LÊN THIÊN ĐÀNG KHÓ HAY DỄ ?

LÊN THIÊN ĐÀNG KHÓ HAY DỄ ?
Phan Sinh Trần
image
Câu hỏi hệ trọng mà bất cứ Người Tín Hữu nào cũng tự hỏi đó là , Ta có được lên thiên đàng hay không ?
Vâng , đây thực là một câu hỏi rất quan trọng và cần thiết, nó cũng đầy tính tò mò về một điều mà hầu như không được mấy ai biết trước ngoại trừ Chúa và Các Thánh. Ngay cả đối với người đời, họ cũng tự hỏi nhau: “Có thiên đàng hay không , nó có xa vời thực tế của mặt đất quá hay không ?”

Còn quan niệm của Bạn về Thiên đàng ra sao ?

Có thể bạn đã từng trải cảm nghiệm rằng khi xa Chúa thì bạn thấy Thiên đàng thật là xa vời, trái lại khi gần Chúa thì bạn bỗng nhiên quan tâm tới Thiên đàng hơn.
Thực ra Thiên đàng là một thực tế , KInh Thánh nói : Ai chết trong ân sủng và tình nghĩa với Thiên Chúa, ai hoàn toàn được thanh luyện sẽ sống muôn đời với Đức Kitô, họ luôn luôn giống Thiên Chúa, vì họ đã thấy Ngài như Ngài hiện hữu, mặt đối mặt (1Ga 3,2)…
Thiên đàng được Chúa Giê Xu minh xác khi Ngài nói, trên Thánh Giá với người trộm lành :”Ngay hôm nay, con sẽ ở trên Thiên đàng với Ta” ( Lc 23,43). Chúa còn hứa với con cái của Chúa rằng: “Trong nhà Cha Ta, có nhiều chỗ ở , chẳng vậy, Ta đâu có nói với các ngươi là Ta đi dọn chỗ cho các ngươi”. (Gioan 14:2)
Với các Thánh thì thiên đàng là mục tiêu tối hận và rất gần bên. Thánh Phao lô trong thư Phi Lip đã minh xác rằng:
… nước quê ta là trời cao, tự đó sẽ đến vì Cứu Chúa mà ta ngóng đợi, Chúa Yêsu Kitô. 21 Ngài sẽ biến đổi thân xác khốn hèn của ta, sao nên đồng hình đồng dạng với thân xác vinh quang của Ngài, … (Phi 3: 20)
Thánh nữ Faustina, được thị kiến về Thiên Đàng , Ngài đã ghi lại trong nhật ký của mình,
Hôm nay ngày 27 tháng 11 năm 1936, tôi được ở trên Thiên đàng cách thiêng liêng. Tôi thấy những sự đẹp đẽ không thể diễn tả, và những hạnh phúc đang chờ chúng ta sau khi chết. Tôi thấy các tạo vật đang dâng lời ca tụng và tôn vinh Chúa không ngừng. Tôi thấy hạnh phúc trong Chúa lớn lao chừng nào, hạnh phúc lan ra mọi thụ tạo, làm cho họ sung sướng. … mà không bao giờ có ai hiểu hết hoặc đo lường hết được.
Nguồn mạch hạnh phúc này không thay đổi trong bản tính nó, nhưng lại luôn luôn đổi mới trong cách diễn tả, nó lan tràn ra hạnh phúc cho mọi linh hồn. Giờ đây tôi hiểu lời thánh Phaolô đã nói :”Mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe, lòng chưa cảm thấy những gì Chúa đã dọn sẵn cho kẻ kính mến Người”. (Thánh Faustina, Nhật ký Tình Thương, số 777).

Thực ra niềm vui của Thiên đàng phải được bắt đầu từ hôm nay , ngay trong lòng bạn

Thật là tuyệt vời nếu Bạn có thể cảm được Thiên Đàng ngay từ bây giờ khi đang còn ở trên trái đất này, thậm chí có vị Thánh đã cho rằng Thiên đàng cao xa sẽ không có được nếu như ta không bắt đầu nó từ trên đất. NIềm vui Thiên đàng khi còn ở thế gian này chỉ là hình bóng mờ nhạt của một niềm vui vô cùng lớn lao và khôn tả sẽ đến trong tương lai , điều đó rất tốt và rất cần thiết phải không ? Bằng những cách rất thiết thực , Ta đi tìm và sẽ gặp được “niềm vui Thiên đàng trên đất”:
  • · Ta hãy có niềm vui của Thiên Đàng qua sự đón nhận Chúa một cách trọn vẹn trong đời mình thì rồi một bằng an , mãn nguyện xen lẫn phấn khởi sẽ âm thầm trào dâng một cách mãnh liệt trong tim , đó chính là một hình ảnh nhỏ, mờ của Thiên đàng ,
  • · Ta hãy chân thành tha thứ cho người mà mình giân hờn nhiều năm thì niềm vui của cảm thông sẽ triển nở , đó là thứ phấn khích xuất xứ từ Thiên đàng,
  • · Ta hãy ca ngợi Chúa hết sức , hết con tim, hết linh hồn thì niềm vui Thiên đàng sẽ đọng lại trong những giọt nước mắt sung sướng và trong nụ cười mãn nguyện của mình, nhất là sự hoan lạc trong Chúa Thánh Linh khi ta kết hợp với Chúa trong bí tích Thánh Thể , trong các buổi cầu nguyện lâu giờ và rất thân thiết với người bạn thân của mình tên là Gie xu.
  • · Ta hãy cầu nguyện không bao giờ mệt mỏi cho những nhu cầu cấp thiết của người Anh Em với một đức tin mạnh mẽ rồi thì Chúa sẽ mau mắn đáp lời , khi đó ta có niềm vui được thấy quyền năng, vinh quang của vị Chủa Tể Vũ trụ ban ơn lành xuống cho Anh Em, ta vui hưởng sự phấn khích khi mục kích vinh danh Chúa tỏ ra trên đất, vinh quang này vốn quá đầy dẫy trên Thiên đàng. Chúa hứa rằng: “Hãy xin và các ngươi sẽ được,hầu các ngươi được vui mừng trọn vẹn”. (Gioan 16: 24b)
… vâng, thưa bạn, tất cả những điều đơn sơ đó đều là niềm vui tập sự về Thiên Đàng . Cứ kết hợp với Chúa đi rồi bạn sẽ cảm thấy Thiên đàng !
Còn Thiên đàng của người thân của tôi thì sao ?
Chỉ cần Vợ Con , Cha Mẹ, Anh Em của Bạn bị một tai nạn xe , tai nạn té ngã thì mình hớt ha hớt hãi cứu giúp và quặn đau lòng nếu họ bị đau đớn dày vò. Thế còn hình phạt đời đời nếu họ sa hỏa ngục thì sao , hình phạt này đáng phải kinh hoàng , hoảng sợ hơn đến thế nào. Bằng mọi cách ta hãy mau mau, gấp gáp cứu giúp họ, cách tích cực nhất để cứu Anh Em mình khỏi sa hỏa ngục là hãy chia xẻ cho họ , một khi Bạn đã có và cảm nghiệm được, về một ” niềm vui Thiên đàng trên đất “của bạn. Hãy làm chứng cho Chúa về một Thiên đàng có thể cảm nghiệm được . Thiên đàng đó bắt đầu bây giờ , ngay hôm nay. Khi đó bạn và người thân sẽ không còn “mối lo hỏa ngục” nữa
Một lời sau hết , nếu bạn vẫn còn “ghiền” chuyện Thiên Đàng thì xin mời đọc thêm, nghe thêm ở đây:

SAI LẦM CỦA NGƯỜI THẦU KHOÁN

SAI LẦM CỦA NGƯỜI THẦU KHOÁN

Cha Mark Link, S.J.

Chủ đề: “Trong cuộc đời, chúng ta cần thời gian thinh lặng cầu nguyện
nếu chúng muốn quân bình và biết nhìn xa”

Vào buổi tối kia, một người cha đến dự phiên họp giữa thầy cô và phụ huynh trong một trường trung học ở Chicago. Trong bài nói chuyện của một thầy giáo, người cha này đã bật khóc nức nở.

Sau khi lấy lại bình tĩnh, người cha xin lỗi và nói: “Con tôi không còn sống với tôi nữa. Nhưng tôi vẫn yêu thương cháu và tôi muốn biết việc học hành của cháu như thế nào.”

Sau đó người cha cho biết vợ ông và bốn đứa con đã bỏ ông chiều hôm đó.

Ông là một thầu khoán xây cất và nhiều khi làm việc đến 16 giờ một ngày. Đương nhiên, ông ít gặp gia đình hơn, và dần dà họ càng xa ông hơn nữa.

Sau đó người cha nói lên một điều thật buồn thảm. Ông nói: “Tôi muốn mua cho vợ con tôi những gì mà tôi hằng mơ ước mua cho họ. Nhưng rồi tôi quá bận tâm làm ăn đến độ tôi quên đi điều mà gia đình tôi cần đến nhất: đó là một người cha có mặt trong gia đình hằng đêm để yêu thương và nâng đỡ vợ con.”

Câu chuyện có thật này cho thấy điểm quan trọng của bài phúc âm hôm nay. Đó là:

Chúng ta có thể quá bận tâm làm việc đến độ quên đi lý do tại sao chúng ta làm việc. Chúng ta có thể quá bận tâm đến đời sống đến độ quên đi mục đích của đời sống. Chúng ta có thể quá bận tâm theo đuổi những gì có thể mua được bằng tiền bạc mà quên đi những gì tiền bạc không thể mua được.

Đó là một loại sai lầm mà cô Máctha đã vấp phạm trong bài phúc âm hôm nay. Cô quá bận tâm đến việc nấu nướng cho Chúa Giêsu đến độ cô quên đi lý do tại sao Chúa đến nhà cô. Người đến không vì miếng ăn; Người đến vì tình bạn.

Giả như khi chúng ta còn nhỏ, sống với cha mẹ và nếu Đức Giêsu cho biết Người sẽ đến thăm gia đình, chúng ta biết các bà mẹ sẽ làm gì. Họ sẽ động viên toàn thể nhân lực trong gia đình từ nhiều ngày trước để dọn dẹp, lau chùi nhà cửa. Họ sẽ sai con cái đi chợ mua thứ này thứ kia. Nói tóm, họ sẽ hành động giống như cô Máctha.

Nhưng mẹ chúng ta cũng giống như cô Maria. Họ luôn dặn dò để biết chắc là con cái ăn mặc đàng hoàng tử tế, đến ngồi chung quanh Đức Giêsu, chú ý đến những gì Người nói. Mẹ chúng ta sẽ quân bình giữa sự lưu tâm đến miếng ăn cho Đức Giêsu và lưu tâm đến tình cảm mà gia đình dành cho Người.

Đó là những người mẹ có tài giữ quân bình mọi sự, từ việc cơm nước trong nhà đến việc giặt giũ lau chùi. Nhưng các bà mẹ còn cần đến các người làm cha có khả năng quân bình mọi sự, từ việc kiếm tiền cho đời sống vật chất đến việc giáo dục con cái, nâng cao giá trị tinh thần của đời sống.

Ngày nay, không may, chúng ta sống trong một thế giới thật khác biệt.

Thật dễ để đánh mất sự quân bình trong thế giới ngày nay. Thật dễ để đánh mất cái nhìn xa trông rộng. Thật dễ để xáo trộn những gì là ưu tiên. Thật dễ để đánh mất khả năng nhận ra những gì cần làm và tại sao chúng ta làm công việc ấy.

Trong Thế Chiến II, một người lính trẻ trấn đóng ở hòn đảo Saipan thuộc Nam Thái Bình Dương cho biết trong thời gian nghỉ ngơi, anh và bạn hữu đến bơi ở một chỗ vắng vẻ kín đáo, ngay ở mé hòn đảo. Đó là một nơi thật đẹp có núi đá bao quanh.

Khi đến nơi, họ thấy nước thật trong đến nỗi có thể nhìn thấy cá bơi lội sâu dưới nước cả 10 feet. Tuy nhiên, sau khi họ bơi lội chừng một tiếng đồng hồ, nước trở nên đục ngầu vì cát bị khuấy động, họ không còn thấy được dưới đáy dù chỉ cách có một feet.

Nhưng hôm sau, khi họ trở lại, cát đã lắng đọng. Nước lại trong trẻo như trước.

Tâm trí chúng ta cũng như vũng nước đó. Nó cũng có thể vẩn đục vì những biến động trong cuộc sống hằng ngày khiến chúng ta không còn nhìn thấy rõ ràng. Chúng ta mất khả năng nhìn thấy mọi sự: quan điểm của chúng ta trở nên mù mờ; những ưu tiên của chúng ta trở nên hỗn độn; sự quân bình của chúng ta đã bị mất.

Khi điều này xảy ra, điều chúng ta cần thi hành là tạm ngừng và để nước đục của tâm trí trở nên trong trẻo lại. Chúng ta cần thi hành điều mà cô Maria đã làm trong bài phúc âm hôm nay. Chúng ta cần ngồi dưới chân Đức Giêsu trong sự thinh lặng cầu nguyện. Chúng ta cần để Người dạy chúng ta biết điều gì là quan trọng và điều gì không đáng kể.

Bài phúc âm hôm nay là một lời mời gọi chúng ta mỗi ngày hãy dừng lại ở dưới chân Đức Giêsu trong sự cầu nguyện, cũng như cô Maria đã làm trong phúc âm.

Điều này nêu lên một câu hỏi. Nếu chúng ta quá bận rộn đến độ mất cả thói quen cầu nguyện thì sao? Nếu chúng ta không biết thinh lặng cầu nguyện dưới chân Đức Giêsu thì sao? Chúng ta có thể làm gì để biết cách cầu nguyện?

Thật may mắn là có chúng ta có thể thi hành vài điều gì đó. Và chúng ta có thể bắt đầu ngay tối nay. Chúng ta có thể áp dụng phương pháp cầu nguyện đơn giản đã từng giúp đỡ nhiều người như chúng ta làm lại thói quen cầu nguyện và biết được nghệ thuật cầu nguyện.

Mỗi đêm trước khi đi ngủ, chúng ta cần ba phút để làm ba điều.

Thứ nhất, chúng ta thinh lặng và nhớ lại những gì xảy ra trong ngày. Chúng ta nhớ đến các điều tốt đẹp khiến chúng ta vui sướng, tỉ như nhận được thư của người bạn cũ. Sau đó, chúng ta thành thật nói với Đức Giêsu về điều đó. Sau cùng, chúng ta cảm tạ Đức Giêsu vì lá thư ấy.

Trong phút thứ hai, chúng ta cũng nhớ đến những gì xảy ra trong ngày. Lần này, chúng ta nhớ đến điều không tốt, những điều làm chúng ta hối hận, tỉ như la hét cha mẹ, vợ chồng hay con cái. Chúng ta nói với Đức Giêsu về khuyết điểm này và xin Người tha thứ, chữa lành cho chúng ta.

Sau cùng, trong phút thứ ba, chúng ta nhìn đến ngày hôm sau, nghĩ đến một số điều quan trọng phải thi hành, tỉ như việc nói chuyện ôn hòa với cha mẹ, vợ chồng hay con cái về một vấn đề đã xảy ra. Chúng ta nói với Đức Giêsu về điều đó và xin Người soi sáng, thêm sức để chúng ta có thể thi hành cách tốt đẹp.

Phương cách cầu nguyện đơn giản này đã giúp nhiều người lấy lại thói quen cầu nguyện và học được nghệ thuật cầu nguyện. Điểm tuyệt vời của phương cách cầu nguyện này là không những giúp chúng ta quan hệ đến đời sống thực tế mà còn giữ liên lạc với Đức Giêsu.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con đừng quá bận tâm đến đời sống mà quên đi lý do tại sao Ngài đã ban sự sống cho chúng con.
Xin giữ chúng con quá bận tâm đến đời sống mà quên đi mục đích của nó.
Xin giữ chúng con đừng quá theo đuổi những gì mà tiền bạc có thể mua được rồi quên đi những gì tiền bạc không thể mua được.

THIÊN ĐÀNG Ở ĐÂU?

THIÊN ĐÀNG Ở ĐÂU?

