TRƯỞNG THÀNH TRONG ĐỨC TIN

TRƯỞNG THÀNH TRONG ĐỨC TIN

TRẦM THIÊN THU

Trích EPHATA 584

“Tôi đã cho anh em uống sữa chứ không cho dùng thức ăn, vì anh em chưa chịu nổi. Nhưng bây giờ anh em cũng vẫn còn không chịu nổi, vì anh em còn là những con người sống theo tính xác thịt. Bao lâu giữa anh em có sự ghen tương và cãi cọ, thì anh em chẳng phải là những con người sống theo tính xác thịt và theo thói người phàm sao ?” ( 1Cr 3, 2 ).

Bạn đã bao giờ thắc mắc mình đang uống sữa trên hành trình tâm linh hoặc đang dùng đồ ăn hay không ? Có nhiều dấu hiệu cho thấy sự trưởng thành tâm linh ? Làm sao trưởng thành tâm linh ? Làm sao chúng ta biết mình tiến bộ đủ đối với sự sống đời đời để chúng ta có thể thôi uống sữa mà dùng thức ăn ?

Trước tiên, có một câu hỏi khó trả lời: “Tôi trưởng thành trong Đức Tin chưa ?” Bước đầu tiên là chúng ta phải sẵn sàng chấp nhận mình chưa thực sự trưởng thành tâm linh, nhờ đó chúng ta mới có thể đi đúng đường. Chúng ta bắt đầu tự hỏi xem mình đang ở đâu trong hành trình tâm linh. Điều này giúp chúng ta nhận biết các tình huống. Có thể gọi đó là “siêu nhận thức”.

Bước thứ nhì tiến tới sự trưởng thành tâm linh là cách chúng ta nhìn vào cuộc sống của mình. Chúng ta không dễ loại bỏ những thói quen xấu. Điều này không có nghĩa là chúng ta rất kiên nhẫn mà là mất kiên nhẫn, lương tâm cứ giằng co chúng ta. Chúng ta “xem xét” tính huống để chúng ta có thể biết gốc rễ của nó và nhổ bật gốc nó khỏi cuộc đời chúng ta. Đó là một hành trình dài nên chúng ta phải sẵn sàng và cương quyết đấu tranh. Rất cần thiết.

Bước thứ ba tiến tới sự trưởng thành tâm linh là gánh nặng chúng ta bắt đầu gánh vác vì quan tâm việc triệt tiêu những gì làm chúng ta xa cách Chúa. Thật vậy, trong hành trình tâm linh, chúng ta có thể nhận thấy khó khăn và cực khổ khi “tự giải thoát” khỏi những thứ vướng mắc.

Chúng ta thấy có thêm những thập giá trong cuộc sống vì chúng ta đang bắt đầu nhìn mọi thứ theo cách ảnh hưởng mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa. Không dễ chút nào vì có vẻ càng khó khăn hơn. Lúc này, chúng ta phải tăng cường cầu nguyện. Chúng ta dành nhiều thời gian cầu nguyện, tìm hiểu Lời Chúa, và đào sâu về Đức Tin. Mỗi mặc khải mới sẽ làm chúng ta khao khát Ngài nhiều hơn.

Thánh Augustinô đã diễn tả: “Lòng con còn bồn chồn lo lắng cho đến khi nào được nghỉ ngơi trong Chúa Giêsu”. Nhưng đây không là sự áy náy rúng động của thế giới, đó là sự ao ước, sự khao khát đến gần Đức Kitô hơn.

Trưởng thành tâm linh đạt tới đỉnh cao – mặc dù không vĩnh viễn, không như kiểu tĩnh điện – khi chúng ta kết hợp ý muốn của chúng ta với Ý Chúa. Chúng ta có thể đạt tới cao trào nhiều lần trong hành trình tâm linh khi chúng ta cảm thấy gần gũi Chúa hơn, và vẫn có cơ hội sống Đức Tin sâu hơn, mạnh hơn.

Khi chúng ta trưởng thành tâm linh, chúng ta có thể thấy mình thỏa mãn một chút, nhưng không bao giờ thỏa mãn mãi mãi. Chúng ta muốn Chúa đưa chúng ta vào nơi nghỉ ngơi tĩnh lặng của Ngài – và rồi chúng ta lại khởi đầu hành trình với mức độ mới. Tất cả chúng ta đều được mời gọi đạt tới sự trưởng thành tâm linh, lời mời gọi đó luôn có trên hành trình mỗi ngày cho tới khi nào kết thúc hành trình cuối cùng là bước vào đời sau, về Quê Trời đích thực.

TRẦM THIÊN THU,

chuyển ngữ từ beliefnet.com

30 ĐIỀU KHÔNG NÊN TIẾP TỤC LÀM VỚI BẢN THÂN

30 ĐIỀU KHÔNG NÊN TIẾP TỤC LÀM VỚI BẢN THÂN

Trích EPHATA 584

“Không ai có thể quay ngược lại thời gian để bắt đầu lại từ đầu, nhưng bất kỳ ai cũng có thể bắt đầu từ ngày hôm nay và tạo ra một kết thúc mới”.

1. Đừng mất thời gian với những đối tượng sai lầm

Cuộc sống quá ngắn ngủi, bạn không nên dành thời gian với những người chỉ biết hút cạn nguồn hạnh phúc của mình. Nếu ai đó muốn bạn có mặt trong cuộc sống của họ, họ sẽ tự dành ra chỗ cho bạn. Bạn không phải đấu tranh để giành giật lấy một vị trí nào cả. Đừng bao giờ ép mình vào mối quan hệ với những người coi thường giá trị của bạn. Và hãy nhớ, những người bạn thật sự của bạn không phải là những người ở bên cạnh bạn khi bạn thành công, mà là những người ở bên cạnh bạn khi bạn gặp khó khăn.

2. Đừng chạy trốn các rắc rối của mình

Hãy đối diện với chúng. Đây không phải là việc dễ dàng. Không ai có khả năng xử lý hoàn hảo mọi vấn đề họ gặp phải. Chúng ta cũng không thể ngay lập tức mà giải quyết trọn vẹn một khó khăn. Chúng ta không sinh ra để làm như vậy. Trên thực tế, chúng ta sinh ra để thất vọng, buồn chán, đau khổ, và vấp ngã. Bởi vì đó là toàn bộ mục đích của cuộc sống – đối mặt với vấn đề, học hỏi, thích nghi, và xử lý chúng. Chính điều này đã rèn luyện chúng ta trở thành con người như chúng ta hiện nay.

3. Đừng nói dối bản thân mình

Bạn có thể nói dối người khác, nhưng bạn không thể nói dối chính bản thân mình. Cuộc sống của chúng ta chỉ tiến bộ khi chúng ta nắm bắt các cơ hội; và cơ hội đầu tiên và cũng là khó khăn nhất mà chúng ta có thể nắm bắt lấy là trung thực với chính mình.

4. Đừng gác lại các nhu cầu của bản thân

Điều đau đớn nhất là vì yêu người khác quá mà đánh mất bản thân mình, và quên mất rằng mình cũng là người đặc biệt. Vâng, hãy giúp đỡ người khác; nhưng bạn cũng phải giúp đỡ chính mình nữa chứ. Nếu có giây phút nào dành cho bạn để bạn theo đuổi đam mê và làm điều gì đó quan trọng với mình, thì giây phút đó chính là ngay lúc này đây.

5. Đừng cố gắng làm người khác

Một trong những thách thức lớn nhất trong cuộc sống là làm chính mình trong một thế giới cứ chực biến bạn thành người giống như mọi người khác. Lúc nào cũng sẽ có người xinh đẹp hơn bạn, thông minh hơn bạn, trẻ trung hơn bạn, nhưng họ sẽ không bao giờ là bạn cả. Đừng thay đổi để mong người khác thích mình. Hãy là chính mình, và sẽ có người yêu con người thật của bạn.

6. Đừng bận tâm với quá khứ

Bạn không thể bắt đầu một chương mới trong cuộc đời nếu cứ đọc đi đọc lại chương cũ.

7. Đừng sợ mắc sai lầm

Làm việc gì đó rồi mắc sai lầm còn hiệu quả gấp 10 lần so với không làm gì cả. Mỗi thành công đều có một vệt dài những thất bại đằng sau nó, và mỗi thất bại đều dẫn đường tới thành công. Suy cho cùng, bạn sẽ hối hận về những điều mình KHÔNG làm nhiều hơn là về những điều mình đã làm.

8. Đừng trách móc bản thân vì những sai lầm đã qua

Có thể chúng ta yêu nhầm người và đau khổ về những điều không xứng đáng, nhưng dù mọi việc có tồi tệ tới mức nào, thì cũng có một điều chắc chắn: sai lầm giúp chúng ta tìm được đúng người, đúng thứ phù hợp với chúng ta. Chúng ta ai cũng có lúc mắc sai lầm, ai cũng có khó khăn, và thậm chí tiếc nuối về những việc trong quá khứ. Nhưng bạn không phải là sai lầm của mình, bạn không phải là khó khăn của mình, và ngay lúc này đây, bạn có trong tay sức mạnh để xây dựng nên hiện tại và tương lai của chính mình. Mỗi một điều từng xảy ra trong cuộc sống của bạn đều góp phần chuẩn bị cho bạn đón nhận một khoảnh khắc mới chưa đến.

9. Đừng cố công mua hạnh phúc

Nhiều thứ chúng ta mong mỏi có được có giá đắt. Nhưng sự thật là, những gì thực sự khiến chúng ta hài lòng lại hoàn toàn miễn phí – đó là tình yêu, là tiếng cười, và là những giây phút miệt mài theo đuổi đam mê của mình.

10. Đừng tìm kiếm hạnh phúc ở người khác

Nếu bạn không cảm thấy hạnh phúc với chính con người bên trong của mình, thì bạn sẽ chẳng thể nào có được hạnh phúc lâu dài với bất kỳ người nào khác. Bạn phải tạo ra sự ổn định trong cuộc sống của mình trước rồi mới nghĩ tới chuyện chia sẻ cuộc sống đó với người khác được.

11. Đừng lười nhác

Đừng nghĩ ngợi quá nhiều, bởi có thể bạn sẽ tạo ra một rắc rối không đáng có. Hãy đánh giá tình hình và đưa ra hành động dứt khoát. Bạn không thể thay đổi điều mà mình không muốn đối mặt. Tiến bộ bao hàm rủi ro. Chấm hết ! Bạn không thể đứng một chỗ mà hy vọng mình sẽ tới được đích.

12. Đừng nghĩ rằng mình chưa sẵn sàng

Khi một cơ hội xuất hiện, không có ai cảm thấy mình đã sẵn sàng 100% để đón nhận nó. Bởi vì phần lớn những cơ hội lớn lao trong cuộc đời đều đòi hỏi chúng ta phải phát triển vượt quá “vùng thoải mái” của mình – điều này có nghĩa là ban đầu, chúng ta sẽ không cảm thấy hoàn toàn thoải mái.

13. Đừng tham gia vào các mối quan hệ vì những lý do sai lầm

Cần phải lựa chọn các mối quan hệ một cách khôn ngoan. Ở một mình còn tốt hơn là giao tiếp với người xấu. Bạn không cần phải vội vàng. Điều gì phải đến, sẽ đến – và nó sẽ đến đúng lúc, với đúng người, và vì lý do tốt đẹp nhất. Hãy yêu khi bạn đã sẵn sàng, chứ đừng yêu khi bạn cảm thấy cô đơn.

14. Đừng từ chối những mối quan hệ mới chỉ bởi vì các mối quan hệ cũ không đem lại kết quả tốt đẹp

Trong cuộc sống, rồi bạn sẽ nhận ra rằng mỗi người bạn gặp đều có ý nghĩa riêng cho bản thân bạn. Một số người sẽ thử thách bạn, một số người sẽ lợi dụng bạn, và một số khác sẽ dạy dỗ bạn. Nhưng điều quan trọng nhất là, một số người sẽ giúp bạn thể hiện được khía cạnh tốt đẹp nhất của mình.

15. Đừng cố cạnh tranh với tất cả mọi người

Đừng lo lắng khi thấy người khác giỏi hơn mình. Hãy tập trung vào việc “phá kỷ lục” của chính mình mỗi ngày. Thành công chỉ là một cuộc chiến giữa BẠN và BẢN THÂN BẠN mà thôi.

16. Đừng ghen tị với người khác

Ghen tị là hành động đếm các “điểm cộng” của người khác thay vì đếm các “điểm cộng” của mình. Hãy tự hỏi bản thân mình câu này: “Mình có điểm gì mà ai cũng mong có ?”

17. Đừng than vãn và tự thương hại bản thân

Các khó khăn xuất hiện trong cuộc sốngđều có lý do riêng của chúng – nhằm hướng bạn theo một cung đường phù hợp cho bạn. Có thể khi khó khăn xuất hiện, bạn sẽ không nhận thấy hay không hiểu được điều đó, và có thể đó là một trải nghiệm khó khăn.

Nhưng bạn hãy thử nghĩ về những khó khăn mình đã trải qua trong quá khứ mà xem. Bạn sẽ thấy rằng, cuối cùng, chúng đã hướng bạn tới một địa điểm tốt hơn, trở thành một con người tốt hơn, có tâm trạng hay hoàn cảnh tích cực hơn. Vì thế, hãy cười lên ! Hãy cho mọi người thấy rằng bạn của ngày hôm nay mạnh mẽ gấp nhiều lần so với bạn của ngày hôm qua – và bạn sẽ là như thế.

18. Đừng giữ mãi những hằn học

Đừng sống với niềm oán ghét trong tim. Bạn sẽ khiến mình đau khổ hơn so với những gì mà người mà bạn căm ghét có thể làm với bạn. Tha thứ không phải là nói: “Những gì anh đã làm với tôi là chấp nhận được”, mà là: “Tôi sẽ không để hạnh phúc của mình bị hủy hoại vĩnh viễn bởi những gì anh đã làm với tôi”.

Tha thứ là câu trả lời… hãy buông ra đi, hãy tìm kiếm sự thanh thản trong tâm hồn, hãy giải phóng bản thân bạn ! Và hãy nhớ, tha thứ không chỉ vì người khác, mà còn vì chính bạn nữa đấy. Hãy tha thứ cho bản thân mình, hãy tiếp tục cuộc sống, và cố gắng làm tốt hơn trong tương lai.

19. Đừng để người khác kéo bạn xuống vị trí ngang bằng với họ

Đừng hạ thấp các tiêu chuẩn của mình để thích nghi với những người không chịu nâng cao các tiêu chuẩn của họ.

20. Đừng lãng phí thời gian giải thích bản thân cho người khác

Bạn bè bạn sẽ không cần bạn phải giải thích gì cả, còn với kẻ thù, thì dù bạn có giải thích bao nhiêu họ cũng chẳng tin đâu. Hãy cứ làm những gì mà thâm tâm bạn biết là đúng.

21. Đừng miệt mài làm đi làm lại một việc mà không có “khoảng ngừng”

Thời điểm phù hợp để bạn hít một hơi thật sâu là khi bạn không có thời gian cho việc đó. Nếu bạn tiếp tục làm những gì mình đang làm, thì bạn sẽ tiếp tục nhận được những gì mà bạn đang nhận được. Đôi khi bạn cần phải tạo ra cho mình một khoảng cách để có thể nhìn nhận sự việc một cách rõ ràng.

22. Đừng bỏ qua điều kỳ diệu của những khoảnh khắc nhỏ nhoi

Hãy tận hưởng những điều nhỏ nhặt, bởi vì biết đâu một ngày nào đó, bạn sẽ ngoảnh nhìn lại để rồi nhận ra rằng chúng là những điều lớn lao. Phần tốt đẹp nhất trong cuộc sống của bạn sẽ là những khoảnh khắc nhỏ bé không tên khi bạn dành thời gian mỉm cười với ai đó quan trọng đối với bạn.

23. Đừng cố làm mọi thứ trở nên hoàn hảo

Thế giới thực không vinh danh những người cầu toàn; nó sẽ trao phần thưởng cho những người hoàn thành công việc.

24. Đừng đi theo con đường ít bị cản trở nhất

Cuộc sống không dễ dàng, nhất là khi bạn lên kế hoạch đạt được điều gì đó có giá trị. Đừng chọn con đường đi dễ dàng. Hãy làm điều gì đó phi thường.

