Tại sao người Công giáo cầu nguyện với các Thánh ?

Tại sao người Công giáo cầu nguyện với các Thánh ?

Cũng như các Kitô hữu, người Công giáo tin có sự sống đời sau, nhưng học cũng tin rằng mối quan hệ của chúng ta với các Kitô hữu khác không chấm dứt vì sự chết. Người Công giáo cầu nguyện với các thánh là nhận thức sự hiệp thông này.

*  Người Công giáo có tin là các thánh nên được tôn kính?

*  Tại sao người Công giáo cầu nguyện với các thánh?

*  Có khác nhau giữa cầu nguyện và tôn thờ?

Trả lời:

1. Hiệp thông với các thánh.

Cũng như các Kitô hữu khác, người Công giáo tin có sự sống sau sự chết. Họ sống tốt và chết trong niềm tin vào Đức Kitô sẽ được chia sẻ sự phục sinh của Ngài, như Kinh thánh đã cho chúng ta biết.
Khi sống với nhau trên trái đất với cương vị Kitô hữu, chúng ta cùng hiệp thông hoặc liên kết với nhau. Nhưng sự hiệp thông đó không chấm dứt cả khi chúng ta chết. Chúng ta tin rằng mọi Kitô hữu trên trời, chư thánh, vẫn hiệp thông với chúng ta còn trên dương thế. Như vậy, khi chúng ta xin bạn bè hoặc gia đình cầu nguyện cho chúng ta, chúng ta cũng có thể đến gần một vị thánh bằng lời cầu nguyện.

2. Sự khác nhau giữa cầu nguyện và tôn thờ.

Thật sai lầm khi nhiều Kitô hữu cho rằng người Công giáo không nên cầu nguyện với các thánh, chỉ nên cầu nguyện trực tiếp với Thiên Chúa. Một số người Công giáo phản ứng với cách phê bình này và tranh luận rằng chúng ta không cầu nguyện với các thánh mà cùng các thánh cầu nguyện.
Tuy nhiên, cả hai nhóm đều lẫn lộn với cầu nguyện và tôn thờ. Tôn thờ thực sự (ngược với sự sùng kính hoặc tôn kính) chỉ thuộc về Thiên Chúa, và chúng ta không bao giờ tôn thờ con người hoặc bất kỳ một thụ tạo nào mà chỉ tôn thờ Thiên Chúa. Nhưng khi sự tôn thờ có dạng cầu nguyện, như trong Thánh lễ và các nghi thức phụng vụ khác của giáo hội, không phải tất cả mọi lời cầu nguyện là sự tôn thờ. Khi chúng ta cầu nguyện với các thánh, chúng ta chỉ xin các ngài giúp đỡ chúng ta, bằng cách cầu nguyện với Thiên Chúa thay chúng ta, hoặc tạ ơn các ngài đã nguyện giúp cầu thay.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Catholicism.about.com)

ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II VÀ SỰ KIỆN PHATIMA

ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II VÀ SỰ KIỆN PHATIMA

Tác giả: Lm JB Nguyễn Minh Hùng

Trong cuộc đời làm giáo hoàng của mình, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cho thấy, ngài có một mối liên hệ mật thiết với sự kiện Phatima. Nhân dịp chuẩn bị mừng lễ Đức Mẹ Phatima, chúng ta dành một thoáng nhìn lại vài sự kiện nổi cộm liên quan đến Đức Mẹ Phatima, để từ đó, chúng ta nhận ra tình yêu của Mẹ Thiên Chúa, không chỉ nơi Đức Gioan Phaolô II mà còn trên cuộc đời từng người chúng ta.

I. BÍ MẬT PHATIMA.

Trước hết, ngày 26.6.2000, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II quyết định công khai hóa phần thứ ba (bí mật thứ ba) của sứ điệp Phatima – mà Đức Mẹ đã trao cho ba trẻ từ năm 1917 – bằng cách ủy quyền cho đức hồng y Joseph Ratzinger, Tổng trưởng Thánh Bộ Giáo lý Đức tin (sau này là giáo hoàng Bênêđictô XVI), công bố và giải thích cho toàn thể Hội Thánh (bí mật thứ nhất: mạc khải về hỏa ngục, bí mật thứ hai: mạc khải về chiến tranh thế giới lần II, đã được Đức Thánh Cha Piô XII công bố ngày 13.5.1942).

Nguyên văn bản dịch về bí mật thứ ba Fatima, do chính chị Lucia (một trong ba thị nhân nhìn thấy Đức Mẹ Phatima năm 1917) viết ngày 3 tháng 1 năm 1944 như sau:

“Con viết ra trong sự vâng lời Ngài, lạy Thiên Chúa của con, Ngài ra lệnh cho con làm việc nầy qua Ðức Giám Mục của giáo phận Leiria, và qua Ðức Maria, Mẹ Chúa và là Mẹ của con.

Sau hai phần (bí mật Fatima I và II ) mà con đã nói ra, chúng con đã nhìn thấy phía bên trái của Ðức Mẹ, và hơi cao hơn một chút, một Thiên Thần cầm một gươm lửa nơi tay trái; gươm nầy chớp sáng và chiếu ra những tia lửa dường như thể muốn đốt rụi thế giới; nhưng những tia lửa nầy bị tắt đi, khi gặp phải ánh sáng phát ra từ tay phải của Ðức Mẹ chỉ về phía Thiên Thần; Tay mặt của vị Thiên Thần chỉ vào trái đất, và vị Thiên Thần nói lớn: Ðền tội, Ðền tội, Ðền tội! Và chúng con đã nhìn thấy trong một ánh sáng bao la là Thiên Chúa: “một cái gì giống như thể người ta xuất hiện trong tấm gương khi họ đi ngang qua nó” một vị Giám Mục mặc Áo trắng, “chúng con có cảm giác như thể đó chính là Ðức Thánh Cha”. Nhiều vị giám mục khác nữa, những Linh Mục, những tu sĩ nam nữ, đang leo lên một núi dốc cao, trên chóp núi nầy có một cây Thập Giá lớn có thân sần sùi, giống như thể bằng cây sồi có vỏ cứng; trước khi lên đến nơi, Ðức Thánh Cha đi ngang qua một thành phố lớn phân nửa đã bị tàn phá và phân nửa bị rung động, Ðức Thánh Cha bước đi run rẩy, chịu đau đớn và sầu muộn, Ngài cầu nguyện cho những linh hồn của các người chết mà ngài gặp trên đường; khi lên đến chóp núi, quỳ gối phủ phục dưới chân Thập Giá lớn, ngài bị giết bởi một toán lính cầm súng bắn vào ngài và phóng các mủi tên vào ngài; và cũng bằng cách thức như vậy, hết người nầy đến người khác, các Giám Mục, linh mục, tu sĩ nam nữ và nhiều giáo dân thuộc hàng ngủ và địa vị khác nhau, cũng lần lượt bị giết chết nơi đó. Bên dưới hai cánh của Thập Giá, có hai Thiên Thần, mỗi vị cầm nơi tay một bình thủy tinh, trong đó các vị hứng máu của những người tử đạo, và dùng máu nầy rảy lên các linh hồn đang tiến lên gần Thiên Chúa”.

Đức Gioan Phaolô II tin rằng, mạc khải thứ ba của bí mật Phatima liên quan đến chính bản thân ngài. Đó là lời tiên tri của Đức Mẹ dành cho Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II: Hình ảnh vị “Giám mục áo trắng” chịu đau khổ và run rẫy, rồi bị bắn khi đang cố gắng tiến về phía thánh giá Chúa Kitô, đó là hình ảnh ngài bị giết vào ngày 31.5.1981.

II. TIN VÀO ĐỨC MẸ PHATIMA.

Trong cuộc bị mưu sát ngày 31.5.1981 tại Quảng trường thánh Phêrô, dù bị bắn đến bốn phát súng 9mm, và hai phát súng trúng thẳng vào người Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, nhưng Đức Thánh Cha không chết, Người bị thương nặng và đổ gục xuống giữa cả một rừng người đang được người tiếp kiến.

Chính kẻ bắn vào Đức Thánh Cha cũng hết sức ngạc nhiên, anh ta không thể hiểu được vì sao Đức Thánh Cha không chết. Sự kiện lạ thường ngoài sức tưởng tượng này, đã xảy ra đúng vào ngày kính nhớ Đức Mẹ hiện ra lần đầu tiên với ba trẻ ở Phatima, khiến Đức Thánh Cha nghĩ ngay đến Người Mẹ trên trời dấu yêu. Đức Thánh Cha kết luận: “Một người bắn, nhưng một người khác hướng dẫn đường đạn”. Và Đức Thánh Cha thêm: “Đức Mẹ Maria đã cứu sống tôi”.

Do sự kiện trên, đúng một năm sau ngày bị ám sát, Đức Thánh Cha đã hành hương đến Phatima để tạ ơn Đức Mẹ. Cũng vì thế, kể từ năm 2002, Đức Thánh Cha công bố ngày 13.5 hàng năm trở thành ngày lễ kính Đức Mẹ Phatima.

Cuộc đời của vị Giáo Hoàng thời danh Gioan Phaolô II, là một cuộc đời gắn kết mật thiết với Đức Nữ Trinh Maria, để cùng với Mẹ, tiến về Chúa Giêsu Kitô, con Mẹ. Bởi đó, nhìn vào cuộc đời của Đức Thánh Cha, ta không sợ sai lầm khi khẳng định: Người là vị Giáo Hoàng của Đức Mẹ, của riêng Đức Mẹ. Người đã làm tất cả mọi điều có thể để dâng kính Đức Maria, từ huy hiệu Giám mục, sau đó là huy hiệu Giáo Hoàng có khắc chữ “M”, chữ cái đầu của thánh danh Đức Mẹ, rồi khẩu hiệu Giám mục và Giáo Hoàng “Totus Tuus”, để nói lên lòng mong mỏi được Đức Mẹ cùng đồng hành, và phó thác cho Đức Mẹ đời mục tử của mình, đến sự kiện biểu lộ lòng biết ơn Đức Trinh Nữ, khi đặt lên chiếc triều thiên của tượng Đức Mẹ tại đền thánh Phatima ngày 13.5.1982, viên đạn lấy ra từ thân thể sau khi bị ám sát hụt, như một lời khẳng định với thế giới: Đức Mẹ đã che chở người thoát chết.

Càng tiến xa hơn nữa trong nghĩa cử tỏ lộ lòng yêu mến Nữ Vương Phatima, đó là cuộc hành hương cảm tạ tại đền thánh Phatima ngày 13.5.2000. Dịp này, Đức Thánh Cha còn nâng hai trẻ có liên quan trong sự kiện Phatima đã qua đời là Phanxicô và Giacinta lên bậc chân phước. Hành động phong chân phước những vị thánh trẻ này còn quan trọng hơn bất cứ lời khẳng định nào: Đức Mẹ đã thực sự hiện ra tại Phatima mà các thánh trẻ ấy là những thị nhân tỏ tường của Đức Mẹ, nay được vinh danh tren bàn thờ Hội Thánh.

Cũng trong ngày này, Đức Thánh Cha đã đặt dưới chân tượng Đức Mẹ Phatima chiếc nhẫn Giám mục quý giá do đức cố hồng y Stefan Wyszynski, Tổng giám mục thành Kracow dâng tặng lúc người được bầu làm Giáo hoàng ngày 16.10.1979. Như vậy, một lần nữa, Đức Thánh Cha tái khẳng định: Chính Đức Trinh Nữ Maria mới là người làm chủ triều đại giáo hoàng của người. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II là người con thật hiếu thảo, thật hoàn hảo, thật xứng đáng với tình yêu của Mẹ trên trời, Đấng mà người chọn làm bổn mạng trong suốt quảng đời làm mục tử, nhất là trong 26 năm rưỡi trên chức vị giáo hoàng.

Bằng những biểu lộ đức tin vào sự kiện Phatima, Đức Thánh Cha còn cho thấy tình thương cao cả của Đức Mẹ dành cho đoàn con trần thế. Bởi năm 1917 là năm mà chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), bước vào giai đoạn đỉnh điểm khốc liệt. Những cuộc tàn phá, đau khổ, chết chóc, tù đày… diễn ra khắp nơi. Sự viếng thăm của Đức Mẹ tại Phatima nói lên hết tất cả tình yêu của Mẹ Thiên Quốc đối với đoàn con trần thế đang lâm cảnh tối tăm, u uất, đớn đau là cả một niềm yên ủi, một ơn ban bình an, một sức mạnh lớn giúp đoàn con vượt thử thách.

III. KẾT LUẬN.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II là tấm gương cho chúng ta về lòng yêu mến Đức Mẹ. Suốt đời, ngài đã sống và hoạt động vì danh Chúa để làm người con thảo hiếu của Đức Mẹ. Đức Thánh Cha muốn hiến dâng mình hoàn toàn cho Đức Mẹ. Khẩu hiệu Giám mục, và sau đó trở thành khẩu hiệu Giáo hoàng của ngài: Totus Tuus! (Tất cả con thuộc về Mẹ!) đã nói lên tất cả niềm tín thác và lòng yêu mến của ngài với Đức Mẹ. Ngài đã để cho Đức Mẹ lèo lái, dẫn dắt cuộc đời và sứ vụ của ngài. Ngài nhìn thấy thành quả mà Đức Mẹ thực hiện nơi tâm hồn chìm đắm trong cầu nguyện và suy tư của ngài. Ngài không rời xa Đức Mẹ. Ngài để cho Đức Mẹ chủ động trong công tác cai quảng Hội Thánh, để dù vui hay buồn, thành công hay thất bại, ngài có niềm an ủi thiêng liêng lớn lao từ người Mẹ trời cao diệu ngọt và ấm áp ấy.

Chúng ta hãy theo gương Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mà yêu mến và hết lòng tin tưởng nơi Đức Mẹ. Hãy vững tin rằng, bất cứ ai phó mình cho Đức Mẹ, kẻ ấy không bao giờ thất vọng. Đức Mẹ là nguồn an ủi khi ta gặp phải thương đau. Đức Mẹ là chỗ dự vững chắc trên con đường trần giang gập ghềnh. Đức Mẹ là ánh sáng khi đời ta bị bao vây bởi sự tăm tối của thù ghét, bạo lực. Đức Mẹ là chỗ dựa khi ta rã rời, mệt mỏi. Đức Mẹ sẽ làm cho ta thêm tin vào Chúa, thêm hy vọng vào tình yêu của Chúa, khi đời ta phủ đầy nghi nan, thất vọng. Đức Mẹ sẽ dạy ta trên hành trình làm người, để suốt cuộc đời làm người, ta biết chọn lựa những gì hợp thánh ý Chúa. Đức Mẹ sẽ dẫn dắt ta đi, để không khi nào ta trật đường, sai phạm, và mất lòng Chúa…

Chúng ta hãy sống với Đức Mẹ từng phút giây đời ta, để mãi mãi ta không bao giờ mồ côi, nhưng luôn có Đức Mẹ là nhà bảo trợ, là chủ bàu cử cho ta trước tòa Chúa.

