi gồm chừng 6, 7 người anh em họ, phần đông sống ở thị thành, về đây lưu lại sống trọn kỳ nghỉ. Một lần về là một lần thấy vui. Duy có điều mà chúng tôi cứ nhắc nhau mãi: phải cẩn trọng, khi sử dụng nước! Dường như, chúng ta quen sử dụng lượng nước tắm gội bao giờ cũng gấp đôi dung lượng của người anh em sống ở vùng sâu vùng xa, nơi thôn xóm.

Tôi nhớ mùa hè năm ấy ở miệt dưới, bà con chúng ta đã phải trông chờ hầu như suốt chín tháng trời ròng rã vẫn không thấy một giọt rơi vãi những nước mưa. Mãi về sau, vào buổi bóng xế hôn hoàng hôm đó, chúng tôi mới thấy cảnh “thuở trời đất nổi cơn gió bụi”. Và, từng đám mây vần vũ từ đâu đến. Chốn thiên đàng như rộng mở. Và sau đó, từng khối và từng khối nước ào ào trút xuống đến độ chúng tôi không biết
lấy gì để hứng. Tựa như một hoạt cảnh, anh em chúng tôi vụt dậy chạy nhanh ra
đứng ngồi nơi lộ thiên, quyết vui hưởng ơn mưa móc tràn đầy những nước và nước.
Chẳng một ai muốn cất nên lời. Anh em chúng tôi, đứng đó tận hưởng những giọt
vắn giọt dài, đầy ân sủng. Mình mẩy chúng tôi ai nấy đều ướt sũng như chuột
trong hang ngập nước, nhưng vẫn cứ đứng mà đón nhận ơn mưa móc. Vạn vật, chừng như chỉ mong mỗi một điều là được triền miên tắm gội, toàn bằng nước .

Trong thư thánh Giacôbê tông đồ, hình ảnh mong chờ cơn nước lũ đổ xuống trên ta, được coi như ví dụ để hiểu rõ thế nào là sự chờ đợi ngày Đức Kitô đến lại. Đây, là hình ảnh sắc nét nhất, về Vọng chờ. Mỗi năm, vào mùa này, ta đều liên tưởng đến cảnh trí, qua đó nhân loại ao ước chờ mong dấu hiệu về cuộc sống mới, nơi Giêsu Đức Chúa.

Nhiều thế hệ cứ thế trôi qua, nhưng dân con nhà Đạo vẫn ngước mắt nhìn lên bầu trời rộng mở, ngong ngóng/kỳ vọng có được dấu hiệu nào đó cho thấy: hôm nay là ngày ơn cứu độ của Đức Chúa đổ tràn hồng ân, cho muôn dân. Thế rồi, vào buổi tối trời hôm ấy, theo cách thức không ai có thể mường tượng được; không kèn không trống, một Hài Nhi đã lao vụt về với thế giới gian trần, để lập nên triều đại cuối cùng, cho tình yêu của Đức Chúa.” (xem Lm Richard Leonard sj, Suy Niệm Lời Chúa , Chúa Nhật thứ 3 Mùa Vọng năm C, Bản Tin Giáo xứ Fairfield Úc 16/12/2012)

Nói gì thì nói, bàn gì thì bàn, hỡi bạn và hỡi tôi, ta cũng chỉ nên bàn bằng các câu truyện kể nhè nhẹ về tình yêu, hy vọng và niềm tin còn đứng vững như sau:

“Ngay từ khi lọt lòng mẹ, bác sĩ đã quả quyết rằng Kimberly Marshall không thể nào sống được. Bé bị chứng Cytic Fibrosis, một chứng bịnh bẩm sinh và di truyền mà người ta thường gọi tắt là CF. Trong sự tuyệt vọng để cứu sống con mình, mẹ của Kim đã mang bé về nhà, mỗi ngày ba bốn giờ, bà và bà ngoại của Kim đã thay phiên nhau vỗ nhẹ trên lưng và ngực của bé, với hy vọng mong manh là có thể làm tan đi những cục đờm đang đóng nghẹt trong phổi của bé. Một bác sĩ chuyên khoa về CF cho biết, diệt trừ những cục đờm bằng cách này, chẳng khác gì dùng chổi để quét mật ong trên sàn nhà.