25. Đừng hành động như thể mọi việc đều tốt đẹp trong khi thực tế không phải như vậy

Suy sụp một lát cũng không sao. Bạn không nhất thiết lúc nào cũng phải tỏ ra mạnh mẽ, và cũng không cần phải liên tục chứng minh rằng mọi việc đều diễn ra tốt đẹp. Bạn cũng không nên lo lắng về chuyện người khác đang nghĩ gì – hãy khóc nếu bạn cần khóc – điều đó cũng tốt cho sức khỏe của bạn mà. Càng khóc sớm, bạn càng sớm có khả năng mỉm cười trở lại.

26. Đừng đổ lỗi cho người khác về các rắc rối của bạn

Khả năng thực hiện được ước mơ của bạn tỉ lệ thuận với khả năng bạn tự nhận trách nhiệm cho cuộc sống của mình. Khi trách cứ người khác vì những gì bạn đang trải qua, nghĩa là bạn đang chối bỏ trách nhiệm – bạn đang trao cho người khác quyền kiểm soát phần cuộc sống đó của mình.

27. Đừng cố gắng làm vừa lòng tất cả mọi người

Đó là điều không thể xảy ra, và nếu bạn cứ cố công làm như vậy, bạn sẽ kiệt sức mất thôi. Nhưng làm cho một người mỉm cười cũng có thể thay đổi cả thế giới. Có thể không phải là toàn bộ thế giới, mà chỉ là thế giới của riêng người đó thôi. Vì thế, hãy thu hẹp sự tập trung của mình lại.

28. Đừng lo lắng quá nhiều

Lo lắng sẽ không giúp giải thoát các gánh nặng của ngày mai, nhưng nó sẽ tước bỏ đi niềm vui của ngày hôm nay. Một cách để bạn có thể kiểm tra xem cónên mất công suy nghĩ về điều gì đó hay không là tự đặt ra cho mình câu hỏi này: “Điều này có quan trọng gì nữa không trong một năm tiếp theo ? Ba năm tiếp theo ? Năm năm tiếp theo ?” Nếu câu trả lời là không, thì nó không đáng để bạn bận tâm đâu.

29. Đừng tập trung vào những gì bạn không mong muốn xảy ra

Hãy tập trung vào những gì bạn thực sự muốn xảy ra. Suy nghĩ tích cực là “tiền đồn” cho mọi thành công vĩ đại. Nếu mỗi sáng bạn thức dậy với tâm niệm rằng ngày hôm nay sẽ có điều tuyệt vời xảy ra trong cuộc sống của mình, và bạn để tâm chú ý, thì rồi thường là bạn sẽ nhận thấy rằng niềm tin của mình là đúng.

30. Đừng là người vô ơn

Dù bạn đang ở hoàn cảnh tốt đẹp hay tồi tệ, hãy thức dậy mỗi ngày với niềm biết ơn cuộc sống của mình. Ở nơi nào đó, người khác đang đấu tranh trong tuyệt vọng để giành giật lấy cuộc sống của họ. Thay vì nghĩ về những gì bạn không có, hãy nghĩ về những gì bạn đang có mà người khác không có.

KHUYẾT DANH,
Nguồn: http: m.vietnamnet.vn vn giao-duc

KHỔ ĐAU

KHỔ ĐAU

Tác giả: Anmai, CSsR

thanhlinh.net

Đời là bể khổ ! Đức Phật nói như thế về cuộc đời.

Nhìn về cuộc đời, đúng thật là ai cũng có những nỗi khổ đau của riêng mình, của tập thể và thật sự khó có thể nói trước, khó có thể nói hay hay cũng chẳng có thể biết được khi nào nỗi khổ đến trong cuộc đời. Chỉ giật mình nhận ra và thấy rằng sao cuộc đời của mình, người thân của mình và đồng loại của mình sao khổ thế !

Trong một đất nước mà khí hậu không được ôn hòa cho lắm thì con người phải nhận hậu quả nhất định nào đó. Ở cái dải đất hình chữ S thân yêu này thì những ai ở vào những vùng có thời tiết khắc nghiệt ắt mới hiểu được phần nào nỗi đau khi cơn bão chưa đi qua và cơn lũ đang gần đến.

Những ngày này, bão đang dần đi vào dĩ vãng nhưng những người dân ở miền Trung đang đối diện với những cơn lũ do hậu quả của bão. Hậu quả bão lũ đã làm cho hàng ngàn gia đình rơi vào cảnh khốn khó. Bao nhiêu năm trời chắt chiu một nắng hai sương và tằn tiện cho cuộc sống nhưng khi đối diện với bão dữ thì tất cả những lao nhọc tan biến cùng theo bão.

Những người ở xa vùng tâm bão hay ở những nơi mà bão chẳng bao giờ ghé được chắc có lẽ chẳng cảm được những nỗi đau, những nỗi mất mát về cả vật chất lẫn con người sau bão. Vài lần có việc để đi ra miền Trung rơi vào những ngày bão nhỏ hay chỉ với những cơn áp thấp nhiệt đới thôi tôi cảm được một chút gì đó của thời tiết khắc nghiệt. Thật ra, nó chẳng thấm tháp gì với những cơn siêu bão cứ ập đến với người nghèo. Tận mắt nhìn những người dân Quãng Trị trong trời giá rét phải mặc áo mưa để đi làm lúa thì phải biết rằng cái lạnh, cái buốt thấm vào xương thịt của họ là gì. Thế nhưng không còn việc gì khác ngoài cái việc phải bán lưng cho trời và bán mặt cho đất để đắp đổi cuộc sống qua ngày.

Ta chỉ nhìn thấy khổ đau của họ khi ta đi ngang qua được gặp họ trong hoàn cảnh trời rét mướt như thế mà phải cấy cày. Và khi nhìn thấy như thế ta chỉ cảm một chút gì đó chứ ta không rơi vào cảnh như thế nên ta không thể nào hiểu được nỗi đau mà ngày này tháng nọ và năm tới năm kia họ phải gánh chịu.

Hay trong những ngày này, cảnh tan thương trời đất sau bão ta cũng chỉ nhìn thấy qua hình ảnh hay có khi ta nhìn thấy tận mắt nhưng ta không thể nào thấu hiểu được nỗi đau như đang ôm chầm lấy họ. Nỗi đau của họ đang khốn cùng sau mưa lũ.

Có những đám táng phải dầm mình trong mưa lũ để đưa người thân đến nơi an nghỉ cuối cùng.

Có những gia đình những đứa trẻ phải cám cảnh mồ côi cha lẫn mẹ khi tuổi còn chưa khôn phải nương nhờ vào bà nội hay bà ngoại.

Có đứa trẻ mồ côi cha do cơn bão cách đây gần chục năm trước, mẹ phải đi làm xa và em ở nhà với ngoại. Cơn bão đến, em tìm cách trú ẩn dưới “hầm trú” đơn sơ xây bằng gạch với tôn xi măng và phên bằng tre. Trong “căn hầm” đó là gói mì và gọn đèn cầy gọi là tránh bão …

Và vừa mới đây, có gia đình ra đi trên chuyến bay định mệnh … nỗi đau không thể nào bù đắp được cho những người thân còn ở lại.

Cũng khá lâu không có dịp nói chuyện với đứa cháu ở xa. Trước đây thì chú cháu thi thoảng cũng hỏi thăm nhau về cuộc sống. Sáng nay, trong điện thoại, giọng của cháu cứ sụt sùi.

Trong nghẹn ngào nỗi đau, cháu nói rằng vì gia đình nhà giáo, sau khi qua bên kia thì cháu nỗ lực để học. Vì ham học và gắng học đến độ đôi khi không còn nhớ đến giờ ăn giấc ngủ. Đến một ngày kia bị đau đầu, cháu đi khám bác sĩ gia đình, họ không tìn ra bệnh và chuyển cháu vào viện. Tin dữ đến với bản thân cháu và gia đình là cháu đã bị ung thư não. Cách đây hai tuần, cháu mê sản 3 ngày không biết gì cả. Sau khi tỉnh dậy, bác sĩ tập dần tập dần để khơi lại trí nhớ cho cháu. Giờ đây mạng sống của cháu đang ở độ căng thẳng. Cháu nói là bác sĩ cho biết là mổ cũng không giải quyết được gì và không mổ cũng không được. Trong tiếng khóc, cháu nói cháu sẽ ra đi trước chú …

Đứng trước cảnh đau như thế, chỉ nhanh trí tìm cách nói chuyện bâng quơ cuộc sống để cháu qua đi cơn đau đang âm ĩ trong đầu của cháu cũng như để cháu qua đi những suy nghĩ quá đau của cuộc đời.

Mới vừa bước qua tuổi 20, tuổi đẹp nhất của cuộc đời. Với cơn đau nghiệt ngã như vậy, cháu phải dừng lại chương trình y khoa mà vài năm nữa cháu sẽ ra trường làm bác sĩ. Tất cả dừng lại bởi chứng bệnh khổ đau mà cháu phải chịu.

Nghe dòng tâm sự của cháu, biết được chứng bệnh cũng như cơn đau mà cháu đang mang trong mình. Dù có nghe và thậm chí nghe cả tiếng nấc nghẹn ngào đi chăng nữa nhưng làm sao tôi có thể hiểu và cảm được nỗi đau và cú sốc mà cháu và gia đình đang gánh chịu. Cũng chỉ biết sẻ chia với cháu đôi lời và hẹn dịp khác lại chia sẻ.

Nghe nhưng làm sao thấu và làm sao có đủ sức để gượng dậy với cuộc sống như hoàn cảnh của cháu được. Nghe nhưng đâu có hiểu được ngày sống của mình cứ cuốn dần cuốn dần không biết được bao lâu.

Quả thật là đau khổ đến với mỗi người, mỗi gia đình mỗi vẻ mỗi cách chẳng ai giống ai. Có khi ở một đất nước gọi là văn minh tiến bộ đó nhưng người ta vẫn khoanh tay trước những căn bệnh hiểm nghèo. Có khi ở trong một gia đình có thể là giàu sang phú quý đó nhưng khổ đau nó vẫn cứ đến bằng cách này hay cách khác qua mọi nẻo đường mà không ai ngờ đến. Có khi như gia đình kia vừa ky cóp sắm chiếc xe tìm kế sinh nhai lại bị bão lũ cuốn đi và đang chịu cảnh tù tội. Có khi là đang yên ổn trong căn nhà mà bấy lâu chắt chiu xây được nay lại tan tành sau cơn bão lũ …

Mỗi người, mỗi gia đình và có thể cả một tập thể đang có những nỗi đau của riêng mình, của gia đình đó.

Chỉ biết cầu xin cho mỗi người có đủ sức để vượt qua những nỗi đau mà mỗi người đang gặp phải. Và, cũng nguyện xin những ai có khả năng cũng như điều kiện có thể sẻ chia cách này cách khác cho anh chị em đồng loại của mình nhẹ đi phần khổ đau mà họ đang mang bởi lẽ khi nhìn người khác đau khổ thì làm sao lòng mình có thể an được.

Anmai, CSsR

“Em có nhớ không, một lần khi lá thu bay?”

“Em có nhớ không, một lần khi lá thu bay?”

Là lần em đến thăm tôi

Chung bước yêu đương hẹn hò.

Em có nhớ không, một lần khi gió heo may

Mình ngồi đan giấc mơ say, giận hờn sao vẫn chưa phai?”

(Ngô Thụy Miên – Mắt Thu)

 

(Mt 10: 11/Lc 16: 18)

Chừng như, cứ nói đến mùa Thu là nghệ sĩ nhà mình thường có thêm đôi giòng hỏi han toàn nước mắt với những là: “vùi trên nỗi đau”, “mãi cho u sầu” thì phải? Bần đạo đây, đôi lúc cũng từng hỏi như thế. Hỏi, là vì vẫn nghe văng vẳng ở đâu đó, có giòng nhạc tình tứ, cứ hát rằng:

“Trời còn làm mưa vùi trên nỗi đau
Lời ru ấy mãi cho u sầu.
Bàn chân nuối tiếc thương lạc loài,
Trời còn làm mây buồn qua mắt ai.
Làm tan biến giấc mơ hoang đường,
Rồi buồn trôi theo giòng mưa xuống.”

(Ngô Thụy Miên – bđd)

À thì ra, câu hát trên dọi lại lời thơ rất khẳng định của nghệ sĩ, nói về cơn giận hờn, như sau:

“Giận hờn ngày xưa còn vương mắt em
Làn môi thắm hết ru bao chiều
Vùng ân ái chết trong mây hồng
Một lần vào thu mình đang có nhau
Hàng cây lá rớt trên mi thường
Và tay trắng đan tình với tay.”

(Ngô Thụy Miên – bđd)

Nói đi thì nói lại, trích dẫn lời thơ/ý nhạc ở đây, hôm nay, là cốt dẫn nhập cho một tư tưởng mà bần đạo bắt gặp được từ truyền thông báo/đài, rất vi tính.

Báo đài/truyền thông hôm nay, đặt ra rất nhiều vấn đề trong/ngoài nhà Đạo. Những vấn đề cũ/mới tưởng chừng không dứt, nhưng cứ đeo đuổi con người, ở mọi thời. Và thời buổi hôm nay, năm 2013 này, có vấn đề rất “nổi cộm” lại vẫn đưa ra cho mọi người, cả đến đấng bậc chủ-quản Hội thánh, như lời nhận định sau đây:

“Trong một loạt các cuộc trò chuyện với báo chí trên đường về từ Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới ở Rio de Janeiro, Đức Giáo hoàng Phanxicô có trả lời một câu hỏi về trạng-thái của những người đồng-tính luyến-ái đang kiếm tìm Chúa, rằng: “Tôi là ai mà dám kết án một người nào?” Và, khi được hỏi về đường-lối Hội thánh Công giáo đối xử ra sao với những người đã ly-dị rồi, nay tìm cách tái giá dù chưa có phép chuẩn huỷ bỏ hôn-nhân trước đo, Đức Phanxicô trả lời vắn tắt, rằng: “Đây là thời-điểm để ta tỏ lòng thương xót.”

Ở đây, cũng nên nhớ lại lập-trường/đường-lối Hội thánh ta cương quyết: Hôn-nhân một vợ một chồng không rạn nứt, rất cởi mở để ta có khả-năng kiến tạo con cái, vẫn là: bối cảnh lý tưởng cho tương-quan phái-tính. Thế nhưng, lý-tưởng ấy nay đang thay đổi cả với người Công giáo cũng như người Thệ-phản.Tỷ lệ ly dị nay ở mức 40% (chứ không phải 50% như báo chí thường rêu rao) đối với những người có gia đình. Điều này, khiến lũ trẻ trở nên rối rắm, khó khăn. Khó, ở chỗ: đàn ông nào từng chịu cảnh gia đình đổ vỡ khi còn trẻ, thường đi đến tình-trạng bỏ nhà ra đi, trốn học, hoặc chấp nhận làm công việc ít lương/ít tiền và trở thành người bố cũng rất sớm. Nữ-giới ở trường-hợp tương tự, cũng chẳng khá hơn là bao. Phần đông những người này thường sống phóng túng, đã biết ăn nằm thể xác vào lúc còn ở tuổi “teen” hoặc cả trước khi lập gia đình, rồi cũng rơi vào trường hợp dễ trở thành cha mẹ đơn chiếc, hoặc gia đình đổ vỡ, nếu tái giá.

Có sự thể, là: ngày nay rất nhiều người Công giáo hết ly dị rồi lại tái giá mà chẳng bận tâm lo âu gì chuyện xin phép hủy bỏ hôn nhân nào có trước đó, hết. Với Hội thánh, những người như thế đã tự ý lập gia đình theo cách không phải phép hoặc chẳng có hiệu lực; và như thế, vẫn bị ràng buộc vào chuyện bị cấm không được rước Mình Chúa, khi tham dự Tiệc Thánh Thể….” (x. Michael G. Lawler & Todd A. Salzman, How should the Church handle Divorce & Remarriage, 19/9/2013)

Nói theo kiểu nhà Đạo về tình yêu, hôn-nhân, gia đình hợp tan/tan hợp, thì như thế. Như thế, tức: vẫn nhấn mạnh vào thống kê, luật lệ và lý luận. Trong khi, người sống ở đời lại vẫn sử dụng thi ca/âm nhạc để diễn tả tâm trạng của mình và của người, như sau:

“Và rồi mùa thu về trong mắt em
Hàng cây lá úa xanh xao nhiều
Vòng tay khép kín đôi mi nồng
Chuyện mình ngày xưa đành xin lãng quên
Cuộc tình đã chết theo thu tàn
Người về đấy xin chọn giấc mơ.”