Có Đức Mẹ ta không còn sợ gì. Có Đức Mẹ ta sẽ chiến thắng mọi kẻ thù nơi trần thế. Có Đức Mẹ, Người sẽ là sức mạnh không hề lay chuyển của ta…

Lm. JB NGUYỄN MINH HÙNG



Giáo hoàng tuyên phong hơn 800 vị thánh

Giáo hoàng tuyên phong hơn 800 vị thánh

Thứ hai, 13 tháng 5, 2013

nguồn: BBC

Giáo hoàng Francis

Giáo hoàng Francis chỉ mới tại vị được hai tháng nhưng đã làm nhiều việc

Giáo hoàng Francis đã tuyên phong những vị thánh đầu tiên trong thời kỳ trị vì của ông – trong đó có 800 nạn nhân của đế chế Hồi giáo Ottoman hồi năm 1480 – trong một buổi lễ ở Vatican.

Những vị này đã bị chém đầu ở thị trấn Otranto thuộc miền nam nước Ý do không chịu cải sang đạo Hồi.

Hầu hết họ đều vô danh ngoại trừ một vị có tên là Antonio Primaldo.

Với hành động này, Giáo hoàng Francis phong thánh nhiều hơn bất cứ vị tiền nhiệm nào khác chỉ mới hai tháng sau khi tiếp quản Tòa thánh.

Trong số những nhân vật được phong thánh hôm Chủ nhật ngày 12/5 có hai nữ tu Mỹ Latin là sơ Laura Montoya của Colombia và sơ Maria Guadalupe Carcia Zavala của Mexico. Hai vị này đều mất trong thế kỷ 20.

Sơ Laura Montoya, vị thánh Công giáo đầu tiên của Colombia, đã dành trọn đời giúp đỡ những người dân bản địa trong khi vị nữ tu mà Giáo hoàng Francis gọi là sơ ‘Lupita’ đã cho các tín hữu Công giáo trú ẩn trong thời kỳ tôn giáo này bị Chính phủ Mexico đàn áp trong những năm 1920.

‘Những vị tử đạo Otranto’ đã bị xử tử sau khi 20.000 quân Thổ tràn vào thị trấn ở đông nam nước Ý này.

Bài giảng của Giáo hoàng Francis trước hàng chục ngàn tín đồ trong lễ phong thánh ở Quảng trường Thánh Peter không có dấu hiệu gì cho thấy tình cảm bài Hồi giáo, phóng viên BBC David Willey ở Rome tường thuật.

Mặc dù Giáo hoàng Benedict XVI mới là người đồng ý phong thánh cho những vị tử đạo này, Giáo hoàng Francis đã làm tiếp công việc này, phóng viên Willey cho biết.

Vào cuối tháng này một linh mục người Ý, cha Giuseppe Puglisi, người bị mafia sát hại 20 năm trước, sẽ được phong chân phước – bước cuối cùng trước khi ông được phong thánh.

Cuộc phản công chống Trại súc vật

Cuộc phản công chống Trại súc vật

Kính Hòa, phóng viên RFA
2013-05-04

nguồn: RFA

625434_424694274286560_1361866581_305.jpg

Cuốn Animal Farm của George Orwell, bản tiếng Tiếng Việt.

Courtesy MP’s Facebook

Quyển tiểu thuyết Trại súc vật của văn hào Anh George Orwell được xuất bản ở Việt Nam dưới nhan đề Chuyện ở nông trại, chưa bao giờ bị chính thức kiểm duyệt. Gần đây có hai bài báo trên truyền thông nhà nước Việt Nam chỉ trích quyển sách này.

Phê bình nhà văn Orwell

Tiểu thuyết viết theo thể loại ngụ ngôn của văn hào Anh George Orwell nhan đề The Animal Farm (Trại Súc Vật) được xuất bản tại Việt Nam vào năm ngoái với tựa đề Chuyện ở Nông trại. Quyển tiểu thuyết này châm biếm mô hình cộng sản của Liên Xô trong những năm 1940, và qua đó cảnh tỉnh mối nguy khi xã hội loài người bị dẫn dắt bởi những ảo tưởng cách mạng. Những ảo tưởng sẽ dẫn đến những cơ chế xã hội quái gỡ, trong đó thay vì được bình đẳng, con người sẽ bị trói buộc khốc liệt hơn, bởi những kẻ nhân danh những lý tưởng cách mạng bình đẳng.

Các nhân vật heo, chó, ngựa, gà, vịt của Orwell đã làm một cuộc cách mạng chống lại ông chủ trang trại thành công. Các con thú đã xây dựng một xã hội mà tất cả các con thú đều bình đẳng. Cuối cùng thì giai cấp lãnh đạo là những con heo lại trở thành giai cấp thống trị mới  với mọi quyền lợi, ăn trên ngồi trốc. Câu nói mỉa mai nhất trong quyển sách là, “Tất cả mọi con vật đều bình đẳng nhưng có những con vật bình đẳng hơn những con vật khác.”

Đương nhiên quyển sách này bị cấm trong tất cả những quốc gia theo chủ nghĩa Marxism-Leninism, vì chủ nghĩa này được Orwell đưa vào câu chuyện, và nó chính là lý tưởng cách mạng của các con vật dẫn đầu bởi các con heo là giai cấp lãnh đạo.

Cuốn sách lại được xuất bản ở Việt Nam hồi cuối năm ngoái với nhan đề Chuyện ở nông trại. Việc xuất bản do Nhà xuất bản Hội nhà văn phối hợp cùng công ty văn hóa Nhã Nam. Việc đổi tựa sách này có vẻ được dùng để qua mặt kiểm duyệt.

“Xin hỏi: họ thấy tác phẩm này “đã gây nên bức xúc to lớn trong dư luận” ở đâu? Tại cuộc họp nào hay cuộc thăm dò dư luận nào chứng tỏ điều đó.
-Phạm Nguyên Trường”

Nhiều người đã đón nhận tác phẩm với nhiều tình cảm. Nhà thơ Trần Mạnh Hảo, nhân một bài giới thiệu sách trên báo Quân đội nhân dân, đã viết trên blog của mình là:

“Cám ơn nhà văn Trung Trung Đỉnh, nhà thơ Hữu Thỉnh đã giới thiệu tuyệt phẩm Trại Súc vật để mà cùng nhân dân chống độc tài.

Giáo sư Tương Lai cũng nói:

“Thật khâm phục tác giả, vì từ những năm 40 mà đã mô tả chính xác thế nào là độc tài toàn trị.”

Thế rồi hồi tháng ba năm nay, có tin đồn sách bị thu hồi. Bài giới thiệu sách trên báo Quân đội nhân dân bị rút xuống. Vẫn không có tin chính thức về sự thu hồi ấy. Theo Giáo sư Tương lai và nhà thơ Trần Mạnh Hảo thì người ta ngại nếu đưa lệnh thu hồi hay cấm đoán thì vô tình lại quảng cáo cho cuốn sách, cho nên có lẽ sự thu hồi đã diễn ra âm thầm.

Dư luận viên?

Cuối tháng ba trên trang mạng cand.com.vn xuất hiện bài viết của tác giả Hoàng Oanh nhan đề, Nhà văn Anh George Orwell: Lạc đàn chuyên nghiệp. Nội dung bài báo này phê bình chỉ trích nhà văn Orwell và tác phẩm Trại súc vật của ông.

Trong tháng tư, một bài báo khác xuất hiện trên PetroTimes nhan đề Những cuốn sách gây bức xúc của Nhã Nam của tác giả Trúc Vân. Nội dung bài báo này cũng chỉ trích quyển sách Trại súc vật mà công ty Nhã Nam đã ấn hành. Điều đặc biệt là trong hai bài báo trên hai tờ báo khác nhau, hai tên tác giả khác nhau, cách nhau gần một tháng lại có một đọan bình luận giống hệt nhau tới từng dấu phẩy:

Cuốn Animal Farm của George Orwell được tái xuất bản với nhiều mẫu bìa khác nhau

Cuốn Animal Farm của George Orwell được tái xuất bản với nhiều mẫu bìa khác nhau. (Tower/book)

“Điều đặc biệt là tiểu thuyết “Trại súc vật” của George Orwell từ nhiều năm nay đã bị đánh giá như một tác phẩm chứa rất nhiều luận điểm sai trái về chủ nghĩa xã hội và nó bị cấm lưu hành ở những quốc gia theo tư tưởng này. Vì thế, mặc dù tiểu thuyết này được tạp chí Time xếp vào danh sách 100 cuốn sách hay nhất bằng tiếng Anh ở thế kỷ XX nhưng với một đất nước như Việt Nam, việc ấn hành “Trại súc vật” đã gây nên bức xúc to lớn trong dư luận.”

Chúng tôi hỏi chuyện dịch giả Phạm Nguyên Trường, tác giả của bản dịch Trại súc vật lưu hành trên mạng rất lâu trước khi quyển Chuyện ở Nông trại được nhà xuất bản Hội nhà văn và công ty Nhã nam ấn hành. Ông cho biết là vẫn chẳng thấy lệnh cấm gì. Ông cũng phê bình hai tác giả của hai bài báo trên:

“Xin hỏi: họ thấy tác phẩm này “đã gây nên bức xúc to lớn trong dư luận” ở đâu? Tại cuộc họp nào hay cuộc thăm dò dư luận nào chứng tỏ điều đó. Tôi cho là viết báo như thế là không có lương tâm, các đồng nghiệp và bạn đọc nên tẩy chay hai người này.”

Chúng tôi đã hỏi chuyện một người có trách nhiệm ở công ty văn hóa Nhã Nam thì được ông trả lời rằng:

“Tôi đã giải trình chuyện này, và tôi xin phép từ chối trả lời.”

Như vậy chuyện kiểm duyệt không công khai có khả năng có thật.

Chúng ta cũng nhớ rằng đầu năm nay khái niệm Dư luận viên lần đầu tiên được nêu lên công khai bởi các giới chức Việt nam, tức là những người được trả tiền để viết bài bảo vệ đảng cộng sản hay công kích những gì có nguy cơ ảnh hưởng đến sự đúng đắn hay chính danh của đảng cộng sản. Không rõ hai tác giả hai bài báo trên có phải là dư luận viên hay không. Nhưng qua câu chuyện Trại súc vật này thì hình như việc kiểm duyệt cứng rắn đã chuyển qua kiểm duyệt đằng sau. Và nếu như ngòi bút dư luận viên được sử dụng để hỗ trợ cho việc làm đó, thì nên chăng truyền thông nhà nước hãy mở rộng diễn đàn tranh luận để các dư luận viên được chính danh hơn mà so tài, chứ không nên múa gậy vườn hoang một mình.

LỄ THĂNG THIÊN

LỄ THĂNG THIÊN
Sau khi sống lại 40 ngày, và sau những lần gặp gỡ với các môn đệ, Đức Giê-su đã thực hiện lời Người đã nói trước, người đã từ biệt các ông và lên Trời.
Nhưng tại sao Đức Giê-su dạy các môn đệ làm phép Rửa đã, sau đó mới giảng dạy cho họ? Tại sao không nói Chúa về Thiên đàng mà lại lên Trời, dễ làm người ta hiểu lầm ở một điểm nào trên không gian? Tại sao cho đến lúc này vẫn có những môn đệ còn hoài nghi?  Theo Ma-thêu thì Đức Giê-su lên Trời tại Ga-li-lê-a, vậy tại sao thánh Luca (Lc 24,50-53) lại nói Chúa lên Trời ở Bê-ta-ni-a?

1.     Ga-li-lê-a

Mat-thêu không có ý nhấn mạnh tới địa danh nơi Chúa lên Trời, nhưng tác giả muốn nhấn những sự kiện có liên quan tới công trình cứu thế của Đức Giê-su tại Ga-li-lê-a:
Ga-li-lê-a là một địa danh rộng lớn thuộc phía bắc It-ra-en, nơi có đủ các thứ dân sinh sống. Đây là khu vực mà người It-ra-en ở Giê-ru-sa-lem coi khinh, cho là vùng đất của dân ngoại.  Nơi đây được coi như trung tâm của các giao tiếp, sắc tộc, ngôn ngữ, thương mại, hoà trộn tín ngưỡng và vô tín ngưỡng.
Ga-li-lê-a được coi là điểm hẹn lí tưởng giữa Thiên Chúa và con người: Trên núi Si-nai, nơi Môi-sen đã ở trên đó 40 ngày đêm và được Thiên Chúa mạc khải cho 10 điều răn.  Ngôn sứ I-sa-i-a và sau này là thánh Mat-thêu nhắc tới địa danh Ga-li-lê-a như một điểm sáng: “Hỡi Ga-li-lê-a miền đất của dân ngoại, những dân đang ngồi trong bóng tối tử thần được nhìn thấy ánh sáng” (Is.9,1).
Ga-li-lê-a gắn liền với sứ vụ của Đức Giêsu: Na-da-ret nằm trong vùng đất Ga-li-lê-a, nơi gia đình Đức Giê-su sinh sống, lớn lên và làm việc.  Trên núi Ô-liu, nằm phía đông Giê-ru-sa-lem, là nơi Đức Giê-su thường xuyên đến để cầu nguyện.  Tại đây còn có vườn Giêt-si-ma-ni, có làng Bê-ta-ni-a, nơi Người đã cho La-da-rô chết bốn ngày sống lại, có ngọn núi Bet-pha-giê nơi khởi điểm cuộc rước Đức Giê-su long trọng vào thành Giê-ru-sa-lem và tiên báo thành này bị tàn phá không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào.
Galilêa còn là dấu chỉ hẹn cuối cùng của Đức Giê-su với các môn đệ: Cũng có mây mù che phủ, như đã từng che phủ Môi-sen trên núi Si-nai, cũng như Đức Giê-su với ba môn đệ yêu dấu ở Ta-bo-rê; cũng con số 40 kì diệu: 40 ngày trên núi Si-nai của Môi-sen hay 40 ngày chay tịnh của Chúa; 40 ngày sau khi Đức Giê-su sống lại, Người đã gặp gỡ lần cuối với các môn đệ như đã chỉ định trước: “Các bà hãy mau về nói với các môn đệ rằng người đi Ga-li-lê-a trước các ông” (Mt.28,7).
Như vậy Ga-li-lê-a là nơi Chúa Giê-su đã sống gương mẫu, rao giảng chân lí, thành lập Giáo Hội và tuyển môn đệ.  Đức Giê-su đã làm xong nhiệm vụ và đi trước để dọn chỗ cho những ai tiếp tục sứ mệnh Người giao phó.