Ngoài sự dự liệu của mọi người, bé Kimberly đã thoát được lưỡi hái của tử thần. Bé lớn lên và vào trường tiểu học.

Kim còn học vũ ballet và gia nhập đội soccer của trường. “Kìa nhìn xem công chúa của tôi” mẹ của Kim thường hãnh diện nói như vậy, mổi khi bà đứng bên lề sân cỏ để xem Kim đá bóng.

Bà vẫn mơ ước là Kim sẽ lớn lên bình thường nhưng những đứa trẻ bình thường khác. Bà mơ ước rằng Kim sẽ lên trung học, sẽ tham dự buổi khiêu vũ cuối năm lớp 12, và một buổi tối sẽ ngẩng mặt lên để đón nhận nụ hôn đầu của một chàng thanh niên đẹp trai.

Nhưng bác sĩ Robert Kramer, vị bác sĩ chuyên khoa về CF đầu tiên tại Dallas, đã nhiều lần khuyến cáo mẹ của Kim là cô bé chỉ tạm thời lướt thắng được cơn bịnh mà thôi. Giống như một tên sát nhân nguy hiểm, các bác sĩ chưa có phương cách để ngăn chận được CF. Mặc dù với nền y khoa hiện đại cùng thuốc men và máy móc tối tân, cũng chỉ giúp các bệnh nhân dễ chịu hơn, ít đau đớn hơn mà thôi. Tuổi thọ trung bình của các bệnh nhân CF chỉ ở vào khoảng 29.

Ðúng như lời của bác  sĩ Kramer, sức khoẻ của Kim tự dưng tuột dốc như một cái phao bị xì hơi. Mẹ của Kim, không còn cách nào hơn, bắt buộc phải mang Kim vào bệnh viện Presbyterian tại Dallas để chữa trị. Và cứ như vậy, Kim chỉ khoẻ được vài tháng, rồi lại phải vào bệnh viện…, lại khoẻ vài tháng rồi lại vào bệnh viện.

Trong những lần phải nằm bệnh viện, Kim luôn luôn mang theo những con thú nhồi bông, cái chăn màu  hồng mà cô bé thích nhất, cùng quyển nhật ký thân yêu. Mỗi khi chứng kiến một bạn cùng phòng bị CF cướp đi mạng sống, Kim lại viết vào nhật ký của mình, chẳng hạn như: “Wendy đã chết vào lúc 8 giờ sáng nay. Tội nghiệp nó quá. Nó đã đau đớn suốt đêm”. Mẹ của bé đã nghĩ thầm “Có lẽ đây là cách Kim
chuẩn bị cho những gì có thể xảy ra cho cô bé trong tương lai chăng?”.

Trong một thời gian, Kim đã cố gắng sống như một đứa trẻ “bình thường”. Cô thường hay gọi những đứa trẻ may mắn không bị chứng CF là “bình thường”. Trong những năm ở trung học, Kim đã cố gắng để lấy điểm A hay B. Cô mặc áo đầm dài để che giấu đôi chân gầy guộc, khẳng khiu của mình. Khi những bạn học hỏi về những cơn ho không dứt của cô, thì Kim trả lời rằng cô bị hen suyễn. Cô cũng chở những
bạn gái khác trên xe hơi của mình, cũng bấm còi inh ỏi, cũng vẫy tay chào và
cười duyên với bọn con trai cùng trường.

Nhưng Kim vẫn không thể lừa dối được thực tế. Bộ tiêu hoá của cô đặc nghẹt những đờm, khiến cô bị đau bụng và tiêu chảy. Thần kinh bị xáo trộn nên Kim đi đứng không vững. Ðôi khi Kim cũng bị hoa mắt.

Cuối cùng, cuối năm lớp 12, Kim phải rời trường để học tại gia vì sức khoẻ của cô quá yếu. Trong một phút nản lòng, Kim đã từ chối không muốn hình của mình được đăng trong kỷ yếu của trường, viện cớ là cô quá ốm yếu và xấu xí. Chán chường, Kim trở nên gắt gỏng với mọi người và hay cãi cọ hoặc xung đột với em gái của mình. Ðể giải sầu, Kim xem đi xem lại bộ phim “Blue Lagoon” không biết bao nhiêu
lần. Bộ phim nói về cuộc đời của hai đứa trẻ, một trai một gái, bị đắm tàu và
sống bơ vơ trên một hoang đảo. Cuối cùng, hai người đã yêu nhau tha thiết.