(Ngô Thuỵ Miên – bđd)

Diễn thế nào thì diễn, tả thế nào thì tả cũng còn tùy. Tùy mình và tùy người sống ở đâu? Thời nào? Có hệ-lụy gì với ai không? Nay đi vào cảnh sống thế nào? Vẫn hạnh phúc chứ?  Thế đó, là những câu hỏi chỉ để hỏi. Còn, trả lời/trả vốn hay không cũng tùy. Tùy hứng thú, tùy hoàn cảnh để còn phiếm loạn như hôm nay. Và hôm nay, bần đạo lại xin phép được “phiếm” lai rai cho vui đời để hầu bạn đọc cũng như các bạn không-bao-giờ-đọc những chuyện phiếm vớ vẩn này. Trước nhất, là một vài thông tin cũng mới cứng như sau:

“Vừa qua, Đức Phanxicô có nói với các người trẻ bên ngoài Vương cung thánh đường ở Atxidi, hôm 4/10/13, rằng: Các bạn trẻ đừng sợ! Đừng ngại ngần dấn bước với quyết định lập gia đình, chẳng hạn. Ngoài xã hội, người ta lại cứ hô hào cổ võ cho quyền lợi cá thể trong lúc coi mọi sự như chuyện phù du qua mau, và không thấy được giá trị gì nơi sự việc có dính-dấp đến khó khăn này khác hầu đi đến quyết định như chuyện hỏi rằng mình có can đảm lập gia đình không?…”

Đức Phanxicô đã tiếp nhận các vấn-nạn mà lớp người trẻ thường đặt ra như vấn đề hôn nhân và đời sống gia đình một cách nghiêm chỉnh bằng cách trả lời rằng: “Hôn nhân trong Đạo” là ơn gọi thực-thụ giống như ơn gọi linh mục/tu sĩ. Khi tín-hữu nam nữ lấy nhau, họ đều thấy trong câu chuyện tình của họ có lời mời gọi của Chúa, tức: lời mời trở nên một: một than xác, một cuộc đời của cả hai phía, nam và nữ.” Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng nói thêm: “Nhằm bắt đầu thiết-lập một gia đình, ta cũng cần có can đảm, bởi thế giới bây giờ không những chẳng giúp gì được cho ta mà xem ra họ còn tạo nhiều rào cản ngăn cách bằng việc đưa ra những quyền lợi cá-thể, riêng rẽ hơn là đề cao vai trò của gia đình. Và, người thế-gian còn tìm cách thuyết-phục mọi người rằng: quan-hệ hôn-nhân chỉ kéo dài khi hai bên không gặp khó khăn hoặc trở ngại nào hết. “

Đức Phanxicô lại cũng nói: bố mẹ của ngài cũng như ông bà nội/ngoại của giới trẻ, khi trước các cụ lấy nhau trong khung cảnh khác hẳn. Về kinh-tế, các vị đều giáp mặt nhiều thách-đố và cả chiến-tranh nữa, nhưng các ngài luôn thấy một điều rất rõ, là: Thiên Chúa luôn ở với các ngài, vẫn chúc phúc cho các ngài bằng bí-tích hôn-phối có đính kèm sứ-vụ gầy dựng con cái để rồi đưa chúng vào với thế giới và dạy con như thế, họ lại nhận được ơn lành của Chúa. Cuối cùng, Đức Giáo Hoàng lại cũng nói: Cách duy nhất để ta nghe được lời gọi mời của Chúa qua lời nguyện cầu thường xuyên. Và, có quan hệ mật-thiết với Chúa qua việc mở rộng lòng mình. Có như thế, lời gọi mời của Ngài mới được nghe biết…” (x. Cindy Wooden, Marriage takes courage, pope tells young, The Catholic Weekly, 13/10/2013 tr. 5)

Thương yêu, lập gia đình và quan-hệ mật-thiết với Chúa qua nguyện cầu mở lòng mình, đó vẫn là vấn đề của mọi thời. Nhưng, thời nay thiên-hạ cũng đã biết mở rộng lòng và tai ra để nghe và cảm nhận, nên đã thấy nhiều lời mời mọc cũng như ơn gọi từ nhiều phía. Có những lúc, tưởng chừng như đã có người ngoảnh mặt làm ngơ với lời mời của thánh Hội, cách chính đáng. Tuy là thế, nhiều vị vẫn thấy khó xử khi đi vào thực tế mới thấy có những sự thể không mấy dễ. Những sự và việc, được đấng bậc ở đời đặt ra, chí ít là về hôn nhân vỡ đổ, đã tái giá mà chẳng chịu xin phép bãi bỏ hôn ước cũ. Việc này, càng tạo khó khăn cho đôi bạn khi quay về lại với thánh Hội mà sinh hoạt, ở Tiệc Thánh.

Cứ sự thường, thì: bao lâu đôi bạn chưa được miễn-chuẩn hôn nhân có lúc trước, thì hai người trong cuộc dù có tham-dự tiệc thánh cũng không được phép rước Chúa. Về chuyện này, tác-giả Michael G. Lawler được trích ở trên, lại có đôi giòng góp giọng về tình hình thực-tế ở thánh-hội, như sau:

“Theo Giáo lý Hội-thánh, lương tâm con người là vị thẩm phán có lý, qua đó con người nhận ra được phẩm-chất đạo-đức nơi hành-động cụ-thể của mỗi người. Nói khác đi, thì: chính lương tâm vẫn giúp ta nhận ra những việc mình phải làm cho hợp đạo lý, trong mọi tình cảnh mình gặp. Trước nhất, nhờ vào lương tâm mình mới thu thập được mọi bằng cớ để xác-chứng xem Sách thánh cũng thánh truyền, khoa học và kinh nghiệm bản thân từng nói gì, về những chuyện như thế. Thứ đến, ta nguyện cầu xem xét từng chứng cớ cách riêng rẽ xem khi nào thì có xung đột giữa các sự việc. Sau nữa, ta lưu tâm đến chọn lựa nào khả thi nhất và coi xem nó có ảnh hưởng gì lên quan hệ của ta với Chúa, với người đồng loại và chính mình nữa. Cuối cùng, ta phải quyết định trong tự do xem hành động nào thích hợp đối với tình cảnh đưa chúng đến với ta. Theo hiến chế Vui Mừng và Hy vọng thì: lương tâm là cốt tủy của  mọi chuyện và là cung điện thánh thiêng của con người ở đó, con người thấy mình đang lắng nghe lời mời của Thiên Chúa nói với mình…” (x. Michael Lawler, bđd)

Về vấn đề rước Mình Máu Chúa ở Tiệc Thánh vẫn được các đấng bậc đề ra rất nhiều lần để rồi cứ tranh luận mãi vẫn không ngừng. Chung qui, thì mọi sự chỉ là chuyện đối đầu với tinh thần luật lệ của một số vị nắm vai trò chủ-quản trong Hội thánh. Trên thực tế, có sự thể là con dân Chúa ở hoàn cảnh “oái oăm”, “rối mù” vào một lúc nào đó, nhưng cuối cùng khi mọi việc đã qua đi, họ vẫn sống vui, sống mạnh và sống vững chãi với luật yêu thương giùm giúp, được ghi ở Tin Mừng. Và, rốt cuộc thì, nhiều cặp vợ chồng lại quên mất nhà thờ nhà thánh, nói gì chuyện đi lễ và rước lễ.

Thế nên, đấng bậc trích dẫn ở trên, lại có thêm những lời cuối, như sau:

“Một số hôn nhân bất thường nay ổn định dấn, lại được dưỡng nuôi bằng niềm tin Kitô-giáo cũng khá tốt, nên hôn nhân như thế vẫn không thể bị hủy mà không gây hại đáng kể về tinh thần, và cảm xúc lẫn kinh tế…

Đức Phanxicô xem ra cũng đã nhận thấy khó khăn này nên ngài mới nói: “Bổn phận của chúng ta là tìm ra phương cách nào khác vẫn chính đáng để đáp ứng với tình cảnh của người Công giáo đang sống đời hôn nhân bất thường”. Và Đức Giáo Hoàng có nói với nhóm ký giả phỏng vấn ngài trên chuyến bay từ Rio về Rôma, rằng: “Vấn đề là: ta không thể giải quyết sự việc theo cách hỏi xem những người như thế có được phép rước Chúa hay không vì bất cứ ai có ưu- tư/suy nghĩ về vấn đề này theo kiểu cách như thế tức là đã không hiểu rõ vấn đề, một cách thực thụ.” Bằng vào câu trả lời trên, xem ra càng ngày càng thấy rõ, là: ta hiện có một vị giáo hoàng từng hiểu rõ vấn đề này.” (x. Michael G. Lawler, bđd).

Hiểu và biết rõ như thế, nhưng vẫn có một số giáo dân ở đời thường nay cũng biết, là: vấn đề của bậc hôn nhân “không bình thường” nơi người Công giáo, lại được đặt lên bàn cân để xem xét thêm ở chốn cao trọng trong Hội thánh. Hiểu và biết, để rồi cũng sẽ cùng với Hội thánh mừng vui và hy vọng cho mai ngày. Duy có điều, là: một số vị vẫn cứ lo cho tình trạng của một số người anh người chị ở đây đó, đã lung lạc, nên mới vắng bóng ở các buổi sinh hoạt phụng vụ và/hoặc sự kiện nào khác, rất ý nghĩa.

Vốn dĩ ưu tư nhiều, nên bần đạo lại cũng lục lạo tìm đến tâm tư cùng ý-kiến của bậc trưởng thượng, thì nhận được ân huệ Chúa trao ban cho có được một vài ý tưởng từ bậc thày, như sau:

“Sự việc các thể chế Công giáo đang xuống cấp thấy rõ là do có sự bất ổn trong xã hội phương Tây, thời buổi này. Chẳng hạn như: không chỉ mỗi hôn nhân theo kiểu chính mạch của người Công giáo mới giảm sút, thôi, mà ngay chính thể-chế hôn-nhân nói chung cũng suy đồi. Ngay như kiểu cách luân lý/đạo đức đặt ra cho Giáo hội cách chầm chậm và rất nhiều khó khăn lên hành-xử tính-dục và cơ cấu gia đình ở châu Âu từ thời Trung Cổ trở về sau xem ra đang bị gãy đổ trầm trọng. Sau đó, còn thấy các giáo hội khác ở phương Tây trong đó có Hội thánh Công giáo ngày càng phải đương đầu với nhu cầu tạo nên “cung cách sống xem ra mang nhiều chiều hướng rất xã-hội, mà dân thường ở huyện đang phải sống cũng rất mực. Trên hết mọi chuyện, hôn nhân là thể chế xã-hội, nên nếu Giáo hội không suy sụp thành một giáo phái thì các cặp phối ngẫu bình thường lành thánh không thể sống cuộc sống đúng như lòng đợi trông là không bị xã hội và/hoặc nề nếp văn hoá sờ chạm , nói chung. Con số các người Công giáo chung sống tình dục bất thường ngày càng gia tăng là chỉ dẫn cho thấy cung cách mà các giá trị của xã hội đang tạo mẫu cho nếp sống và quan niệm của người tín-hữu Kitô-giáo nói chung.

Và cũng thế, theo ngôn ngữ mục vụ, thì chuyện châm ngòi cho quả bom nổ chậm này bằng cách này hay cách khác đang là chuyện cần phải làm lắng dịu nếu ta không muốn giết chết cộng đồng người Công giáo và, quan trọng hơn nữa, nếu không muốn tước đi sự nâng đỡ hỗ trợ và ánh sáng soi dọi cho hàng ngàn vạn người đang có nhu cầu như thế.” (x. Eamon Duffy, Unfinished Journey: The Church 40 Years after Vatican II, Essays for John Wilkins)

Bàn luận về chuyện gia đình chồng/vợ, tái giá sinh hoạt với cộng đoàn/chòm xóm theo kiểu nhà Đạo ở cấp cao thì như thế. Luận bàn về chuyện vợ/chồng ở đời cũng có lúc giận hờn, trách móc, bỏ bê rồi trở về, theo kiểu người đời có lẽ cũng nên bàn nên kể theo kiểu phiếm luận hay “phiếm loạn”, bằng truyện kể ngày xưa, như sau:

“Ngày xưa có một người đàn ông giàu, vợ chết sớm, chỉ có độc một người con trai.

-Đứa con vốn người xấu nết, đần độn, lại là tay chơi bời lêu lổng không chịu học hành hay làm ăn gì cả.

Thấy con không lo nối nghiệp nhà, người nhà giàu rất buồn phiền, biết rằng của cải của mình sẽ có một ngày đội nón ra đi mà thôị Bởi vậy, ông bèn tính chuyện kiếm cho con một người vợ khôn ngoan đảm đang, để may ra nó sẽ ngăn chặn tay chồng, bảo vệ một phần nào cơ nghiệp. Nghĩ vậy, ông cất công đi khắp nơi tìm kiếm, nhưng đi đã nhiều nơi mà vẫn chưa thấy một người nào vừa ý.

Một hôm, đến một vùng kia, nhân mỏi chân, ông nghỉ lại một gốc đa bên đường. Ông bỗng thấy ở một cây táo gần đấy có một bọn trẻ đang tranh nhau trẩy ăn. Một chốc sau, một cô gái tuổi chừng đôi tám, cũng đến trẩy táo. Ông mới lân la lại gần hỏi xin ăn.

Lúc này, táo chín đã bị bọn người trước trẩy hết, chỉ còn những quả xanh, nhưng cô gái cũng cố chọn lấy những quả ương ương đưa cho khách.

Thấy cô gái tốt bụng, ông ta nghĩ: “Sởi lởi, trời gởi của cho, quăn co, trời gò của lại. Chỉ có người nào tốt bụng với mọi người mới xứng đáng được hưởng giàu có sung sướng”. Bởi vậy, ông mới tìm đến nhà cô gái, giả làm một người lỡ độ đường, xin nghỉ trọ một tối. Và rồi ông được gia đình cô gái ân cần tiếp đãi.

Để thử xem cô gái có khôn ngoan không, ông lân la làm quen với nàng. Khi biết cô sắp đi chợ, ông đưa ra một quan tiền nhờ mua hộ cho mình “một nắm gió, một bó lửa”. Cô gái chẳng nói chẳng rằng, mua về cho ông một cái quạt và một con dao đánh lửa. Thấy thế, ông thầm khen ngợi, nhưng vẫn định thử thêm cho biết.

Qua ngày hôm sau, ông dậy sớm, giở tay nải đưa cho cô mấy bát gạo nếp, nhờ nàng thổi giúp cho mình một nồi vừa cơm vừa bánh để ăn và đem đi ăn đường. Cô gái không từ chối, vội lấy gạo ra vo.

Trước khi cho vào nồi, nàng bớt lại một ít giã làm bột vắt bánh rồi hấp luôn vào cơm. Khi nàng bưng ra, ông già lấy làm vừa ý, cho là con người đó đủ cả đức hạnh, khôn ngoan, đảm đang ít có. Bèn quyết định trở về sửa soạn lễ hỏi cho con trai làm vợ.

Đứa con trai của ông từ ngày có vợ lại càng lêu lổng; hắn thường bỏ nhà đi đánh đàn, đánh đúm với bọn vô lại, làm cho ông hết sức buồn. Và điều làm ông lo lắng nhất là hắn thỉnh thoảng lại trộm tiền của ông, khi dăm bảy quan, khi một vài vác, tung vào cuộc đỏ đen. Mặc dù ông đánh đập, mặc dù vợ hắn khuyên lơn, nhưng hắn chứng nào vẫn tật ấỵ Dần dần ông buồn phiền thành bệnh. Một hôm, biết mình sắp chết, ông gọi con dâu đến bên giường dặn nhỏ:

-Này cha đã gần đất xa trời. Chồng con là một thằng “Phá gia chi tử”, cơ nghiệp này chỉ còn một sớm một chiều mà thôi. Cha rất thương con xấu số. Từ lâu cha làm ăn dành dụm, có để được một hũ vàng chôn ở sau vườn. Vậy cha cho riêng con hũ vàng đó, đừng cho chồng con biết. Sau này chồng con có thật sự ăn năn hẵng giúp cho nó làm lại cuộc đời.

Đứa con trai ông sau khi người cha qua đời, lại càng chơi bời mặc sức. Vợ hết khuyên lơn đến cầu khẩn, hắn chẳng những đã không nghe lại còn phũ phàng với vợ. Mỗi lần thua bạc, hai người lại càng xô xát. Nhiều lần vì vợ cản trở, hắn đánh đập vợ không tiếc tay và làm nhục nàng trước mặt mọi người. Một hôm để khỏi vướng, hắn viết giấy cho vợ đi lấy chồng khác rồi đuổi nàng ra khỏi cửa.

