THỰC HÀNH KINH MAI KHÔI NHƯ MỘT PHÁP MÔN TU

THỰC HÀNH KINH MAI KHÔI NHƯ MỘT PHÁP MÔN TU

PHÙNG VĂN HÓA, 2013

Trích EPHATA 582

Việc cầu nguyện nói chung và cầu nguyện bằng Kinh Mai Khôi nói riêng, có thể nói, đang gặp khủng hoảng. Có một nhận định như sau:

“Trong nguồn gốc của nó có nhiều lý do nhưng có thể tập trung chúng vào trong hai đặc thái sau đây. Thứ nhất là cuộc khủng hoảng của lời cầu nguyện sùng kính, trầm trọng vì sự tục hóa và các chủ thuyết nhân bản mới bị ý thức hóa. Thứ hai cuộc khủng hoảng lòng tôn sùng Mẹ Maria là bối cảnh sống còn tự nhiên của Kinh Mai Khôi.

Cuộc khủng hoảng còn đả thương Kinh Mai Khôi trong cấu trúc của nó là lời cầu nguyện thầm trong trí và đọc lớn tiếng bên ngoài. Trong cái khó khăn của việc suy ngắm và trong sự từ chối việc lập đi lập lại một lời kinh bị tố cáo là máy móc vô hồn, các khó khăn này có tầm nghiêm chỉnh của chúng và không thể trả lời với các kiểu nói quen thuộc được” ( Nguồn: Daobinhducme, Linh Tiến Khải, 26.8.2013, Tổng kết ý nghĩa Kinh Mai Khôi trong tình hình giáo lý sùng mộ và việc canh tân KMC hiện nay ).

Về hai… đặc thái nêu trên, ta thấy có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, trước hết là việc cầu nguyện sùng kính sở dĩ khủng hoảng là vì trong thời tục hóa này, người ta không biết phải cầu nguyện với Đấng nào. Hơn nữa Đấng ấy có thực hay không để mà cầu ? Tiếp đến là lòng tôn sùng Mẹ Maria, bởi không biết cầu với Đấng nào, thế nên vai trò của Đức Mẹ đương nhiên cũng trở thành vô nghĩa. Đang khi đó, ngay từ thuở sơ khai, Giáo Hội việc khẩn cầu với Đức Maria đã được các tín hữu thành Ephêsô hết lòng tuyên xưng: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội” ( Xem Lm. Bùi Đức Sinh, Lịch sử Giáo Hội Công Giáo ).

Lời khẩn cầu của các tín hữu xin Đức Maria làm Đấng Cầu bầu cho mình quả thật là ơn soi sáng của Thánh Thần, và từ đó, lời cầu này vẫn được thực hiện cách liên tục qua tràng chuỗi Mai Khôi. Như ai nấy đều biết trong tràng chuỗi Mai Khôi, Kinh Kính Mừng bao giờ cũng gắn liền với lời cầu “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Amen”. Có thể nói đọc Kinh Mai Khôi mà không có lời này đi kèm thì chẳng phải là Kinh Mai Khôi ! Lý do bởi vì toàn bộ Kinh Mai Khôi chính là lời cầu của Đức Mẹ dâng lên Thiên Chúa. Cầu nguyện với Thiên Chúa thì phải cho xứng đáng, thế nhưng con người tự sức mình không thể làm được điều này. “Cũng một lẽ ấy Thánh Linh giúp đỡ sự yếu đuối của chúng ta. Vì chúng ta chẳng biết thế nào để cầu nguyện cho xứng đáng, nhưng chính Thánh Linh lấy sự than thở không thể nói ra được mà cầu thay cho chúng ta” ( Rm 8, 26 ).

Có Đức Mẹ cầu thay, việc cầu nguyện của chúng ta mới xứng đáng. Ấy vậy mà nay trong cái gọi là “Canh Tân Kinh Mai Khôi”, người ta đã gạt bỏ đi sự cầu thay vô cùng cần thiết ấy. “Nhiều nơi bên cạnh kiểu lần hạt Mai Khôi truyền thống, vì các lo lắng mục vụ, người ta cũng đã bắt đầu các hình thức lần hạt Mai Khôi khác, có mục đích chính xác là dành ưu tiên cho sức mạnh của Kinh Mai Khôi và cho thấy rõ ràng quyền năng định đoạt của chính nó. Chẳng hạn trong các hình thức mới này có việc đọc các văn bản Kinh Thánh liên quan tới các mầu nhiệm suy gẫm. Nghĩa là không chỉ tóm tắt mầu nhiệm mà đọc chính bản văn Kinh Thánh trình bày mầu nhiệm đó.

Thế rồi việc đọc Kinh Kính Mừng được rút ngắn chỉ giữ lại phần đầu tức là Thiên Thần Gabriel chào Đức Trinh Nữ mà thôi. Còn phần hai của Kinh Kính Mừng chỉ được đọc vào cuối chục kinh để nhấn mạnh vẻ đẹp của lời khẩn cầu luôn luôn diễn tả lòng sùng mộ của Giáo Hội đối với Đức Trinh Nữ và là lời khẩn nài tín hữu dâng lên Mẹ sau khi đã suy ngắm mầu nhiệm cuộc đời của Chúa” ( Nguồn: Linh Tiến Khải ngày 26.8.2013, bài đã dẫn ).

Do bởi ảnh hưởng của duy lý, thế nên ngay đến cả kinh nguyện cũng đem ra suy. Thay cho các ngắm thì lại… suy, và việc suy ấy là suy niệm về Thánh Kinh. Có nơi sau mỗi chục kinh người ta đọc lên một đoạn Kinh Thánh để suy về ý nghĩa Lời Chúa. Có nơi thì bỏ cả việc lần hạt, ấy vậy mà cũng cứ gọi là… nhóm lần hạt. “Tôi tới tham dự với một nhóm, điều làm tôi xúc động sâu xa là những phút thinh lặng rất đặc biệt. Việc cầu nguyện kéo dài khoảng một giờ. Phong trào gửi cho mỗi nhóm một cuốn sách nhỏ ghi đoạn Phúc Âm liên quan đến mỗi nhóm. Đầu tiên đọc Kinh Chúa Thánh Thần rồi một người trưởng nhóm giải thích. Thỉnh thoảng thinh lặng để mọi người đi sâu vào nội dung” ( Tu Sĩ André Sève, Cầu nguyện hôm nay ).

Bỏ hẳn lần hạt, điều ấy chẳng còn gì để nói, nhưng ngay cả việc đọc Kinh Thánh sau mỗi chục kinh cũng khiến cho toàn bộ cấu trúc của kinh này thay đổi, biến dạng, chẳng còn gì là Kinh Mai Khôi truyền thống nữa.

Trong tất cả những lần Đức Mẹ hiện ra, lần nào Ngài cũng hằng khuyên nhủ con cái phải siêng năng lần hạt. Điều ấy hơn ai hết Đức Mẹ hiểu rõ giá trị của Kinh Mai Khôi là ở chỗ nào. Mặt khác cũng vì thực hiện lời khuyên dạy của Đức Mẹ mà chị Bernadette ( Lộ Đức ), các em Lucia, Jacinta, Francisco ( Fatima ) v.v… đã gặt hái được biết bao là ân sủng của Thiên Chúa. Vậy thử hỏi những thụ nhân ấy có suy, có đọc Kinh Thánh trong khi lần chuỗi hay không ? Lại nữa, toàn thể các Thánh, đã không ngớt ca ngợi giá trị vô song của Kinh này, chẳng hạn như Thánh Piô Năm Dấu ( Padreo Pio ) lần cả trăm chuỗi mỗi ngày, vậy các ngài có suy niệm Kinh Thánh gì không ?

Đọc Kinh Mai Khôi là cùng cầu nguyện với Đức Mẹ chứ không phải để suy ngắm mầu nhiệm cuộc đời của Chúa. Quả thật, Kinh Mai Khôi là một phép ngắm nhưng phép ngắm ấy không phải là suy ngắm cuộc đời của Chúa Giêsu hiểu như một thứ hành vi của lý trí suy luận, nhưng là ngắm về bốn mầu nhiệm Vui Thương Mừng Sáng. Trước đây mỗi khi lần chuỗi, người xướng thường là ông bà quản, bao giờ cũng đọc câu này như một công thức “Phép lần hạt ngắm tắt năm sự Vui, hoặc Thương, hoặc Mừng…”

Kinh Mai Khôi được gọi là phép lần hạt, vậy thì “phép” ở đây chính là phương pháp, là pháp môn và hễ là pháp môn thì chỉ có thể là pháp môn tu.

Sở dĩ Kinh Mai Khôi rơi vào khủng khoảng không lối thoát là vì người ta đã không thực hành kinh này như là một phương pháp tu tập. Phép tu này vừa dễ thực hành lại vừa bảo đảm phần rỗi như lời Thánh Louis Marie Grignion de Montfort quả quyết: “Chúng tôi nhận thấy những người hư thân mất nết, lạc đạo kiêu căng thường tỏ thái độ khinh chê Kinh Mai Khôi. Trái lại những người có dấu hiệu tiền định nên Thánh hoặc được rỗi linh hồn thì thường tôn kính Kinh Mai Khôi và có lòng kính mến Đức Mẹ” ( Nguồn: Thành Thực Sùng Kính Mẹ ).

I. Kinh Mai Khôi, một phép tu

Thánh Đa Minh, người được Đức Mẹ trao sứ mạng truyền bá Kinh Mai Khôi đã quả quyết “Không có cách cầu nguyện nào đẹp lòng Chúa Giêsu và Mẹ Maria cho bằng đọc Kinh Mai Khôi cách sốt sắng”. Để việc thực hành Kinh Mai Khôi đem lại ơn ích lớn lao thì phải đọc cách sốt sắng.

Tuy nhiên làm sao để đọc cách sốt sắng thì đó là cả một vấn đề. Lý do bởi vì việc cầu nguyện nói chung là rất khó: “Vì chúng ta chẳng biết thế nào là cầu nguyện cho xứng đáng” ( Rm 8, 26 ). Muốn cầu nguyện cách xứng đáng thì phải tuân theo lời dạy của Chúa Kitô: “Còn ngươi, khi cầu nguyện hãy vào phòng kín đóng cửa lại rồi cầu nguyện Cha ngươi là Đấng ở nơi ẩn mật, và Cha ngươi là Đấng thấy trong chỗ ẩn mật sẽ báo đáp cho ngươi” ( Mt 6, 6 ).

Lời Chúa cho thấy cầu nguyện đích thực là phải xoay cái tâm vào bên trong mà cầu, bởi vì Thiên Chúa không ngự ở một nơi nào khác ngoài tâm hồn mình. Sở dĩ Thánh Đa Minh hết lời ca ngợi Kinh Mai Khôi là cách cầu nguyện tốt nhất bởi vì đó là phương pháp xoay cái nghe trở vào bên trong để nhận ra Bản Tính Con Thiên Chúa ở nơi mình ( Phản Văn Văn Tự Tánh ). Văn là nghe, còn phản văn là xoay cái tâm trở vào bên trong.

Về cách nghe rất chi là quan hệ, bởi vậy Chúa nói: “Hãy coi chừng về cách các ngươi nghe. Vì hễ ai có thì cho thêm. Còn ai không có thì dẫu điều họ tưởng mình có cũng sẽ bị cất đi luôn nữa” ( Lc 8, 18 ). Cách nghe Chúa nói đây là nghe với cái tâm vô phân biệt. Ai có, tức là có cách nghe với tâm vô phân biệt thì sẽ cho thêm, tức là ngày càng nhận biết Chúa ở nơi mình. Trái lại, nếu cứ nghe với tâm phân biệt thì cái mà họ tưởng là có như là sự khôn ngoan thông thái rồi có ngày cũng sẽ bị mất hết. Kinh Mai Khôi là một phương pháp cầu nguyện tối hảo bởi đó là cái nghe xoay cái tâm trở vào bên trong.

Phải chăng chính là vì kinh này là một phép nghe, thế nên ngoài các danh từ Mai Khôi, Mai Khôi nó còn mang một tên khác là Văn Côi ? Trong sách kinh xưa của các địa phận Hải Phòng, Bùi Chu, Thái Bình vẫn gọi là Kinh Văn Côi cùng với câu công thức mà các ông bà quản giáo vẫn xướng lên trước khi lần hạt: “Phép lần hạt Văn Côi ngắm tắt năm sự Vui, hoặc Thương, hoặc Mừng.”

Bởi Kinh Mai Khôi là một phép nghe với tâm vô phân biệt, thế nên cộng đoàn hay cá nhân cũng phải áp dụng cách nghe này. Khi cùng với cộng đoàn tại Nhà Thờ hay gia đình, dĩ nhiên phải đọc ra tiếng, một bên xướng, một bên thưa. Bên xướng đọc “Kính Mừng…”, còn bên thưa đọc “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời…” Khi bên xướng đọc thì bên thưa phải im lặng để lắng nghe từng lời kinh, không chia lòng chia trí, còn nếu chia trí thì phải lập tức trở lại ngay với lời kinh. Nếu người nào cứ cố tình chia trí thì không thể nào có thể tiếp tục đọc mà không nhầm lẫn về hạt, về thứ, về mùa được.

Có nghe Kinh với tâm vô phân biệt ( không chia lòng chia trí ) như thế thì Lời Chúa mới ở lại ( An Trú ) trong tâm mình và đây là điều mà Chúa Giêsu nói “Ai có sẽ được cho thêm” là vậy.

Lời Chúa là Lời Hằng Sống cho nên việc nghe Lời Chúa không thể chỉ diễn ra trong Nhà Thờ bằng việc đọc kinh nhưng cần phải ở khắp mọi nơi, mọi thời. Để Lời Chúa có thể thấm nhập tâm hồn mọi nơi mọi thời thì cố nhiên cần phải có thực hành cá nhân. Nếu chỉ đọc kinh lần hạt cùng với cộng đoàn mà cá nhân không đọc thì chẳng gặt hái được mấy ơn ích. Tại sao ? Bởi vì khi đọc chung cùng với cộng đoàn thì có thể chúng ta có thể ỷ lại để rồi cứ mặc tình chia trí mà không hề biết. Ngược lại, chỉ những khi một mình thì ta mới được đối diện với Chúa và đây cũng chính là ý nghĩa mà Chúa Giêsu nói đến trong việc cầu nguyện: “Khi các ngươi cầu nguyện thì hãy vào phòng đóng kín cửa lại…” Cửa ám chỉ cho sáu giác quan: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Đóng kín cửa lại có nghĩa là không phóng tâm ra bên ngoài nơi ngoại vật…

Trở ngại lớn nhất nhưng đồng thời cũng đem lại ơn ích lớn lao nhất đó là sự chia lòng chia trí trong khi thực hành Kinh Mai Khôi. Những ai siêng năng lần hạt mới thấy được sự chia trí nhiều như thế nào. Mặc dầu chia trí là điều không sao tránh khỏi, nhưng nếu biết ngay đó là chia trí, bèn quay về với lời kinh để tiếp tục lần hạt thì lại có ơn ích, và ơn ích này là do ý chí ta thuận phục Thánh ý Thiên Chúa. Nhà Thiền có câu “Bất úy tham sân khởi, duy khủng tự giác trì ( Chẳng sợ lòng tham, lòng giận khởi chỉ cần nhận biết nó ). Lòng tham sân khởi lên trong khi lần chuỗi thực chất của nó chỉ là vọng tưởng. Nhận biết đó là vọng thì vọng ấy liền tiêu.

Thế nhưng vọng này tiêu thì vọng khác lại khởi liên tu bất tận. Chính vì vọng khởi không ngớt như vậy mà lực quán sát của người tu ngày càng thêm đắc lực. Sự quán sát ấy chính là ý nghĩa của việc Ngắm trong Kinh Mai Khôi. Ngắm ở đây không phải là cái nhìn của mắt nhưng là của tâm. Để có cái nhìn của tâm thì cần phải có phương pháp dựa trên hai phương diện chủ và khách. Chủ ở đây là lời kinh, còn khách là những vọng tưởng ( chia lòng chia trí ). Sở dĩ vọng tưởng khởi biết là vọng là nhờ có lực mạnh mẽ sáng suốt của Lời Chúa. “Lời Đức Chúa Trời là Lời Hằng Sống, linh động sắc hơn mọi gươm hai lưỡi, đâm thấu đến nỗi chia hồn linh khớp tủy. Biện biệt tư tưởng và ý định của lòng người” ( Dt 4, 12 ).

Vọng tưởng tức là những ý tưởng tham lam, ganh ghét, giận hờn, đam mê, tranh đấu… Một khi chúng đã được nhận biết thì không còn tác dụng gì tới đời sống của ta nữa. Con người sở dĩ có những hành vi xấu xa ác độc là vì đã chấp chứa ở nơi mình những tư tưởng xấu ( chúng ác tưởng ). Trái lại, một khi không còn những tư tưởng xấu ác ấy thì sao có thể làm ác được ? Làm ác thì phải chịu quả báo ác, không thể tránh thoát ?

Kinh Mai Khôi là một phương pháp tu tập khiến cho tư tưởng ác ngày càng tiêu trừ đồng thời phát triển tư tưởng lành. Hành động nào cũng do nơi tư tưởng, chứa chấp tư tưởng ác sẽ hành động ác mà hành động ác tất sẽ phải khổ, khổ cả đời này lẫn đời sau vô cùng. Đức Mẹ ân cần khuyên bảo chúng ta hãy siêng năng thực hành Kinh Mai Khôi bởi vì đó là phương pháp thoát khổ bảo đảm chắc chắn nhất.

II. Nghe để thoát khổ

Lời nói nào gợi cảm giác đó, lời lành gợi cảm giác lành, lời ác gợi cảm giác ác. Nghe một bản nhạc cải lương não nề ai oán khiến tâm ta cũng phải buồn bã ủ ê. Ngược lại, nghe một bản hùng ca khiến lòng ta thêm phấn chấn. Lời nói là hình tướng của tư tưởng, nói cách khác, từ ở nơi tâm mà phát ra lời nói. Tâm ác thì phát ra lời nói ác. Tâm thiện thì phát ra lời nói thiện. “Người thiện do lòng chứa thiện mà phát ra điều thiện. Kẻ ác do lòng chứa ác mà phát ra điều ác. Vì do sự đầy dẫy trong lòng mà miệng mới nói ra” ( Lc 6, 45 ).

Nói đến chất chứa thì hẳn nhiên là phải có cái nơi để chất chứa và nơi ấy được ví như một cái kho. Duy Thức Học gọi cái kho đó là Tạng Tâm ( tàng là cái kho ). Tạng tâm là nơi con người chất chứa tất cả những gì mình đã làm đã nghe đã thấy và đã nghĩ tưởng, gọi là Nghiệp. Tạng Tâm người nào thì chất chứa nghiệp của người đó. Nghiệp tạo thành là do chất chứa, người làm nông là do chất chứa những kiến thức kinh nghiệm về nghề nông. Người làm nghề dạy học là do chất chứa kiến thức về sư phạm. Bác sĩ, kỹ sư v.v… cũng vậy.

Cùng một lẽ ấy sự chất chứa trong lãnh vực tâm linh cũng không khác. Có chất chứa những điều lành thánh mới được nên Thánh. Trái lại cứ mãi chất chứa toàn là những điều dối trá tham lam, ganh ghét, hận thù thì không thể tránh khỏi đọa vào ác đạo. Chất chứa điều thiện sẽ được quả thiện lành, chất chứa điều ác sẽ phải chịu quả ác. Sự chất chứa ấy chính là nhân, nhân nào thì quả nấy, không mảy may sai chạy dù chỉ một hào ly.

Tôn giáo hoàn toàn không phải là Triết Học nhưng là con đường tạo lập nhân lành để được hưởng quả lành. Kinh Mai Khôi do Đức Mẹ tạo lập với mục đích tạo cho con người một thứ nhân lành tuyệt hảo bằng cách lắng nghe Danh Thánh Chúa từ trong tâm tưởng. Người đời coi thường Danh – Sắc ( Tên gọi và Hình Tướng ) thế nhưng đây là điều vô cùng quan hệ đến đời sống hạnh phúc hay khổ đau của mỗi người.

Do bởi không biết được tính chất quan hệ của Danh Sắc như thế nên con người ngày nay hầu như ngày nào cũng dán mắt vào TV, xem hết phim Hàn, phim Tàu, lại đến phim Mỹ, ngồi lê đôi mách, nấu cháo điện thoại cả ngày không chán, đọc hết báo in lại đến báo điện tử, đầu óc tràn ngập đủ thứ tin tức quốc nội, quốc tế. Những người như thế chẳng qua chỉ là nạn nhân của những trò lừa bịp của quảng cáo đủ loại mà không biết !

Kinh Mai Khôi do Đức Mẹ tạo lập có mục đích cho ta xoay cái tâm trở vào bên trong để lắng nghe Tiếng Chúa và Tiếng Chúa ấy chỉ có thể nghe được cùng với Danh Thánh Chúa Giêsu. Cần phải ghi khắc ( chất chứa ) Danh Thánh Giêsu ở nơi tâm khảm để tạo cho mình một sức mạnh vô địch: “Nghe Danh Giêsu cả trên trời dưới đất và âm phủ đều phải quỳ gối” ( Pl 2, 10 ). Sở dĩ Danh Thánh có sức mạnh lớn lao như thế là vì đó là Danh của Đấng Cứu Độ, Ngài đã hiến cả mạng sống mình để làm giá cứu chuộc muôn người. Mặc dầu vậy Danh Thánh Giêsu chỉ có thể trở nên sức mạnh khi nào ta tạo lập được ở nơi tâm của chính ta. Chỉ khi ấy Danh Thánh mới có sức mạnh hầu chiến thắng thế gian xác thịt ma quỷ tức là những ác tưởng mà mình đã chất chứa từ bao đời bao kiếp.

Kinh Mai Khôi chính là phương pháp hữu hiệu nhất để cho ta có thể tạo lập Danh Thánh Giêsu ở nơi mình bằng cách lắng nghe Lời Chúa là lời chân lý. Sự lập đi lập lại Kinh Kính Mừng cùng với lời cầu bầu của Đức Mẹ đó là cách tốt nhất để chiến thắng tội lỗi khi nó vừa mới thoạt khởi trong tâm ta. Khi tư tưởng tham vừa khởi biết nó là tội, bèn xả bỏ ngay thì không bao giờ có hành động tham, mà đã không có hành động tham thì không phải khổ vì tham.

Tuy nhiên để việc thực hành Kinh Mai Khôi tạo được lực mạnh mẽ ở nơi tâm như thế thì phải có đường lối tu tập theo chính pháp có nghĩa phải sống trong ơn nghĩa Chúa: Yêu mến Chúa và vâng giữ lời Ngài “Ai yêu mến Thầy thì vâng giữ lời Thầy…”

PHÙNG VĂN HÓA, 2013

ASSISI, QUÊ HƯƠNG THÁNH PHANXICÔ

ASSISI, QUÊ HƯƠNG THÁNH PHANXICÔ

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

10/2/2013

Phòng Báo Chí Tòa Thánh công bố chương trình chi tiết chuyến viếng thăm mục vụ của Đức Thánh Cha Phanxicô đến Assisi ngày 4 tháng 10. Trong dịp này, Đức Thánh Cha sẽ đến viếng mộ Thánh Phanxicô và mộ Thánh Clara. Ngài cũng sẽ gặp những người nghèo và giới trẻ.Vào lúc 7 giờ sáng, máy bay trực thăng chở Đức

Thánh Cha rời Roma và đáp xuống sân vận động của Trung tâm Thánh Phanxicô tại Assisi lúc 7g45. Tại đây Đức Thánh Cha sẽ gặp các bệnh nhi và trẻ khuyết tật. Sau đó ngài đến viếng Đền thánh San Damiano vào lúc 8g45. San Damiano là ngôi nhà nguyện nhỏ được Thánh Phanxicô trùng tu. Sau đó Đức Thánh Cha đến Toà giám mục gặp những người nghèo được Caritas trợ giúp.Tiếp theo, Đức Thánh Cha đến Vương cung thánh đường Thánh Phanxicô. Tại đây Đức Thánh Cha xuống khu hầm mộ để viếng mộ Thánh Phanxicô.Lúc 11g00, Đức Thánh Cha sẽ chủ sự Thánh Lễ tại Quảng trường Thánh Phanxicô Assisi, sau đó đến Trung tâm tiếp nhận của Caritas, để dùng bữa ăn trưa với những người nghèo.Sau khi ăn trưa, Đức Thánh Cha đến thăm Tu viện Carceri và cầu nguyện trong căn phòng của Thánh Phanxicô. Buổi chiều, lúc 15g15, Đức Thánh Cha gặp các giáo sĩ, tu sĩ và các thành viên của Hội đồng Mục vụ Giáo phận tại Nhà thờ chính toà Thánh Ruffinô.