2.     Cõi Trời

Chúa Giê-su về Trời, là về nơi Người phát xuất: Ngài đã hoàn thành nhiệm vụ của Người ở trần gian, Người cần được hưởng vinh quang với Ba Ngôi Thiên Chúa.  Mười một Tông đồ đã đến điểm hẹn, có một số còn hoài nghi.  Thực ra tất cả các môn đệ đều khởi đầu từ chỗ hoài nghi rồi đến tin tưởng, và dám đổ máu mình ra để chứng tỏ niềm tin đó.  Các ngài vẫn còn những hạn chế của con người, như Phê-rô, Tô-ma, hay hai môn đệ Em-mau; các ngài còn phải được học hỏi các màu nhiệm mặc khải, các ngài phải được thử thách đủ, trước khi làm nhiệm vụ.  Các Tông đồ còn được chứng kiến Thầy mình về Trời để các ông hi vọng.  Chỉ có sự thật mới thuyết phục được các ngài theo Chúa; tất cả nói lên rằng, Đức tin là một hành động hoàn toàn tự do dành cho con người.
Chúa lên Trời là đi từ chỗ hữu hình vào nơi vô hình: Nói Chúa lên Trời, là nói theo kiểu thế gian. Người ta thường quan niệm trời là tất cả không gian ngoài trái đất, trời là nơi Đấng Tạo Hoá ngự trị và điều khiển muôn loài.  Tuy nhiên, Trời đây không phải là một điểm nào, không phụ thuộc chiều cao của không gian vật lý, không phụ thuộc vào quy luật của vũ trụ, thời gian, có thể cân đong đo đếm. Chúa lên Trời không phải là lánh xa trái đất, đến ngự trị trong một vì tinh tú hào quang, Chúa lên Trời là thay đổi từ trạng thái tự nhiên sang trạng thái siêu nhiên.  Trời hay Thiên đàng là một, Người hiện diện khắp mọi nơi.
Đức Giê-su về Trời để nhận nhiệm vụ mới: Người duy trì sự hiện diện của Người nơi nhân loại: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”(Mt 28,20).  Đức Giê-su được trao toàn quyền trên trời, dưới đất, vũ trụ hữu hình và vô hình.  Người đánh bại cái chết, Người làm Vua vũ trụ, Đấng sáng tạo và bảo tồn vũ trụ, không có gì nằm ngoài quyền của Người.

3.     Thế gian

Đức Giê-su đã về Trời và trao lại nhiệm vụ cho Giáo Hội. Người đã lệnh cho mọi người trên trái đất phải thi hành chỉ thị của Người:
Vậy anh em hãy đi giảng dạy cho muôn dân và làm cho họ trở thành môn đệ Thầy.  Môn đệ đây được hiểu là các Kitô hữu. Đức Giê-su gọi các môn đệ và muốn họ nhân rộng ra, tăng mạnh lên.  Chúa tạo dựng con người và muốn cho họ hưởng hạnh phúc.  Các Tông đồ được coi là người kế nghiệp Chúa Ki-tô, là những thợ gặt lành nghề.  Họ phải biết đưa mọi người vào Nước Chúa.  Chúa từ chối Sa-tan với tất cả vinh hoa của nó, Người muốn các Tông đồ tiếp tục chinh phục toàn thể vũ trụ để đưa mọi người vào Nước Trời hạnh phúc mà Người đi trước dọn chỗ, để mọi người có thể tận hưởng muôn đời.
Hãy làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và  Thánh Thần.  Đức Giê-su muốn thâu nạp nhiều môn đệ qua phép Thanh Tẩy.  Người đã thánh hoá nước, để nước có sức thánh hoá nhờ Thánh Linh. Người muốn họ nối kết với nhau trong một tập thể, mà Ba ngôi Thiên Chúa là mối dây, là tình yêu liên đới, là sức sống sung mãn dồi dào trong toàn thể, cũng như từng cá nhân.  Không thể nhân danh cá nhân nào, không nhân danh thụ tạo nào, thần thánh nào, mà là nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa, để họ được gia nhập vào gia đình thánh thiện của Chúa.
Hãy dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.  Việc Đức Giê-su đặt nhiệm vụ này cuối cùng, không phải là Người dạy họ phải làm theo thứ tự như vậy, đó chỉ là câu nói nhằm mục đích kêu gọi môn đồ.  Người muốn họ phải hiểu biết đầy đủ, để chia sẻ Lời dạy của Chúa, phải biết được giá trị của việc làm, để thực thi nhiệm vụ của một môn đệ.
Nhiệm vụ Chúa giao phó cho các Tông đồ cũng là nhiệm vụ của chúng ta.  Chúa không muốn riêng ai quản lí màu nhiệm Mạc khải, Chúa ra lệnh mỗi người phải mạnh dạn ra đi rao giảng và làm chứng về Người, hầu được hưởng phúc Nước Trời với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Jos Trần Xuân Chiêu

****************************************

Lạy Chúa, xin Chúa cho chúng con tin bằng trái tim, tuyên xưng bằng miệng và bày tỏ bằng việc làm, rằng Chúa ngự trong chúng con ngõ hầu nhân loại thấy rõ những việc lành chúng con làm mà tôn vinh chúc tụng Cha chúng con trên trời.  Vì Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con, Đấng muôn đời vinh hiển.  Amen!

Origênê

Anh chị Thụ & Mai gởi

Hòa Giải Sau Chiến Tranh Nam – Bắc (1861-1865) của Hoa Kỳ

Hòa Giải Sau Chiến Tranh Nam – Bắc (1861-1865) của Hoa Kỳ

Nhân kỷ niệm lần thứ 38 ngày 30/4 (1975-2013), xin mời anh chị em đọc lại lịch sử Hoa Kỳ về cuộc chiến tranh Nam – Bắc (1861-1865) và chủ trương hoà giải của phe thắng trận sau khi cuộc nội chiến Nam-Bắc (1861-1865) chấm dứt để có sự so sánh giữa hoàn cảnh lịch sử của nước Mỹ (1865) và Việt Nam (1975)…

Tướng Ulysses S.Grant lúc đó (1865) là Tổng Tư Lệnh Quân Độ Liên Bang (tức Quân Đội Miền Bắc) đã gửi cho Tướng Robert E. Lee (Tư Lệnh Quân Đội Liên Minh – Confederate State Army – tức Quân Đội Miền  Nam) một bức thư lịch sử nội dung như sau: (dịch)

“Tổng Hành Dinh Quân Đội Liên Bang,

Lúc 5 giờ chiều ngày 7 tháng Tư, 1865.

Gởi Tướng Robert E.Lee, Tư Lệnh Quân Đội Liên Minh (Confederate Army).

Những kết quả trong tuần vừa qua chắc đã thuyết phục ông về tình thế tuyệt vọng của Quân Đội Bắc Virginia khi còn kháng cự thêm, trong cuộc xung đột này. Tôi cảm thấy đúng như vậy, và để tránh trách nhiệm của tôi về việc đổ máu thêm, tôi yêu cầu ông cho đầu hàng một bộ phận của Quân Đội Liên Minh dưới tên Quân Đội Bắc Virginia (the Army 0f Northern Virginia).

Ký tên: U.S Grant

Trung Tướng”

(Điều kiện đầu hàng:

-Không một ai bị giết để trả thù.

-Không một ai bị truy tố ra toà về tội phản quốc. Nhân phẩm của họ được tôn trọng.

-Họ được giữ lại súng ngắn, kiếm lừa và ngựa mà họ đã mang theo khi nhập ngũ.

-Sau khi ký giấy cam kết, họ sẽ không bao giờ cầm súng chống lại Chính phủ Liên bang. Họ sẽ được tự do  ra về đoàn tụ với gia đình, và được bảo đảm yên tâm sinh sống, không có một viên chức địa phương nào làm khó dễ và một thời gian sau sẽ được phục hồi quyền công dân)

Thư trả lời của Tướng Lee ngay sau khi nhận được thư của Tướng Grant:

“Ngày 7 tháng Tư, 1865

Thưa Trung Tướng,

Hôm nay, tôi đã nhận được bức thư ngắn của ông. Mặc dù không thích thú với ý của ông khi diễn tả việc vô hy vọng của một tộ phận của Quân Đội Bắc Virginia, tôi cảm kích về lòng mong muốn của ông muốn tránh cuộc đổ máu vô ích. Trước khi xem xét ý muốn của ông, xin cho tôi biết những điều kiện ông sẽ đề nghị để Quân Đội Bắc Virginia đầu hàng.

Ký tên: R.E.Lee

Đại Tướng. “

Sau khi nhận được điều kiện do Tướng Grant đưa ra (xem điều kiện ở trên), Tướng Lee đã ký biên bản đầu hàng và Tướng Grant đã báo cáo cho Tổng Hành Dinh tại Washinhton DC như sau:

“Lúc 4:30 giờ chiều, ngày 9 tháng Tư, 1865

Tổng Hành Dinh Appomattox CH, VA.

Kính gửi Ngài E.M. Stanton,

Bộ Trưởng Bộ Chiến Tranh, Washington,

Chiều nay, Tướng Lee đã cho Quân Đội Bắc Virginia đầu hàng, theo những điều kiện do tôi đưa ra. Những tài liệu bổ túc đính kèm sẽ được gửi đến ngài đầy đủ.

U.S Grant

Trung Tướng.”

Đoàn quân đầu hàng gồm có 27.805 người. Họ được cung  cấp lương thực đầy đủ. Bên phe thắng trận không hề có một tiếng reo hò hay chế nhạo, Họ đứng nghiêm trang, đưa tay chào đoàn quân bại trận đang lần lượt trao nộp vũ khí.  Sau đó, Chính phủ Liên Bang đã trả lại tài sản bị trưng dụng hoặc bị chiếm đoạt cho phe bại trận để hàn gắn vết thương chiến tranh, xoá bỏ hận thù. Tổng Thống Abraham Lincon đã thực hiện đoàn kế dân tộc, mọi người trong nước đóng góp khả năng của mình vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, làm cho Hoa Kỳ trở thành một cường quốc giàu có và hùng mạnh nhất thế giới cho đến ngày nay. Sau khi Tổng Thống Abraham Lincoln bị ám sát chết, Tướng Grant đã đắc cử Tổng Thống Hoa Kỳ.

(Nguyễn Lý-Tưởng sưu tầm)

Còn chờ mong một lời nào nữa chăng?

Còn chờ mong một lời nào nữa chăng?

Đăng bởi lúc 1:35 Chiều 6/05/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (06.05.2013) – Ephata – Trong những ngày vừa qua, trên các trang báo mạng cũng như cả trên các phương tiện của hệ thống truyền thông Nhà Nước, một số tin tức về cuộc sống của người dân được truyền đi nghe đau nhói trong lòng. Xin tạm liệt kê, một số bài đăng lại trên số báo Ephata lần này:

Bài báo “Trẻ em vùng cao co ro trong giá lạnh” (http://www.tinmoi.vn/tre-em-vung-cao-co-ro-trong-gia-lanh-01697329.html). Một bài báo khác: “Một tháng có thêm 13,6 nghìn hộ thiếu đói” (http://phunutoday.vn/xa-hoi/doi-song/201305/Mot-thang-co-them-136-nghin-ho-thieu-doi-2214152/). Bài “Tộc người sống nhờ củ mài” (http://www.tienphong.vn/xa-hoi/624396/Toc-nguoi-song-nho-cu-mai-tpol.html). Những tin tức do chính ông Giàng Seo Phử, Bộ trưởng Chủ nhiệm Ủy Ban Sắc Tộc Việt Nam nói về cái nghèo cái đói ăn của các trẻ em miền núi, trước đó qua trang blog của mình, ông Mai Văn Hải đã chia sẻ rất nhiều về cái bất hạnh của trẻ em vùng cao nguyên mà ông chứng kiến hoặc tiếp cận trong chương “Áo ấm biên cương” (http://maithanhhaiddk.blogspot.com/2013/03/ao-am-bien-cuong-qua-ong-kinh-bien-phong.html).

Một bài trên báo Pháp Luật có tựa đề “Chết để con được học” kể về một phụ nữ tên là Nguyễn Thị Mỹ Nhân, 48 tuổi, ở thành phố Cà Mau, do hoàn cảnh gia đình quá túng quẫn, lại lâm bệnh nặng nên đã quyên sinh để không gây gánh nặng cho chồng cho con, với ước mong nhờ tiền phúng điếu mà các con có tiền ăn học. (http://phapluattp.vn/20130426114615700p0c1015/chet-de-con-duoc-hoc.htm”). Rồi lại câu chuyện “Tấn bi kịch của cái nghèo (http://daotuanddk.wordpress.com/2013/05/03/tan-bi-kich-cua-cai-ngheo/) và bao nhiêu câu chuyện khác về cái nghèo mà kẻ biết, người không biết.

Bài Tin Mừng Chúa Nhật thứ VI mùa Phục Sinh (Ga 14, 23 – 29) ghi lại lời của Chúa Giêsu: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (c. 26). Chắc chắn Chúa Thánh Thần nói với chúng ta khi chúng ta nghe Lời Chúa trong Sách Thánh, chắc chắn rằng Chúa Thánh Thần nói với chúng ta qua các biến cố xảy ra quanh chúng ta, qua các biến cố ấy Chúa Thánh Thần dạy dỗ chúng ta, nhắc lại những gì Chúa Giêsu đã nói với chúng ta.

Nghe Lời Chúa qua Sách Thánh trong các buổi thờ phượng, không phải là nghe một cách máy móc, hời hợt, mau qua, Lời Chúa chỉ tỏ tường và phát sinh hiệu quả khi chúng ta biết nghe và nghe một cách tinh tế, nghe trong đáy sâu của tâm hồn, nghe một cách đầy diệu cảm và chìm đắm trong miền diệu cảm ấy. Người ta nói là phải có được nghệ thuật nghe Lời Chúa. Qua các biến cố, qua những gì xảy ra chung quanh cũng vậy, chúng ta có đọc được thánh ý của Chúa không? Chúa muốn nói gì? Hãy lắng nghe một cách tinh tường tiếng Chúa nói.

Ba ngày sau khi nhận nhiệm vụ Mục Tử của Giáo Hội Công Giáo Roma, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói với giới truyền thông về Tông Hiệu của mình: người nghèo, hòa bình và môi trường. Chúng ta nghe thấy gì qua những lời này, chúng ta nghe thấy gì sau những biến cố này, chúng ta nghe thấy gì qua Tông Hiệu này. Cụ thể những lời này được ngỏ cho chúng ta, những người đang sinh sống trên quê hương Việt Nam? Còn chờ mong một lời nào nữa chăng?

Lm. VĨNH SANG, DCCT, 5.5.2013

Nguồn: Ephata 560

NHỮNG BỆNH… VÔ DUYÊN!