David Crenshaw, một bệnh nhân CF, đã để ý đến Kim khi hai người còn điều trị tại bệnh viện Presbyterian vào mùa xuân 1986. Kim, ở tuổi 16, ốm và xanh xao nhưng không thiếu nét dễ thương với mái tóc đỏ ngang lưng, buông xoã trên chiếc áo ngủ
hồng. David, lúc đó 18, mặc áo thun rộng thùng thình, quần pajama bạc màu, mang
cặp kiếng cận to tổ bố với hai gọng kính gãy được dán lại với nhau bằng miếng
băng keo.

“Ðừng hy vọng con bé để ý đến mày”, Doug Kellman, người y tá trong bệnh viện thường trêu David như vậy mỗi khi bắt gặp David đang mê mẩn nhìn trộm Kim. Thật tình mà nói, khó có thể tưởng tượng được David và Kim sẽ trở nên một cặp tình nhân. Kim thích quần áo đắt tiền, nước hoa và mỹ phẩm. Cô thích ngồi hằng giờ trên giường để đọc tiểu thuyết tình cảm. Trong khi đó, David nổi tiếng thích lấy le với
những cô gái bằng những mầu chuyện vui tục tằn.

Trông có vẻ yêu đời và khoẻ mạnh, David là một huyền thoại của khu CF. Không một bệnh nhân nào thuộc khu CF dám làm những việc David đã làm. Chẳng hạn như khi David không phải nằm bệnh viện, anh rất thích đua xe hơi mini tại sân đua gần nhà. “Mục đích của chúng tôi là giúp cho David sống như một đứa trẻ khỏe mạnh. May ra nhờ vậy, nó có thể lướt thắng được căn bịnh hiểm nghèo này”, ba của David đã nói như vậy.

Ðúng thế, David không  bao giờ biểu lộ cho người khác biết là mình bị bệnh. Anh đã tổ chức cuộc đua xe lăn và cuộc thi ném cà chua trên từng lầu 3 của bệnh viện. Có một đêm, David đã dẫn một số bệnh nhân CF đi đua xe mini, trong sự giá lạnh của mùa đông với nhiệt độ bên ngoài xuống gần 0 độ bách phân. “Có lẽ hắn nghĩ rằng hắn bất tử”, bác sĩ Kramer thường đùa như vậy.

Trong suốt hai năm  trời, David thường đi qua cửa phòng của Kim, lấy can đảm vào phòng, tán tỉnh. Nhưng Kim chỉ mỉm cười rồi lại cắm cúi đọc sách. Nhưng David chẳng nản lòng. “Khi David được ở nhà trong khi Kim phải ở lại bệnh viện, David thường hay gọi điện thoại cho tôi để hỏi han bệnh tình của Kim, mặc dầu Kim chẳng bao giờ để ý đến David. Ngay cả những khi David hỏi giờ, Kim cũng không thèm đáp lại”, người y tá cho biết như vậy.

Một điều ngạc nghiên, rất nhiều mối tình đã được kết hợp trong khu CF. “Ðừng nghĩ rằng chỉ vì họ bệnh hoạn mà họ không nghĩ đến tình yêu”, bác sĩ Kramer nói như vậy, “Có lẽ họ nghĩ đến tình yêu còn nhiều hơn những người khoẻ mạnh. Ðó là một
cách để họ biểu lộ sức sống và sự yêu đời của họ cho mọ người biết”.

Vào cuối năm 1988, Kim  chơi thân với một bệnh nhân cùng khu CF tên là Steven. “Tôi không nghĩ mối tình của họ sẽ bền vững. Họ sợ phải sống với nhau”, David khẳng định như vậy. Ðúng như lời David, cuộc tình của Kim và Steven chỉ một sớm một chiều đã tan vỡ.

