Bài Thánh ca Giáng Sinh cho thế giới

Bài Thánh ca Giáng Sinh cho thế giới

(“A Christmas Carol for the World” – Per Ola và Emily D’Aulaire)

Mỗi mùa Lễ Giáng Sinh, những giọng hát bằng nhiều ngôn ngữ đã tái tạo một bài hát tuyệt vời ra đời trong hoàn cảnh tầm thường cách đây 194 mùa Giáng Sinh.
“Silent night, Holy night
All is calm, all is bright
Round yon Virgin
Mother and child
Holy infant so tender and mind
Sleep in heavenly peace
Sleep in heavenly peace.”
Tuyết nhẹ rơi trên những ngôi nhà bằng gỗ và đá ở Oberndorf, một ngôi làng Áo gần Salzburg. Trong làng, người dân trang hoàng đèn nến, trái cây và hạt trên những cây vân sam mà họ đã chuẩn bị cho những đêm thánh vô cùng này. Chẳng mấy chốc nữa đây, tiếng chuông từ ngôi nhà thờ cổ kính
của Oberdorf sẽ ngân vang để loan báo Thánh lễ lúc nửa đêm, và giáo dân sẽ tưởng niệm ngày Đức Kitô ra đời với những lời kinh và tiếng hát.
Tuy nhiên, bên trong Nhà thờ Thánh Nicolas  không khí lại nặng nề, ảm đạm vào đêm vọng Giáng Sinh năm 1818. Cha xứ Joseph Mohr, 26 tuổi, vừa nhận ra chiếc phong cầm bị hư hỏng nặng. Cho
dù bàn đạp được bơm cứng hơi thế nào đi nữa, ngài cũng chỉ có thể làm cho cây đàn cũ kỹ ấy phát ra những tiếng khò khè. Cha Morh thất vọng. Đợi đến lúc thợ sửa đàn đến được giáo xứ này chắc Lễ Giáng Sinh đi qua lâu rồi. Đối với một cha xứ trẻ, Lễ Giáng Sinh mà thiếu nhạc là điều không thể tưởng tượng được.
Cha Mohr có một thiên khiếu âm nhạc. Khi còn là một cậu bé, đứa con trai ngoài giá thú của một cô thợ may với một người lính, cậu đã kiếm tiền bằng cách ca hát, chơi đàn violon và ghi-ta nơi công chúng. Ở bậc trung học, rồi lên bậc đại học, cậu đã sống bằng đồng tiền kiếm được khi trình diễn ca nhạc. Làm việc chăm chỉ cùng với tài năng của mình đã gây sự chú ý đến một tu sĩ, người mà đã thuyết phục cậu bước vào nhà dòng. Thụ phong linh mục năm 1815, Cha Mohr được bổ nhiệm đến Oberndorf vào năm 1817. Ở đó, ngài không chỉ truyền giảng ca vịnh, mà còn làm ngạc nhiên một số người trong giáo đoàn của mình với cách chơi ghi-ta, chuyển một cách dễ dàng từ nhạc điệu dân gian sang nhạc điệu thánh ca.
Bây giờ phải đối mặt với với một khủng hoảng xảy ra vào Lễ Giáng Sinh. Vị linh mục trẻ rút về phòng làm việc yên tĩnh của mình. Nhận ra rằng những bài thánh ca Giáng Sinh truyền thống không phù hợp với đàn ghi-ta. Ngài quyết định sáng tác một bài mới. Cúi xuống tờ giấy trắng, với cây bút lông duyên dáng sẵn sàng, ngài nghĩ về một gia đình thuộc giáo xứ mà mới đây ngài đã viếng thăm và làm phép rửa tội cho đứa bé mới chào đời của họ. Ký ức về người mẹ ôm đứa con được ủ ấm để chống lại cái lạnh mùa
đông đã khiến những suy nghĩ của Cha Mohr đến một sự ra đời khác nữa cách đây hơn 2.000 năm.
Ngập ngừng do dự, ngài bắt đầu viết. Cây bút của ngài di chuyển y như thể được hướng dẫn bởi một bàn tay vô hình nào đó. Một điệp khúc được gợi lên, “Stille nacht, heilige nacht!” xuất hiện trên tờ giấy: “Đêm thầm lặng, Đêm thánh!” Bằng những câu giản dị, mộc mạc như một bài thơ dành cho nhi đồng. Vị cha xứ trẻ này nói về phép lạ Lễ Giáng Sinh trong 6 khổ thơ. Tưởng chừng đó là những lời chảy xuống tự thiên đàng.
Khi ngài viết xong, thời gian còn rất ngắn. Những vần thơ này còn phải được phổ nhạc kịp lúc cho Thánh lễ nửa đêm. Cha Mohr quyết định tìm một người bạn thân tên là Franz Xavier Gruber, 31 tuổi, một thầy giáo ở làng Arnsdorf cạnh bên, là người soạn nhạc giỏi hơn ngài.
Không giống như Cha Mohr, Gruber đã phải giấu niềm đam mê âm nhạc của mình. Với người bố khắt khe của ông, một người thợ dệt, âm nhạc không phải là nghề thích hợp để kiếm sống. Nên cứ vào buổi chiều, Franz đã phải lén ra khỏi nhà để đi học lớp nhạc của một thầy giáo địa phương. Ông đã học rất giỏi đến nỗi một ngày nọ khi bố ông nghe ông chơi phong cầm, bố ông đã bớt gay gắt và để cho con trai mình học nhạc.
Franz cũng quyết định trở thành một thầy giáo. Hồi đó người ta muốn thầy giáo còn phải là một người chơi phong cầm và là người điều khiển dàn hợp xướng ở nhà thờ địa phương. Được gửi đến Arndorf
để dạy học, Gruber lại còn được chào đón tại Nhà thờ Thánh Nicholas gần đấy.
Khi Gruber đọc những lời bài hát của Cha Mohr, ông chắc hẳn đã bị tác động mạnh bởi cái đẹp và sự trong sáng của lời bài hát. Ông bước tới chiếc đàn dương cầm của mình và bắt đầu làm việc trong lúc Cha Mohr trở về nhà thờ.
Sử dụng 3 trong số hoà âm cơ bản nhất trong kỹ năng âm nhạc, phong cầm thủ ấy đã tạo nên một giai điệu mộc mạc và gợi cảm sâu sắc. Rồi gần nửa đêm, ông mang bài hát đến cho Cha Mohr. Với thời gian vừa đủ để tập dượt, hai người đồng ý rằng Cha Mohr sẽ chơi ghi-ta và hát bè cao trong lúc ông Gruber hát bè trầm. Sau mỗi phiên khúc, dàn hợp xướng sẽ cùng hát điệp khúc.
Vào lúc nửa đêm, giáo dân xếp hàng một bước vào nhà thờ, có lẽ đang mong đợi chiếc dàn phong cầm sẽ ngân lên khắp nhà thờ âm hưởng của những bài hát mừng Giáng Sinh. Thay vào đó, nhà thờ vẫn im
lặng khi họ ngồi chen chúc trên những hàng ghế dựa hẹp bằng gỗ.
Cha Mohr bước vào gian giữa nhà thờ và ra dấu cho thầy Gruber đến đứng cạnh mình. Cầm chiếc đàn ghi-ta, Cha xứ có lẽ đã giải thích cho con chiên biết rằng, mặc dù chiếc phong cầm bị vỡ, tuy thế, Thánh lễ nửa đêm vẫn có nhạc: ngài và ông Gruber đã chuẩn bị một bài hát Giáng Sinh đặc biệt cho giáo đoàn.
Với Cha Mohr, gảy đàn ghi-ta, hai giọng hát dịu êm chẳng bao lâu đã tràn khắp giáo đường. Dàn hợp xướng hát bản hoà âm gồm 4 đoạn này ở mỗi điệp khúc. Giáo dân lắng nghe với sự ngạc nhiên
trước bài thánh ca tinh khiết và tươi mát như dòng suối ở dãy núi Alps. Sau đó, Cha Mohr cử hành Thánh lễ Misa, và giáo đoàn quỳ xuống cầu nguyện. Ngày trước Lễ Giáng Sinh ở Nhà thờ Thánh Nicholas đã
thành công.
Câu chuyện tưởng như đã kết thúc ở đây. Cha Mohr và ông Gruber sáng tác bài thánh ca của họ như một sự thay thế cho khó khăn tạm thời mà họ gặp phải và có lẽ chẳng bao giờ nghĩ đến việc trình diễn lại bài hát này. Mùa xuân sau đó, một người thợ sửa đàn đã vá lại chiếc phong cầm ấy. Chẳng bao lâu, Cha Mohr được chuyển đến một xứ khác. Mất vài năm, bài thánh ca đó đã rơi vào im lặng như cái đêm mà nó đã đem lại vẻ vang vào năm 1818.
Nhưng may mắn thay cho thế giới,chiếc phong cầm ở Nhà thờ Thánh Nocholas vẫn dở chứng. Vào năm 1824 hay năm 1825 gì đó, giáo xứ này đã thuê một người thợ sửa đàn phong cầm bậc thầy tên là
Carl Mauracher đóng lại nó. Trong lúc làm việc, tình cờ ông Mauracher thấy bài hát của Cha Mohr và ông Gruber sáng tác. Sự giản dị phổ quát của bài hát đã lôi cuốn người thợ sửa phong cầm lớn tuổi này. Trông nom việc sửa lại chiếc đàn phong cầm của Nhà thờ Thánh Nicholas, Gruber đã vui vẻ đồng ý khi ông Mauracher xin bản sao bài “Silent Night”.
Khi rời Oberndorf, Mauracher đã mang theo bài hát này. Những người nghe bài hát qua giọng hát của ông đã say mê vì lời cùng giai điệu của nó. Chẳng mấy chốc, những đoàn dân ca vùng Tyrol, những người thường xuyên toả khắp Âu châu, đã bổ sung bài “Silent Night” vào tiết mục trình diễn của họ.
Trong số những người đưa bài hát này vào tiết mục trình diễn phải nói đến là ban nhạc Gia đình Strasser. Bốn anh chị em trong ban nhạc với những giọng hát thần tiên đã trình diễn tại những hội chợ thương mại trong lúc họ bán bao tay mà gia đình họ làm ra. Vào năm 1831 hay 1832 gì đó, ban nhạc Strasser đã hát bài “Đêm thầm lặng” tại một hội chợ ở Leipzig, nước Đức. Khán giả rất thích bài hát này. Sau đó không lâu, một nhà xuất bản địa phương đã in bài hát này lần đầu tiên, chỉ công nhận nó như bài Tirolerlied hay một bài hát thuộc vùng Tyrol. Không đề cập gì đến Cha Mohr hay ông Franz Gruber gì hết.
Lời hát và điệu nhạc giờ đây đã lan đi nhanh chóng. Chẳng bao lâu, “Silent Night” đã cùng với ban
nhạc Rainers vượt qua Đại Tây Dương, một gia đình các ca sĩ dân ca trình diễn và chu du khắp Hoa Kỳ. Ở Thành phố New York vào năm 1839 hay 1840 gì đó, ban nhạc Rainers đã gưới thiệu bài hát này với thế giới nói tiếng Anh.
Khán giả khắp mọi nơi bắt đầu tin rằng “Silent Night” vượt lên trên một bài dân ca mộc mạc. Một
số thính giả cho đó là một trong những ca khúc của Haydn. Nhưng ở trong làng của mình, ông Gruber và Cha Mohr vẫn không hay biết gì về những xôn xao mà bài hát của họ gây ra. Cha Mohr đã qua đời vì bệnh viêm phổi, không một xu dính túi, năm 1848 ở tuổi 55. Ngài không bao giờ biết rằng bài hát của ngài đã vươn tới những vùng xa xôi nhất của trái đất.
Mãi đến năm 1854, Gruber mới nghe nói về sự thành công của bài hát, khi người điều khiển buổi hoà nhạc phục vụ vua Frederick William IV của nước Phổ bắt đầu truy tìm nguồn gốc của bài hát
này. Khi lời đồn đại đến tai Gruber, lúc đó ông 67 tuổi, ông đã viết một lá thư tới Berlin kể vế nguồn gốc của bài hát.
Thoạt tiên, ít có học giả nào tin rằng hai con người khiêm tốn ấy lại có thể nghĩ ra một bài Thánh ca Giáng Sinh nổi tiếng như thế. Năm 1863, khi ông Gruber qua đời, quyền tác giả của ông vẫn bị thách thức. Cùng năm ấy, Cha John Freeman Young, người mà sau này trở thành Giám mục Tân giáo ở Florida
đã dịch 3 khổ thơ của bài hát này sang tiếng Anh mà ngày nay chúng ta vẫn hát.
Không còn bất kỳ một tranh cãi nào về tác quyền của nguyên thuỷ bài hát này. Các tượng đài ở Áo đã biểu lộ lòng tôn kính đối với Cha Mohr và ông Gruber, và di sản của họ đã trở thành một phần thiết yếu của Lễ Giáng Sinh khắp mọi nơi. Ông William E. Studwell ở Đại học Northern Illinois, Hoa Kỳ, một chuyên gia Thánh ca Giáng Sinh, đã nói: “Đêm thầm lặng là biểu tượng âm nhạc của Lễ Giáng Sinh.”
Thực ra, bài Thánh ca này giờ đây được hát khắp các lục địa trên thế giới bằng nhiều ngôn ngữ, từ tiếng gốc Đức đến Welsh, từ tiếng Swahili đến tiếng Afrikaans, từ tiếng Nhật đến tiếng Nga, từ tiếng Triều Tiên đến tiếng Việt rồi tiếng Hoa – tất cả cùng diễn tả một cảm giác sâu lắng về sự thanh bình và niềm hân hoan. Nó đã được ghi âm với những giọng ca của những ca sĩ, từ Bing Crosby đến Elvis Presley.
Qua bao năm, bài Thánh ca mộc mạc này đã biểu hiện một quyền lực mạnh mẽ để tạo ra cảnh an bình trên thiên quốc. Chẳng hạn trong thời gian ngưng bắn Lễ Giáng Sinh năm 1914, những người lính
Đức dọc theo phòng tuyến mặt trận phía Tây đã bắt đầu hát bài “Silent Night”. Từ phía bên kia của vùng cấm địa. Những binh sĩ Anh cũng cùng hát bài hát đó.
Trong cùng cuộc chiến ấy, tại trại tù binh Seberi, các tù binh người Đức, Áo và Hungari bỗng cùng đồng thanh hát bài “Silent Night”. Với những giọt nước mắt rưng rưng trong khoé mắt, viên cai tù người Nga nói bằng tiếng Đức bồi: “Đêm nay là lần đầu tiên trong hơn một năm của cuộc chiến mà tôi đã có thể quên giữa các anh và tôi xem nhau như những kẻ thù.”
Ở Tiệp Khắc bị Đức Quốc Xã chiếm đóng vào năm 1944, một sĩ quan Đức thăm một trại mồ côi đã hỏi xem có em nào biết bài “Đêm thầm lặng” bằng tiếng Đức không. Một bé trai và một bé gái ngập
ngừng bước tới, rồi bắt đầu hát “Stille Nacht, heilige Nacht”. Viên sĩ quan nhoẻn miệng cười, nhưng sau đó hai đứa trẻ ngừng hát, như chừng chúng bắt đầu nhớ ra điều gì và trông chúng sợ hãi. Ở vùng đất của quốc gia đó, những người biết tiếng Đức chủ yếu là người Do Thái. Thấy vẻ sợ hãi của chúng, viên
sĩ quan này đã dỗ dành chúng. “Đừng sợ”, ông nói. Ông ta cũng bị xúc động bởi sự kỳ diệu của bài hát.
7 năm sau đó, vào một Lễ Giáng Sinh trong thời chiến tranh Triều Tiên, một người lính Mỹ trẻ tên là John Thorsness, khi đang trong phiên gác, anh nghĩ mình đã nghe thấy tiếng quân địch. Ngón tay
đặt trên cò súng, anh thấy một đám đông người Triều Tiên đi ra từ bóng tối, họ đang mỉm cười. Khi người lính trẻ này đứng sững sờ, nhóm người này đã hát bài “Silent Night” bằng tiếng Triều Tiên, sau đó họ lui dần vào bóng tối.
Bài hát đã được sáng tác rất xa về không gian và rất lâu về thời gian: “Đêm thầm lặng, đêm thánh, tất cả
đều êm đềm, tất cả đều ngời sáng…”
. Những lời hát khó quên giai điệu mộc mạc ấy vẫn lưu lại trong tâm hồn của chúng ta như đã từng lắng đọng trong tâm hồn của mọi người trên khắp thế giới kể từ khi một vị cha trẻ và một người bạn của ngài làm thầy giáo làng đã hát nó lần đầu tiên cách đây 194 năm.
(Mùa Vọng Giáng Sinh 2012)
Jos. Tú Nạc, NMS
Silent Night (with lyrics)