BS  Ðỗ Hồng Ngọc

Tuy già không phải là một bệnh nhưng già thì thường có bệnh. Bệnh thì có bệnh nặng, bệnh nhẹ, bệnh có duyên và bệnh… vô duyên. Ai cũng biết thầy thuốc là người được học hành cẩn thận để giúp ta chữa trị bệnh tật, vậy mà thầy thuốc cũng có thể gây bệnh cho ta, dù là ngoài ý muốn, cái đó gọi là bệnh do thầy thuốc gây ra (iatrogenic) mà theo GS. Phạm Khuê, một chuyên gia về Lão khoa, Chủ tịch Hội người cao tuổi Việt Nam thì có đến hơn một phần tư các bệnh ở người già là do thầy thuốc gây ra! (Bệnh học tuổi già, Phạm Khuê, NXB Y Học, 1998, trang 364).


Những bệnh… vô duyên còn có thể do chính bản thân mình, người thân trong gia đình, bạn bè, hàng xóm, hoặc các nhân viên tâm lý xã hội gây ra nữa! Bà cô của một bác sĩ bạn tôi trên 80 tuổi kêu lúc nào trong người cũng nóng bức, miệng khô nên đã mua rễ tranh, mía lau, mã đề ngoài chợ về nấu “nước mát” uống. Mát đâu không thấy, thấy đi tiểu liên tục gây thêm tình trạng mất nước trong cơ thể, lại thấy nóng bức, thấy khô miệng, lại uống thêm “nước mát”! Thì ra “rễ tranh, mía lau, mã đề” là những loại thuốc lợi tiểu (diuretics).

Một ông bác gầy còm nghe hàng xóm bày vẽ có loại tễ mập, bèn mua uống mấy cây. Mập thiệt! Nhưng người béo bệu, cơ thể bạc nhược! Thì ra, thuốc tễ đó chỉ là bột mì trộn với mật ong và Corticoil, một thứ thuốc uống vào lâu ngày gây hội chứng Cushing, ứ nước, làm mập bệu và gây ra vô số những tác dụng tai hại khác như giảm sức đề kháng, mọc lông, loãng xương, loét bao tử, cao huyết áp…

Ta cũng biết thuốc chữa đau khớp có thể gây loét dạ dày; thuốc điều trị cao huyết áp có thể gây hạ huyết áp đột ngột; thuốc trị tiểu đường làm hạ đường huyết; thuốc uống cho đỡ bị đái són ở người già thì gây khô miệng, đỏ da, mờ mắt, chóng mặt…

Một đặc điểm sinh học của người cao tuổi là khả năng thích ứng dần kém đi. Hấp thu thuốc đã chậm mà đào thải cũng chậm. Tác dụng phụ của thuốc lại thiên hình vạn trạng, tùy từng người, từng lúc, có thuốc người này dùng thì tốt mà bày cho người khác không xong, uống vào bị phản ứng ngay.

Cho nên dùng thuốc ở người già phải dò dẫm trên từng trường hợp, giảm liều, giảm lượng, đắn đo tính toán trước sau, nào bệnh trước mắt, nào bệnh tiềm tàng; thuốc chữa được bệnh này nhưng có gây ra bệnh khác không, có làm bộc phát một bệnh cũ nào đó không, người bệnh ăn uống ra sao, tiêu tiểu ra sao và trạng thái tâm thần ra sao?

Người cao tuổi cũng thường hay tự ý gia giảm thuốc, tin lời bày vẽ, ai mách gì cũng nghe, gây tương tác thuốc lung tung rất dễ sinh ra nhiều bệnh…. vô duyên đáng tiếc.

Ngày càng có nhiều máy móc xét nghiệm và một số người cao tuổi cũng thường muốn được xét nghiệm này nọ.

Báo Paris Match của Pháp có đăng trường hợp một bà già bị rối loạn tiêu hóa đến khám ở một bác sĩ. Bác sĩ thấy không có gì nặng nhưng cũng gởi cụ làm thêm vài xét nghiệm cho chắc. Sau đó, bà cụ được tiếp tục làm thêm hàng loạt các xét nghiệm khác ngày càng phức tạp hơn vì xét nghiệm đơn giản không tìm ra bệnh: Siêu âm, nội soi, sinh thiết, chụp cắt lớp, chụp cản quang mạc treo…

Sau hơn một tháng chuyển từ trung tâm này đến bệnh viện kia, nằm đợi trên những băng ca lạnh lẽo, đẩy từ hành lang này sang hành lang khác, tiếp xúc với những người mang khẩu trang chỉ chừa đôi mắt lạnh lùng, bà cụ rơi vào tình trạng khủng hoảng tâm lý trầm trọng và tiêu tốn mất 35 ngàn quan Pháp.

Cuối cùng các bác sĩ hội chẩn kết luận không có bệnh gì cả!

Tây gọi những người sính xét nghiệm là “examinite”.

Tổ chức sức khỏe thế giới (WHO) cũng cảnh báo hiện tượng over – investigation, “thăm dò quá mức cần thiết” này (Health of the Elderly, WHO, 1989).
Một số người cao tuổi được chăm sóc bảo bọc quá đáng, được làm xét nghiệm thăm dò, theo dõi liên tục làm cho người bệnh muốn… hết bệnh cũng không được; không kể trong quá trình thăm dò, chọc hút, bơm tiêm, thụt tháo… không phải là không có nguy cơ.

Dĩ nhiên nếu có bệnh thì cần phải làm để có chẩn đoán chính xác và điều trị hiệu quả. Còn thăm dò chỉ để… thăm dò thì không nên. Các chuyên gia khuyên chỉ nên làm xét nghiệm cho người già khi nhằm để chẩn đoán một thứ bệnh có thể chữa được, có thể phục hồi được, có lợi cho người bệnh hoặc để chẩn đoán phân biệt tìm ra một bệnh có tiên lượng tốt hơn, điều trị có kết quả hơn, có lợi cho bệnh nhân và gia đình hơn mà thôi. Tóm lại, biết ơn mình thì cần thiết lắm mới phải làm xét nghiệm và phải có chỉ định của bác sĩ.

Thế nhưng có thứ không phải là thuốc, không phải là thủ thuật gì cả mà vẫn có thể gây ra những bệnh vô duyên: đó là lời nói!

Có những lời nói gây hoang mang, lo lắng, làm mất ăn mất ngủ, gây kiêng cữ quá đáng làm cho tình trạng bệnh khó phục hồi hơn. Cái đó gọi là sự “dán nhãn” (labelling). Chẳng hạn như người không có chuyên môn, không đủ cơ sở khoa học chắc chắn mà “phán” cho một cái chẩn đoán kiểu như “nghi ung thư”, “hơi bị lớn tim”, hoặc một từ mơ hồ như “máu lộn mỡ, gan hơi nhiễm mỡ, viêm nhiễm phần phụ, rối loạn thần kinh thực vật”… hoặc “bị thư phù, bị người cõi trên nhập….” đều đem lại những kết quả tai hại không thể ngờ được!

Ngay cả bị dán nhãn là già cả, già nua, già yếu, mất sức rồi bị ép phải nằm yên một chỗ, lúc nào cũng có người nâng đỡ chăm sóc thì sẽ ngày càng lệ thuộc, ngày càng suy nhược, mau loãng xương, bắp cơ thoái hóa, cứng khớp nhanh.

Ðáng sợ hơn cả là bị ép phải vào nằm viện, nằm nhà thương, nhà dưỡng lão, nhà nghỉ mất sức… khi vẫn còn có thể tự quản được. Thật ra đây chỉ là giải pháp cuối cùng vì một khi đã vào các cơ sở này rồi thì không hy vọng gì trở lại đời sống bình thường được nữa vì càng ngày càng thụ động, ỷ lại, lệ thuộc, suy sụp.

Các cơ sở chăm sóc cho người già thực ra rất cần thiết, miễn là phải giữ một số nguyên tắc như đảm bảo sự riêng tư, tôn trọng cá nhân, giúp tự chủ, tự quản, và tạo nhiều cơ hội cho họ tham gia sinh hoạt phù hợp với sở thích và sức khỏe.

Tóm lại, không nên để người cao tuổi mắc thêm những bệnh… vô duyên!

Yêu Như Chúa Yêu

Yêu Như Chúa Yêu

Lm. John Nguyễn, Utica, New York.

Khi suy niệm Lời Chúa hôm nay, tôi chợt nhớ lời bài hát của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, ông viết: “Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng, ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau…” Sỏi đất là vật vô tri. Ấy thế mà nó vẫn cần có nhau, thì mới có thể làm thành ngôi nhà lớn. Ông đã mượn hình ảnh sỏi đá để đưa ra một triết lý sống. Con người sống với nhau cần có một tấm lòng và biết yêu thương nhau, vì không ai có thể sống mà không yêu. Thật vậy, mỗi người chúng ta cần yêu và được yêu. Ít nhất là một người nào đó trong cuộc đời. Tình yêu làm biến đổi và thăng hoa cuộc sống. Nhưng để sống đúng với ý nghĩa của tình yêu, thì chúng ta hãy học cách yêu của Chúa Giêsu dưới ánh sáng Tin mừng hôm nay.

Thánh Gioan thuật lại, trước khi Chúa Giê-su bước vào cuộc khổ nạn và chịu chết, Ngài đã trăn trối lời sau cùng cho các tông đồ một sứ điệp quan trọng, đó là: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau ; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” Và điều răn mới này được hiểu như thế nào? Nó có ảnh hưởng gì đến đời sống của chúng ta?.

Trong đời sống gia đình, tình yêu là nền tảng mang lại hạnh phúc. Một gia đình hạnh phúc là một gia đình biết yêu thương nhau. Vợ chồng con cái yêu thương nhau. Tất cả mọi người hiệp nhất và yêu thương nhau để mang lại niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống. Ai cũng mong ước mình được điều đó. Thế nhưng, trong thực tế cuộc sống gia đình, chúng ta phải nhìn nhận rằng, không phải ai cũng có được những hạnh phúc ngọt ngào êm đềm như dòng sông phẳng lặng. Chuyện vợ chồng xung đột cải vả, rạn nứt và đổ vỡ vẫn đang diễn ra hàng ngày trong đời sống vợ chồng, vì sự khác biệt tâm lý, về quan niệm sống, cách suy nghĩ và hành động. Từ những khác biệt đó dẫn đến cuộc sống vợ chồng trở thành gánh nặng cho nhau, trở thành ngục tù cho nhau, rồi dẫn nhau ra tòa ly dị. Khi tình yêu đã hết, thì mọi chuyện đổ vỡ sẽ xẩy ra trong gia đình. Điều này chúng ta có thể cảm nhận được nơi chính mình và mọi người đang sống chung quanh ta. Tôi thiết nghĩ rằng, khi người ta mất đi niềm tin tưởng lẫn nhau, thì họ không dám sống cho nhau, không dám hy sinh cho nhau.

Ngày nay, con người thường đề cao lối sống chủ nghĩa cá nhân, thì làm gì có sự hy sinh cho người khác. Vì họ sợ bị thiệt thòi, thua thiệt cho bản thân mình. Tính ích kỷ luôn giam hãm con người qui hướng về chính mình hơn là tha nhân, và tự biến mình trong một thế giới riêng, không dám sống cho người khác và ngay cả người thân cận của mình. Khi ta có lối suy nghĩ và cách sống như thế, thì làm gì có sự yêu thương và hy sinh cho người khác. Có thể đó là những nguyên nhân gây ra rạn nứt và đổ vỡ trong cuộc sống gia đình và mối liên hệ với tha nhân trong bối cảnh hôm nay. Cho nên, Lời Chúa vẫn là lời mời gọi thiết thực và là nền tảng cho chúng ta. Nếu sỏi đá cũng cần có nhau, thì tại sao chúng ta có thể tách biệt và loại trừ anh chị em mình, hay đang tâm hãm hại và giết chết một con người cần được sống như chúng ta, cần yêu và được yêu như chúng ta hằng khát khao, trong khi đó con người là hình ảnh Thiên Chúa.

Hơn bao giờ hết, khi nhìn ra thế giới rộng lớn, có biết bao người đang phải chịu đau khổ và bị giết chết bởi chiến tranh, thống trị và tàn bạo của con người. Cho nên, lời của Chúa Giêsu nói:” Anh em hãy yêu thương nhau” càng trở nên khẩn thiết và cấp bách hơn cho những tâm hồn còn mang nặng lòng hận thù và ghen ghét. Với niềm tin của người Kitô hữu, chúng ta không thể làm ngờ với chân lý này. Chỉ có tình yêu mới có thể biến đổi lòng hận thù. Tình yêu thì mạnh hơn sự chết. Tình yêu giúp con người xích lại gần nhau và tha thứ cho nhau.” Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống vì người mình yêu.” Hy sinh luôn là nền tảng vững chắc để tình yêu được lớn lên. Trái lại, tình yêu không có sự hy sinh là tình yêu vụ lợi, ích kỷ và giả dối. Điều này chúng ta có thể cảm nhận được khi chúng ta yêu một người nào đó. Cụ thể là tình thương của cha mẹ dành cho con cái. Cho dù có khó khăn, gian khổ và vất vả, nhưng vì yêu thương con cái và hạnh phúc gia đình, cha mẹ đã chấp nhận hy sinh.

Thật vậy, tình yêu luôn gắn liền với sự hy sinh. Nếu chúng ta sống đúng với giá trị Tin mừng, thì tình yêu đó được nẩy sinh và đôm hoa kết trái. Tình yêu đích thực có giá trị vĩnh cữu và tuyệt đối. Tình yêu đó phát xuất từ Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu. Chúa Giê-su chấp nhận hy sinh mạng sống của Ngài để cứu chuộc con người. Ngài đón nhận tất cả những hình phạt của con người đã gắn cho Ngài. Ngài phải chịu sự sỉ nhục, chế nhiễu, roi đòn, cáo gian, phản bội và gian ác của con người để lấy bản án tử hình trên thập giá, vì yêu thương chúng ta. Chúa Giê-su chết để chứng minh tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người.

Khi chúng ta tuyên xưng niềm tin của mình vào Đức Ki-tô phục sinh là cứu cánh đời mình, thì chúng ta cũng phải biết hy sinh và chết đi con người cũ của mình, chết đi tính ích kỷ, chết đi tính kiêu căng tự mãn đang giam giữ trong cõi lòng chúng ta. Khi chúng ta biết chết đi con người cũ của mình, là lúc chúng ta sống trong tình yêu mới và một cuộc sống mới hoàn thiện hơn. Nhờ đó, chúng ta mới biết trao ban, biết cho đi tình thương và đem lại hạnh phúc cho những người thân yêu đang hiện diện với chúng ta. Đã yêu thì không so đo tính toán hơn thiệt, mà tình yêu đó được gắn liền với sự hy sinh và dâng hiến cho người mình yêu.

Lạy Chúa, xin cho chúng con mỗi ngày học lại cách yêu, như Chúa đã yêu chúng con.