Cuối mùa thu năm 1989, khi David và Kim, cả hai cùng được dưỡng bịnh tại tư gia, David đã gọi điện thoại mời Kim đi ăn tối. Mặc dù Kim đã quyết liệt từ chối, David vẫn lì lợm bảo Kim “Anh sẽ có mặt tại nhà em vào lúc 8 giờ tối, không nhưng không nhị gì hết cả”. Hoảng sợ, Kim rủ theo cô em gái, Pettri, để cô em ngồi ghế trước
với David còn nàng thì ngồi băng sau, nhất định không thèm nói chuyện với
David. Suốt bữa ăn, Kim hoàn toàn im lặng.

Nàng đã trợn mắt lên với David khi anh đề nghị cả ba cùng đi khiêu vũ. Khi David đưa Kim về đến nhà, nàng mở cửa xe và chạy một mách thẳng lên phòng, đóng kín cửa lại.

Dù vậy, David vẫn không bỏ cuộc, lì lợm, trường kỳ mặt dày đến nhà Kim. Thế rồi anh đã rủ được Kim đi chơi bowling. Sau đó, Daivid còn dẫn Kim đến sân đua để xem anh đua xe hơi mini.

Bất kể mọi chuyện, cuối cùng mối tình của David và Kimberly cũng đã nảy nở. Kim đã thật sự yêu David. Ngày 17 tháng 11 năm 89, Kim đã viết vào nhật ký của mình “Ðêm hôm nay, mình và David đã hôn nhau lần đầu. Lạy Chúa, xin chúc phúc cho mối tình của chúng con và xin cho chúng con yêu nhau mãi mãi”.

Sáu tháng sau, Kim và David tuyên bố làm lễ đính hôn. Tin được tung ra làm tất cả mọi người trong gia đình hai bên đều sửng sốt và bàng hoàng. “Tụi mày điên cả rồi, cả hai đứa bay đều bệnh hoạn”, ba của David đã lớn tiếng ngăn cản con. Riêng mẹ của Kim cũng khuyên ngăn con bằng một giọng đầy nước mắt “Con có biết rằng một
trong hai đứa sẽ chết trong vòng tay của đứa kia hay không?”.

Nhưng Kim và David vẫn quyết định lấy nhau. “Tôi nghĩ Kim biết rằng đây là cơ hội cuối cùng để nó được yêu”, mẹ của Kim cuối cùng đã nói như vậy và đã đồng ý tán thành cuộc hôn nhân.

Ngày 27 tháng 10 năm 1990, Kim trong chiếc áo cưới trắng tinh, sung sướng bước lên cung thánh, trước mặt Thiên Chúa nhận David làm chồng. Thánh lễ được cử hành trong những tiếng ho sặc sụa của các bệnh nhân khu CF. Tất cả được mời đến để tham dự, chứng kiến và chung vui ngày hôn lễ của Kim Marshall và David Crenshaw.

Họ chung sống với nhau bằng số tiền cấp dưỡng khiêm nhường trong một căn hộ nhỏ bé nhưng rất ấm cúng. Căn hộ được trang bị như một bệnh viện với những bình dưỡng khí, một tủ đầy thuốc và một tủ lạnh chứa đầy nước biển.

Việc dọn dẹp nhà cửa mới thật là khó khăn. Những khi phải dọn dẹp hoặc giặt giũ, họ phải mất cả ngày trời mới làm xong việc. Ðến tối, cả hai đều mệt lả. Dầu vậy, họ là cặp vợ chồng hạnh phúc nhất trên đời. David gọi Kim là “cọp con” vì nàng có mái
tóc hung đỏ.  Kim gọi Daivid là “gấu rừng” vì chàng phá như gấu. Chàng luôn luôn mua cho nàng những tấm thiệp ướt át nhất, càng ướt át bao nhiêu, càng tốt bấy nhiêu. Nàng luôn luôn viết cho chàng những bức thư tình thật dài, thật nồng nàn và tình tứ. “Chúng ta sẽ vượt qua mọi thử thách. Chúng ta sẽ thắng”, họ thường quả quyết với nhau như vậy.