TẤM PHÔNG VÀ BỨC TRANH CÓ TÊN GỌI MARIA

LỄ ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI 8/12

TẤM PHÔNG VÀ BỨC TRANH CÓ TÊN GỌI MARIA

 

“ Mừng vui lên, hỡi đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc.1,28)

Tín điều Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội được Giáo Hội chính thức công bố ngày 8/12/1854 dưới triều đại Đức Giáo Hoàng Piô IX, kế đến, chính môi miệng Mẹ Maria đã xác quyết khi hiện ra với thánh nữ Bernadette tại Lộ Đức vào ngày
25/3/1858. Mẹ đã phán: “Ta Là Đấng Vô Nhiễm Thai”.

Mẹ Maria là một trong muôn vàn thụ tạo do Thiên Chúa sinh dựng, nhưng Thiên Chúa đã ban tặng cho Mẹ nhiều đặc ân: Mẹ Thiên Chúa, Nữ Vương Thiên Đàng, Nữ Vương Hòa Bình, Mẹ của chúng sinh…Riêng đặc ân Vô nhiễm Thai là đặc ân khởi đầu, nhờ đặc ân Vô Nhiễm Thai mà cung lòng của Mẹ đã trở nên cao sang, thanh khiết, vẹn tuyền, cung lòng của Mẹ đã trở nên ngôi đền thờ Thiên Chúa ngự qua biến cố Truyền Tin và mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Hai Thiên Chúa.

Đặc ân Vô Nhiễm Thai mà Mẹ Maria lãnh nhận từ Thiên Chúa được nằm trong chương trình cứu độ mà Ngài đã hứa ban sau khi con người nhân loại đầu tiên là ông A-dong và bà E-va lỗi nghịch cùng Thiên Chúa nơi vườn Địa Đàng, trình thuật sách Sáng Thế sau đây đã minh chứng điều ấy: “Đức Chúa phán với con rắn: Ta sẽ gây mối thù giữa ngươi và người phụ nữ, giữa dòng giống  ngươi và dòng giống người ấy, dòng giống người ấy sẽ đạp vào đầu ngươi, cònngươi sẽ tìm cách cắn gót chân  người” (St.3,15). Dòng giống người phụ nữ mà sách Sáng Thế mô tả không ai khác, đó chính là  Đức Trinh Nữ Maria.

Vâng! Khởi đi từ ý muốn và Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa mà Mẹ Maria đã được Thiên Chúa sủng ái và ban tặng nhiều đặc ân, lời chào của Sứ Thần trong ngày Truyền Tin đã minh chứng điều ấy: “ Mừng vui lên, hỡi đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc.1,28), như lời minh định của thánh Phaolô: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng
ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn
vàn ơn phúc của Thánh Thần. Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo
thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người ta trở nên tinh tuyền, thánh thiện…” (Ep.1,3-4).

Có thể nói, cuộc đời của Mẹ Maria được ví như tấm phông tuyệt mỹ. Tấm phông có tên gọi Maria được dệt bằng những sợi tơ vàng, sợi tơ yêu thương dưới bàn tay điêu luyện của người thợ dệt là Thiên Chúa, để rồi từ tấm phông ấy, một lần nữa Thiên Chúa, Người họa sỹ đại tài đã dùng những gam màu sáng tối, đậm lợt, những đường cong và thẳng đan xen nhau, những nét vẽ điêu luyện tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp. Bức tranh ấy diễn tả tình yêu của Thiên Chúa, diễn tả hồng ân Cứu Độ mà Thiên Chúa muốn trao ban cho con cái loài người một cách nhưng không. Vâng! Thiên Chúa, Ngài đã dệt, đã vẽ trên tấm phông có tên gọi là Maria để thực hiện lời hứa của Ngài với toàn thể con cái loài người như ngôn sứ Isaia đã trình thuật: “ Ta đã nhận lời ngươi vào thời ta thi ân, phù trợ ngươi trong ngày ta cứu độ. Ta đã gìn giữ ngươi, đặt ngươi làm giao ước giữa ta với dân, để phục hồi xứ sở, để chia lại những gia sản đã bị tàn phá…”(Is.49,8).

Thiên Chúa, Ngài đã phác họa những gì trên tấm phông mang tên Maria? Xin thưa! Thiên Chúa vẽ một Trái Tim thanh khiết, tinh tuyền, không tỳ ố ngay khi tấm phông có tên gọi Maria được hình thành nơi cung lòng của bà An-na; trong ngày Sứ thần Truyền tin, Ngài phác họa những từ Tín Thác, Khiêm Nhường Xin Vâng; Ngài vẽ hai chữ Hạnh phúc Bình An nơi máng cỏ Belem khi Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần; Ngài tô đậm hai chữ Yêu Thương và Phục Vụ nơi nhà bà Êlisabet, nơi tiệc cưới Cana; trên đỉnh đồi Can-vê Ngài vẽ những đường cong và thẳng đan xen nhau kết nên hai chữ Thinh LặngChịu Đựng; qua biến cố Phục Sinh, Ngài vẽ những nét đậm với hai chữ Vui Mừng và Hy Vọng . Cuối cùng, Ngài vẽ hình lưỡi lửa trong ngày lễ ngũ tuần, ngày khai sinh ra Giáo Hội trần thế. Thiên Chúa rất hài lòng sau khi thực hiện nét vẽ cuối cùng trên tấm phông có tên gọi Maria, không những thế, Ngài còn ban tặng bức tranh ấy cho toàn thể nhân loại như một bảo chứng của tình yêu.

Vâng! Dưới bàn tay điêu luyện của Thiên Chúa, tấm phông  có tên gọi Maria giờ trở thành một bức tranh tuyệt tác. Bức tranh ấy được treo một cách trang trọng nơi tòa nhà của Thiên Chúa, trở thành điểm nhấn, trở thành  vườn hoa muôn màu, muôn sắc nơi vườn thượng uyển; trở thành tấm gương phản chiếu hình ảnh và tình yêu của Thiên Chúa một cách rõ nét, là tấm gương soi cho tất cả những ai tin nhận Thiên Chúa, và nhất là trở thành ánh sao dẫn đường cho những ai đang lần mò đi trong đêm tối của niềm tin, những tâm hồn khát khao đi tìm chân lý, tìm kiếm Thiên Chúa nơi cuộc sống dương gian.

Hướng về Mẹ Maria với tước hiệu Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, trước tiên ta cảm tạ Thiên Chúa đã ban tặng cho ta một người Mẹ thanh khiết, vẹn toàn, một tấm gương phản chiếu tình yêu của Thiên Chúa, ta cảm tạ Thiên Chúa đã giúp ta cảm nhận được sự hiện diện của Ngài trong mọi biến cố vui buồn của cuộc sống ngang qua Mẹ Maria, ta xin Chúa tháp nhập con người và cuộc đời ta lên tấm phông có tên gọi Maria. Với tấm lòng con thảo, ta xin Mẹ giúp ta trở thành tấm phông để qua tấm phông là chính con người và cuộc đời của ta, Thiên Chúa sẽ vẽ những nét đẫm lợt, sáng tối theo Thánh Ý của Ngài, như Ngài đã thực hiện nơi cuộc đời của Mẹ Maria.

Trên bước đường lữ thứ trần gian, còn đó những cám dỗ, những lời mời gọi ngọt ngào của quyền lực sự dữ; còn đó những thách đố, khổ đau do bệnh tật, đói nghèo, do bất hòa chia rẽ; còn đó những vô cảm đối với Chúa và với nhau, tất cả những điều đó dễ làm trái tim và con người của ta trở nên hoen ố, trở thành những làn roi, thành những gai nhọn và đinh sắt đóng vào thân mình của Đức Kitô, trở thành những vết nhơ trên bức tranh mà Thiên Chúa đã vẽ nơi tấm phông có tên gọi Maria. Với thân phận yếu đuối và mỏng dòn, ta xin Mẹ Maria qua tràng chuỗi Mân Côi, để nhờ Mẹ và trong Mẹ ta đón nhận sức mạnh và phúc lành từ nơi Thiên Chúa, nhờ sức mạnh và phúc lành của Thiên Chúa ta mới có thể chống trả chước cám dỗ, ta mới có được sự bình an đích thực và nhất là sự sống bất diệt được khởi đi từ Thiên Chúa.

Giữa mối tương quan gia đình trần thế, ta xin Mẹ Maria giúp ta trở thành những tấm phông, những họa sỹ như lòng Chúa ước mong. Nhờ ơn Chúa tác động và qua sự dẫn dắt của Mẹ Maria, ta cùng vẽ, cùng phác họa cho nhau những nét chữ yêu thương, tha thứ, đồng cảm và sẻ chia, nhờ những gam màu tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa, những gam màu hiến thân và phục vụ mà tấm phông là chính cuộc đời của ta và của nhau sẽ trở thành những bức tranh sinh động, bức tranh diễn tả tình yêu của Thiên Chúa, của Mẹ Maria. Qua bức tranh của ta và của nhau mà nhiều người nhận ra khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa, Đấng là Cha, Đấng luôn yêu thương hết thảy mọi người, nhất là những người chưa biết và chưa tin nhận Thiên Chúa. Đặc biệt trong Năm Thánh Đức Tin, ta được mời gọi tuyên xưng, sống và làm chứng cho niềm tin của mình giữa lòng thế giới.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội! Xin thương và giúp con biết noi gương Mẹ tận hiến cuộc đời cho Chúa, để nhờ ơn Chúa giúp, con dần trở thành tấm phông mà Thiên Chúa sẽ vẽ, sẽ tạo nên bức tranh như lòng Ngài ước mong. Amen.