Lm. John Nguyễn, Utica, New York.

Sống đạo hạnh phúc: Đôi lời chia sẻ với anh chị em Tân tòng

Sống đạo hạnh phúc: Đôi lời chia sẻ với anh chị em Tân tòng
Đức cha Giuse Đinh Đức Đạo
Đăng bởi lúc 12:47 Sáng 6/05/13
VRNs (06.05.2013) – Đồng Nai – Mối bận tâm của các cha xứ và của tất cả những ai đã đồng hành với anh chị em tân tòng trong hành trình Đức Tin là sự trung thành với Chúa và với Giáo Hội, nhất là trong hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống. Đây chắc chắn cũng là mối bận tâm lo lắng của chính các anh chị em tân tòng. Nhưng tôi nghĩ mối bận tâm chính yếu phải là làm sao sống hạnh phúc khi theo đạo Chúa. Người ta không thể trung thành với Chúa và với Giáo Hội nếu không hạnh phúc vì được biết Chúa và theo Chúa hay nói cách khác, nếu người ta hạnh phúc thì chẳng dại gì mà bỏ đi. Đây cũng chính là một trong những mục đích của Năm Đức Tin, tức là cần phải có một cuộc trở lại chân thật với Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế duy nhất của nhân loại (x. PF 6) để tìm lại được niềm vui và lòng hứng khởi vì được biết Chúa và gặp Chúa (x. PF 2).
Như vậy, để sống hạnh phúc trong đời sống đạo, cần phải tìm được nguồn hạnh phúc. Ngoài ra, cũng cần phải làm sáng tỏ các nghi vấn. Đó là hai khía cạnh của các suy tư dưới đây.
1.                  Suối nguồn của hạnh phúc
Có hạnh phúc thực khi gặp được một người mình thương mến và người đó thương mến mình. Những lý do khác, chẳng hạn, giầu có, ăn uống, chơi vui giải trí, có thể làm cho niềm vui sống Đạo được dễ dàng hơn, nhưng cũng nguy hiểm có thể sẽ làm cho tắt mất niềm vui mới nhen nhúm. Người ta thường nói: “Hai trái tim vàng trong túp lều tranh”. Khi thương yêu nhau, dù chỉ có túp lều tranh cũng vui, cũng hạnh phúc; khi không có tình thương thì có ngồi trên nhung lụa và ăn bát bằng vàng cũng buồn, cũng chán và có khi còn đau khổ nữa. Do đó, theo Đạo sẽ có hạnh phúc nếu các anh chị gặp được Chúa và hiểu được là Chúa thương yêu mình và sống trong tình nghĩa với Ngài, chứ không phải chỉ tin vào mấy tín điều hay giữ mấy điều luật. Dĩ nhiên, chấp nhận các điều cần phải tin và tuân giữ các giới răn cũng quan trọng, nhưng chúng chỉ là những sự chuẩn bị, những điều kiện hay những đòi hỏi của việc gặp gỡ chính Chúa.
Vậy, tôi muốn hỏi các anh chị: Vì sao các anh chị theo Đạo?
–                      Để lấy chồng, lấy vợ?
–                      Để trả ơn một ân nhân là người công giáo?
–                      Vì nể bạn bè hay một người nào đó?
–                      Vì thấy đạo Công Giáo hay hơn mấy đạo khác?
Những lý do trên chỉ là bề nổi. Đàng sau tất cả những lý do đó, có một lý do khác là nền tảng cho tất cả. Đó là chính Chúa, qua người vợ, người chồng hay một ân nhân, một người bạn, một cuộc gặp gỡ tình cờ…, đã mời gọi các anh chị và các anh chị đã đáp lại tiếng mời gọi đó. Lúc đầu có thể chưa rõ, nhưng từ từ các anh chị nhận ra đó là tiếng của Ngài. Chúng ta có thể cắt nghĩa thực tại này qua mẩu truyện của một bà hiện nay định cư bên Hoa Kỳ: Bà Đoàn thị Phượng.
Gia đình tôi người Bắc, di cư vàoNam năm 54. Bố mẹ tôi là người Công giáo, rất ngoan đạo. Tôi còn nhớ lúc tôi vừa đến tuổi cặp kê, mẹ tôi luôn nhìn những gia đình đạo đức, có con trai lớn cỡ tuổi tôi, để ý xem chừng gả tôi vào gia đình đạo đức đó để cuộc sống lứa đôi không đổ vỡ, vì đạo Công giáo đã có câu: “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly.”
Tôi cũng muốn vâng lời cha mẹ, và theo câu “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó,” nhưng khổ nỗi cho tôi là những người mẹ tôi chấm thì tôi thấy họ rất quê mùa, đến nỗi các em tôi phải thốt ra để chọc tôi: “Sao trông anh ấy quê một cục!” Tôi lại còn tự nghĩ trong lòng: nhất quyết không lấy chồng, thà ở giá còn hơn làm vợ cái anh chàng nhà quê, nhà mùa đó.
Có lẽ Chúa và Đức Mẹ không kỳ thị tôn giáo, cho nên những người tôi có cảm tình, có thể tiến xa hơn thì toàn là những người không có đạo. Rồi chuyện gì đến cũng phải đến… Ngày tôi lấy chồng không được làm phép cưới ở nhà thờ, vì chồng tôi không có Đạo, và cũng không chịu theo Đạo.
Thời gian thấm thoát thoi đưa, vợ chồng tôi mỗi người giữ một đạo. Những ngày Chúa nhật, tôi lầm lũi đi nhà thờ một mình. Thấy tôi đi lễ một mình, nhà tôi cũng tội nghiệp cho tôi nên đôi lúc anh ở lại cùng với tôi dự lễ. Nghe cha giảng, thấy cũng hay hay, toàn là những điều tốt lành, nghe những bài thánh ca trầm bổng, giúp cho tâm hồn nhẹ nhàng, yêu đời và yêu người hơn.
Thế là mặc dù không vào Đạo, nhưng những lời giảng của cha xứ ở nhà thờ cũng là những lời tốt lành; thêm vào đó, tôi vẫn giữ đúng bổn phận người con dâu trong gia đình thờ cúng ông bà, giỗ chạp tôi đều nấu cỗ cúng, cũng mâm cao cỗ đầy, cũng hương hoa, cũng nhang đèn, cũng vái lạy. Tôi quan niệm cúng giỗ ông bà cha mẹ là để tưởng nhớ lại như khi còn sống. Khi đến trước bàn thờ lạy vái người quá cố, tôi vẫn khấn rằng: “Lạy Chúa, hôm nay là ngày giỗ của ông nội con, xin Chúa cho ông con được lên thiên đàng hưởng nhan thánh Chúa. Thưa ông nội, hôm nay con nấu cỗ cúng ông nội để tưởng nhớ đến ông ngày ông qua đời; ông nội lên thiên đàng xin nhớ đến chúng con.”
Phần các con tôi, tôi cho rửa tội, học Giáo lý, chịu phép Thêm sức…. Tạ ơn Chúa không có gì trở ngại. Phần nhà tôi, tôi luôn luôn xin nhà tôi có một điều duy nhất: “Em chỉ mong muốn có một điều duy nhất, là trước khi em chết, em được thấy anh rửa tội, vào Đạo. Mà sự chết đi nhanh như hơi thở, ai biết được mình chết lúc nào, cho nên anh càng trở lại với Chúa sớm ngày nào thì em vui mừng ngày nấy”. Đôi khi tôi còn đùa: “Chẳng lẽ mấy mẹ con em ở thiên đàng nhìn anh sa hoả ngục lại cầm lòng được sao?”
Tôi liên lỉ cầu nguyện. Trong cuộc sống tôi luôn tin có Chúa. Trong mỗi lời nói, tôi đều đưa tiếng “Chúa” vào. Trong phòng ngủ, nhà bếp, phòng khách, thậm chí trong phòng vệ sinh, tôi đều để sách đạo, những mẩu chuyện ngắn hay hay, gương các Thánh, tôi đọc xong gập lại, và nhắn với nhà tôi: Anh bận không đọc nhiều – nhà tôi rất lười đọc sách -, em đã đọc xong, đoạn nào hay em đã gập sẵn, anh cứ mở ra đoạn đó hay lắm, chỉ cần 1 hay 2 phút thôi…
Đi phòng mạch chờ bác sĩ cả tiếng đồng hồ, tôi cứ việc tha một vài cuốn sách đạo, tôi một cuốn và nhà tôi một cuốn (cuốn đưa cho nhà tôi, tôi đã đọc qua và thấy nó hay), cho nên dù lười đọc sách nhưng chẳng thà đốt thì giờ qua cách đó còn hơn ngồi chờ sốt cả ruột. Thêm vào đó, tôi cố gắng làm gương sáng cho nhà tôi và các con trong mọi hoàn cảnh, những vui buồn trong cuộc sống tôi đều dâng cho Chúa, có những lúc gia đình khủng khoảng, tôi vẫn vững niềm tin nơi Chúa. Nhà tôi học phần nào sự phó thác của tôi, và thấy rằng cuộc sống người Ki-tô hữu có nhiều cái rất hay, tìm cho mình một thiên đàng ngay ở trần gian, hạnh phúc ngay cả trong lúc khổ đau. Những bực bội trong sở làm, những kèn cựa trong cuộc sống, tôi đều khuyên nhà tôi nhường nhịn và hòa nhã với mọi người, như vậy ở sở mình sẽ có nhiều bạn hơn thù, giúp được một người trong ngày, đó là niềm vui của một ngày hôm đó. Dần dà nhà tôi yêu Chúa lúc nào không biết. Rồi nhà tôi xin vào Đạo, học Giáo lý, rồi được rửa tội.
Người vui mừng nhất không phải là tôi, mà là mẹ của tôi, vì con rể của bà nay đã đúng là mẫu người lý tưởng của bà cách đây 20 năm về trước bà đã chọn cho tôi. Nay gia đình tôi cảm tạ Chúa đã nhậm lời tôi sau một thời gian thử thách. Với lòng nhiệt thành của tôi, với lời cầu nguyện hàng ngày dâng lên Chúa, với tấm gương sáng trong đời sống người Ki-tô hữu, nhà tôi đã trở lại Đạo, trở về với Chúa. Có một điều mà tôi sung sướng nhất là đối với con cái, người thân, bạn bè… mỗi khi nói về Chúa, nói về Đức tin, hoặc trong những công tác thiện nguyện, nhà tôi còn hăng say hơn tôi nữa, và được mọi người tin tưởng hơn cả tôi.
Trong câu truyện trên đây, xem ra ông chồng trở lại Đạo vì đời sống của vợ, vì tình yêu của vợ, nhưng thực ra, bà vợ chỉ là môi giới. Chính Chúa mới là lý do.
Câu truyện Tiệc Cưới Cana trong Tin Mừng thánh Gioan (Ga 2,1-11), xem ra Đức Mẹ là người đã giải quyết vấn đề cho đôi tân hôn, nhưng thực ra Đức Mẹ chỉ là người bầu cử, chính Chúa Giêsu mới là người giải quyết.
Vì vậy, để sống Đạo hạnh phúc, cần phải vươn lên khỏi các yếu tố phụ để tìm ra sợi giây thân tình riêng nối kết mình với Chúa Giêsu. Còn gì hạnh phúc hơn được làm con Chúa Cả Trời Đất! Còn gì hạnh phúc hơn khi biết mình được Chúa Cả Trời Đất thương yêu và yêu đến độ đã sai Con Một của mình xuống thế làm người để chia sẻ thân phận làm người để cứu vớt và để thông truyền đời sống thần linh cho những ai tin vào Ngài và đón nhận Ngài (x. Ga 1,12; Ga 3,16-18). Còn gì hạnh phúc hơn khi vì Chúa, mình có thể thương yêu, giúp đỡ và tha thứ cho những người chẳng phải máu mủ, ruột thịt gì với mình! Không hạnh phúc sao được, khi lòng mình như mở rộng ra cõi trời mênh mông bát ngát!
Để giữ được hạnh phúc trong mối tình thân thiết với Chúa, còn phải biết sống theo con đường Chúa đã chỉ. Đó là các giới răn của Chúa và các điều luật của Hội Thánh. Yêu nhau thì cùng đi trên một con đường, cùng chia sẻ những lựa chọn với nhau…
Để biết thêm con đường đó, cần phải học hỏi qua việc học giáo lý và chia sẻ kinh nghiệm sống với những anh chị em đang hạnh phúc bên Chúa.
2.  Làm sáng tỏ các nghi vấn
Các nghi vấn, các điều ngờ vực có khác chi những rác rưởi làm tắc nghẽn mạch nước. Tuy con sông đầy nước, nhưng vì cành lá cây cối bên bờ sông rơi xuống và tụ lại làm cho dòng nước không chảy ngon trớn được. Do đó, để sống hạnh phúc đời sống Đức Tin, còn cần phải làm sáng tỏ các nghi vấn, mà thời nay lại rất nhiều. Ở đây, tôi chỉ muốn trả lời mấy vấn nạn mà các anh chị thường đặt ra.
a) Có người nói rằng Đạo Công Giáo là đạo nước ngoài, không phải đạo của người Việt Nam
Nếu nói theo địa dư thì Đạo Công Giáo phát xuất ở ngoài nước ViệtNamnên có thể nói là đạo nước ngoài. Nhưng đâu  phải chỉ có Đạo Công Giáo mới là đạo nước ngoài. Phật giáo phát xuất từ Ấn Độ và vào ViệtNamqua hai ngả: Tàu và Cao Miên. Như vậy, đạo Phật cũng là đạo nước ngoài; Khổng giáo và Lão giáo đến từ nước Tàu, cũng là đạo nước ngoài; Hồi giáo đến từ Ả rập Trung Đông cũng là đạo nước ngoài.
Nếu nhìn sâu hơn thì thấy là trong một tôn giáo có hai phần: phần tinh anh là yếu tố thiêng liêng; phần cụ thể là những cách diễn tả yếu tố thiêng liêng. Phần tinh anh thiêng liêng thì không có trong có ngoài. Đâu có một con tim đón nhận thì đó là nhà. Cho dù có phát xuất ngay bên cạnh nhà, mà mình không đón nhận thì vẫn là ở ngoài, là ngoại lai. Còn những diễn tả cụ thể thì mang tính chất văn hóa của người đã sống và truyền cho mình. Do đó, đạo Công Giáo có những cách diễn tả theo văn hóa Do Thái và La-Hy; đạo Phật có những cách diễn tả theo văn hóa Ấn Độ và đạo Phật vào ViệtNamqua ngả Trung quốc thì có thêm những yếu tố văn hóa Tàu. Cứ xem các tượng Đức Phật coi, quần áo của Ngài mặc có gì là Việt Nam đâu; đạo Khổng và đạo Lão thì có cách diễn tả theo truyền thống Trung quốc…
Nhưng đâu có phải hễ cái gì của nước ngoài là xấu đâu. Ngày nay người ta còn chuộng đồ ngoại nữa là khác. Trong đời thường, đàn ông Việt Namđi giầy tây, đeo cravatte, đàn bà mặc váy đầm. Những thứ đó đâu có phải của ViệtNam, vậy mà người ta vẫn thích mặc và có người còn tỏ ra hãnh diện nữa. Dầu sao, mỗi người cần phải diễn tả cái phần thiêng liêng tinh thần của Đạo theo văn hóa của mình. Vì vậy, Đạo Công Giáo trên khắp thế giới, ngày từ những thế kỷ đầu, nhưng nhất là trong mấy chục năm vừa qua, đã cố gắng diễn tả Đức Tin theo văn hóa mỗi nơi. Tại Việt Nam, Giáo Hội Công Giáo đã có rất nhiều cố gắng từ nhiều thế kỷ để diễn tả Đức Tin của mình theo cách thức Việt Nam, chẳng hạn, Dâng Hoa, Vãn Hoa, Thánh Lễ bằng tiếng Việt Nam, các bài hát đạo, các kinh bằng tiếng Việt… Khi tôi đi thăm viếng Thái Lan, một Đức Cha Thái kể với tôi là ngày lễ sinh nhật của Vua Thái, các tôn giáo họp nhau để cầu nguyện cho Vua Thái. Chỉ có người công giáo Thái là cầu nguyện bằng tiếng Thái, còn các tôn giáo khác cầu nguyện bằng tiếng nguyên gốc của tôn giáo đó, không phải là tiếng Thái. Người công giáo bị chê trách là theo Đạo nước ngoài, nhưng lại là những người duy nhất dùng tiếng của mình để cầu nguyện! Hoàn cảnh này, biết đâu cũng chẳng phải là hoàn cảnh ViệtNam?
b) Theo Đạo Công Giáo có phải từ bỏ ông bà, cha mẹ và bất hiếu không?
Người ta hay nói là theo đạo phải bỏ Ông Bà. Câu nói này nghe cứ như một truyện huyền thoại, nhưng người ta cứ lặp đi lặp lại mà không kiểm chứng hư thực. Theo Đạo Công Giáo, không những không được bỏ ông bà, cha mẹ, mà đạo hiếu còn là một bổn phận nền tảng được diễn tả bằng nhiều cách.
Đạo Chúa dạy phải thảo kính cha mẹ
Trong Kinh Thánh, có rất nhiều đoạn sách dạy các tín hữu phải thảo kính cha mẹ. Ở đây, chúng ta chỉ trích một đoạn của sách Huấn Ca, được đọc trong phụng vụ ngày lễ kính Thánh Gia Thất: “Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu.  Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái, khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe. Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng. Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già; bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người. Vì lòng hiếu nghĩa đối với cha sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi cho con. Thiên Chúa sẽ nhớ đến con, ngày con gặp khốn khó, và các tội con sẽ biến tan như sương muối biến tan lúc đẹp trời. Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, ai chọc giận mẹ mình, sẽ bị Đức Chúa nguyền rủa.” (Hc 3,2-6.12-16).
– Giới Răn thứ bốn
Đạo Chúa có 10 Giới Răn, trong đó 3 Giới Răn đầu nói về bổn phận đối với Thiên Chúa và 7 Giới Răn sau nói về bổn phận đối với loài người và Giới Răn đầu tiên của 7 Giới Răn này là Giới Răn thứ IV dạy phải “Thảo kính cha mẹ”.
– Cầu nguyện cho ông bà tổ tiên mỗi ngày
Ngày nào trong Thánh Lễ, linh mục cũng cầu nguyện cho Tổ tiên, ông bà, cha mẹ đã qua đời. Trong Thánh Lễ, không những mỗi tín hữu cầu nguyện cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ của mình mà cả những anh em công giáo khác cũng cầu nguyện cho tổ tiên ông bà của mình và mình cũng cầu nguyện cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ của họ. Như vậy, chữ hiếu của người công giáo được nhân lên gấp nhiều triệu lần.
– Tháng các Linh Hồn
Mỗi năm Giáo Hội dành trọn tháng 11, gọi là Tháng các Linh Hồn hay Tháng các Đẳng, để cầu nguyện cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ và mọi người thân thuộc đã qua đời. Chiều ngày 1 hay 2 tháng 11, nghĩa trang người công giáo rộn ràng như ngày Tết, nhưng cũng linh thiêng và đầm ấm vì tất cả gia đình dắt nhau ra viếng mộ ông bà cha mẹ và đọc kinh cầu nguyện cho các ngài.
– Những dịp kỷ niệm
Trong năm, vào dịp kỷ niệm của tổ tiên, ông bà, cha mẹ, người công giáo thường xin lễ cầu nguyện cho các ngài.
– Ngày Mồng Hai Tết
Riêng tại Việt Nam, Hội Đồng Giám Mục đã quyết định dành ngày Mồng Hai Tết để cầu nguyện cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ còn sống cũng như đã qua đời. Thường tại các giáo xứ, giáo dân tham dự Thánh Lễ ban sáng tại nhà thờ để cầu nguyện cho ông bà, cha mẹ còn sống. Thánh lễ ban chiều, thường được cử hành tại nghĩa trang để cầu nguyện cho tổ tiên và ông bà, cha mẹ đã qua đời. Cũng như ngày mồng 2 tháng 11, vào dịp này, giáo dân tham dự Thánh Lễ rất đông, có khi còn đông hơn ngày mồng 2 tháng 11 vì là ngày nghỉ. Người ta có thể chứng kiến một khung cảnh rất cảm động, linh thiêng và đầm ấm gia đình. Trước Thánh Lễ, con cái, cháu chắt tụ họp chung quanh ngôi mộ của cha mẹ, ông bà cắm hoa, thắp hương và cầu nguyện trước Thánh Lễ.
Đạo Chúa cấm những hành vi, lễ nghi mê tín dị đoan
Giáo Hội cấm những lễ nghi, phong tục tôn kính tổ tiên có tính cách mê tín, dị đoan, chẳng hạn vấn đề dâng cúng đồ ăn cho tổ tiên. Trước đây Giáo Hội cấm hành động này vì trong tâm thức lúc đó, người dân tin là ông bà về ăn và người ta tôn thờ ông bà như một vị thần có quyền ban phát ơn huệ cho con cái, chứ không phải là những vị thánh tốt lành, có thể bầu cử cho con cháu trước Tòa Chúa. Bây giờ tâm thức của dân chúng đã thay đổi. Người ta coi đó là những cách tỏ lòng tôn kính, tưởng nhớ đến ông bà, tổ tiên. Do đó, những nghi thức, phong tục này lại được Giáo Hội cho phép.
Như vậy, Giáo Hội không những không cấm mà còn khích lệ và bó buộc tỏ lòng tôn kính ông bà tổ tiên. Hơn nữa, trong khi đạo hiếu trong văn hóa Việt Nam đặt nền tảng trên chính tổ tiên, đạo hiếu của người công giáo vươn lên hẳn một bậc: đây là lệnh truyền của Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng nên mọi người, kể cả các tổ tiên, ông bà, cha mẹ mình.
Giáo Hội chỉ cấm các thái độ, phong tục và hình thức diễn tả mê tín, dị đoan đi ngược lại Đức Tin Công Giáo. Ở khía cạnh này, cũng có thể xảy ra những hiểu lầm về ý nghĩa của những phong tục, lễ nghi. Không những trong quá khứ mà ngay cả trong thời đại này, các ý kiến về ý nghĩa một số phong tục hay nghi lễ cổ truyền theo văn hóa cũng không luôn hòa đồng với nhau.
c) Đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành. Tại sao lại phải theo Công Giáo?
Người ta hay nói: “Đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành”. Thực ra, không thể xác quyết cách chung chung như vậy được. Có những truyền thống tôn giáo không dạy ăn ngay ở lành; chẳng hạn, bắt giết những ai không tin theo đạo của mình. Vì vậy, cần phân tích rõ ràng những yếu tố cụ thể.
Ngoài ra, không phải các tôn giáo đều dạy mọi truyện như nhau, nhiều khi không những khác nhau mà trái ngược nhau nữa. Do đó, vấn đề đặt ra là lấy tiêu chuẩn nào, thước đo nào để phân biệt điểm tốt, điểm xấu? Đối với người Công Giáo thì chỉ có Tin Mừng của Chúa mới là tiêu chuẩn định đoạt.
Tuy nhiên, việc trở lại Đạo Công Giáo có một lý do khác nền tảng hơn. Đó là đón nhận Chúa Giêsu vào cuộc đời của mình. Chúa Giêsu không phải chỉ là một vị sáng lập một tôn giáo, một vĩ nhân, một vị đáng kính. Ngài chính là Thiên Chúa mà vì tình yêu nhân loại đã xuống thế làm người để cứu nhân loại và chỉ đường cho nhân loại biết đường tìm đến Thiên Chúa Cha vì chỉ qua Ngài, nhân loại mới biết được Chúa Cha (Mt 11,27; Lc 10,22).
d) Tại sao Giáo Hội bắt giáo dân khi lập gia đình phải chung thủy một vợ một chồng trong khi đó lại cho phép linh mục được bỏ chức linh mục để lập gia đình?
Trước tiên, cần phải xác định cho rõ câu hỏi. Giáo Hội không bao giờ cho phép bỏ chức linh mục, mà chỉ cho phép hay, nói đúng hơn, bắt phải chấm dứt không được thi hành các tác vụ của chức Linh Mục.
Câu hỏi nói ra một vấn đề rất thực, nhưng lại diễn tả một não trạng tiêu cực, coi việc ly dị như một ân huệ và việc chung thủy như một gánh nặng. Giữ lòng chung thủy đối với giáo dân lập gia đình và linh mục tuyên hứa giữ đời sống độc thân là một hạnh phúc và nói lên sự trưởng thành của một người. Riêng đối với các đôi hôn nhân công giáo, đòi hỏi chung thủy là một ân huệ nói lên lòng tin tưởng vào Chúa vì Chúa trao cho các đôi vợ chồng công giáo sứ mệnh làm hình ảnh của tình yêu chung thủy của Chúa cho Giáo Hội và cho loài người. Nhưng Chúa không chỉ trao sứ mệnh, mà Chúa còn ban ơn, giúp cho các đôi vợ chồng chu toàn sứ mệnh Chúa trao. Do đó, Chúa lập tình yêu vợ chồng thành Bí Tích.
Sau khi đã định xong viễn tượng của vấn đề, chúng ta cũng cần cắt nghĩa để hiểu lý do của Giáo Hội. Bí tích Hôn Phối do chính Chúa thiết lập, nên Giáo Hội không thể thay đổi. Vì vậy, khi một đôi hôn nhân gặp khó khăn thì Giáo Hội tìm hết cách để trợ lực và an ủi, khích lệ. Còn đối với các linh mục, giữ độc thân không phải là bí tích, mà là điều kiện. Do đó, bên truyền thống Đông phương, Giáo Hội cũng truyền chức linh mục cho những người lập gia đình, còn bên truyền thông Tây phương, Giáo Hội chỉ truyền chức cho những người chấp nhận sống độc thân. Nếu một linh mục không giữ đời sống độc thân thì Giáo Hội không cho tiếp tục thi hành sứ vụ linh mục, nhưng vị đó vẫn còn là linh mục vì chức linh mục là bí tích. Phải nói đây là một thất bại đau thương cho vị đó, và dĩ nhiên cũng cho Giáo Hội nữa. Vì vậy, phải thương hại chứ không được ghen tị.
e) Giáo lý GH dạy phải sống công bằng không gian dối, nhưng ngày nay nếu không gian dối thì không kiếm được nhiều tiền, cuộc sống rất vất vả. Trước hoàn cảnh đó chúng con phải làm sao?
Để trả lời cho câu hỏi này, phải nói rất nhiều, nhưng để đơn giản hóa vấn đề, tôi xin nhắc lại đây hai câu Chúa đã nói trong các sách Tin Mừng, rồi sau đó, trích lại hai chứng từ. Hy vọng như vậy cũng tạm đủ.
* Lời Chúa:
– Được cả thế giới mà phải thiệt mất linh hồn mình, thì được ích gì?Quả thật, người ta lấy gì mà đổi lại mạng sống mình?Ai hổ thẹn vì Ta và những lời Ta dạy trước thế hệ ngoại tình và tội lỗi này, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn vì kẻ ấy, khi Người ngự đến cùng với các thánh thiên thần, trong vinh quang của Cha Người. (Mc 8,36-37)
– Các con là muối cho đời. Nhưng nếu muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi. Các con là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của các con phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp các con làm, mà tôn vinh Cha các con, Đấng ngự trên trời. (Mt 5,13-16).