Đỗ Trân Duy

Đối với Kitô hữu, có lẽ ai cũng nghĩ rằng mình biết Thiên đàng ở đâu, dĩ nhiên là ở trên trời. Tin như vậy là đủ, chẳng ai cắc cớ thắc mắc thiên đàng ở chỗ nào trên trời. Vả lại ai có thẩm quyền trả lời cho một thực thể siêu hình đó. Cuối cùng chỉ những tay vô thần sừng sỏ nêu ra vấn đề này với thâm ý bắt bí tín lý Thiên Chúa giáo. Vấn đề xem ra không đơn giản, vì gần đây chính một số nhà tư tưởng Công Giáo cũng nói về “nơi chốn” của thiên đàng. Vậy chúng ta phải hiểu về chốn thiên đàng như thế nào? Bài viết này không dám trả lời cho vấn đề lớn đó. Đây chỉ là một chú giải nhỏ, phụ theo lời giảng của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II mà thôi.

Thiên đàng hiểu theo truyền thống

Thiên đàng, theo đức tin truyền thống Việt Nam, là một nơi chốn cụ thể và được đồng hóa với cõi trời. Trong kinh “Lạy Cha” câu mở đầu nói rõ: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”.  Rồi những khóm từ như “Đức Mẹ lên trời”, “lễ Thăng Thiên”, “hoan hô Chúa trên các tầng trời”… tất cả đều xác định thiên đàng là cõi trời. Trong những truyền thống đức tin khác, như của Âu Mỹ, họ không dùng chữ “trời” mà dùng danh xưng “heaven” (thiên đàng). Cũng trong kinh “Lạy Cha”, câu mở đầu là “Our Father who art in heaven.” Theo tiếng Hebrew, heaven có nghĩa là “trên cao” (Catholic Encyclopedia). Tuy heaven không xác định là ở trên trời, nhưng vẫn được hiểu ngầm như vậy. Trong thánh kinh có rất nhiều trình thuật gợi ý như “Hãy nhìn lên thiên đàng mà xem các tầng mây cao hơn ông biết mấy!” (Yob 35:5). Thánh Stêphanô nói, “Này tôi thấy các tầng trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa” (CV 7:56). Thánh Gioan miêu tả cảnh phục sinh: “Rồi các ngài nghe một tiếng lớn từ thiên đàng: ‘Hãy lên đây’, và các ngài lên thiên đàng trong đám mây, trước mặt thù địch của các ngài” (KH 11:12). Sách Tông đồ công vụ miêu tả rõ hơn, “Khi Chúa Giêsu được đưa lên cao, các môn đệ nhìn theo Chúa cho đến khi một đám mây che kín mất Ngài” (CV 1:9).
Nếu chúng ta đi tìm lời nói của Đức Giêsu về vấn đề này, chúng ta không thấy có chỗ nào Người nói thiên đàng ở trên trời. Đức Giêsu cũng không đồng hóa Thiên Chúa với thiên đàng (hay trời). Lời cầu nguyện của vua Salômôn chứng tỏ người xưa cũng ý thức như vậy: “Có thật Thiên Chúa cư ngụ dưới đất chăng? Này, trời cao thăm thẳm còn không chứa nổi Ngài, huống chi ngôi nhà con đã xây đây!” (1 Vua 8:27)

Đại chúng cho rằng có thể suy diễn vấn đề trên qua nguyên tắc: thiên đàng là nơi Thiên Chúa ngự, vậy nếu biết Thiên Chúa ở đâu, ta sẽ biết thiên đàng ở đâu. Người ta cũng đã tưởng rằng chỉ có ba câu trả lời cho vấn đề ấy. Thứ nhất, thuở xưa người ta tin Thiên Chúa tạo ra vũ trụ nhưng Chúa là Đấng siêu việt vượt trên vật chất, nên không đồng hóa với vũ trụ. Thiên Chúa ở ngoài vũ trụ. Đến thế kỷ 18, con người khám phá ra vũ trụ vô cùng lớn, lớn đến mức dù ta có di chuyển với tốc độ ánh sáng, qua hằng ngàn năm, cũng chưa tới biên giới của nó. Con người không chấp nhận nổi có chỗ nào gọi là bên trên hay bên ngoài vũ trụ. Vả lại nếu Thiên Chúa ở bên ngoài vũ trụ, vậy vũ trụ càng lớn, Chúa lại càng ở rất xa con người. Làm sao con người có thể gần Thiên Chúa để cầu nguyện.

Câu trả lời thứ hai, người ta đặt Thiên Chúa vào bên trong vũ trụ. Do đó mà có niềm tin thiên đàng ở trên trời, tức là ở bên trong vũ trụ. Nhờ thế mà con người có thể gần với Thiên Chúa. Quan niệm này cũng không ổn, vì nếu ở trong vũ trụ Thiên Chúa phải là một sinh thể của vũ trụ. Có lý nào Thiên Chúa là một phần của vũ trụ mà vũ trụ ấy lại do chính Ngài tạo ra. Những niềm tin sơ thuần cho rằng Thiên Chúa ở bên ngoài hay bên trong vũ trụ đều đẩy trí thức đến ngõ bí vì kết quả vô lý của suy luận.

Câu trả lời thứ ba dựa vào tín lý. Trong lãnh vực này, chúng ta thấy có hai phe. Phe thứ nhất, đại diện là Joseph Campbell, tin rằng con người không thể nào biết được Thiên Chúa là ai. Vì vậy không nên đặt vấn đề sự hiện hữu của Thiên Chúa. Thánh kinh cũng nói: “Thiên Chúa vượt xa hơn và vượt trên tất cả những gì chúng ta có thể tưởng nghĩ về Ngài” (GLCG 2794). Thần học gia Paul Tillich phủ nhận lối diễn tả “hiện hữu của Thiên Chúa”. Ông cho rằng nói như vậy chúng ta đã mặc nhiên cho Thiên Chúa là một phần thực thể của thiên nhiên. Bởi vì “hiện hữu” có nghĩa là đang có và đang biệt lập đứng lơ lửng ở đâu đó ngoài mặt đất. Ông đổi ý niệm “hiện hữu” (exist) bằng ý niệm Thiên Chúa “thường hằng” (God is). Nhóm thứ hai cho rằng Thiên Chúa mang bản chất pantheism, nghĩa là mọi thứ đều ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở khắp mọi nơi (omnipresence) vì Ngài là Đấng vô hạn (immensity) (Council of Lateran, c. “Firmiter”; Vatican Council, Sess. III, c. 1.).  Như vậy vũ trụ ở trong Thiên Chúa. Tóm lại, như chúng ta thấy, với những nhận định trên, câu trả lời về “thiên đàng ở đâu” vẫn còn bỏ ngỏ.

Điểm thời sự không thể tránh

Trong buổi cầu nguyện với quần chúng ngày 21 tháng 7 năm 1999, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tạo nên vấn đề thời sự. Ngài nói: “Thiên đàng là một trạng thái sống (state of being) chứ không phải là một nơi chốn (place) theo nhận thức của ngôn ngữ loài người.”  Giáo hoàng nói rõ thêm,“Thiên đàng không phải là một khái niệm trừu tượng hay là một địa điểm cụ thể trong những cụm mây, nhưng là một lối sống, là mối quan hệ giữa cá nhân với Thiên Chúa Ba Ngôi. Đó là cuộc gặp gỡ Chúa Cha, diễn ra trong Chúa Kitô phục sinh, và hiệp thông với Chúa Thánh Thần.” (1) Đối với giới truyền thông ngoài Công Giáo, lời tuyên bố này quá bất ngờ vì đi ra ngoài nhận định về thiên đàng của truyền thống.

Mười một năm sau, 2010, dưới triều Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, Tòa Thánh cho phát hành cuốn YOUCAT (Youth Catechism – Giáo Lý Công Giáo cho Giới trẻ). Trong tập sách này, hiện thực của thiên đàng được lập lại và chính thức đưa vào mục giáo lý. Theo đó thiên đàng không phải là một nơi chốn mà là một trạng thái sống (a kind of life) trong ý thức về Thiên Chúa hiện diện. Sự hiện diện này không lệ thuộc vào không gian và thời gian (không-thời gian). (2) Như vậy cả hai đức Giáo Hoàng, những vị có thẩm quyền tông truyền, đều quan niệm về “nơi chốn” thiên đàng như nhau.

Sự tiếp nhận

Ngay sau khi Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phát biểu, không ít người sửng sốt và phản đối. Có người dè dặt cho rằng, “Có lẽ Giáo hoàng có một mạc khải tư nào đó về thiên đàng chăng.” Đa số tín hữu vướng mắc trong  những sự kiện như: Đức Mẹ hồn xác lên thiên đàng (trời), hay: đến ngày tận thế xác chết sống lại, kẻ lành lên thiên đàng… Họ cho rằng vì thể xác là vật chất, nếu không có nơi chốn thì thể xác sẽ tồn tại ở đâu. Ngoài ra những khóm từ gợi hình trong thánh kinh như: mở cửa thiên đàng, tầng trời mở ra, ngự bên hữu Chúa Cha… tất cả đều trình bày theo kinh nghiệm ở trong một nơi chốn.

Mặc dù thánh Phaolô đã giảng thân xác phục sinh là một thân xác thần linh (celestial bodies) không phải là thân xác huyết nhục. (1 Côr 15: 35-44) Thân xác Chúa Giêsu phục sinh là một điển hình. Chúa chợt “xuất hiện” để nói chuyện với hai đệ tử trên đường đến Emmaus, rồi “tan biến” khi tới nơi. Chúa cũng “hiện ra” giữa các môn đệ đang họp trong gian phòng cửa khóa kín, rồi cũng “biến mất” sau khi chúc lành cho họ. Xem thế, thân xác thần linh không cần một nơi chốn cụ thể để trú ngụ. Đa số tín hữu quen trong giới hạn của không gian 4 chiều, nên muốn giới hạn thiên đàng và Thiên Chúa trong không gian 4 chiều. Họ không thể tưởng tượng nổi một thân xác thần linh và một thiên đàng không có nơi chốn. Họ hoang mang đối diện với sự kỳ diệu của thực thể vô không-thời gian mà con người khó diễn tả và trí tưởng tượng phải dừng lại nơi giới hạn của nó.

Đàng khác cũng có rất nhiều người tiếp nhận lời giảng của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II một cách dễ dàng. Họ cho rằng Giáo Hoàng đưa ra một nhận thức thần học đúng, nhưng tạo ra dao động chỉ vì ngài thiếu phần chú giải đi kèm. Nhận xét này rất chính xác. Chúng ta có thể đặt chú giải cho nhận thức đó qua nhận định về bản thể của thân xác hiển linh. Có lẽ không hình ảnh nào cụ thể hơn là bánh và rượu trong thánh lễ. Nếu thân xác Chúa Giêsu bị giới hạn trong thể chất, và trong không-thời gian, làm sao chúng ta có Mình Máu Chúa Giêsu, trong dạng bánh và rượu, hiện diện cùng lúc ở khắp mọi nơi trên thế giới. Bàn về thân xác hiển linh của Đức Mẹ, chúng ta cũng biết Đức mẹ đã hiện ra và biến mất rất nhiều lần. Mỗi lần hiện ra chỉ vài người tuyển chọn mới có diễm phúc chiêm ngưỡng Đức Mẹ. Chẳng hạn lần hiện ra ở Fatima, mặc dù có rất nhiều người đứng tại chỗ Đức Mẹ hiện ra, nhưng chỉ có 3 em nhỏ nhìn thấy Đức Mẹ. Như vậy thân xác Đức Mẹ vừa là hữu hình vừa là vô hình tùy theo liên hệ với từng cá nhân. Nếu xác Đức Mẹ là thể chất vật lý, mọi người đều phải thấy như nhau. Rõ ràng là thân xác phục sinh không bị trói buộc bởi bất cứ một luật lệ vật lý nào. Suy ra mối kết hợp giữa cá nhân và Thiên Chúa (thiên đàng) là một trạng thái sự sống riêng tư, chứ không theo bất cứ luật lệ vật lý nào.

Chân lý bao gồm cả đức tin lẫn kiến thức, nên tín hữu chúng ta buộc phải học hỏi tìm hiểu. Ðó là lý do Thánh Phêrô đã dạy, “Hãy nỗ lực bổ sung đức tin với nhân đức, và bổ sung nhân đức với sự hiểu biết” (2 Phê 1:5). Năm 2000, ký giả vô thần Peter Seewald hỏi Hồng y Ratzinger “Thiên đàng ở đâu?” Hồng y trả lời, “Những từ như ‘mây’ và ‘thiên đàng’ chỉ là cách nói mà con người muốn tìm cho Thiên Chúa có một nơi chốn. Đúng ra cách nói ‘Chúa Giêsu lên thiên đàng’ chỉ có nghĩa là không còn nhìn thấy trên mặt đất chứ không phải không còn hiện diện trên mặt đất.” (3) Bởi vậy vẫn có người tuyển chọn có ơn phước nhìn thấy Chúa Giêsu, chẳng hạn thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, thánh Padre Pio…

Quan điểm thần học

Chúng ta hãy bắt đầu bằng một tín lý quen thuộc và đặt tín lý đó vào một tam đoạn luận đơn giản: Thiên Chúa ở khắp mọi nơi. Thiên đàng là nơi Thiên Chúa ngự. Vậy thiên đàng ở khắp mọi nơi.

Như vậy phải chăng giữa thiên đàng và con người không còn ranh giới? Theo thần học, đoạn lý luận trên vô giá trị, bởi vì đã không thấy thiên đàng là ơn phước. Thiên đàng không phải là kết quả của một điều kiện hay của một định luật vật lý. Mặc dù Thiên Chúa ở khắp mọi nơi nhưng Chúa tỏ lộ vinh quang của Người qua phương cách ơn phước đặc sủng. Theo thần học gia Gerhard Ebeling, “Không phải Thiên Chúa ở đâu, thiên đàng ở đó, mà là thiên đàng ở đâu Thiên Chúa ở đó” (not that God is where heaven is, but rather heaven is where God is). Vì là ơn phúc nên phải có sự kết hợp sống động giữa cá nhân và Thiên Chúa. Cũng không phải ai cũng có mức độ ơn phước giống nhau. Gọi là thiên đàng, hay trời, chỉ là cách biểu đạt bất toàn của ngôn ngữ loài người về trạng thái cá nhân “hiệp thông trong sự sống và tình yêu với Thiên Chúa Ba Ngôi” (GLCG 1024). Nói cách khác, không hề có một thiên đàng tĩnh, tồn tại bất biến ở nơi nào đó trong vũ trụ.

Tình kết hợp giữa cá nhân và Thiên Chúa biểu lộ giáo huấn vô cùng quan trọng về tính tự do của con người. Tính tự do đặt con người ở thế chủ động trước ơn phước của Thiên Chúa. Ta muốn liên kết với Thiên Chúa hay không là tùy ở ta. Bởi vì Thiên Chúa chỉ “hiện diện” ở những nơi đạo đức tốt lành. Thiên Chúa không “hiện diện” ở nơi tội lỗi sa đọa. Đức Giêsu đã nói, “Phúc cho những ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa (Mat. 5:8). Tuy nhiên lại phải hiểu rằng “hiện diện” không nằm trong bất cứ phạm trù nào thuộc không-thời gian. Lm Phan Đình Cho tóm tắt rằng thiên đàng phải hiểu là một ơn phước mà Thiên Chúa dành cho người tốt lành và hoả ngục là một thái độ con người tự do từ chối ơn phước đó. (4)

Vài sự kiện trong hạnh các thánh có thể làm rõ hơn về ý tưởng thiên đàng là một ơn phước của Thiên Chúa.  Các vị thánh cao trọng như Gioan Thánh Giá (John of the Cross), Têrêsa Lisieux, và thánh Têrêsa  Calcutta đã trải qua một khoảng thời “mất ơn phước vì bị Thiên Chúa bỏ rơi”. Thánh Gioan Thánh Giá gọi kinh nghiệm này là “đêm đen của linh hồn”. Thiên Chúa cố tình không “đến” với họ khiến tâm hồn họ lạc lõng, trống rỗng, tối đen và đau khổ. Thiên Chúa dành riêng cho một số vị đặc sủng ơn thử thách “đêm đen” này. (5) Nhưng đây là một chủ đề khác, chúng ta không muốn đi ra ngoài chủ đề hôm nay.

Trở lại với tín lý “Thiên Chúa ở khắp mọi nơi”. Thần học dạy rằng chúng ta phải thấy tín lý đó theo hướng nhìn về ơn sáng tạo và ơn cứu độ phổ quát. Thiên Chúa ở khắp mọi nơi có nghĩa Thiên Chúa nâng đỡ sự hiện hữu của vũ trụ. Bởi vì duy chỉ có Thiên Chúa là Hữu. Không gì có trước Hữu, nên Thiên Chúa là Đấng tự Hữu, Hữu Tuyệt Đối. Thiên Chúa đã tạo dựng nên vũ trụ từ hư vô. Nghĩa là mọi vật từ hư vô nhờ Hữu, qua Hữu mà được thành hữu thể. Vì từ Hữu mà ra, nên mọi hữu thể đều thuộc về Hữu, và hiện tính của Hữu có trong mọi hữu thể. Vì vậy mọi hữu thể đều ở trong Hữu. Nếu Thiên Chúa vắng mặt mọi thứ trở thành hư vô ngay tức khắc.