Sài Gòn, ngày 07/12/2012

Antôn Lương Văn Liêm

Maria Thanh Mai gởi

Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội

Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội

Ngày 8/12

Lm. Nguyễn Văn Trinh

Tín điều về “Đức Trinh Nữ Maria ngay từ thuở ban đầu đã được gìn giữ khỏi tội nguyên tổ”, qua thời gian càng ngày càng rõ rệt.

Thánh Kinh không chỗ nào nói rõ điểm này cả, nhưng Hội Thánh qua thời gian (Thánh Truyền) đã hiểu những lời Thánh Kinh và giải thích: Đức Trinh Nữ Maria là thụ tạo trong sạch nhất và có thể nói “thành công” nhất của Thiên Chúa. Đức Trinh Nữ Maria được ví như Eva Mới, không vương nhiễn đến tội và trở thành “Mẹ của chúng sinh”.

Dù vậy chúng ta phải nắm vững :

1. Đức Maria cũng được sinh ra một cách bình thường như mọi người khác.

2. Đức Maria được hưởng hồng ân lớn lao này là nhờ Đức Giêsu Kitô, qua công nghiệp cứu độ của Người là chết trên thập giá.

Về Phụng Vụ, chúng ta đã thấy có những thánh lễ tôn kính Mẹ Vô Nhiễm từ thế kỷ thứ IX, bắt đầu từ Constantinople tràn sang miền Nam Ý và Sicile. Nhưng rõ nét nhất là thánh Anselmô thành Canterburry đã du nhập thánh lễ này vào giáo phận của ngài.

Vào năm 1476 Đức Giáo Hoàng Sixtus IV, xuất thân từ dòng Anh Em Hèn Mọn, đã đem thánh lễ này vào Giáo Hội La Mã.

Ngày 8.12.1854 Đức Giáo Hoàng Piô IX trong Thông Điệp “Ineffabilis Deus” đã long trọng công bố tín điều “Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội” cho toàn thể Hội Thánh Công Giáo.

Maria Thanh Mai gởi

Nói cho con người (Ba bài giảng sám hối): Lm Chân Tín (5)

Nói cho con người (Ba bài giảng sám hối): Lm Chân Tín (5)

Đăng bởi cheoreo lúc 1:40 Sáng 7/12/12

VRNs (07.12.2012) – Sài Gòn – Bài sám hối thứ ba này sẽ được nhà cầm quyền dùng làm bằng chứng, lên gân nội bộ và ra quân bắt cha Tín đi đầy, nhưng thật ra, bài này, cha Chân Tín vẫn kêu gọi sám hối mà thôi. Cũng có thể, người ta không chịu nổi việc làm xấu của họ bị gọi đích danh.

Ba bài giảng sám hối

(Mùa Chay, tháng 4/1990)

Nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp – DCCT

(đường Kỳ Đồng, Sài Gòn)

 

Bài giảng thứ ba

Sám hối tập thể Quốc gia

Trong bài giảng tối qua, tôi nói đến  sám hối của Giáo hội: Giáo hội nhận sứ mạng của Chúa cha trong việc thu họp mọi người trong Chúa Kitô. Tôi đã nhấn mạnh Giáo hội Việt Nam chưa phấn đấu đủ để hoàn thành sứ mạng rao giảng Tin mừng; chưa phấn đấu đủ cho việc đào tạo linh mục, việc các dòng tu được hiện hữu và hoạt động; chưa phấn đấu để người Công giáo khỏi bị chèn ép, khỏi là công dân hạng hại; chưa phấn đấu đủ cho công việc giáo dục, y tế, xã hội của Giáo hội để phục vụ nhân dân, nhất là chưa phấn đấu  đủ cho nhân quyền.

Hôm nay, trong buổi nói chuyện cuối cùng, tôi xin đề cập đến việc sám hối trên khía cạnh tập thể quốc gia.

Tại quốc gia này, trong 15 năm nay, Đảng CSVN đã một mình cai trị toàn cõi Việt nam trong một thời gian lâu dài hơn bất cứ chính phủ nào trước kia trong chế độ cũ: Bảo Đại được 7,8 năm; Ngô Đình Diệm, 9 năm; Dương Văn Minh, Phan Khắc Sửu, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Văn Thiệu chia nhau chỉ có 12 năm.

Đảng CSVN dính liền với các nước CS khác: trước nhất là Liên Xô, người anh cả; rối các nước Đông và Trung Âu; rồi đến Trung Quốc mà ngày xưa Đảng CSVN gọi là ‘môi hở răng lạnh’: ông Cuba đang gồng mình làm tiền đồn cho CS ở châu Mỹ; ông Bắc Hàn đang dựng một hệ thống độc tài cha truyền con nối.

Khỏi nói đến ông Trung Quốc, Cuba, Bắc Hàn là những chế độ đầy vi phạm đến quyền căn bản con người, mà chưa thấy một chút ân hận nào, thì làm gì có sám hối, có đổi mới.

Các nước Đông Âu đã ân hận, đã sám hối, đã vạch những tội ác của các chế độ cộng sản theo đường lối độc tài tàn ác của Staline. Họ đã lên án lãnh tụ bất tài bất tướng của họ và tuyên bố từ nay tôn trọng nhân quyền, tôn trọng tự do tín ngưỡng, trả tự do cho tù chính trị.

Tôi muốn dành thì giờ để nói đến Liên Xô và đất nước chúng ta.

A. SÁM HỐI TẠI LIÊN XÔ:

Trước hết ta nhìn về Liên Xô, đất nước của Lê nin, nơi phát xuất cách mạng xã hội chủ nghĩa trong 73 năm, lãnh đạo cuộc cách mạng XHCN khắp thế giới, đất mẹ của Cách mạng XHCN Việt Nam.

1. Phim “sám hối”

Cách đây trên 20 năm, một cuốn phim Liên Xô tố cáo tội ác của chế độ độc tài của Staline, đã được thực hiện; nhưng chỉ cách đây vài ba năm, cuốn phim mới được xuất xưởng chờ cuộc sám hối của Liên Xô, và trong một thời gian ngắn, cuốn phim đã được thế giới nhìn nhận là kiệt tác: đó là phim ‘sám hối’ của Adbuladze. Cuốn phim mô tả một vụ án một người phụ nữ đã ba lần đào mả ông Varlam, thị trưởng của một thành phố nhỏ ở Liên Xô. Bà này là con của nạn nhân của ông thị trưởng này. Tại tòa, bà tuyên bố bà không thể để tên độc tài đó trong mồ, nếu cần bà còn đào nữa.

Đây là bản án dành cho một cơ chế quyền lực độc đoán, không dựa trên pháp luật, mà dựa trên sự mị dân và đàn áp. Phải giải thoát mọi người khỏi nỗi khiếp sợ và sự tôn kính không tự nguyện đối với ông thị trưởng tác oai tác quái, hình ảnh của Staline và cả một thế hệ lãnh đạo Liên Xô và các nước XHCN trong 73 năm qua. Y muốn trừ tận gốc tất cả những gì là sự sống và tài năng xung quanh y, bất mãn với mọi người, vì thế bỏ tù tất cả. Nhưng tất cả những vụ bắt bớ hành quyết nhục hình, y dùng bàn tay kẻ khác. Niềm khoái lạc thâm độc của y là rình rập một nạn nhân và mào đầu một trò chơi tàn bạo với kẻ thù mới, bằng cách chuẩn bị một màn công lý đẫm máu sẽ được bộ
hạ hoàn tất. Y nói: “Nếu muốn, chúng ta sẽ bắt được mèo trong phòng tối, kể cả
khi không có mèo.” Hoạt động chống lại con người tiêu biểu nhất của y là đã lấy
đền thờ làm chỗ thí nghiệm khoa học, rồi cho nổ tung nhà thờ, y muốn chặt đứt
rễ sống nuôi dưỡng và làm giàu đời sống tinh thần của nhân dân, xóa bỏ truyền
thống văn hóa. Đối với y, bốn người dân là bốn kẻ thù.

Y chết, đám tang lớn, có điếu văn ca ngợi. Một ngày sau, xác y được chôn cất đã bị quật lên đến ba lần do một người đàn bà, con của một nạn nhân. Ra tòa, bà nói còn quật lên nữa. Cuốn phim kết thúc với cuộc tự vẫn của cháu nội của tên độc tài vì nó ‘sám hối’ thay cho ông nội nó; đến lượt con trai cũng ‘sám hối’, bằng cách đào mồ bố và liệm xuống vực thẳm phơi thay cho đàn quạ. Cảnh cuối cùng là một bà cụ già đi ngang qua nhà người phụ nữ đã quật mồ tên độc tài. Người này bây giờ có nghề làm bánh ngọt. Trên mỗi chiệc bánh đều có hình một tháp nhà thờ. Bà cụ hỏi: “Đường này có đưa tới nhà thờ không?” Người bán bánh trả lời: “Không, thưa cụ.” Bà cụ trợn mắt
bảo: “Đường không đưa đến nhà thờ thì để làm gì?”…

Cuốn phim ‘Sám hối’ như thế đó. Hồi ấy cuốn phim chỉ là một ước mơ của nhà soạn phim Adbuladze. Nhưng nay là sự thật: toàn dân Liên Xô đã sám hối, cấp lãnh đạo Liên Xô đã sám hối. Họ đang quật mồ của Staline lên bằng cách tố cáo những tội ác của y và của tay sai y trong nhiều thập niên trước đây. Ta hãy lắng tai nghe họ nói. Ta lần lượt nghe các nhà văn lớn ngày nay của Liên Xô, các nhà trí thức, các Đảng viên cộng sản, các cấp lãnh đạo. Họ tố cáo các tội ác của một chế độ độc tài và họ đưa ra
những đường hướng mới cho cuộc sống lại của những giá trị thiêng liêng: họ đang
sám hối.

2. Các nhà văn Liên Xô

Sau đây là cuộc sám hối của các nhà văn lớn hiện tại của Liên Xô. Các nhà văn lớn của Liên Xô lên tiếng về sự mất mát các giá trị thiêng liêng của xã hội Liên Xô ngày nay.

Các nhà văn Bykov, Astafiev, Aytmatov, tất cả tố cáo sự sa sút luân lý sau 70 năm cách mạng. Nguồn gốc của sự sa sút này là ở trong công cuộc phá hoại tôn giáo. Con đường ra khỏi cuộc khủng hoảng này là làm tôn giáo sống lại.

+ Bykov (một nhà văn lớn) cho rằng không thể có luân lý nếu không có đức tin.

+ Astafiev: “Ai đẩy chúng ta vào vực thẳm của sự dữ và bất hạnh, và vì sao? Ai dập tắt ánh sáng của sự thiện trong tâm hồn chúng ta? Ai đã đẩy lui ngọn đèn của lương tâm chúng ta, đẩy nó vào vực thẳm tăm tối, trong đó chúng ta mò mẫm, cố gắng tìm đáy vực thẳm, tìm một cái gì để dựa và một chút ánh sáng dẫn ta đến tương lai? Ích gì cho chúng ta cái ánh sáng đưa chúng ta đến ngọn lửa của địa ngục? Chúng ta đã từng sống với ánh sáng của tôn giáo trong tâm hồn chúng ta, một ánh sáng đã có từ lâu trước ta… Người ta đã làm mất đi ánh sáng đó và không mang lại gì khác cho ta để thay thế, trái lại họ đem lại cho ta vô tín ngưỡng.”

+ Aytmatov (Hồi giáo)

Được hỏi vì sao ông lại chọn một chủng sinh Kitô giáo làm nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết đoạn đầu đài của ông, ông nói: “Kitô giáo đã tạo một thúc đẩy mạnh mẽ trong khuôn mặt Đức Kitô. Đạo Hồi mà tôi là thành phần qua nguồn gốc dân tộc không có một khuôn mặt như vậy. Mahomet không phải là một tử đạo. Ngài có những ngày gian khổ, nhưng bị đóng đinh cho một lý tưởng và tha thứ cho người bách hại mình thì đạo Hồi không có như vậy.”

Rất nhiều nhà văn như thế nghĩ rằng tái lập những giá trị tôn giáo là con đường duy nhất để giải quyết cuộc khủng hoảng thiêng liêng hiện thời. (Chr. Sc. Monitor, 13/10/86).

3. Các nhà trí thức

Trong một cuộc trao đổi bàn tròn, một số nhà trí thức đã tố cáo sự bất khoan dung của chế độ cộng sản và kêu gọi sự bao dung, điều kiện quan trọng để có sự thông cảm giữa người và người.