Từ đó, hắn phỉ chí tung hoành không một ai dám cản. Quả như lời đoán của bố hắn, mấy chục mẫu ruộng đều lần lượt “nướng” vào sòng bạc. Hết ruộng vườn tới nhà ở, chẳng bao lâu tất cả cơ nghiệp mấy đời lưu truyền lại đều sạch sành sanh . Cuối cùng không một đồng dính túi, không một nghề cầm tay, hắn đành bỏ làng mạc quê quán, đi lang thang khắp đầu đường xó chợ, ngửa tay xin ăn qua ngày.

Còn về người đàn bà sau khi bị chồng đuổi, mới đổi tên, tìm đến trấn thành mở một ngôi hàng nước. Sau ít lâu, kiếm được một số nhỏ, nàng bắt đầu buôn hàng tấm. Số vốn của nàng ngày một lớn dần. Một hôm, gặp hai em bé gái mồ côi đi ăn xin, nàng thương tình đưa về nuôi làm con, coi như ruột thịt. Cuộc đời dần dần nở hoa trước mắt nàng. Trong một dịp đi tìm kiếm củi, hai con nàng nhặt được một khúc gỗ mục, về chẻ ra thấy có mấy thoi vàng. Có vốn lớn lại có tài kinh doanh, nên chẳng bao lâu, nàng trở nên giàu có, nổi tiếng trong trấn. Tiền bạc tuôn về như nước. Tuy sống sung sướng nhưng nàng vẫn ở một thân một mình. Thấy nàng giàu có, nhiều kẻ ngấp nghé muốn “gá nghĩa Châu Trần”, nhưng người đàn bà ấy nhất định từ chối mọi lời đường mật. Mặc dù người chồng bạc bẽo và mặc dầu mười lăm năm xa cách, nàng vẫn không quên được tình xưa nghĩa cũ. Đã nhiều lần nàng thuê người lần đi các chợ búa phố phường dò hỏi nhưng tin tức của chồng càng hỏi, càng bặt tăm.

Năm ấy, sau mấy tháng hạn, lúa khoai chết mòn trên những cánh đồng nứt nẻ. Giá gạo cứ lên vùn vụt. Ngoài đường, người đi xin ăn kéo từng đoàn. Người đàn bà lúc này đã là bà chủ hiệu. Bà xin phép quan trên cho mình đem tiền gạo ra phát chẩn cho kẻ khó. Làm như thế, nàng còn mong một khi thấy yết thị dán khắp thôn xóm thì chồng mình tất sẽ lần mò về, nếu hắn còn sống. Y như thế thật, ngày bắt đầu phát, nàng đã thấy bóng dáng của chồng ngồi ở hàng cuối đội quân lĩnh chẩn. Đúng là hắn. Từ ngày bắt đầu cầm bị gậy đến nay, hắn vẫn chưa có cách gì để sống khá hơn và đỡ hèn hạ hơn trước. Bây giờ nghe nói có phát chẩn, hắn vội mò đến đây và ngồi đầu hàng về phía tả. Thế nhưng khi phát, những người giúp việc cho bà chủ hiệu lại được lệnh phát từ phía hữu lạị Khi sắp sửa đến lượt hắn thì bọn họ tự nhiên nói lớn:

-Hôm nay đã hết gạo, mời bà con về đợi đến ngày mai!

Hắn buồn bực trở ra. Qua ngày sau, hắn cố tìm đến thật sớm, ngồi vào đầu hàng bên hữu. Nhưng hắn không ngờ, những người phát chẩn hôm nay lại bắt đầu phát từ phía bên kia. Lúc sắp phát đến hắn thì chúng lại giơ thúng không lên:

-Hôm nay thế là lại hết gạọ Bà con hãy đợi đến mai.

Hắn thở than cho số đen đủi, lần trở ra về. Qua hôm sau, lại mò đến thật sớm. Lần này hắn len vào ngồi đúng chính giữa đội quân lĩnh chẩn. Trong bụng hắn nghĩ lần nầy thì không để mất phần được. Nhưng đến giờ phát, hắn không ngờ người nhà của bà chủ hiệu hôm nay lại phát hai đầu phát lại và cuối cùng người không được gì cả, vẫn lại là hắn. Ba lần hỏng cả ba, hắn rất ngao ngán, bèn đánh liều tìm đến dinh cơ bà chủ để xin ăn. Gặp hai đứa con gái nuôi của vợ, hắn ngả nón kêu van hết lời. Ở trong nhà; người đàn bà nhìn ra biết là chồng, đã do mưu của mình mà đến đây, bèn sai người hầu ra hỏi, xem hắn có biết làm việc gì không để thuê mượn. Nghe hỏi thế, hắn vội trả lời:

-Xin ông bẩm với bà lớn rủ lòng thương, cho tôi được ở hầu bà, rửa bát, quét nhà, mọi việc tôi đều xin hết sức. Chỉ cho tôi ăn ba miếng là đủ rồi!

Người nhà trở ra cho hắn biết bà chủ nhận lời. Từ đó, hắn chăm chỉ làm lụng, cố làm vừa lòng chủ. Nhưng chung quy hắn vẫn không biết chủ chính là vợ cũ của mình. Về phần người vợ cũng không hề để lộ một tí cho hắn biết, chỉ dặn hai con và người nhà đối đãi tử tế mà thôi. Sau một thời gian, thấy hắn chịu khó làm ăn, người đàn bà mừng lắm. Một hôm nàng cho gọi hắn lên nhà hỏi xem có biết chữ nghĩa gì không! Hắn đáp:

-Tôi lúc nhỏ được đi học có biết ít nhiều.

-Vậy từ mai trở đi, anh không hầu hạ nữa, cho anh ở gian nhà khách dạy đám trẻ học tôi sẽ trả mỗi năm ba mươi quan.

Nghe nói, hắn tưởng không có gì sung sướng hơn thế nữa, cảm thấy lòng nhân đức của bà chủ đối với mình bằng trời bằng biển, vội nhận lời ngay . Từ đó, hắn đóng vai thầy đồ cố sức làm cho chủ tin cậỵ Nhưng người vợ vẫn thử mãi không thôi.

Một lần, gặp ngày tết, bà chủ sai lấy tiền ra cho kẻ hầu người hạ. Nàng nói:

-Ta cho mỗi người năm quan, hãy mang đi đánh bạc cho vui, nếu hết sẽ cho thêm. Thầy đồ ta cũng được năm quan tiền. Nhưng trong khi mọi người đem tiền nướng vào xóc đĩa, bài mười, thì trái lại, hắn mang nguyên vẹn số tiền đó về gửi cho chủ. Bà chủ hỏi:

-Tại sao anh không thích đánh bạc? Hắn trả lời:

-Bẩm bà, tôi ngày xưa, vì cờ bạc mà đến nông nỗi nàỵ Cho nên bây giờ buộc chỉ cổ tay thề rằng không đụng đến nó.

Thế rồi luôn miệng, hắn kể hết cho chủ nghe, từ cuộc đời cũ có ruộng nhiều, có vợ ngoan như thế nào, rồi bán ruộng đuổi vợ ra sao, cho đến lang thang đói rách, và ngày nay đã ăn năn hối lỗi v.v… Bà chủ hỏi:

-Anh còn thương vợ nữa không? Hắn rầu rĩ:

-Tôi đã nhiều lần dò tìm mà không thấỵ

-Nghe anh nói tôi rất thương tình. Vậy tôi cho anh năm quan để anh đi tìm vợ. Nếu hết tiền mà vẫn chưa thấy, anh cứ về đây, tôi sẽ cho thêm mà tìm cho ra.

Hắn mừng rỡ vâng vâng, dạ dạ, mang tiền đi tìm. Nhưng sau ba tháng trở về với bộ mặt thiểu não, hắn cho chủ biết không hề thấy tung tích đâu cả, chắc là vợ hắn đã chết. Từ đấy, vợ thấy chồng chí tình, lại có lòng tu tỉnh, nên rất mừng. Nhưng nàng vẫn chưa ra mặt vội, chỉ an ủi hắn hãy ở lại đây, may ra sẽ có ngày hội ngộ.

Một hôm, nhân ngày giỗ cha chồng, bà chủ nhờ thầy đồ chép bài văn tế. Hắn ta ngạc nhiên và bội phần mừng rỡ khi thấy bài vị của tổ tiên nhà chủ chính là bài vị tổ tiên mình. Lập tức, hai vợ chồng ôm nhau khóc lóc. Rồi sau khi cúng xong, họ mời làng xóm và người nhà ngồi lại kể rõ sự tình. Ai nấy đều cho là một cuộc tái ngộ hiếm có.

Về sau, hai vợ chồng dựng vợ gả chồng cho hai con nuôi, giao cửa hiệu lại cho chúng cai quản. Sau đấy, họ dắt nhau trở về quê hương xưa, chuộc lại vườn tược nhà cửa cũ. Và sau khi đã sống yên ổn ở quê nhà, vợ mới sai đào hũ vàng bố chồng cho mình ngày xưa lên . Nàng nói:

-Có vàng chưa chắc đã có hạnh phúc. Cho nên trong những cơn túng thiếu nhất, tôi vẫn không cần đến nó.

Nói đoạn, đem số vàng ấy cúng cho đền chùa để bố thí cho người nghèọ Từ đấy, hai vợ chồng sống với nhau đến đầu bạc. Câu tục ngữ: “Làm trai rửa bát quét nhà. Vợ gọi thì ‘Dạ bẩm bà tôi đây!'” là do chuyện này mà ra.” (Đỗ Tuấn Hải sưu tầm)

Ngồi buồn, nhiều vị nghĩ mãi cũng chẳng thấy buồn bực, buồn bã hoặc buồn chán, mà chỉ buồn cười cho chuyện người đời và đời người. Chuyện trăm năm vợ chồng người lo chung sống cho êm đẹp, mà sao nhiều vị cứ thích đưa ra luật này lệ nọ để giải quyết ở cấp cao. Bởi, có giải quyết ở cấp nào đó, cũng đâu đến được với cấp trực tiếp của đương sự ở dưới chỉ muốn sống vui, sống hoà hoãn với mọi người, mà thôi.

Chẳng thế mà, người nghệ sĩ ở ngoài đời chỉ quen với những lời hát câu ca, như sau:

“Và rồi mùa thu về trong mắt em
Hàng cây lá úa xanh xao nhiều
Vòng tay khép kín đôi mi nồng
Chuyện mình ngày xưa đành xin lãng quên
Cuộc tình đã chết theo thu tàn
Người về đấy xin chọn giấc mơ.”

(Ngô Thụy Miên – bđd)

Hát thế rồi, có lẽ bạn và tôi, ta cũng nên tìm về với Lời Vàng khi trước, mà làm nền cho tâm tình và lập trường sống của ta, mai sau. Lời vang của đấng thánh hiền, bần đạo bầy tôi đây g8ạp được, như thế này:

“Tôi rất vui mừng vì đã gặp thấy trong số con cái của Bà,

những người sống trong sự thật,

đúng như điều răn chúng ta đã nhận được từ Chúa Cha.

Thưa Bà, bây giờ tôi xin Bà điều này

-đây không phải là một điều răn mới tôi viết ra,

nhưng là điều răn chúng ta đã có từ lúc khởi đầu-

đó là: chúng ta phải yêu thương nhau.

Yêu thương là sống theo các điều răn của Thiên Chúa.

Như anh em đã được nghe từ lúc khởi đầu,

điều răn này là:

anh em phải sống trong tình thương.”

(2Ga 1: 4-6)

Xem như thế, thì: lời cuối của bậc thày bần đạo đây chứ không của ai khác, đó là: sống và áp dụng những lời vàng ở trên, mà thôi. Còn, chuyện phiếm luận hay “phiếm loạn” về chủ đề nào đi nữa, cũng chỉ là cơ hội để tỏ bày điều được răn dạy mà thôi.

Nói thế rồi, giờ đây bần đạo lại xin thêm một đề nghị, là: ta cứ ngâm nga lời cuối của bài ca người nghệ sĩ vẫn hát, rất mê say, rằng:

“Chuyện mình ngày xưa đành xin lãng quên
Cuộc tình đã chết theo thu tàn
Người về đấy xin chọn giấc mơ.”

(Ngô Thụy Miên – bđd)

Giấc mơ hôm nay ta xin chọn, là: cứ “sống trong tình thương” anh em với nhau, dù có chịu phẩm bình, bàn luận hay “phiếm loạn” bấy lâu nay.

Trần Ngọc Mười Hai

Những muốn nhắn người

và nhắn mình

những câu như thế.

Theo đạo Công Giáo nhờ các Thánh Thiên Thần

Theo đạo Công Giáo nhờ các Thánh Thiên Thần

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Theo đạo Công Giáo nhờ các Thánh Thiên Thần

Một gia đình ngoại giáo ở Đà Nẵng rất có thiện cảm với Đạo Công Giáo và tận tình giúp đỡ các Linh Mục đang truyền giáo tại Việt Nam. Đã hai lần gia đình này cứu tôi thoát khỏi nanh vuốt của Quan Tổng Trấn và các quân lính lùng bắt các Linh Mục.

Câu chuyện xảy ra tại Việt Nam vào năm 1896. Một Linh Mục Thừa Sai người Pháp kể lại như sau.

Một gia đình ngoại giáo ở Đà Nẵng rất có thiện cảm với Đạo Công Giáo và tận tình giúp đỡ các Linh Mục đang truyền giáo tại Việt Nam. Đã hai lần gia đình này cứu tôi thoát khỏi nanh vuốt của Quan Tổng Trấn và các quân lính lùng bắt các Linh Mục. Họ chẳng những cho tôi trú ẩn trong nhà mà còn thay phiên nhau canh phòng cẩn mật ngày đêm để không một ai nhận ra hoặc nghi ngờ về sự hiện diện của tôi. Chưa hết, họ chu đáo dọn cho tôi những món ăn đặc biệt Việt Nam với gạo thơm và nước trà hảo hạng.

Nhận thấy những cử chỉ tốt lành của họ tôi vui mừng thầm nghĩ:

– Hẳn đây là một gia đình hội đủ điều kiện để tôi có thể truyền bá đạo lý Kitô Giáo cho họ.

Nghĩ thế nên tôi ra công thuyết phục họ. Tôi cố gắng trình bày mọi khía cạnh cao cả tuyệt vời của Kitô Giáo. Tôi cũng tìm đủ lý lẽ minh chứng:

– Kitô Giáo rao giảng một nền luân lý thật hiền dịu và trong sạch, dựa trên Tình Yêu THIÊN CHÚA và tình thương con người.

Tôi thi thố trọn tài năng giảng thuyết hầu đưa gia đình ngoại giáo trở về cùng THIÊN CHÚA. Nhưng tôi ngạc nhiên và thất vọng biết bao khi thấy rằng:

– Họ hoàn toàn dửng dưng trước tất cả lý lẽ của tôi. Kitô Giáo không có gì mới lạ để lôi cuốn họ!

Thấy thế, tôi liền kêu đến Trời Cao. Tôi khẩn khoản xin THIÊN CHÚA soi sáng cho tôi biết phải dùng phương thế nào và rao giảng ra sao để đưa các đại ân nhân của tôi gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Và THIÊN CHÚA nhận lời tôi cầu xin qua trung gian một cậu bé bằng phương thế thật bất ngờ và vô cùng tuyệt diệu.

Cậu bé trạc 12-13 tuổi và là con của người hàng xóm. Cậu hoàn toàn mù tịt về Đức Tin Kitô nhưng đã tình cờ nghe đọc vài đoạn Kinh Thánh dịch ra tiếng Việt. Một ngày, cậu bé kể lại cho cô con gái gia đình chủ nhà tôi đang trọ nghe câu chuyện Tobia và Tổng Lãnh Thiên Thần Raphae, vị dẫn đường cho thiếu niên. Đây là cô con gái cưng của hai ông bà, vừa thông minh vừa duyên dáng.

Ngay ngày hôm sau, thiếu nữ nói với tôi:

– Con biết có một tôn giáo đẹp hơn tôn giáo của Cha. Đó là tôn giáo của các Thánh Thiên Thần, Sứ Giả của Trời Cao. Nếu Cha cũng biết tôn giáo này và thông truyền cho chúng con thì con xin lãnh trách nhiệm đưa toàn gia đình con trở về với tôn giáo tuyệt vời ấy!

Nghe thiếu nữ nói tôi hiểu ngay bàn tay THIÊN CHÚA đã can thiệp. Tôi hân hoan trả lời:

– Được rồi! Tôi sẽ nói cho cô và gia đình cô nghe về giáo lý và truyện các Thánh Thiên Thần.