Sau đó ngài đến Vương cung thánh đường Thánh Clara, và thinh lặng suy niệm trước Thánh giá Thánh Đamianô.Tiếp theo Đức Thánh Cha đến Vương cung thánh đường Nữ vương các Thiên thần; vào lúc 17g45, Đức Thánh Cha gặp giới trẻ vùng Umbria tại quảng trường và trả lời các câu hỏi.

Chặng cuối cùng, lúc 18g45, Đức Thánh Cha viếng thăm Đền thánh Rivotorto.Cuối cùng Đức Thánh Cha đáp máy bay trực trăng lúc 19g15 và trở về Vatican lúc 20g00. (Vatican Radio).

Năm Đức Tin, tôi đi hành hương đến Assisi, xin gởi đến quý độc giả những ghi nhận từ những nơi hành hương để cùng hiệp thông với Đức Thánh Cha Phanxicô trong chuyến viếng thăm mục vụ của ngài tại Assisi.

1. Thánh Phanxicô chọn nếp sống nghèo khó

Phanxicô chào đời vào khoảng cuối năm 1182, tại thành Assisi phía bắc Rôma. Cha của ngài là ông Phêrô Bênađônê, một thương gia chuyên nghề bán len dạ. Mẹ là bà Pica, một phụ nữ hiền đức.Cậu Phanxicô rất hào hoa, lại được gia đình giàu có nuông chiều, nên mặc sức ăn chơi phung phí. Mộng công danh thôi thúc, Phanxicô theo bá tước Gauthie de Brienneur đi chinh phục vùng Apulia, gần thành Assisi. Nhưng ý Chúa nhiệm mầu đã khiến Phanxicô đau nặng và bắt buộc phải trở về quê hương.Lần này, tuy vẫn ăn chơi như trước, nhưng Phanxicô cảm thấy những thú vui xưa kia dần dần mất hết ý nghĩa. Thế rồi Phanxicô đi tìm lý tưởng cao đẹp hơn. Một hôm, lúc đang cầu nguyện trong nguyện đường Đamianô nhỏ bé, Phanxicô nghe tiếng Chúa phán ra từ cây Thánh Giá: “Phanxicô, con hãy đi sửa lại ngôi đền thờ của ta đang đổ nát !”. Phanxicô hiểu câu nói này cách nông cạn, nên tình nguyện đi xin từng viên đá đem về sửa lại các Nhà thờ cạnh Assisi. Trong hai năm, ngài đi hành khất, sống ẩn dật và sửa sang ba nhà thờ đổ nát trong miền Assisi: nhà thờ Thánh Đamianô, nhà thờ Thánh Phêrô và nhà thờ Đức Bà Porziuncula.Phanxicô chưa hiểu rằng, ngôi đền thờ mà Chúa muốn nói chính là Hội Thánh.

Ngày 24-2-1208, đang dữ lễ, Phanxicô nghe được đoạn Phúc Âm: “Các con hãy đi rao giảng Tin Mừng… Các con đừng mang theo tiền bạc, bao gậy…” (Mt 10,10). Phanxicô nhận ra tiếng gọi của Chúa, nên quyết tâm triệt để sống khó nghèo và theo Chúa trên con đường Thập Giá (Mt 19,21; Lc 9,1-6; Mt 16,24). Phanxicô công khai từ bỏ cha ruột của mình để thuộc trọn về Chúa. Ngài từ bỏ những cuộc vui chơi tiệc tùng với bạn bè để đi giúp những người phung cùi, những kẻ vô gia cư và những người bị xã hội khai trừ.Với tình yêu sự khó nghèo, Phanxicô yêu những người nghèo, những bệnh nhân. Ngài nhìn thấy Chúa Giêsu ở nơi họ. Ngài chỉ muốn giống Chúa Giêsu cách trọn vẹn trong khó nghèo, trong tình yêu, trong sự giảng dạy và trong đau khổ.

Lối sống của ngài thu hút trước tiên hai anh bạn đồng hương: anh Bernađô Cantavalê giàu có và anh Phêrô Catanê, nhà giáo luật. Tiếp đó có 9 anh khác nhập đoàn. Họ trở thành 12 “người đền tội” và lữ hành, không nhà cửa hoặc nơi cư trú cố định. Lúc đầu Phanxicô soạn một ít quy luật sống và đã được Đức Giáo Hoàng Innôxentê III chấp thuận bằng miệng; cuối cùng, ngài viết ra bản Luật Dòng Anh em Hèn mọn và đã được Đức Giáo Hoàng Hônôriô III phê chuẩn năm 1223 bằng sắc dụ.

Phanxicô bị giằng co giữa một đời sống tận hiến cho sự cầu nguyện và một đời sống tích cực rao giảng Tin Mừng. Và ngài đã quyết định theo đuổi đường lối sau, nhưng luôn luôn trở về sự tĩnh mịch bất cứ khi nào có cơ hội. Ngài muốn đến truyền giáo ở Syria và Phi Châu, nhưng trong cả hai trường hợp ngài đều bị đắm tàu và đau nặng. Ngài cũng cố gắng hoán cải các vua Hồi Giáo ở Ai Cập trong lần Thập Tự Chinh thứ năm.

Trong những năm cuối cùng của cuộc đời ngắn ngủi (ngài từ trần khi 44 tuổi) ngài gần như mù và đau nặng. Hai năm trước khi chết, ngài được in năm dấu thánh, là những vết thương của Ðức Kitô ở tay chân và cạnh sườn của ngài.Trong giờ phút cuối cùng, ngài lập đi lập lại phần phụ thêm của Bài Ca Anh Mặt Trời, “Ôi lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì người Chị Tử Thần.” Ngài hát Thánh Vịnh 141, và khi đã đến giờ lìa đời, ngài xin cha bề trên cho ngài cởi quần áo ra để nằm chết trần truồng trên mặt đất, giống như Ðức Giêsu Kitô.

Ngài qua đời vào ngày 3-10-1226.
Đức Giáo Hoàng Grêgôriô IX đã phong ngài lên bậc hiển thánh vào ngày 16-7-1228.

2. Vương Cung Thánh Đường Đức Maria Các Thiên Thần

Vương cung Thánh đường nằm ở vùng đồng bằng dưới chân đồi Assisi. Sau khi chụp tấm hình chung đoàn tiến vào Nhà thờ. Bề ngoài trông đơn sơ nhưng bên trong rất rộng cùng với nhiều nhà nguyện nhỏ và nhiều bức tượng tranh ảnh nghệ thuật tuyệt đẹp.

Trong lòng Nhà thờ có “The Portiuncola”, nơi đây được coi như là nhà mẹ đầu tiên, nơi Thánh Phanxicô lập dòng Anh em hèn mọn.

Ngôi Nhà thờ nhỏ từ thế kỷ thứ 9 là Porziuncola, nơi linh thánh nhất đối với các tu sĩ Phanxicô. Đây là nơi Thánh Phanxicô thời thanh niên tìm hiểu ơn gọi rồi từ bỏ thế gian để sống nghèo khó giữa những người nghèo và bắt đầu phong trào Phan Sinh.

Sau khi thánh nhân qua đời năm 1226, các tu sĩ xây dựng những túp lều nhỏ chung quanh Porziuncola. Năm 1230, một phòng ăn và một số tòa nhà kế cận được thêm vào. Theo dòng thời gian, những mái cổng nhỏ và những phòng ở của các tu sĩ được thêm vào chung quanh Porziuncola. Từ năm 1967 và 1969, trong khi khai quật, người ta đã phát hiện một số cơ sở dưới nền của ngôi Vương cung Thánh đường hiện tại.

Khi khách hành hương đến Assisi ngày càng đông để lãnh nhận “ân xá Assisi”, không gian nhỏ bé của Porziuncola đã không còn đủ sức chứa. Nhu cầu là cần phải xây dựng một ngôi nhà thờ mới kết hợp với Porziuncola. Theo lệnh của Đức Giáo Hoàng Piô V (1566-1572), các tòa nhà chung quanh Đền thánh bị tháo gỡ, trừ nguyện đường Transito và căn phòng nơi Thánh Phanxicô qua đời.

Ngày 25 tháng 3 năm 1569, khởi công.Vương cung Thánh đường này được xây dựng theo phong cách Mannerist đến 1679 mới hoàn thành.

Phong cách Mannerist, tiền thân của phong cách Baroque. Hai kiến trúc sư nổi tiếng là Galeazzo Alessi và Vignola thiết kế. Công trình xây dựng tiến triển chậm chạp do thiếu tiền liên tục vì chỉ nhờ vào sự đóng góp địa phương. Mái vòm nằm trên cái trống hình bát giác với tám cửa sổ và những đường gờ trang trí chạy chung quanh, được hoàn thành năm 1667. Công trình xây dựng cuối cùng đã được hoàn thành vào năm 1679. Đến năm 1684, một tháp chuông đã được thêm vào. Ban đầu dự định có một tháp đôi, nhưng tháp thứ hai không được xây dựng.

Ngày 15 tháng 3 năm 1832, động đất đã phá hủy một phần nhà thờ. Đến năm 1836 tái thiết lại dưới sự điều khiển của kiến trúc sư Luigi Poletti. Công trình hoàn thành vào năm 1840. Ông sửa lại mặt tiền theo phong cách tân cổ điển. Khoảng năm 1924 – 1930, Cesare Bazzani đã đưa mặt tiền thánh đường trở lại phong cách Baroque ban đầu. Điêu khắc gia Colasanti đã tạc bức tượng mạ vàng Madonna degli Angeli và đặt trên đỉnh đầu của mặt tiền nhà thờ vào năm 1930.

Ngày 11 Tháng 4 năm 1909, Nhà thờ đã được Đức Giáo Hoàng Piô X nâng lên hàng “Vương Cung Thánh Đường thượng phụ và là nhà nguyện của Đức Giáo Hoàng”.

Nhà thờ với 126 mét dài, 65 mét rộng và mái vòm cao 75 mét.

Bên trong Thánh đường có gian giữa và lối đi hai bên với 10 nhà nguyện. Porziuncola nằm dưới mái vòm.

Nội thất Nhà thờ đơn giản nhưng thanh lịch với ít đồ trang trí, hoàn toàn trái ngược lối trang trí các nhà nguyện phụ. Gian giữa và các lối đi được xây dựng lại theo phong cách Doric tân cổ điển do Luigi Poletti thực hiện. Phần bán nguyện phía sau cung thánh là chỗ ca đoàn được làm bằng gỗ vào năm 1689 và được các tu sĩ Phanxicô tạc hình Nhà thờ Chính tòa và bàn thờ Giáo hoàng. Nhà nguyện của Transito có phòng nơi Thánh Phanxicô qua đời, vẫn còn được lưu giữ đến ngày nay.

Các nghệ sĩ lừng danh đã trang trí các nhà nguyện hai bên vào nhiều thời kỳ khác nhau. Antonio Circignani đã họa các bức tranh trong Nhà nguyện Thánh Anna (1602-1603). Francesco Appiani trang trí hai Nhà nguyện Thánh Antôn và Thánh Phêrô bị xiềng (1756-1760). Ventura Salimbeni trang trí Nhà nguyện Loại trừ Chúa (1602).

Rời Vương Cung Thánh Đường chúng tôi theo hướng Foligno đi khoảng 3 km đến Đền thờ Đức Maria Rivotorto là ngôi nhà đầu tiên của các tu sĩ Phanxicô.

3. Đền thánh Đức Maria ở Rivotorto.

Bước vào bên trong Nhà thờ, ngay cửa chính, tôi thấy có hai ngôi nhà cũ kỹ xây bằng đá, trần lợp tôn ximăng rất thấp. Đây là nơi các môn đệ đầu tiên của thánh Phanxicô trú ngụ, sau đó họ di chuyển đến Porziuncola.

Trong ngôi nhà nhỏ bé này, Thánh Phanxicô đã triển khai, áp dụng và viết luật Dòng theo tinh thần đơn sơ, khó nghèo và cầu nguyện.

Năm 1209, từ nơi này, thánh nhân đã khởi hành cùng với 11 người bạn đến Roma yết kiến Đức Giáo Hoàng Innocentê III. Đức Giáo Hoàng đã chấp thuận bằng miệng Luật dòng của ngài. Đến năm 1223, Đức Giáo Hoàng Onorio III đã chuẩn y Luật dòng.

Hai ngôi nhà nhỏ này có lẽ không phải là hai ngôi nhà nguyên thủy vào năm 1200, nhưng là kết quả của việc tái cấu trúc lại ngôi nhà từ năm 1445 do tu sĩ Monk Francecso Saccardo thực hiện. Linh mục Tổng đại diện ở Assisi đã cho phép xây dựng ngôi nhà nguyện để cử hành Thánh Lễ.

Ngôi nhà thờ hiện tại được xây dựng lại theo phong cách Gothic sau trận động đất năm 1854, nó thuộc quyền sở hữu của dòng Phanxicô thuộc phái Conventual (tuân thủ) có nhà dòng nằm bên cạnh.

Các cánh cửa được trang trí rất đẹp và trình bày những phép lạ của Rivotorto: Thánh Phanxicô đang chờ đợi để được hầu chuyện với Giám mục Guido II với hình ngài đang bay trên một toa xe ánh sáng từ các tu sĩ ở Rivotorto.

Chúng tôi tiếp tuc thăm nhà thờ Thánh Đamianô, nơi thánh Phanxicô lập tu viện cho dòng Clara. Xuôi theo con dốc gần cây số, 2 bên đường là vườn ôliu, tôi thấy tu viện Đamianô đơn sơ và thanh thoát.

4. Nhà Thờ Thánh Đamianô

Nơi đây, Thánh Phanxicô gặp gỡ Chúa Giêsu. Thánh nhân đã cầu nguyện tại San Đamiano ngay tại thời điểm Nhà thờ bị hư hại. Thánh Phanxicô đã nhìn thấy hình ảnh Chúa Kitô chịu đóng đinh sống động. Chúa với ngài: “Phanxicô, con không thấy ngôi nhà của Ta đổ nát hay sao, hãy đứng lên và khôi phục nó lại!”. Thánh Phanxicô đã sửa chữa lại nhà thờ San Đamiano. Sau đó, thánh nhân hiểu rằng sứ điệp của Chúa nói với ngài là phục hồi lại Giáo Hội hơn là sửa chữa ngôi thánh đường San Đamiano.

Cây Thánh Giá mà từ đó Chúa Giêsu nói với Thánh Phanxicô được coi như là cây Thánh giá Thánh Đamiano. Hiện nay cây Thánh giá đang được treo tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Clara.

Nhà thờ Thánh Đamiano nối liền với tu viện. Đây là Tu viện đầu tiên của Dòng Thánh Clara, nơi Thánh nữ thiết lập cộng đoàn tiên khởi.

Chúng tôi thăm phòng nguyện, thăm nhà cơm nơi đặt bình hoa là chỗ ngồi hàng ngày của Clara. Lên gác thăm phòng ngũ thấy các Nữ tu sống khổ hạnh trong những phòng quá nhỏ bé nghèo nàn.

Từ Tu viện đi bộ lên dốc cao, rồi đi thang cuốn lên một dốc cao hơn chúng tôi đi đến Vương cung Thánh đường Clara.

5. Vương Cung Thánh Đường Thánh Clara

Vương cung Thánh đường Thánh Clara được xây dựng theo phong cách Gothic Ý giữa 1257 và 1265. Vật liệu kiến trúc là loại đá màu hồng được chiết xuất từ các mỏ đá của núi Subasio. Trong Đền thờ có những bức bích họa quý giá với niên đại vào khoảng từ thế kỷ XII đến thế kỷ XIV.

Bên phải có nhà nguyện, nhiều người đang chiêm ngắm tượng Chúa chịu nạn. Theo truyền thống, tượng chịu nạn này đã mời gọi Phanxicô “vực dậy Giáo Hội” ở Nhà thờ Thánh Đamiano.

Nhà nguyện này là di tích còn lại của ngôi Nhà thờ trước đó kính Thánh Giorgio.

Từ bên trái cung thánh có lối xuống tầng hầm. Nơi đây có phần mộ đặt thi hài thánh Clara. Ở đây lưu giữ một số di tích đặc biệt, trong đó có áo dòng của Thánh Phanxicô và tu phục của Thánh nữ Clara.

Từ quảng trường phía trước Đền thờ chúng tôi ngắm nhìn thung lũng Umbrian từ Montefalco tới Perugia trong ánh nắng lên đuổi bớt gió se lạnh đang thổi.

Thánh Clara làm bề trên tu viện trong 40 năm, nhưng có đến 29 năm ngài luôn đau yếu. Vậy mà lúc nào ngài cũng vui vẻ vì cho rằng đó là sự phục vụ Thiên Chúa. Nhiều người cho rằng các nữ tu đau yếu là vì quá khắc khổ. Ngài nói: “Họ nói chúng tôi quá nghèo khổ, nhưng một tâm hồn có được Thiên Chúa vĩnh cửu thì có thực sự nghèo hay không?”

Thánh Clara là người nữ đầu tiên viết luật dòng cho chị em mình. Năm 1252, Đức Giáo Hoàng Innocentê IV đã chính thức phê chuẩn luật dòng của Thánh nữ khi ngài tới ban phép lành cho Dòng “Clarisse” vào ngày 9-8-1253.

Thánh nữ qua đời vào ngày 11-8 -1253. Đức Giáo Hoàng Innocentê IV cử hành lễ tang cho ngài. Chính Đức Giáo Hoàng không muốn hát bộ lễ cầu hồn, ngài cử hành nghi thức thánh lễ các trinh nữ. Chỉ hai năm sau, Clara đã được Ðức Giáo Hoàng Alexander IV phong thánh.

6. Vương Cung Thánh Đường Thánh Rufinô

(Có giếng rửa tội nơi thánh Phanxicô và Clara đã được lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy; trong Nhà thờ còn có tượng Pietà theo nghệ thuật của Đức vào thế kỷ XV).

Vương cung Thánh đường Thánh Rufino có tầm mức quan trọng trong lịch sử của dòng. Thánh Phanxicô, Thánh Clara và nhiều đệ tử ban đầu của Thánh nhân đã được rửa tội tại đây khi nghe Thánh Phanxicô rao giảng trong nhà thờ này. Năm 1209, Clara cảm động trước sứ điệp của Phanxicô rao giảng và thực hiện lời kêu gọi của ngài.

Nhà thờ được thiết kế theo phong cách Umbrian Roman và được xây dựng trên địa điểm có lưu giữ di tích của Giám mục Rufino tại Assisi, chịu tử đạo vào thế kỷ thứ III. Công trình khởi công từ năm 1140 theo thiết kế của Giovanni da Gubbio. Các dòng chữ ở bên trong vòng cung sau cung thánh đã chứng thực điều này. Có thể cũng chính Giovanni là người đã thiết kế các cửa sổ hoa hồng trên mặt tiền của Nhà thờ Đức Maria Maggiore vào năm 1163.

Năm 1228, trong khi đến Assisi để phong thánh cho Phanxicô, Đức Giáo Hoàng Gregoriô IX đã thánh hiến bàn thờ. Đức Giáo Hoàng Innocent IV đã khánh thành Nhà thờ được hoàn thành vào năm 1253.

Mặt tiền Nhà thờ theo phong cách Roma được xây dựng bằng đá lấy từ núi Subasio. Đây là một ví dụ điển hình của phong cách các nhà thờ vào thế kỷ thứ 12 ở vùng Umbria.

Ở bên trong Nhà thờ, giếng rửa tội được đặt ở đầu cánh bên phải Nhà thờ, Thánh Phanxicô đã được rửa tội ở đây vào năm 1182. Thánh nữ Clara được rửa tội ở đây vào năm 1193. Giếng rửa tội được làm bằng một miếng đá granit cổ đại và có một cái đai sắt. Nhà tạm bằng đất nung đỏ có từ năm 1882 nhân dịp kỷ niệm 700 năm ngày sinh của Thánh Phanxicô.

Cánh bên phải là Nhà nguyện Mình Thánh Chúa theo phong cách Baroque (bắt đầu năm 1541 và mở rộng năm 1663), 9 bức tranh tường được cho là vào thế kỷ 17 do họa sĩ Andrea Carlone thực hiện.

Ngôi Nhà nguyện Đức Mẹ An Ủi được xây dựng vào năm 1496.

Vào thế kỷ XIX, bàn thờ chính ở dưới mái vòm hình bát giác thời phục hưng nằm trên di tích của Thánh Rufinô. Ở hai bên có tượng cẩm thạch của Thánh Phanxicô và Thánh Clara do Giovanni Dupré thực hiện.

Có một vài bức tranh do Dono Doni vẻ: Các Thánh thờ lạy Đức Kitô (1555), ở hai bàn thờ hai bên có hai tác phẩm: Hạ xác Chúa (1562) và Chúa bị đóng đinh (1563).

Dưới Vương cung Thánh đường là hầm mộ với quan tài của một người Roma ngoại giáo từ thế kỷ thứ III. Nơi đây có hài cốt của Thánh Rufinô.

7. Francesco Piccolino (nơi sinh của Thánh Phanxicô).

Nơi sinh của Thánh Phanxicô được xem như là một nơi linh thiêng. Sau năm 1250 một thời gian ngắn, Piccardo, con trai của Angelo và là cháu của thánh nhân, đã biến căn phòng lưu trữ này trong ngôi nhà của Thánh Phanxicô thành một nguyện đường. Đến năm 1281, ông đã tôn tạo bên ngoài với một mái vòm lớn. Vào khoảng đầu Thế kỷ thứ 14, dòng chữ Latin được khắc trên mái vòm theo phong cách Gothic này dòng chữ: Đây là nguyện đường có thời là chỗ cho bò và lừa, nơi đó Thánh Phanxicô, tấm gương của thế giới được sinh ra. Bên trong có những bức bích họa chồng lên nhau có niên đại từ cuối thế kỷ thứ 13 và hai thế kỷ kế tiếp đó.

8. Vương Cung Thánh Đường Thánh Phanxicô, di sản thế giới.

Từ vương cung Thánh đường Clara đi bộ hơn cây số là đến Vương cung Thánh đường Thánh Phanxicô. Nổi bật trước mặt tiền Thánh đường là quãng trường rộng xanh mướt những thảm có.

Thánh Phanxicô Assisi qua đời ngày 3-10-1226 tại Porziuncula. Ngày hôm sau, 4-10, xác ngài được đưa về Assisi, và tạm thời được an táng trong nhà thờ thánh Georgiô. Anh Êlia đã viết một lá thư luân lưu cho Dòng, trong đó anh loan tin buồn về cái chết của Thánh Phanxicô.

Anh Êlia đã là Phó Tổng Phục vụ từ Tổng Tu nghị Lễ Hiện xuống 1221. Tại Tổng Tu nghị Lễ Hiện xuống 1227, ngày 30-5, anh Gioan Parenti, Tỉnh Phục vụ Tỉnh Dòng Tây Ban Nha đã được bầu lên thay anh Êlia và trở thành người kế vị Thánh Phanxicô trong vai trò Tổng Phục vụ Dòng Anh em Hèn mọn.

Cùng năm ấy, ngày 19-3-1227, Đức Hồng Y Hugôlinô, Hồng Y Bảo trợ Dòng, được bầu làm Giáo Hoàng, lấy hiệu là Grêgôriô IX. Một trong các ưu tiên của ngài là tôn vinh Thánh Phanxicô. Ngày 29-4-1228, ngài ra sắc dụ “Recolentes” trong đó ngài loan báo ý định của ngài là cho xây cất một ngôi “nhà thờ đặc biệt” để tôn vinh Thánh Phanxicô, trong đó thi hài Thánh nhân sẽ được cất giữ. Anh Elia được chỉ định làm kiến trúc sư điều hành công trình vĩ đại này, xây một tầng hầm đặt ngôi mộ và một ngôi nhà thờ tu viện.