Nếu cảnh giới thiêng liêng nằm ngoài không-thời gian, thì hiển nhiên thiên đàng không nằm trong vũ trụ vật chất. Vì ngôn ngữ của lời cầu nguyện, bắt buộc chúng ta phải xưng hô với Thiên Chúa như một Đấng ở đối diện, nhưng không phải như vậy. Thánh Augustine đã nói những lời cảm khái, “Chúa ở bên trong và luôn luôn ở cùng tôi.” Thánh Phaolô đã có lần đứng giữa chợ trong thành Athens giảng đạo. Thánh nói, “Họ đã đi tìm Thiên Chúa, nhưng thực ra Thiên Chúa đâu có ở xa chúng ta. Chúng ta sống và sinh hoạt trong Thiên Chúa. Nhờ đó chúng ta hiện hữu” (CV 17:27). Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói, “Nếu Thiên Chúa là một đối tượng cụ thể có thể thấy được thì người đó không phải là Thiên Chúa.”

Điều mà hai Giáo Hoàng đưa ra đã được các thần học gia nói tới từ thời thánh Augustinô cho tới ngày nay. Thiên đàng là “điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không thể nghĩ tới, lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Ngài” (1cor 2:9). Vì vậy, hiện tại con người chỉ có thể “thấy” Thiên Chúa bằng đức tin mà thôi. Cho nên “thấy qua đức tin” là một trạng thái của sự sống. Cái thấy này khác với cái thấy trọn vẹn “mặt giáp mặt”, trong cõi vĩnh hằng, khi con người có thân xác phục sinh hiển linh. Khi đó con người không những kết hợp với Thiên Chúa, mà còn kết hợp với các thánh và với các thiên thần (GLCG 962). Thời điểm vĩnh hằng đó, đối với kinh nghiệm hạn hẹp của con người tại thế, chỉ có thể hình dung bằng cách đặt toàn bộ vào một nơi chốn. Theo truyền thống, ngôn ngữ loài người gọi “nơi chốn” đó là thiên đàng. Thiên đàng là một huyền nhiệm không thể nói rõ ra được.

Đỗ Trân Duy
————–
(1) Xin đọc “Heaven”, L’Osservatore Romano, Weekly Edition in English. 28 July 1999.
(2) Xin đọc các câu hỏi 52, 123, 158, 242, 285, và 518 về thiên đàng trong
YOUCAT. 2011. Ignatius Press, San Francisco
(3) Xin đọc “Where is God?” P. 105,
God and the World. 2002. Joseph Ratzinger. Ignatius Press, San Francisco.
(4) Phan Đình Cho. 2000. Câu hỏi 47,
Giải đáp 101 câu hỏi về cái chết và sự sống vĩnh hằng. University Press. New York, USA.
(5) Mẹ Têrêsa Calcutta.
Come Be My Light. 2007. Brian Kolodiejchuk chủ bút. Nhà xuất bản Doubleday. Đồng thời để hiểu rõ hơn ý nghĩa của “đêm đen” xin tham cứu bài “On A Dark Night” trong sách The Ascent To Truth. 1981. Thomas Merton. Nhà xuất bản Harcourt Brace & Company, San Diego, California.

Công an Trung Quốc đánh chết dân: Dư luận phẫn nộ

Công an Trung Quốc đánh chết dân: Dư luận phẫn nộ

RFI

Thành phần "dân đen" thường bị đội trật tự thành phố bắt chẹt và trấn lột (AFP /Ed Jones)

Thành phần “dân đen” thường bị đội trật tự thành phố bắt chẹt và trấn lột (AFP /Ed Jones)

Anh Vũ

Hãng tin AFP hôm nay, 18/7/2013, dẫn nguồn tin báo chí Trung Quốc cho biết một người bán dưa hấu tại một thành phố ở miền trung nước này đã bị lực lượng giữ gìn trật tự đánh đến chết. Vụ việc đang gây phẫn nộ trong các cư dân mạng Trung Quốc.

Trên các trang mạng Trung Quốc đang đăng tải rộng rãi những hình ảnh vidéo cho thấy cảnh một người đàn ông có tên Đặng Chính Gia, làm nghề bán dưa hấu trên hè đường ở một thành phố của tỉnh Hồ Nam ( miền Trung) nằm bất động trên đất.

Truyền thông Trung Quốc nói ông Đặng đã bị đội « thành quản », những người làm nhiệm vụ giữ gìn trật tự trong thành phố, đánh đập dã man. Theo vợ ông mô tả trên tờ Thời báo Bắc Kinh thì những nhân viên tự quản đã đấm đá và dùng quả cân dùng để cân hoa quả đập vào đầu ông mặc dù ông đã thu dọn quầy hàng theo đúng yêu cầu của thành phố.

Đội thành quản được giao nhiệm vụ theo dõi việc áp dụng quy định hành chính trong thành phố, nhưng ở Trung Quốc những nhân viên này thường xuyên bị tố cáo lạm dụng quyền được giao để ngược đãi hay bắt chẹt những người làm nghề bán hàng rong trên phố.

Hồi tháng Năm, một phát ngôn viên của tổ chức bảo vệ nhân quyền Human Rights Watch đã đưa ra nhận xét rằng « với rất đông người Trung Quốc, giờ đây, đội trật tự thành phố đồng nghĩa với bạo lực, bắt giữ bất hợp pháp và trấn lột dân đen » và nhất là những người này không mấy khi phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi bạo lực của mình.

Cái chết của người bán hàng rong họ Đặng tại Hồ Nam đã làm dấy lên làn sóng phẫn nộ trong cư dân mạng Trung Quốc trong những ngày qua. Chính quyền thành phố hứa sẽ điều tra vụ việc.

Đa thọ đa khổ

Đa thọ đa khổ .

Hoàng Hải Thủy

(Một bài viết về tinh cảm của những cặp vợ chồng  già thật cảm động.)

 

Người Tầu có thành ngữ “Ða thọ đa nhục” : Người sống lâu bị nhục nhiều. Ông cha tôi – các ông Việt ngày xưa – hay dùng thành ngữ “Ða thọ đa nhục”.


Tôi không cho là người già bị nhục. Tôi thấy người ta càng nhiều tuổi càng khổ. Khổ vì không còn hưởng thụ gì được sự đời mà phải chịu những bệnh tật do già yếu sinh ra : Người già không tự lo được cho thân mình, mắt mờ, tai điếc, trí nhớ mất, sống nhờ người khác. Người già vua chúa hay cùng đinh, tỷ phú hay anh nghèo rớt một xu dính túi không có, kẻ quyền uy chấn động thế giới một thời hiển hách, hay anh phó thường dân cả đời cơm nhà, quà vợ, khi tuổi già đến đều có những nỗi khổ như nhau.

Người ta qua 60 tuổi được kể là già. Ở Việt Nam những năm 1940 – 1950 người 50 tuổi được gọi là cụ. Khổng Tử chỉ nói về Người đến tuổi 70 : “Thất thập nhi tùy tâm sở dục”. Tôi nghĩ ông muốn nói : “Người bẩy mươi tuổi muốn làm gì thì làm”. Nhưng người bẩy mươi tuổi còn làm gì được nữa. Người bẩy mươi cả Bốn Tứ Khoái đều không hưởng được, không làm được.

Năm nay – 2013 – tôi tám mươi tuổi. Một ngày đầu Xuân Kỳ Hoa Ðất Trích 2013, tôi viết bài này. Năm 2000, khi chia tay nhau lúc nửa đêm ở trước một Nhà Dành Cho Người Già Thu Nhập Thấp – Housing for Old Seniors Low Income – ở San Jose, ông bạn già của tôi nói : “Ðọc những bài viết của toa để nhớ, để thương Sài Gòn của chúng ta”. Ông cầm tay tôi : “Viết. Viết nữa. Viết đến năm toa tám mươi. Viết cho bọn moa đọc”. Ðêm mùa đông San Jose lạnh giá bao quanh chúng tôi khi chúng tôi từ biệt nhau, chúng tôi bắt tay nhau lần cuối.

Năm 2000 tôi 68 tuổi. Ông bạn HO già hơn tôi năm, sáu tuổi, tôi không biết hôm nay ông còn ở cõi đời này hay không. Thời gian và không gian làm chúng tôi không biết nhau sống chết ra sao. Tám mươi tuổi tôi vẫn viết. Tôi không còn viết phóng tác truyện dài. Tôi viết những bài như bài này.

Thời gian Sống, Yêu và Viết của tôi không còn bao lâu nữa, nên với nỗi Buồn vì phải xa mãi những người tôi yêu thương, hôm nay tôi viết những dòng chữ này.

***

Tôi bị ám ảnh bởi cái Chết, tôi ghét Chết, tôi sợ Chết, tôi không muốn Chết. Không phải bây giờ trong tuổi già, tuổi gần đất, xa trời, tôi mới sợ Chết, tôi sợ Chết từ những năm tôi năm, sáu tuổi, khi tôi bắt đầu biết suy nghĩ.


Nhà tôi ở cuối thị xã Hà Ðông, nhà có lầu, tiếng Bắc là nhà gác, nhà hai tầng. Trên gác nhìn ra tôi thấy cánh đồng với những nấm mồ rải rác trong những ô ruộng, ở gác sau nhìn ra tôi thấy Nhà Thương Hà Ðông và bãi tha ma ở cuối Nhà Thương. Những đêm mưa tôi thấy những chấm lửa lập lòe trong bãi tha ma. Về sau tôi biết đó là những ánh đèn của những người đi soi bắt ếch. Những năm xưa ấy tôi tưởng đó là những đốm lửa ma trơi.


Năm tôi năm, sáu tuổi, mẹ tôi 27, 28 tuổi. Tôi sợ mẹ tôi chết, người ta đem mẹ tôi ra chôn ở ngoài đồng. Mẹ tôi phải nằm một mình giữa cánh đồng vắng, lạnh, cô đơn, nơi mẹ tôi nằm ngập nước, đêm đông, mưa phùn, gió bấc, mẹ tôi khổ biết chừng nào. Ðó là nguyên nhân thứ nhất làm tôi ghét Chết, tôi sợ Chết.

Mời bạn đọc một chuyện Sống, Yêu và Chết tôi thấy trên Internet.

* Trong phiên xử ở Tòa Án Phoenix, Arizona, bị cáo là Ông George Sanders, 86 tuổi, bị xử vì tội giết vợ. Tất cả mọi người có mặt tại tòa, từ công tố viên đến chánh án, kể cả con cháu của kẻ bị cáo, đều thấy bị cáo phạm tội giết người, nhưng tất cả đều cho rằng đây là trường hợp pháp luật nên thông cảm, thương hại, tha thứ hơn là trừng phạt kẻ có tội. Anh cháu của bị cáo George Sanderss nói trước tòa :

– Ông tôi sống để thương yêu bà tôi. Suối đời ông tôi làm mọi việc để bà tôi có hạnh phúc. Mối tình của ông bà tôi là mối tình lớn. Tôi tin ông tôi bị bắt buộc phải làm việc ấy vì yêu thương bà tôi, bà tôi chịu đau quá nhiều rồi, ông tôi không thể để bà tôi chịu đau nhiều hơn nữa.

Ông Sanders bị bắt Tháng Bẩy năm 2012 sau khi ông nói với cảnh sát bà Virginia, vợ ông, 81 tuổi, xin ông làm bà chết. Vì ông Sanders nhận tội nên tòa án không dùng đến đoàn bồi thẩm, nhưng ông vẫn có thể bị kết án đến 12 năm tù.

Bà Virginia bị bệnh nan y năm 1969, bà liệt bại, bà phải ngồi xe lăn. Năm 1970, ông bà sang sống ở Arizona vì khí hậu ở đây ấm nóng. Ông Sanders là Cựu Chiến Binh Thế Chiến II. Ông là người nuôi và săn sóc bà vợ. Ông nấu ăn cho bà, làm mọi việc trong nhà. Mỗi sáng ông giúp bà trang điểm, mỗi tháng ông đưa bà tới Nhà Thẩm Mỹ để bà làm tóc, làm móng tay.

Năm tháng qua, sức khoẻ của ông Sanders suy mòn. Ông phải đặt máy trợ tim, ông không còn săn sóc chu đáo được bà. Rồi bà Virginia bị ung thư phá ra ở chân, bà phải vào một Nursing home để người ta lo cho bà sống qua những ngày tàn cuối đời. Ông Sanders nói với những viên chức điều tra :

– Ðây là giọt nước làm tràn ly nước. Virginia nhất quyết không chịu vào Nursing home. Vợ tôi tự cắt những ngón chân bị ung thối.

Ông nói :

– Vợ tôi xin tôi cho bà ấy chết. Tôi nói tôi không thể.

Vợ tôi nói :

– Anh làm được mà. Em biết anh làm được.

Sanders cầm khẩu súng lục, ông lấy khăn bông quấn ngoài khẩu súng, nhưng ông không sao bóp cò súng được. Ông kể :

– Vợ tôi nói : Bắn đi anh. Cho em đươc chết.

Tôi nói lời cuối với vợ tôi :

– Em sẽ không cảm thấy đau.

Và :

– Anh yêu em. Vĩnh biệt em. Tôi nổ súng.

Trước toà, người con trai của ông Sandsers nói :

– Tôi muốn quí toà biết rằng tôi yêu thương mẹ tôi, tôi cũng yêu thương bố tôi như thế.

Steve Sandes, anh con, nghẹn ngào kể :

– Bố tôi yêu thương mẹ tôi trong 62 năm. Những đau đớn thể xác và việc chịu đau vô ích đã làm bố mẹ tôi đi đến quyết định ấy. Tôi không kết tội bố tôi. Với tôi bố tôi là người tôi cảm phục nhất.

Ông già George Sanders chỉ nói trong khoảng một phút, giọng ông run run :

– Tôi gặp Viginia năm nàng 15 tuổi, tôi yêu nàng từ năm nàng 15 tuổi. Tôi yêu nàng khi nàng 81 tuổi. Có nàng làm vợ là một ân phúc Thiên Chuá ban cho tôi. Tôi sung sướng được chăm sóc nàng. Tôi làm theo ý muốn của nàng. Tôi xin lỗi các vị vì vợ chồng tôi mà các vị phải bận lòng.

Ông Công tố đề nghị ông Chánh án không phạt tù giam George Sanders, ông nói tòa nên xử án treo. Ông Chánh án John Disworth nói ông đặt nặng tình nhân đạo trong vụ án này. Ông nói :

– Bị cáo phạm tội giết người, nhưng được tòa giảm nhẹ mức án.

Ông tuyên phạt ông già George Sanders 2 năm tù treo. Tù treo không bị cảnh sát kiểm soát.

***

Chuyện ông bà Sanders làm tôi suy nghĩ lan man. Tôi nhớ chuyện Cái Bát Gỗ tôi đọc những năm tôi 10 tuổi. Anh con thấy ông bố già run tay, khi ăn hay đánh rơi bát cơm, bát vỡ. Anh làm cái bát bằng gỗ cho ông già ăn cơm. Ông có làm rơi bát, bát gỗ không bị vỡ. Một hôm anh thấy thằng con nhỏ của anh hí hoáy đục đẽo một cục gỗ, anh hỏi nó đục gỗ làm gì, con anh nói : “Con làm cái bát gỗ, để khi bố già, con cho bố ăn cơm”.

Chuyện – dường như – ở trong sách Quốc Văn Ðộc Bản – đã 70 năm tôi không quên nó – nó đây là chuyện Cái Bát Gỗ – nhưng chẳng có dịp nào tôi nhớ nó. Hôm nay tôi nhớ nó. Từ sau năm 1975 ở Hoa Kỳ Nhà Xuất Bản Xuân Thu in lại tất cả những sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư, Luân Lý Giáo Khoa Thư. Nhưng sách Quốc Văn Ðộc Bản – sách có nhiều bài thật hay – thì không thấy in lại. Tôi không biết tại sao Quốc Văn Ðộc Bản không được in lại ở Hoa Kỳ. Tôi đã đọc lại tất cả những sách Giáo Khoa Thư được in lại ở Hoa Kỳ, tôi muốn đọc lại những bài trong Quốc Văn Ðộc Bản.