  • Chứng từ
– Câu truyện một phật tử trở lại Đạo
Tại Đà lạt, có một bà rất sùng Phật, trong nhà lúc nào cũng khói hương nghi ngút. Tuy biết thế, nhưng các bà trong Hội Đạo Binh vẫn tới thăm thường xuyên từ năm này qua năm kia, riết rồi các bà trở thành bạn của bà ấy. Tuy nhiên, bà không bao giờ ngỏ ý muốn theo đạo Công Giáo. Một ngày kia bà ngã bệnh và cơn bệnh khá trầm trọng. Bà nhờ các bà Đạo Binh mời cha tới và bà xin được rửa tội. Trước khi được rửa tội, bà kể: “Chính ra tôi đã theo đạo cách đây 30 năm. Nhưng lúc đó, tôi cho một gia đình người công giáo mượn một số tiền khá lớn. Họ nhờ số tiền đó mà mở một cơ sở làm ăn rất khá. Một thời gian, tôi xin họ trả lại số tiền thì họ tìm cách không trả, và còn đi nói xấu tôi. Thế là tôi bỏ ý định theo đạo Công Giáo. Nhưng bây giờ tôi thấy các bà đi lại với tôi mấy năm quí hóa quá, có bầu bạn, tôi lại muốn được rửa tội”.
– Hãnh diện xưng mình là công giáo
Tại vùng Long Khánh, một anh thanh niên đến mua đồ tại tiệm bán hàng của một gia đình công giáo. Anh thanh niên ra đi rồi trở lại, nói là đã để quên cái máy chụp và bắt gia đình này trao lại. Bà chủ tiệm tìm và không thấy. Người đó đi gọi công an. Công an đòi khám nhà. Bà chủ tiệm trả lời: “Anh muốn khám nhà tôi cũng được, nhưng anh phải biết: Chúng tôi là người công giáo, không nói dối, không ăn cắp”. Và người ta bỏ đi.
Ước chi có nhiều người công giáo biết sống theo luật Chúa và hãnh diện xưng mình là người công giáo. Họ sẽ là muối cho đời và ánh sáng chiếu soi cõi đời tăm tối hôm nay.
Đức cha Giuse Đinh Đức Đạo
Giám mục phụ tá – Đại Chủng Viện Thánh Giuse Xuân Lộc
(Trích GIÁO DÂN HƯỞNG ỨNG NĂM ĐỨC TIN – Tập dài 2012)

Từ Bài Học Lịch Sử Của Người Mỹ

Từ Bài Học Lịch Sử Của Người Mỹ

Quo Vadis

Kỷ Niệm 30 Tháng Tư Đen

Cách nay 148 năm, khi cuộc chiến Nam Bắc Hoa Kỳ kết thúc năm 1865 thì thái độ và cách đối xử của người thắng trận đã nói lên tấm lòng bao dung quảng đại của người cùng 1 nước.