Ngày 16-7-1228, Đức Giáo Hoàng Grêgôriô IX long trọng phong thánh cho Thánh Phanxicô tại Assisi, và ngày 19-7, sắc dụ phong thánh “Mira circa nos” đã được phổ biến. Trong cùng thời gian ấy, ngài đã đặt viên đá đầu tiên cho ngôi thánh đường mới mà ngài tuyên bố là sở hữu của Đức Giáo Hoàng, và ngài xin anh Tôma Xêlanô viết một cuốn tiểu sử chính thức về Thánh Phanxicô.

Năm 1230, tầng hầm mộ hoặc ngôi thánh đường tầng dưới đã hoàn tất. Hài cốt Thánh Phanxicô được rước về ngôi thánh đường mới ngày 25-5-1230 cách trọng thể. Anh Elia vội vã cất giữ hài cốt trong ngôi thánh đường mới mà Đức Giáo Hoàng tuyên bố là “caput et mater” (đầu và mẹ) của Dòng Anh em Hèn mọn.

Tại Tổng Tu nghị Lễ Hiện xuống 1230, anh Êlia toan tính nắm lấy việc quản trị Dòng, nhưng anh em bầu lại Anh Gioan Parenti. Một ủy ban đã được thành lập trong đó có anh Antôn Padua, đi Rôma xin Đức Giáo Hoàng Grêgôgiô IX một lời giải thích chính thức về Bản luật và Di chúc của Thánh Phanxicô. Đức Giáo Hoàng trả lời bằng sắc dụ “Quo elongati” (28-9-1230), qua đó, cùng với nhiều điều khác, ngài tuyên bố rằng bản Di chúc không buộc anh em phải tuân giữ như một bổn phận, và anh em được phép có một “người trung gian” (nuntius) và “những bạn thiêng liêng” để họ cung cấp cho anh em những nhu cầu cần thiết hằng ngày như Bản luật chung kết ấn định, tuy nhiên anh em không được sở hữu gì, nhưng chỉ được “sử dụng hợp với lời khấn nghèo khó” (usus pauper) những gì anh em đã nhận được.

Tại Tổng Tu nghị Riêti, 1232, Anh Êlia Bombarone được bầu làm Tổng Phục vụ. Anh đã hoàn tất việc xây cất Vương cung Thánh đường Thánh Phanxicô. Một tổng thể kiến trúc to lớn gồm cả một Tu viện rộng rãi cho anh em (Sacro Convento), và nhà ở của Đức Giáo Hoàng.

Chiều dài Đền thờ 80 mét, chiều rộng 50 mét, chiều rộng gian giữa 18 mét. Từ năm 2000, Unesco đã công nhận Đền thờ này là Di sản thế giới.

Vương Cung Thánh Đường Giáo Hoàng mang tên Thánh Phanxicô (Basilica Sancti Francisci Assisiensis) là Nhà thờ Mẹ của Dòng Phanxicô tại Assisi. Kế cận với Đền thờ là Tu viện Dòng Phanxicô.

Năm 1228 khởi công xây dựng Đền thờ bên cạnh một ngọn đồi gồm hai phần: Nhà thờ trên và Nhà thờ dưới. Có hầm mộ nơi để phần mộ của Thánh nhân. Phần trang trí bên trong của ngôi Nhà thờ trên theo phong cách Gothic ở Ý. Cả hai nhà thờ trên và dưới được trang trí với các bức bích họa do các danh họa thuộc trường phái La mã và Tuscan vào cuối thời Trung cổ, bao gồm các tác phẩm của Cimabue, Giotto, Simone Martini, Pietro Lorenzetti và của cả Pietro Cavallini. Đặc điểm này nói lên sự phát triển nghệ thuật Italia vào thời kỳ này.

Kiến trúc Đền thờ là một tổng hợp hai phong cách Roman và Gothic. Đền thờ có kiến trúc hình thập giá đơn giản, bên hông trái Nhà thờ có một tháp chuông theo phong cách Roman.

Nhà thờ dưới được xây dựng hoàn toàn theo phong cách Roman, không gian của Nhà thờ đã được mở rộng với một số nhà nguyện ở hai bên. Lối vào chính của gian giữa nhà thờ thông qua một ô cửa Gothic trang trí công phu được xây dựng giữa những năm 1280 và 1300.

Nhà thờ trên với mặt tiền gạch trắng và có một cánh cửa chính lớn theo phong cách Gothic. Phần phía trái của mặt đứng ta có thể nhìn thấy từ cả hai sân trước của Nhà thờ trên và Nhà thờ dưới thì lại theo phong cách Baroque, khi Đền thờ này được nâng lên hàng Vương cung Thánh đường vào năm 1754.

Bên trong của Nhà thờ trên vẫn mang hình chữ thập theo sự thiết kế của thầy Elias

Đền thờ này mang đặc trưng của kiến trúc nhà thờ Ý, những bức bích họa có sớm nhất nằm ở Nhà thờ dưới. Có nhiều nghệ sĩ trong đó có những người nổi tiếng như Cimabue và Giotto, nhưng cũng có nhiều nghệ sĩ không được biết đến thực hiện những công trình nghệ thuật này.

Trên cung thánh mái vòm cung thứ hai có những bức tượng bán thân Chúa Giêsu đối diện với Thánh Phanxicô và Đức Trinh nữ đối diện với Thánh Gioan Tẩy Giả. Mái vòm cung ở cửa ra vào có bốn vị Tiến sĩ Giáo Hội: Thánh Gregoriô đối diện với Thánh Giêrônimô, Thánh Ambrosio đối diện với Thánh Augustinô.

Phía tây của cánh ngang có nhiều bức bích họa của Cimabue trong đó có bức bích họa tráng lệ mang tên cuộc đóng đinh, trong đó Thánh Phanxicô quỳ gối tại chân cây Thánh Giá để tôn thờ cuộc Khổ nạn của Đức Kitô.

Có một loạt 28 bức bích họa do họa sĩ Giotto thời trẻ thực hiện dọc theo phần dưới của gian giữa. Họa sĩ này dựa theo tác phẩm Legenda Maior của thánh Bonaventure viết tiểu sử thánh Phanxicô (1266) để tái tạo lại những sự kiện lớn trong đời sống của thánh nhân. Những bức họa này mang nét sinh động như thể Giotto là chứng nhân những sự kiện chính này. Nhưng việc coi Giotto là tác giả những bức họa này còn đang trong vòng tranh cãi, người ta nghĩ rằng ít nhất có 3 họa sĩ riêng biệt sử dụng khái niệm nguyên thủy của Giotto để vẽ những bức họa này.

Mặt tiền của Vương cung Thánh đường có một cổng ra vào theo phong cách Gothic

Tu sĩ Êlia đã thiết kế Nhà thờ dưới như là một hầm mộ rất lớn giống như những phần mộ bằng đá cứng ở Syria.

Trên các cửa ra vào là một cửa sổ lớn kiểu hoa hồng, hai bên là hai cửa nhỏ hơn, người ta gọi chúng là “con mắt của ngôi nhà thờ đẹp nhất trên thế giới”. Ugolinuccio da Gubbio (khoảng năm 1550) đã trang trí phần bên trái cánh cửa gỗ, còn một nghệ sĩ vô danh vùng Umbrian thực hiện phần cửa bên phải vào năm 1573. Chúng miêu tả những câu chuyện về đời sống của Thánh Phanxicô, Thánh Clara, Thánh Louis và Thánh Antôn. Trên bức tường bên trái của mái hiên là tượng bán thân của Đức Giáo Hoàng Benedict XIV đã ban cho nhà thờ này tước hiệu Vương Cung Thánh Đường Thượng phụ. Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã đổi tên Đền thờ này là Vương Cung Thánh Đường Giáo Hoàng của Thánh Phanxicô.

Cổng chính Nhà thờ dưới ăn thông ra một Quảng trường nhỏ, dọc hai bên quảng trường là hai hành lang có mái che và có hàng cột. Đức Chân phước Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã có sáng kiến tổ chức buổi cầu nguyện liên tôn mỗi năm một lần tại quảng trường này. Ngài mời đại diện các tôn giáo lớn trên thế giới đến cùng cầu nguyện với nhau cho hòa bình thế giới. Truyền thống được các đấng kế vị tiếp tục cho đến ngày nay. Nhờ đó, nhiều người trên thế giới biết đến quảng trưởng nhỏ này trong khu vực nhà dòng cạnh Đền thờ.

Chúng tôi dâng lễ tại Nhà thờ trên, sau đó mọi người thinh lặng xuống Nhà thờ dưới quỳ cầu nguyện trước phần mộ thánh Phanxicô. Tham quan nhiều nhà nguyện nhỏ và những tác phẩm nghệ thuật độc đáo.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong thư gửi Dòng Phanxicô nhân dịp lễ sinh nhật lần thứ 800 của vị Thánh Nghèo đã viết rằng, “trong suốt giòng lịch sử, thiên hạ vẫn luôn luôn ngưỡng mộ và yêu mến Thánh nhân vì họ thấy thực hiện nơi ngài một cách lạ lùng, điều mà họ ao ước cho mình, trên hết mọi sự trong đời: đó là niềm vui, sự tự do, hòa bình, hòa thuận và hòa hợp giữa loài người và giữa các dân tộc”.

CHIẾC VĨ CẦM

CHIẾC VĨ CẦM

Tác giả: Fr. Huynhquảng

Chuyến tàu định mệnh Titanic đã nằm sâu trong lòng biển, dầu vậy những tấm gương làm người vẫn được thỉnh thoảng nhắc tới cho nhiều thế hệ mãi đến hôm nay. Trong những mẫu gương ấy, mẫu gương chung thuỷ của người nhạc trưởng Wallace Hartley và Maria Robinson được nhắc đến như một câu chuyện tình buồn, nhưng đẹp – Đẹp vì là vì tính chung thuỷ và trân trọng những báu vật họ trao tặng nhau.

* * *

Trong khi mọi người đang hoảng loạn lo sợ trước cảnh chiếc tàu Titanic gặp nạn, nhằm để giữ vững tinh thần cho hành khách, người nhạc trưởng trẻ 24 tuổi, Hartley đã dũng cảm triệu tập ban nhạc gồm tám nhạc công để trình diễn trên boong tàu. Họ cứ tiếp tục chơi giữa phong ba bảo táp, giữa cảnh náo loạn kêu la, và họ đã giữ vững vai trò nhạc công của họ cho đến giây phút cuối cùng cùng với gần 1.500 hành khách chìm vào lòng biển sâu thẳm vào ngày 15 tháng 4 năm 1912.

Sau một thời gian dài, các nhà chuyên môn đã tìm được một số báu vật trong con tàu định mệnh; trong số đó họ tìm thấy chiếc vĩ cầm của nhạc trưởng Harley được đặt trong chiếc vali bằng da. Lạ thay, dù đã bị chôn kín trong lòng biển nhiều năm, chiếc vĩ cầm vẫn còn như nguyên vẹn. Cây vĩ cầm là quà tặng do bà Maria Robinson tặng cho nhạc trưởng Wallace Hartley nhân ngày họ đính hôn. Trên thân đàn, người ta tìm thấy dòng chữ: “Dành tặng anh Wallace nhân ngày đính hôn của chúng mình. Em Maria.” Sau đó, chiếc vĩ cầm được trao lại cho bà Maria Robinson, vợ của nhạc trưởng, người đã sống cuộc đời còn lại trong bậc sống độc thân. Sau khi nhận lại chiếc đàn, Bà Maria đã viết trong nhật ký, “Cây vĩ cầm giờ đây là sợi dây kết nối tình yêu giữa chúng ta.”

* * *

Bạn thân mến, câu chuyện tình đẹp là chuyện tình diễn tả sự trọn vẹn của mối tình ấy. Người ta vẫn thường rêu rao, “Tình chỉ đẹp khi còn dang dỡ” – cái đẹp của mối tình “dang dỡ” đó chẳng qua là “đẹp” về cảm xúc chứ không thể nói là mối tình đẹp trọn vẹn được. Vì nếu đẹp, tại sao còn dang dở; và vì nếu nó dang dở thì không thể đẹp được.

Mối tình của Wallace và Maria có đẹp không? Có dang dở không? Vâng nó đẹp và không dang dở. Đẹp và trọn vẹn vì chính Wallace và Maria chọn lựa sống mối tình mình cho đẹp cho trọn dù cho hoàn cảnh đẩy họ vào thế “dang dở” nhưng họ, nhất là bà Maria vẫn quyết chọn và làm cho mối tình của họ nên đẹp. Cuộc tình đẹp hay dang dở đều là do sự chọn lựa giữa họ với nhau mà thôi. Thử hỏi là nếu Maria chọn tái hôn, thì liệu rằng chiếc vĩ cầm mà họ tặng cho nhau có giá trị như hiện nay hay không? Liệu rằng chúng ta có bàn đến cuộc tình của họ với tất cả sự ngưỡng mộ hay không? Cả hai Wallace và Maria, họ có quyền kết thúc cuộc tình đẹp  của họ trong dang dở; dầu vậy, họ đã chọn kết thúc cuộc đẹp của họ trong trọn vẹn. Nhất là Maria, cô có quyền kết thúc cuộc tình đẹp của cô với Wallace, và cũng có quyền để xây đắp một mối tình đẹp khác. Dầu vậy, Maria đã chọn đi trọn giao ước trong cuộc tình với Wallace, vì hơn ai hết, Maria hiểu rằng, cuộc tình này chỉ thực sự đẹp khi trong khối óc và con tim của cô không có sự “dang dở.”

Cũng như tất cả những ai đã và sẽ bước vào đời sống hôn nhân, mối tình của bạn có đẹp không, có dang dở không? Vâng nó đẹp lắm – dĩ nhiên nó phải đẹp bạn mới bước vào đời sống hôn nhân; nhưng nó có dang dở không? Đây chính là câu trả lời dành cho sự chọn lựa của bạn. Những cuộc tình hôn nhân thật đẹp không có nghĩa là họ không gặp éo le, ngang trái. Thực ra, có khi họ còn gặp nhiều nghịch cảnh dang dở  nữa là đàng khác; nhưng cuộc tình của họ đẹp là vì họ vẫn chung thủy với nhau bất chấp tất cả nghịch cảnh dang dở.

Thưa bạn, nhìn vào những người thân chung quanh, chúng ta vẫn thấy gặp những con người làm nên nhiều cuộc tình đẹp vì sự chung thủy của họ. Vẫn có đó những cảnh “gà trống nuôi con.” Vẫn có đó những người mẹ đơn độc nuôi con vì chữ tính với chồng. Những con người này có gặp dang dỡ trong cuộc đời không? Thưa có, nhưng cuộc tình của họ vẫn trọn vẹn và đẹp vì lời thề nên trọn và hoàn tất.

Thưa bạn, những chọn lựa nhỏ bé trong từng ngày của bạn  cũng góp phần làm cho cuộc tình của bạn đẹp tương tự như những cuộc tình đẹp bất hủ trong lịch sử con người. Lịch sử đang ở trong tay bạn!


Fr. Huynhquảng

KHI VỢ KHÁC NIỀM TIN TÔN GIÁO – Phần 2

KHI VỢ KHÁC NIỀM TIN TÔN GIÁO – Phần 2

JOSEPH C. PHAM

Gửi người anh em,

Trong thư lần trước, chúng ta đã có dịp trao đổi với nhau khá đầy đủ về những khác biệt tạo nên sự ảnh hưởng không mấy tốt đẹp đến thế hệ kế tiếp của đời sống đôi bạn nếu cả hai thật sự phớt lờ đi những dấu chỉ nhãn tiền. Lần này, như anh đã hứa, chúng ta sẽ tiếp tục chia sẻ những ưu tư khác khi hai bạn đến với nhau trong bối cảnh khác niềm tin tôn giáo.

Hôm nay, anh muốn chia sẻ với người anh em trong khía cảnh hành xử theo điều mỗi người tin sẽ tạo nên những làn sóng rất mạnh mẽ gây bất hoà giữa hai bạn nếu cả hai thiếu nhân đức khiêm nhường – một nhân đức nền tảng cho mọi người trong mọi thời đại, dưới mọi bối cảnh văn hoá, lịch sử, và niềm tin.

Bạn sẽ thi hành điều mà bạn tin. Cứ nhìn cách họ sống thì biết điều họ tin

Đó chính là cách nói của những bậc thầy tinh thần trên thế giới. Quả đúng như thế, chúng ta tin vào điều gì thì chúng ta sẽ hành động theo đúng điều mà ta đang tin hoặc sẽ tin. Chẳng hạn, khi đi xem bói xem thầy nghĩa là chúng ta đã đặt niềm tin vào một sự phán quyết mang tính mập mờ, huyễn hoặc, và thiếu xác thực của những thầy bà mà chúng ta đến. Nghĩa là ta chẳng tin vào điều tốt lành kỳ diệu của cuộc sống và chúng ta được tạo ra để được sống và sống dồi dào trong tình yêu của Đấng Tạo Hoá.

Hay cứ nhìn một người sáng say chiều xỉn thì biết ngay là anh ta chẳng tin gì vào cuộc sống cả, với họ chỉ có ma men mới làm cho họ cảm thấy cuộc sống có ý nghĩa, bởi họ đã trốn tránh cuộc đời và trách nhiệm trong đó. Và còn nhiều ví dụ khác minh hoạ cho điều mà anh đang chia sẻ khi em chiêm ngắm cuộc sống này. Cũng thế, đời sống của hai bạn sẽ gặp khó khăn hoặc thuận lợi thì còn tuỳ thuộc vào niềm tin của hai bạn đồng bộ ( Syn ) đến đâu.

Sự đồng bộ trong niềm tin sẽ chỉ có được trên nền tảng của sự khiêm nhường chân thành nơi thẳm sâu trái tim hai bạn. Trên nền tảng này, mỗi người đều thấy được cái ưu và khuyết của nhau trên mọi bình diện của cuộc sống: tính cách, công việc, tôn giáo, văn hoá… để từ đó thay vì đối kháng và xung đột thì sẽ bổ sung và tạo nên sự hài hoà cho cả hai, và nhất là cho những đứa con của hai bạn sau này. Theo đó, người mang trọng trách nặng nề hơn trong việc giáo dục đời sống tinh thần và thiêng liêng giờ đây thuộc về người cha, vì theo nguyên tắc thì người cha hay mẹ Công Giáo sẽ có trách nhiệm nuôi dưỡng con cái theo luật Giáo Hội. Mà giáo dục ấy không có gì ngoài chuyện giáo dục Đức Tin.

Điều khó khăn ở đây nằm ở chỗ từ xưa tới nay giáo dục cho con trẻ thuộc về người nữ, vì đó thuộc phẩm chức và thiên chức cao đẹp của họ. Thế nên, giờ đây người anh em thành gà trống nuôi con trên bình diện thiêng liêng, còn bà xã vẫn cứ làm đúng thiên chức của người mẹ trên bình diện tình cảm và thể lý. Với vai trò là trụ cột gia đình, người anh em giờ đây mệt nhoài với chuyện kinh tế, giờ còn phải lo chăm sóc cho con về mặt tinh thần và Đức Tin, quả là một việc rất khó với phẩm chức của người đàn ông vốn mang tính bôn ba và bươn trải, về đến nhà chỉ còn muốn được nghỉ ngơi và hồi sức bên người thân yêu.

Khi rong ruổi giữa đời để mưu sinh, anh em không tránh khỏi nhiều phen đi vắng, thế nên ở nhà bằng tất cả sự khiêm nhường và nhận thức đầy đủ cũng như sư tôn trọng giá trị thiêng liêng nền tảng của chồng và con, người mẹ có trách nhiệm nhắc nhở con cái thi hành việc bổn phận trong niềm tin tôn giáo mà chúng đang theo bố.

Còn nếu đã không làm nhiệm vụ nhắc con, lại còn tiêm nhiễm làm nhiễu hệ thống và giá trị niềm tin tinh tuyền của con cái thì phải kể là thật tội cho người anh em đã cất công lao đao vun trồng giờ thì lại có người phá đổ, và tội cho cả cháu bé bị lung lạc và nhung nhiễu niềm tin.

Với cách hành xử theo điều mình tin, nhiều khi bà xã lại có kiểu cúng kiếng, vái lạy, van xin ở ngoài hè phố, đốt tiền giấy, đốt phông lông đuổi xúi quẩy, cúng rằm… là điều hợp với niềm tin của nàng, song với người anh em và người thân thì cảm thấy có gì đó chướng chướng.

Ở đây, chúng ta không phê phán cách hành xử nào là đúng hay sai, chỉ là sự khác biệt ấy sẽ gây biết bao rắc rối nếu không đồng bộ mà thôi. Nếu anh em góp ý, thì rất có khả năng anh em sẽ chết dưới cái lý luận của nàng: “Anh có cách sống và thực hành niềm tin của anh, em có cách thực hành niềm tin của em. Anh làm này làm kia em có than phiền gì đâu. Em tôn trọng anh thì anh cũng hãy tôn trọng em;” “Anh có cách giáo dục con của anh, em cũng có cách giáo dục con của em. Em là mẹ em cũng có bổn phận giáo dục nó như anh. Vậy thì anh nói đi, em sai chỗ nào và anh hay hơn chỗ nào ?” v.v…

Đến đây, nếu không khéo léo và sự khiêm nhường đi vắng thì sẽ bùng nổ nội chiến cách nặng nề. Vì ai cũng muốn bảo vệ niềm tin của mình, đó là điều hợp với lẽ tự nhiên.

Nàng đi chùa, tụng kinh, vái nhang khi đến Chùa, khi nàng đã là người Công Giáo

Đây quả là một câu chuyện nan giải, đặc biệt với phẩm chất nhất thuỷ nhất chung vốn có của người phụ nữ. Nàng sẽ cảm thấy trái tim mình bị giằng co tư bề khi giờ đây đã là người của một tôn giáo khác mà bỗng dưng có vẻ như phải ngừng lại hết mọi hoạt động vốn đã ăn sâu vào tâm thức và máu thịt mình, phải chăng mình đã bội phản ? Khi đối diện với vấn đề này nơi người bạn đời, người anh em đừng hoang mang hay hành xử theo kiểu không kiểm soát được thì lệnh cấm vận. Hãy bình tĩnh và giảng giải để nàng hiểu tường tận điều nàng đang khắc khoải băn khoăn.

Ở đây, theo thiển ý rất riêng tư, anh xin gợi ý vài điểm để anh em có thể phần nào thấy được vấn đề mình đang hoặc sẽ đối diện qua vài điểm sau.

Thứ nhất, không có sự mâu thuẫn nào trong hành trình tìm kiếm Chân Lý hết, bởi Chân Lý chỉ có một như thể mặt trời mọc hướng Đông và lặn ở hướng Tây. Thế nên, xưa kia nàng đi nhà Chùa thắp nhang vái Đức Phật và học các giáo lý mà Đức Phật truyền lại như một phương thế ( mean ) để người ta đạt tới Chân Như ( God ) thì ngày nay nếu vẫn cùng ý nghĩa ấy thì chẳng có gì là sai trái hay bội phản, nàng cứ việc đi Chùa để tìm kiếm Chân Như và vẫn cứ vái nhang Đức Phật như một bậc Thánh Nhân ( vì Đức Phật chưa bao giờ tự nhận mình là Chân Như ). Miễn là nàng đừng để sự lầm lạc nào đó để đồng hoá giữa Đức Phật với Đức Chúa Trời ( Chân Như ) để chuyển từ thái độ yêu mến sang thờ phượng.

Thứ hai, Đức Phật giới thiệu cho mọi người thời của ngài và cả thời chúng ta những phương thế tốt lành để đạt tới Chân Như, còn Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, sống như người trần thế ( Pl 2, 6 – 11 ) là để mang Thiên Chúa ( God) đến cho chúng ta qua lời giảng dạy và cả hành trình sống của Ngài.