Tôi nhớ lâu rồi, từ những năm 1950 khi tôi chưa gặp Tình Yêu Vợ Chồng, tôi đọc trên trang sách nào đó lời một ông Tầu viết :
– Vợ chồng như hai con chim tình cờ cùng đậu trên một cành cây. Ðến lúc phải bay đi, mỗi con bay đi một phiá.
Năm xưa còn trẻ, tôi muốn phản đối lời diễn tả trên. Ông Tầu muốn nói vợ chồng là chuyện ngẫu nhiên, chẳng có tình nghĩa gì giữa vợ và chồng. Hôm nay tôi mới dịp viết ra lời phản đối.


Ông bác sĩ điều trị cho vợ chồng tôi mỗi tuần một ngày vào chẩn bệnh cho những ông bà già trong một Housing for Old Seniors – Housing này có nhiều ông bà già Mỹ trắng – ông nói :
– Có những cặp vợ chồng về già không nhìn được mặt nhau”.
Lời kể của ông làm tôi buồn. Vợ chồng sống với nhau đến già, ở chung một nhà già – mỗi người một phòng – sắp ra nghĩa địa, sắp vào hũ sành mà thù hận nhau đến không nhìn mặt nhau ? Thù hận gì dữ dội đến thế ? Những người ấy thật khổ.
Bát đại khổ não ghi Tám Nỗi Khổ Lớn của con người :
– Sinh, Lão, Bệnh, Tử : 4 Khổ ai cũng phải chịu.
– Muốn có mà không có : Khổ 5
– Có mà không giữ được : Khổ 6.
– Yêu nhau mà không được cùng sống : Khổ 7.
– Ghét nhau mà phải sống gần nhau : Khổ 8.
Có người chỉ phải chịu có 7 Khổ. Ðó là những người không yêu ai cả.
Nhiều người Việt phải chịu cả 8 Khổ. Ðó những người thù ghét bọn Việt Cộng mà cứ phải sống với bọn Việt Cộng.

***

Mùa thu mây trắng xây thành,
Tình Em mây ấy có xanh da trời.
Hoa lòng Em có về tươi,
Môi Em có thắm nửa đời vì Anh ?

Tôi làm bài thơ trên Tháng Bẩy năm 1954 ở Vũng Tầu, ngày chúng tôi yêu nhau. Cuộc Tình của chúng tôi đã dài trong 60 năm. Cuộc Tình Vợ Chồng. Trong cuộc đời Tám Khổ này, nàng và tôi chỉ phải chịu có Bẩy Khổ. Năm 1979 nằm phơi rốn trong Nhà Tù Số 4 Phan Ðăng Lưu, nhớ Nàng, tôi làm bài thơ :

Yêu nhau ngày tháng qua nhanh,
Hai mươi năm lẻ chúng mình yêu nhau.
Từ xanh đến bạc mái đầu,
Tình ta nước biển một mầu như xưa.
Yêu bao giờ, đến bao giờ,
Thời gian nào rộng cho vừa Tình ta.
Hoa lòng Em vẫn tươi hoa,
Môi Em thắm đến Em già chưa phai.
Yêu kiếp này, hẹn kiếp mai,
Ngàn năm yêu mãi, yêu hoài nghe Em.
Mặt trời có lặn về đêm,
Sớm mai Em dậy bên thềm lại soi.
Cuộc đời có khóc, có cười,
Có cay đắng, có ngọt bùi mới hay.
Thu về trời lại xanh mây,
Ðầy trời ta thấy những ngày ta yêu.
Càng yêu, yêu lại càng nhiều,
Nhớ Em, Anh nhắn một điều : “Yêu Em.”

Năm 2013 tôi đổi hai tiếng trong bài thơ :

Yêu nhau ngày tháng qua nhanh,
Sáu mươi năm lẻ chúng mình yêu nhau.

***

12 giờ buổi trưa tháng Sáu, 2012, Nàng bước hụt, ngã nhào qua bốn bực thềm cửa, nàng ngất đi. Ngồi bên nàng trong nắng trưa mùa hạ Virginia, chờ ambulance đến, nước mắt tôi ưá ra. Trong ICU – Ai Si Yu – Intensive Care Unit – tỉnh lại, nàng nói :
– Xin Thiên Chúa tha tội cho em.
Tôi nói
– Em có tội gì. Mà Em có tội gì, Thiên Chúa cũng tha cho Em rồi.


Nàng chỉ bị dập xương nên không bị mổ, không bị ghép xương, không phải bó bột. Về nhà nằm, uống Vitamin D, chờ vết xương nứt lành lại. Tình trạng bi đát. Nhiều người nói người trẻ khi bị nứt xương mới mong vết xương nứt liền lại, người già 70 thì vô phương. Nếu vết xương nứt không lành, nàng sẽ phải nằm mãi trên giường.


Tôi hầu nàng ngày đêm. Gần như suốt ngày đêm, tôi xin Ðức Mẹ Maria cho nàng đi lại được. Tôi chỉ xin Ðức Mẹ cho nàng đi được từ giuờng ngủ vào nhà bếp, vào toilet, ra ngồi bàn ăn cơm, nàng tự tắm được. Bộ Xã Hội cấp cho nàng đủ thứ nàng cần dùng : Xe đẩy, gậy chống, ghế để ngồi tắm… Chuyên viên y tế – therapist – đến nhà mỗi tuần ba lần, giúp nàng ngồi lên, tập đi. Một tháng sau nàng đi được.

***

Ba năm nay Nàng có tới ba, bốn lần đau nặng, hai ba lần nàng tự nhiên ngã. Một lần nàng hôn mê. Ðêm khuya trong bệnh viện, nằm trên cái canapé nghe tiếng nàng thở khò khè, tôi nghĩ :
– Tiếng thở này tắt là…
Tôi cầu xin :
– Xin Mẹ cho vợ chồng con được sống với nhau 5 năm nữa.


Tôi không muốn tôi chết trước nàng, tôi không muốn nàng chết trước tôi. Nàng chết trước tôi không biết tôi sống ra sao. Tám mươi tuổi, tôi sống với nàng 60 năm, tôi sống dựa vào nàng. Tôi sống bằng Tình Yêu của nàng.


Năm 1976 gặp lại nhau, Lê Trọng Nguyễn nói :
– Tao không biết mày có đi được không. Tao cứ tưởng mày làm USIS là mày đi được. Hôm tao gặp thằng S. ở trong khu nhà mày, tao hỏi nó mày có đi được không ? Nó nói mày không đi được. Tao kêu lên : “Làm sao nó sống ? Nó sống bằng gì ? ” S. nó nói : “Nó sống bằng Tình Yêu của vợ nó”.

Người bạn cùng tuổi tôi – 80 – lấy vợ cùng năm với tôi – năm 1954 – vợ chồng anh cũng sống với nhau 60 năm, một sáng từ Cali anh gọi phone cho tôi báo tin vợ anh qua đời, tôi hỏi :
– Ðau lắm không ?
Ðau thì tôi biết bạn tôi đau nhưng tôi muốn biết anh đau đến ngần nào. Hỏi dễ, trả lời khó. Bạn tôi nói :
– Ðứt ruột, nát gan.
Lần cuối tôi gặp ông Lê Văn Ba, ông hơn tôi 10 tuổi, ông nói với tôi :
– Tôi nói với bà nhà tôi : Bà nên đi trước tôi là hơn, tôi đi trước bà, bà sẽ khổ lắm.


Năm sau ông đi trước bà. Ðứng bên quan tài ông, tôi nhớ lời ông nói. Ông bạn HO có bà vợ bại liệt, ông phải đưa bà vào Nursing Home. Ðể bà ở lại ông một mình lái xe về. Dọc đường ông run tay lái, mắt ông mờ. Ông đậu xe bên đường, xuống đi bộ vài vòng lấy lại tinh thần. Khi trở lại tìm xe, ông quên không nhớ ông đậu xe ở đâu. Ông mở cellphone gọi ông bạn đến giúp.

***

Người đời chỉ nói “Good bye”,
“See You next week, next time” là cùng.
Ðôi ta ngọc nữ, tiên đồng,
Ðôi ta Từ Thức vợ chồng Giáng Hương.
Ngàn đời vẫn nhớ, còn thương :
Em yêu, đã đến cuối đường :

“Good bye. See You next Life”.

Hà Nội chống lại tiến trình phong chân phước cho Hồng y Nguyễn Văn Thuận: Nhân chứng bị ngăn chận tại sân bay

Hà Nội chống lại tiến trình phong chân phước cho Hồng y Nguyễn Văn Thuận: Nhân chứng bị ngăn chận tại sân bay
Lan Chi
7/14/2013

Ông Nguyễn Hoàng Đức

Ông Nguyễn Hoàng Đức, nhà phê bình văn học, trước đây từng là công an, đã bị chặn khi ông đang lên máy bay. Ông là người được dự kiến ​​sẽ đến Rome theo lời mời chính thức (của toà thánh) để có mặt trong lễ bế mạc của cuộc điều tra (phong chân phước) cấp giáo phận. Cuộc gặp gỡ của ông với vị Hồng Y đã bắt đầu hành trình biến đổi nơi ông, dẫn đến việc ông đã lãnh nhận phép rửa tội. Chính quyền Cộng sản muốn cản trở tiến trình này.

Hà Nội ( Thông Tấn Xã AsiaNews ) – Nhà cầm quyền Việt Nam đã ngăn chặn nhà phê bình văn học Nguyễn Hoàng Đức, một nhân chứng sống trong tiến trình phong chân phước cho Đức HY Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận, khi đang lên máy bay đi Roma. Là một cựu viên chức của Văn phòng Ban Tôn giáo và An ninh của ngành Công an, lẽ ra vào ngày 05 tháng bảy ông dự kiến sẽ có mặt tại Vatican cho lễ bế mạc của cuộc điều tra cấp giáo phận để bày tỏ nhận định của mình trong tiến trình phong chân phước cho vị Hồng Y người Viêt. Tuy nhiên, bất kể đã có lời mời chính thức, ông đã bị nhân viên an ninh ngăn chặn. Một trong những lý do được đưa ra là do Hà Nội muốn chống lại tiến trình phong chân phước.

Theo câu chuyện ông này kể lại trong bản tin tiếng Việt của Đài phát thanh Á Châu Tự Do (RFA), vào tối ngày 02 tháng 7 Nguyễn Hoàng Đức đến sân bay Nội Bài, Hà Nội, trình vé máy bay của mình tại quay vé của một hãng Thái Lan, là hãng hàng không ông dự định sẽ sử dung trong chuyến đi du lịch tới Ý. Tuy nhiên, ông đã được mời đến trình diện tại trụ sở công an của sân bay.

Một quan chức nói với nhà phê bình, trí thức người Việt này rằng ông “không được phép” rời đất nước, nhưng lại không nêu rõ lý do vì sao ông bị từ chối. Các nhân viên (an ninh) chỉ đơn thuần nói thêm rằng họ đang “thi hành lệnh cấp trên”. Sau nhiều cuộc đàm phán và thảo luận, ông đã gắng thiết lập một thủ tục bằng lời nói, để việc từ chối cho ông xuất ngoại do nhà chức trách áp đặt phải được “trình bày rõ ràng”.

Trong số những lý do cho sự can thiệp của công an cửa khẩu, là việc “không đồng ý” của chính quyền Cộng sản với tiến trình phong thánh cho Đức Hồng Y, người đã sống 13 năm đằng đẵng đầy khốn khó trong nhà tù của chế độ (cs). Điều này nêu bật lên bằng việc “hạn tù bị gia tăng” của một vị giáo sĩ cao cấp trong nhà tù của chính quyền. Sau đó là các lý do khác mà phần lớn liên quan đến “tư cách cá nhân” của nhà phê bình văn học, trước đây là một quan chức nhà nước, bây giờ là một nhà văn tự do và thường xuyên chỉ trích chính quyền.

Ông Nguyễn Hoàng Đức ngày nay được biết đến và đánh giá cao về các tác phẩm văn học của mình, nhưng cuộc sống của ông lại có những liên kết chặt chẽ với Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, vì nhờ gặp gỡ vị Hồng Y này mà ước muốn được cải đạo đã được khơi dậy nơi ông Đức.

Theo lời cựu quan chức này, ông đã “say mê” tư cách cá nhân của Đức Hồng Y. Đã có ba “phép lạ”, ông nói đã lãnh nhận từ cuộc gặp gỡ với Đức Hồng Y: chuyển đổi sang đức tin Kitô giáo, được chữa lành bệnh tật và được báo trước về một sự kiện trong tương lai. Cuộc hành trình chuyển đổi sang đạo Công Giáo và lễ rửa tội của ông sau này được kể lại trong một đoạn văn mang tên “Con đường của đức tin, qua sự trung gian của Đức Phan Xi cô-Xavie Nguyễn Văn Thuận”. Câu chuyện này đã góp phần vào việc phong chân phước cho Đức Hồng Y Việt Nam mà nhà cầm quyền Hà Nội muốn ngăn cản.

(Source: http://www.asianews.it/news-en/Hanoi-against-the-beatification-of-Cardinal-Van-Thuân.-Canonisation-process-witness-stopped-at-airport-28451.html)

TRÁNH SỰ NGỘ NHẬN

TRÁNH SỰ NGỘ NHẬN

Thánh Gia-cô-bê dạy: “Mau nghe, chậm nói, khoan giận” (Gc 1,19).

Trong cuộc sống hằng ngày, một vấn đề thường xảy ra làm phương hại đến quan hệ giữa các cá nhân với nhau là sự ngộ nhận về người khác.  Nhiều khi sự hiểu lầm còn dẫn đến hậu quả tai hại khôn lường, mà dù hối hận đến đâu cũng không thể bù đắp được những thiệt hại đã gây ra.  Câu chuyện sau đây là một bằng chứng:

Năm đó tại ALASKA Hoa Kỳ, có một đôi vợ chồng sống chung với nhau trong một căn nhà ở bìa rừng.  Sau một thời gian, chị vợ mang bầu và đã từ giã cuộc đời trong lúc sinh con, để lại cho chồng một bé trai kháu khỉnh.  Từ khi vợ chết, anh chồng vất vả với cảnh gà trống nuôi con: hằng ngày anh phải địu đứa con theo vào rừng săn bắn và chở gỗ mang đến nhà máy gần chợ bán lấy tiền nuôi con. Rất may, một ngày kia anh đã gặp một con chó hoang đang bị thương nằm thoi thóp bên đường, anh liền mang về nhà chăm sóc và huấn luyện trở thành chó nhà giúp việc đắc lực cho anh.  Đây là giống chó bẹc-dê rất thông minh và mạnh khỏe.  Nó luôn ngoan ngoãn đi theo giúp chủ chăm sóc em bé khi chủ làm việc trong rừng.

Ngày nọ, anh chủ nhà có việc phải ra khỏi nhà không tiện mang theo con nhỏ.  Trước khi đi, anh ta đã dặn dò con chó phải ở nhà thay anh trông coi đứa bé cho anh.  Lẽ ra công việc chỉ cần sáng đi tối về, nhưng hôm đó trời có bão tuyết, nên anh đành phải ở nán lại tránh tuyết mãi đến trưa hôm sau mới về đến nhà.  Anh hơi chột dạ khi thấy cổng ngoài nhà anh đã bị mở toang và con chó của anh từ trong nhà khập khiễng chạy ra vẫy đuôi chào chủ.  Thấy miệng con chó còn dính đầy máu tươi, anh liền chạy vào nhà thì thấy một quang cảnh tan hoang: Đồ đạc lộn xộn, chỗ nào cũng có máu đỏ, ngay cả trên giường cũng bê bết máu nhưng không thấy con anh đâu cả.  Anh gọi nhưng không thấy con trả lời. Nghĩ là con chó của anh đã trở lại cái tính dã man của loài thú hoang trước kia để ăn thịt con mình, trong lúc nóng giận, anh liền rút súng ra nhắm bắn vào đầu con chó tội phạm.  Nó chỉ kịp kêu “ẳng” lên một tiếng rồi ngã lăn ra đất giãy chết.  Ngay lúc đó, anh đã nhìn thấy đứa con của anh đang từ dưới gầm giường bò ra và kêu lớn tiếng gọi ba.  Anh vội bồng con lên quan sát từ đầu đến chân.  Tuy trên mình nó cũng có vết máu, nhưng dường như con anh không bị thương chỗ nào cả.  Anh nhìn lại con chó, thấy trên đùi của nó bị mất một miếng thịt, và tại góc nhà gần đó là xác một con chó sói bị chết nằm giơ bốn vó lên, trên miệng con chó sói vẫn còn đang ngậm miếng thịt cắn con chó nhà anh.  À, thì ra con chó bẹc-dê của anh đã anh dũng chiến đấu chống lại chó sói để cứu cậu chủ, nhưng lại bị chính ông chủ “lấy oán đền ơn” ra tay giết hại oan uổng.  Đây là một sự ngộ nhận gây hậu quả nghiêm trọng, mà từ đó về sau mỗi lần nghĩ tới anh đều cảm thấy áy náy và đau nhói trong tim.  Anh luôn tự trách mình đã quá nóng nảy hồ đồ, khi chưa hiểu rõ thực hư, đã vội giết chết con chó trung thành đã có công bảo vệ con mình khỏi bị sói rừng cắn xé.