Ðể kiếm thêm tiền tiêu vặt, David nhận thêm việc sửa xe hơi mini. Anh lại còn ghi tên học để lấy bằng Cử nhân về kế toán. Một người bạn thân ở khu CF khuyên David không nên phí sức. “Những việc tôi làm tất cả chỉ vì Kim. Ðời tôi bây giờ chỉ có Kim mà thôi”, David trả lời.

Vào năm 1992, những mạch máu trong người Kim bắt đầu tắt nghẽn. Vì cơ thể Kim không thể tiếp nhận những dinh dưỡng từ bộ tiêu hoá, Kim đã xuống cân một cách thảm hại. Thân thể nàng chỉ còn da bọc xương. Nàng rất xấu hổ khi tới những nơi công cộng. David đã viết cho Kim “Này cọp con, em là người đẹp nhất của đời anh. Anh yêu em bằng tất cả con tim, linh hồn và khối óc củ anh. Gấu rừng”.

Trong những lần Kim phải nằm bệnh viện, David không rời Kim nửa bước. Anh đã ngủ trên chiếc ghế bố kê trong phòng. Ðể giúp Kim khuây khoả, David đã đưa Kim đến khu sơ sanh, để Kim được ngắm những đứa trẻ mới chào đời. Và nếu nửa đêm Kim có đòi ăn kẹo, David chẳng ngần ngại, bất kể thời tiết, khoác áo đi mua ngay những viên kẹo mà Kim ưa thích. Lạ lùng thay, sức khoẻ của Kim càng ngày càng khá hơn. Cuối cùng, nàng đã được bác sĩ cho xuất viện.

Ðầu năm 1993, bệnh tình của David bỗng dưng trở nên trầm trọng. Những tiếng ho của anh lớn hơn. David ôm ngực ho từng cơn, ho sặc sụa. Những cơn ho như muốn phá vỡ tung lồng ngực của anh. Mặt David sưng lên như bị phù thủng. Dần dần, David đã phải thở bằng dưỡng khí. Nhưng David vẫn đoan chắc với Kim là chàng chẳng sao cả, chỉ cần tĩnh dưỡng ít lâu là sẽ khỏi. David đã giấu Kim những điều mà bác sĩ Kramer đã cho anh biết trong kỳ khám nghiệm mới đây: phổi của anh đã rách nát, thanh quản sắp nghẹt cứng. David đang chết lần, chết mòn vì thiếu dưỡng khí.

Chạy đua với thời gian, David không để lãng phí một giây phút nào. Tháng 7 năm 1993, để kỷ niệm sinh nhật thứ 26 của chàng và thứ 24 của nàng, David rủ Kim đi nghỉ hè ở bãi biển Florida. “Ðó là lần đầu tiên họ cảm thấy rất thoải mái khi ra khỏi
nhà để tới vùng biển. Cả hai đều mang theo bình dưỡng khí. Họ ngồi bên nhau,
nắm tay nhau trên bãi cát vàng”, Mandy, em gái Kim cho biết như vậy.

Ba tháng sau, David và Kim cùng đi khám bệnh. Trong khi Kim đợi ở phòng bên, bác sĩ Kramer, sau khi khám cho anh, đã nói với anh rằng “Anh phải nhập viện ngay tức khắc, lần này sẽ hơi lâu”. David trầm ngâm một hồi lâu, rồi nói “Xin bác sĩ tận tình chăm sóc cho Kim”.

Bác sĩ Kramer đến phòng Kim và cho nàng hay tin chẳng lành. Kim cúi đầu yên lặng, cố giấu hai hàng nước mắt “Xin bác sĩ tận tình giúp anh, đừng để anh phải đau
đớn”, nàng nức nở khẩn nài với bác sĩ Kramer.

Trong suốt ba mươi năm chuyên khoa về CF, bác sĩ Kramer đã từng chứng kiến hơn 400 bệnh nhân trẻ qua đời. Ðể khỏi bị ám ảnh, ông đã cố gắng không để tình cảm mình bị chi phối với những trường hợp như của David. Nhưng lần này, ông đã ôm Kim vào lòng và ông không sao cầm được nước mắt của mình.

David nhập viện ngày 21 tháng 10 năm 1993. Kim ngồi bên cạnh anh. Nàng đã cố gắng viết một bức thư cho Hội Ðồng Y Khoa của bệnh viện Presbyterian, khẩn nài xin họ thay phổi cho David. Nhưng Kim không bao giờ viếc xong lá thư.