Thế nên, tại điểm này Chân Lý gặp nhau giữa hai vị Đức Phật và Đức Giêsu ( Xét trên bản tính nhân loại của Ngài ). Thế nên, gặp gỡ Đức Kitô và đi theo Ngài không có nghĩa là phản bội lại Đức Phật mà đơn giản chỉ là một sự thăng hoa trong niềm tin tôn giáo và ân sủng mà thôi. Hãy cho nàng biết, điều nàng đang được hưởng trong tư cách là một Kitô Hữu là điều mà Đức Phật đã rong ruổi và bôn ba tìm kiếm suốt cả một đời mới gặp được, và chắc chắn điều ấy làm cho Đức Phật mà nàng mến yêu cảm thấy vui và hạnh phúc cho người thành tâm thiện chí tìm kiếm Chân Lý như nàng.

Người anh em thân mến, trên đây là phần chia sẻ của anh với người anh em về sự khác biệt tôn giáo giữa hai người khi sống đời vợ chồng, để anh em tham khảo và có cách hành xử thật đúng đắn và kiên nhẫn với người bạn đời của mình. Còn nhiều vấn đề quan trọng khác nữa phát sinh do sự khác biệt trong niềm tin tôn giáo giữa hai bạn trong đời sống vợ chồng mà anh muốn chia sẻ thêm, song có lẽ điều đó sẽ được đề cập nhiều hơn ở những thư chia sẻ sau.

Mến chúc các bạn được hoà hợp trong cùng một Đức Tin để cùng nhìn về một hướng mà thăng hoa tình yêu vợ chồng.

JOSEPH C. PHAM

Khi nói dối là…chuyện nhỏ

Khi nói dối là…chuyện nhỏ

Thanh Quang, phóng viên RFA
2013-09-30

RFA

10BaoAnh2392013164727758-305.jpg

Chủ tịch VN Trương Tấn Sang phát biểu tại Diễn đàn Doanh nghiệp Đan Mạch – Việt Nam hôm 20/9/2013 tại Đan Mạch

AFP photo

Trong phạm vi gia đình và học đường, tác giả Nguyễn Quang Thân của bài tựa đề “Ai dạy trẻ nói dối” báo động về “kết quả sững sờ” liên quan tình trạng học sinh, sinh viên tại VN ngày nay nói dối với cha mẹ, mà theo cuộc khảo sát của Trung tâm xã hội học VN, tỷ lệ nói dối cha mẹ của học sinh cấp I là 22%, cấp II 50%, cấp III 64% và ở sinh viên đại học lên tới 80% !

Tác giả lưu ý, “tỷ lệ này tăng phi mã, càng học lên cao càng thạo nói dối”, nói dối ngay trong giai đoạn còn “tuổi ngọc, mới rời nôi ‘nhân chi sơ’ chưa được mấy năm mà các em đánh mất ‘tính bản thiện’ ! “. Và trong “nỗi ngạc nhiên đến xót xa ấy”, tác giả cho biết tiếp, “mọi người vẫn muốn tự vấn” dù câu trả lời “đã có sẵn”, đó là: cái thói giới trẻ nói dối này từ đâu ra ? Tác giả Nguyễn Quang Thân phân tích:

Chúng ta không dạy con nói dối,( mà) dạy con sống lương thiện bằng sức lao động của mình, đối xử tử tế với đồng loại, thương yêu người nghèo khổ. Bằng khen, huân chương ta khuân về treo chật tường. Nhưng con cái biết ta xài bằng giả vì chúng chưa bao giờ thấy ta đi học. Ta nói với con rằng ta là người lương thiện với lương tháng mươi triệu đồng.

Vậy mà ta có ba bốn ngôi nhà, sắm ôtô siêu hạng, mỗi năm bỏ hàng trăm triệu chơi gôn và khi nổi nóng có thể đánh ngất một người giúp việc trên sân “để trêu đùa”. Nhà trường không dạy học sinh nói dối nhưng dùng mọi cách để có tỉ lệ tốt nghiệp cao ngất đến mức chính học sinh của trường cũng biết là chuyện khôi hài… Con cái và ngay cả chúng ta vẫn được nghe những lời hứa hẹn chung chung, hoa mỹ nhưng ngay người nói ra cũng biết chắc là sẽ không được thực hiện. Hệ lụy là cuộc sống thiếu minh bạch, thật và giả lẫn lộn không biết đâu mà lần…Điều tệ hại nhất của thói dối trá xảy ra khi nó bị đẩy đi xa tới mức phá vỡ niềm tin, gây ra nỗi hoài nghi thường trực…

Blogger Hạ Đình Nguyên đi xa hơn phạm vi gia đình và học đường để bao trùm cả xã hội, lưu ý rằng “Trẻ em nói dối thì bị quở mắng, có khi bị trừng phạt. Người lớn – với tư cách là người dân bình thường – nói dối thì hàng xóm, bạn bè tránh xa không muốn chơi, người thân thì không thể tin cậy. Người có cương vị xã hội mà nói dối thì bị nhiều người coi khinh; cương vị xã hội càng lớn, thì sự coi khinh càng nhiều, càng báo hiệu sự nguy hiểm”.

Qua bài “Sự nói dối cưỡng bức ?”, tác giả Hạ Đình Nguyên trước hết định nghĩa rằng bản chất của sự nói dối là biết sự thật nhưng cố ý nói khác đi để che giấu hay tránh né sự thật; còn trong trường hợp vì bị cưỡng bức mà không thể nói lên sự thật, phải “gượng lòng” mà nói dối,  trường hợp như vậy, tác giả tạm gọi là “nói dối cưỡng bức”.

Buộc phải nói dối?

000_Hkg8933723-250.jpg

Những cánh cửa sổ của một nhà tù ở Việt Nam, nơi giam giữ những blogger bất đồng chính kiến. AFP photo

Theo phân tích của tác giả thì ” Sự nói dối cưỡng bức được lặp lại nhiều lần, rồi quen đi, nó trở thành tính, thành nết, thành tật xấu, cuối cùng là hình thành sự ngụy tín cho chính mình. Sự nói dối bấy giờ trở nên trơn tru, hồn nhiên, giống y như nói thật, mà người nghe thì thấy nó trần trụi, nó gợi lên một cảm nhận trơ trẽn”.

Tác giả Hạ Đình Nguyên lưu ý rằng ở VN hiện nay, tình trạng các quan chức cao cấp nói dối về dân chủ, nhân quyền ngày càng trở thành đề tài thời sự “nóng hổi” trên các diễn đàn, kể cả diễn đàn quốc tế; và cứ mỗi lần như vậy, họ đã “thảy một mồi lửa vào đống rơm khô”, tức gây bất bình rộng khắp. Nhưng, theo tác giả, ” Người ta không tin rằng những con người ấy có tính nói dối bẩm sinh, cũng không thể tin rằng họ không biết sự thật, một sự thật mà người dân thường cũng hiểu được, với nhan nhản sự kiện đầy ắp trên trang báo, trang mạng mỗi ngày, mỗi tuần, mỗi năm và năm này qua năm khác. Chỉ có thể lý giải rằng đây là sự nói dối cưỡng bức, tức là bị bắt buộc phải nói dối”. Và tác giả dẫn chứng:

Cách đây không lâu, bà Phó Chủ tịch nước nói: Dân chủ của Việt Nam là “cao hơn gấp vạn lần so với dân chủ tư sản”. Câu nói ấy đã gây nhiều phản ứng, nhưng không phải là nói dối nếu so với giáo trình Mác-Lênin…Còn so với thực tế, nó rất vô nghĩa, một so sánh định lượng “quá mức tình cảm”, hoặc do quán tính thuần túy… Nhưng câu nói ấy không gây nên sự phẫn nộ từ dân chúng, mà chỉ gây nên một nỗi buồn đến kinh hoàng về sự tụt hậu của trình độ “suy thoái tư tưởng” mang tính biểu trưng của tầng lớp lãnh đạo. Nếu hiểu về mặt đạo đức của sự “trung thành” hay “kiên định” với ý thức hệ, thì cái đạo đức ấy cũng gây kinh hoàng không kém.


Chúng tôi có 86 triệu dân, trong đó trên 30 triệu người sử dụng internet hằng ngày, tỷ lệ đó biến đổi hàng giờ, không có bất cứ sự ngăn cấm nào cả… Ngoài ra, Việt Nam có khoảng trên bốn triệu blogger, rất tự do.
– Chủ tịch Trương Tấn Sang

Tới phiên ông Chủ tịch nước, tác giả Hạ Đình Nguyên cho biết, ” Người ta hỏi rằng bây giờ ông có đang đói bụng không, ông trả lời một cách biện chứng rằng, vì hôm qua ông có ăn nên hôm nay không thể đói được!”, hay ” Vì rằng nước ông (Việt Nam) đã từng chống ngoại xâm giành độc lập dân tộc cả trăm năm qua, nên đương nhiên có ý chí – thậm chí rất mãnh liệt – về khát vọng dân chủ và nhân quyền. Và vì ‘có’ khát vọng đó, nên đương nhiên dân chủ, nhân quyền phải ‘có’ thôi!”, hoặc ông ” Phải mượn tạm lịch sử”, như khi sang Mỹ, ông ” mượn tạm cái bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh cách đây 2/3 thế kỷ để gởi cho ngài Obama”, hay ông chỉ dám nói ” đồng chí X” nào đó mà thôi. Theo tác giả Hạ Đình Nguyên, thì những trường hợp đó là ông Chủ tịch mới “nói tránh/né”, “nói khéo”. Nhưng ông đã “nói dối 100%” khi công bố tại Đan Mạch rằng:

Chúng tôi có 86 triệu dân, trong đó trên 30 triệu người sử dụng internet hằng ngày, tỷ lệ đó biến đổi hàng giờ, không có bất cứ sự ngăn cấm nào cả… Ngoài ra, Việt Nam có khoảng trên bốn triệu blogger, rất tự do. Do vậy, ở ngoài thì đồn đại rất nhiều nhưng để hiểu Việt Nam nhiều hơn, hiểu về đời sống chính trị của Việt Nam thì xin mời các bạn hãy đến Việt Nam. Mặc dù chúng tôi còn nghèo nhưng cũng có trên dưới 200 kênh truyền hình, 700 tờ báo và không dưới 17.000 phóng viên…

Ai bắt họ nói dối?

000_170337959-250.jpg

Ảnh minh họa chuyện ngăn chặn facebook ở một số nước, trong đó có VN. AFP photo

Tác giả Hạ Đình Nguyên nêu lên câu hỏi rằng 4 triệu blogger “rất tự do” sao lại như cơn gió độc quất vào mặt các blogger dù họ đang ở trong nhà tù kín gió; 17.000 phóng viên, 700 tờ báo, 200 kênh truyền hình thì quả đúng là chơi sang khi đất nước còn nghèo; Riêng 17.000 phóng viên ư ? Nhưng trong đó, biết bao nhiêu tiếng thở dài ? bao nhiêu tiếng hò reo cùng với kèn trống ? Tác giả khẳng định:

Ông Chủ tịch và các ông lãnh đạo khác không thể không biết chính những điều mà các ông đã và đang làm, về dân chủ và nhân quyền bao nhiêu năm qua, ở cái xứ sở khốn khổ này. Một đất nước tràn trề tham nhũng mà lại có dân chủ và nhân quyền được sao, lạ thật! Thế nhưng không thể nói thật. Là “nói dối cưỡng bức” hay đã trở thành ngụy tín? Hầu hết trong bộ máy nhà nước, từ cao đến thấp, đều như thế! Nghĩa là cùng trong tình thế cưỡng bức. Và sự ngụy tín đã trở nên toàn diện, bao trùm. Nhưng ai có thể cưỡng bức họ? Câu trả lời là cơ chế của bộ máy này đã cưỡng bức họ, buộc họ không thể nói thật. Vì cơ chế đó được đặt trên một tiền đề không có thật nốt: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Dân làm chủ”. Quả là bi hài! Bị kẹp chặt và bẹp dí như con mắm, mà Dân còn làm chủ được sao?

Tác giả Hạ Đình Nguyên nêu thêm một câu hỏi nữa, rằng vì sao trong tình trạng “nói dối cưỡng bức” như vậy mà các quan chức có thể chịu đựng lâu dài, bền bỉ đến thế ? Câu trả lời, theo tác giả, rất dễ nhưng vấn đề lại rất gay go, đó là ” quá trình hy sinh và gắn bó với nhiều ràng buộc của quyền và lợi. Sự hy sinh của những ai đó có thể chưa nhiều lắm, mà sự gắn bó thì nhiều hơn, nhất là những cái chức đã mua bằng tiền, hoặc bằng sự thân quen nâng đỡ… Đang làm quan mà nói thật, thì mất hết, thân có thể vào nhà lao, tinh thần có thể bị giày xéo, nhục mạ, đã và đang có bao nhiêu là điển hình! Vì thế mà không thể nói thật. Nói dối cưỡng bức, lâu ngày thành nói dối hồn nhiên, bạo dạn, trơn tru…”

Nhưng ai có thể cưỡng bức họ? Câu trả lời là cơ chế của bộ máy này đã cưỡng bức họ, buộc họ không thể nói thật.
– Hạ Đình Nguyên

Bài “Lầm đường lạc lối” của blogger Nguyễn Bình có đoạn nhận xét rằng “Cả một bộ máy tuyên huấn, tuyên giáo, truyền thông đồ sộ được nuôi dưỡng, trả lương chuyên suy nghĩ, nói năng, viết lách dưới danh nghĩa ‘tiếng nói của nhân dân’, nhưng khi nhân dân nghe được hoặc đọc thấy thì nổi quạu, cho đó là giả danh, nói lấy được. Nhân dân nào lại xuẩn tới mức đồng tình với những chủ trương, đường lối, luật pháp bóp nghẹt sự sống tự do dân chủ của mình, biến đất đai được tạo lập bởi chính công sức bao năm của mình thành ‘tài sản thuộc sở hữu toàn dân’ do một nhóm phe đảng đại diện quản lý và tùy nghi quyết định ?”. Tác giả nhận xét:

Người ta cứ cố gán ghép bằng được “yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội”, trong khi trong thực tế tuy kiến thức cao thấp khác nhau, nhưng số đông người dân hễ nghe thấy bốn chữ “chủ nghĩa xã hội” hoặc “xã hội chủ nghĩa” đều hiểu đó là “đấu tranh giai cấp”, đó là “cải cách ruộng đất”, đó là “cải tạo tư sản”, đó là “đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” – nhưng thực tế không hề được làm chủ gì cả. Toàn những từ ngữ rùng rợn, nhắc nhớ bao sự việc khó tin nhưng có thật, đã diễn ra. Nói chung bốn chữ “chủ nghĩa xã hội” có giá trị, hay ho ở đâu không biết, nhưng chắc chắn và dứt khoát nó không phải là mong muốn của người dân Việt Nam – trừ những người bị mắc chứng hoang tưởng…

Nếu chết là hết…

Nếu chết là hết…

Lm. Giuse Đinh Tuấn Việt

“Người đã sống lại và chết không bao giờ là hết cả. Họ đã làm chứng, không phải chỉ bằng lời mà còn bằng máu của mình.”

Nếu chết là hết thì :

– Sống tốt để làm gì

– Học hành có nghĩa chi

– Phấn đấu làm việc cũng vậy thôi

– Giàu có sung sướng rồi gì nữa

– Văn minh lịch sự để làm gì

– Danh tiếng này kia có ích chi

Nếu chết là hết, tất cả sẽ chỉ dẫn đến vực thẳm vô nghĩa và thực sự con người loay hoay đủ mọi cách chỉ để đi đến một con đường bế tắc.

Nhưng sự thật thì chết có là hết không?

Một người “tính toán” thế này:

– Trường hợp một: Bạn tin có Chúa và chết không phải là hết, từ đó bạn sẽ cố gắng sống cho tốt cho đẹp và cảm thấy hạnh phúc với những gì mình làm. Rồi ngày bạn nhắm mắt xuôi tay, bạn gặp mặt Chúa và hân hoan bước vào đời sống vĩnh cửu với Người. Như thế bạn chẳng uổng phí cuộc đời trần gian mà lại được hạnh phúc đời đời.

Trường hợp hai: Bạn không tin có Chúa và tin rằng chết là hết, từ đó bạn sống không lí tưởng, sống bậy bạ, chán nản, mệt mỏi, nhỏ nhen, cố chấp, hận thù, thủ đoạn, tranh quyền đoạt lợi, tuyệt vọng. Rồi ngày bạn tắt thở, bạn bất ngờ phát hiện ra rằng có Chúa và chết không phải là hết. Vậy là bạn đã uổng phí cuộc sống trần gian, và không biết lúc đó bạn sẽ ứng xử thế nào?

***

– Ai nói rằng chết là hết thì là người khờ khạo đáng thương vô cùng.

– Ai dạy như thế thì đang phạm tội giết người, không phải một người mà nhiều thế hệ.

– Ai nghe theo lời dạy ấy thì đã nhẹ dạ cả tin và đang tự mù lòa.

– Ai tin rằng chết là hết sẽ phải đối diện với Thiên Chúa Hằng Sống trong đời này và đời sau.

Con người, ngay từ thuở xa xưa còn ăn lông ở lỗ, đã luôn nhận thấy có một Đấng Tạo Hóa, một Đấng Trời, một Thiên Chúa hiện diện không những nơi vũ trụ bao la mà cả trong lòng mình. Có một điều gì đó rất tự nhiên luôn ở sâu tận bên trong con người bằng xương bằng thịt này chỉ cho con người biết có một chiều kích linh thiêng nền tảng hiện hữu. Cố tình phủ nhận nó sẽ là cố tình lừa dối và phủ nhận chính con người mình. Ngay trong thời đại hôm nay, có những trường hợp thú vị thỉnh thoảng vẫn xảy ra: một số người, vì lý do nào đó, ngoài miệng nói rằng chết là hết nhưng đến lúc gần chết thì lại vội vàng tìm cách nối kết lại với các nguồn mạch tâm linh. Cũng đúng thôi, làm sao bác bỏ được sự thật gắn chặt trong cấu trúc tự nhiên của con người mình chứ.

Phần tôi, càng kinh nghiệm cuộc sống, tôi càng vững tin hơn vào sự hiện hữu và hiện diện của Chúa. Tôi biết chắc chắn rằng chết không phải là hết mà là cánh cửa để bước vào sự sống vĩnh cửu. Vì chết không phải là hết nên những điều có giá trị tôi đang nghĩ, nói, làm hôm nay không những giúp tôi hạnh phúc tại trần gian này mà còn đi cùng tôi vào trong hạnh phúc mai sau. Tôi thấy mình may mắn quá!

***

Ngoài kinh nghiệm bản thân, tôi tin vào lời chứng của nhiều người khác nữa, ít là trong dòng lịch sử của hai ngàn năm nay. Ví dụ, ngày hôm ấy, Phêrô cùng các anh em khác đứng giữa những người chưa tin và có thể giết hại mình lên tiếng nói rằng:Chính Ðức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng.(Cv 2:33) Quả thế, Người đã sống lại và chết không bao giờ là hết cả. Họ đã làm chứng, không phải chỉ bằng lời mà còn bằng máu của mình. Sau họ, hàng triệu nhân trứng khác trên khắp các nẻo đường thế giới, trong đó có hàng trăm ngàn cha ông Việt Nam của tôi, cũng đã sẵn sàng hi sinh mạng sống mình để làm chứng cho sự thật này.

Lm. Giuse Đinh Tuấn Việt. O.Carm

“Người có đạo”

“Người có đạo”

Maria Túc Lynh

“Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ sẽ mở cho” (Mt 7, 8)

Vốn là một người có tính năng động, thích tìm hiểu từ khi còn bé, nên tôi hay chú ý nhiều đến những lời chia sẻ của người khác về những điều kỳ diệu và mới lạ của đạo Công Giáo.

Trước kia khi tôi chưa biết đến đạo Công Giáo, trong tôi có hai dòng suy nghĩ gần như là trái ngược nhau. Một là thấy những người theo đạo Công Giáo sao mà sang trọng quá, ở họ có chút gì đó hay hay. Mỗi khi họ đi lễ, tôi thấy họ ăn mặc rất chỉnh tề và đẹp, và tôi thầm ước chi tôi cũng là người có đạo. Có đạo, thì tôi cũng sẽ được nhiều dịp diện quần áo đẹp đi Nhà Thờ, chỉ đơn giản là được vào Nhà Thờ thôi chứ không hề hiểu biết ý nghĩa của Thánh Lễ. Hai là tôi thấy những người được gọi là người công giáo sao mà lại rất khó gần, dường như họ có vẻ rất kiểu cách, có thể nói là “chảnh” nữa. Điều này làm cho tôi cảm thấy không thiện cảm với họ chút nào, và cũng mất dần cảm hứng trong tôi muốn tìm hiểu về đạo.


Cho đến một hôm, tôi đã ngộ ra rất nhiều điều kỳ lạ và thú vị, tôi được tham dự một Thánh Lễ ngày chúa nhật và được nghe bài chia sẻ về danh xưng “Tôi là người có đạo” do một vị linh mục khá đứng tuổi chia sẻ, mà theo cảm nghĩ của tôi, đó cũng là một lời dặn dò cho những công dân nước Chúa rằng, điểm nổi bật nói cho đúng hơn là một tôn chỉ của “người có đạo” để mọi người nhận biết và công nhận, đó là: “Bác ái là đồng phục của người có đạo”, được thể hiện qua thái độ, cử chỉ, hành vi ứng xử trong đời sống hàng ngày với tha nhân, lời nói luôn nhã nhặn, hành động trong yêu thương vô vị lợi và chân thành. Sống như thế sẽ gặt hái được sự bình an, sống như thế là sống cho tình yêu.

Dần dần tôi hiểu rằng có một Đấng Tạo Hóa và thầm biết ơn Đấng đã sáng lập ra đạo Công Giáo, trong tôi đã mất hết những suy nghĩ nông cạn hời hợt trước kia và tôi đã tự nguyện tìm hiểu, học đạo, theo đạo và cố gắng sống theo những tôn chỉ và giáo huấn của đạo mà tôi đã được học.

Và một ngày gần đây trong một Thánh Lễ tôi lại nghe giảng về một chứng nhân là một nữ giáo viên trẻ rất đáng quý. Vị linh mục đã kể lại rằng ngày cô giáo đó được tuyên dương vì những thành tích mà cô đã làm với một tấm lòng của “người có đạo”. Tuy nhiên, người ta không nhìn nhận điều đó trong cái bằng tuyên dương, người ta tự ý điền vào là vì cô đã noi gương một vị lãnh tụ vĩ đại xa xăm nào đó mà cô chưa bao giờ biết, nên bây giờ cô mới được như vậy. Và khi nhận và đọc nội dung của tấm bằng, cô đã can đảm nói lên sự thật rằng. Cô đã sống và làm việc thế nào để có được một kết quả như ngày hôm nay, là do cô được sinh ra và giáo dục trong một gia đình có nền tảng đạo đức và một niềm tin tôn giáo mà cô đã được lãnh nhận từ bé, chứ cô không hề biết vị lãnh tụ nào cả, thì làm sao cô giáo ấy có thể học tập và noi gương. Và nếu cần thì cô sẵn sàng trả lại cái bằng tuyên dương của cấp trên tặng thưởng cho cô.

Rồi có một lần trong một buổi đi uống cà phê với những bậc đàn anh, đàn chị, họ cũng là những “người có đạo”. Có một anh là giáo viên dạy toán cấp ba. Anh là một người được nhiều người cán bộ nhà nước nể phục vì tính trung thực và thẳng thắng. Anh đã thẳng thừng từ chối khi biết người ta đã dùng tài sản của một người khác để cấp cho mình.

Rồi hôm nay khi tôi đi lễ như mọi ngày ở Giáo Xứ Ba Chuông lại được biết thêm một chứng nhân nữa, mà theo tôi là rất tuyệt vời. Người này là một người con duy nhất trong gia đình. Ngày ông chọn Chúa là tình yêu duy nhất và để sống trọn vẹn với tình yêu mình, ông đã dám hy sinh dứt bỏ cha mẹ, nhưng vốn là một người con hiếu thảo, ông vẫn tìm mọi cách để báo đáp chữ “Hiếu” cho trọn.