***********************************************

Nguyên nhân dẫn đến ngộ nhận hiểu lầm một phần là do tính nóng nảy giận dữ như người ta thường nói: “Giận quá mất khôn”.  Phần khác do có thành kiến về người khác như anh chủ nhà trong câu chuyện trên đã nghĩ sai là con chó bị biến đổi về tính hoang dã trước kia.  Nhưng có lẽ nguyên nhân chính là do thái độ thiếu kiên nhẫn và quyết định hồ đồ khi chưa biết rõ thực hư như anh chủ nhà đã hấp tấp giết hại con chó trung thành.

Sự ngộ nhận tiến triển từ sự nghĩ không tốt cho đối phương, làm cho sự hiểu lầm càng lúc càng thêm trầm trọng, đưa đến chỗ không thể ngồi lại nói chuyện phải quấy với nhau được.  Ngộ nhận đối với một con vật mà đã phát sinh hậu quả nghiêm trọng như câu chuyện trên, thì sự ngộ nhận giữa người với người còn tác nghiêm trọng đến mức độ nào.

***********************************************

Lạy chúa, trong cuộc sống chung với tha nhân, chúng con thường hay hiểu sai về người khác và cũng thường bị người khác hiểu không đúng về mình.  Theo con nghĩ: nguyên nhân chính dẫn đến hiểu lầm về nhau là do thành kiến về người khác, do thái độ hồ đồ thiếu cẩn trọng khi xét đoán sự việc, và hành động theo tính nóng nảy của mình.  Xin cho chúng con quyết tâm thực hành lời Chúa trong thư thánh Gia-cô-bê Tông Đồ: “Mau nghe, chậm nói và khoan giận”.  Nhờ đó, chúng con sẽ bình tĩnh suy xét thấu đáo mọi việc và hành xử đúng đắn trước bất cứ tình huống nào trong cuộc sống chung xã hội.

LM Đan Vinh – hhtm

From: langthangchieutim

Suy ngẫm

Suy ngẫm

Con người ta sinh ra, ai thoát khỏi: sinh, lão, bệnh, tử?

Sinh, Trụ, Hoại, Diệt là định luật của tạo hóa, không có cách chi thay đổi được.

Cây cối đâm chồi nảy lộc vào muà xuân, xanh tốt xum xuê trong mùa hè, lá héo vàng vào mùa thu, đến mùa đông thì lá vàng rơi rụng, chỉ còn trơ trụi cành cây. Rồi tới mùa xuân năm sau, cây lại đâm chồi nảy lộc. Cái chu kỳ sinh, trụ, hủy, diệt cứ tiếp nối nhau, không ngưng nghỉ.

Ðời người là bể trầm luân, cõi thế gian đầy những ưu tư phiền não. Vạn vật đều bị chi phối bởi luật vô thường.. Vừa mới sinh ra cất tiếng khóc oa oa chào đời. Rồi lớn lên, bước vào đời với bao nhiều mộng đẹp. Thoắt một cái, mái tóc đã điểm sương, mắt đã mờ, lưng đã mỏi, 2 chân đã chậm chạp. Rồi cuối cùng, là hai tay buông xuôi, đi vào lòng đất, bỏ lại trên thế gian tất cả các thứ mà cả đời phải bôn ba vất vả mới làm ra được..

Ðời người như giấc mộng. Người ngoại quốc cũng có câu: Life is too short. (cuộc đời quá ngắn) Thế mà, con người ta khi còn sức khỏe thì mải mê kiếm tiền, lo củng cố địa vị, danh vọng, không có thì giờ để hưởng đời đúng nghĩa.

Cũng ít ai sửa soạn tâm tư để đón nhận những cái vô thường của tuổi gìa. Ðến khi mái tóc đã điểm sương, da đã nhăn, mắt đã mờ, chân đã chậm thì mới giật mình, rồi buồn phiền, thất vọng, nuối tiếc. Khi đó, bao nhiêu tiền của cũng trở thành vô dụng. Ăn uống thì phải kiêng thứ này, cữ thứ kia vì đường lên cao, cholesterol lên cao. Ăn đồ cứng không được vì hàm răng cái rụng, cái lung lay. Ði chơi xa thì không dám vì sức khỏe kém, đầu gối đau nhức. Nghe nhạc, xem phim cũng không được vì tai đã nghễng ngãng, mắt đã kèm nhèm.

Người VN mình vốn cần kiệm, chăm làm, chắt bóp để có của ăn của để. Làm việc thì liên miên quên cả cuối tuần, bất kể ngày lễ hay ngày Tết. Làm thì nhiều, mà ít dám vui chơi huởng thụ như người Âu Mỹ..

Suốt đời cặm cụi, nhịn ăn nhịn mặc, để dành, mua cái nhà cái cửa để một mai khi chết thì để lại cho con cháu. Sống như vậy quả là thiệt thòi.

Người xưa đã nói:

Một năm được mấy tháng xuân

Một đời phỏng được mấy lần vinh hoa

Và:

Chẳng ăn, chẳng mặc, chẳng chơi

Bo bo giữ lấy của trời làm chi

Bẩy mươi chống gậy ra đi

Than thân rằng thuở đương thì chẳng chơi

Con người có tham vọng, có nhu cầu nên mới bon chen. Suốt đời cứ miệt mài lo tìm kiếm những thứ vô thường mà quên mất chữ “nhàn”. Những thứ vô thường này là nguyên nhân đưa đến lo âu, căng thẳng, mất ăn, mất ngủ. Và nếu kéo dài có thể đưa đến bệnh tâm thần.

Ông Cả ngồi trên sập vàng

Cả ăn, cả mặc, lại càng cả lo

Ông bếp ngồi cạnh đống tro

Ít ăn, ít mặc, ít lo, ít làm

Ðời người sống mấy gang tay

Hơi đâu cặm cụi cả ngày lẫn đêm

Hoặc là

Ăn con cáy, đêm ngáy o..o

Còn hơn ăn con bò, mà lo mất ngủ.

Người xưa tuổi thọ kém, ngay tới vua chúa cũng chỉ sống tới khỏang 50 tuổi. Tới 60 tuổi đã ăn mừng “lục tuần thượng thọ. Còn tới 70 tuổi, thì thực là hiếm hoi. Bởi vậy mới có câu: “nhân sinh thất thập cổ lai hy (tức là, người ta có mấy ai mà sống được tới 70).

Ngày nay nhờ khoa học tiến bộ. Con người được sống trong điều kiện vật chất vệ sinh, và thoải mái hơn.

Những phát minh của ngành Y, Dược đã giúp nhân loại vượt qua được các bệnh hiểm nghèo, mà người xưa kêu là bệnh nan y như bệnh lao, bệnh phong cùi, bệnh suyễn. Ngày nay người ta sống tới 80, 90 tuổi không phải là ít. Tuy nhiên sống lâu chưa phải là hạnh phúc. Hạnh phúc là luôn cảm thấy vui vẻ, yêu đời, biết tận hưởng cuộc sống. Muốn vậy thì cần phải giữ cho thân tâm được an lạc.

Tâm thân an lạc là biết vui với những cái trong tầm tay của mình, chấp nhận những điều mình không thể nào tránh khỏi. Sống hòa hợp vui vẻ với mọi người xung quanh, không chấp nhất, tỵ hiềm. Lớn tuổi thì không làm ra tiền, nhưng cũng may, ở những nước tân tiến đều có khoản tiền trợ cấp cho người gìà để có thể tự lực mà không cần nhờ cậy vào con cháu. Các cụ gìà nên mừng vì sang được xứ này, thay vì ấm ức với số tiền quá khiêm nhượng, không thể tiêu pha rộng rãi như bạn bè.

Già thì phải chịu đau nhức, mắt mờ, chân chậm, đừng nên than thân trách phận, cau có, gắt gỏng, đã không làm được gì hơn mà còn tạo sự áy náy, thương cảm cho những người xung quanh.

Ở đời mỗi người một cảnh, vui với cảnh của mình, không suy bì, thèm muốn, ganh ghét với những người xung quanh.

Biết đủ thì đủ (Tri túc, tiện túc).

Người ta bảo trên 60 tuổi, mỗi ngày sống là một phần thưởng cho thêm (bonus) của Thượng Đế.

Vậy thì hãy nên vui vẻ, tận hưởng những ân sủng mà không phải ai cũng có được : Ðời sống của mình vui tươi hay buồn thảm là tùy thuộc vào thái độ của mình đối với cuộc SỐNG

Anh chị Thụ & Mai gởi

Nguyễn Hiến Lê: kẻ sĩ thời đại!

Nguyễn Hiến Lê: kẻ sĩ thời đại!

Nguyễn Hiến Lê, một tác giả của hơn một trăm cuốn sách, một nhà biên khảo có nhiều công trình to lớn, một dịch giả chuyển ngữ được những tinh túy văn chương ra Việt ngữ, một học giả được nhiều nể trọng của văn giới, và cũng là một người đã trung thực khi viết hồi ký. Đọc những tác phẩm về văn học, về triết học, về xã hội học, về sử học, về ngôn ngữ học, hay các sách học làm người, chúng ta mới thấy được sự sâu sắc phong phú nhưng lại được diễn tả bằng một văn phong rõ ràng chính xác nhưng đơn giản nên nhiều vấn đề khúc mắc phức tạp trở thành dễ hiểu.

Thế mà, ông lại khiêm tốn nói rằng ông cầm bút viết để tự học hỏi. Không biết có phải đó là một điển hình kẻ sĩ để mấy vị hay cao ngạo khoe khoang phải suy nghĩ?

Đọc hồi ký “Đời Viết Văn của Tôi”, chúng ta thấy được gì? Có phải qua những tác phẩm, ông muốn bày tỏ tấm lòng của mình với văn chương chữ nghĩa. Nhìn và quan sát người khác dễ hơn là quan sát nhận định về chính mình. Ông cũng hiểu rất rõ điều ấy và trong phần mở đầu cuốn hồi ký ông đã rất khiêm nhượng :

“… Chép hồi ký về đời mình, lại càng dễ bị nhiều người chê là chỉ nêu lên những cái hay của mình mà giấu những cái xấu; ngay khi tự vạch những cái xấu của mình ra thì nếu không phải do lòng tự cao cũng là để tự biện hộ. Dù là tập Confessions của JJ Rousseau hay tập Autobiography của Bertrand Russel thì cũng chỉ đáng tin một phần nào mà thôi.

Tôi lại nhận thấy bây giờ chép lại tuổi thơ và thiếu niên, tôi bỏ đi gần hết những điều tôi đã chép năm 1935; mà tập tôi mới viết xong đây nếu chép lại từ 1974, đầu năm 1975, thì nội dung tất khác bây giờ nhiều, nếu trái lại tôi được sống đến năm 1985-1990 và lúc đó mới chép thì nội dung cũng lại khác, có thể khác xa nữa.

Tôi đã ghi tình cảm suy tư của tôi lúc này về một số ciệc đã xảy ra trong đời tôi mà tôi đã được nghe và thấy. Có nhiều chỗ tôi đã vô tình chép sai sự thực, hoặc bỏ sót, điều đó không sao tránh được. Lỗi ở lý tính con người, nó bị tình cảm sai khiến, lại thêm ở tuổi bảy mươi như tôi, nó suy giảm nhiều rồi..”

Ở trong nước vừa in Tuyển Tập Nguyễn Hiến Lê, gồm bốn cuốn bìa cứng toàn bộ gần bốn ngàn trang với Tập 1 : Triết học, Tập 2 : Sử học, Tập 3 : Ngữ học và Tập 4 : Văn học. Thật ra, như vậy vẫn chưa đầy đủ lắm với văn nghiệp của ông. Vẫn còn nhiều thiếu sót, dù bộ sách đã có bề dầy. Những công trình của ông, là những tài liệu khả tín cho những người lớp sau để có thể phác họa ra được một thực tế văn học của một thời đại nhiều đặc biệt.

Nguyễn Hiến Lê sinh năm 1912 và trong suốt cuộc đời đã trải qua rất nhiều biến cố của đất nước và dân tộc Việt Nam. Ông lớn lên khi lối học cổ điển “chi hồ dã dã“ bị suy vi và trường học đã dạy bằng chữ quốc ngữ và chữ Pháp. Ông cũng có một thời học chữ Nho và sau đó vào trường học. Người cha mất sớm nên trong gia đình mẹ góa con côi có lúc ông đã lêu lổng trốn học nhưng sau đó lại tu tỉnh và học hành tiến bộ hơn. Có lẽ, ông chịu ảnh hưởng của hai nền giáo dục và đó cũng là một điểm đặc biệt của ông.

Nguyễn Ngu Ý trong ‘Sống và Viết“ đã có nhận định về Nguyễn Hiến Lê:

“Trong làng văn nước nhà, có lẽ không ai dự bị vào nghề lâu như anh : trên mười năm trời và thời hậu chiến chưa có tác giả nào viết, dịch đều và có sách xuất bản nhiều như anh; bốn mươi bốn quyển đã in và có độ một chục cuốn đang in hoặc sẽ in. Anh cũng lại là nhà văn mà nhiều người thắc mắc. Đã có hơn một người hỏi tôi :

– Anh Lê thuộc về lớp cổ hay lớp mới?

Quen anh trên mười năm mà tôi chưa từng tự hỏi như vậy bao giờ và tôi đã lúng túng không trả lời được.

Cứ xét lối làm việc thì anh là người mới : có tổ chức, có phương pháp như một nhà khoa học; nhưng xét lối sống, lối cư xử thì lại như một người cổ : thanh bạch, giản dị, chỉ ưa sách và hoa, ghét sự ồn ào, nhất là sự ồn ào của danh vọng ; tính tình có vẻ như hơi nghiêm ; đối với bạn bè thì chân thành nhưng cũng có cái vẻ đạm bạc của nhà Nho. Sách anh viết và dịch thì có những cuốn về tân kiến thức như thuật về Tổ Chức, về Tân Giáo Dục, về ngữ pháp, về kinh tế (học thuyết Fourastié); về Chính Trị (cuốn Xung Đột trong Đời Sống Quốc Tế) ; mà lại có những cuốn về cổ học như Đại Cương Văn Học Sử Trung Quốc hay Đại Cương Triết Học Trung Quốc. Anh rất trọng cái thực học mà có lúc đề cao đạo học; trọng lối tổ chức làm việc của Âu-Mỹ mà lại ghét lối sống Âu-Mỹ thích cái tinh thần tri túc, thanh đạm của phương Đông. Trong cuốn Một Niềm Tin anh khuyên thanh niên phải xằn tay áo và thắt bụng lại, sản xuất gấp đôi mà tiêu pha bớt đi để nước nhà mới có cơ thịnh vượng được ; nhưng riêng anh có nhiều cơ hội làm giàu một cách lương thiện thì anh lại gạt đi. Anh viết cuốn ”Tổ Chức Công Việc theo Khoa Học” rồi lại dịch cuốn “The Importance of Living” (Một quan niệm sống đep) của Lâm Ngữ Đường. Anh rất thích ít bài cổ văn Trung Quốc như A phòng Cung phú, Đằng Vương Các Tự, Bắc Sơn Di Văn mà lại cũng rất thích các tác giả mới như Marcel Proust. Anh theo dõi những trào lưu tư tưởng mới cuả thế giới mà cũng vẫn đọc những tác phẩm của cổ nhân, đọc cả sách về Đông Y, về Tử Vi, Tử Bình, bói Dã Hạc, về Địa lý (môn phong thủy hồi xưa, mà đọc trong bản chữ Hán, đọc để biết. Văn anh viết có bài nửa biền nửa tản như bài Hương Sắc Trong Vườn Văn, có đoạn lại làm gợi nhớ tới lối hành văn của Michel Butor như đoạn cuối bài Đuổi Bắt Ảo Ảnh, nhưng xét chung thì anh rất ưa sự bình dị.