+ Alexandre Nejny (một nhà báo) nói về sự bất bao dung của Liên Xô: “Chúng ta
khó mà bao dung với những người khác chính kiến, chúng ta phải hiểu vì sao
chúng ta bất bao dung như thế, vì sao ta lại chống đối tôn giáo và Giáo hội.
Chính cái bất bao dung là thủ phạm của bao hy sinh của công dân nước ta vì niềm
tin của họ… Nhiều cán bộ chuyên trách về tôn giáo của Hội đồng Bộ trưởng, với
chức năng làm trung gian giữa Nhà nước với các cộng đoàn tôn giáo, giữa chính
quyền địa phương và các tín đồ, tuy họ còn trẻ, nhưng đã nhiễm tinh thần bất
bao dung truyền lại từ thời Staline và tỏ mình bền chí như những người đi trước
họ, bằng cách bắt bớ Giáo hội và các tín đồ.”

+ Janis Pujato (Giám mục Riga): “trong xã hội ta, tình cảnh người tín hữu
và người vô thần không ngang nhau. Người vô thần có quyền tuyên truyền tư tưởng
của mình, còn tín hữu chỉ được tế tự.”

+ Youri Davidor: “Có câu tục ngữ ‘Nhà thờ không phải là những khúc gỗ, nhưng
là con người’. Người ta sửa sang được nhà thờ là một điều ghê gớm. Nhưng làm
sao cho Giáo hội sống lại trong các tâm hồn là ưu tiên.”

+ Alxandre Nejny: Nhân dịp kỷ niệm 1000 năm ngày rửa tội nước Nga, ông Nejny
có viết một bài ở báo tin tức Moscova ngày 19/6/1988. Ông nói: “Quan niệm coi
Giáo hội là một tàn dư có hại từ bản chất là một mưu toan xấu nhằm tước mất của
nhân dân cái di sản văn hóa và lịch sử vĩ đại. Chủ nghĩa vô thần bằng bất cứ giá nào là vô ích và tai hại, bởi vì khi thực hiện nguyên tắc đó, họ đã cưỡng bức cả quá khứ lịch sử của Liên Xô lẫn sự tự do lương tâm cả hàng triệu đồng bào của họ. Phải hiểu rằng vô thần cũng như tín hữu, họ cùng thừa hưởng một truyền thống tinh thần lớn lao duy nhất và chính cùng với truyền thống này mà những chân lý về sự thiện, về lòng nhân từ, và về lòng thương yêu đi vào bên trong cuộc sống của họ. Những kẻ tìm cách làm cho Giáo hội mất đi môi trường hoạt động của mình và cắt đứt mọi con đường đưa từ nhà thờ tới trần thế, những kẻ ấy đã phạm một lỗi lầm xã hội và chính trị không thể tha thứ được. người ta lơ là không dám đếm xỉa đến những quyền lợi của các tín hữu và coi các tín hữu này như những công dân hạng hai. Phải tôn trọng vô điều kiện nhân phẩm con người, nhìn nhận con người có những quyền không thể chuyển nhượng. Giáo hội có những đau khổ trong bảy thập niên vừa qua. Sao không tỏ lòng cảm phục hẳn hiên mà tưởng niệm những người đã chết vì đức tin trong các trại tù thời Stanline? Sự nghiêm chỉnh luật pháp trong các quan hệ giữa Nhà nước vô thần và Giáo hội bao hàm khoảng cách giữa đôi bên. Khoảng cách đó có thể tránh cho Giáo hội một nguy cơ trầm trọng: nguy cơ bị nghẹt thở bên trong những vòng tay siết chặt của các nhà cầm quyền và một khi bị tước đoạt sự độc lập tinh thần, nguy cơ trở
thành một bộ phận Nhà nước.”

+ Youri Davydov (nhà văn vô thần): “Nói đến bao dung thì dễ dàng hơn đối với
người của Giáo hội, vì họ có một truyền thống lâu đời hàng thế kỷ về điểm này,
còn những người vô thần như chúng tôi chưa biết đến. chúng tôi cứng cỏi, chúng
tôi đã đưa cái bất bao dung lên hàng đầu trong cuộc sống xã hội. Kết quả: Chúng
tôi không cảm thấy bao dung và thương xót đối với con người, con vật và cả
thiên nhiên. Phần tôi, tôi đã phải học cho biết bao dung trong các trại giam
của Statine. Các bạn ngạc nhiên phải không? Điều đó khó, nhưng nếu không, người
ta không sống sót nổi: thiếu thốn, đói khát, những khó khăn của cuộc sống ấy
nối kết chúng tôi lại.” (Nouvelles de Moscou, 30/10/1988).

+ Averintsev (tiến sĩ ngữ học, Hàn lâm viện Khoa học): “Cách thức tốt nhất để giải quyết mọi vấn đề giữa những con người với nhau là tranh luận tự do mà không trở thành bất hòa, người ta không nhất thiết phải luôn có cùng một ý kiến với nhau mới tôn trọng nhau được. Cuộc sống xã hội không thể có được nếu không có bao dung. Mỗi người có toàn quyền tự do không những theo một niềm tin mình muốn, mà còn tuyên truyền bất cứ một tôn giáo nào hay đổi niềm tin. Không một cán bộ nào có quyền hỏi một ai về niềm tin của họ, đó là vấn đề lương tâm (Lê nin).”

4. Đảng và Nhà nước

Ông Constatin Katchev (trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ Liên Xô), trong một cuộc phỏng vấn, khi người ta hỏi: Sau 70 năm cách mạng, có gì thay đổi trong một đất nước vô thần như Liên Xô đối với tôn giáo, ông nói: “Có nhiều thay đổi. Thay đổi chính yếu là nay người tín hữu không còn bị coi như công dân hạng hai nữa (năm 1976, tại Mặt trận Trung ương, tôi cũng đã nói người công giáo Việt nam được coi như công dân hạng hai). Điều này tiếc thay vẫn còn xảy ra một cách quá thường xuyên… Việc Hiến pháp Liên Xô kỳ thị tín hữu và ưu đãi người vô thần phải được chấm dứt. Ngày nay, người vô thần được tự do tuyên truyền, còn các tín hữu thì chỉ được nói về đức tin của
họ trong khuôn khổ nhà thờ mà thôi hoặc chỉ được nói trên báo chí với số ấn
hành rất hạn hẹp. Cần phải làm sao để người không tín ngưỡng và người có tín
ngưỡng đều được quyền như nhau.

+ Nhà nước không thể lấy công quỹ để tài trợ việc tuyên truyền vô thần được, vì đây là tiền của mọi người trong có người tín hữu.

+ Luật mới sẽ cho phép ai muốn học tôn giáo một cách cá nhân hay theo nhóm với sự trợ giúp của linh mục và học hỏi bất cứ ở đâu. Đây là chuyện riêng của công dân. Nhà nước không được xen vào.

+ Luật sẽ loại bỏ việc xin phép lập các tổ chức tôn giáo như các hội đoàn. Một tổ chức tôn giáo (họ đạo, họ đoàn) sẽ được tín hữu tự do thành lập mà không cần xin phép.” (La Republica, 4/3/1989).

Ông Gorbatchev, Tổng thống Liên Xô: “các quyền của con người trong chế độ XHCN không phải là quà tặng của Nhà nước, không phải là việc làm từ thiện của ai… Công cuộc cải tổ đã đặt ra vấn đề về các quyền chính trị của con người… Chúng ta không có quyền để cuộc cải tổ vấp phải tảng đá giáo điều và bảo thủ, vấp phải những thành kiến và những tham vọng riêng của ai đó.” (Saigon Giải phóng, 1/7/1988).

“Không có tính công khai, phê và tự phê, không có dân chủ thì quá trình cải tổ không thể tiến triển được. nó sẽ chết yểu và chúng ta có thể chôn nó ngay trong ngày hôm nay.” (Saigon Giải  phóng, 2/7/1988. hội nghị Cộng sản Liên Xô).

“Chúng ta đoạn tuyệt với hệ thống độc đoán quan liêu. Lý tưởng của chúng ta là chủ nghĩa xã hội nhân đạo và nhân chủ. Chúng ta từ bỏ việc Nhà nước hóa một cách độc đoán đời sống xã hội, điều đã dẫn đến sự lộng quyền và bất chấp pháp luật. Đảng Cộng sản không giữ độc quyền, không loại trừ khả năng thành lập các Đảng.” (Sàigon Giải phóng, 14/2/90).

Gorbatchev nói với Gioan Phaolô II: “Chúng tôi cần những giá trị thiêng liêng, cần một cuộc cách mạng tinh thần. Đây là con đường độc nhất đưa đến một nền văn hóa mới và nền chính trị mới… Chúng tôi đã đổi thái độ đối với một số vấn đề, ví như tôn giáo, mà chúng tôi đã cư xử một cách đơn giản. Bây giờ, không những chúng tôi nhận định rằng không một ai có quyền can thiệp vào những vấn đề lương tâm cá nhân, nhưng chúng tôi còn nói rằng những giá trị luân lý mà tôn giáo đã làm nẩy sinh ra và đã đúc kết trong hàng thế kỷ, có thể giúp cho công việc đổi mới Đất nước chúng tôi vậy. Những người thuộc nhiều tôn giáo ở Liên Xô, tất cả điều có quyền thỏa mãn nhu
cầu thiêng liêng của họ.” (Time, 11/12/1989).

Với những lời của Gorbatchev, chúng ta có thể thấy được một phong trào sám hối đang được thúc đẩy mạnh mẽ ở Liên Xô.

B. SÁM HỐI TẠI VIỆT NAM:

Còn ở Việt Nam ta? Việt Nam dĩ nhiên không phải Liên Xô hay các nước Đông Âu. Liên Xô và các nước Đông Âu dĩ nhiên không phải là Việt Nam. Nhưng Việt Nam cũng không sống trên một hành tinh khác. Và con người thì ở đâu cũng như nhau. Con người ở Việt Nam cũng như ở Liên Xô, ở Đông Âu cũng khát vọng sống, cũng khát vọng tự do thực sự, hạnh phúc thực sự, dân chủ thực sự.

Sau đây tôi xin trích những phát biểu, những ý nghĩ của báo chí, các nhân vật của Đảng, Quốc hội, Nhà nước. Quân đội về thực trạng tồi tệ của đất nước và những ưu tư, trăn trở, một ít ân hận, nhưng chưa có sám hối vì chưa thấy có gì đổi mới thực sự.

1. Báo chí Việt Nam và các nhà văn

+ Trước hết báo chí

Tự do báo chí rất giới hạn và như một người làm báo thú nhận trong một cuộc hội thảo về dư luận báo chí, cho đến nay chỉ có những công chức làm báo, chưa có nhà báo thực thụ. Tuy vậy trong mấy năm qua, đã có nhiều lời ‘nói thẳng nói thật’ hơn trước về tình trạng sa sút trên mọi địa hạt đời sống xã hội.

Chỉ trong tháng ba vừa qua, sau khi vụ ‘Đường Sơn Quán’ đổ bể do báo tuổi trẻ nêu lên, nhiều cán bộ cao cấp dính trong vụ ăn chơi trác táng như chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thủ Đức, Trung tá Phan Thanh, Trưởng ban hình sự của TP và nhiều nhân vật khác, một bài của báo Saigon Giải phóng (1/3/1990) đã yêu cầu loại trừ những bướu độc: Đảng và Nhà nước phải kiên quyết loại trừ ngay các cơ quan Đảng, chính quyền mọi cấp, những cán bộ thiếu khả năng, kém phẩm chất đạo đức, đang biến chất, tha hóa, xa rời quần chúng, quan liêu, đứng trên dân. Đây là những cán bộ có chức quyền, và từ những chức, những quyền ấy, họ biến đặc quyền, đặc lợi trở thành hiện tượng nghịch tình nghịch lý trước đời sống của đa số cán bộ công nhân viên chức và nhân dân còn nhiều mặt khó khăn. Mọi người thừa biết, để có được cuộc sống giàu sang một cách phi đạo lý, những cán bộ này đã lấy tiền ở đâu? Đó là kết quả của những
hành động ăn cắp của công, tham nhũng, hối lộ, móc ngoặc, buôn lậu mà họ đã lạm
dụng chức quyền để làm.

Ngay trong tháng giêng 1990, một bài khác cũng của báo Saigon Giải phóng (18/1/1990) cũng đã phơi bày tệ nạn ăn chơi phung phí của cán bộ. Sau khi đề cập đến cuộc sống vất vả của một giáo viên phải đi sửa xe ban đêm, một nữ sinh không dám sinh con thêm vì thiếu sữa, bài báo nói tiếp: “Họ là giáo viện, y tá, kỹ sư, công nhân, bộ đội và những người lao động bình thường khác có cuộc sống thật vất vả. Nhưng bên cạnh đó, cũng trên một đất nước và một thành phố có nhiều lo toan, đã và đang tồn tại một cuộc sống khác, xa hoa và phung phí không thể tưởng tượng nổi. Kiểu ăn chơi bạt mạng, quái đản và trụy lạc của nhóm này đối nghịch một cách mỉa mai với cuộc sống bươn chải và khiêm tốn của đa số còn lại. Dân có tiền đang tạo ra hình ảnh của một thế giới trong một thế giới. Họ là ai? Giai cấp mới, giới thượng lưu mới, hiện nay thẳng tay vung tiền qua cửa sổ, những người dám bỏ ra bạc triệu để mua vui, mà tiền là tiền của Nhà nước, của nhân dân. Bằng những thủ đoạn lừa bịp tinh vi, bằng những sự liên kết và che giấu lẫn nhau trên cơ sở đôi bên đều có lợi, những phần tử xấu trong cán bộ công nhân viên Nhà nước đã lợi dụng những kẻ hở để tha hồ bòn rút đục khoét công quỹ.”