Chứng nhân ấy là một linh mục, ngài tên là Giuse Đỗ Văn Chung thuộc dòng Đa Minh. Ngài đã được thụ phong linh mục từ lâu và được bổ nhiệm sang Houston – Texas – Hoa Kỳ, ngài cũng đã ổn định nơi quê người cuộc đời dâng hiến. Tôi đã nghe từ những người giáo dân trong xứ nói lại rằng, tuy đã yên ổn nhưng ngài vẫn muốn dấn thân phục vụ nên đã xin bề trên về lại quê nhà phục vụ cho con cái Chúa. Nguyện vọng của ngài đã được chấp thuận, ngài đã trở lại quê nhà. Cách đây hơn một tuần, trên đường từ nhà mẹ ngài đi ra thì ngài đã bị một cậu bé 17 tuổi không kiểm soát được tốc độ gây tai nạn nghiêm trọng cho ngài. Ngài bị hoại tử ở chân và phải cưa mất một chân, sau một thời gian ngắn bất tỉnh từ khi xảy ra tai nạn, ngài đã hồi tỉnh và chính ngài đã nói lên lời tha thứ cho cậu bé và ngài đã căn dặn người thân của ngài không được làm khó hay thưa kiện cậu bé và gia đình cậu bé đó. Sau khi ngài nói và truyền đạt lại nguyện vọng của mình thì ngài đã ra đi trong bình an, để trở về với Chúa.

“Người có đạo” như thế đó, họ thật đơn sơ, thật can đảm, thật trung thực, dám sống thật với chính mình, trong họ có một tấm lòng rộng mở, sống bác ái và vị tha, họ đã tha thứ ngay cho cả người đã làm thiệt chính mạng sống của mình. Họ dám thẳng thừng từ chối danh vọng, bổng lộc khi biết chút danh vọng đó không trong sáng, nguồn bổng lộc đó lỗi đức công bằng và yêu thương.

Nếu là người chưa có đạo, chưa có niềm tin và sống theo lẽ thường tình của con người thì tôi sẽ phán cho những con “người có đạo” này có vấn đề về thần kinh.

– Ai lại dại dột chối bỏ những lời khen của cấp trên, để có thể bị nguy hại tới đường công danh và sự nghiệp?

– Ai lại khờ khạo dám khước từ một tài sản lớn, khi mà chính cuộc sống mình đang gặp khó khăn?

– Ai lại rộng lượng để nói lên lời tha thứ vô điều kiện cho một kẻ đã hủy diệt mơ ước, nguyện vọng  và đến ngay cả mạng sống  của mình?

Vâng, “Người có đạo” như thế đó, điều đặc biệt là trong họ có một niềm tin rất mạnh mẽ, họ luôn khắc tâm rằng họ được ơn bảo trợ rất tràn đầy. Đó là những điều tôi đã cảm nhận được nơi họ, đã chứng kiến tận mắt, đã củng cố trong tôi một niềm tin ngập tràn niềm vui là mối tương quan giữa họ và tôi giờ đây không còn như người xa lạ, mà là thật gần gũi trong mối tương quan là anh chị em, con cái của một Cha chung trên trời.

Cho tới hôm nay và cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời, tôi thấy mình thật sung sướng khi chọn Đạo Công Giáo là tôn giáo của mình, giáo huấn của đạo là kim chỉ nam của cuộc đời tôi. Từ ngày tôi được trở thành “người có đạo” tôi thấy mình thật bình an và hạnh phúc. Vì tôi nhận ra giá trị đích thực của cuộc đời là biết cách sống cho đúng với hai chữ “Tình Yêu”.

Còn các bạn, nghĩ thế nào về đạo Công Giáo? Tôi tin rằng, nếu các bạn có thiện chí đi tìm, các bạn cũng sẽ gặp và sẽ thấy được nhiều điều thú vị hơn nữa.

Xin hiệp ý cầu nguyện cho linh hồn linh mục Giuse sớm được hưởng kiến nhan Thánh Chúa.


Sàigon, ngày 27 tháng 9 năm 2013

Maria Túc Lynh

Tôi nhận ra giá trị đích thực của cuộc đời là biết cách sống cho đúng với hai chữ “Tình Yêu”. Maria Túc Lynh

Hai khuôn mặt trái ngược nhau

Hai khuôn mặt trái ngược nhau

(Trích dẫn từ ‘Manna’ – Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu)

Suy Niệm

Dụ ngôn cho ta thấy hai khuôn mặt trái ngược nhau: một ông nhà giàu dư ăn dư mặc, một anh nhà nghèo bệnh tật nằm đói lả, không đủ sức xua đuổi những con chó đến quấy rầy.

Hai người ở gần nhau, chỉ cách nhau một cái cổng vẫn thường khép, nhưng lại thật xa nhau. Ông nhà giàu biết mặt, biết tên anh nhà nghèo, nhưng ông chẳng mảy may quan tâm, vì ông bận tổ chức tiệc tùng và mời quan khách.

Ladarô đã chết trong cảnh đói nghèo và bệnh tật. Ông nhà giàu cũng chết. Cái chết đồng đều cho mọi người, nhưng số phận sau cái chết lại khác nhau.

Không phải chỉ vì giàu mà ông nhà giàu bị phạt, nhưng vì ông đã khép cửa và khép lòng, đã ung dung hưởng thụ quyền sở hữu “hợp pháp”, đã không chấp nhận chia sẻ điều mình có dư thừa. Ông nhà giàu hẳn đã thấy Ladarô, nhưng đã sống như thể không có anh ta, vì ông loay hoay vun quén cho hạnh phúc của mình.

Không phải chỉ vì nghèo mà anh nhà nghèo được thưởng, được hạnh phúc ngồi trong lòng tổ phụ Abraham, nhưng vì anh chấp nhận số phận hẩm hiu của mình, và trông cậy vào sự trợ giúp của Thiên Chúa. Thế giới văn minh lại càng đào sâu hố ngăn cách giữa nước giàu và nước nghèo, giữa thiểu số người giàu và đa số người nghèo.

Chính tôi cũng giàu về một mặt nào đó: giàu trí tuệ, giàu bạn bè, giàu thế lực, giàu chỗ đứng trong xã hội, giàu đời sống thiêng liêng.

Hố sâu chỉ được lấp đầy bằng cách mở tung cánh cửa yêu thương và chia sẻ, nhìn nhận tài nguyên thế giới là của mọi người, nhìn nhận quyền sống của từng người, sống như một nhân vị, sống như con cái Thiên Chúa, sống như anh chị em tôi.

Mỗi người chúng ta đều có một Ladarô chờ ngoài cửa, nếu chúng ta mở cửa và mời người đó đồng bàn, thì chúng ta sẽ trở nên người giàu có thực sự, và trưởng thành viên mãn trong nhân cách.

Dù người chết hiện về, dù kẻ chết sống lại cũng chẳng làm chúng ta hết chai đá. Chỉ Lời Chúa mới khiến chúng ta sám hối ăn năn, mở lòng trước tha nhân và Thiên Chúa (x. 1Ga 3,17).

Lạy Chúa, xin cho con nhìn thấy những người nghèo ở quanh con, ở trong gia đình con, đang cần đến con. Bất cứ ai đang cần đến con đều là người nghèo, xin cho con thấy Chúa trong họ.

Dần dần con hiểu rằng cả người giàu cũng nghèo, nghèo vì cần thấy đời họ có ý nghĩa.

Dần dần con chấp nhận rằng cả bản thân mình cũng nghèo và cần đến người khác.

Lắm khi con cần một nụ cười, một ánh mắt, một lời thăm hỏi đỡ nâng.

Cám ơn Chúa vì đã dựng nên chúng con ai cũng nghèo về một mặt nào đó và ai cũng cần đến người khác. Như thế là chúng con được mời gọi sống cho nhau, làm cho nhau thêm giàu có.

Cám ơn Chúa vì Chúa cũng nghèo, vì Chúa rất cần đến chúng con để hoàn thành công trình cứu độ.

Xin cho con khiêm tốn nhận mình nghèo để nhận lãnh, can đảm nhận mình giàu để hiến trao. Amen.

Ý Nghĩa Sự Sống

Ý Nghĩa Sự Sống

Cô Eve Lavallière là một kịch sĩ nổi tiếng của Pháp ở thế kỷ 19-20.  Cô có tất cả mọi thứ mà bất cứ người nào trong xã hội thời bấy giờ đều ước mơ:  giàu sang, danh vọng, sắc đẹp, nhiều người mến mộ tôn thờ…

Cô diễn kịch cho bao nhiêu người từ vua, quan, hoàng hậu cho đến người dân … bao giờ cũng thành công.  Thế nhưng, lúc nào cô cũng cảm thấy chán nản, cô đơn cùng cực, mặc dù chung quanh cô có không biết bao nhiêu người đàn ông và những bữa tiệc sang trọng….  Đã ba lần cô có ý định tự tử, nhưng đến giờ phút chót thì cô thoát được.

Chuyện xảy ra sau một buổi trình diễn, cô từ chối hết mọi lời mời ăn chơi và đi lang thang về phía sông Seine.  Nhìn xuống dòng sông ban đêm có những bóng đốm sáng của ánh điện xa xa, cô quyết định gieo mình xuống tự tử.  Đúng lúc đó, một cánh tay lực lưỡng nắm vai cô kéo lại.

Một giọng đàn ông ấm áp nhỏ nhẹ bên tai:  “Này cô, cái chết không giải quyết được gi đâu.”

Lavallière thẫn thờ quay lại nhìn người vừa ngăn cản ý định của mình.  Ánh sáng của đèn đường rọi vào mặt cô gái.  Người đàn ông kinh ngạc nhận ra cô kịch sĩ nổi tiếng.

Ông kêu lên:  “Kìa cô Lavallière, sao thế?  Có chuyện gì vậy?  Cô không biết rằng buổi trình diễn nào của cô cũng có mặt hai vợ chồng chúng tôi sao?  Cô không muốn chúng tôi thưởng thức tài nghệ của cô và cô không muốn nhận sự ngưỡng mộ của chúng tôi ư?”

Lavallière đáp lại những câu hỏi tới tấp của người đàn ông bằng một câu ngắn gọn:  “Vậy mà tôi đã tưởng mình cho mà chẳng nhận được gì.”

Sau biến cố đó, Lavallière đi nghỉ hè ở một ngôi làng nhỏ tại Pháp.  Nơi đây cô gặp một linh mục, ngài mời cô đến tham dự Thánh Lễ.  Cô không biết rằng Chúa đang chờ đợi cô ở đây.  Vị linh mục đưa cho Lavallière một quyển sách nói về thánh nữ Maria Mađalena, người được Đức Giêsu chữa khỏi bẩy quỷ.  Cô đọc say sưa… và thật lạ lùng… với tâm hồn thống hối chân thật, cô xin trở lại và được nhận lãnh các Bí Tích.  Tại nhà nguyện ở Chanceaux, ngay tại lối vào người ta đọc được những lời sau đây khắc trên đá: “Tại nhà nguyện này, Eve Lavallière đã trở lại và lãnh nhận Bí Tích Mình Máu Thánh Chúa ngày 19 tháng Sáu năm 1917, được ban bởi linh mục Chesteigner.”

Kể từ ngày đó, Lavallière dứt bỏ đời sống cũ, bán gia tài bố thí cho người nghèo, bỏ trang điểm, gia nhập Dòng Ba Phanxicô, tận hiến cho đời sống cầu nguyện và tham gia những công việc bác ái.  Lúc đó Lavallière được 51 tuổi.  Mười hai năm sau, Lavallière mắc một chứng bệnh sốt hiếm lạ của miền Bắc Phi-châu và ngã bệnh nặng.  Cô qua đời năm 1929, thọ 63 tuổi, trong tấm gương thơm thánh thiện.

Cô Lavallière đi tìm cái chết vì cô không tìm thấy tình liên đới, vì cô không biết rằng một cuộc sống có ý nghĩa là một cuộc sống mà con người phải sống với người khác và sống cho người khác.

Sau khi thức tỉnh khỏi cơn mê đắm tội lỗi, Lavallière đã tìm được cho mình ý nghĩa của cuộc sống qua những nghĩa cử quảng đại yêu thương mà Chúa đã mời gọi cô thực thi.

Tổng Hợp từ bài của Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài

From: ThiênKim &

Nguyễn Kim Bằng gởi

5 Chiếc Bánh Và 2 Con Cá (bài 3)

6. Con cá thứ nhất:

Mẹ Maria, mối tình đầu của tôi

Tôi trao phó cho Mẹ Maria… những hy vọng, những mong đợi của các bạn trẻ khắp hang cùng ngỏ hẻm của hành trình, đang lặp lại lời của Mẹ: “Này tôi là tớ nữ Thiên Chúa. Tôi xin vâng như lời thiên thần truyền” (Lc 1, 38) … Các bạn sẵn sàng loan báo cho những người trẻ cùng lứa tuổi với mình, như các tông đồ đã làm: “Chúng tôi đã gặp Ðấng Thiên Sai!” ( Ga 1, 41). (Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 10)

“Mẹ Maria Vô Nhiễm là mối tình đầu của tôi”, câu nói đó là của thánh Gioan Maria Vianney, cha xứ Ars, tôi đã đọc trong sách của cha Francois Erochu, hồi tôi còn ở tiểu chủng viện.

Mẹ tôi đã đổ vào tim tôi lòng kính mến Ðức Mẹ, từ tuổi ấu thơ. Bà nội tôi, mỗi buổi tối, lúc gia đình đọc kinh xong rồi, bà còn ngồi lần thêm một tràng hạt. Tôi hỏi bà, bà đáp:

– Mệ lần một chuỗi cầu nguyện cho các cha.

Bà tôi không biết đọc biết viết, nhưng chính những người bà, người mẹ như thế, đã vun trồng hát giống ơn thiên triệu trong lòng chúng tôi.

Ðức Maria có một vai trò đặc biệt trong đời tôi. Tôi đã bị bắt ngày lễ Ðức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, 15 tháng 8 năm 1975. Tôi ra đi với hai tay không, trong túi không có gì cả, ngoại trừ một tràng hạt, và tôi đi bình an. Mẹ tôi đã dạy tôi như vậy từ thuở bé. Ðêm ấy trên tuyến đường dài 450 km, tôi đã đọc không biết bao nhiêu lần kinh “Hãy Nhớ”.

Các bạn hỏi tôi, Ðức Mẹ đã giúp tôi vượt bao thử thách trong đời tôi thế nào. Tôi sẽ thuật lại cho các bạn một vài chuyện đang còn tươi rói trong ký ức tôi. Lúc còn là một linh mục du học ở Rôma, tháng 9 năm 1957, tôi đi Lộ Ðức để cầu nguyện với Ðức Mẹ. Quỳ trước hang đá, nhìn lên tượng Mẹ, tôi nghe như Ðức Mẹ nói với tôi như đã nói với thánh nữ Bernadette:

– Benadette, Mẹ không hứa cho con hân hoan và an ủi ở trần gian này, nhưng hứa đau khổ và thử thách.

Tôi run sợ, nhưng tôi chấp nhận và phó thác trong tay Mẹ. Tôi tiếp tục học hành thi cử, và trở về Việt Nam, làm giáo sư, Giám đốc tiểu chủng viện Hoan-Thiện, Tổng đại diện, Giám mục Giáo phận Nha Trang năm 1967. Cám ơn Chúa, công việc mục vụ của tôi nói được là thành công.

Tôi trở lại Lộ Ðức nhiều lần và nhiều lần tôi tự hỏi: “Có lẽ lời Ðức Mẹ đã nói với thánh Bernadette không phải Mẹ cũng nhắc lại với tôi?” Thánh giá bổn phận của tôi không đến nỗi quá nặng, dù sao tôi sẵn sàng chấp nhận thánh ý Chúa.

Tiếp đến mùa hè 1975, tôi bị bắt, bị cầm tù, ở trại cải tạo, bị biệt giam… hơn 13 năm gian truân! Bấy giờ, tôi mới hiểu Ðức Mẹ đã muốn chuẩn bị cho tôi từ 1957: “Mẹ không hứa cho con hân hoan và an ủi ở trần gian này, nhưng hứa đau khổ và thử thách”. Mỗi ngày tôi càng hiểu thâm thúy hơn ý nghĩa của sứ điệp ấy và tôi phó mình trong tay Mẹ.

Lúc những khổ đau thể xác và tinh thần trở nên quá nặng nề, tôi không đọc kinh nổi, tôi chỉ lặp đi lặp lại “Ave Maria”, không biết bao nhiêu lần mỗi ngày: “Lạy Mẹ, con quá yếu nhược, con không đọc kinh nổi nữa, con chỉ biết dâng lên Mẹ muôn vàn “Ave Maria”, xin Mẹ ban phát cho giáo dân của con, cho mọi người, cho toàn thể Hội thánh đang cần đến lòng thương xót của Mẹ. Tất cả với Mẹ, vì Mẹ và trong Mẹ”.

Không những tôi cầu xin Mẹ ban ơn, nhưng tôi năng thưa với Mẹ: “Lạy Mẹ, con có thể làm gì giúp Mẹ được? Con sẵn sàng theo lệnh Mẹ, chịu đựng tất cả, làm tất cả vì “Nước Chúa Giêsu, con Mẹ”.” Lúc ấy, tuy ở giữa gian lao, tôi cảm thấy hết lo sợ và bình an.

Lúc nào cầu nguyện với Mẹ Maria, tôi không thể quên thánh Giuse bạn trinh khiết của Mẹ. Vì đó là một nguyện ước của Chúa Giêsu và Mẹ. Thánh Giuse là người được Chúa Giêsu và Mẹ yêu mến cách đặc biệt nhất. Mẹ tôi đã dạy cho tôi điều này.

Mẹ Maria Vô nhiễm không bỏ quên tôi. Mẹ đã sát cánh tôi dọc đường gập ghềnh đen tối của lao tù. Trong những năm tháng thử thách triền miên ấy, tôi đã cầu xin Mẹ cách đơn sơ mà đầy tin tưởng cậy trông: “Lạy Mẹ, nếu Mẹ biết con không thể làm ích gì để phục vụ Hội thánh nữa thì xin Mẹ cho con đặc ân được chết trong tù, để hy sinh trọn vẹn. Ngược lại nếu Mẹ biết con còn phục vụ Hội thánh được, xin Mẹ cho con một dấu chỉ : ra khỏi tù trong một ngày lễ của Mẹ!”

Một hôm trời mưa, tôi đang thổi cơm trưa, tôi nghe điện thoại của chiến sĩ trực reo. “Biết đâu có tin gì cho tôi? Ðúng rồi, bữa nay là lễ Ðức Mẹ dâng mình vào đền thánh, 21 tháng 11 mà!”

Năm phút sau, anh chiến sĩ trực đến:

– Ông Thuận ơi, ông ăn chưa?

– Chưa ạ, tôi đang thổi cơm đây.

– Ăn xong, ăn mặc sạch sẽ, đi gặp lãnh đạo.

– Lãnh đạo là vị nào vậy?

– Tôi không biết, tôi chỉ được báo thế. Chúc ông may mắn.

Tôi đã được đưa đến nhà khách chính phủ, bên hồ Ha-le, và tôi đã gặp ông Mai Chí Thọ, Bộ trưởng Nội vụ (Bộ công an). Sau lời chào hỏi xã giao, ông Bộ trưởng đã hỏi:

– Ông có nguyện vọng gì không?

– Thưa có, tôi muốn được tự do.

– Bao giờ?

– Hôm nay.

Ông Bộ trưởng có vẻ ngạc nhiên, thường tình phải có thời gian cho cơ quan nhà nước xếp đặt… Nhưng hôm nay là lễ Ðức Mẹ nên tôi tin chắc và xin như vậy. Ðể đánh tan bầu khí lúng túng và ngạc nhiên ấy, tôi nói:

– Thưa ông Bộ trưởng, tôi ở tù lâu lắm, suốt ba đời Giáo hoàng: Phaolô VI, Gioan Phaolô I, và Gioan Phaolô II. Về phía xã hội chủ nghĩa thì tôi đã ở tù bốn đời Tổng Bí thư Liên Xô: Brezhnev, Andropov, Chernenko, và Gorbachev.

Ông Bộ trưởng bật cười và nói:

– Ðúng! đúng!

Ông quay qua bảo người bí thư:

– Hãy liệu đáp ứng nguyện vọng của ông.

Trong lòng tôi vui mừng tạ ơn Ðức Mẹ Maria, vì không những được tự do mà còn được cả dấu chỉ. Chắc Mẹ tha tội tôi cả gan thách đố Mẹ.

Các bạn hỏi tôi về vai trò của Mẹ Maria trong đời tôi, đặc biệt là sự chọn lựa triệt để theo Chúa Giêsu?

Tôi cảm nghiệm rằng, trên Thánh giá, Chúa Giêsu đã bảo thánh Gioan: “Ðây là Mẹ con!” (Ga 19, 29). Sau phép Thánh Thể thì Chúa Giêsu không thể để lại cho loài người sự gì cao quý hơn chính Mẹ của Ngài.

Ðức Mẹ với tôi là một cuốn Phúc âm sống, loại bỏ túi, phổ biến rộng rãi nhất, dễ hiểu nhất, dễ thương nhất.

Ðức Mẹ là Mẹ của Chúa Giêsu, chính Ngài trối Mẹ lại cho tôi. Chính điều này cho tôi thấy sự hiệp nhất giữa Mẹ Maria, Chúa Giêsu và tôi. Mỗi khi dâng thánh lễ, đọc lời truyền phép, tôi cảm thấy tôi là con Ðức Mẹ hơn cả, vì tôi hiệp nhất với Chúa Giêsu.

Ðức Mẹ không những lo lắng cho Chúa Giêsu mà còn lưu tâm giúp đỡ bà Isave, thánh Gioan, đôi tân hôn ở làng Cana… mọi người, toàn thể Hội thánh.

Tôi rất thích câu nói của thánh nữ Têrêxa Hài Ðồng: “Tôi muốn làm linh mục để giảng về Ðức Mẹ”. Cuộc đời Mẹ Maria có thể tóm gọn trong ba tiếng: “Ecce, Fiat, Magnificat”.

“Này tôi là tớ nữ của Thiên Chúa” (Lc 1, 38).

“Tôi xin vâng như lời thiên thần truyền cho tôi”… (Lc 1, 38).

“Linh hồn tôi ngợi khen Chúa”… (Lc 1, 46).

Biệt giam tại Hà Nội,

1-1-1986,

Lễ Ðức Maria Mẹ Thiên Chúa.

7. Con cá thứ hai:

Tôi chọn Chúa

Các bạn trẻ hôm nay,

Các bạn được mời gọi để đón nhận một sứ điệp, và lớn tiếng loan báo sứ điệp ấy cho bạn bè cùng lứa tuổi:

“Loài người được Thiên Chúa yêu thương!

Thiên Chúa yêu thương con người vô hạn!

Ðó là sứ điệp đơn giản nhất,

Mà Hội thánh có nhiệm vụ chuyển đến cho nhân loại”.

(Tông huấn “Người tín hữu giáo dân”, số 34,

trích lại trong Sứ điệp NQTGT XII, số 9)

Các bạn trẻ thân mến,

Tôi đã chia sẻ với các bạn kinh nghiệm sống của tôi trên bước đường theo Chúa Giêsu, để gặp Ngài, sống bên Ngài, để rồi ra đi, mang sứ điệp của Ngài cho mọi người.

Các bạn hỏi tôi: “Làm sao thực hiện được sự kết hiệp với Chúa Giêsu cách toàn vẹn trong một cuộc sống lắm biến động trong cũng như ngoài?” Tôi đã không giấu giếm các bạn, tôi đã viết ra trong sách “Ðường Hy Vọng”.

Trong đời tôi, giai đoạn gian lao nhất là thời gian hơn mười ba năm lao tù. Với cuốn “Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá” này, tôi đã chia sẻ với các bạn, làm sao Chúa đã giúp tôi vượt qua mọi khó khăn và sống đến ngày nay. “Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá” là lương thực nuôi đời sống thiêng liêng của tôi. Nhiều bạn muốn tôi nói rõ ràng chi tiết của bí quyết theo Chúa Giêsu đến cùng cách vững vàng. Tôi xin các bạn hãy nhìn lên 24 ngôi sao đang chiếu sáng con đường hy vọng của các bạn. Dưới đây, bạn lưu ý sẽ thấy đánh số phía tay phải, từ số 1 đến số 24. Tôi muốn cho 24 số đối lại với 24 giờ trong ngày. Rất thực tế, nếu ta sống 24 giờ trên 24 hoàn toàn theo Chúa Giêsu, chúng ta sẽ làm thánh.