Cho nên bảo anh là cổ thì không đúng, mà bảo anh là mới thì anh cũng không mới hẳn. Anh có mâu thuẫn với anh chăng? Trong con người anh có hai phần chăng? Một phần chịu ảnh hưởng của gia đình, một phần chịu ảnh hưởng của học đường chăng? Nhưng bảo là mâu thuẫn thì có đúng không? Thế nào là mâu thuẫn? Thế nào là dung hòa? Tôi không biết được mà có lần đem ra hỏi lại anh, thì anh cũng không trả lời được, cho rằng đó là tùy theo nhận xét của mỗi người.,,”

Với tôi, tôi ngưỡng phục tác phẩm của ông. Với cách trình bày trong sáng, đơn giản nhưng không qua loa, người đọc dễ lãnh hội được những điều mà tác gỉa gửi gấm trong chữ viết. Và bàng bạc, trong chữ nghĩa, trong ý tưởng là cái tâm thẳng thắn và ý hướng giúp những người muốn học hỏi có dịp để đạt cho bằng được những kiến thức cần thiết cho đời sống.

Nhưng, tôi không thích ông ở ý hướng chính trị. Sống ở miền Nam nhưng lòng ông lại hướng về miền Bắc. Trong hồi ký ông viết :

“Cho tới năm 1974 tôi đã được biết ba xã hội : xã hội nông nghiệp của ông cha chúng ta, xã hội tư bản của Tây phương do ảnh hưởng của Pháp và vài nét xã hội tiêu thụ (societé de consommation) ở htời hậu kỹ nghệ (post-industriel) của Mỹ; ba xã hội đó tôi đã phác qua trong các phần trên. Từ năm 1975 tôi lại được biết thêm một xã hội nữa mà người ta gọi là xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa.

Tôi vốn có cảm tình với Việt Minh, với Cộng Sản, ghét thực dân Pháp, Mỹ, nhất là từ 1965 khi Mỹ đổ quân ào ạt vào miền Nam, tôi khinh những chính phủ bù nhìn của Pháp, Mỹ. Tôi phục tinh thần hy sinh có kỷ luật của anh em kháng chiến và mỗi lần có htể giúp họ được gì thì tôi sẵn lòng giúp..”

Ông Nguyễn Hiến Lê đã viết thẳng thắn ra như vậy. Ông vẫn còn bị chiêu bài kháng chiến chống thực dân lôi cuốn mà không nhìn ra cái nguyên do của cuộc chiến ủy nhiệm của các thế lực cường quốc trên thế giới gây ra cuộc nội chiến tương tàn nối da xáo thịt. Cái tâm lý ấy khá thông thường với người miền Nam chưa bị nếm mùi cải cách ruộng đất, chưa bị đảng trị một cách lộ liễu như ở miền Bắc.

Một hành động chống đối bất hợp tác với chính quyền VNCH là ông đã từ chối Giải Tuyên Dương Sự Nghiệp Văn học Nghệ Thuật năm1973 của Phủ QuốcVụ Khanh Văn Hóa. Cũng như trước đó ông đã từ chối Giải Thưởng Văn Chương Toàn Quốc năm 1967 khi ông được giải cùng với ông Giản Chi Nguyễn Hữu Văn. Ông từ chối với lý do là dùng hiện kim ấy để giúp đỡ nạn nhân chiến cuộc và bản thân ông không tham dự giải…

Nhưng, sau khi đã sống với chế độ Cộng sản từ sau năm 1975. Ông nhận ra được sự thực và trong cuốn hồi ký đã giành ra một phần khá quan trọng nhận xét về thực trạng xã hội Việt Nam. Phần viết trong hồi ký ấy chỉ có bản in ở hải ngoại do nhà xuất bản Văn Nghệ của ông Từ Mẫn Võ Thắng Tiết là có, còn bản in ở trong nước của nhà xuất bản Hội Nhà Văn thì bị cắt xén và “biên tập” tơi bời…

Trong Tự Điển Văn học (bộ mơi) xuất bnả ở Sai Gòn năm 1992, Nguyễn Q. Thắng đã tóm gọn sự nghiệp văn học của ông Nguyễn Hiến Lê như sau :

“Ngòi bút Nguyễn Hiến Lê đề cập đến nhiều lĩnh vực mà ở lĩnh vực nào cũng có căn cứ khoa học, am tường cặn kẽ về cácd đối tượng, sâu sắc về các vấn đề được nhắc tới và không thiếu tính nghệ thuật.

Tác phẩm của ông bao gồm nhiều chủ đề như :

1- Văn học : Gồm một số tác phẩm đặc sắc và công phu như Hương Sắc Trong Vườn Văn ( 2 cuốn, 1962) Luyện Văn (3 cuốn, 1953), Đại Cương Văn Học Sử Trung Quốc (3 cuốn, 1954-1966), Tô Đông Pha (1970).. giới thiệu được những tinh hoa của văn học Trung Quốc cũng như nghệ thuật văn chương Việt Nam.

2- Ngôn ngữ học : Để Hiểu Văn Phạm (1952), Khảo Luận về ngữ pháp Việt Nam (1963) Chúng Tôi Tập Viết Tiếng Việt.. có nhiều phát kiến mới về ngôn ngữ học Việt Nam đồng thời vận dụng được những tiến bộ mới nhất của ngữ học hiện đại vào ngữ pháp tiếng việt.

3- Triết Học : Đại Cương Triết Học Sử Trung Quốc (2 cuốin 1966) Nho Giáo Một Triết Lý Chính Trị (1958), Liệt Tử và Dương Tử (1972) một Lương Tâm Nổi Loạn (1970), Bertrand Russel (1971).. trình bày được một hệ thống triết học cổ điển Trung Hoa cũng như những tấm gương lớn về chân dung các triết gia Tây Phương hiện đại.

4- Sử Học : Gồm một số tác phẩm về lịch sử và văn minh sử thế giới như : Lịch Sử Thế Giới (4 cuốn, 1955), Bài Học Isarael (1968), Bán Đảo Ả Rập (1969), Bí Mật Dầu Lửa (1969) Bài Học Của Lịch Sử (19720, Nguồn Gốc Văn Minh(1974), Văn Minh Ả Rập (1969) Sử ký Tư Mã Thiên (1970), Chiến Quốc Sách (1968), Đông Kinh Nghĩa Thục (1954), Sử Trung Quốc (3 cuốn, 1982).. là những cái nhìn xuyên suốt về lịch sử văn minh sử thế giới và lịch sử cận đại Việt Nam.

5- Gương Danh nhân : gồm có một số tác phẩm viết về Gương hy Sinh (1962), Gương Kiên Nhẫn (1964) Gương Chiến Đấu (1966) Ý Chí Sắt Đá (1971), Những Cuộc Đời Ngoại Hạng (1970), Einstein (1971).. là những bài học thiết thực cho nhiều lớp người nhất là thành phần thanh thiếu niên đang ở ngưỡng cửa của cuộc đời.

6- Giáo Dục : trình bày những quan điểm về giáo dục về các lớp tuổi trong đời sống gia đình Việt Nam. Loại này gồm : Thế Hệ Ngày Mai (1953), Tìm Hiểu Con Chúng Ta (1966) Tự Học Để Thành Công (1954) Tự Học Một Nhu Cầu Của Thời Đại (1964), Làm Con Nên Nhớ (1968), Sống 24 Giờ (1956)

7- Tự luyện đức trí : Tác giả vừa dịch vừa nghiên cứu về các chuyên đề giáo dục có tính cách xã hội như Tương lai Trong Tay Ta (1962), Luyện Lý Trí (1965), Rèn Nghị Lực (1956), Ý Cao Tình Đẹp (1967) Loại này có trên hơn 20 cuốn có giá trị. Trước năm 1975 số ấn bản lên đến hàng vạn cuốn. Hiện nay các nhà xuất bản trong toàn quốc đang tiếp tục tái bản.

8- Cảo luận : là một số chuyên đề về văn chương, văn hóa, văn nghệ như Nghề Viết Văn (1956), Vấn Đề Xây Dựng Văn Hóa (1967), Mười Câu Chuyện Văn Chương (1975), Con Đường Hòa Bình (1971) là những đóng góp sáng giá của ông vào văn chương đạo đức và cảm thụ học thuật cho độc giả yêu mến văn nghệ.

9- Dịch thuật : Nguyễn hiến Lê có một khả năng dịch thuật rất sung mãn. Từ khi bắt đầu cầm bút cho đến khi cuối đời ông có hằng chục công trình dịch thuật sáng giá nhất là các bộ tiểu thuyết lớn phương Tây như Chiến Tranh và Hòa Bình (4 cuốn, 1968), cầu trên Sông Drina (1972),Câu Chuyện Thương Tâm (1956) Kiếp Người (1962), Một Mùa Hè Vắng Bóng Chim (1990), Cổ Văn Trung Quốc.. và một số lượng tác phẩm biên khảo viết bằng chữ Pháp, chữ Hán cổ cận thế giới.

10- Du Ký : gồm một số quyển ghi chép lại các lần đi thực địa ở các địa phương. Loại này không phải là những tác phẩm thuần túy văn chương mà là những đóng góp thiết thực cho khoa học tự nhiên, xã hội, văn học nữa như Bảy Ngày trong Đồng Tháp Mười (1954), Đế Thiên Đế Thích.. cùng một số sách về Quản Trị công nghiệp, kinh tế, gióa khoa toán, Bên cạnh ông còn viết hơn 300 chuyên đề trên các tạp chí chuyên ngành (trong các tạp chí ở Sài Gòn trước 1975)..”

Thật là một công trình văn học nghệ thuật đồ sộ. Ông là một học giả có nhiều uy tín trong giới trí thức và sau năm 1975, chế độ Cộng sản cũng có nhiều cư xử đặc biệt với ông. Những người như ông, như Bình Nguyên Lộc được níu kéo để tham gia vào sinh hoạt văn học nhưng đều bị cự tuyệt một cách khéo léo.

Năm 1981, ông Nguyễn Hiến Lê viết xong bộ hồi ký. Ở trong nước, nhà xuất bản Văn học in năm 1993. Ở hải ngoại, nhà xuất bản Văn nghệ của ông từ mẫn Võ Thắng Tiết in ra làm ba tập. Tập 1 xuất bản năm 1990, tập 2 xuất bản năm 1990, và tập 3 xuất bản năm 1988. So sánh hai bản in ở trong nước và ở hải ngoại, thấy sự khác biệt rất lớn. Bản in ở hải ngoại thì tôn trọng bản thảo không sửa chữ nào quan trọng trong khi bản in ở trong nước thì bị cắt xén và “biên tập “ tơi bời, nhất là những nhận định trung thực của tác giả Nguyễn Hiến Lê về tình trạng văn hóa, xã hôi, chính trị, kinh tế ở trong nước. Ông phê phán chính xác, nói có sách mách có chứng và bằng chứng là chính thực tế của cuộc sống. Do đó, bản ở trong nước không có những phần ấy là một điều cố nhiên của nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa.

Trước 1975, ông đã đọc những bài tố Cộng cũng như đã nghe những người từ Bắc di cư vào Nam kể lại thời cải cách ruộng đất. Hay đã đọc những cuốn sách viết về đời sống ở Nga, với sự kềm kẹp của mật vụ và những vụ khủng bố trắng thời Stalin. Hoặc biến cố tết Mậu Thân năm 1968 với vụ thảm sát ở Huế. Cũng như ông đã đọc những lời chỉ trích chế độ Cộng sản của nhà văn Soljenitsyne và nhà bác học Sakharov cha đẻ ra bom nguyên tử của nga. Rồi những André Gide, Bertrand Russel, mới đầu thiên Cộng nhưng sau lại chỉ trích nặng nề, hay những Koestler, Georghiu, Djilas,.. mới đầu là đảng viên trung kiên nhưng sau phản tỉnh chống đối gay gắt.

Dù vậy nhưng Nguyễn Hiến Lê vẫn thiên về miền Bắc và hy vọng rằng sau hiệp ước Paris sẽ có hòa bình và sẽ có chính phủ ba thành phần.

Nhưng, khi đã sống với Cộng sản, ông đã nhìn ra tất cả những khuyết điểm của một chế độ vô sản chuyên chính. Ông có những nhận xét rất xác thực, về đời sống người dân trong thời kỳ đó. Ông phân tích rõ ràng từ hệ thống hành chánh phường khóm, từ tinh thần làm việc bê trễ đến hệ thống giấy tờ phiền nhiễu phức tạp, cũng như nạn nhũng lạm, ức hiếp dân chúng. Ông kể chuyện những ngày đổi tiền, biết bao nhiêu người trở thành tay trắng vì thủ đoạn ăn cướp tài sản người dân một cách công khai. Rồi ông nhận xét về kinh tế, về công nghiệp, nông nghiệp, … mặt nào cũng đều thất bại thê thảm. Những công ty quốc doanh không tạo được sản phẩm, lại lối quản trị, làm việc lề mề, nên trở thành gánh nặng cho quốc gia. Những nông trường khai hoang, hoặc vùng kinh tế mới, làm theo chỉ thị và lấy có nên không có kết quả, và có thể là nơi lưu đày của những người sống ở thành phố. Về phân phối hàng hóa, thì ngăn sông chắn chợ, gây phiền hà cho dân. Rồi chiến dịch đánh tư sản, kiểm kê tài sản, những cuộc vơ vét, tịch thu của cải. Tóm lại, là cả một xã hội xuống cấp trầm trọng, tự do hạn chế, dân chúng nghèo khổ,..

Đọc Hồi ký Tập 3 của Nguyễn Hiến Lê, tôi có cảm giác như đang đọc một bản cáo trạng buộc tội chế độ Cộng sản một cách rất nặng nề. Trong hơn 200 trang giấy, ông viết thật chân thành, nêu lên những sự thực và gửi theo những nỗi niềm đau lòng của một người đã thức tỉnh dù hơi muộn màng. Dù được kể vào hàng nhà văn tiến bộ, và được chế độ mới dành cho nhiều ưu đãi cũng như mời mọc để tham dự các buổi lễ cũng như các sinh hoạt văn hóa nhưng ông tránh né và luôn luôn làm người đứng ngoài.

Đọc những đoạn văn, viết thẳng thắn, không sợ sệt, không né tránh sự thực, tôi mới thấy cái tư cách kẻ sĩ vòi vọi của ông. Có những người, hồi trước thiên Cộng, nay muốn thay đổi suy tư mà vẫn chưa dám mạnh dạn, vẫn còn nói quanh nói co, không dám chấp nhận cái sai sót của mình. Còn với ông Nguyễn Hiến Lê, nghĩ gì viết nấy, không có áp lực nào làm ông thay đổi được thái độ.