+ Các nhà văn

Nhiều nhà văn như Dương Thu Hương (Những thiên đường mù), Trần Mạnh Hảo (Ly thân) đã tố cáo những vi phạm nhân quyền của chế độ cộng sản Việt Nam.

1. Đảng và Nhà nước

– Ông Trần Bạch Đằng phát biểu: “Kinh nghiệm cay đắng ở từng loạt quốc gia XHCN cho thấy một khi Đảng đã rơi vào bệnh kiêu ngạo tuyệt đối hóa vai trò lãnh đạo
của Đảng, tất cả đều xuất phát từ ‘ơn Đảng’, từ sự minh mẫn đến độ thần thánh
thì cái bờ vực đang chờ một sẩy chân nho nhỏ vùi lấp mọi ánh hào quang…

Đảng chưa dùng sức mạnh quần chúng để chấn chỉnh Đảng, nhất là về tổ chức, nhân sự… đề cương (Trung ương Đảng) chưa thoát khỏi cách hiểu ngầm: quần chúng kém, Đảng phải vận động để nâng tầm quần chúng lên. Tất nhiên điều đó có thật, song nếu đặt mối tương quan một cách biện chứng thì cái mà không ít Đảng viên lạc hậu hơn quần chúng về trí thức, nhiệt tình và phẩm chất giữ vai trò không nhỏ trong hiệu quả của công tác vận động quần chúng…

Về các tổ chức quần chúng Công giáo, có một lầm lẫn đáng tiếc: Ủy ban Đoàn kết Công giáo là một đoàn thể trong khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam (quốc doanh) là một tôn giáo. Đề cương không nêu chính sách đổi mới với các đối tượng này (về quan điểm) mà đi vào các tổ chức quả là không thỏa đáng.

Riêng nhận thức về Mặt trận của đề cương quá lạc hậu với hiện thực…

Đảng CS gồm những người vô thần, trong khi xã hội còn tôn giáo, còn tín ngưỡng và sẽ còn lâu, ngoài việc tìm chỗ có thể thỏa hiệp về chính trị, chúng ta đâu còn con đường nào khác?” (Nhân dân, 5/3/1990).

– Ông Nguyễn Cơ Thạch trả lời tạp chí Quan hệ Quốc tế: “Chế độ XHCN vì dân, đó là mục đích dân chủ nhất, nhưng cách làm tập trung quan liêu bao cấp đã đi ngược
lại mục đích dân chủ và đẻ ra tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lạm dụng quyền
hành, ức hiếp nhân dân lao động. Một chế độ vì nhân dân nhưng nhân dân không có
quyền dân chủ về kinh tế, cơ sở của quyền làm chủ về chính trị… Loài người đã
kéo dài cuộc sống man rợ trong 2 triệu năm với nền kinh tế tự nhiên, tự cấp tự
túc và không có trao đổi. 10 ngàn năm qua loài người đã thực hiện bước nhảy vọt
nhờ nền kinh tế sản xuất hàng hóa. Nếu nền kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc đã
kềm hãm sự phát triển của xã hội loài người trong 2 triệu năm thì có thể nói
nền kinh tế tự cấp tự túc cũng đã kìm hãm sự phát triển của các nước xã hội chủ
nghĩa trong hơn 70 năm qua.” (Thanh Niên, 4/2/1980). (Tự túc: chặt cà phê để
trồng lúa, lời thú tội ghê gớm).

– Đại tướng Lê Đức Anh (Bộ Chính trị) đã nói về dân chủ: “hầu như mọi nơi, mọi ngành, mọi cấp, hiện tượng dân chủ hình thức quan liêu, quân phiệt, độc đoán, chuyên quyền, trù dập ức hiếp nhân dân, đặc quyền đặc lợi, không quan tâm đến đời sống tinh thần và vật chất của quần chúng đang còn diễn ra phổ biến. Nhiều tiếng kêu
oan của người dân vẫn chưa được giải quyết. Trong quân đội thì truyền thống tốt
đẹp chính trị, dân chủ có lúc như bị lãng quên. Những hiện tượng mất dân chủ
nghiêm trọng… đương nhiên bị quần chúng phản đối một cách chính đáng, không
nên vội cho là xấu, là địch.” (Tạp chí Quốc phòng).

-Ông Lê Quang Đạo (Chủ tịch Quốc hội) nói đến độc tài: “Thường là Đảng quyết
định mọi cái. Trong thực tế, không phải là Đảng, mà cấp ủy, không phải là cấp
ủy, mà là một nhóm người có khi chỉ có một cá nhân quyết định, dẫn đến độc tài
chuyên chế, đặc quyền đặc lợi, sinh ra một tầng lớp cầm quyền đứng trên nhân
dân, đối lập với nhân dân, tạo ra những bất công xã hội khiến quần chúng chống
lại… Đảng bị quan liêu hóa nhưng bắt dân vẫn tuân theo mình, vì trong tay có
quyền lực, quyền thì có nhiều hơn, nhưng năng lực và đạo đức có khi không bằng
dân.”

– Ông Phạm Văn Đồng (nguyên Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng) ngày nhận huân chương Sao Vàng (84 tuổi), ông nói: “cái nhà của chúng tôi hiện nay đang nhiều rác
rưởi và dơ bẩn làm cho quần chúng nhân dân phẫn nộ một cách chính đáng; trong
tình hình như vậy việc chúng ta phải đặt lên hàng đầu công tác quét cái nhà của
chúng ta, quét mọi rác rưởi và dơ bẩn, làm cho nó ngày càng sạch sẽ.” (Nhân
dân, 2/3/1990). (Cột kèo mục nát phải thay?).

– Ông Trần Xuân Bách (Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng) nói về lạm dụng
quyền lực mà thiếu năng lực tại Câu lạc bộ Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ
thuật, ngày 13/12/1989: “Nguyên nhân khủng hoảng là lãnh đạo sai lầm, vi phạm
dân chủ, duy ý chí, bảo thủ trì tuệ, đổi mới lệch lạc, đội ngũ Đảng viên cán bộ
thoái hóa hư hỏng… Đảng phải kết tinh truyền thống dân tộc và trí tuệ thời
đại, không như thế thì không giữ được vai trò lãnh đạo. Không thể dùng quyền
lực thay cho năng lực. Đừng đổ lỗi cho cải tổ, đổi mới, cải cách. Đổi mới là
cái gương để ta soi. Nếu mặt bị nhọ thì phải rửa mặt đi chứ không phải đập vỡ
gương…”

– Ông Nguyễn Văn Linh (Tổng bí thư) nói về sự thiếu quan tâm đến lợi ích quần
chúng: “Phải thẳng thắn thừa nhận rằng, ngày nay truyền thống tốt đẹp đó (quan
tâm giải quyết các lợi ích thiết thân của quần chúng), đang bị vi phạm nghiêm
trọng và phổ biến. Một trong những nguyên nhân dẫn tới sự vi phạm đó là bệnh
quan liêu của cán bộ và bộ máy, kể cả bộ máy chuyên trách công tác quần
chúng.  Hiện nay, cuộc sống bức bách đòi hỏi chúng ta phải suy nghĩ nguyên
tắc vấn đề mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng, đổi mới căn bản công tác vận
động quần chúng cho phù hợp.” (Diễn văn dịp 60 năm thành lập Đảng).

Ông Nguyễn Văn Linh còn nói về nguy cơ của Đảng cầm quyền. Tại Hội nghị 5 Trung ương Đảng, ông nói: “Lê nin đã dạy chúng ta không biết bao nhiêu lần là phải cảnh giác đề phòng những nguy cơ dễ xảy ra đối với một Đảng cầm quyền. Trước hết đó là bệnh quan liêu bàn giấy, xa rời quần chúng, xa rời thực tế, hống hách với nhân dân, lên mặt là quan cách mạng. Họ chỉ biết suốt ngày thảo hết tờ công văn này đến chỉ thị khác, ngập đầu trong các giấy tờ, hoặc đi từ phòng họp này sang phòng họp khác, ban bố các mệnh lệnh, còn cuộc sống sinh động và sự việc thực tế thì hoàn toàn xa lạ. Họ
chỉ biết huênh hoang nói những điều cao xa, lý thuyết trừu tượng về cách mạng,
về lý tưởng cộng sản; nhưng không thể bắt tay giải quyết được một công việc cụ
thể nào cho ra hồn. Lê nin đã chế nhạo là sẵn sàng đổi một tá người cộng sản
như vậy để lấy một chuyên gia tư bản…

Một căn bệnh khác: đồng tiền. Khi có quyền lực và nắm của cải trong tay, thèm khát đồng tiền, chiếm công vi tư, đục khoét của cải của nhân dân, xâm phạm tài sản của xã hội chủ nghĩa bằng nhiều thủ đoạn tinh vi hoặc trắng trợn. Cần cảnh giác với những kẻ cơ hội chủ nghĩa, chỉ biết luồn lọt, nịnh bợ để có danh và có lợi. Lúc thuận lợi thì lao xông vào để kiếm chác, lúc khó khăn thì lảng tránh cốt giữ lấy thân. Họ sống là mặt lá
trái đổi chiều theo hướng gió, miễn là đạt được mục đích vị kỷ cá nhân… Tình
hình mất đoàn kết trong Đảng, kèn cựa địa vị, đầu ốc gia trưởng độc đoán…
Không nghe quần chúng, nhất là khi ý kiến của quần chúng không thuận tai mình,
đặc biệt khi được họ phê bình, chỉ ra những thiếu sót. Từ chỗ thiếu dân chủ đến
dân chủ hình thức thì tình hình cũng chẳng tốt đẹp gì hơn.” (Saigon Giải phóng,
24/6/1989).

C. NHẬN ĐỊNH:

Nhưng chưa đặt vấn đề căn bản mà Liên Xô và các nước Đông Âu đã đặt thì Việt Nam chưa có sám hối. Cộng sản Việt Nam chỉ nghĩ cách lấy lại lòng dân và củng cố quyền lãnh đạo của Đảng. Chưa đặt vấn đề nhân quyền cũng như vấn đề cơ cấu phải đổi mới.

Trước tiên, chưa đặt vấn đề nhân quyền bị vi phạm trầm trọng và quyết tâm sửa chữa. Đây không phải là vấn đề của cán bộ này, cán bộ khác biến chất, tiêu cực, nhưng là vấn đề chính sách, đường hướng chung. Không phải kêu gọi quét sạch rác rưởi, mà là vấn đề nền tảng, vách tường, cột kèo của ngôi nhà để nhân dân yên tâm sống dưới mái nhà đó.

Vấn đề thứ hai là vấn đề cơ cấu dân chủ. Dân làm chủ, dân kiểm tra, nói để mà nói, chứ thực chất chả có làm chủ kiểm tra gì cả.

Trong một cuộc sống trao đổi với một vị giữ một chức vụ trong Trung ương Đảng, tôi có nói: “Người dân như chúng tôi không đặt vấn đề ý thức hệ. Nhưng đặt vấn đề Đảng và Chính quyền có tôn trọng nhân quyền và dân quyền không. Người dân chỉ ủng hộ Chính quyền nào tôn trọng nhân quyền và dân quyền của họ.”

Cho tới nay, nhân quyền và dân quyền đã bị vi phạm nặng nề tại Việt Nam.

Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền của Liên hiệp quốc mà tôi đề cập hôm qua đã được Việt Nam chấp nhận. Hiến pháp Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam cũng đã nêu lên những quyền căn bản của con người và của công dân: quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội, tự do biểu tình (đ.67); quyền tự do tín ngưỡng (đ.68); quyền bất khả xâm phạm về thân thể (đ.69); quyền được luật pháp bảo hộ về tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm (đ.70); quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, bí mật thư tín, điện thoại, điện tín được bảo đảm, quyền tự do đi lại và cư trú được tôn trọng (đ.71).

Bản tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và Hiến pháp Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam như vậy đó, thế mà nhìn vào thực tế, người dân như chúng ta thấy đau xót.

Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở đâu? Báo chí là ‘công cụ của Đảng’ kể cả một tờ như Công giáo và Dân tộc chẳng hạn. Chỉ có một tiếng nói. Không nói được hết sự thật, có nói được một chút sự thật là bị chặn lại. Có ai nói khác Nhà nước thì bị chụp mũ đủ thứ. Năm 1988, nhân vụ phong thánh 117 vị tử đạo Việt Nam, tôi phải lên làm việc với ông Giám đốc văn hóa và Thông tin vì một bài đánh máy vài ba trang; năm 1989 tôi cũng cùng năm anh em khác, hai linh mục, ba giáo đã phải làm việc với Công an và bị hù dọa đủ thứ chỉ vì hai lá thư góp ý với Hội đồng Giám mục Việt Nam và
với Đức Tổng giám mục giáo phận Sài Gòn.