Mọi người chấp thuận và ngồi quây quần chung quanh tôi. Tôi cẩn thận rút từ Kinh Thánh tất cả đoạn nào liên quan đến các Thánh Thiên Thần, bắt đầu từ Cựu Ước rồi sang Tân Ước. Trước tiên là chuyện con rắn trong vườn Địa Đàng và Thiên Thần cứu sống Isaac, con trai duy nhất của tổ phụ Abraham, sang đến thị kiến về Thiên Thần của ông Giuđa Maccabêô.. Trong Tân Ước, tôi bắt đầu câu chuyện Tổng Lãnh Thiên Thần Gabrie được THIÊN CHÚA sai đến truyền tin cho Đức Trinh Nữ Rất Thánh MARIA, và kết thúc với chuyện các Thánh Thiên Thần xuất hiện nơi mồ Đức Chúa GIÊSU KITÔ, loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Sau cùng, khi Đức Chúa GIÊSU KITÔ Về Trời, các Thánh Thiên Thần từ Trời xuống xin mọi người giải tán.

Suốt cuộc đời truyền giáo, chưa bao giờ tôi thành công trong việc giảng thuyết như lần này. Mọi người há hốc mồm, chăm chú nuốt từng lời tôi nói, say mê theo dõi các câu chuyện tuyệt diệu về các Thánh Thiên Thần. Khi tôi dứt lời, mọi người đồng thanh kêu lên:

– Chúng con xin từ bỏ các bụt thần ngoại giáo để tin nhận THIÊN CHÚA Toàn Năng, Đấng có các Thánh Thiên Thần làm Bộ Trưởng và Ngài đã ban cho từng thụ tạo một Thánh Thiên Thần Hộ Thủ, chăm sóc và giữ gìn!

Với niềm vui khôn tả, tôi dõng dạc tuyên bố:

– Thế thì kể từ giờ phút này, hỡi các bạn, các bạn là tín hữu Kitô, bởi vì, tất cả những gì tôi vừa kể cho các bạn nghe, chỉ mới là phần nhỏ của Kitô Giáo, tôn giáo do chính Đức Chúa GIÊSU KITÔ thành lập.

Những ngày kế tiếp, tôi bắt đầu giảng giải giáo lý một cách có hệ thống hơn. Và sau một tháng, tôi rửa tội cho toàn thể gia đình ân nhân của tôi.

Kinh đọc cùng Thánh Thiên Thần Bản Mệnh. ”Lạy Thiên Thần Chúa là đấng gìn giữ con. Xin Thiên Thần soi sáng tâm trí con, gìn giữ trái tim con, nâng đỡ thân xác con và hướng dẫn con, vì con được Tình Yêu Thiên Quốc giao phó cho Thiên Thần chăm sóc. Amen”.

… ”Này Ta sai thiên sứ đi trước con, để gìn giữ con khi đi đường và đưa con vào nơi Ta đã dọn sẵn. Trước mặt ngài, hãy ý tứ và nghe lời ngài. Đừng làm cho ngài phải chịu cay đắng, ngài sẽ không tha lỗi cho con, vì danh Ta ngự trong ngài. Nếu thực sự con nghe lời ngài, nếu con làm mọi điều Ta nói, Ta sẽ trở thành kẻ thù của kẻ thù con, đối phương của đối phương con” (Xuất Hành 23,20-22).

(”Le Ciel Parmi Nous”, Editions Bénédictines, 1997, trang 173-175)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Buộc cẳng chim trời

Buộc cẳng chim trời

Tưởng Năng Tiến


The “world wide web” is not a conspiracy of spiders.
Khuyết danh


Chim trời . Nguồn: flick.com

Trong mục Ý kiến ngắn trên diễn đàn talawas, vào ngày 9 tháng 9 năm 2008, ông Phan Hoàng Sơn phát biểu như sau: “Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ phức tạp nhất của thế kỷ vừa qua. Hai chiến tuyến được thành lập để công kích và ca ngợi ông, mặc dù cả hai bên đều yêu mến các tình ca của ông.”

Vụ thiên hạ thành lập chiến tuyến “để công kích và ca ngợi Trịnh Công Sơn” ra sao, nếu có, để đó, bữa nào rảnh, tính sau. Nhưng chuyện cả nước đều yêu nhạc của đương sự là một sự kiện hoàn toàn khách quan. Muốn bài bác hay nói ra (e) hơi khó. Mà nói vô thì (nghe) có vẻ xu thời.

Còn nói tình ngay thì tui hoàn toàn không hề có ý bài bác, cà khịa, nói ra (hay nói vô) gì ráo. Tiện đây, tui chỉ muốn nói (thêm) rằng họ Trịnh không chỉ có tài mà còn có… thời nữa kìa. Ổng không những đã hay mà còn… hên (dữ) lắm!

Ngay sau khi đương sự vừa xuất hiện (trong những buổi sinh hoạt văn nghệ bỏ túi, giản dị với chiếc đàn guitar, trầm lắng bên cạnh Khánh Ly), mấy cái máy Akai cồng kềnh cũng – theo chân nguời Mỹ – tràn vào nước Việt, mang sáng tác của Trịnh Công Sơn đến mọi hang cùng ngõ hẻm ở miền Nam.

Rồi đất nước thống nhất. Trong lúc bộ đội và dân chúng miền Bắc ào ạt vào Nam, âm nhạc của Trịnh Công Sơn lặng lẽ đi chiều ngược lại – từ Nam ra Bắc. Và ông đã chinh phục được luôn số thính giả của nửa phần quê hương còn lại.

Trịnh Công Sơn tài ba (thấy rõ) nên được rất nhiều người coi là niềm hãnh diện của dân tộc Việt. Tôi, tiếc thay, không có cái may mắn được chia sẻ niềm hãnh diện này – như “rất nhiều người” khác.

Vì sinh ra trong một gia đình sống nhiều đời bằng nghề lý số, bất cứ ai không phải dân “pro” mà thích bói toán hay dự đoán bậy bạ (và trật lất) là tôi không thích. Nghỉ chơi, ít ra (cũng) cho tới tết. Hoặc (không chừng) tới chết luôn!

Với riêng tôi, Trịnh Công Sơn đã mắc phải lầm lỗi (chí tử) như thế. Hơn ba mươi năm trước, khi cuộc chiến Việt Nam còn đang ở giai đoạn khốc liệt, ông đã mường tượng ra một viễn ảnh thanh bình – làm say đắm lòng nguời: “Khi đất nuớc tôi không còn chiến tranh, trẻ thơ đi hát đồng dao ngoài đường.”

Chiến tranh chấm dứt. Nam, Bắc hoà lời ca. Tôi ca (hơi) khó nghe nên bị túm. Dù vào trại cải tạo nhiều năm, giọng (ca) tôi vẫn không thay đổi được bao nhiêu. Bởi vậy, vừa ra khỏi tù là tôi… vù luôn ra biển. Sau khi đã đi hết biển, mặc cho ông Trần Văn Thủy kêu gào, tôi cứ bỏ đi luôn. Cho nó chắc ăn!

Do đó, cái vụ “trẻ thơ đi hát đồng dao ngoài đường” – nếu có – tôi cũng không được thấy. Mà hình như thì không (có) đâu.

Không dám mua vé máy bay về (thiệt) nhưng nhiều đêm – những đêm thâu, sâu hun hút ở Nam Dương, ở Thái Lan, ở Tân Gia Ba, hay ở Hoa Kỳ… – tôi vẫn thường lò dò, bằng những bước chân của kẻ mộng du, trở lại cố hương.

Tôi lang thang, qua khắp mọi miền đất nước. Phần lớn là những địa danh mà tôi chưa bao giờ có dịp ghé qua, trước khi (đành đoạn) bỏ đi. Không nơi đâu có chuyện (“trẻ thơ đi hát đồng dao ngoài đường”) thần tiên như thế. Sau cuộc chiến, quả nhiên, con nít có la cà và tụm năm tụm ba (hơi nhiều) trên đường phố nhưng tuyệt nhiên không thấy đứa nào vui đùa hay hát hỏng gì xất cả.

Từ Hà Nội, ký giả Huw Watkin tường thuật rằng “cứ năm đứa bé đang lê trên vỉa hè của ba mươi sáu phố phuờng là có một đứa… ăn xin. Bốn đứa còn lại, xem chừng, cũng bận: đánh giầy, năn nỉ người đi đường mua vé số, dắt mối, bán ma túy…” (“Children Sold Into Begging, Pimping And Drug Dealing”, South China Morning Post, 18 April 2000).

Cũng vẫn theo y như lời Huw Watkin thì lực lượng trẻ con đi ăn mày, làm ma cô và bán ma túy… ở Việt Nam đang dần được đưa vào tổ chức (“… recent media reports that children are being increasingly used by organized begging gangs, pimps and drug dealers”).

Chuyện này thì thằng chả nói hơi… thừa! Ở một xứ sở mà Nhà nước bao biện mọi chuyện, và lãnh đạo khắp nơi – kể cả chùa chiền, giáo đuờng hay thánh thất… – làm sao để cho trẻ em (những mầm non tương lai của Tổ quốc) sống vô tổ chức được, cha nội?

Tôi còn dự đoán rằng, trong tương lai gần, lũ trẻ thơ bụi đời ở Việt Nam (dám) sẽ được đoàn ngũ hoá – và cho thắt khăn quàng có màu sắc khác nhau – để dễ điều phối. Đại loại như, khăn quàng xanh: đánh giầy; khăn quàng tím: dắt mối; khăn quàng trắng: ma túy; khăn quàng hồng: mãi dâm; khăn quàng nâu: ăn mày; khăn quàng đỏ: thu thuế và theo dõi hoạt động, cũng như tư tưởng, của những loại khăn quàng khác!

Cũng như Trịnh Công Sơn, tiếc thay, tôi đoán… trật! Cho tới bữa nay, vẫn không thấy những sắc mầu khăn quàng (đỏ, xanh, vàng, tím) phất phới mọi nơi – trên đường phố Sài Gòn hay Hà Nội – như tôi đã hình dung!

Đảng chưa rảnh để cho đám trẻ em bụi đời vào khuôn phép. Nhà Nước Việt Nam còn phải bận tâm về nhiều “đám” khác (xem chừng) cấp thiết hơn nhiều: xây dựng lại đội ngũ trí thức, chấn chỉnh lại đội ngũ báo chí, củng cố lại đội ngũ công nhân… Và quan trọng hơn hết là tìm cách quản lý cái đám blogger, một giới người vừa mới xuất hiện – hết sức đột ngột và lộn xộn – ở xứ sở này.

Blog có thể được mô tả như là một hình thức “dân báo”, và blogger là một nhà báo tự do – theo như quan niệm của bà Tạ Phong Tần, một trong những blogger đang được công luận chú ý, ở Việt Nam:

“Đã qua rồi cái thời người dân chỉ được biết những gì nhà cầm quyền muốn cho họ biết, và không được biết những gì nhà cầm quyền muốn bưng bít, giấu nhẹm bằng cách quản lý chặt chẽ toàn bộ hệ thống báo chí trong nước…”

“Khi bạn đưa thông tin lên blog của bạn, tức bạn đã đem sự hiểu biết của bạn truyền tải cho người khác để mọi người cùng được biết, qua đó, mọi người cùng bàn luận, cùng kiểm tra xem, dùng quyền công dân của mình đòi hỏi công chức Nhà nước phải thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà luật pháp quy định.”

“Có thể sự hiểu biết của bạn chỉ là một phần nhỏ nào đó trong đời sống xã hội, nhưng nhiều người góp lại sẽ tạo nên một bức tranh hiện thực xã hội hoàn chỉnh. Khi tự mình làm một nhà báo công dân, chính bạn đã góp phần công khai, minh bạch hóa xã hội, cùng chung sức xây dựng một xã hội dân sự cho đất nước chúng ta.”

Quan niệm tích cực vừa nêu, tiếc thay, đã không được chia sẻ bởi những kẻ đang nắm quyền lực ở Việt Nam. Vốn đa nghi, giới người này có khuynh hướng xem blog (nói riêng) và web (nói chung) chỉ là “âm mưu của những con nhện” – những kẻ đang âm mưu “diễn biến hoà bình” – cần phải được theo dõi và kiểm soát, nếu được.

Mà tui thì sợ còn lâu mới được. Tầu còn bó tay thì nói chi ta. Chuyện quản lý Internet ở nước láng giềng, được giáo sư giáo sư Cao Huy Thuần tóm gọn, như sau: “80 muơi triệu con chuột thì mèo đâu ra mà bắt cho hết.”

Nhà nước Trung Hoa vĩ đại đã từng thành công mỹ mãn trong việc huy động dân chúng tóm gọn vài tỉ con chim (sẻ) mà nay đang loay hoay không biết đối phó ra sao với mấy triệu con chuột (điện). Quyết tâm của họ, xem chừng, hơi thấp. Quyết tâm của ta, xem ra, cũng… không cao!

Công cụ truyền thông “gang thép” nhất của nuớc Việt Nam, Công an Nhân dân Online (Cơ quan Ngôn luận của Bộ Công an), đọc được hôm 5 tháng 10 năm 2007, đã mô tả blog như là một thứ “hệ lụy” và “quản lý blog” là… “Chuyện buộc cẳng chim trời”. Thiệt, nghe mà muốn ứa nước mắt:

“Theo ước tính từ Bộ Thông tin và Truyền thông, có khoảng 3 triệu blog tại Việt Nam. Và mỗi ngày có hàng chục ngàn blog mới được khai sinh và việc một người sử dụng nhiều blog với những mục đích khác nhau là hoàn toàn có thể. Đã có những phát sinh và hệ lụy từ blog…”

“Tuy nhiên, liệu có quản lý được không? Quản lý một blog mà danh tính của nó có thể thay đổi trong chớp mắt và những thông tin hiển thị không thực sự chính xác thì đó là cách buộc cẳng chim trời. Hầu hết các blog đều là dịch vụ của một nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài, vì vậy việc quản lý sẽ càng trở nên nan giải hơn…”

“Trong bộn bề của những ngày bắt đầu Bộ Thông tin và Truyền thông, trong rất nhiều những vấn đề cần giải quyết và đưa ra những hướng dẫn cụ thể, đưa ra việc quản lý blog với những quy chế hướng dẫn cụ thể là điều chưa khả thi.”

“Việc truy tìm chủ nhân blog có thể được đối với cơ quan an ninh mạng hay lực lượng cảnh sát mạng. Nhưng đó là việc làm mang tính đối phó chứ không phải là cách làm mang tính chiến lược.”

Trời đất, làm sao mà có “chiến thuật” hay “chiến lược” gì cho kịp chớ? Coi: mới hôm qua còn cả đống cà phê chui, bữa nay (tất tần tật) đều biến thành… cà phê Internet hết trơn hết trọi!

Giấc Nam Kha khéo bất bình.
Bừng con mắt dậy thấy mình trắng tay!


Khi khổng khi không, nhà đương cuộc Hà Nội mất (độc) quyền thông tin (mà họ đã từng nắm chặt được) từ hơn nửa thế kỷ nay. Bằng nỗ lực tuyệt vọng – để… hòng “cứu vãn tình thế” – Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký ban hành Nghị định liên quan đến việc quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet ở Việt Nam, theo như tường thuật của phóng viên Thiện Giao (nghe được qua RFA) hôm 5 tháng 9 năm 2008 vừa qua.

Ta không có tới tám mươi triệu con chuột như Tầu nhưng tính rẻ cũng (đâu chừng)… bốn triệu! Mèo đâu ra mà bắt cho kịp chớ?

Công an mạng và cảnh sát mạng lại không thể đào tạo dễ dàng như mấy ông bạn đồng nghiệp, bên ngành giao thông. Loại sau, khỏi cần huấn luyện, cứ quăng ra đường là tụi nó xông xáo đi ghi giấy phạt để… kiếm thêm chút cháo. Chớ còn rình bắt chuột (điện) thì đòi hỏi cần phải có nghiệp vụ cao mà lại chả được ăn cái… giải (rút) gì, ngoài số tiền lương… chết đói.

Buộc cẳng chim trời hay buộc chỉ chân voi đều là những chưyện (rất) khó thành công.

– Ủa, không thành công thì thành nhân chớ có mất mát gì đâu mà sợ?

– Sợ chớ, theo luật tiến hoá thì đi tới mới có hy vọng thành nhân. Còn cố kìm giữ cả một dân tộc trong tăm tối, dốt nát và nghèo đói… là đi giật lùi. Bước lui thì chỉ có thể thành dã nhân mà thôi!