Hãy đọc đoạn ông viết về phong trào vượt biên :

“Từ năm 1977, người ta dùng đường biển, phong trào vượt biên phát triển rất mạnh tới mức một bà già nông dân miền Tây phải nói ”Cây cột đèn nếu đi được thì cũng đi” Dù phải gian lao khổ cực tới mức nào hễ ra khỏi được nước là sướng rồi, làm mồi cho cá mập vẫn còn hơn ở lại trong nước mà chết lần chết mòn, người ta nghĩ vậy..” (trang 109)

Hay : ”Người ta nhận định sai về tình trạng miền Nam.Trước ngày 30 – 4 -1975, miền Nam rất chia rẽ, nhiều giáo phái đảng phái nhưng tiến bộ hơn miền Bắc nhiều về mức sống, kỹ thuật, nghệ thuật, văn hóa nhờ ngôn luận được tương đối tự do, nhờ được đọc sách báo ngoại quốc, biết tin tức thế giới, du lịch ngoại quốc, tiếp xúc với người ngoại quốc.., cả về đạo đức nữa, vì đủ ăn, người ta ít thèm khát mọi thứ, ít gian tham ( tôi nói số đông) ít chịu làm cái công việc bỉ ổi là tố cáo người hàng xóm chứ đừng nói tới người thân, nói chung là không có hành động nhơ nhớp như nhiều cán bộ ở Bắc tôi đã kể ở trên. Tôi còn nhận thấy vì người Nam bị coi là ngụy hết nên càng đoàn kết với nhau, thương nhau : cùng là ngụy với nhau mà!..” (trang 115)

Hoặc : ” làm cho người dân tưởng rằng chỉ phải đi cải tạo nửa tháng mà rốt cuộc là phải đi 5-6 năm, có thể là 10 năm, bảo là cho họ đi học tập, cải tạo tinh thần mà sự thật để hành hạ, để trả thù, như vậy làm sao dân tin được chính quyền. Lệnh trung ương ban hành, địa phương không theo, làm ngược hẳn lại, lương hưu trí không phát, tiền tiết kiệm gửi ngân hàng không cho rút ra mà không thẳng thắn cho họ biết lý do, cứ làm thinh để dân chờ hết ngày này qua năm khác, chờ chán thì tuyệt vọng thôi không đòi hỏi nữa; cho người ta vượt biên bán chính thức, thu của mỗi người bao nhiêu lượng vàng rồi bỗng nhiên ngưng lại hết mà không trả đủ vàng lại cho người ta; thâu thuế của người ta và cho phép bán ở chợ trời rồi đột nhiên bao vây cả một khu, tịch thu hết hàng hóa; khi chưa nắm chính quyền thì hứa sẽ bỏ hết các thuế chợ, chia đất cho dân cày,, nắm chính quyền được ít lâu thì thuế chợ còn nặng hơn trước, mới chia đất cho dân thì đã bắt đầu vào hợp tác xã nông nghiệp, bỏ quyền làm chủ miếng đất của họ mà làm chủ tập thể ; tuyên bố với quốc dân và thế giới rằng miền Nam theo chế độ dân chủ, trung lập, rồi một năm sau đã thống nhất quốc gia, hủy bỏ chế độ đó, bắt miền Nam theo chế độ xã hội chủ nghĩa như miền Bắc; báo chí, các đài phát thanh chỉ thông tin một chiều, không cho dân biết sự thực, đến nỗi chính các cán bộ ở bưng về cũng phàn nàn rằng báo chí nói láo hết, như vậy làm sao dân tin chính quyền được..” (trang 119-120)

Và rất nhiều những đoạn tương tự như thế trong tập hồi ký. Viết hồi ký có phải là ghi lại trung thực những sự kiện. Tôi nghĩ như thế. Và xa xôi hơn, trong hoàn cảnh lúc đó, trong sự theo dõi nghặt nghèo như vậy, ông Nguyễn Hiến Lê đã viết được những trang sách để đời. Những người lớp sau, đọc những trang sách ấy, không còn bị che dấu bởi những lối viết mập mờ của những người viết không dám nói lên sự thực. Ngay như một người đi theo Cộng sản đến cuối đời như Thiếu Sơn Lê Sĩ Quí mà còn nói : “Thời trước mình viết, ngụy nó bỏ tù mình cũng không sao, bây giờ mà viết để cho cách mạng bắt giam mình thì kỳ quá mà lại kẹt cho họ nữa”

Tôi là một người đọc rất nhiều sách của tác gỉa Nguyễn Hiến Lê, hầu như trên lãnh vực nào tôi cũng học hỏi được rất nhiều. Với tôi, ông là một ông thầy lớn, một học giả uyên bác, một người khảo cứu sâu sắc và cẩn trọng. Nhưng, còn một điều quan trọng hơn nữa là tôi kính phục cái tư cách kẻ sĩ của ông. Qua bộ hồi ký, ông tỏ lộ được cá tính của mình, của một người trí thức không bẻ cong sự thực. Và, ông đã can đảm nói lên cái nhầm lẫn của mình khi chưa sống với Cộng Sản. Ông là một trí thức đúng nghĩa trí thức …

Tu Cam Tran

Đất đai thuộc về giai cấp mới – giai cấp cộng sản

Đất đai thuộc về giai cấp mới – giai cấp cộng sản

Kính Hòa, phóng viên RFA
2013-07-14

Biểu tượng của đảng cộng sản Việt Nam vẫn là lá cờ búa và liềm màu vàng trên nền đỏ.

Biểu tượng của đảng cộng sản Việt Nam vẫn là lá cờ búa và liềm màu vàng trên nền đỏ.

AFP

Nghe bài này

Tầng lớp nông dân Việt Nam hiện đang bị mất đất, bị bóc lột trong chính một chế độ mệnh danh là đấu tranh cho giai cấp công nông. Một giai cấp mới đã được hình thành sau khi cuộc cách mạng cộng sản thành công.

Cờ đỏ búa và liềm

Biểu tượng của đảng cộng sản Việt Nam đang cầm quyền vẫn là lá cờ búa và liềm màu vàng trên nền đỏ, một biểu tượng cho liên minh công nhân và nông dân, xưa cũ gần 100 năm. Biểu tượng này được cho là có một hiệu quả vô song trong việc thu hút tầng lớp dân cày trong những năm đầu tiên của cuộc cách mạng Nga năm 1917.  Những người dân cày vốn ít học, không thể hiểu những triết lý phức tạp về kinh tế chính trị của các ông Karl Marx, Engel,…khi thấy cái liềm gặt thiết thân của cuộc đời họ, bèn đứng lên đi theo đảng Bolsevik lúc ấy ở Nga, và những đảng cộng sản sau này trên khắp thế giới.

Về nguyên tắc, các đảng viên đảng cộng sản Việt Nam, nếu không xuất thân từ hai giai cấp công nhân và nông dân, thì cũng là đại diện cho họ, đấu tranh cho quyền lợi của họ. Đặc biệt trong tình hình cụ thể của xã hội Việt Nam, với đại đa số dân chúng là nông dân thì hình ảnh cái liềm trên lá cờ đảng càng có giá trị lớn lao, ngay từ khi đảng cộng sản Đông Dương mới thành lập hồi năm 1930 cho đến nay.

“Biểu tượng của đảng cộng sản Việt Nam đang cầm quyền vẫn là lá cờ búa và liềm màu vàng trên nền đỏ, một biểu tượng cho liên minh công nhân và nông dân…Biểu tượng này được cho là có một hiệu quả vô song trong việc thu hút tầng lớp dân cày”

Bên cạnh biểu tượng lưỡi liềm, các đảng cộng sản cũng đề ra các khẩu hiệu dễ hiểu rất dân túy để cổ vũ tầng lớp nông dân. Năm 1930 được biết đến cuộc nổi dậy của nông dân tại Nghệ Tĩnh với khẩu hiệu nổi tiếng, Trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ, tức là tiêu diệt hết những giai cấp khác ngòai nông dân; hay sau đó là Ruộng đất cho dân cày. Người nông dân khắp nơi đã kéo nhau theo đảng cộng sản tiến hành cuộc chiến tranh giai cấp cho Đảng, với hy vọng có được ruộng đất để mà sử dụng cái liềm vàng đẹp đẽ trên lá cờ đỏ màu máu cách mạng.

Ruộng đất cho dân cày. Người nông dân khắp nơi đã kéo nhau theo đảng cộng sản với hy vọng có được ruộng đất

Với một đảng chính trị có tổ chức chặt chẽ, cùng với sự hậu thuẫn của hàng triệu nông dân, những người cộng sản đã nắm chính quyền, nắm một cách độc tôn. Và ở Việt Nam, họ đã thực hiện lời hứa với những người dân cày bằng cuộc cải cách ruộng đất diễn ra sau năm 1954. Trong trận chiến giai cấp này, các khái niệm trừu tượng của kinh tế chính trị Marxism đã biến thành các con số phần trăm trong dân chúng là địa chủ ở mỗi làng để cách mạng tiêu diệt. Nhiều người đã chết dù không có một tấc đất nào trong tay. Người địa chủ nổi tiếng ở miền Bắc là bà Nguyễn Thị Năm, người ủng hộ tiền tài nhân lực cho đảng của ông Hồ Chí Minh, nằm trong những người bị xử bắn đầu tiên.

Những người chết rồi cũng bị quên đi trước những khó khăn vất vả của đời thường, của hợp tác xã nông nghiệp, và của các tập đòan sản xuất tại miền Nam sau ngày đất nước được thống nhất. Tất cả mọi người dường như đã trở thành chung một giai cấp công nông, dường như cuộc đấu tranh giai cấp đã thành tựu.

Giai cấp cộng sản và những đặc quyền

Nhưng giai cấp đã không mất đi. Milovan Djilas, nhân vật số hai của đảng cộng sản Nam Tư, đã viết vào năm 1957 rằng: Một giai cấp mới đã hình thành, và cả hệ thống cộng sản được xây dựng để bảo đảm cho quyền làm chủ và bóc lột của giai cấp mới này. Đó chính là giai cấp cộng sản cầm quyền.

“Một giai cấp mới đã hình thành, và cả hệ thống cộng sản được xây dựng để bảo đảm cho quyền làm chủ và bóc lột của giai cấp mới này. Đó chính là giai cấp cộng sản cầm quyền”

Nếu đặc quyền của giai cấp mới vào những năm chiến tranh của miền Bắc xã hội chủ nghĩa chỉ là vài cân thịt ngon ở cửa hàng Tôn Đản, hay vài thước vải đẹp cung cấp theo tiêu chuẩn, thì từ năm 1986 trở đi, năm mà đảng cộng sản quyết định kết hôn ý thức hệ công nông của mình với kinh tế thị trường tự do, nó đã trở nên trù phú hơn. Bây giờ là nhà xưởng sản xuất công nghiệp để thu lợi trên sự bóc lột giá trị thặng dư của người công nhân theo lý thuết của Karl Marx, và đất đai.

Milovan Djilas viết tiếp, Dù về mặt pháp lý tài sản là của xã hội, của quốc gia, nhưng trên thực tế chỉ có một nhóm nhỏ kiểm sóat và thu lợi từ đấy.

Khi người cộng sản lấy lại đất từ người nông dân...

Khi người cộng sản lấy lại đất từ người nông dân…Files photos

Tài sản quan trọng nhất đối với đại đa số dân chúng Việt Nam chính là đất đai, và nay nó thuộc sỡ hữu tòan dân, tức là do cái nhóm nhỏ cộng sản cầm quyền kiểm sóat.

Cuộc đấu tranh giai cấp vẫn tiếp tục nhưng không được hô hào nữa. Hàng đòan nông dân mất đất đi khiếu nại, thưa kiện từ Nam ra Bắc, vì đất đai của họ bị tịch thu, dưới danh nghĩa dùng cho các dự án phát triển kinh tế xã hội của những công ty, mà trên thực tế nhiều đảng viên cộng sản, hoặc những người có quan hệ chặt chẽ với bộ máy quyền lực của đảng, nắm giữ. Các cuộc biểu tình này thường xuyên bị chính quyền cộng sản của giai cấp công nông Việt Nam dẹp đi. Chưa có thống kê nào về số lượng các cuộc biểu tình đòi đất hàng năm, nhưng chỉ trong vài năm gần đây, có thể nêu nhiều vụ xảy ra liên tiếp, vụ nông dân lõa thể giữ đất ở Cần Thơ, vụ Văn Giang, vụ Dương Nội, rồi đỉnh cao là vụ Đòan Văn Vươn ở Hải Phòng nơi mà súng đã nổ thay cho luật pháp. Và trong khi những dòng chữ này đến với quý độc giả thì hàng trăm nông dân làng Trịnh Nguyễn, Từ Sơn Bắc Ninh đang dầm mưa giải nắng giữ đất.

Luật gia Lê Hiếu Đằng, người từng trải qua kinh nghiệm với đảng cộng sản suốt mấy mươi năm đã phát biểu,

“Chưa có cuộc cách mạng nào hứa hẹn nhiều và thực hiện ít như cuộc cách mạng cộng sản

Milovan Djilas”

“Trước kia nông dân nghe theo Đảng để mong có ruộng đất. Cái chuyện nông dân ly tán, khổ đâu vì mất đất là do đâu? Là do cái quy định đất đai là sở hữu tòan dân!”

Lời phát biểu của ông Lê Hiếu Đằng như một bức tranh tổng kết những gì những người cộng sản đã hứa hẹn khi họ còn hàn vi ngày xưa đến khi họ trở thành giai cấp mới ngày nay.

Còn những người nông dân đã tự nguyện đứng dưới lá cờ của giai cấp công nông thì nghĩa gì?

Bà Ngô Thị Đức, một nông dân ở làng Trịnh Nguyễn, có 47 tuổi đảng và bị đảng của bà khai trừ vì bà đấu tranh cho quyền lợi của những người nông dân, nói với chúng tôi,

“Tôi nhiều năm phấn đấu để vào đảng, nay họ làm sai, tôi thấy cũng chả cần. Sợ mất dân hơn là mất Đảng. Phần mình mình phải lo, ai mà lo tới mình thì mình đã toi rồi.”

Có phần chắc là bà Ngô Thị Đức và những người nông dân làng Trịnh Nguyễn không biết Milovan Djilas là ai, chỉ biết rằng… “họ” tức những người cộng sản cầm quyền đã làm sai. Họ đã trở thành một giai cấp mới, cũng bóc lột như trong những cuốn sách lý thuyết cộng sản mà đảng cộng sản phát cho các đảng viên của mình.

Điều khá mỉa mai, là khi những người nông dân Trịnh Nguyễn giữ đất chống giai cấp mới, họ vẫn trương cờ đỏ búa liềm, và khi Đòan Văn Vươn nghe lời tuyên án vẫn nói lời cảm ơn đảng cộng sản, đảng của một giai cấp mới.

Có lẽ để kết thúc, chúng tôi mượn lời cựu phó chủ tịch đảng cộng sản Nam Tư, Milovan Djilas, “Chưa có cuộc cách mạng nào hứa hẹn nhiều và thực hiện ít như cuộc cách mạng cộng sản.”

Tại sao Chúa Giêsu chưa tái lâm?

Tại sao Chúa Giêsu chưa tái lâm?

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi lúc 2:15 Sáng 13/07/13

VRNs (13.07.2013) – Sài Gòn – Đã 2.000 năm qua kể từ khi Chúa Giêsu về trời mà Ngài vẫn chưa trở lại. Nhiều người thắc mắc tại sao Ngài “trễ hẹn” lâu như vậy. Trong cuốn “Why I Am Not a Christian” (Tại Sao Tôi Không Là Kitô hữu – New York: Touchstone, 1957), tác giả vô thần Bertrand Russell đã kết án Chúa Giêsu không giữ lời hứa “trở lại” (*). Có lẽ nào Russell nói đúng, và Chúa Giêsu không giữ lời hứa?

Tông đồ Phêrô tiên báo có những người nhạo báng như Russell về việc “trễ hẹn” của Chúa Giêsu: “Trước tiên, anh em hãy biết điều này: trong những ngày sau hết, sẽ xuất hiện những kẻ nhạo báng chê cười, sống theo những đam mê riêng của họ. Họ nói: “Đâu rồi lời Người hứa sẽ quang lâm? Vì từ ngày các bậc cha ông an nghỉ, mọi sự vẫn y nguyên như khi trời đất mới được tạo thành!” (2 Pr 3:4).

Có thể Russell và những người nhạo báng khác đáng lẽ phải xét kỹ lời của Thánh Phêrô, cũng như điều Chúa Giêsu đã nói về thời gian Ngài trở lại, và các sự kiện xảy ra trước. Chúa Giêsu nói rằng, dù không ai biết chính xác thời gian Ngài trở lại, nhưng có những “gợi ý” cho chúng ta biết thời cuối cùng đã gần, và phải luôn tỉnh thức (x. Mt 25:13).

Ngoài ra, các Tiên tri thời Cựu ước và các môn đệ của Chúa Giêsu cũng cho biết về cảnh tượng thế giới như thế nào trước giờ trở lại của Chúa Giêsu Kitô. Hãy nhìn vào vài “gợi ý” này trong trình thuật Mt 24:3-14 để biết thời gian Chúa Giêsu tái lâm:

– Động đất.

– Nạn đói.

– Chiến tranh.

– Dịch tễ.

– Bắt bớ các tín hữu.

– Phúc Âm được loan truyền khắp thế giới.

Động đất, nạn đói, dịch tễ, và chiến tranh đã và đang xảy ra xuyên suốt lịch sử nhân loại, nhưng Chúa Giêsu nói rằng sẽ có mức gia tăng đáng kể của các sự kiện này trước khi Ngài trở lại (x. Mt 24:3-51). Việc bách hại các tín hữu bắt đầu từ các Tông đồ và càng ngày càng gia tăng tới nay. Ngày nay các Kitô hữu đã và đang bị bách hại vì Đức Tin nhiều hơn trước đây. Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng những cuộc bách hại như vậy sẽ tiếp diễn cho tới khi Ngài trở lại, khi Tin Mừng được loan truyền khắp thế giới.