Tự do hội họp? Tôi cùng sáu anh em gặp nhau trao đổi về đời sống Giáo hội thì bị kết tội hội họp, lập hội mà không xin phép.

Tự do tín ngưỡng? Chỉ có tự do vô tín ngưỡng, tự do viết báo, viết tiểu thuyết rẻ tiền để bêu xấu Giáo hội. Nhiều nơi, việc lễ lạy bị ngăn cản, hạn chế làm khó dễ. Các chủng viện bị hạn chế đủ thứ để Giáo hội không đủ linh mục phục vụ giáo dân. Việc đặt các giám mục gặp bế tắc như vụ Đức cha Nguyễn Văn Thuận. Việc thuyên chuyển linh mục từ xứ này qua xứ khác không phải dễ dàng. Các linh mục di chuyển gặp khó khăn. Việc giảng dạy giáo lý bị hạn chế. Chỉ có vô tín ngưỡng, vô thần được tự do tuyên truyền, được Nhà nước đài thọ. Tình hình đó đưa tới một thực tế bi thảm: sách báo nhảm nhí, truyện tàu kể cả dâm thư như Kim Bình Mai, Hồng Lâu Mộng tràn ngập vỉa hè thành phố, trong khi đó, phải mỏi mắt mớ tìm ra một quyển sách đạo in dấm dúi bằng ronéo. Các nữ tu mở lớp mẫu giáo chẳng được bao nhiêu mà còn là lớp chui,
còn các quán bia ôm, cà phê ôm thì tràn ngập thành phố với đèn màu nhạc nổi
tưng bừng.

Tự do tôn giáo là thế đó. Còn quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được pháp luật bảo vệ về tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm, quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, tất cả những quyền ấy có được tôn trọng không? nhiều vi phạm trắng trợn. Đến đây tôi không thể không nghĩ đến cái đêm rùng rợn (25/1/1978), năm tu viện vùng Thủ Đức đã bị ốp, tất cả các tu sĩ bị trục xuất khỏi nhà, tài sản của Giáo hội bị tịch thu, vì cớ nọ cớ kia không có gì đáng tội, tu sĩ nọ linh mục kia bị bỏ tù. Mà đây chỉ là
một việc điển hình. Biết bao chuyện đau thương khác đã đến với người dân.

Kính thưa anh chị em,

Với cái nhìn tổng quát về cuộc sám hối từ Liên Xô qua CHXHCN Việt Nam, chúng ta thấy Liên Xô và các nước Đông Âu đã ân hận, đã sám hối bằng cách đổi mới. CHXHCN Việt Nam có ân hận đó nhưng còn loay hoay chưa biết phải sám hối bằng cách đổi mới như thế nào, đổi mới dỏm hay đổi mới thật.

Chúng ta hãy cầu nguyện cho đất nước ta, để một cuộc sám hối thật đến với dân tộc Việt Nam hầu đem lại tự do và hạnh phúc cho toàn dân.

Trên đất nước ta, ‘giữa lòng dân tộc’ này, quả là chưa có sự sám hối thật sự để cho ngày mai trên đất nước, tương lai của dân tộc sáng sủa hơn.

Tuy nhiên, tôi vẫn muốn kết thúc ba ngày tĩnh tâm này bằng một tia hy vọng, bằng một nốt nhạc vui. Chúng ta vẫn đón chờ Chúa sống lại cơ mà.

Nốt nhạc đó, tia hy vọng đó, anh chị em sẽ nhận thấy qua sự khác biệt giữa hai mẩu tin của báo Saigon Giải phóng, báo của Đảng. Một mẩu tin ngày 16/5/1985 đầy ác cảm với Giáo hoàng Gioan Phaolô II và một mẩu tin trên số báo ra đúng ngày hôm nay (11/4/1990) đầy thiện cảm.

Mẩu tin năm 1985 nói đến hàng trăm thanh niên Hòa Lan thuộc nhiều Đảng phái tổ chức biểu tình phản đối Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Nào là ném trứng thối, chai lọ, gạch đá; nào là Ngài có ý đồ xấu trong việc đi thăm một số nước và kết thúc bản tin: “Uy tín của Ông chưa lúc nào tồi tệ đến thế.” Bản tin này đã được tuần báo Công giáo và Dân tộc vui mừng phụ họa và chế diễu những người Công giáo bất bình với bản tin độc nhất xưa nay của báo chí về Giáo hoàng.

Mẩu tin sáng nay về Olimpic ở Roma: “Ban tổ chức (Olimpic) cho biết vào ngày 29/5, lễ bàn giao sân Olimpic sẽ có mặt Giáo hoàng Gioan Phaolô II đến để ban phép lành cho sân Roma. Lúc còn trẻ, Giáo hoàng từng chơi bóng đá trong vai trò thủ môn. Ngày nay Ông vẫn thường xuyên theo dõi bóng đá qua truyền hình nhất là các trận đấu có đội tuyển Ba Lan quê hương Ông.”

Anh chị em thân mến,

Chúng ta hy vọng nước Việt Nam ta sẽ đổi mới trong tinh thần tôn trọng các quyền căn bản của con người và của người dân, nhất là tôn trọng tự do tôn giáo. Giáo hội toàn cầu cũng như Giáo hội Việt Nam không tranh quyền bính với ai, chỉ muốn phục vụ con người, kể cả phục vụ cho đến hy sinh mạng sống mình, như Đức Kitô.

Lm. Chân Tín

(11.4.1990)

 

BÉ THƠ KHỐN KHỔ

BÉ THƠ KHỐN KHỔ
“Phúc thay ai xót thương người,

vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.

(Mát-thêu 5:7)
Hai em khốn khổ thảm thương
Mồ côi cha mẹ náu nương nơi nào
Nhìn hình xúc động nghẹn ngào
Trần gian cõi tạm bước vào sầu đau
Lệ tuôn buồn tủi ai lau
Tình yêu đồng loại, ta mau mở lòng
Trái tim nhân ái vẫn còn
Bàn tay giang rộng ôm vòng cảm thông
Bé thơ mơ ước ngóng trông
Gia đình ấm áp đêm đông lạnh lùng
Chúa Cha ngự chốn cửu trùng
Khấn xin che chở thấu cùng, Ngài ơi!

* Nguyễn Sông Núi
(Tv Thánh Gioan Neumann, Dallas, TX, Dec. 4, 2012)

[Xin mời xem tấm hình ở bên dưới.]
Chỉ vài ba hàng chữ và một tấm hình…
làm cho lòng người phải tê tái,
xót xa, ngậm ngùi…
MỒ CÔI
Ba mất.

Mẹ nó sợ tuổi xuân trôi qua uổng phí, đi bước nữa.
Nó về ở với Nội.
Nội già. Nó làm tất cả.

Nó giống người Châu Phi – đen trùi trũi!

Có người hỏi: “Mày có buồn không?”.
Nó yên lặng nhìn xa xăm…

Mt chiu, nó dn v mt con bé, nh hơn.

Nội nhìn nó ngc nhiên...

Nó ngậm ngùi: Con còn có Ni – nó chng còn ai…..!

4 cách truyền giáo

4 cách truyền giáo

Tác giả RYAN EGGENBERGER

TRẦM THIÊN THU
Bạn là người Công giáo và sống yêu thương. Bạn muốn chia sẻ Tin Mừng với những
người quen biết, chẳng hạn các đồng nghiệp. Đó là sống dồi dào trong Đức Giêsu
Kitô nơi Giáo hội Công giáo và là điều tốt lành!
Chúng ta thường nghe nói rằng người Công giáo và người Kitô giáo gây phiền
toái, thúc ép, và cực đoan. Điều này chỉ đúng trong một số ít trường hợp, còn
đa số chúng ta đều là những người thân thiện bình thường.
Tuy nhiên, hành động thân thiện khả dĩ chấp nhận không miễn trừ chúng ta đối
với việc chia sẻ Tin Mừng. Thật vậy, đó là một trong số ít điều mà chúng ta
thực sự phải làm theo lệnh Chúa Giêsu truyền: “Hãy đi và làm cho muôn dân trở
thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28:19-20).
Có nhiều cách để chia sẻ Tin Mừng mà không thúc ép, gây phiền toái và cực đoan.
Mục đích là tạo cơ hội để chia sẻ niềm vui về Đức Giêsu Kitô. Cách tốt nhất là
“làm bạn với ai đó và đem người đó đến với Đức Kitô”. Hãy thử thực hiện những
cách loan truyền Tin Mừng sau đây:
1. Sống hiền lành và hòa đồng
Người hiền lành vui vẻ sẽ thu hút nhiều người khác. Bạn có thể sống vui vẻ và
hòa đồng ở mọi nơi mà không gây phiền toái cho ai. Hãy vui cười và sống tích
cực. Hãy mặc lấy Đức Giêsu Kitô để nhìn mọi người và mọi thứ bằng con mắt đức
tin.
Điều này không có nghĩa là bạn phải tỏ ra ngây ngô. Điều xấu có thể xảy ra,
chẳng hạn như đau khổ. Nhưng đối với những người nhìn bằng con mắt đức tin và
hiểu biết giáo huấn của xã hội, đau khổ có thể trở thành vinh quang của Thiên
Chúa. Niềm vui trong Chúa là sức mạnh của chúng ta. Người ta sẽ “thắc mắc”
không hiểu sao bạn lại sống lạc quan trong gian khó như vậy. Đó là tín hiệu
tốt!
2. Yêu thương tha nhân
Đó có thể là điều cũ kỹ gây nhàm chán, nhưng đó lại chính là mệnh lệnh của Đức
Kitô: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh
em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh emThầy ban cho anh em một
điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy
đã yêu thương anh em” (Ga 13:34).
Làm sao chúng ta có thể yêu thương tha nhân như Chúa Giêsu yêu thương chúng ta?
Có thể chúng ta cho là khó vì không hợp lý. Điều Chúa Giêsu đã làm trên Thập
giá vì chúng ta là điều không thể lý giải theo trí tuệ của nhân loại: Chúa
Giêsu chịu chết hoàn toàn vì người khác, tức là chúng ta. Như vậy chúng ta cũng
phải sống hết mình vì tha nhân. Tại sao? Chúng ta đã được Chúa thương xót thì
chúng ta có trách nhiệm và bổn phận phải thương xót tha nhân. Đó là công lý!
3. Phát triển các mối quan hệ
Nhiều người không có những người bạn đúng nghĩa, theo cách nói của người Việt là
ít “bạn” mà nhiều “bè”. Đó là một thực tế. Đặc biệt là nam giới, thường chỉ ăn
nhậu với nhau vậy thôi, chứ thực sự chưa hẳn là bạn.
Bạn bè với nhau có thể do cùng mục đích, cùng quan điểm, cùng sở thích,… Thực
ra ai cũng có thể là bạn của nhau, dù khác nhau về niềm tin tôn giáo, nghề
nghiệp, sở thích,… nếu có lòng nhân đạo, tình yêu thương. Tình yêu thương vô
điều kiện, mà tình bạn là một dạng yêu thương, thế nên tình bạn không đòi hỏi
gì cả.
4. Khuyến khích người khác sống tốt
Nhân chi sơ tính bổn thiện. Sinh ra ai cũng có bản chất tốt. Chúng ta luôn phải
cố gắng vươn lên để đạt được điều tốt nhất, và phải nỗ lực tuân theo các giáo
huấn của Chúa trong mọi hoàn cảnh, cùng đích là Nước Trời. Lên trời một mình là
ích kỷ, nên chúng ta phải kéo người khác cùng lên. Thánh Phaolô nói: “Trong
cuộc chạy đua trên thao trường, tất cả mọi người đều chạy, nhưng chỉ có một
người đoạt giải. Anh em hãy chạy thế nào để chiếm cho được phần thưởng” (1 Cr
9:24).
TRẦM THIÊN THU
(Chuyển ngữ từ IgnitumToday.com)
nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Vấn đề lương tâm

Vấn đề lương tâm
Đăng bởi cheoreo lúc 3:13 Chiều 5/12/12
TRẦM THIÊN THU

VRNs (05/12/2012) – Sài Gòn- Tôi có anh bạn lớn hơn tôi 10 tuổi. Chúng tôi gặp nhau hằng tuần cùng uống cà-phê và phiếm đàm nhiều chuyện – từ tôn giáo đến xã hội, từ giáo dục tới kinh tế, từ giao tế xã hội tới đạo hiếu gia đình,… Thậm chí chúng tôi trao đổi cả về cuộc đời và sự chết.