Tưởng Năng Tiến

BÀI HỌC KIÊN NHẪN

BÀI HỌC KIÊN NHẪN

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

(Xh 17, 8-13; 2 Tm 3, 14; 4,2; Lc 18, 1-8)

Ta vẫn thường nghe nói : Vạn sự khởi đầu nan. Câu nói như muốn nói lên rằng  muôn việc khởi đầu đều khó khăn. Dĩ nhiên, bất cứ việc gì, cái khó khăn là ở buổi đầu, công việc còn mới lạ, chưa quen, chưa có kinh nghiệm giải quyết. Làm lâu ngày thì quen dần, nhờ rút tỉa kinh nghiệm mà trở nên tài giỏi, lúc đó thấy công việc như là dễ dàng.

Và, thường, kèm theo câu nói đó, người ta thường “chua” vào một câu cho vui nữa đó là : “gian nan bắt đầu nản”. Câu nói này cũng ngụ ý rằng khi con người gặp những chuyện khó khăn trong cuộc đời, nếu không cố gắng và không nhẫn nại thì người ta sẽ buông xuôi.

Thực tế cuộc sống là như thế với những chuyện khó khăn nhưng trong thực tế cũng không phủ nhận được chuyện thành công nếu như chịu thương, chịu khó và kiên nhẫn. Kiên nhẫn sẽ có những thành quả hết sức tốt đẹp mà ít ai có thể ngờ tới.

Ở Trung Hoa, dân gian ai cũng thuộc nằm lòng câu chuyện nhà sư Đường Tam Tạng hành trình qua Tây Trúc thỉnh kinh, mong đem về phổ biến tại quê nhà. Bộ sách Tây Du ký đã khéo léo diễn tả cuộc hành trình thỉnh kinh này, để được coi là Đệ nhất kỳ thư trong Tứ Đại thư của văn học Tàu. Tuy có thêm thắt nhiều chi tiết có vẻ hoang đường, nhưng bộ sách trên đã chứng minh được cái giá trị của việc kiên tâm bền chí trong đời : Đường Tăng đã chiến thắng đủ loại quỷ sứ ma vương, cũng như với chính những đồng minh nội thù, qua một chuỗi ngày dài đằng đẵng, để kết cục đem về được bộ Kinh Phật quý giá.

Trong lịch sử cứu độ dĩ nhiên đã có vô số những mẫu gương cũng như những bài học về sự kiên nhẫn, về sự bền đỗ.

Bài đọc trong sách Xuất Hành hôm nay phần nào gợi cho chúng ta bài học của kiên nhẫn. Sách Xuất Hành kể lại câu chuyện quân Amalếch đến đánh Israel tại Rơphiđim. Để đối phó với trận chiến, ông Môsê bảo ông Giôsuê: “Anh hãy chọn một số người, và ngày mai ra đánh Amalếch. Còn tôi, tôi sẽ đứng trên đỉnh đồi, tay cầm cây gậy của Thiên Chúa.”

Môsê đã bảo như thế và ông Giô suê đã làm như vậy. Ông giao chiến với Amalếch, còn các ông Môsê, Aharon và Khua thì lên đỉnh đồi.  Buồn cười một chuyện là khi nào ông Môsê giơ tay lên, thì dân Israel thắng thế; còn khi ông hạ tay xuống, thì Amalếch thắng thế. Không thể nào giơ tay lên mãi vì mỏi và rồi người ta lấy một hòn đá kê cho ông ngồi, còn ông Aharon và ông Khua thì đỡ tay ông, mỗi người một bên.

Nhờ kiên nhẫn như thế ông Giôsuê đã dùng lưỡi gươm đánh bại Amalếch và dân của ông ta.

Sau trận chiến, Đức Chúa dặn ông Môsê: “Hãy chép lại việc này vào sách để lưu niệm và hãy nói vào tai Giô-suê rằng: Ta sẽ xoá hẳn tên tuổi Amalếch, khiến cho thiên hạ không còn nhớ đến nó nữa.”

Để ghi dấu kỷ niệm này ông Môsê dựng một bàn thờ và đặt tên là: “Đức Chúa, cờ trận của tôi.” và ông nói: “Bởi vì một bàn tay đã giơ lên chống lại ngai của Đức Chúa, nên có chiến tranh giữa Đức Chúa Amalếch từ đời nọ đến đời kia.”

Câu chuyện kể lại hết sức hấp dẫn. Nếu như chúng ta ở đó, chứng kiến cuộc chiến đó thì chúng ta sẽ nực cười bởi vì khi Môsê giơ tay lên thì dân Israel thắng còn bỏ tay xuống thì thua. Kiên trì lắm mới đỡ tay của Môsê. Khó có ai mà đỡ nỗi khi phải đỡ như thế trong suốt trận chiến. Nhưng vì muốn đánh thắng địch quân nên phải kiên nhẫn và kiên nhẫn.

Câu chuyện kiên nhẫn trong trận chiến đó ngày hôm nay ta đọc lại, ta thấy vẫn là bài học hay cho sự kiên nhẫn trong cuộc đời. Lắm lúc ta nhận ra vì thiếu kiên nhẫn mà ta lại vụt mất điều này điều kia trong cuộc sống.

Giản đơn như con tằm kéo nhện giăng tơ. Không phải ngày một ngày hai mà nó giăng được tơ nhưng thật là lâu và đúng ngày đúng buổi nó mới nhả tơ ra để người ta có sợi để mà kéo. Để được tấm vải đẹp, con nhện đã lao nhọc và phải mất thời gian.

Trong tâm tình đó, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ kiên trì và nhẫn nại. Kiên trì và nhẫn nại mà Chúa Giêsu dạy không phải là giơ tay lên như Môsê để chiến thắng quân địch hay là kiên nhẫn để chờ con nhện giăng tơ kéo sợi. Kiên nhẫn Chúa Giêsu dạy các môn đệ đó là kiên nhẫn cầu nguyện, kiên nhẫn kết hợp mật thiết đời mình với Chúa.

Thời gian chờ đợi đó cũng là lúc ta phải học hỏi cho biết đầy đủ ý muốn của Chúa. Thánh Phaolô muốn ta lưu tâm thật nhiều tới việc kiên tâm bền đỗ này, khi ngài đưa ra hình ảnh một cuộc chạy đua thể thao : rất nhiều kẻ tham dự, nhưng chỉ có một người được thưởng ở đích tới. Một số lớn đã nản chí bỏ cuộc giữa đường, khiến cho cố gắng mình hóa thành vô ích. Chỉ những ai kiên nhẫn và cố gắng thì mới có thể chạy về cùng đích như trong các cuộc đua như chũng ta vẫn thấy diễn ra trong những cuộc thi đấu.

Điều căn cốt để thành công ở đây là biết nhẫn nại chờ Chúa. Từ khó khăn nhỏ cho tới những thử thách lớn, ta phải biết tin tưởng ở việc Chúa quan phòng chở che. Sống trong tâm tình này, lòng ta sẽ kiên vững và thật bình an.

Tiên vàn là ta phải học kiên trì trong lời cầu nguyện. Mẫu gương người đàn bà xứ Canaan bền lòng xin Chúa chữa con bà, dẫu Chúa đã thử thách bà cách lạ thường qua những lời nói thật nặng nề, vẫn luôn là bài học và lời mời gọi chúng ta biết nhẫn nại với Chúa. Đường lối, suy nghĩ, cách nhìn của Chúa không như đường lối, suy nghĩ, cách nhìn của con người.

Nhiều lần nhiều lúc khi gặp những cơn khốn khó trong cuộc sống, ta mong mỏi được Chúa làm phép lạ để cứu chữa hỗ trợ ta, nhưng thường thì Chúa muốn chính chúng ta trở nên những phép lạ sống động cho Chúa trước mặt người đời. Phép lạ của lòng tin, mến và cậy trông nơi quyền phép và sự quan phòng của Chúa. Ngày nhóm Pharisiêu và Sađusê đòi Chúa làm dấu lạ bởi trời để họ tin Ngài, Chúa đã quở trách và bảo họ : “Phép lạ Giona đã đủ cho các ngươi !”

Thực ra, việc ta kiên trì với Chúa chẳng thấm vào đâu so với việc Chúa kiên nhẫn với ta. Chúa liên tục tha thứ để chờ đợi và hy vọng ta hối cải sửa mình. Chúa cho ta đủ hoàn cảnh và ân huệ để ta nhận ra bàn tay yêu thương chăm sóc của Chúa, cũng như thêm sức đủ cho ta để ra đủ sức đi theo đường lối Ngài chỉ vẽ. Tất cả chỉ là tùy ở ta ! Qua các dụ ngôn như “Cây vả không trái” hoặc “Cỏ lùng” đủ cho ta thấy lòng từ bi, nhân hậu và nhẫn nại của Ngài như thế nào !

Hành trình đi tìm Chúa của các nhà đạo sĩ xưa kia cũng là bài học cho chúng ta suy nghĩ, học hỏi. Bài học nhẫn nại của những nhà đạo sĩ ngày xưa đi tìm Hài Nhi Giêsu cũng là hay nhưng chưa đủ, ta còn cần phải kiên trì giữ Chúa trong lòng ta cho đến cùng. Mẹ Maria đã để lại cho chúng ta mẫu gương thật tuyệt vời và cũng là lời nhắc nhở cũng như khích lệ lớn nhất cho ta : Mẹ đã kiên nhẫn để Chúa thử thách trong suốt cuộc đời trần gian; đặc biệt Mẹ đã phó thác tin tưởng trọn vẹn nơi bàn tay Chúa, dẫu không hề hiểu được con đường của Chúa sẽ ra sao. Sự kiên trì ấy được kết tinh nơi lời tán tụng khen lao từ miệng thánh nữ Isave : “Phúc cho Bà vì Bà luôn vững tin vào những điều Chúa phán hứa”.

Với ta, muốn được trở nên những người con thật của Chúa, để có được một cuộc sống đạo thực sự trưởng thành, hãy đến học với Mẹ Maria, Mẹ sẽ không để ta phải thất vọng.

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

TINH THẦN TRUYỀN GIÁO


TINH THẦN TRUYỀN GIÁO

“Không biết khi Con Người đến, liệu còn gặp thấy niềm tin trên mặt đất nữa không?”. Trang Tin Mừng hôm nay được kết thúc như thế.

Có thể đó là câu hỏi một thoáng bâng khuâng Chúa Giêsu thốt lên cho riêng mình Người.  Cũng có thể đó là câu hỏi dự báo một tình huống không vui Chúa Giêsu cảnh giác cho các môn đệ.  Có khi câu hỏi đó đợi chờ một lời đáp tích cực mở ra cho lối sống đức tin lạc quan.  Và biết đâu, câu hỏi đó lại chẳng tố giác một thực trạng tiêu cực đang dần dà bào mòn niềm tin tôn giáo?

Nhưng đặt trong bối cảnh của Chúa Nhật cầu cho việc truyền giáo, theo tinh thần của các bài đọc, câu hỏi ấy đã ẩn chứa một lời giải đáp.  Đó là: để lòng tin còn mãi trên mặt đất, mọi thành phần của Dân Chúa cần phải sống tinh thần truyền giáo.

1) Tinh thần truyền giáo ấy được nuôi dưỡng bằng sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động.
Nói đến truyền giáo người ta thường nghĩ là phải dấn thân làm việc truyền giáo, và ai càng làm được nhiều, người ấy lại càng được xem là nhà truyền giáo lớn.  Thực ra, quan niệm ấy cũng đúng, nhưng không đủ, bởi dù không phủ nhận những kết quả lớn lao trong lịch sử Giáo Hội do hoạt động truyền giáo mang lại, nhưng bao giờ cũng thế, bên trong những hoạt động ấy còn là cả một tinh thần cầu nguyện tích cực của bản thân các nhà truyền giáo cũng như của mọi thành phần Dân Chúa.

Thiếu cầu nguyện, hoạt động sẽ không kết quả, hoặc sẽ lái kết quả sang một hướng khác có nguy cơ “sáng danh tôi, tối Danh Chúa”.  Vắng cầu nguyện, hoạt động có thể trở thành nguy hại, nó đồng nghĩa với náo động nếu không muốn nói là khua động ầm ĩ hoặc khuấy động ồn ào.  Quên cầu nguyện, hoạt động chỉ là hời hợt mang tính phong trào bùng lên đó nhưng rồi cũng lịm tắt đó.  Bạo phát bạo tàn, mau xộp mau xẹp!  Bỏ cầu nguyện, hoạt động coi chừng chỉ còn là một việc cá nhân, dẫu bỏ ra nhiều công sức, nhưng vẫn không phải là hoạt động của Hội Thánh vốn luôn được nuôi dưỡng phong phú bởi nguồn ơn Chúa Thánh Thần.

Cầu nguyện là linh hồn của hoạt động truyền giáo.  Nó đem đến cho những hoạt động một sức sống kín múc tận nguồn sứ mạng.

Bài đọc thứ nhất kể lại một hình ảnh sống động cho thấy mối tương liên không thể tách rời giữa việc Môsê giơ tay cầu nguyện và việc Giosuê đánh bại quân Amalếch.  Khi Môsê hạ tay xuống, sức mạnh của ông Giosuê không còn nữa, nhưng khi ông giơ tay lên, phần thắng đã nghiêng về phía Giosuê. Chiến thắng ấy không riêng của Môsê hay riêng của Giosuê, mà là của Môsê cùng với Giosuê, là dung hòa của cầu nguyện và hoạt động, là tổng hợp của ơn thánh Chúa và nỗ lực con người.

Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã được mừng kính vào đầu tháng mười này cũng là một hình ảnh khác minh họa cho sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động truyền giáo.  Chín năm khuôn mình trong nhà kín Lisieux, chưa hề làm việc truyền giáo bên ngoài, thế nhưng chỉ bằng hy sinh cầu nguyện cho các vị thừa sai và cho công cuộc rao giảng Tin Mừng, thánh nữ đã được Giáo Hội đặt làm Bổn Mạng các xứ truyền giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê một đời bươn chải giảng giải đạo Chúa đến tận miền xa Châu Á.

Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo, nên có thể nói được rằng không bao giờ Giáo Hội thôi truyền giáo.  Bốn phần năm dân số địa cầu chưa biết Chúa, nên Giáo Hội phải truyền giáo đã đành, nhưng ngay cả một phần năm đã biết Chúa, Giáo Hội cũng phải tái truyền giáo nữa.  Xem như thế, truyền giáo vừa là sứ mạng, vừa là số mạng, tức là sự sống còn của Giáo Hội.  Và tinh thần truyền giáo ấy một khi được hun đúc đều đặn bằng cầu nguyện và hoạt động, ta có quyền hy vọng khi Chúa Kitô đến, Người vẫn thấy niềm tin trên mặt đất.

2) Tinh thần truyền giáo ấy được thể hiện khi thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện.
Được nuôi dưỡng bằng cầu nguyện dung hòa với hoạt động cây truyền giáo nhất định sẽ vươn lên, nhưng không thể không biết đến yếu tố thời tiết, mưa thuận gió hòa, hoặc nắng hạn mưa giông. “Nhất nước nhì phân tam cần tứ giống,” đó là kinh nghiệm trồng cây.  Song một cây lành như cây truyền giáo phải biết chứng minh bằng phẩm chất của mình.  Nói khác đi, tinh thần truyền giáo cũng phải được chứng minh bằng chí bền sứ mạng, nghĩa là vừa kiên tâm thực hiện những điều tốt, vừa kiên gan chịu đựng ngay cả những điều xấu nữa (thánh Augustinô), phải bền chí khi thuận tiện cũng như khi không thuận tiện.

Khi thuận tiện là khi chí bền truyền giáo giúp ta tỉnh táo đừng để mất mình trong hoạt động đến nỗi quên đi cầu nguyện, giúp ta phân biệt rõ ràng đâu là đóng góp nhỏ nhoi của mình và đâu là ơn ban vô cùng to lớn của Thiên Chúa, và còn mãi giúp ta không chạy theo những thành công trước mắt để sau này khỏi phải trả giá đắng cay trắng tay thất vọng.  Trong một chừng mực nào đó, biết đâu lối sống của ông thẩm phán bạo ngược “chẳng kính sợ Thiên Chúa mà cũng chẳng coi ai ra gì” trong bài Phúc Âm lại chẳng có vài tương đồng với quan niệm háo thắng hoặc đắc thắng của cách truyền giáo thời Trung cổ, vốn xem Kitô giới như một xã hội lý tưởng, nên cố mà đưa người ta vào bằng chinh phục (truyền giáo) hoặc gắng mà ép người ta về bằng cả chinh phạt nữa (thập tự chinh)?

Xem ra kiên tâm thực hiện những điều tốt trong truyền giáo vào thời thuận tiện cũng không ít vấn đề.