Theo Chúa Giêsu, khi các sự kiện này xảy ra trên khắp thế giới, chúng ta hãy “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”, vì Ngài sẽ mau trở lại cứu độ chúng ta (x. Lc 21:28; Tt 2:13). Mặc dù các học giả Kinh Thánh không đồng ý về mọi chi tiết về việc Chúa Giêsu tái lâm, nhiều người vẫn tin rằng thời gian mà Chúa Giêsu nói tới đang đến rất gần. Chúng ta phải sẵn sàng mong chờ niềm hy vọng được chúc phúc và vinh quang của Thiên Chúa, vinh quang của Đấng Cứu Độ Giêsu Kitô.

Tại sao Chúa Giêsu chậm trễ thực hiện lời hứa?

Thánh Phêrô giải thích lý do “trễ hẹn” của Chúa Giêsu: “Đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày. Chúa không chậm trễ thực hiện lời hứa, như có kẻ cho là Người chậm trễ. Kỳ thực, Người kiên nhẫn đối với anh em, vì Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn năn hối cải. Nhưng ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm” (2 Pr 3:8-10). Quả thật, có lần chính Chúa Giêsu đã xác định: “Tin Mừng này về Vương Quốc sẽ được loan báo trên khắp thế giới, để làm chứng cho mọi dân tộc được biết. Và bấy giờ sẽ là tận cùng” (Mt 24:14).

Thánh Phêrô đã viết cho các tín hữu chịu thử thách và bách hại. Họ muốn Chúa Giêsu đến sớm hơn. Tuy nhiên, Thánh Phêrô bảo họ rằng ưu tiên số một của Thiên Chúa là loan truyền Tin Mừng của Đức Kitô đến tận cùng thế giới, đến với càng nhiều người càng tốt.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ GodResources.org)

Một Tấm Gương Sáng Cho Thế Hệ Sau

Một Tấm Gương Sáng Cho Thế Hệ Sau

Tưởng Năng Tiến

bánh mì

Sứ mệnh cao cả của nhà báo là kiếm tìm sự thật. Sự thật ấy phải được phản ánh đạt tính chân thật, tức là “đúng hiện thực khách quan”. Và sự thật ấy phải được soi dọi bằng lương tâm chức nghiệp. Tôi nhớ người Nga có một câu ngạn ngữ vô cùng chí lí: “Một nửa cái bánh mỳ vẫn là bánh mỳ, nhưng một nửa sự thật đã là sự giả dối!”

Ngọc Niên, Tổng Biên Tập trang Nhà Báo & Công Luận – Cơ Quan Trung Ương Hội Nhà Báo Việt Nam

——

Cái gì chớ “nửa cái bánh mì” thì tui ăn đều đều, còn “nửa sự thực” thì tới bữa rồi mới được thưởng thức qua một bài viết (Người đàn bà tặng hơn 5.000 lượng vàng cho cách mạng) của nhà báo Hoàng Thùy, trên trang Tin Nhanh Việt Nam:

“Hơn 90% số tiền buôn vải được vợ chồng bà Hồ dùng để ủng hộ cách mạng. Có khi trong nhà không sẵn tiền mà đúng lúc cách mạng cần, bà sẵn sàng bán phá giá vải để gom đủ tiền đưa cho cán bộ.

Ở tuổi 97, bà Hoàng Thị Minh Hồ vẫn giữ nét đẹp của người phụ nữ Hà Nội gốc: Gương mặt phúc hậu, nước da trắng, giọng nói ấm áp và thái độ điềm đạm. Trong ngôi nhà số 34 Hoàng Diệu (Hà Nội), nơi bà sống cùng hai con trai, hai chiếc huân chương độc lập hạng nhất được đặt nơi trang trọng nhất. Bà cho hay, đó là phần thưởng cao quý mà nhà nước dành tặng người chồng quá cố Trịnh Văn Bô và bà vì những đóng góp to lớn cho cách mạng.

Giữ giọng chậm rãi, bà Hồ kể, ngôi nhà số 48 Hàng Ngang của bà trước kia là tiệm vải Phúc Lợi, thuộc loại lớn nhất Hà Nội thời bấy giờ. Có điều kiện dư dả, hai ông bà thường xuyên làm từ thiện, giúp đỡ người nghèo. Thấy vậy, cán bộ Việt Minh đã đến nhà vận động ông bà đi theo cách mạng. Việt Minh khó khăn, không có tiền ra báo, bà đã ủng hộ 8 vạn rưỡi tiền Đông Dương. Ngôi nhà số 48 Hàng Ngang cũng được chọn làm trụ sở hoạt động của cách mạng.

Bà Hồ cho biết, thân sinh ra bà là cụ Hoàng Đạo Phương và Nguyễn Thị Lợi cũng như thân sinh của chồng bà, cụ Trịnh Phúc Lợi, đều là những nhà Nho yêu nước, từng tham gia Đông Kinh Nghĩa Thục. Tất cả đều đỗ đạt mà không ai làm quan. Cụ Phương khi gần 80 tuổi đã gọi các con lại nói rằng: “Ta đã già mà chưa làm trọn việc nước, sau này con nào có điều kiện giúp nước thì hãy làm thay ta”.

“Lời căn dặn của cha tôi luôn khắc ghi trong lòng. Và khi có điều kiện là tôi giúp nước ngay mà không hề suy nghĩ”, bà Hồ tâm sự.

Ngôi nhà số 48 Hàng Ngang được xây theo kiểu nhà ống cổ, gồm 4 tầng. Tầng một là cửa hàng vải Phúc Lợi nổi tiếng khắp vùng. Khách đến mua đông đúc, xung quanh lại tấp nập người qua lại nên được chọn làm nơi ở cho Bác Hồ cùng những nhà lãnh đạo cách mạng từ chiến khu trở về.

Bà Hồ nhớ, vào một buổi tối cuối tháng 8 năm 1945, ông Nguyễn Lương Bằng đến nhà bảo vợ chồng bà thu xếp một phòng đón cán bộ cách mạng đến ở. Ông bà dọn một phòng tầng 3 tươm tất để đón khách. Tuy nhiên, người khách mới đến lại dọn xuống tầng 2 để ở cùng mọi người cho tiện.

“Ấn tượng đầu tiên của tôi về người khách mới là sự giản dị. Ông cụ hơi gầy, vầng trán cao, râu dài, tóc bạc. Cụ mặc áo nâu, quần soóc nâu, đội mũ dạ, đi dép cao su hiệu con hổ trắng, tay cầm can. Để đảm bảo bí mật, chúng tôi nói với gia nhân rằng họ là người nhà ở dưới quê lên chơi và tất cả đều không được lên tầng 2 làm phiền”, bà Hồ nhớ lại.

33 ngày Bác ở nhà bà (từ 24/8 đến 27/9), bà đều trực tiếp chỉ đạo nhà bếp nấu ăn phục vụ Người. Sau đó, hai vợ chồng bà thay nhau bê lên. Vào 9h hằng ngày, bà thường bê cháo và hoa quả lên cho Bác. Một hôm bà đang định quay gót thì Bác hỏi “Cô tên gì?”. Sau khi bà trả lời, Bác lại nói “Cô còn trẻ mà đã có cơ đồ sự nghiệp, có chồng con, tiền bạc. Cô chẳng có gì khổ cả”.

Nghe vậy bà Hồ khẳng khái nói: “Cháu vẫn có một điều khổ, đó là nỗi nhục mất nước”. Bác cười: “Vậy thì kiên trì và nhẫn nại nhé!”

trinhvanbo

Ông bà Trịnh Văn Bô. Ảnh: Xuân Ba

Sau khi “cách mạng” thành công, ông Hồ Chí Minh trở thành chủ tịch nước thì bà Hoàng Thị Minh Hồ lại lâm vào cảnh … mất nhà. Đó là nửa phần sự thực còn lại của câu chuyện mà nhà báo Hoàng Thùyy đã không kể kết, hay nói một cách không mấy lịch sự là ông ấy “nhất định dấu biến đi cứ y như là mèo dấu cứt” vậy. Phần nửa sự thực này mới được công luận biết đến qua một tác phẩm mới (Bên Thắng Cuộc) của một nhà báo khác, Huy Đức:

“Năm 1954 từ nơi tản cư trở về, gia đình ông Trịnh Văn Bô không còn một căn nhà nào để ở, cho dù trước đó, ông sở hữu biệt thự nổi tiếng 48 Hàng Ngang và nhiều dinh thự khác như 34 Hoàng Diệu, 24 Nguyễn Gia Thiều, 56-58 Tràng Tiền… Ông Trịnh Văn Bô (1914-1988) là một doanh nhân Việt Nam nổi tiếng giữa thế kỷ 20. Cha ông, ông Trịnh Văn Đường và cha vợ ông, ông Hoàng Đạo Phương, đều là những nhà nho cùng thời với cụ Lương Văn Can, từng đóng góp rất nhiều cho phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục.

Ông Trịnh Văn Bô cùng vợ là bà Hoàng Thị Minh Hồ, trong 10 năm, kinh doanh thành công, đưa tài sản của hãng tơ lụa Phúc Lợi tăng lên 100 lần so với ngày thừa kế hãng này từ cha mình. Tơ lụa do Phúc Lợi sản xuất được bán sang Lào, Campuchia, Thái Lan, được các thương nhân Pháp, Anh, Thuỵ Sĩ, Thuỵ Điển, Ấn Độ, Trung Quốc và Nhật Bản tìm kiếm.

Từ năm 1944, gia đình ông nằm trong sự chú ý của những người cộng sản. Ngày 14-11-1944, hai vợ chồng ông bà cùng người con trai cả đồng ý tham gia Việt Minh. Vài tháng sau, ông bà đã mang một vạn đồng Đông Dương ra ủng hộ Mặt trận Việt Minh và từ đó, gia đình ông Trịnh Văn Bô trở thành một nguồn cung cấp tài chánh to lớn cho những người cộng sản. Đến trước Cách mạng tháng Tám, gia đình ông đã ủng hộ Việt Minh 8,5 vạn đồng Đông Dương, tương đương 212,5 cây vàng. Khi những người cộng sản cướp chính quyền, ông bà Trịnh Văn Bô được đưa vào Ban vận động Quỹ Độc lập(298).

Ngày 24-8-1945, khi Chính phủ lâm thời về Hà Nội, Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt, Hoàng Tùng đều đã ở hoặc qua lại ngôi nhà 48 Hàng Ngang. Ba đêm đầu Hồ Chí Minh ngủ trên giường của ông bà Trịnh Văn Bô, sau đó, ông xuống tầng hai, ngủ trên chiếc giường bạt còn các nhà lãnh đạo khác thì kê ghế da hoặc rải chiếu ngủ. Ở tầng trệt, cửa hàng vẫn hoạt động bình thường, ngay cả bảo vệ của Hồ Chí Minh cũng không xuống nhà để tránh gây chú ý. Mọi việc ăn uống đều do bà Trịnh Văn Bô lo, thực khách hàng ngày ngồi kín chiếc bàn ăn 12 chỗ.

Trong suốt từ 24-8 cho đến ngày 2-9-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh hiếm khi ra khỏi nhà 48 Hàng Ngang. Mỗi buổi sáng, cứ sau khi ông tập thể dục xong, bà Trịnh Văn Bô lại đích thân mang thức ăn sáng lên. Bà nhớ, có lần Hồ Chí Minh đã giữ bà lại và hỏi: “Cô bao nhiêu tuổi mà có được gia tài lớn thế này?”. Năm ấy bà 31 tuổi, dù có 4 đứa con nhưng vẫn còn xinh đẹp. Hồ Chí Minh ở lại đây cho đến ngày 27-9-1945. Mỗi khi ra khỏi nhà, Hồ Chí Minh thường xuống tầng dưới vấn an bà mẹ ông Trịnh Văn Bô và gọi bà là mẹ nuôi. Ở 48 Hàng Ngang, Hồ Chí Minh đã ngồi viết bản Tuyên Ngôn Độc Lập và tiếp các sĩ quan OSS như Archimedes Patti và Allison Thomas. Quần áo mà các lãnh đạo Việt Minh bận trong ngày lễ Độc lập, đều do gia đình ông bà cung cấp. Các ông Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp thì mặc đồ của ông Trịnh Văn Bô còn áo của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì may bằng vải Phúc Lợi.

Khi Pháp tái chiếm Đông Dương, ông Trịnh Văn Bô theo Chính phủ Kháng chiến lên Việt Bắc còn vợ ông thì mang 5 người con, trong đó có một đứa con nhỏ, cùng với mẹ chồng lên “vùng tự do” Phú Thọ. Những năm ở đó, từ một bậc trâm anh, thế phiệt, bà đã phải cuốc đất trồng khoai và buôn bán để nuôi con. Năm 1955, gia đình ông Trịnh Văn Bô trở về Hà Nội. Ông bà tiếp tục xoay xở và bắt đầu phải bán dần đồ đạc cũ để nuôi sống gia đình. Lúc này, toàn bộ biệt thự, cửa hàng đều đã bị các cơ quan nhà nước sử dụng hoặc chia cho cán bộ nhân viên ở. Lúc đầu, Nhà nước “mượn” sau tự làm giấy nói gia đình xin hiến, nhưng cụ bà Trịnh Văn Bô bảo: “Tôi không ký”.

Năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho tiến hành “cải tạo xã hội chủ nghĩa” trên toàn miền Bắc, các nhà tư sản Việt Nam buộc phải giao nhà máy, cơ sở kinh doanh cho Nhà nước. Bà Trịnh Văn Bô lại được kêu gọi “làm gương”, đưa xưởng dệt của bà vào “công tư hợp doanh”. Bà Bô cùng các nhà tư sản được cho học tập để nhận rõ, tài sản mà họ có được là do bóc lột, bây giờ Chính phủ nhân đạo cho làm phó giám đốc trong các nhà máy, xí nghiệp của mình. Không chỉ riêng bà Bô, các nhà tư sản từng nuôi Việt Minh như chủ hãng nước mắm Cát Hải, chủ hãng dệt Cự Doanh cũng chấp nhận hợp doanh và làm phó.

Cho dù được ghi nhận công lao, trong lý lịch các con của ông Trịnh Văn Bô vẫn phải ghi thành phần giai cấp là “tư sản dân tộc”, và rất ít khi hai chữ “dân tộc” được nhắc tới. Con trai ông Trịnh Văn Bô, ông Trịnh Kiến Quốc kể: “Ở trường, các thầy giáo, nhất là giáo viên chính trị, nhìn chị em tôi như những công dân hạng ba. Vào đại học, càng bị kỳ thị vì lượng sinh viên người Hà Nội không còn nhiều. Trong trường chủ yếu là sinh viên con em cán bộ thuộc thành phần cơ bản từ Nghệ An, Thanh Hoá… những người xếp sinh viên Hải Phòng, Hà Nội vào thứ hạng chót. Chị tôi vào Đại học Bách Khoa, năm 1959, phải đi lao động rèn luyện một năm trên công trường Cổ Ngư, con đường về sau Cụ Hồ đổi thành đường Thanh Niên, và sau đó là lao động trên công trường Hồ Bảy Mẫu”.

Cả gia đình ông Trịnh Văn Bô, sau khi về Hà Nội đã phải ở nhà thuê. Năm 1954, Thiếu tướng Hoàng Văn Thái có làm giấy mượn căn nhà số 34 Hoàng Diệu của ông với thời hạn 2 năm. Nhưng cho đến khi ông Trịnh Văn Bô qua đời, gia đình ông vẫn không đòi lại được.

Sở dĩ tôi loay hoay gần tiếng đồng hồ để ráp hai bài báo (thượng dẫn) với nhau vì bên dưới bài của tác giả Hoàng Thùy có vị độc giả, quí danh là Lê Tùng,  đã cảm khái ghi lại dòng chữ phản hồi như sau: “Đọc bài viết, tôi cảm phục gia đình bác quá. Đó là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ chúng cháu.”

“Thế hệ trẻ chúng cháu” cần một tấm gương, chứ không phải là một mảnh gương đã bị đẽo gọt bởi những ông nhà báo bất lương, và bất trí  – cỡ như ông Hoàng Thùy hoặc Ngọc Niên, thuộc Cơ Quan Trung Ương Hội Nhà Báo Việt Nam (*). Mồm miệng họ thì lúc nào cũng xoen xoét nói đến “sự thực” và “lương tâm chức nghiệp” mà suốt đời cầm bút luôn chỉ viết phân nửa sự thực thôi.

T.N.T

(*) Xin đọc thêm phóng sự “Đi Tìm Sự Thật Về Nhà Thờ Của Gia Đình Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng Ở Kiên Giang” của Ngọc Niên, trên trang Nhà Báo & Công Luận, hôm 28 tháng 12 năm 2012.