Cũng cách nay đúng 38 năm (ngày 30-4-1975), khi mà phía bên kia (tự nhận) là “bên thắng cuộc” đã đối xử và có chánh sách đối với các dân quân cán chánh và đối với dân chúng Miền Nam như thế nào, chúng ta ai cũng đều biết rõ.

Trong lịch sử của nước Mỹ, biến cố gây ảnh hưởng mãnh liệt nhất, có lẽ là cách mà tổ tiên của họ đã đối xử với nhau sau cuộc nội chiến Nam-Bắc chấm dứt vào năm 1865. Vào ngày 7/5/1975, có nghĩa là chỉ có 1 tuần sau khi quân đội Miền Bắc chiếm được Miền Nam, trong lễ ăn mừng chiến thắng tướng Trần Văn Trà đã nói trước mặt mọi người: “Trong cuộc chiến này, cả Miền Bắc và Miền Nam đều chiến thắng, chỉ có người Mỹ bại trận”. Không biết vô tình hay chủ ý, câu nói này tương tự như lời phát biểu của Tướng Ulysses Grant sau khi tướng Lee tuyên bố đầu hàng và Tướng Grant đã ghi lại trong quyển hồi ký của mình “Personel Memoir of U. S. Grant”: Trong cuộc chiến này, chỉ có nước Mỹ chiến thắng, chớ không có ai thắng ai thua.

Hai câu nói hình thức gần giống nhau nhưng ý nghĩa lại khác nhau hoàn toàn: Tướng Grant nói thật lòng mình để xoa dịu nỗi đau khổ của người bại trận sau cuộc nội chiến kéo dài bốn năm. Trái lại câu nói của tướng Trần Văn Trà là câu nói mị dân, nằm trong mục đích tuyên truyền của chế độ để gạt tất cả những quân dân cán chính của VNCH, tin vào chính sách “khoan hồng của Đảng”, tin rằng chỉ có 10 ngày “học tập”, nhưng sau đó ra đi không biết ngày trở lại và mãi đến hôm nay sự trả thù như thế vẫn chưa chấm dứt. Có một điểm đặc biệt là trong cách thể hiện lòng yêu nước của người Mỹ đều có chan chứa tinh thần hào hiệp mã thượng.Nói về tinh thần hào hiệp mã thượng của người Mỹ, cựu thủ tướng Tony Blair của Anh, trong quyển hồi ký “The Journey” mới xuất bản gần đây đã viết như sau:“Trong phẩm cách của người Mỹ có tinh thần mã thượng hào hiệp, được hun đúc qua nhiều thế kỷ, phát xuất từ tinh thần khai phá biên cương để lập nghiệp, và nhiều đợt di cư của các sắc dân khắp thế giới đổ về đây, từ cuộc chiến đấu để dành độc lập, đến cuộc nội chiến, từ nhiều biến cố lịch sử, cũng như những sự kiện tình cờ. Tất cả đã làm thành một nước Mỹ vĩ đại. Cái tinh mã thượng hào hiệp này, không có nghĩa là người Mỹ tử tế hay thành công hơn những dân tộc khác. Nó chính là cảm nghĩ của họ về đất nước của mình. Chính lòng nhiệt tình đối với xứ sở đã phá bỏ được những ngăn cách về màu da, giai cấp, tôn giáo hay quá trình trưởng thành. Lý tưởng của người Mỹ là những giá trị đạo đức mà họ ấp ủ. Lý tưởng này gồm có tự do cá nhân, tôn trọng luật pháp, dân chủ. Nó cũng nằm trong quá trình thành đạt của mỗi cá nhân: hễ giỏi là được trọng dụng, phải tự làm lấy và nếu siêng năng chịu khó tất sẽ thành công. Song có lẽ điểm quan trọng nhất phải nói là mọi người Mỹ đều ao ước duy trì cho được những giá trị trên và ráng bảo vệ những giá trị đó. Họ coi những giá trị đó là ưu tiên hàng đầu cho cá nhân mình, sau đó là cho đất nước. Chính những giá trị đạo đức này giúp cho nước Mỹ cương quyết sẵn sàng đương đầu với khó khăn thử thách. Vì những lý tưởng đó mà binh lính Mỹ chấp nhận hy sinh. Vì nó mà mọi người Mỹ, dù giàu sang hay nghèo hèn đều sẵn sàng đứng nghiêm trang chào khi bản quốc ca “The Star-spangled Banner” được trỗi lên. Dĩ nhiên là những lý tưởng đó không phải lúc nào cũng thực hiện được, song mọi người Mỹ đều cố gắng thực thi cho bằng được.

Nếu cuộc nội chiến Quốc-Cộng vừa qua đã để lại hệ lụy phân hóa kéo dài đến ngày hôm nay, thì sau cuộc nội chiến Nam-Bắc Mỹ đã làm cho người Mỹ yêu nước hơn, đoàn kết hơn và hãnh diện về đất nước của mình nhiều hơn. Họ hãnh diện không phải chỉ vì bãi bỏ được chế độ nô lệ, đúng với nguyện vọng mà tổ tiên họ đã đề ra trong Bản Tuyên Ngôn Độc Lập: “Mọi người sinh ra đều bình đẳng”, mà còn hãnh diện vì tinh thần hào hiệp mã thượng được thể hiện bởi người chiến thắng lẫn người chiến bại sau khi cuộc chiến kết thúc. Không có một hình ảnh nào đẹp hơn hình ảnh tướng Robert E. Lee gặp tướng Ulysses S. Grant tại Thị Xã Appamatox, thuộc tiểu bang Virginia ngày 9 tháng 4 năm 1864.Trước đó một ngày, tướng Lee chỉ còn trông chờ vào chiến thắng của một tướng trẻ can trường, để hy vọng tìm cách xoay chuyển được tình thế, nhưng khi hay tin tướng Gordon đã bị đánh bại, mọi hy vọng của Tướng Lee coi như tiêu tan. Quân của tướng Lee tại tiểu bang Virginia đang bị bao vây tứ phía, tiến không được mà lùi cũng không xong. Binh sĩ đã kiệt sức, lương thực đã cạn, đạn dược đã hết và nguồn tiếp tế cũng bị cắt đứt. Trong tình huống đó ông không còn chọn lựa nào khác là phải triệu tập bộ Tham mưu và nói thật ngắn gọn: “Tôi sẽ đến gặp tướng Grant, cho dù điều đó quá nhục nhã đối với tôi” (nguyên văn câu nói của ông: I will go and see General Grant and I would rather die a thousand deaths). Ngay lập tức ông đích thân soạn một lá thư gởi tướng Grant để yêu cầu sắp xếp một buổi gặp mặt càng sớm càng tốt vì ông không muốn hy sinh thêm bất cứ một sinh mạng nào nữa. Tại địa điểm hẹn gặp nhau, tướng Lee đến trước bằng ngựa với một sĩ quan tùy viên, hiên ngang trong trong bộ quân phục màu xanh dương, bên hông mang kiếm, thể hiện khí phách của người anh hùng dù bại trận vẫn không khuất phục. Khoảng nửa giờ sau tướng Grant, đại diện cho quân đội chiến thắng Miền Bắc tới. Ông mặc quân phục như một người lính bình thường, giày và quần vẫn còn dính bùn, không đeo kiếm. Hai người chào nhau, và tướng Grant tiếp tướng Lee thân mật như giữa một người Mỹ với một người Mỹ, chớ không phải giữa một người chiến thắng với kẻ chiến bại. Với ông làm nhục một người bại trận dù với bất cứ lý do gì cũng là làm nhục nước Mỹ. Sau này ông thú nhận là lúc đầu ông phải nói chuyện dài dòng với tướng Lee, nhắc lại những kỷ niệm xưa khi hai người cùng chiến đấu chung với nhau trong trận chiến Mexico, lý do là vì ông rất ngần ngại và thực sự hổ thẹn khi phải nói với Tướng Lee về chuyện đầu hàng. Cuối cùng chính tướng Lee là người đã nêu ra mục đích của buổi gặp mặt, và yêu cầu tướng Grant đích thân thảo bản văn kiện đầu hàng. Thật sự thì văn kiện đầu hàng Tướng Grant đã soạn sẵn trước khi đến điểm hẹn và tự tay trao cho tướng Lee xem lại. Đọc qua xong, lần đầu tiên gương mặc của tướng Lee tươi hẳn lên khi biết rằng binh sĩ dưới quyền ông được trở về nguyên quán sinh sống như một người dân bình thường, không phải chịu bất cứ một hình thức trả thù nào. Ông nói: “Điều này có một tác động rất tốt đối với tất cả mọi người, đặc biệt là sẽ giúp rất nhiều cho người của chúng tôi. “Tuy nhiên ông có thêm 2 yêu cầu:

1/ Cho phép binh sĩ của ông được mang ngựa, lừa về quê quán để sử dụng trong nông trại, vì không giống như quân đội miền Bắc, đây là tài sản của riêng họ mang theo khi gia nhập quân đội.

2/ Ông đang giam giữ hơn một ngàn tù binh quân đội miền Bắc và không còn lương thực cho họ, ngay cả binh sĩ của ông cũng đang đói. Cả hai yêu cầu này của tướng Lee đều được tướng Grant đồng ý ngay lập tức. Riêng yêu cầu thứ hai, tướng Grant ra lệnh cung cấp ngay cho các tù binh và binh sĩ miền Nam 25,000 khẩu phần ăn.Tướng Grant hỏi: “Như vậy, đủ chưa?”Tướng Lee trả lời: “Thưa đại tướng, như vậy là quá đủ. “Nói xong tướng Lee đứng dậy bắt tay tướng Grant, nghiêng người chào mọi người rồi bước ra khỏi phòng họp

Bức hình lịch sử : Tướng Lee (trái) gặp tướng Grant

Bên ngoài hội trường các sĩ quan và binh sĩ miền Bắc đang có mặt đều đưa tay kính cẩn chào vị tướng bại trận. Trên đường trở về doanh trại, các binh sĩ miền Nam nghiêm chào vị tướng lãnh mà họ ngưỡng mộ, có người đã bật khóc, tướng Lee cũng không cầm được nước mắt. Về đến doanh trại, trước mặt nhiều sĩ quan và binh sĩ đang chờ đợi, tướng Lee nói: “Tôi đã cố gắng làm tất cả những gì có thể làm được. Các anh em hãy trở về quê quán bây giờ và nếu sống được như những công dân tốt như các anh em đã từng chiến đấu như những chiến sĩ thì các anh em sẽ thành công. Tôi luôn luôn hãnh diện vì các anh em. Chào tạm biệt. Thượng đế phù trợ cho tất cả. “ (Boys, I have done my best for you. Go home now. And if you make as good citizens as you have soldiers, you will do well. I shall always be proud of you. Goodbye. And God bless you all. ).

Tin đầu hàng của tướng Lee lan ra nhanh chóng, tiếng súng của binh sĩ Miền Bắc vang lên khắp nơi để reo mừng chiến thắng. Ngay lập tức tướng Grant ra lệnh phải ngưng ngay tức khắc: “Quân đội miền Nam đã đầu hàng. Chiến tranh đã chấm dứt. Họ là đồng bào của chúng ta, chúng ta không được phép reo mừng trên chiến bại của họ. ”Theo điều kiện trong văn kiện đầu hàng, ngày 12 tháng 4 là ngày quân đội Miền Nam sẽ nộp súng ống và cờ xí cho quân đội Miền Bắc

. Tướng Grant giao việc này cho Đại tá Joshua Chamberlain phụ trách. Còn phía Miền Nam thì tướng Gordon nhận trách nhiệm. Ngày hôm ấy đã xảy ra một cảnh tượng hết sức cảm động. Khi các binh sĩ Miền Nam đi theo đội ngũ tới địa điểm để giao súng ống và cờ xí, Đại tá Chamberlain đã ra lệnh binh sĩ của mình đứng nghiêm chào các anh hùng bại trận đang đi ngang qua để bày tỏ lòng kính trọng. Sau này tướng Gordon đã ghi lại như sau: “Trong giây phút đó, không hề có một tiếng kèn hay tiếng trống, không một tiếng reo mừng, không một lời nói, không cả một tiếng thì thầm, không một cử động, nhưng là một sự tĩnh lặng khủng khiếp, mọi nhịp thở như ngừng lại và như thể họ đang nhìn những hồn tử sĩ đi qua” và ông gọi Chamberlain là “người sĩ quan hào hiệp nhất của quân đội Miền Bắc. ”.

Sau 4 năm nội chiến đã làm 620 ngàn người thiệt mạng và hàng triệu người bị thương, các đô thị ở miền Đông Bắc Hoa Kỳ bị tàn phá nặng nề và đương nhiên cũng không khỏi những đắng cay của người bại trận. Nhưng những người lãnh đạo của bên thắng trận lẫn bên bại trận đều lấy tình dân tộc, sự bao dung rộng lượng và lòng hào hiệp để đối xử với nhau. Chính điều này đã làm cho người Mỹ vô cùng hãnh diện về xứ sở của mình. Sau cuộc chiến, những người lãnh đạo kế tiếp của nước Mỹ vẫn làm theo tinh thần của tướng Lee và tướng Grant, họ không bao giờ bàn đến đến chuyện ai đúng ai sai, ai chính nghĩa, ai không chính nghĩa, mà chỉ nghĩ đến làm sao để hàn gắn lại vết thương của chiến tranh và xây dựng lại đất nước. Các nghĩa trang dành cho liệt sĩ bắt đầu được dựng lên ở hai miền đất nước, bên nào bên đó tự lo lấy, xấu đẹp tùy sức.Ngày nay khi viếng thăm Nghĩa Trang Arlington ở thủ đô Washington DC, chúng ta sẽ thấy khu nghĩa trang dành cho binh sĩ Miền Bắc và Miền Nam đều trang nghiêm giống nhau và trong tất cả các bảo tàng viện khắp nước Mỹ, hình ảnh quân đội hai bên được trưng bày trân trọng như nhau, để nhắc nhở người Mỹ xem đó như một bài học cho các thế hệ mai sau. Trên nóc Tòa Quốc Hội Hoa Kỳ hiện nay có một bức tượng phụ nữ cao 10 mét – tượng trưng cho hình ảnh bà mẹ của Miền Nam có con hy sinh trong cuộc nội chiến. Bốn năm sau cuộc nội chiến, tướng Grant đắc cử tổng thống và làm 2 nhiệm kỳ (1869-1877), còn tướng Lee vẫn tiếp tục giữ nhiều chức vụ quan trọng trong chính phủ liên bang. Tướng Lee dù là tướng bại trận, không giữ được chức vụ cao như tướng Grant, nhưng bù lại, càng về cuối đời, tình cảm và lòng kính trọng của người Mỹ dành cho ông càng tăng lên, có thể nói còn cao hơn cả tướng Grant. Ngày nay tượng đài của tướng Lee có mặt nhiều nơi trên nước Mỹ và Robert Lee là tên đường quen thuộc trên một đất nước luôn luôn cố gắng lấy “lòng bao dung xóa bỏ hận thù”.