Trong 24 số ấy, tôi nhắc đến tiếng “một” 24 lần. Ví dụ, một cuộc cách mạng, một chiến dịch, một đường lối tông đồ, một khẩu hiệu, v.v… một là cao quí nhất.

Ðó là 24 ngôi sao, tôi không cần phải giải thích, tôi mời các bạn bình tĩnh suy niệm các tư tưởng ấy, như chính Chúa Giêsu dịu dàng nói với bạn, thân mật lòng bên lòng. Bạn đừng sợ nghe Ngài, nói với Ngài. Bạn đừng ngần ngại, mỗi tuần bạn hãy đọc lại một lần. Bạn sẽ thấy ơn thánh tỏa sáng ra và biến đổi cả đời bạn.

Thời gian ở biệt giam, mỗi năm mấy lần tôi nhận thư mẹ hoặc em tôi. Nhưng đặc biệt một hôm tôi được thư của bà Chiara Lubich, người sáng lập Phong trào Focolare (Bác ái Hiệp nhất). Lạ lùng thật, tôi hay nhớ một câu bà nói: “Tôi không nghĩ đến việc lôi kéo ai theo tôi; tôi chỉ biết hết lòng theo Chúa Giêsu, rồi người khác sẽ theo tôi”.

Hai mươi bốn ngôi sao

1* Con muốn thực hiện một cuộc cách mạng: canh tân thế giới. Hoài bảo lớn lao đó, sứ mệnh cao đẹp đó, Chúa trao cho con; con thi hành với “quyền lực Chúa Thánh Thần”. Mỗi ngày con chuẩn bị lễ Hiện Xuống mới quanh con.

2* Con xúc tiến một chiến dịch: làm cho mọi người hạnh phúc. Con hy sinh mình từng giây phút với Chúa Giêsu, để đem an bình trong tâm hồn, phát triển thịnh vượng cho các dân tộc. Ðường lối tu đức thầm kín và thiết thực!

3* Con nắm vững một đường lối tông đồ: “Thí mạng vì anh em“, vì không có tình yêu nào lớn lao hơn (x. Ga 15, 13). Con hao mòn từng giây phút và sẵn sàng tiêu hao để chinh phục anh em về với Chúa.

4* Con hô một khẩu hiệu: “Tất cả hiệp nhất“, hiệp nhất giữa các người Công giáo, hiệp nhất giữa các Kitô hữu, hiệp nhất giữa các dân tộc. Như Chúa Cha và Chúa con là một (x. Ga 17, 22-23).

5* Con tin một sức mạnh: Thánh Thể. Thịt máu Chúa sẽ làm cho con sống, “Ta đã đến, là để chúng được có sự sống và có một cách dồi dào” (Ga 10, 10). Như manna nuôi dân Do Thái đi đường về Ðất hứa, Thánh Thể sẽ nuôi con đi cùng đường Hy vọng (x. Ga 6, 53).

6* Con mang một đồng phục, nói một ngôn ngữ: Bác ái. Bác ái là chứng tích để biết con là môn đệ Chúa (x. Ga 13, 35), là dấu hiệu rẻ mà khó kiếm nhất. Bác ái là sinh ngữ số một mà thánh Phaolô cho là cao trọng hơn tiếng nói của loài người và các thiên thần, là ngôn ngữ độc nhất sẽ tồn tại trên thiên đàng (x. 1 Cor 13, 1).

7* Con nắm một bí quyết: Cầu nguyện. Không ai mạnh bằng người cầu nguyện, vì Chúa đã hứa ban tất cả. Khi các con hiệp nhau cầu nguyện có Chúa ở giữa các con (x. Mt 18, 20). Cha tha thiết khuyên con ngoài giờ kinh, hãy cầu nguyện mỗi ngày tối thiểu một giờ, nếu được hai giờ càng tốt. Không phải là mất mát vô ích đâu! Trên quãng đường cha đi, cha đã thấy lời thánh Têrêxa Avila ứng nghiệm: “Ai không cầu nguyện, không cần ma quỉ lôi kéo, sẽ tự mình sa xuống hỏa ngục”.

8* Con giữ một nội qui: Phúc âm. Ðó là hiến pháp trên tất cả mọi hiến pháp, là hiến pháp Chúa Giêsu đã để lại cho các tông đồ (x. Mt 4, 23). Hiến pháp ấy không khó khăn, phức tạp, gò bó như các hiến pháp khác; ngược lại, linh động, nhân hậu, làm phấn khởi tâm hồn con. Một vị thánh ngoài Phúc âm là “thánh giả”.

9* Con trung thành theo một vị lãnh đạo là Chúa Kitô và đại diện của Ngài: Ðức Giáo Hoàng, các Giám mục, kế vị các thánh tông đồ (x. Ga 20, 22-23). Hãy sống và chết vì Hội thánh như Chúa Kitô. Ðừng nghĩ chết vì Hội thánh mới hy sinh. Sống vì Hội thánh cũng đòi hỏi nhiều hy sinh.

10* Con có một tình yêu: Mẹ Maria. Thánh Gioan Maria Vianney đã nói: “Mối tình đầu của tôi là Mẹ Maria”. Nghe Mẹ sẽ không lầm lạc, hoạt động vì Mẹ sẽ không thất bại, làm vinh quang Mẹ sẽ được sống đời đời.

11* Con có một sự khôn ngoan: Khoa học Thánh giá (x. 1 Cor 2, 2). Nhìn Chúa Giêsu trên thánh giá, con giải quyết ngay được vấn đề đang khiến con xao xuyến. Thánh giá là tiêu chuẩn để chọn lựa và quyết định, tâm hồn con sẽ bình an.

12* Con có một lý tưởng: Hướng về Chúa Cha, một người Cha đầy yêu thương. Cả cuộc đời Chúa Giêsu, mọi tư tưởng, hành động đều nhắm một hướng: “Ðể cho thế gian biết là Ta yêu mến Cha, và như Cha truyền dạy Ta sao, Ta làm như vậy” (Ga 14, 31), “Ta hằng làm những sự đẹp lòng Người” (Ga 8, 29).

13* Con chỉ có một mối lo sợ: Tội lỗi. Triều đình hoàng đế Hy Lạp đã nhóm họp để bàn cách trả thù thánh Gioan Kim Khẩu bởi ngài đã khẳng thắn khiển trách bà hoàng hậu.

Kế hoạch I: Bỏ tù. Nhưng ông ấy sẽ được dịp cầu nguyện, chịu khó vì Chúa như ông hằng mong muốn.

Kế hoạch I: Lưu đày. Nhưng đối với ông ấy, đâu cũng là đất Chúa.

Kế hoach III: Tử hình. Ông sẽ được tử đạo, chúng ta sẽ thỏa mãn nguyện vọng của ông: được về với Chúa.

Tất cả kế hoạch I, II, III, không làm cho ông khổ đau, ngược lại ông sẽ vui sướng chấp nhận.

Kế hoạch IV: Chỉ có một điều ông khiếp sợ nhất, gớm ghét nhất là tội lỗi, nhưng bắt ông phạm không được.

Nếu con chỉ sợ tội, thì không ai mạnh hơn con.

14* Con ôm ấp một ước nguyện: “Nước Cha trị đến, ý Cha được thành sự, dưới đất cũng như trên trời” (Mt 6, 10). Dưới đất lương dân biết Chúa như trên trời. Dưới đất mọi người khởi sự yêu nhau như trên trời. Dưới đất đã bắt đầu hạnh phúc như trên trời. Con sẽ nỗ lực thực hiện nguyện vọng ấy. Khởi sự đem hạnh phúc thiên đàng cho mọi người ngay từ trần thế.

15* Con chỉ thiếu một điều: “Có gì đem bán mà cho kẻ khó, và ngươi sẽ có một kho tàng trên trời, đoạn hãy đến theo Ta!” (Mt 10, 21), nghĩa là con phải dứt khoát. Chúa cần hạng tình nguyện thoát ly!

16* Con dùng một phương pháp tông đồ hữu hiệu: tiếp xúc để hòa mình, nhập thể với mọi người để hiểu, để nghe, để yêu mọi người. Tiếp xúc hữu hiệu hơn giảng, hơn viết sách. Tiếp xúc giữa người với người, lòng bên lòng, bí quyết bền đỗ, bí quyết thành công.

17* Con chỉ có một việc quan trọng nhất, Maria đã chọn phần tốt nhất: “Ngồi bên Chúa” (x. Lc 10, 41-42). Nếu con không sống nội tâm, nếu Chúa Giêsu không phải là linh hồn các hoạt động của con thì … Con thấy nhiều, hiểu nhiều rồi, cha miễn nói.

18* Con chỉ có một của ăn: “Thánh ý Chúa Cha” (x. Ga 4, 34), nghĩa là con sống, con lớn lên bằng ý Chúa, con hành động do ý Chúa. Ý Chúa như thức ăn làm con sống mạnh, vui; ngoài ý Chúa con chết.

19* Con chỉ có một giây phút đẹp nhất: Giây phút hiện tại (x. Mt 6, 34; Gc 4, 13-15). Sống tron tình yêu Chúa cách trọn vẹn, đời con sẽ tuyệt đẹp nếu kết tinh bằng từng triệu giây phút đẹp nhất. Con thấy đơn sơ, không phải khó!

20* Con chỉ có một tuyên ngôn: “Phúc thật tám mối“. Trên núi, Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Bát phúc” (x. Mt 5, 3-12). Hãy sống như vậy, con sẽ nếm được hạnh phúc rồi rao truyền cho mọi người con gặp.

21* Con chỉ có một công việc quan trọng: Bổn phận, không kể lớn hay nhỏ, vì lúc ấy “con làm việc của Cha con” trên trời. Ngài chỉ định cho con thực hiện chương trình của Ngài trong lịch sử (x. Lc 2, 49; Ga 17, 4). Làm bổn phận là đường lối tu đức chắc chắn nhất. Nhiều người bày vẽ một lối tu đức rắc rối, rồi phàn nàn là khó!

22* Con chỉ có một cách nên thánh: Ơn Chúa và ý chí con (x. 1 Cor 15, 10). Chúa không bao giờ thiếu ơn; con có đủ ý chí không?

23* Con chỉ có một phần thưởng: Thiên Chúa (x. Mt 25, 21, 23; 2 Tim 4, 7-8; Kh 2, 26-28; 3, 21-22). Khi Chúa hỏi Tôma Aquinô: “Con viết rất đúng về Ta, con muốn phần thưởng nào? – “Con chỉ muốn Chúa!”

24* Con có một Tổ Quốc.

Tiếng chuông ngân trầm,

Việt Nam nguyện cầu.

Tiếng chuông não nùng,

Viêt Nam buồn thảm.

Tiếng chuông vang lừng,

Việt Nam khởi hoàn.

Tiếng chuông thanh thoát,

Việt Nam hy vọng.

Con có một tổ quốc: Việt Nam,

Quê hương yêu quí ngàn đời.

Con hãnh diện, con vui sướng.

Con yêu non sông gấm vóc,

Con yêu lịch sử vẻ vang,

Con yêu đồng bào cần mẫn,

Con yêu chiến sĩ hào hùng.

Sông cuồn cuộn máu chảy cuộn hơn.

Núi cao cao, xương chất cao hơn.

Ðất tuy hẹp nhưng chí lớn.

Nước tuy nhỏ, nhưng danh vang.

Con phục vụ hết tâm hồn,

Con trung thành hết nhiệt huyết.

Con bảo vệ bằng xương máu,

Con xây dựng bằng tim óc.

Vui niềm vui đồng bào,

Buồn nỗi buồn của dân tộc.

Một nước Việt Nam,

Một dân tộc Việt Nam,

Một tâm hồn Việt Nam,

Một văn hóa Việt Nam,

Một truyền thống Việt Nam.

Là người Công giáo Việt Nam

Con phải yêu Tổ quốc gấp bội.

Chúa dạy con, Hội thánh bảo con,

Cha mong giòng máu ái quốc,

Sôi trào trong huyết quản con.

Viết xong tại Cây Vông, Phú Khánh,

nơi quản thúc, ngày 8-12-1975.

Lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên tội

———————————————————————————

5 Chiếc Bánh và 2 Con Cá

Tác phẩm của Ðức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận

Ấn hành lần thứ ba tại Reichstett, France

Cộng Ðoàn Ðức Mẹ La-Vang, Năm 1999

Nhà Xuất Bản Ðịnh Hướng Tùng Thư

13 g rue de l’ILL

67116 Reicstett, France

Tel. 03 33 83 88205822

5 Chiếc Bánh Và 2 Con Cá (bài 2)

3. Chiếc Bánh Thứ Ba

Một bí quyết: Cầu nguyện

Các bạn hãy biết lắng nghe, trong thinh lặng cầu nguyện, câu trả lời của Chúa Giêsu: “Hãy đến và sẽ thấy”. (Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 2)

Ở tù về, tôi được nhiều người chất vấn: “Cha sướng thật, trong tù cha đã có nhiều thời giờ để cầu nguyện!” Không phải đơn giản như các bạn nghĩ đâu! Chúa đã cho tôi có dịp hiểu rõ sự yếu đuối thể lý và tinh thần của tôi.

Thời giờ trong tù trôi qua chậm rãi, đặc biệt trường hợp của những ai bị biệt giam. Bạn hãy tưởng tượng một tuần, một tháng, hai tháng thinh lặng … thấy lâu dài cách kinh khủng. Khi thinh lặng ấy kéo dài từng năm, thì nó trở thành đời đời … Ông bà ta thường bảo: “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại, nghĩa là, một ngày trong tù dài bằng ngàn thu tự do”.

Có những lúc quá đau, quá mệt không đọc được một kinh.

Tôi nhớ lại chuyện ông già Jim. Cứ mỗi ngày lúc 12 giờ trưa ông ta vào nhà thờ không quá hai phút. Ông từ (giữ nhà thờ) rất thắc mắc theo dõi, rồi một hôm chận ông Jim lại và hỏi:

– Tại sao bác vào đây mỗi ngày?

– Tôi đến cầu nguyện.

– Không thể được! Kinh gì trong hai phút?

– Tôi vừa già, vừa dốt, đọc kinh theo kiểu của tôi.

– Ông nói gì với Chúa?

– Tôi cầu nguyện: “Giêsu, có Jim đây!” rồi tôi về.

Thời gian trôi qua. Jim già yếu, bệnh tật, phải vào bệnh viện, nơi khu vực người già. Sau đó Jim yếu liệt, chuẩn bị đi xa … Linh mục tuyên úy và nữ tu y tá đến bên giường Jim:

– Jim ơi, hãy nói cho chúng tôi biết, tại sao từ ngày ông vào khu vực này, có nhiều điều thay đổi, bệnh nhân vui vẻ hơn, chấp nhận thuốc thang, sống có tình nghĩa hơn?

– Chả biết!… Lúc còn sức tôi đi quanh thăm mọi người, chào hỏi, chuyện trò một chốc; lúc sau liệt giường tôi gọi tên họ, thăm hỏi, làm cho họ cười. Với Jim ai cũng vui.

– Thế tại sao Jim vui, Jim hạnh phúc?

– Khi nào cha và sơ được người ta đến thăm mỗi ngày có vui không?

– Vui chứ! Nhưng có thấy ai thăm Jim đâu?

– Lúc mới vào, tôi có xin hai chiếc ghế, một dành riêng cho cha và sơ, một cho khách quí của tôi, thấy không?

– Khách của ông là ai?

– Là Chúa Giêsu. Trước kia tôi đến thăm Ngài ban trưa, nay đi hết nổi, cứ 12 giờ trưa Ngài đến thăm tôi.

– Ngài nói gì với Jim?

– Ngài bảo: Jim, có Giêsu đây!…

Trước lúc Jim chết, người ta thấy Jim đưa tay chỉ chiếc ghế như thể muốn mời ai ngồi, Jim mỉm cười, nhắm mắt ra đi.

Những lúc tôi không còn sức để đọc nổi dù một kinh, tôi lặp đi lặp lại: “Giêsu, có con đây”, tôi cảm thấy như Chúa Giêsu trả lời: “Thuận ơi, có Giêsu đây!” Tôi vui vẻ và bình an.

Các bạn hỏi tôi: “Cha thích đọc kinh nào?” Dĩ nhiên là tôi thích những kinh của Chúa Giêsu dạy, của Hội thánh: kinh Lạy Cha, kinh Kính mừng, kinh Tin kính…

Thú thật, tôi thích những kinh vắn tắt đơn sơ trong Phúc âm:

“Con ơi, nhà này hết rượu!” (Ga 2, 3). “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa” (Lc 1, 46-55). “Xin Chúa thương xót con vì con là kẻ có tội” (Lc 18, 13). “Lạy Cha, nếu có thể được thì xin cho con khỏi uống chén đắng này” (Mt 26, 39). “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm” (Lc 23, 34). “Xin Cha cho chúng hiệp nhất nên một” (Ga 17, 21). “Con phó linh hồn trong tay Cha” (Ga 23, 46).

Tôi thích dùng lời Thánh kinh, lời Chúa để cầu nguyện, khi đọc lên những Thánh vịnh, tôi sung sướng vì biết rằng đây là những kinh chính Chúa Giêsu và Mẹ Maria đã đọc. Mấy anh công an gác tôi làm đôi việc để “cải thiện” đời sống kinh tế, chẳng hạn họ cắt giấy rồi in tay … bán cho các công sở. Loại giấy “đầu thừa, đuôi thẹo” thì quét lại cả đống làm “giấy vệ sinh”, tôi lượm giấy vệ sinh ấy, mượn kim chỉ, đóng thành sổ bỏ túi, hai cuốn sổ tôi rất quí, một gồm trên 300 câu Thánh kinh bằng tiếng Latinh để cầu nguyện và một gồm đầu đề của vài trăm bài hát cũng để cầu nguyện. Còn bao nhiêu “giấy vệ sinh” khác mỗi ngày thu lượm một ít để dành viết sách.

Tôi rất ghi ơn sự huấn luyện ở chủng viện, những bài thánh ca đã ghi sâu vào lòng tôi. Ðặc biệt là tôi thuộc lòng hầu hết bài hát bình ca trong kinh phụng vụ, chưa bao giờ tôi cảm thấy ý nghĩa sâu xa và xúc động như vậy. Cũng không thể quên được những kinh Việt ngữ, tiếng mẹ đẻ của tôi, mà cả nhà cùng cầu nguyện mỗi tối trong nhà nguyện gia đình. Tôi hình dung được trước mắt Ông Bà, Ba Má và các em tôi, và nghe giọng mỗi người đang cầu nguyện. Nhất là ba kinh Kính mừng và kinh “Hãy nhớ” mà Mẹ tôi tập tôi đọc sớm tối từ lúc mới biết nói.

Như tôi đã nói, tôi ở tù biệt giam chín năm, chỉ có tôi và hai người gác. Ðể tránh cho khỏi thấp khớp và tê liệt, suốt ngày tôi không ngừng đi lại, xoa bóp, thể dục và hát để cầu nguyện: ca vịnh thống hối Miserere, kinh Tạ ơn Te Deum, kinh Chúa Thánh Thần Veni Creator, kinh các Thánh Tử đạo Sanctorum Meritis. Những bài hát của Hội thánh, được cảm hứng từ lời Chúa, như rót vào trong tôi lòng can đảm để theo Chúa Giêsu.

Cedantur gladiis, more bidentium, Non murmur resonant, non querimonia, Sed corde impavido, meus bene conscia, Conservant, patientiam. Muôn thử thách, vì Ngài đâu sá kể! Không hé một lời oán trách thở than! Chẳng xôn xao, lòng thơ thới yên hàn, Trước sau vẫn hiền hòa, luôn kiên nhẫn.

Ðể đánh giá, để nếm được sự quí đẹp của những kinh ấy, cần phải có kinh nghiệm ngục tù tăm tối, cô đơn, và ý thức được sự hiện diện của Chúa. Ngài chấp nhận những đau khổ dâng lên Ngài vì muốn trung thành với Hội thánh. Tôi cảm nghiệm được sự hiệp thông với Chúa Giêsu, với Ðức Thánh Cha, với toàn thể Hội thánh một cách tha thiết vững vàng mỗi khi tôi lặp lại suốt ngày.

Chính nhờ Ðức Kitô, cùng với Ðức Kitô và trong Ðức Kitô, Mà mọi chúc tụng và vinh quang đều qui về Chúa là Cha toàn năng Cùng với Chúa Thánh Thần muôn đời. Amen.

Có lúc Chúa dùng giáo dân để dạy tôi cầu nguyện. Thời gian bị quản thúc ở Giang xá, có ông lão nhà quê, tên là ông quản Kính, từ giáo xứ Ðại Ơn lẻn vào thăm tôi. Tôi không bao giờ quên được lời ông khuyên tôi:

“Thưa cha, cha không hoạt động tông đồ được thì xin cha cầu nguyện cho Hội thánh; ở trong tù cha đọc một kinh hơn một nghìn kinh cha đọc lúc ở ngoài tự do!”

Ðức Mẹ còn sử dụng cả người cộng sản để nhắc tôi cầu nguyện. Ông Hải đã từng ở tù, nằm cùng buồng với tôi để mật thám tôi, sau đã thành bạn của tôi. Trước ngày ông ta ra về, ông đã hứa với tôi:

Nhà tôi ở Long Hưng, chỉ cách La Vang 3 km, tôi sẽ đi La Vang cầu nguyện cho anh”.

Tôi tin lòng thành thật của anh bạn, nhưng tôi hoài nghi làm sao một người cộng sản mà đi cầu nguyện Ðức Mẹ cho tôi! Sáu năm sau, đang lúc tôi ở biệt giam, tôi đã được một bức thư của ông Hải, lạ lùng thật! Lạ hơn nữa là lời lẽ của ông như sau:

“Anh Thuận thân mến, tôi đã hứa với anh, tôi sẽ đi cầu nguyện Ðức Mẹ La Vang cho anh. Mỗi Chủ nhật, nếu trời không mưa, lúc nghe chuông La Vang, tôi lấy xe đạp vào trước đài Ðức Mẹ, vì chiến tranh bom đạn đã đánh sập nhà thờ rồi. Tôi cầu nguyện thế này:

Thưa Ðức Mẹ, tôi không có đạo, tôi không thuộc kinh nào cả. Nhưng tôi đã hứa sẽ đi cầu nguyện Ðức Mẹ cho anh Thuận, nên tôi đến đây. Xin Ðức Mẹ biết anh Thuận cần gì thì cho anh ấy”.

Tôi hết sức cảm động. Tôi đọc đi đọc lại rồi đặt thư xuống nhắm mắt lại: “Lạy Mẹ, Mẹ đã dùng anh cộng sản này để dạy con cầu nguyện; chắc Mẹ đã nhậm lời anh ấy, con mới còn sống đây!”.

Trước khi làm bất cứ việc gì, dù là việc mục vụ, xã hội, bác ái, chúng ta phải cầu nguyện. Như Chúa Giêsu, trước khi làm phép lạ nuôi dân chúng, đã ngước mắt lên trời, cầu nguyện cùng Ðức Chúa Cha. Ngài đã chọn Chúa trước rồi mới làm việc Chúa sau.

Các bạn thân mến,

Ðức Thánh Cha nhắn nhủ các bạn:

“Hãy thưa chuyện với Chúa Giêsu lúc cầu nguyện, lúc nghe lời Chúa; hãy nếm thử niềm vui lúc được Bí tích Hòa giải; hãy đón nhận Mình Máu Thánh Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể…; hãy khám phá sự thật về chính mình các bạn, khám phá ra sự hiệp nhất nội tâm và sẽ tìm thấy “người Bạn” chữa các bạn khỏi những xao xuyến, những cơn ác mộng, khỏi óc chủ quan man rợ nó không để cho các bạn được bình an”. (Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 3)

Biệt giam tại Hà Nội

25-3-1987

Lễ Thiên Thần truyền tin cho Ðức Mẹ.