Năm ngày sau, môi và móng tay của David trở nên bầm tím. Kim thổn thức bên anh “Anh ơi, đừng đi, đừng bỏ em”. David không nói nên lời, chỉ mấp máy đôi môi “Anh
yêu em”, rồi chàng gởi cho nàng một nụ hôn gió. Hai người cầm tay nhau
thật chặt, nhìn nhau một lần cuối thật lâu. David bóp mạnh tay Kim rồi nhắm mắt
yên giấc ngàn thu.

Sau ngày tang lễ của David, Kim trở nên điên loạn. Một tuần sau, mẹ nàng đưa nàng trở lại bệnh viện. Sau khi khám cho nàng, bác sĩ Kramer nói với mẹ nàng “Cơ thể của nàng đã kiệt lực. Kim đang chết mòn vì nhớ thương David”.

Rồi Kim rơi vào trạng thái nửa tỉnh, nửa mê trong hai ngày. Bỗng nhiên, vào sáng sớm ngày 11 tháng 11 năm 1993, Kim trở nên tỉnh táo lạ thường. Nàng mở mắt và nói bằng một giọng rất lạ, nhẹ nhàng như tiếng chim mà không ai hiểu nổi. Người nữ y tá chăm sóc nàng cho biết hình như Kim đang nói chuyện với David. Sau đó, Kim từ từ nhắm mắt, bình thản ra đi về bên kia thế giới.

Kim được liệm trong chiếc áo cưới trắng và được chôn bên cạnh David. Trên ngôi mộ đôi, dựng một tấm bia đá, với những hàng chữ được khắc sâu như sau “David S (Gấu rừng) Crenshaw và Kim (Cọp con) Crenshaw, bên nhau mãi mãi. Nghĩa phu thê trọn 3 năm”.

Gia đình và bạn bè đều đồng ý là chuyện tình của Kim và David không giống bất cứ một chuyện tình nào cả. Riêng bác sĩ Kramer đã tâm sự “Ðối với tôi, chuyện tình của họ như chuyện tình của Romeo và Julliette”.

Một tuần lễ sau, trong lúc mẹ của Kim thu dọn đồ đạc của hai con, bà đã tìm thấy một tấm thiệp mà David đã gởi cho Kim trước khi chàng rời bỏ thế gian. Tấm thiệp có những lời tình tự như sau “Em yêu, chúng ta gần nhau ngay cả khi chúng ta xa nhau. Hãy ngước mắt nhìn lên, chúng ta đang sống trong bầu trời đầy tinh
tú.”
(x. Trần Quốc Sỹ, theo “The Love Like No Other” Reader’s Digest, May 1995)

Truyện kể hôm nay, người kể không ghi thêm một lời bàn nào hết. Nhưng bàn thêm
mà làm gì. Bởi, cũng như câu chuyện về ngày sau hết của thế giới, cũng chẳng
cần bàn tán nhiều mà làm gì, chỉ cần cảm nghiệm là đủ. Cũng thế, truyện kể về
tình yêu thương, trước khi đi vào cõi hết, cũng đại để như truyện kể về ngày
thế tận.

Hôm nay đây, bàn về câu chuyện loanh quanh ngày thế tận, lại có người đến gần
bần đạo, đưa ra một câu hỏi nhỏ: “Nếu anh biết rằng ngày mai là ngày
thế tận, thì anh tính sao?”
Bần đạo nhớ mang máng câu trả lời/trả vốn
của mình chỉ thế này: “Khi ấy tôi cũng sẽ lấy giấy bút ra để viết đôi giòng
phiếm ngăn ngắn về những cảm nghiệm của mình trước khi không còn có khả năng để cầm bút mà viết nữa. Và chuyện phiếm tôi viết khi ấy, cũng chẳng có gì để ai
đọc, vì chẳng còn ai để đọc nữa, nhưng vẫn còn người để viết, ấy là tôi.”


Trần Ngọc Mười Hai


Và đôi giòng tưởng tượng về ngày tận cùng
của thế giới và cuộc đời.

Maria Thanh Mai gởi