Khi không thuận tiện là khi chí bền truyền giáo không chỉ giúp ta chịu đựng những khắc nghiệt thường xuyên, mà còn giúp ta biết tận dụng hoàn cảnh để mà thanh luyện tâm hồn.  Nếu những hoạt động phải chấp nhận giới hạn ngoài ý muốn, thì chí bền như một mạch điện tự động “kiểm soát lợi suất” sẽ bù lại những giới hạn ấy bằng một thao thức phong phú của lời nguyện cầu.  Và nếu như hoàn cảnh cụ thể không cho phép có một hoạt động bên ngoài nào nữa, thì vẫn còn đó mênh mông một phương tiện truyền giáo bằng gương sáng tình mến, bằng chứng tá đức tin và bằng cách sống tốt đẹp đời Kitô của mình.

Điều đáng sợ không phải là hoàn cảnh khắc nghiệt, mà là chính mình không đủ chí bền mà vượt qua những khắc nghiệt ấy.  Trong ý tưởng này, có lẽ rất thích hợp khi đặt hình ảnh người đàn bà góa bụa của bài Phúc Âm, nhiều lần đến quấy rầy ông thẩm phán mong được minh xét minh định minh oan, ở đây như một cổ võ sống động cho chí kiên bền.

Và dầu hoàn cảnh thuận tiện hay không (bài đọc thứ hai), chí truyền giáo thiết tưởng cũng là biểu tỏ của niềm hy vọng, là tình mến khởi đi từ một đức tin sống động vào Thiên Chúa là Cha nhân ái luôn muốn sự tốt lành trong ơn cứu độ cho tất cả mọi người.  Được như thế, chắc chắn khi Chúa Kitô trở lại vẫn thấy niềm tin còn trên mặt đất trong chí bền của Giáo Hội là thân mình Người.

Ước mong rằng suy nghĩ trên sẽ trở nên ý lực cho cuộc sống và trở nên ý nguyện trong Ngày Thế Giới Truyền Giáo hôm nay.

ĐGM Vũ Duy Thống

From: ngocnga_12

MỘT NỀN TẢNG CỦA ĐỨC TIN: SỰ CẦU NGUYỆN

MỘT NỀN TẢNG CỦA ĐỨC TIN: SỰ CẦU NGUYỆN

Tác giả: Lm Nguyễn Văn Nghĩa

Sau khi lên các phương kế để dụ Tư Mã ý vào hang động Thượng Phương, Khổng Minh đã sai quân sĩ bịt kín cửa hang rồi dùng hoả công để tiêu diệt viên tướng tài của nước Nguỵ. Đang nắm chắc kết quả, một kết quả có thể xoay đổi tình hình thế sự thời tam quốc phân tranh lúc bấy giờ, hầu đưa nhà Thục thống nhất đất nước, thì bỗng một cơn mưa bất chợt đổ xuống dập tắt đòn hoả công của Khổng Minh và cứu sống Tư mã Ý. Khi ấy Khổng Minh đã than rằng: “Mưu sự tại nhân. Thành sự tại thiên”. Hai từ “trời định” mà dân gian thường dùng nói lên quan niệm về ý định của trời xanh đã chi phối cuộc nhân sinh một cách nào đó.

Niềm tin Kitô giáo cũng có cái nhìn về thiên mệnh nhưng hoàn toàn không theo kiểu thụ động, yếm thế. Chúng ta tin nhận thánh ý của Thiên Chúa, nhưng sự tin nhận này không loại bỏ vai trò của sự tự do mà Thiên Chúa tặng ban cho con người. Thiên Chúa không phải là một vị thần chuyên chế quyết định mọi chuyện thành bại hay được thua của con người. Cách riêng những sự tốt xấu theo chiều kích luân lý thì đều có sự tham gia của sự tự do của chính con người. Giáo lý Công giáo dạy rằng chỉ có hành vi nhân linh nghĩa là những hành vi bao hàm sự hiểu biết và tự do thì mới có giá trị luân lý. Tuy nhiên để đạt được những điều tốt đẹp, Kitô hữu tin rằng phải cần đến ân sủng của Thiên Chúa, Đấng là cội nguồn của mọi sự thiện hảo. Chúa Kitô đề cập đến chân lý này qua hình ảnh cây nho, cành nho và Người đã khẳng định: “Không có Thầy anh em chăng làm gì được”(Ga 15,5).

Sách Xuất hành tường thuật cuộc chiến giữa quân Israel và quân Amalếch. Trong khi tướng Giosuê đem quân đi giao chiến thì Môsê lên núi cầu nguyện. “Khi nào ông Môsê giơ tay lên, thì dân Israel thắng thế; còn khi ông hạ tay xuống, thì Amalếch thắng thế” (Xh 17,11). Dữ kiện này muốn nói rằng sự thắng thua của dân Israel là do bởi Thiên Chúa mà thôi. Chính vì thế nhất thiết cần phải gắn bó với Thiên Chúa, đặc biệt bằng sự cầu nguyện.

“Luật của cầu nguyện là luật của niềm tin” (lex orandi, lex credendi). Câu ngạn ngữ trên đã nói lên mối tương quan mật thiết giữa niềm tin với việc cầu nguyện, cầu nguyện riêng tư hay cầu nguyện công khai chính chính qua các cử hành Phụng Vụ. Dĩ nhiên nếu hiểu văn phong dụ ngôn thì chúng ta sẽ nhận ra ý nghĩa chính của câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể về “ông quan toà chẳng sợ Thiên Chúa mà phải chào thua sự lì lợm của một bà goá”(x.Lc 18,1-8). Ý nghĩa của câu chuyện dụ ngôn đã được thánh sử Luca nói ngay đầu đoạn tin mừng đó là “để dạy các môn đệ phải cầu nguyện luôn, không được nản chí” và cái lý do được nêu lên ở câu cuối đó là lòng tin.

Một vấn nạn: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?”(Lc 18,8). Câu than thở của Chúa Kitô khiến chúng ta phải giật mình và cảnh tỉnh. Khi nhân loại ngày càng văn minh tiến bộ, khi nên công công nghệ ngày càng tinh xảo và tân kỳ, thì dường như sự tự cao tự đại đang ngày càng xuất hiện dưới nhiều hình thức. Dù nhiều người với cái thói kiêu căng cho rằng ‘bàn tay ta làm nên tất cả…” đã từng “trắng mắt ra” khi đối diện với những nghịch cảnh vượt quá sức mình, thế nhưng vẫn còn đó những hình thái ngông nghênh cao ngạo bằng sự độc tôn, độc đoán, độc quyền, chuyên chế… Những hình thức tự tôn vinh, thần thánh hoá bản thân hay tập thể của mình lên hàng muôn năm hay bất diệt vẫn còn nhan nhãn đó đây. Một khi sự tự tin đã biến thành sự tự tôn thì lòng tin vào Đấng Tối cao sẽ suy giảm và rồi sẽ biến mất. Khi con người đã không còn tin vào Đấng Tối cao thì chắc chắn sẽ làm được sự gì tốt đẹp đúng nghĩa. Như thế, lòng tin hay đức tin, nói theo ngôn ngữ Kitô giáo, chính là nền tảng của mọi thành quả tốt đẹp mà con người đạt được.

Kitô giáo luôn khẳng định rằng tin là đón nhận Thánh ý Thiên Chúa và dấn thân hết mình để sống theo thánh Ý đã lãnh nhận. Hai mẫu gương lớn của lòng tin thường được giáo hội nói đến đó là Tổ phụ Abraham và Mẹ Maria. Đang là người sinh sống bằng nghề chăn nuôi súc vật thế mà Abraham đã can đảm vâng nghe lời Thiên Chúa mời gọi lên đường đi đến nơi chưa từng biết. Nếu nơi ấy là nơi thiếu cỏ hay thiếu nước thì việc chăn nuôi sẽ phá sản. Tuổi đã cao, người phối ngẫu đã qua thời sinh nở thế mà Abraham vẫn vâng lệnh Thiên Chúa để hiến tế người con trai duy nhất, kẻ sẽ nối dõi tông đường, người sẽ giúp ông tránh được sự bất hiếu với tổ tiên. Khi đón nhận và “xin vâng” như lời sứ thần truyền thì Mẹ Maria đã chấp nhận sự hiểu lầm của người bạn đời, Giuse và chấp nhận cả cái án hình bị ném đá theo luật bấy giờ.

Làm sao có thể đón nhận và thực thi Thánh ý Chúa nếu chúng ta không gặp gỡ và lắng nghe Người phán dạy? Và làm sao chúng ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa nếu không chuyên chăm cầu nguyện? Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên, gặp gỡ Thiên Chúa, kết hiệp với Người, lắng nghe Người phán dạy để rồi can đảm thực thi. Cầu nguyện là cách thế biểu lộ niềm tin và cũng là phương thế củng cố niềm tin. Vì chúng ta tin nên chúng ta cầu nguyện. Nhờ chúng ta cầu nguyện nên niềm tin của chúng ta được củng cố.

Ai có thể tự hào rằng mình đã vững vàng trong đức tin? Ai có thể tự nhận rằng mình sẵn sàng hy sinh mạng sống để thực thi giới luật yêu thương Chúa Kitô truyền dạy? Ngoại trừ các thánh nhân, có thể nói chúng ta, từ người giáo dân hèn mọn đến vị mục tử trọng chức, thảy đều non kém đức tin, chưa dám xả thân, hiến mình để sống yêu thương đến cùng. Chính vì thế việc chuyên chăm cầu nguyện là điều như tất yếu. Tuy nhiên cần khẳng định rằng cầu nguyện không phải là để bắt Chúa thực hiện ý muốn của chúng ta, nhưng là để chúng ta biết cách thực thi thánh ý Chúa, nghĩa là để sống đức tin. Và xin đừng quên đức tin chính là chìa khoá dẫn chúng ta đến sự sống đời đời.

Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột

Ví dụ

Ví dụ

Tác giả: Trầm Thiên Thu

Có nhiều cách ví dụ, nhưng người ta chỉ ví dụ điều tốt chứ chẳng ai ví dụ điều xui xẻo. Ví dụ cũng là dạng “nếu”, dạng “giả sử”, kiểu ước mơ, tất nhiên có thể hiện thực hoặc có thể không.

Nhưng có một ví dụ rất thực tế, và chắc chắn sẽ xảy ra bất cứ lúc nào: Chết. Chắc hẳn nhiều người cho là xui, vì ví dụ như vậy là dại dột và ngu hết sức. Nhưng thực ra không dại đâu, mà lại là khôn ngoan đấy! Không ai muốn nói đến sự chết, nhưng không ai thoát. Chắc chắn “chết” là điều thực tế. Chết là vấn đề rất thật, thật hơn cả sự thật. Dù đó là “chuyện xui xẻo” thì cũng cứ ví dụ xem sao: “Nếu chỉ còn một ngày để sống…”.

Lá xanh hay lá vàng có thể “rụng” bất kỳ lúc nào, dù gió to hay gió thoảng; trái xanh hay trái chín cũng có thể được (hay “bị”) người ta “hái” bất cứ lúc nào, dù sáng sớm, buổi trưa hoặc chiều tối, cũng có thể lúc đêm khuya.

Bạn sẽ phản ứng thế nào và sẽ làm gì? Bạn có bao giờ nghĩ như vậy? Chết lúc nào tốt, lúc nào xấu? Giờ nào thì chết “hên” và lúc nào thì chết “xui”? Ai có thể cưỡng lại Tử thần? Sao biết 9 giờ sáng là giờ hên mà không chết, lại chết vào 6 giờ tối? Sinh sản cũng vậy, biết thời điểm nào đó “hên” và thuận tiện mà sao không sinh lúc đó? Muốn có được không? Giờ nào tốt và giờ nào xấu? Ai biết chắc? Xui hay hên là do mình. Chẳng ai biết mình chết lúc nào và chết cách nào. Khi sắp chết mới biết mình… sắp chết. Cũng có thể lúc đó là muộn rồi!

Quả thật, “nếu chỉ còn một ngày để sống…” là một giả-thuyết-thực-tế, một cái “nếu” rất thật, thật đến nỗi điều đó có thể xảy ra bất kỳ lúc nào, thậm chí là ngay bây giờ, dù bạn mới vài tuổi, ngoài đôi mươi, tứ tuần, trung niên, thất tuần, bát tuần, hoặc xấp xỉ… trăm tuổi!

Tình cờ nghe ca khúc “Nếu Chỉ Còn Một Ngày Để Sống” (*) của NS Hoài An (1929-2012), trong chương trình Paris By Night 95, tôi thực sự xúc cảm cái “đẹp” (đúng nghĩa ĐẸP) trong ca khúc đó về phương diện tích cực. Vâng, ca từ của ca khúc này đầy tính nhân bản, nguyên văn như sau:

Nếu chỉ còn một ngày để sống, người đưa tôi về đến quê nhà, để tôi thăm làng xưa nguồn cội, cho tôi mơ… mơ tiếng mẹ cha. Nếu chỉ còn một ngày để sống, người cho tôi một khúc kinh cầu, người tôi thương êm ấm môi cười, cho con tôi bước đời yên vui.

Nếu chỉ còn một ngày để sống, làm sao ta trả ơn cuộc đời, làm sao ta đền đáp bao người, nâng ta lên qua bước đời chênh vênh? Nếu chỉ còn một ngày để sống, làm sao ta chuộc hết lỗi lầm, làm sao ta thanh thản tâm hồn, xuôi đôi tay đi giữa hừng đông?

Cho tôi như bóng mây, lang thang qua cõi này, cho tôi được ngắm sao trên trời giữa hương đồng cỏ nội. Cho tôi như khúc ca, bay đi xa rất xa, cho tôi được cám ơn cuộc đời, cám ơn mọi người. Cho tôi được sống trong tim người bằng những lời ca.

Nếu chỉ còn một ngày để sống, muộn màng không lời hối lỗi chân thành? Buồn vì ai, ta làm ai buồn, xin bao dung tha thứ vì nhau. Nếu chỉ còn một ngày để sống, chợt nhận ra cuộc đời quá đẹp, phải chăng ta có lúc vội vàng, nên ra đi chưa được bình an?

Với cảm nhận của riêng tôi, giai điệu đẹp và ca từ cũng đẹp. Có thể NS Hoài An viết theo cảm nhận đời thường, nhưng cái “nếu” của ông rất gần với Công giáo. Vâng, nếu chỉ còn một ngày để sống. Vậy thì sao?

Cách đặt vấn đề quá thực tế. Cái “nếu” này rất ý nghĩa và quan trọng biết bao – dù bạn là ai, ở bất kỳ cương vị nào, dù bạn có hay không có niềm tin tôn giáo! Tôi chợt nhớ tới thánh “nhí” Saviô. Một lần nọ, khi đang giờ chơi tại Khánh Lễ Viện của Thánh Lm Don Bosco, cậu Saviô được hỏi: “Nếu chỉ còn một giờ nữa con chết, con sẽ làm gì?”. Cậu bé Saviô đáp ngay: “Con vẫn tiếp tục chơi”.

Câu trả lời thật tuyệt vời, vì đó là thi hành Ý Chúa trong hiện tại. Giờ nào việc nấy. Dù là việc đọc sách thiêng liêng hay đọc kinh, cầu nguyện, làm từ thiện,… nếu không “đúng lúc” thì cũng vô nghĩa. Điều đó cho thấy “nhiệm vụ hiện tại” rất quan trọng qua cách thể hiện đức tin.

Vậy đó, con người quá yếu đuối, quá nhỏ bé, dù “có là gì” thì cũng chẳng là gì cả! Tôi chỉ nói ra cảm nhận riêng mà tôi khả dĩ chân nhận, tất nhiên không tránh khỏi tính chủ quan. Tôi biết tôi chỉ là con-số-không-to-lớn (a big zero), một “số không” lớn nhất trong những “số không” khác. Đó là một thực-tế-thật, dù rất có thể chính tôi cũng không muốn… chấp nhận!

Theo tôi, dù là ai thì trước tiên vẫn phải là con người, mà là con người thì không chỉ phải giữ luật sống của một con người bình thường mà còn phải “lưu ý” rằng cuối cùng mình cũng phải… chết, chẳng chóng thì chày, dù bệnh hay khỏe mạnh! Đó là một thực tế vừa minh nhiên vừa mặc nhiên. Có sợ chết tới mức nào thì cũng không ai thoát chết!