Khoảng 10 năm trước, xe tôi hư, muốn sửa xe mà không quen ai, sợ gặp thợ “vô tâm” làm ẩu và “chém đẹp”. Đứa cháu nói có ông già sửa xe trên khúc đường gần tới nhà
thờ, và nó “láy” một câu: “Ông ấy khó tính lắm”.
Một lần, hai lần, rồi nhiều lần. Tôi đến “ông già” để sửa xe. Cứ thế thành quen,
rồi thân. Tôi nói với đứa cháu: “Có thấy ông ấy khó tính gì đâu!”. Cứ khoảng
hai hoặc ba tuần tôi không ghé là ông lại nhắc: “Lâu quá không ghé, tưởng đi
đâu xa rồi chứ. Nói thật lòng, không thấy Đông ghé tôi cũng thấy nhớ”. Tôi ghé
tiệm sửa xe của anh có khi không sửa xe mà chỉ để phiếm đàm sự đời, tâm sự với
nhau cho quên “khổ ải trần gian” vậy thôi.
Có lần anh nói: “Có những người giàu, buôn bán lấy lời thẳng tay. Có khi lời gấp
đôi, gấp ba lận. Mà không phải người bình thường đâu, họ là con cha cháu ông
đó. Mình nghèo thật, nhưng sửa xe cho khách mà lấy mắc hơn một vài ngàn, đêm
nằm suy nghĩ thấy áy náy lắm. Áy náy thật chứ không giỡn nha”. Tôi cười: “Vậy
chứ sao. Có lẽ vậy nên họ giàu. Mình nghèo có khi còn bị cho là chảnh”.
Đó là vấn đề lương tâm. Có người áy náy vì chuyện rất nhỏ, nhưng có người không hề
áy náy vì chuyện lớn. Lương tâm mỗi người đều có những mức độ khác nhau: Đúng
đắn hay sai lệch? Trong sáng hay chai lì? Còn thức hay đã ngủ? Và người ta
thường “chua cay” nói: Lương tâm không bằng lương tháng. Vâng lương tâm có răng
đâu mà cắn rứt!
Tin tức cho biết: Trên đường Bùi Thị Xuân (Q. 1, TPHCM), hai xe máy va quẹt chưa
xảy ra nguy hiểm nào, nhưng chỉ vì một lời nói không lọt tai mà một thanh niên
đã hung hãn giết hai người chết tại chỗ. Nghe TIN mà TỨC. Do đó mà người ta gọi
là… tin tức.
Rồi trên xe buýt chạy tuyến QL 13 đi Bình dương, một đạo tặc “hai ngón” bị bà già
ngăn cản liền đâm vào mặt bà. Hai thanh niên thấy vậy nên ra tay nghĩa hiệp
cũng bị hắn đâm, một anh bị đâm vào lưng và một anh bị đâm vào đùi.
Đọc báo Tuổi trẻ mà… giật mình, không thể tưởng tượng nổi khi các “cô chiêu, cậu
ấm” của các đại gia còn xài sang hơn “công tử Bạc Liêu” xưa: Họ điểm tâm sáng
vài trăm triệu đồng VN, buổi tối họ vào các bar chi khoảng vài ngàn USD. Với
họ, như vậy là… chuyện nhỏ, và như vậy mới chứng tỏ “đẳng cấp”!
Nhưng, tháng 8/2010, anh lái tàu hỏa tên Thức – với 20 năm kinh nghiệm – đã nhanh chóng quyết định dùng cách khác để thắng đoàn tàu khi gặp sự cố, dù anh biết
nguy hiểm cho tính mạng mình. Anh bị trọng thương, dập nát hai chân và dập lá
lách, nhưng anh đã cứu sống hơn 300 hành khách. Lái tàu có cách thắng khác
không nguy hiểm cho mình, nhưng có thể nguy hiểm cho cả đoàn tàu. Anh đã chọn
phần nguy hiểm về phần mình. Anh có vợ và con gái. Nhà nghèo, chiếc xe máy cũng
chưa mua được, nhưng anh Thức vẫn hoàn toàn là con người vĩ đại với một lương
tâm trong sáng.
Giữa đêm tối bao phủ dày đặc, một que diêm lóe sáng cũng đủ để người ta nhìn thấy.
Cũng vậy, một động thái dù rất nhỏ cũng đủ người khác nhận ra. Muốn giỏi một
ngoại ngữ, người ta cần đan quyện cả 4 kỹ năng: Nghe, Nói, Đọc (hiểu), Viết.
Cuộc sống cũng cần các kỹ năng tương tự vậy. Hymans nói: “Giá trị mỗi con người
tùy thuộc lý tưởng cao hay thấp mà mình theo đuổi”.
M. Blanchecotte nói: “Hãy tưởng như mình sắp chết và hãy hành động như mình bất
tử”. Quả thật, trong con người luôn có sự giằng co mãnh liệt, do đó “nghĩ đúng,
nói đúng, vậy cũng chưa đúng, mà còn phải làm đúng” (Lachausser). Cuộc sống
phải tích cực và dứt khoát, không được tiêu cực hoặc lừng khừng, vì Chúa nói:
“Ngươi hâm hẩm, chẳng nóng chẳng lạnh, Ta sẽ mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh
3:16).
Nói đến lương tâm là hiểu ngầm có sự giằng co trong mỗi con người. Điều quan trọng
là chúng ta chứng tỏ bằng chính hành động cụ thể, đừng nghĩ rằng “vắng mợ thì
chợ vẫn đông”. Chân phước Nữ tu Teresa Calcutta đã chia sẻ: “Chúng ta cảm thấy
những gì chúng ta làm chỉ là một giọt nước trong đại dương. Nhưng đại dương sẽ
ít đi vì thiếu giọt nước đó” (We ourselves feel that what we are doing is just
a drop in the ocean. But the ocean would be less because of that missing drop).
Lạy Chúa, xin tạo cho chúng con trái tim trong sạch, lương tâm trong sáng, và giúp
chúng con can đảm hành động. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô,
Thiên Chúa của chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU

Ba bài giảng sám hối

Ba bài giảng sám hối

(Mùa Chay, tháng 4/1990)

Nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp – DCCT

(đường Kỳ Đồng, Sài Gòn)

 

Bài giảng thứ hai

Sám hối tập thể Giáo hội

nguồn: chuacuuthe.com

Hôm qua, ta đã đề cập đến sám hối cá nhân: thường ta dựa vào lề luật để xét mình và sám hối (Mười điều răn Thiên Chúa, Sáu điều răn Hội thánh). Tôi đã lưu ý anh chị em việc sám hối dựa trên căn bản của một Kitô hữu: lời gọi nên hoàn hảo của Chúa Kitô và ba chức năng của Kitô hữu (tư tế, ngôn sứ và vương đế).

Hôm nay, ta đề cập đến sám hối tập thể Giáo hội dựa trên mầu nhiệm và sứ mạng của Giáo hội.

1. Mầu nhiệm Giáo hội:

Trong Hiến chế về mầu nhiệm giáo hội, Công đồng Vatican nói: “Ánh  sáng thế gian chính là Đức Kitô, do đó Giáo hội phải phản chiếu ánh sáng ấy cho muôn dân, khi rao giảng Tin mừng cho mọi người. Giáo hội là bí tích của Chúa Kitô, vừa là dấu hiệu, vừa là phương tiện để mật thiết kết hợp với Chúa và hợp nhất nhân loại với nhau. Vì thế giáo hữu phải biết rõ đặc tính và sứ mạng Chúa Kitô đã giao phó cho Giáo hội”.

Ý Chúa Cha là cứu độ mọi người: Thiên Chúa muốn nâng mọi người lên tham dự đời sống Thiên Chúa. Con người sa ngã, Chúa Kitô cứu độ. Thiên Chúa muốn những ai tin Chúa Kitô hợp thành Giáo hội. Chúa Kitô lập Giáo hội. Chúa Thánh thần hoàn tất.

Giáo hội nhiệm thể Chúa Kitô: Chúa Kitô là đầu. Một thân mình, nhiều chi thể. Đòi hỏi sự thống nhất trong sự khác biệt các chi thể trong Giáo hội có cố gắng xây dựng sự hợp nhất và tôn trọng sự khác biệt các chi thể.  Để cho Chúa Kitô là đầu lãnh đạo Giáo hội qua lời Ngài không bị bóp méo. Tôntrọng giám mục, không thể cho một đoàn thể nào trong Giáo hội dựa vào quyền lực để điều khiển sinh hoạt của Giáo hội. Tinh thần Đức Kitô hay tinh thần thế gian chạy theo chiều gió chi phối Giáo hội? Giáo hội là một thân thể có phần vô hình và hữu hình, ta làm gì để phát triển? Có phấn đấu để có điều kiện phát triển?

2. Sứ mạng của Giáo hội

+ Chức năng tư tế:

Giáo hội là dân riêng mới của Thiên Chúa, với giao ước mới trong Máu Chúa Kitô, Thượng đế, trao quyền cho hàng Giáo phẩm, ngoài chức tư tế cộng đồng của toàn thể tín hữu và của mỗi tín hữu như đã nói hôm qua.

Giáo hội Việt Nam đã làm gì, đã phấn đấu như thế nào để thực hiện chức năng tư tế của hàng giáo phẩm?

Để bảo đảm chức năng tư tế ta cần:

+ Đào tạo linh mục: tự do lập chủng viện, chọn giáo sư, chọn chủng sinh, chọn chương trình đào tạo.

+ Thuyên chuyển linh mục coi xứ, phong giám mục, linh mục.

+ Tổ chức phụng tự, thánh lễ, cầu kinh có được tự do chưa? Đã phấn đấu như thế nào?

Phải nói đến nay, ta chưa phấn đấu đủ, không phải âm thầm năn nỉ ỉ ôi, mà công khai cho dư luận biết.

+ Chức năng ngôn sứ:

Tự do rao giảng Tin Mừng, giáo lý tân tòng, trẻ em? sách vở báo chí? Kinh Thánh? Giáo hội Việt Nam có nói thẳng nói thật với chính quyền về những vi phạm tự do tôn giáo? Có lên tiếng bênh vực nhân quyền, dân quyền? Hiến chế về Giáo hội trong thế giới ngày nay nói: “Nỗi vui mừng và niềm hy vọng, những buồn khổ và mối lo âu của con người hôm nay, cách riêng của những người nghèo và tất cả những ai đang đau khổ, đó cũng là vui mừng và hy vọng, đau buồn và lo âu của môn đệ Chúa Kitô: Không có gì liên quan đến nhân loại mà không  có tiếng vang trong cõi lòng tín hữu Chúa Kitô. Cộng đồng Kitô hữu gồm những con người, được họp lại trong Chúa Kitô, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn trên đường về nước Cha, họ mang sứ điệp cứu độ phải được gửi đến cho tất cả Cộng đoàn tín hữu cảm thấy thực sự và sâu xa liên đới với con người lịch sử nhân loại.”

Trong tinh thần phục vụ con người, Giáo hội Việt Nam cần xét mình lại xem mình có thực sự và sâu xa liên đới với con người Việt Nam hôm nay.

Người Việt Nam hôm nay hy vọng và lo âu cái gì? Họ lo âu trước tình trạng xã hội tan rã trên mọi phương diện: trong đó họ bị tước đoạt những quyền căn bản của con người và người dân. Con người sinh ra bình đẳng và tự do, có tất cả những quyền căn bản của con người mà Thiên Chúa ban cho họ, thêm vào đó ngày 10/12/1948 Liên Hiệp Quốc đã ra Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền có đoạn nói như sau:

“Xét rằng thừa nhận phẩm giá cố hữu những quyền bình đẳng và bất khả nhượng của con người trong đại gia đình thế giới là đặt nền tảng cho tự do, công lý và hòa bình thế giới.”

“Xét rằng vì không biết rõ và khinh miệt nhân quyền nên loài người đã có những hành động dã man đối với lương tâm và xét rằng sự tiến tới một thế giới trong đó nhân loại sẽ được hưởng tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng và tự do sinh sống không phải sợ hãi và thiếu thốn, đã được tuyên bố là nguyện vọng cao cả nhất của con người.”

“Xét rằng điều tối cần là nhân quyền phải được pháp luật che chở, nếu muốn cho loài người không bao giờ phải dồn đến phương tiện nổi loạn, để chống lại sự tàn bạo và áp bức… Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc công bố bản Tuyên ngôn Quốc tế này như là một lý tưởng chung cho các dân tộc và các quốc gia phải tiến tới.”