4. Chiếc Bánh Thứ Tư

Sức mạnh độc nhất của tôi:

Phép Thánh Thể

Quanh bàn tiệc Thánh Thể được thực hiện và được tỏ bày sự hiệp nhất hài hòa của Hội Thánh, mầu nhiệm hiệp thông truyền giáo, trong đó mọi người nhận thấy mình là con Chúa và là anh chị em trong một đại gia đình. (Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 7)

Trong tù cha có dâng lễ được không?“, đó là câu hỏi mà bao nhiêu lần nhiều người đã hỏi tôi. Và thực sự họ có lý, vì Thánh Thể là kinh nguyện đẹp nhất, là đỉnh cao của cuộc đời Chúa Giêsu. Mỗi khi tôi trả lời “có”, thì tôi đã biết ngay câu hỏi tiếp sau: “Làm sao cha kiếm ra rượu lễ, bánh lễ?

Lúc tôi bị bắt, tôi phải đi ngay và đi tay không. Hôm sau tôi được phép viết về nhà để xin đồ cần dùng nhất như áo quần, kem đánh răng, v.v… Hàng đầu tiên, tôi viết: “Xin gửi cho tôi ít rượu thuốc trị bịnh đường ruột“. Bên ngoài, giáo dân hiểu ngay. Hôm sau, ông trưởng ban chấp pháp cầm đến một ve nhỏ bên ngoài có dán giấy đề chữ “thuốc trị bịnh đường ruột” và bánh lễ xé nhỏ bỏ trong một cái lọ chống ẩm, ông ta hỏi:

– Ông có bị bịnh đường ruột không?

– Có.

– Ðây là thuốc bên ngoài gửi vào cho ông!

Không bao giờ tôi vui bằng hôm đó: từ đấy mỗi ngày với ba giọt rượu và một giọt nước trong lòng bàn tay, tôi dâng thánh lễ.

Tuy nhiên cách dâng lễ mỗi nơi mỗi khác. Dưới hầm tàu thủy chở tôi ra miền Bắc, ban đêm tôi ngồi giữa mấy bạn tù, bàn thờ là túi cói đựng đồ, dâng lễ thánh Phanxicô quan thầy của tôi và cho các bạn chịu lễ. Lúc ở trại Vĩnh Quang tôi phải dâng lễ trong góc cửa ban sáng lúc người ta đi tắm sau giờ thể dục. Lúc đã quen với thời khóa biểu của trại, tôi dâng lễ ban đêm, vì chúng tôi được chia thành từng đội 50 người, ngủ chung trên một láng gỗ, mỗi người được 50 cm, đầu đụng nhau, chân quay ra ngoài. Chúng tôi đã tự thu xếp để năm anh em Công giáo nằm quanh tôi. Ðến 9 giờ rưỡi đêm, nghe tiếng kẻng là tắt đèn và mọi người phải nằm trong mùng muỗi cá nhân; tôi ngồi cúi sát xuống để dâng lễ thuộc lòng. Tôi đưa tay dưới mùng để chuyển Mình Thánh cho anh em chịu lễ. Chúng tôi nhặt giấy nylon bọc bao thuốc hút để làm những túi nhỏ đựng Mình Thánh. Như thế Chúa Giêsu luôn ở giữa chúng tôi. Chúng tôi tin một sức mạnh: Thánh Thể. Thịt Máu Chúa làm cho chúng tôi sống, “Ta đã đến là để chúng được có sự sống, và có một cách dồi dào” (Ga 10, 10). Như manna nuôi dân Do Thái đi đường về Ðất hứa, Thánh Thể sẽ nuôi con đi cùng đường Hy vọng (Ga 6, 53).

Mỗi tuần, sáng thứ Sáu có một buổi học tập, tất cả 250 anh em phải tham dự. Ðến lúc xả hơi, các bạn Công giáo thừa dịp đó mang các túi nylon đựng Mình Thánh đến chia cho bốn đội kia, mỗi người thay nhau mang trong túi áo một ngày.

Ai cũng biết có Chúa Giêsu Thánh Thể đang ở giữa trại tù với họ. Chính Ngài an ủi, xoa dịu những khổ đau thể xác và tinh thần; chính Ngài thêm can đảm chịu đựng cho họ. Ban đêm, họ thay phiên nhau làm giờ thánh. Sự hiện diện thinh lặng của phép Thánh Thể biến đổi họ cách lạ lùng. Nhiều người Công giáo trở lại sống đạo đức hơn; nhiều anh em không Công giáo, Phật giáo tìm hiểu Phúc âm và lãnh phép Thánh tẩy trong trại cải tạo, hoặc sau lúc được tự do.Không có gì cưỡng lại được tình yêu Chúa Giêsu. Ðêm tối của ngục tù trở thành ánh sáng, hạt giống đã đâm chồi dưới đất đang lúc trời giông tố phong ba. Những ơn trọng này do Chúa Giêsu Thánh Thể chứ không phải do sức loài người.

Trong chín năm biệt giam, tôi dâng lễ một mình lúc 3 giờ chiều, giờ Chúa Giêsu hấp hối trên Thánh giá. Tôi ở một mình nên có thể hát tiếng Latinh, tiếng Việt, tiếng Pháp… Tôi luôn mang Mình Thánh trong mình “như Cha ở trong con và con ở trong Cha”.

Ðó là những thánh lễ đẹp nhất của đời tôi. Kinh Lauda Sion, Pange Lingua, Adoro Te, Te Deum và nhiều kinh Việt ngữ, mặc cho tiếng loa trước cửa từ 5 giờ sáng đến 11 giờ rưỡi đêm. Tôi cảm nghiệm cách đặc biệt một sự bình an, một niềm vui trong tâm hồn vì Chúa Giêsu, Ðức Mẹ và thánh Giuse ở với tôi. Tôi hát Salve Regina, Salve Mater, Regina Coeli, v.v… hiệp với toàn thể Hội thánh. Mặc cho Hội thánh bị vu cáo, chống đối, tôi hát “Này con là đá… Ta hãy nguyện xin cho Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô”…

Chúa Giêsu đã nuôi dưỡng dân chúng theo Người trên sa mạc; trong phép Thánh Thể Chúa Giêsu tiếp tục làm của ăn ban sự sống muôn đời.

Mỗi lúc dâng lễ, đọc lời truyền phép, với tất cả tâm hồn, tôi làm lại lời “giao ước mới, giao ước vĩnh cửu” với Chúa Giêsu. Không phải để sống an nhàn, nhưng để bắt đầu một cuộc cách mạng, đổi mới nhân loại, được máu Chúa cứu chuộc, sống xứng đáng phẩm giá con Thiên Chúa, trong văn hóa của tình thương và sự sống.

Trong Thánh Thể chúng tôi loan truyền sự chết của Chúa Giêsu và tuyên xưng sự sống lại của Ngài. Có lúc buồn nản vô cùng, tôi nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh và bị bỏ rơi trên Thánh giá: Ngài không giảng dạy, thăm viếng, chữa lành bệnh tật; Ngài hoàn toàn bất động. Ðối với con mắt loài người, cuộc đời Chúa Giêsu là vô ích, là thất bại. Nhưng đối với đôi mắt Thiên Chúa, chính giây phút ấy lại là giây phút quan trọng nhất của đời Ngài, vì trên Thánh giá Ngài đã đổ máu mình để cứu chuộc nhân loại.

Chúa Giêsu là mẫu gương của tình yêu tuyệt đối với Ðức Chúa Cha và các linh hồn. Ngài đã cho tất cả, yêu thương đến cùng (Ga 13, 1), cho đến lúc trút hơi thở cuối cùng và nói lên tiếng “hoàn tất” (Ga 19, 30).

Khi nhìn thấy đoàn lũ theo Ngài, Ngài nói: “Tôi thương xót dân này” (Mt 15, 32). Ngài đã làm phép lạ cho bánh và cá hóa nhiều để nuôi họ. Ðây là dấu hiệu loan báo phép Thánh Thể mà Ngài sẽ thiết lập về sau.

Các bạn trẻ thân mến,

Mời các bạn nghe lời Ðức Thánh Cha: Chúa Giêsu sống giữa chúng ta, trong phép Thánh lễ; giữa những sự bất trắc, những hoang mang trong cuộc đời mỗi ngày, các bạn hãy noi gương hai môn đệ trên đường về Emmau… Hãy cầu xin Chúa Giêsu, để dọc các nẻo đường về bao nhiêu xóm nhỏ Emmau của thời đại ta, Ngài ở lại với các bạn. Ngài phải là sức mạnh của các bạn, là trung tâm của các bạn, là hy vọng trường cửu của các bạn. (Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 7)

Biệt giam tại trại Phú Khánh, Nha Trang,

1-9-1976

Lễ các Thánh Tử Ðạo Việt Nam

5. Chiếc Bánh Thứ Năm

Yêu thương cho đến hiệp nhất

Chúc thư của Chúa Giêsu

Các bạn trẻ thân mến, Các bạn được gọi làm chứng nhân đáng tin của Phúc âm Chúa Kitô, Ðấng làm cho mọi sự nên mới… “nếu các bạn thương yêu nhau” (Ga 13, 35). (Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 8)

Ở trại giam Phú Khánh, một đêm tôi đau quá, thấy một người gác đi qua, tôi kêu: “Tôi đau quá, xin anh thương tình cho tôi thuốc !” Anh ta đáp: “Ở đây chẳng có thương yêu gì cả, chỉ có trách nhiệm”.

Ðó là bầu khí chúng tôi ở trong tù.

Lúc tôi bị biệt giam, trước tiên người ta trao cho năm người gác tôi: đêm ngày có hai anh trực. Cứ hai tuần đổi một tổ mới, để khỏi bị tôi làm nhiễm độc. Một thời gian sau không thay nữa, vì “cấp trên” nói: “Nếu cứ thay riết thì sở công an bị nhiễm độc hết!”

Thực thế, để tránh nhiễm độc, mấy anh không nói với tôi, họ chỉ trả lời “có” hoặc “không”. Họ tránh nói chuyện với tôi. Buồn quá! Tôi muốn lịch sự vui vẻ với họ, họ vẫn lạnh lùng. Phải chăng họ ghét “cái mác phản động” nơi tôi: Tất cả áo quần đều đóng dấu hai chữ lớn “cải tạo”, kể từ ngày bước chân vào trại Vĩnh Quang ở Bắc Việt.

Tôi phải làm thế nào?

Một đêm đông lạnh quá, không ngủ được, tôi nghe một tiếng nhắc nhủ tôi: “Tại sao con dại thế? Con còn giàu lắm: Con mang tình thương Chúa Giêsu trong tim con. Hãy yêu thương họ như Chúa Giêsu đã yêu con”.

Sáng hôm sau, tôi bắt đầu mến họ, yêu mến Chúa Giêsu trong họ, tươi cười với họ, trao đổi đôi ba câu nói… Tôi thuật lại những chuyến đi ra nước ngoài, cuộc sống, văn hóa, kinh tế, khoa học kỹ thuật, tự do dân chủ ở Canada, Nhật Bản, Philippines, Singapore, Pháp, Ðức, Úc, Áo, v.v… Những câu chuyện đó kích thích tính tò mò của họ, giục họ đặt nhiều câu hỏi. Tôi luôn luôn trả lời… Dần dần chúng tôi trở thành bạn. Họ muốn học sinh ngữ Anh, Pháp… tôi giúp họ. Từ từ mấy chiến sĩ gác tôi trở thành học trò của tôi! Bầu khí nhà giam đổi nhiều, quan hệ giữa họ với tôi tốt đẹp hơn. Thậm chí cả những ông xếp công an, thấy tôi đối xử chân thành, không những họ xin tôi giúp các chiến sĩ học hành ngoại ngữ, nhưng họ còn gửi anh khác đến học.

Tôi sống theo lời Chúa Giêsu dạy: “Ðiều gì con làm cho một người bé mọn nhất trong anh em là làm cho chính mình Ta”.

Khi nào có hai hay ba người hợp nhau vì danh Thầy, thì có Thầy ở giữa họ”.

Một hôm một ông xếp hỏi tôi:

– Ông nghĩ thế nào về tờ tuần báo “Người Công giáo”?

– Nếu viết đúng cả nội dung cả hình thức thì có lợi; nếu ngược lại thì không thêm đoàn kết, lại còn thêm chia rẽ, bất lợi cho cả người Công giáo và cho cả nhà nước.

– Làm thế nào cải thiện tình trạng ấy?

– Những cán bộ phụ trách về tôn giáo phải hiểu đúng mỗi tôn giáo thì việc đối thoại, tiếp xúc các chức sắc mỗi tôn giáo cũng như các tín hữu mới có tính cách xây dựng, tích cực và tạo nên thông cảm giữa đôi bên.

– Ông có thể giúp được không?

– Nếu các vị muốn, tôi có thể viết một cuốn Lexicon (từ điển bỏ túi) gồm những danh từ thông dụng nhất trong tôn giáo, từ A đến Z, chừng nào các vị có giờ rảnh, tôi sẽ giải thích rõ ràng, khách quan. Hy vọng các vị có thể hiểu lịch sử, cơ cấu, sự phát triển và hoạt động của Giáo hội…

Họ đã trao giấy mực cho tôi, tôi đã viết cuốn “lexicon” đó, bằng tiếng Pháp, Anh, Ý, Latinh, Tây Ban Nha, và Trung Quốc với phần giải thích bằng Việt ngữ. Dần dà tôi có cơ hội giải thích hoặc giải đáp thắc mắc, tôi chấp nhận làm sáng tỏ những chỉ trích về Giáo hội. “Lexicon” ấy trở thành một cuốn giáo lý thực hành. Ai cũng muốn biết viện phụ là gì, thượng phụ là gì, Công giáo khác Anh giáo, Tin Lành, Chính Thống giáo chỗ nào? Tài chánh của Tòa thánh từ đâu mà có? Có bao nhiêu tu sĩ, giáo dân làm việc trong giáo triều, huấn luyện tu sĩ, giáo sĩ thế nào? Giáo hội phục vụ nhân loại thế nào? Tại sao Giáo hội gồm có nhiều dân tộc, sống qua nhiều thời đại cũng bị bắt bớ, tiêu diệt, cũng mang nhiều khuyết điểm mà vẫn tồn tại? Ngang đây là đến biên giới của siêu nhiên, của sự quan phòng của Thiên Chúa… Cuộc đối thoại từ A đến Z giúp xóa tan một số hiểu lầm, một số thành kiến, có những lúc trở nên thú vị và hấp dẫn. Tôi tin tưởng có nhiều người cởi mở, muốn tìm hiểu và với những biến chuyển trong thời đại ta, đã có những tầm nhìn mới mẻ và xây dựng.

Thời kỳ biệt giam ở Hà Nội, tôi được biết có 20 chiến sĩ nam nữ trẻ học tiếng Latinh với một cựu tu sĩ, để có thể đọc các tài liệu của Giáo hội. Trong số mấy anh gác tôi có hai anh trong nhóm học Latinh. Trông thấy bài vở, tôi nhận thấy họ học tốt. Một hôm, một trong hai anh ấy hỏi tôi:

– Ông có thể dạy tôi một bài hát tiếng Latinh không?

– Có nhiều bài hay tuyệt, nhưng biết anh thích bài nào?

– Ông hát cho tôi nghe, tôi sẽ chọn.

Tôi đã hát Salve Regina, Veni Creator, Ave Maris Stella… Các bạn biết anh ta chọn bài nào không? Anh ta chọn bài Veni Creator (Xin Chúa Ngôi Ba đoái thương viếng thăm…).

Tôi đã chép trọn cả bài cho anh ta và anh ta học thuộc lòng. Mỗi sáng quãng 7 giờ, tôi nghe anh ta chạy xuống thang gỗ, ra sân tập thể dục, rồi múc nước vừa tắm vừa hát: Veni Creator Spiritus… Tôi rất cảm động, làm sao mỗi sáng trong nhà tù cộng sản lại có một cán bộ hát kinh “Veni Creator” cho mình nghe!

Anh thứ hai lại chọn một bài hát tiếng Việt: “Ngày vinh phước hôm nay, hát mừng Tôma Thiện” kính thánh tử đạo chủng sinh. Anh rất thích nên thuộc lòng cả bài. Tiếng anh ngân nga, như nhắc tôi can đảm chịu khó:

Ôi! cái chết đẹp thay! Trên cổ một vòng dây, Cái vòng dây yêu mến, Buộc lòng tớ theo Thầy.

Ðâu có tình yêu thương, đó có vui tươi an bình, vì Chúa Giêsu ở đó. Con mang một đồng phục, nói một ngôn ngữ: bác ái. Bác ái là chứng tích để biết con là môn đệ Chúa (Ga 13, 35) là dấu hiệu rẻ mà khó kiếm nhất.

Trên núi Vĩnh Phú, trong trại tù Vĩnh Quang, một hôm trời mưa lớn, tôi cưa gỗ trong nhà. Tôi xin anh chiến sĩ gác tôi:

– Tôi xin anh một đặc ân.

– Anh muốn gì? Tôi cố gắng giúp anh.

– Tôi muốn cưa một miếng gỗ theo hình Thánh giá.

– Anh không biết ở trại nghiêm cấm mọi hình thức tôn giáo sao?

– Tôi biết, nhưng chúng ta là bạn, và tôi hứa sẽ giấu rất kín.

– Vô cùng nguy hiểm cho cả hai anh em mình.

– Anh nhắm mắt đi cho tôi làm, tôi sẽ cẩn trọng hết sức.

Anh ta quay lưng, bỏ tôi lại một mình. Tôi đã thực hiện ngay ý định, rồi giấu thánh giá gỗ ấy trong một cục xà phòng cho đến ngày tôi được tự do. Tôi thuê thợ bọc nó lại bằng “mêtan”. Miếng gỗ ấy có bao giờ nghĩ rằng mình sẽ trở nên thánh giá của Giám mục!

Gỗ thánh giá ấy lấy từ núi Vĩnh Phú, nơi có đền Hùng thờ các vua Hùng, tổ tiên chúng ta đã có công dựng nước. Ði đâu tôi cũng mang thánh giá ấy, mang trên mình Chúa Giêsu và quê hương Việt Nam.

Trong một nơi biệt giam khác, ở Hà Nội, tôi đã xin anh gác:

– Tôi muốn xin anh giúp tôi một chuyện.

– Ông cần gì tôi sẽ hết sức giúp đỡ.

– Anh kiếm cho tôi một sợi dây điện đồng.

Anh ta trợn mắt:

– Trời đất! Trong trường công an chúng tôi đã học: tù nhân nào giữ một sợi dây điện là dấu muốn tự tử.

– Không đâu, linh mục đâu lại đi tự tử!

– Nhưng ông dùng dây điện làm gì?

– Tôi muốn làm một sợi dây để mang tượng Thánh giá.

– Dây điện mà làm dây mang tượng thánh giá sao được? Khó hiểu quá!

– Anh cứ cho tôi mượn hai cái kềm nhỏ, tôi sẽ làm cho anh xem.

– Nguy hiểm lắm ông ơi! Không khéo cả ông cả tôi mang lấy vạ.

– Nhưng chúng mình là bạn mà!

– Tôi ngại lắm, nhưng để tôi suy nghĩ vài hôm rồi sẽ trả lời cho ông.

Sau ba hôm, anh ta bảo:

– Thực khó từ chối với ông. Tôi tính thế này, chiều nay tôi sẽ mang đến hai cái kềm, từ 7 giờ đến 10 giờ đêm, phải liệu cho xong. Tôi để anh bạn tôi đi chơi “Hanoi by night”. Nhỡ ai thấy chúng ta, nói đến tai cấp trên, chúng ta sẽ bị kỷ luật.

Chúng tôi đã cắt sợi dây điện ra từng mảnh như que diêm. Chúng tôi bẻ cong hai đầu lại. Trước 11 giờ đêm chúng tôi đã làm xong! Tôi mừng quá! Thắng lợi.

Hằng ngày tôi mang sợi dây này và thánh giá này trên mình, không phải để kỷ niệm ngục tù, nhưng vì nhắc cho tôi xác tín cách sâu xa rằng: Không phải dùng khí giới, đe dọa, áp lực mà có thể thay đổi được lòng người; chỉ có tình yêu Chúa Giêsu mới thay đổi được.

Ðiều khó hiểu nhất đối với chiến sĩ gác tù, là thái độ tha thứ yêu thương địch thù của mình. Có hôm mấy anh gác hỏi tôi:

– Ông có thương chúng tôi không?

– Có chứ, tôi yêu thương các anh cách thành thực, không có gì là khách sáo đâu!

– Kể cả khi người ta giam ông, mất tự do, năm này sang năm khác? Không xét xử gì cả?

– Anh nghĩ lại bao nhiêu năm ở với nhau. Tôi làm sao giấu được. Tôi thực sự yêu thương các anh.

– Chừng nào được tự do anh có sai giáo dân của anh trả thù không?

– Không, tôi vẫn tiếp tục yêu thương, dù các anh có muốn giết tôi.

– Nhưng tại sao lại yêu kẻ thù hại anh?

– Vì Chúa Giêsu đã dạy tôi yêu thương; nếu tôi không tuân giữ, tôi không đáng gọi là Kitô hữu nữa.

Thời gian eo hẹp và hoàn cảnh chưa thuận tiện để thuật lại cho các bạn nhiều chuyện rất cảm động, chứng tích của sức mạnh giải phóng do tình yêu Chúa Giêsu làm nên.

Trong Phúc âm, nhìn đoàn lũ theo Ngài đã ba ngày, Chúa Giêsu nói: “Tôi thương xót dân này” (Mt 15, 32); “Họ khác nào đoàn chiên không mục tử” (Mc 6, 34)… Trong những lúc bi đát nhất ở trong tù, tôi kiệt lực không còn sức mà đọc kinh, nguyện ngắm, tôi tìm một cách để tóm tắt cốt tủy của lời cầu nguyện, của sứ điệp Chúa Giêsu như thế này “Tôi sống chúc thư Chúa Giêsu”. Nghĩa là yêu mến mọi người như Chúa Giêsu đã yêu thương tôi, trong tha thứ, trong nhân từ, trong hiệp nhất, như Ngài đã cầu nguyện “Xin Cha cho họ nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” (Ga 17, 21). Tôi năng cầu nguyện: “Tôi sống chúc thư Chúa Giêsu”. Tôi muốn làm như cậu bé đã dâng tất cả những gì mình có. Năm chiếc bánh và hai con cá không đáng gì cả, nhưng là “tất cả” của nó, để trở thành “khí cụ tình thương của Chúa Giêsu”.

Các bạn trẻ thân mến, Ðức Gioan Phaolô II nhắn nhủ các bạn: Các bạn sẽ gặp Chúa Giêsu ở đâu có người đau khổ và hy vọng: trong những xóm làng bé nhỏ rải rác khắp các lục địa, hầu như ở bên lề của lịch sử, như làng Nagiarét; trong những đô thị mênh mông, nơi mà từng triệu người chen nhau sống, lắm lúc như những người xa lạ. Chúa Giêsu sống bên cạnh các bạn … gặp khuôn mặt Ngài nơi bộ mặt của những người nghèo khổ bị bỏ rơi, thường là những nạn nhân của một chính sách kinh tế bất công, đặt lợi nhuận lên trên hết và làm cho con người thành phương tiện chứ không phải là mục đích… Gặp Chúa Giêsu ở giữa những người kêu cầu Ngài mà không hề biết Ngài. Gặp Chúa Giêsu ở giữa những người mang tên là Kitô hữu, cả nam lẫn nữ. Giờ phút này đứng trước ngưỡng cửa của năm hai nghìn, họ cần khẩn trương xóa tan gương xấu chia rẽ giữa anh chị em Kitô hữu. (Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 5)

Các bạn hãy cảnh giác: sự lầm lạc lớn nhất là không nhìn thấy người khác là Chúa Kitô. Có nhiều người chỉ khám phá ra điều đó trong ngày cuối cùng.

Chúa Giêsu bị bỏ rơi trên Thánh giá, Ngài còn bị bỏ rơi trong mỗi anh chị em đang đau khổ trong mỗi góc xó trên thế giới. Tình thương không có ranh giới; hễ có ranh giới thì không còn là tình thương nữa.