Người giàu sang, có danh vọng, có địa vị hoặc chức tước, người giàu hay nghèo, người lớn hay nhỏ, nam hay nữ, người giỏi hay dốt, người tài năng hay bình thường, người có niềm tin tôn giáo hay không có niềm tin tôn giáo, người xấu hay đẹp, người cao hay thấp,… cuối cùng rồi ai cũng hoàn toàn giống nhau: “Tay trắng vẫn hoàn trắng tay”. Nhắm mắt xuôi tay là… “chấm hết”. Vua Thánh Louis đã làm gương là “để hai tay ra ngoài chiếc quan tài” cho người ta thấy một thực-tế-thật. Nhưng có lẽ người ta chỉ nghe cho biết, đọc cho vui, thấy để mà… thấy. Thế thôi!

Ai cũng biết vậy, thế mà người ta vẫn cứ tranh giành nhau, chi li từng chút – cả vật chất lẫn tinh thần! Thua một chút là cảm thấy “khó chịu”. Mà thua một chút thì có sao? Hơn nhau một chút thì được lợi gì? Phải chăng đó chỉ là ảo tưởng? Quả thật, “cái Tôi” của chúng ta rất LỚN, do đó mà Pascal xác định: “Cái TÔI là đáng ghét”. Nhưng mấy ai dám ghét mình? Chúa Giêsu nói “từ bỏ mình” theo nghĩa đen chứ chẳng cần bóng gió chi cả (x. Mt 10:37-39; Lc 14:26-27). Khó lắm! Vì khó nên mới phải cố gắng và tập “chết” từng ngày…

Con người rất dễ ảo tưởng, càng “lớn” càng dễ ảo tưởng, càng dễ độc đoán, càng muốn “chứng tỏ mình”, càng dễ áp chế và bóc lột người khác. Nhưng người ta vẫn cho đó là áp dụng theo Luật Chúa, theo Phúc Âm, là làm nhiệm vụ, là sống khiêm nhường, chứ không ai muốn nhận mình là kiêu ngạo hoặc có “máu” Pharisêu!

Ai cũng một lần trút hơi thở cuối cùng, giã biệt trần gian để hóa thành cát bụi – rồi trở về với Chúa hưởng phúc trường sinh, hoặc làm tôi mọi cho Luxiphe đời đời kiếp kiếp. Cái chết giống nhau, nhưng hình thức có khác nhau theo “thói đời”.

Người giàu cũng chết, tiền của và vàng bạc không cứu nổi họ. Người giàu chết trên đống vàng, họ chết “sướng” chứ không chết “khổ” như người nghèo, quan tài là loại mắc tiền nhất, đám tang thật lớn, những vòng hoa tươi đủ sắc màu, không đủ chỗ đặt vòng hoa, cờ giăng rợp trời, cáo phó khắp nơi, người vào kẻ ra nườm nượp, khách toàn những “ông kia, bà nọ”, khói nghi ngút tỏa ra từ những nén nhang thơm loại mắc tiền, khoản phúng điếu tính hàng trăm triệu, kèn trống rộn ràng, thậm chí còn có cả chương trình ca múa nhạc cho thiên hạ thưởng thức; nếu người giàu là người có đạo thì gia đình tổ chức lễ đồng tế, tiệc tùng linh đình, không ai khóc, ai cũng hớn hở bắt tay nhau,… Người giàu vừa chết “sướng” vừa chết “công khai”.

Ngược lại, người nghèo chết âm thầm, chết trong đau khổ, chết vì không có tiền chạy chữa, chết hèn hạ, chết tủi nhục, chết đau đớn, chết thê thảm, chẳng ai thèm chú ý, không ai phúng điếu, vắng hơn Chùa Bà Đanh, bát nhang lạnh tanh, quan tài rẻ nhìn như chiếc thùng gỗ, đúng là… đám ma!

Người giàu được nhiều người tới phúng viếng, nghĩa là được nhiều người cầu nguyện cho, họ còn có nhiều tiền để xin lễ – tiền riêng và tiền phúng điếu. Còn người nghèo không ai phúng viếng thì có ai thương mà cầu nguyện? Lấy tiền đâu mà xin lễ?

Nếu xét theo “tầm nhìn” của phàm nhân, chắc chắn người giàu vào Thiên đàng mau hơn người nghèo. Thật hạnh phúc và an ủi thay là Thiên Chúa không xét theo kiểu của loài người, Ngài chỉ xét theo “công” và “tội”. Trong dụ ngôn “Người Giàu và Ladarô Nghèo Khổ” (Lc 16:19-31), Tổ phụ Ápraham đã nói rõ với người giàu: “Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được” (Lc 16:25-26). Thiên Chúa là Đấng chí thánh, chí minh, chí công, chắc chắn Ngài sẽ đòi công lý cho người nghèo!

R.I.P. – Requiescat in Pace.

Lạy Chúa, vì Cuộc Khổ Nạn đau thương của Chúa Giêsu, vì Bửu Huyết Chúa Giêsu đã đổ ra, và vì Châu Lệ Đức Mẹ đã chảy ra, xin Chúa thương xót và tha thứ cho các linh hồn được an nghỉ ngàn thu trong tình thương vô biên và lòng thương xót hải hà của Chúa. Nguyện xin Chúa cũng tha thứ và cho chúng con chắc chắn sẽ được an nghỉ trong Chúa muôn đời. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Chuẩn bị Tháng Cầu Hồn – 2013

(*) Thưởng thức ca khúc này tại http://www.youtube.com/watch?v=b5YjDgNwib4

Cầu thay nguyện giúp

Cầu thay nguyện giúp (Lc 18)

Tác giả: Thiên Phúc


Một lá thư được viết nguệch ngoạc của một đứa trẻ gởi vào bưu điện, và địa chỉ tới là Chúa. Nhân viên bưu điện lấy làm lạ liền mở ra đọc. Thư viết rằng: “Chúa thân mến, con là Tommy, con sáu tuổi. Ba con đã chết và mẹ con phải cực khổ để nuôi sáu anh em con. Xin Chúa cho chúng con 300 đồng nhé”.

Đọc thư xong, anh nhân viên bưu điện rất xúc động và dưa cho các bạn đồng nghiệp xem. Họ quyết định quyên góp để giúp gia đình cậu bé. Số tiền tổng cộng là 100 đồng, và họ gởi tới địa chỉ cậu bé.


Vài tuần sau, họ nhận được lá thư thứ hai. Họ cũng mở ra đọc, thư viết như sau: “Lần tới, Chúa có thể gởi trực tiếp cho gia đình con, vì gởi qua bưu điện, họ giữ lại 200 đồng!”

***

Nghe xong câu chuyện, chúng ta phải bật cười vì sự ngây ngô của cậu bé, nhưng liền sau đó chúng ta lại cảm thấy hổ thẹn vì thấy bóng dáng mình thấp thoáng trong hình ảnh cậu bé: Chúng ta cầu nguyện và muốn được Chúa đáp lời tức thì theo yêu cầu chúng ta đề ra, nếu Người chậm đáp ứng hoặc đáp ứng chưa đủ “chỉ tiêu” chúng ta đưa ra, thì chúng ta lại khó chịu, và cũng chẳng thèm cám ơn Người.

Tin Mừng hôm nay Chúa dạy các môn đệ: “Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí” (Lc 18, 1). Người muốn chúng ta hãy liên lỉ cầu nguyện và cầu nguyện cách kiên trì. Như Môsê quì giang tay suốt ngày cầu nguyện cho dân Do thái thắng trận, như bà goá suốt bao ngày tháng cầu xin quan toà minh xét cho bà, như thánh Mônica ròng rã 20 năm trường cầu nguyện cho người con là Augúttinô trở lại, chúng ta hãy cầu nguyện liên tục và bền chí, không hề nhàm chán, cả khi xem ra Chúa ngoảnh mặt làm ngơ.

Chúng ta không nên tìm kiếm hiệu quả tức thì. Chúa sẽ đáp lời chúng ta lúc nào và cách thức nào có lợi nhất cho chúng ta, theo như thánh ý nhiệm mầu của Người. Thời gian Chúa nhậm lời có thể sẽ lâu hơn chúng ta tưởng, cách thức Người ban ơn có thể sẽ khác với ước nguyện của chúng ta, nhưng bao giờ cũng là lúc thích hợp nhất cho linh hồn chúng ta, bao giờ cũng là cách hữu hiệu nhất cho hạnh phúc vĩnh cửu của mỗi người.

Thường chúng ta lầm tưởng rằng, hơn ai hết chúng ta là người biết rõ những điều mình cần xin. Nhưng thánh Phao lô dạy: “Chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải, chính Thánh Thần sẽ cầu thay nguyện giúp chúng ta theo đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8, 21-27). Vì thế, Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen viết: “Pytago đã cấm môn sinh của ông không được cầu nguyện cho chính họ vì họ không biết điều gì là lợi ích cả”. Khôn ngoan hơn, Socrates dạy môn đồ ông chỉ xin những điều tốt lành, vì lẽ Thiên Chúa biết tường tận những gì là lợi ích. Dốt nát và yếu đuối nên chúng ta phải xin Thánh Thần soi sáng để chúng ta làm đẹp lòng Chúa trong lúc an bình cũng như khi xao xuyến.

Như thế, cầu nguyện không phải là việc xin ơn này ơn nọ, theo óc vụ lợi của chúng ta, cầu nguyện không phải là việc tránh né bổn phận để Thiên Chúa làm tất cả, cầu nguyện cũng không phải là việc liệt kê ước muốn để mong chờ Chúa thực hiện. Nhưng cầu nguyện đích thực chính là việc thực hành Đức Tin, nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa để đối thoại với Người, van xin Người tiếp tục ban ơn để chúng ta đủ sức thực hiện thánh ý Người. Thấu hiểu sự yếu đuối của con người nên Chúa Giêsu than thở: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18, 8). Vậy, cầu nguyện không phải là độc thoại mà là đối thoại liên lỉ và kiên trì với Thiên Chúa trong Đức Tin để trung thành với Chúa cho tới khi Người lại đến.

***

Lạy Chúa, chúng con là những người yếu đuối, bất toàn và bất nhẫn, không biết phải cầu nguyện thế nào cho phải đạo.

Xin cho chúng con biết khiêm tốn, vâng theo ơn soi sáng của Thánh Thần, để chúng con biết sống theo Thánh ý Chúa, hầu bền đỗ trong đức Tin và trung thành theo Chúa đến cùng. Amen.

Thiên Phúc “Như Thầy đã yêu” năm C

KIÊN NHẪN NÀI XIN THÌ SẼ ĐƯỢC

KIÊN NHẪN NÀI XIN THÌ SẼ ĐƯỢC

Suy niệm Tin Mừng Luca (18, 1-8)

Tác giả: Lm. Inhaxio Trần Ngà

Có chí thì nên

Một nhát rìu chặt vào thân cây cổ thụ to lớn chỉ tạo ra một vết chém cạn cợt không hề hấn gì, nhưng nhiều nhát rìu nối tiếp nhau liên tục trong thời gian dài sẽ đốn ngã bất cứ cây cổ thụ cao lớn nào.

Một dòng nước nhỏ rò rỉ từ bên ngoài vào lòng thuyền xem ra không có gì đáng ngại, nhưng nếu cứ để cho dòng nước ấy rò rỉ liên tục suốt ngày thì có thể làm đắm cả một con thuyền lớn.

Những hạt mưa mềm mại rơi xuống suốt một giờ chưa thể làm được gì lớn lao, nhưng nếu mưa cứ kiên trì rơi xuống những rặng núi đá vôi suốt hàng triệu năm thì có thể làm nên những kỳ tích vĩ đại. Đó là trường hợp đã xảy ra tại Phong Nha – Kẻ Bàng, khi nước mưa xói mòn những rặng núi đá vôi và đã tạo nên hơn 300 hang động tuyệt vời, đẹp như chốn bồng lai tiên cảnh.

Những minh họa trên đây chứng tỏ rằng những cố gắng của chúng ta, dù rất nhỏ bé, nhưng nếu được kiên trì thực hiện, chắc chắn sẽ đem lại thành quả như lòng ước mong.

Như thế, kiên trì là bí quyết chắc chắn để đạt tới thành công trong mọi lĩnh vực. Vì thế nên người ta thường nói: “có chí thì nên” hoặc: “cố công mài sắt, có ngày nên kim.”

Kiên trì cầu nguyện, chắc sẽ được nhận lời

Trong lĩnh vực tâm linh cũng thế, nếu chúng ta biết kiên trì cầu nguyện, chúng ta sẽ nhận được điều chúng ta nhẫn nại cầu xin.

Để dạy chúng ta kiên trì cầu nguyện không sờn lòng nản chí, Chúa Giê-su kể dụ ngôn sau đây:

Một ông quan toà ngang ngược, chẳng kính sợ Thiên Chúa, coi thường mọi người. Gần nơi ông ở có một bà góa tứ cố vô thân đang gặp nỗi oan khiên nên chạy đến nhờ ông ta xét xử, mà lần nào cũng bị khước từ. Tuy nhiên, vì bà góa cứ kêu nài mãi, nên cuối cùng ông quan tòa nghĩ lại: “Dầu rằng ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì, nhưng mụ goá này quấy rầy mãi, thì ta xét xử cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc.”

Rồi Chúa nói: “Anh em nghe quan toà bất chính ấy nói đó! Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Ngài đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Ngài sao? Lẽ nào Ngài bắt họ chờ đợi mãi sao?” (Lc 18, 2-7)

Thiên Chúa ban điều tốt lành hơn ta mong đợi

Thế thì tại sao có những khi chúng ta kêu xin nhiều lần mà chẳng được Chúa nhận lời?

Trường hợp nầy cũng như khi đứa bé gào khóc đòi mẹ cho tiền mua kem, mua bánh nhưng mẹ kiên quyết không cho vì những món nầy không tốt cho sức khỏe của con. Thay vì bánh kẹo, mẹ cho con những lọ thuốc bổ, những hộp sữa không đường, tuy chẳng làm cho con khoái khẩu, nhưng rất cần thiết cho sức khỏe của con.

Cũng thế, đôi khi Thiên Chúa không ban cho ta những điều ta xin, nhưng Ngài lại ban những ơn cần thiết hơn là điều ta mong đợi.

Không cho cá nhưng lại cho chiếc cần câu

Có những người cha khôn ngoan, không muốn con mình trở thành kẻ ăn xin lười biếng, “nằm há miệng chờ sung rụng vào mồm,” mà muốn tạo cơ hội cho con cái trưởng thành, nên khi đứa con xin con cá, ông không cho cá mà lại cho chiếc cần câu. Thế là nhờ sở hữu chiếc cần câu, đứa con có được hàng trăm con cá mà chẳng phải ngửa tay xin ăn từng bữa, từng ngày.

Ý tưởng nầy đã được một tác giả diễn tả cách chí lý như sau:

“Tôi xin sức mạnh…

Và Ngài đã cho tôi gặp khó khăn để được mạnh mẽ.

Tôi xin khôn ngoan…

Và Ngài đã cho tôi những vấn đề để giải quyết (nhờ đó tôi trở thành người khôn ngoan).

Tôi xin tiền của…

Và Ngài đã cho tôi khối óc và bắp thịt để làm việc (nhờ đó tôi trở nên giàu có).

Tôi xin được “bay”…

Và Ngài đã cho tôi những trở ngại phải vượt qua (nhờ đó tôi được “bay cao”).

Tôi xin tình yêu…

Và Ngài đã gởi đến những người gặp khó khăn cần được cứu giúp (nhờ đó tim tôi đầy ắp lòng thương xót)…

Tuy không nhận được những gì tôi xin…

Nhưng tôi nhận được tất cả những thứ tôi cần.” (Khuyết danh)

Lạy Chúa Giê-su,

Xin cho chúng con vững tin vào Chúa mà liên lỉ nài xin những điều chính đáng. Một khi đã kiên trì khấn nguyện, cho dù chúng con không đạt được điều mình xin thì ít ra cũng đạt được những thứ chúng con cần.

Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà

Chúa Nhật 29 thường niên

Luca 18, 1-8

1 Đức Giê-su kể cho các môn đệ dụ ngôn sau đây, để dạy các ông phải cầu nguyện luôn, không được nản chí.2 Người nói: “Trong thành kia, có một ông quan toà. Ông ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì.3 Trong thành đó, cũng có một bà goá. Bà này đã nhiều lần đến thưa với ông: “Đối phương tôi hại tôi, xin ngài minh xét cho.4 Một thời gian khá lâu, ông không chịu. Nhưng cuối cùng, ông ta nghĩ bụng: “Dầu rằng ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì,5 nhưng mụ goá này quấy rầy mãi, thì ta xét xử cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc.”
6 Rồi Chúa nói: “Anh em nghe quan toà bất chính ấy nói đó!7 Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi? 8Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho họ. Nhưng khi Con Người ngự

Tác giả: Lm. Inhaxio Trần Ngà