Nhận xét về con người của tướng Lee, sử gia Benjamin Harvey Hill đã viết như sau:“Tướng Lee là một đối thủ không có thù hận; một người bạn không phản bội, một người lính không tàn ác, một nạn nhân không than khóc. Một sĩ quan không sa đọa, một công dân không làm điều sai trái, một láng giềng không chỉ trích, một người Công giáo không đạo đức giả, một con người không thủ đoạn. Ông là một Caesar không có tham vọng, một Frederick không có chuyên quyền, một Napoleon không ích kỷ và một Washington không có phần thưởng. “(General Robert Lee is a foe without hate; a friend without treachery; a soldier without cruelty; a victor without oppression, and a victim without murmuring. He was a public officer without vices; a private citizen without wrong; a neighbour without reproach; a Christian without hypocrisy, and a man without guile. He was a Caesar, without his ambition; Frederick, without his tyranny; Napoleon, without his selfishness, and Washington, without his reward. ).

Thật khó có người nào được lời khen như thế, nhưng đó là con người thật của Robert Lee. Với những người lãnh đạo như thế đương nhiên quốc gia họ phải hùng mạnh.Tưởng cũng nên nhắc lại là khi cuộc nội chiến vừa mới xảy ra, tướng Lee được đề cử chỉ huy
quân đội Miền Bắc nhưng ông đã từ chối và gia nhập quân đội Miền Nam, vì ông
nói rằng ông không thể phản bội lại cái nơi mà ông đã sinh ra và lớn lên.

Cám ơn Nguyễn Phi Phượng gởi

Những tác dụng kỳ diệu của nụ cười

Những tác dụng kỳ diệu của nụ cười

Một toa thuốc có giá trị không cần prescription từ BS !

Ai cũng biết, cười sẽ khiến tâm trạng vui vẻ sảng khoái, nhưng ngoài ra nó còn đem lại nhiều lợi ích khác cho sức khỏe mà ít người biết đến. Theo tạp chí Discovery, cười sẽ làm tăng chức năng hệ miễn dịch, điều hòa huyết áp, kích thích hoạt động của các cơ quan nội tạng, và giảm đau.

Cười giúp giảm căng thẳng

image

Lượng hoóc – môn cortisol và epinephrine tiết ra trong cơ thể có khuynh hướng giảm đi khi bạn cười. Đây là những hoóc – môn gây stress, ức chế hệ miễn dịch, tạo kẽ hở cho các viêm nhiễm, bệnh tật. Các nghiên cứu đã chứng minh, cười giúp giảm căng thẳng, cải thiện chức năng miễn dịch, hay nói cách khác là tăng cường hoạt động của các tế bào “chiến binh” – đây là một loại bạch cầu chuyên săn lùng và tiêu diệt các tế bào ung bướu và tế bào nhiễm virus. Vì tác dụng to lớn đó của tiếng cười mà những bệnh nhân mắc ung thư hay HIV được khuyến cáo duy trì tâm trạng lạc quan vui vẻ, cười nhiều.

Những căng thẳng thể chất và tinh thần có thể khiến các prolactin, insulin, tuyến giáp và các hoóc – môn khác hoạt động không bình thường, gây ảnh hưởng xấu đến chức năng miễn dịch của cơ thể.

Vậy, lần tới, nếu bạn cảm thấy mệt mỏi sau khi đọc những tin tức thời sự đang diễn ra trên thế giới, hãy tìm tới mục truyện cười để lấy lại tâm trạng vui vẻ.

Tiếng cười trong kỹ năng ứng phó tình huống khó khăn

image

Cuộc sống luôn nằm ngoài tầm kiểm soát của chúng ta, những bất trắc đột ngột ập tới luôn khiến chúng ta bối rối và nản lòng. Xe đột ngột thủng lốp trên đường, một kết quả xét nghiệm không khả quan, hay một công việc thất bại… tất cả đều là những sự việc không mong đợi mà hiếm khi chúng ta chuẩn bị tinh thần sẵn sàng đón nhận. Mặc dù không điều khiển được mọi việc trong cuộc sống, nhưng chúng ta hoàn toàn có thể lựa chọn cách phản ứng với những sự kiện đó. Cười là một giải pháp nhanh chóng và hiệu quả giúp chúng ta giảm bớt căng thẳng do các tình huống xấu gây ra, giúp chúng ta vượt qua khó khăn một cách nhẹ nhàng. Cười cũng sẽ giúp bảo vệ trí não, cơ thể và tinh thần, giải tỏa bầu không khí căng thẳng, khiến cho những người xung quanh cũng cảm thấy thoải mái nhẹ nhàng hơn.

Vì vậy, khi gặp vận xui, thay vì nhăn nhó bực bội và mang cảm giác khó chịu đó trong suốt 1 ngày dài, hãy thử cười lên, rồi bạn sẽ thấy mọi chuyện lại tốt đẹp ngay.

Cười giúp máu huyết lưu thông, điều hòa huyết áp

image

Việc cười đối với sức khỏe tim mạch cũng quan trọng như kiểm soát nguy cơ nhồi máu cơ tim. Các nghiên cứu đã cho thấy, cười giúp làm giảm và cân bằng huyết áp, tăng cường lưu thông máu. Theo kết quả nghiên cứu của Đại học Maryland (Mỹ) về mối liên hệ giữa việc cười và sức khỏe tim mạch, cười sẽ khiến cho cơ màng trong của thành mạch máu giãn nở, giúp máu lưu thông tốt hơn. Nhờ khả năng tăng cường lưu thông và tăng oxy máu nên cười là một đồng minh mạnh mẽ của chúng ta trong cuộc chiến chống lại các bệnh tim mạch.

Cười có tác dụng như tập thể dục

image

Các nhà nghiên cứu cho biết, cứ 100 nụ cười thành tiếng thì có tác dụng tương đương với khoảng từ 10 – 15 phút tập luyện trên máy thể dục. Với hiệu quả như vậy nhưng bạn lại không cần phải hùng hục vã mồ hôi, hơn nữa còn cảm thấy rất vui vẻ, vậy tại sao bạn không cười nhiều hơn một chút.

Ngoài tác dụng tiêu thụ bớt năng lượng trong cơ thể, cười còn có tác dụng làm vệ sinh hệ hô hấp. Tương tự như khi tập thể dục, bạn thường hít thở thật sâu sau khi cười hết cỡ, việc hít thở này ngay lập tức sẽ làm thông thoáng các đường dẫn khí, gia tăng lượng oxy hít vào. Vì cười cũng có tác dụng như tập thể dục nên đó là lí do tại sao sau mỗi trận cười vỡ bụng bạn thường cảm thấy mệt lả.

Cười tốt cho bệnh nhân tiểu đường

image

Trong một số nghiên cứu, người ta đã phát hiện rằng việc cười có tác động tích cực đến nồng độ đường trong máu. Tuy chưa rõ cơ chế nào gây ra hiện tượng này nhưng khi tiến hành thí nghiệm trên một nhóm bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường tuýp 2, các nhà nghiên cứu nhận thấy, lượng đường trong máu của họ ổn định hơn khi xem một chương trình tấu hài so với khi nghe một giờ giảng buồn tẻ.

Một nghiên cứu khác theo dõi hiệu quả của liệu pháp cười đối với hệ thống renin-angiotensin ở những bệnh nhân tiểu đường tuýp 2. Kết quả cho thấy, lượng men renin giảm đáng kể khi áp dụng liệu pháp này. Điều này có nghĩa, tiếng cười có thể giúp các bệnh nhân tiểu đường tránh được những biến chứng liên quan đến vi mạch máu.

Cười giúp giảm đau

image

Cười là liều thuốc giảm đau tự nhiên tốt nhất. Nó rất hiệu quả, lại miễn phí, chẳng cần ý kiến bác sĩ và hơn nữa lại sẵn có ở bất cứ đâu.

Có thể bạn sẽ chẳng nghĩ tới việc cười nếu chẳng may vừa bị ngã từ trên cao xuống hay cắt phải tay mình, nhưng hãy cố mà cười đi, vì nó sẽ giúp bạn xoa dịu cơn đau nhanh chóng nhờ vào phản xạ phóng thích endorphin trong não khi cười (một hoóc môn giảm đau có tác dụng như thuốc phiện). Cười giúp xua tan nỗi sợ hãi, hóa giải cơn tức giận, do đó chúng ta sẽ có thể giải quyết tình huống hiệu quả hơn.

Cười giúp thúc đẩy các mối quan hệ xã hội

image

Cười là một hiệu ứng dễ lây lan. Khi bạn cười, những người xung quanh thường có khuynh hướng cười cùng bạn (điều tương tự hiếm xảy ra khi bạn khóc). Mọi người đều thích gần gũi hay giao tiếp với người hay cười.

Các nhà nghiên cứu cho rằng, việc cười sẽ giúp mọi người kết thân và giao tiếp với nhau. Càng cảm thấy thoải mái khi ở bên cạnh ai đó thì bạn càng dễ cười. Và theo các nghiên cứu, khi ở trong cộng đồng người ta thường cười nhiều hơn gấp 30 lần so với khi ở một mình.

Ngoài ra cười còn là một ngôn ngữ quốc tế vô cùng thân thiện. Nó là cách phá tan “băng giá” trong những buổi gặp gỡ tập thể, giúp mọi người thoải mái giao tiếp với nhau hơn.

Cười giúp giảm căng thẳng

image

Việc giải tỏa căng thẳng, bực tức, sợ hãi bằng tiếng cười mang lại nhiều lợi ích quan trọng về mặt tâm lý. Ngoài ra, cười còn làm giãn và giảm căng thẳng cho các cơ bắp, là cứu cánh cho những người mắc chứng đau cơ do co thắt. Đây là lý do trước khi tiêm, các bác sĩ hay y tá thường nói chuyện vui để người bệnh cười; làm như vậy để bệnh nhân không bị căng cơ lúc tiêm thuốc.

Cười giúp kích thích và tăng cường hoạt động của các cơ quan

image

Như đã đề cập phía trên, cười sẽ giúp máu huyết lưu thông, ức chế các hoóc môn gây căng thẳng, và tăng cường thể lực. Nói cách khác, việc cười sẽ có tác động tích cực đến các cơ quan như tim, phổi, não và kích thích chúng hoạt động.

Ngoài ra, nhiều nhà nghiên cứu tin rằng cười còn có lợi cho hệ tiêu hóa, chẳng hạn như có tác động tích cực đối với chứng ruột dễ bị kích ứng hay bệnh viêm túi thừa (túi thừa ở ruột non nằm trong vùng bụng dưới phải, gần với vị trí của ruột thừa).

Cười giúp tăng cường chức năng hệ miễn dịch

image

Các nhà khoa học khẳng định, cười có tác dụng vô cùng tích cực và quan trọng đối với hệ miễn dịch. Họ còn cho rằng nên xếp việc cười ngang hàng với việc dùng vitamin tổng hợp và xà phòng diệt khuẩn. Với những tác dụng như giảm lượng hoóc môn gây căng thẳng, tăng cường tuần hoàn máu, tăng lưu lượng oxy qua hít thở, giải tỏa các cảm xúc tiêu cực, cười sẽ kích thích hoạt động của hệ miễn dịch và giữ cho cơ thể khỏe mạnh.

Với những lợi ích to lớn như trên mà việc thực hiện lại hoàn toàn miễn phí và quá đơn giản, vậy bạn còn chần chừ gì nữa. Hãy quên hết lo toan mà vui vẻ cười lên đi!

Âm nhạc và tiếng cười giúp giảm huyết áp

Từ xa xưa ông cha ta đã đúc kết “Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ”. Nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học Nhật Bản đã chứng minh điều này.

Lắng nghe một giai điệu mà bạn yêu thích hoặc nở một nụ cười tươi và sảng khoái có thể giúp bạn giảm huyết áp. Hiệu quả mà nó mang lại còn lớn hơn cả việc phải bỏ ra 10 euro để chăm sóc sức khỏe.

Các nhà khoa học cho thấy những người tham gia vào nghiên cứu sau hai tháng sống trong môi trường âm nhạc và cười vui thoải mái đã có tác dụng giảm huyết áp tâm thu trung bình 5-6mmHg.

image

Ngược lại, ở nhóm đối chứng không có sự thay đổi chỉ số này. Họ được nghe nhạc, hát và thoải mái lựa chọn thể loại để nghe như nhạc pop, nhạc cổ điển, nhạc jazz. Họ cũng được khuyến khích nghe nhạc ở nhà, được nghe những câu chuyện hài hước, được khuyến khích cười cho tới khi cười một cách tự nhiên.

Sau ba tháng, huyết áp tâm thu của nhóm được nghe nhạc và chuyện cười giảm khoảng 5 hoặc 6 mmHg, trong khi không có sự thay đổi chỉ số này ở nhóm đối chứng. Hơn nữa, các phép đo được thực hiện ngay lập tức trước và sau mỗi buổi trị liệu cho thấy đôi khi huyết áp còn giảm sâu hơn, tới 7 mmHg.

Các nhà nghiên cứu cho biết, mặc dù âm nhạc và tiếng cười tự nó không đủ để chữa bệnh cao huyết áp, nhưng “đây là công cụ tự nhiên tuyệt vời để cải thiện sức khỏe, nhưng chúng tôi không khuyên bệnh nhân cao huyết áp sử dụng nó thay cho thuốc”, nó chỉ làm tăng khả năng khỏi bệnh và bổ trợ cho thuốc mà thôi.

Hiện cơ chế của hiện tượng này vẫn chưa rõ ràng, một số nhà nghiên cứu cho rằng thư giãn có thể làm giảm lượng cortisol – một hocmon stress góp phần làm tăng huyết áp.

Trong một nghiên cứu trước đây, các nhà khoa học phát hiện ra rằng âm nhạc và tiếng cười làm tăng kích thước lớp đệm bên trong mạch máu thêm 30%, từ đó làm giãn mạch máu và giảm huyết áp.