Biệt giam tại trại Phú Khánh, Nha Trang,

1-9-1976

Lễ các Thánh Tử Ðạo Việt Nam

5 Chiếc Bánh Và 2 Con Cá (bài 1)

5 Chiếc Bánh Và 2 Con Cá

ÐHY Phanxicô Xaviê

Nguyễn Văn Thuận

1. Chiếc Bánh Thứ Nhất

Sống Phút Hiện Tại

Các bạn có thể gặp Chúa Giêsu, dọc theo những nẻo đường của cuộc sống mỗi ngày!… Ðây là chiều kích nền tảng của sự gặp gỡ đó: Không phải các bạn gặp một biến cố hay một sự vật gì đó, nhưng các bạn gặp một con người, đó là Thiên Chúa hằng sống. (Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 1)

Tên tôi là Phanxicô Nguyễn Văn Thuận, người Việt Nam. Ðối với người ngoại quốc tên tôi khó đọc, nên ở Tanjania, Nigeria, Ðại Hàn, Ðài Loan, các bạn trẻ gọi tôi là “Bác Francis” (Uncle Francis) hay đơn giản hơn nữa là “Francis!”

Ðến 23-4-1975 tôi làm Giám mục đã được tám năm, tại Nha Trang, Trung phần Việt Nam, Giáo phận đầu tiên Tòa Thánh trao phó cho tôi. Tôi đã sống những ngày tháng hạnh phúc ở đó và Nha Trang vẫn chiếm một chỗ đặc biệt trong quả tim tôi. Ngày 23-4-1975, Ðức Phaolô VI đã đặt tôi làm Tổng Giám mục phó Sàigòn. Khi cộng sản đến Sàigòn, họ đã bảo rằng: “Việc bổ nhiệm một Giám mục một tuần trước khi chúng tôi đến Sàigòn là một âm mưu giữa Vatican và đế quốc, nhằm tổ chức chống cộng sau này”.

Ba tháng sau, ngày 15-8-1975, tôi được mời vào Dinh Ðộc lập lúc 2 giờ chiều và bị bắt ở đó.

Ðêm đó, trên đường dài 450 km, xe công an chở tôi về nơi quản thúc. Bao nhiêu tâm tình lẫn lộn trong đầu óc tôi: lo lắng có, cô đơn có, mệt mỏi có, sau mấy tháng căng thẳng… nhưng trong trí tôi, một quyết định sáng tỏ đã đánh tan mây mù. Tôi nhớ lời Ðức Cha John Walsh, một Giám mục truyền giáo gốc Mỹ, đã nói lúc ngài được tự do sau 12 năm tù ở Trung cộng: “Tôi đã mất nữa đời người để chờ đợi”. Rất đúng! tất cả mọi tù nhân, trong đó có tôi, phút giây nào cũng mong đợi tự do. Suy nghĩ kỹ, trên chiếc xe Toyota trắng, tôi đã đặt cho mình một quyết định: “Tôi sẽ không chờ đợi. Tôi sống phút hiện tại và làm cho nó đầy tình thương”.

Ðây không phải là một cảm hứng đột xuất, nhưng là một xác tín đã ấp ủ suốt quãng đời mãi từ tiểu chủng viện: “Nếu tôi mất giờ đợi chờ, không làm gì hết, biết đâu những điều tôi đợi sẽ không bao giờ đến. Chỉ có một điều, dù không đợi cũng vẫn đến, đó là sự chết!”

Trong làng Cây Vông, nơi tôi bị quản thúc, ngày đêm có nhân viên an ninh chìm nổi theo dõi. Trong óc một tư tưởng không ngừng làm tôi xót xa, thao thức: “Giáo dân của tôi! một đoàn chiên hoang mang, giữa bao hiểm nguy, thách đố của một giai đoạn lịch sử mới. Làm sao tôi có thể gần gủi, liên lạc với họ, trong giai đoạn họ cần đến người mục tử nhất! Các nhà sách Công giáo bị đóng cửa, trường học Công giáo do Nhà nước quản lý, tôn giáo sẽ không còn được dạy dỗ trong các trường nữa; các linh mục, sư huynh, nữ tu có khả năng phải đi ra thôn quê, đi nông trường lao động, không được dạy học nữa! Sự xa lìa giáo dân là một cú “sốc” giày vò tan nát quả tim tôi.

Tôi không đợi chờ. Tôi sống phút hiện tại và làm cho nó đầy tình thương. Nhưng làm thế nào?

Một đêm, một tia sáng đến với tôi: “Con hãy bắt chước thánh Phaolô. Khi ngài ở tù, không hoạt động tông đồ được, ngài đã viết thư cho các giáo đoàn. Ðơn giản vậy mà con đi tìm đâu cho xa?”

Sáng hôm sau, vừa mới tinh sương, giữa tháng 10 năm 1975, tôi làm hiệu cho một cậu bé 7 tuổi, tên Quang, vừa đi lễ 5 giờ ra, trời còn mù và lạnh: “Quang! con về nói má con mua cho ông mấy “bloc” lịch cũ, ông cần dùng”. Chiều tối, chú bé mang lại mấy “bloc” lịch cũ. Thế là mỗi đêm trong tháng 10 và tháng 11, 1975, tôi đã đóng hết cửa, lấy giấy xi-măng dán bên trong và viết “Sứ điệp từ ngục tù” cho giáo dân của tôi, dưới ánh đèn dầu leo lét, mặc cho muỗi tha hồ đốt.

Mỗi sáng thực sớm tôi trao cho bé Quang, mấy tờ lịch tôi đã viết sau lưng, mang về cho anh, chị của Quang chép lại kẻo mất. Nếu để trên bàn tôi, “ông An” (một giáo dân) thấy sẽ sinh tai họa. Ðấy là đầu đuôi sách “Ðường Hy Vọng“, sứ điệp lao tù thành hình là như thế. Hiện nay sách đã được xuất bản bằng tám thứ tiếng.

 

Chúa đã ban ơn cho tôi có nghị lực để tiếp tục làm việc, kể cả những lúc chán nản nhất. Tôi đã viết đêm ngày trong một tháng rưỡi, vì tôi sẽ bị “chuyển trại” và không có điều kiện hoàn tất được. Lúc viết đến số 1001 tôi quyết dừng lại, xem đây như công trình “nghìn lẻ một đêm”. Ngày 8-12-1975, lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm Tội, tôi đã tạ ơn Ðức Mẹ cho tôi viết xong “Ðường Hy Vọng” và trao trong tay Ðức Mẹ gìn giữ, đó là của Ðức Mẹ, nhờ ơn của Ðức Mẹ, xin Ðức Mẹ tiếp tục lo liệu. Ðoán vậy mà không sai, đến ngày 18-3-1976, tôi bị đưa vào trại Phú Khánh, biệt giam vất vả nhất.

Năm 1980, lúc bị đưa ra quản thúc ở Giang Xá, Bắc Việt, tôi đã tiếp tục viết mỗi đêm trong bí mật cuốn thứ hai, “Ðường Hy Vọng Dưới Ánh Sáng Lời Chúa và Công Ðồng Vatican II”, cuốn thứ ba, “Những Người Lữ Hành Trên Ðường Hy Vọng”.

Tôi không chờ đợi. Tôi sống phút hiện tại và làm cho nó đầy yêu thương.

Trong Phúc âm, các Tông đồ muốn chọn con đường dễ nhất, khỏe nhất: “Xin Thầy cho dân chúng về, để họ mua thức ăn”… Nhưng Chúa Giêsu muốn hành động trong phút hiện tại: “Chính các con hãy cho họ ăn đi” (Lc 9, 1). Trên thánh giá, khi người ăn trộm thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Ngài, khi về thiên đàng xin Ngài nhớ đến tôi”. Chúa Giêsu đáp: “Hôm nay con sẽ ở cùng Ta trên nước thiên đàng” (Lc 23, 42-43). Trong tiếng “hôm nay” của Chúa Giêsu, tôi cảm thấy tất cả sự tha thứ, tất cả tình thương của Ngài.

Cha Maximiliano Kolbe sống tinh thần ấy khi ngài khuyên các tập sinh trong dòng: “Tất cả, tuyệt đối, không điều kiện”. Tôi đã nghe Ðức Cha Helder Camara nói: “Cả cuộc đời là học yêu thương”. Một lần Mẹ Têrêxa Calcutta gửi thư cho tôi, Mẹ viết: “Ðiều quan trọng không phải là số công tác đã thực hiện nhưng là mức độ tình yêu ta đã để vào mỗi công việc“.

Làm sao yêu thương đến cao độ như thế trong mỗi phút hiện tại? Tôi nghĩ rằng tôi phải sống mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút như là giờ phút cuối cùng của đời tôi. Dẹp bỏ những gì là phụ thuộc, tập trung cả tâm hồn cho những gì là chính yếu. Mỗi lời nói, mỗi tư tưởng, mỗi cử chỉ, mỗi cú điện thoại, mỗi quyết định phải là “đẹp nhất” của đời tôi. Tôi phải dành cho mỗi người tình yêu của tôi, nụ cười của tôi : tôi phải lo sợ đánh mất một giây phút nào trong đời mình vì đã sống không ý nghĩa…

Tôi đã viết trong sách Ðường Hy Vọng: “Con chỉ có một giây phút đẹp nhất: giây phút hiện tại (x Mt 6, 34; Gc 4, 13-15). Sống trong tình yêu Chúa cách trọn vẹn, đời con sẽ tuyệt đẹp nếu kết tinh bằng từng triệu giây phút đẹp nhất. Con thấy đơn sơ, không phải khó (ÐHV 997).

Các bạn trẻ thân mến, trong thời đại này, Chúa Giêsu cần đến các bạn. Ðức Gioan Phaolô II tha thiết kêu gọi các bạn hãy đương đầu với những thách đố của thế giới hôm nay:

Chúng ta đang sống trong một giai đoạn đầy biến chuyển kinh khủng. Những lý thuyết được xem là đủ sức thi gan cùng tuế nguyệt nay đã đến lúc xế chiều. Trên hoàn cầu, cần phải phác họa lại ranh giới của nhiều quốc gia. Nhân loại tự cảm thấy mình rất lúng túng, hốt hoảng, lo lắng (Mt 9, 36). Nhưng lời Chúa không bao giờ qua đi; đọc lại lịch sử, chúng ta thấy bao nhiêu biến cố thăng trầm, đang lúc ấy lời Chúa đứng vững và chiếu sáng (Mt 24, 35). Ðức tin của Hội thánh được xây dựng trên Chúa Giêsu Kitô, Ðấng Cứu thế độc nhất: hôm qua hôm nay và mãi mãi (Eb 13, 18). (Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 2)

Cây Vông, Nha Trang

nơi tôi bị quản thúc

16-8-1975, hôm sau lễ Ðức Mẹ Lên Trời.

2. Chiếc Bánh Thứ Hai

Phân biệt giữa Chúa và

việc của Chúa

Thật đúng vậy, Chúa Giêsu là một người bạn hay đòi hỏi, hay chỉ cho ta nhắm những mục đích cao cả, … Hãy đạp đổ những rào cản của nông nỗi và sợ hãi bao vây các bạn! Hãy nhận ra mình là những “con người mới”.

(Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 3)

Lúc tôi còn là một linh mục sinh viên ở Roma, có một người đã bảo tôi: “Ðức tính lớn nhất của bạn là “hăng say nhiệt tình”, còn tính xấu tệ nhất là “hay tấn công””. Dù thế nào đi nữa, tôi là một người ham hoạt động: hướng đạo sinh, tuyên úy tráng đoàn Lavang, cắm trại trên núi Bạch mã… Một tư tưởng thúc bách tôi mỗi ngày: phải chạy đua với đồng hồ! Làm tất cả những gì có thể được để củng cố và phát triển Giáo hội trong Giáo phận Nha Trang, trước khi thời gian khốn khó xảy đến, khi phải sống dưới chế độ cộng sản!

Trọng tâm hoạt động của tôi là huấn luyện nhân sự: gia tăng đại chủng sinh từ 42 đến 147 trong tám năm; gia tăng số tiểu chủng sinh từ 200 đến 500 trong bốn chủng viện; tu nghiệp các linh mục trong sáu giáo phận của Giáo tỉnh miền Trung; phát triển và huấn luyện các phong trào thanh niên, giáo dân, các hội đồng giáo xứ, mục vụ… Tôi rất quí mến giáo phận đầu tiên của tôi là Nha Trang.

Giờ đây, tôi phải đi vào Sàigòn lập tức, theo lệnh Ðức Phaolô VI bổ nhiệm. Không kịp từ biệt những ai đã từng hiệp nhất với tôi trong cùng một lý tưởng, cùng một quyết tâm, cùng chia sẻ hân hoan và thử thách.

Ðêm ấy 7-5-1975, khi tôi ghi âm những lời tạm biệt Giáo phận Nha Trang, tôi đã khóc nhiều, đó là một lần độc nhất tôi đã khóc nhiều, đó là một lần độc nhất tôi đã khóc thổn thức trong tám năm ở Nha Trang – vì thương nhớ. Nhưng tâm hồn tôi rất bình an, vì tôi vâng lời Ðức Thánh Cha.

Tiếp đến là gian khổ thử thách tại Sàigòn, là bị bắt đưa trở lại Nha Trang, nơi mà tôi đã bị biệt giam khắc nghiệt nhất, không xa Tòa Giám mục của tôi. Sáng tối tôi nghe tiếng chuông nhà thờ chánh tòa như xé nát tim tôi. Ðêm đến tôi nghe tiếng sóng biển vỗ cạnh buồng biệt giam.

Từ Nha Trang tôi bị đưa trở lại Sàigòn, ở trại Thủ Ðức, vùng Tam Hà, ngày đêm nghe không biết bao nhiêu tiếng chuông nhà thờ. Ðêm 1-12-1975, cùng với 1,500 bạn tù đói, mệt, chán nản, còng tay hai người chung một khóa số 8, bước xuống gầm tàu “Hải Phòng” đậu tại bến Tân cảng gần cầu Xa lộ, để chở ra trại cải tạo Vĩnh Quang, tỉnh Vĩnh Phú, trong thung lũng núi Tam Ðảo, mùa đông 1976-77 rét 20C.

Ðặc biệt nhất là nỗi gian khổ của 9 năm biệt giam một mình với hai người gác, không bạn bè, không có việc làm, tôi ở trong một sự trống rỗng tuyệt đối, đến mức có thể điên đi được. Tôi đi lại suốt ngày trong buồng giam, để vận động cơ thể kẻo nằm luôn thì tôi sẽ chết vì thấp khớp, viêm phổi.

Nhiều lúc một mình, tôi bị đau khổ giày vò, tại sao đang lúc mình 48 tuổi, trưởng thành và khỏe mạnh, sau tám năm Giám mục tôi đã có nhiều kinh nghiệm mục vụ, lại phải vào phòng biệt giam, xa giáo phận những 1,700 km?

Một đêm thanh vắng, một tiếng từ đáy lòng nhắc nhở tôi: “Tại sao con quẫn trí, hoang mang như thế làm gì? Con phải biết phân biệt giữa Chúa và công việc của Chúa.

Những gì con đã làm và tiếp tục làm như kinh lý giáo phận, huấn luyện nam nữ tu sĩ, giáo dân, thanh niên, kiến thiết thánh đường, cư xá sinh viên, mở mang các thí điểm truyền giáo… tất cả những công tác ấy đều là những việc tốt lành, là việc của Chúa, nhưng không phải là Chúa!

Nếu Chúa muốn con trao tất cả các việc ấy trong tay Ngài, con hãy làm ngay, và hãy tin tưởng vào Ngài. Chúa có thể làm tốt hơn con muôn nghìn lần; Ngài có thể trao việc của Ngài cho những người tài đức hơn con. Hãy chọn một mình Chúa thôi, chọn thánh ý Ngài, chứ đừng chọn việc của Chúa!”

Tôi luôn luôn học tập làm theo ý Chúa. Nhưng ánh sáng này mang lại cho tôi một sinh lực mới, thay đổi tận gốc lối suy nghĩ của tôi, giúp tôi vượt qua những bước gian truân mà hầu như cơ thể không chịu đựng nổi. Từ đây tôi cảm thấy trong lòng tôi “một sự bình an mà thế gian không cho được”.

Theo tính tự nhiên, những lúc chương trình đang thực hiện tốt đẹp phải bỏ dở, hoạt động đang hăng say phải bó tay, nhiệm vụ đang quan trọng phải hạ tầng công tác! Uất ức và chán nản! Tôi tự hỏi: Chúa gọi con “Hãy theo Thầy” hay “Hãy theo việc nọ, người kia?” Ðể đó, Chúa sẽ liệu, Ngài sẽ giải quyết tốt hơn con là cái chắc.

Ở trại Phú Khánh, tôi bị giam trong một phòng không có cửa sổ, phải đi qua 3 lớp cửa trong một hành lang mới đến khí trời. Vào đó nóng cực kỳ, tôi ngột ngạt và cảm thấy trí óc mất sáng suốt dần dần, cuối cùng là mê man. Có lúc người ta để đèn sáng như ban ngày, lúc khác lại nằm trong bóng tối. Buồng vừa nóng vừa ẩm, đến nỗi tôi xuống nằm dưới nền, còn nấm thì mọc lên trắng cả chiếc chiếu của tôi. Lúc nằm trong tối tăm, tôi thấy có một lỗ dưới vách, ánh sáng lọt vào, tôi lết đến, kê mũi vào đó để thở. Lúc nào trời mưa, nước ở ngoài ngập, những con trùng ở ngoài bò vào, có cả giun và có lần có cả con rết dài; dù thấy vậy, nhưng tôi yếu mệt quá không làm gì được, tôi cứ để cho chúng bò quanh, ngày nào nước xuống, thì chúng lại bò ra. Sau này hai linh mục bị giam cách tôi 2 lớp cửa, đã thuật lại cho tôi biết: “Một hôm cô Thanh, cấp dưỡng, đã mỡ cửa cho chúng con ra đứng nhìn Ðức Cha nằm dưới đất và bảo: cho hai anh nhìn thấy ông Thuận, ông sắp chết!” Nhưng trong cơn cơ cực này, Chúa đã cứu tôi!

Tôi phải chọn Chúa chứ không phải việc của Chúa: Chính Chúa muốn cho tôi ở đây, chứ không phải nơi khác.

Lúc tôi bị nhốt dưới khoang tàu Hải Phòng cùng với 1,500 anh em tù nhân bị đưa ra Bắc, tôi đã thấy trên nét mặt của họ nỗi thất vọng, lòng căm thù. Tôi chia sẻ đau khổ của họ. Nhưng tôi lại nghe tiếng: “Hãy chọn Chúa chứ không phải việc của Chúa!” Tôi đã thưa: “Lạy Chúa, chính đây là nhà thờ chánh tòa của con. Ðây là dân Chúa trao cho con phục vụ, con phải làm cho Chúa hiện diện giữa những người anh em chán nản, cùng khổ này. Ðây là ý Chúa, nên con phải chọn”.

Khi tôi lên trại cải tạo, giữa thung lũng núi Tam Ðảo, tỉnh Vĩnh Phú, tôi gặp 250 anh em cùng một chuyến đi, đa số không Công giáo, tôi vẫn nghe tiếng ấy thúc bách: “Hãy chọn Chúa chứ không phải việc của Chúa. – Lạy Chúa, Chúa sai con đến đây để làm cho tình thương của Chúa hiện diện giữa các anh em con, giữa đói khát và giá lạnh, giữa lao động cải tạo nhọc nhằn và tủi nhục bất công. Con xin chọn Chúa, không phải chọn công việc của Chúa. Con chọn thánh ý Chúa, giờ đây con là tông đồ truyền giáo của Chúa”.

Từ giây phút ấy, một sự bình an mới tràn ngập tâm hồn tôi, ở với tôi suốt 13 năm tù đày. Tôi cảm thấy thấm thía sự yếu hèn của tôi; tôi lặp lại sự chọn lựa của tôi, lúc ấy không bao giờ Chúa để lòng tôi thiếu an bình. Tất cả là hồng ân của Chúa.

Mỗi khi tôi tuyên bố: “Vì Chúa, vì Hội thánh”, tôi phải thinh lặng trước mặt Chúa, và thành thật hỏi Chúa: “Chúa thấy con hành động hoàn toàn vì ai? Con đã chọn vinh danh Chúa, sống và hành động tuyệt đối vì Chúa? hay Chúa là lý do thứ yếu, còn lý do khác mạnh hơn, con không tiện nói?”

Ðây là một sự chọn lựa tuyệt vời, nhưng không phải dễ dàng. Ðức Gioan Phaolô II kêu gọi các bạn :

Các bạn trẻ thân mến, như các môn đệ thuở ban đầu, hãy theo Chúa Giêsu! Ðừng sợ lại gần Chúa … Ðừng sợ “cuộc sống mới” mà Chúa muốn trao cho các bạn vì chính Ngài cho các bạn đủ sức đón nhận và thực hiện cuộc sống ấy, Ngài ban ân sủng của Ngài và Thánh thần của Ngài cho các bạn. (Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 3)

Ðức Thánh Cha lại lấy gương thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu để soi sáng các bạn trẻ:

Hãy cùng Têrêxa tiến lên trên đường khiêm nhường và đơn sơ, trong tinh thần Công giáo trưởng thành, trong trường học của Phúc âm. Hãy cùng Têrêxa sống trong “quả tim” của Hội thánh, và triệt để chọn Ðức Kitô. (Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 9)

Cậu bé trong Phúc âm đã có sự chọn lựa triệt để ấy, cậu đã hiến dâng tất cả: Năm chiếc bánh và hai con cá, trong tay Chúa Giêsu với lòng tin tưởng. Thế rồi Chúa Giêsu đã làm “việc của Chúa”: với chừng ấy, Ngài đã nuôi cả năm ngàn, cả vạn người!

Cầu Nguyện

Chúa và việc của Chúa

Vì lòng thương vô hạn,

Chúa gọi con theo Chúa,

làm con Chúa, làm môn đệ Chúa.

Rồi Chúa trao cho con một sứ mạng.

Không ai giống ai, nhưng cùng một mục đích

làm tông đồ, làm chứng nhân cho Chúa.

Tuy nhiên, kinh nghiệm bản thân cho con thấy,

nhiều lần con lẫn lộn hai điều này:

Chúa và việc của Chúa.

Chúa trao cho con công việc của Chúa,

cao trọng có, khiêm tốn có,

tầm cỡ có, bình dân có.

Con làm mục vụ giáo xứ,

mục vụ giới trẻ, mục vụ học đường,

mục vụ nghệ thuật, mục vụ gia đình,

mục vụ thanh niên, mục vụ lao động,

mục vụ truyền thông.

Con đổ vào đó tất cả nhiệt tình,

tất cả những gì có thể được.

Con không tiếc một điều gì, kể cả mạng sống con.

Giữa lúc con tận tụy, hăng say như thế,

con gặp thất bại ê chề.

Vì người ta vô ơn, vì không ai chịu cộng tác,

vì bạn bè hiểu lầm, vì bề trên không nâng đỡ,

vì bịnh tật ốm đau, vì thiếu phương tiện…

Có lúc con đang trên đà thành công rực rỡ,

mọi người hân hoan ca ngợi con, quyến luyến con.

Thì đùng một cái,

con phải thuyên chuyển,

nhận nhiệm vụ mới.

Con choáng váng như rơi vào đêm tối.

Sao Chúa bỏ con?

Con không muốn bỏ dở việc Chúa,

con phải làm cho hoàn thành việc Chúa.

Phải xây xong thánh đường, tổ chức xong hội đoàn…

Tại sao người ta phá việc Chúa?

Không ủng hộ việc Chúa vô cùng chính đáng?

Nhưng trước bàn thờ

Bên Mình Thánh Chúa,

con nghe Chúa Giêsu bảo con:

Con hãy theo Chúa, chứ không phải theo việc của Chúa!”

“Nếu Chúa muốn, con hãy trao việc Chúa lại trong tay Chúa,

Chúa sử dụng ai tiếp tục, mặc ý Chúa.

Có Chúa lo, mà Chúa lo thì muôn vạn lần hơn con lo.

Con hãy chọn một mình Chúa“.

Biệt giam tại Hà Nội

ngày 11-2-1985

Lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội hiện ra tại Lộ Ðức