Tiếp đó bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền đưa ra 30 điều về nhân quyền:

– Quyền được hưởng tự do và an ninh cá nhân (3),

– Quyền không bị hành hạ hay ngược đãi, bị đối xử hay trừng phạt một cách vô nhân đạo, làm hại phẩm cách con người (5),

– Quyền được bình đẳng trước pháp luật, được pháp luật bảo vệ (7),

– Quyển khỏi bị bắt bớ, bị lưu đày một cách trái phép (9),

– Quyền được xét xử bình đẳng trước một tòa án vô tư và độc lập (10),

– Quyền được coi như vô tội khi bị truy tố mà chưa có tòa xét xử với bằng chứng để buộc tội (11),

– Quyền không được xúc phạm trái phép đến đời tư, gia quyến, nhà ở, thư từ (12),

– Quyền được tự do di chuyển và trú ngụ bất cứ nơi nào trong nước họ và quyền tự do rời bỏ bất cứ nơi nào, kể cả xứ mình, hoặc trở về xứ mình
(13),

– Quyền tự do kén chọn một quốc tịch theo ý muốn (14),

– Quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng (18),

– Quyền tự do bày tỏ ý kiến, tự do tìm kiếm, thu nhận và truyền bá những quan niệm và ý tưởng của mình (19),

– Quyền tự do hội họp và lập hội để theo đuổi mục tiêu hòa bình và không bắt buộc ở trong một hội nào (20),

– Quyền bầu cử tự do (21),

– Quyền hưởng an sinh xã hội (22),

– Quyền làm việc, quyền tự do lựa chọn việc làm của mình, quyền hưởng số lương phải chăng và đủ để bảo đảm cho mình và cho gia đình một đời sống xứng đáng với phẩm giá con người, mọi người có quyền lập và gia nhập nghiệp đoàn để bảo vệ những quyền lợi của mình (23),

– Quyền hưởng một mức sống đầy đủ cho sức khỏe và hạnh phúc của mình, của gia đình mình, quyền hưởng tiện nghi giáo dục, y tế (25),

– Quyền cha mẹ lựa chọn giáo dục cho con cái (26)…

Giáo hội Việt Nam trong đó có Hội đồng Giám mục Việt Nam, các giám mục địa phận, các linh mục, tu sĩ và giáo dân, Giáo hội Việt Nam đã làm gì, đã lên tiếng khi thuận khi nghịch, khi âm thầm khi công khai, để người ta trả lại những quyền căn bản của con người cho con người Việt Nam hôm nay?

Phải nói là đau lòng khi thấy Giáo hội quá âm thầm chịu đựng và không dám nói thẳng, nói thật. Có nói âm thầm không, chắc cũng có, nhưng như  đi xin ân huệ, năn nỉ ỉ ôi, trả giá, còn công khai thì thật là hiếm. Còn có ông vỗ ngực đại diện giới công giáo đã vung vít tuyên bố một câu nghe xanh rờn như một lời tuyên xưng đức tin vào Đảng Cộng sản Việt Nam, tại buổi họp khoáng đại của Quốc hội (7/7/1976): “Tôi xin phép nói lên tâm tình của một linh mục công giáo (…), báo cáo chính trị (của Quốc hội) càng làm ta xác tín thêm hơn nữa rằng con người mới, xã hội mới mà mọi người đều mơ ước, mà mọi người tin vào Chúa Kitô mãi mơ ước, con người mới đó, xã hội mới đó không thể có được, nếu không có Đảng Lao động Việt Nam (Đảng CSVN), đội tiền phong của giai cấp công nhân lãnh đạo và tổ chức.”

Không biết linh mục ấy đã ân hận chưa? Có lẽ đã ân hận, vì những gì mắt thấy tai nghe, không thể mù, không thể điếc được thì phải nhức nhối lắm.Nhưng có sám hối chưa? Chưa thấy. Đã công khai nói như thế nào, thì sự sám hối cũng phải công khai.

Một vị ‘yêu nước’ khác lại tuyên bố nào là Nước Thiên Chúa đã đến với chế độ CSVN, nào là Đảng CSVN tạo điều kiện cho ta giữ đạo. Đó là những lời nịnh bợ vô liêm sỉ, khi Giáo hội đang bị bóp chết bằng cách giới hạn đào tạo linh mục, đóng cửa các nhà đào tạo tu sĩ, cấm in sách vở báo chí Công giáo, việc dạy giáo lý bị giới hạn, việc thờ phụng có nơi làm khó dễ, linh mục đi lại giảng đạo nơi khác bị cấm đoán, các hội đoàn tông đồ giáo dân, công tác xã hội giáo dục bị loại bỏ.

Còn một vài vị trong hàng lãnh đạo của Giáo hội Việt Nam hoặc ngây thơ vô tội, hoặc có tính toán, nên người ta ‘cho phép’ cái không cần ‘xin phép’ thì cuống quít coi như ân huệ và khen lấy khen để ông nào đó như câu: “Người  tốt lắm, người chân thành lắm.” Trên đất nước này, người ta coi mọi nhân quyền và dân quyền là ân huệ ngưởi ta có thể ban cho, có thể giới hạn, có thể mở rộng, có thể rút lại. Họ coi họ hơn cả Thiên Chúa – Thiên Chúa ban cho con người tự do và không bao giờ rút lại, kể cả khi còn người phản bội Ngài, đóng đinh con của Ngài. Giáo hội phải đòi hỏi người ta trả những quyền căn bản của con người, chứ không có vấn đề xin xỏ, năn nỉ, ỉ ôi.

+ Chức năng vương đế:

Giáo hội Việt Nam phải phấn đấu để thực thi quyền phục vụ con người và Thánh Kinh gọi là quyền vương đế. Phục vụ người nghèo, người đau khổ, người bị bóc lột, người bị áp bức. Một mục sư như Martin Luther King đã bị ám sát ở Hoa Kỳ vì bảo vệ quyền người da đen, chống phân biệt chủng tộc. Giám mục Roméro và sáu linh mục dòng Tên đã bị ám sát ở Salvador vì bênh vực những người  áp bức. một hồng y như Wyszynski ở Balan đã gặp nhiều khó khăn vì bênh vực Giáo hội, một hồng y khác như Tomasek ở Tiệp Khắc đã phấn đấu cho Giáo hội như lời ngài tuyên bố trước 200 ngàn người biểu tình tại Praha ngày 21/11/1989 và đã được đọc tại các nhà thờ ngày chủ nhật 26/11/1989.

Sau khi đề công chúa Anê miền Bohêmia của Tiệp Khắc vừa được Đức Giáo chủ Gioan Phaolô II phong lên hiển thánh là một người tuy tu trong một đan viện vì lòng mến Chúa yêu người, nhưng không ngừng ở cạnh dân mình trong những giờ phút vinh quang cũng như trong những lúc tủi phận, Đức hồng y Tomasek nói:

“Về phần tôi, tôi không thể nào tỏ ra xa lạ với định mệnh quốc gia chúng tôi và toàn thể đồng bào đất nước tôi. Tôi không thể im lặng trong lúc tất cả anh chị em đang hợp lực với nhau để phản đối những bất công mà anh chị em phải chịu từ 40 năm nay, người ta không thể duy trì lòng tín nhiệm đối với giới lãnh đạo quốc gia không muốn nói sự thật và đối bỏ các quyền tự do của nhân dân với truyền thống có từ hàng ngàn năm nay, những quyền này vẫn được coi là những quyền bình thường trong những quốc gia trẻ trung hơn trong đất nước ta.”

Rồi ngài kể lại bao nhiêu lần Giáo hội gởi đến Nhà nước những lời khiếu nại nhưng Nhà nước đã làm ngơ, Giáo hội tiếp tục lệ thuộc Nhà nước theo những điều hạn chế được áp đặt trên Giáo hội thời Staline. Trong việc cai quản giáo phận, các giám mục hoàn toàn lệ thuộc Nhà nước và lời nói quyết định trong vấn đề này dường như vẫn là lời nói của cơ quan mật vụ, những cuộc hội họp của các giám mục và linh mục đều bị cản trở vì sự hiện diện của các đại diện Nhà nước trong các buổi họp, bầu không khí thiếu tự do, các tín hữu trưởng thành cũng như con cái họ và nhất là các bạn trẻ công giáo thật khó thở…

Tình trạng đau buồn tương tự như thế cũng xảy ra trong các lãnh vực khác của đời sống, trong lãnh vực văn hóa, thông tin.

Rồi ngài kết luận: “Tôi muốn ngỏ lời với tất cả anh chị em trong giờ phút quyết liệt này của lịch sử của chúng ta. Không ai trong anh chị em được đứng ngoài lề. Hãy lên tiếng hợp với tất cả công dân Tiệp Khắc, cùng với những người thuộc sắc tộc khác, dầu họ là tín hữu hay không có ngưỡng. Quyền tự do tín ngưỡng không thể tách rời khỏi những quyền dân chủ khác, tự do là điều không thể phân chia được.”

Những lời tuyên bố trên đây của Đức Hồng y Tomasek làm cho tôi suy
nghĩ. Và tôi cũng để cho anh chị em suy nghĩ, sau khi tôi đã phân tích tình
trạng thiếu phấn đấu của Giáo hội Việt Nam cho tự do tôn giáo và cho nhân quyền
và dân quyền của người dân Việt nam hôm nay. Mong rằng Giáo hội Việt nam
sẽ sám hối về những điều thiếu sót đó.

Để kết thúc, tôi đưa ra lời nói cuối cùng của hồng y Tomasek trong buổi mít tinh kể trên. Ngài nói : “Tôi xin chấm dứt nơi đây với những lời đã từng vang dội đã lâu trong lịch sử của chúng ta: Với sự trợ giúp của Thiên Chúa, số phận của chúng ta ở trong tay chúng ta. “Amen”.

 

Lm. Chân Tín

Ta như kẻ hoài nghi đành bỏ cuộc

Ta như kẻ hoài nghi đành bỏ cuộc

Đăng bởi cheoreo2 lúc 5:00 Sáng 5/12/12

nguồn: chuacuuthe.com

VRNs (05.12.2012) – Úc Đại Lợi – Suy niệm Lời Ngài đọc vào Chúa Nhật thứ Hai Mùa Vọng năm C 09.12.2012

“Ta như kẻ hoài nghi đành bỏ cuộc,”

“Ngôn ngữ buồn, khánh kiệt cửa tim đau”

(Dẫn từ thơ Vương Ngọc Long)

Lc 3: 1-6

Hoài nghi chăng, chuyện hoàng-đế rất thượng thừa, nơi đất trời lồng lộng xứ nhà vua. Chẳng ngờ vực, thánh sử nay trình thuật việc Chúa tin tưởng dân con hết mọi người, nên vẫn dạy.

Thánh Luca trình thuật lời dạy của Chúa vào cuối thế kỷ thứ nhất hoặc ở đầu thế kỷ thứ hai sau Công nguyên. Cũng có thể, thánh nhân trình thuật từ vùng Tiểu Á, nay là Thổ Nhĩ Kỳ. Thánh sử trình và thuật cho dân ngoại nay thành tín hữu chuyên chăm sống cuộc sống gắn bó, có thực thi lời dạy của Chúa. Bởi, dân gian trong vùng vẫn quen sùng bái thần-hoàng-đế cai-trị toàn đế-chế.

Đế chế La Mã thế-kỷ đầu, có dân gian mọi người qui về một mối, vẫn coi Augustus như thần-linh mặc xác phàm. Công đầu của ông, tuy chính-trị, vẫn kết hợp được mọi người để họ có cùng thần linh, hệ-thống giá trị rồi đưa vào truyện kể thời ấu thơ của ông. Những là: mẹ ruột cưu mang ông theo cách lạ kỳ; và, khi sinh ra ông đã được gọi là vua-cha cai quản cả đế quốc.

Ngày sinh ra, đã có mục đồng quẩn quanh xướng hát, tụng ca thật rôm rả. Ngày sinh ra, ông đã được mọi người coi như “Tin vui/mừng” cho mọi người. Bởi, trẻ Augustus được ca tụng như cha-già dân-tộc, đấng cứu tinh toàn thế giới và còn được coi như lãnh chúa, của đế-chế. Thế nên, ông được mọi người coi như đấng bậc đem hoà bình rất mới đến với dân con thời đó. Và, ông còn được coi như thế tử của Đức Chúa Ông, cũng rất mừng.

Năm lên 12, ông đã chứng tỏ mình có khả năng siêu việt, rất dị  biệt, chẳng ai sánh tày. Hoàng-đế Augustus tuy băng hà vào năm 14 sau Công nguyên, nhưng cung cách tư-duy/xử thế của ông vẫn được nối tiếp qua các  hoàng-đế, hệt như thế. Cuối thế kỷ đầu, hoàng đế Domitian lại cũng truyền lệnh cũng một kiểu như thế với dân con mọi người cả với người dấn bước theo Đức Kitô cũng sùng bái chính ông ta.

Nghe chuyện trên, hẳn người Công giáo chúng ta đều kinh khiếp. Kinh và khiếp, là bởi ta quen đọc Phúc Âm Đạo mình thấy ngôn từ cùng ý tưởng ở truyện kể vốn chỉ nên áp dụng độc quyền cho Thiên Chúa và Đức Kitô thôi ư? Không hẳn thế. Truyện kể ấy, đã thành chuyện thường ngày ở La Mã và nhiều nơi, lại vẫn được kể bằng ngôn từ/tình tiết rất thân quen. Nó đã trở thành kho tàng quí báu nơi ngôn ngữ doanh thương/mậu dịch với người ngoài, từ lâu.

Và, thánh Luca đã thuật lại Tin Mừng của Chúa đúng vào thời hoàng đế Domitian hoặc sau đó, lúc mọi người bên Đạo đều chối từ sùng bái thần-hoàng, nên tuẫn tiết. Và, sách Khải Huyền thánh Gioan cũng được viết vào thời này, đã cho thấy thứ ngôn ngữ được khuất kín để rồi con dân Chúa sẽ còn gặp rắc rối hơn trước nhiều.

Thánh Luca, lại có lập trường chính-trị chống lại việc thờ bái thần-hoàng, chống cả Hoàng-đế lẫn tôn giáo của riêng ấy. Thánh sử biết ngọn ngành ngôn ngữ “thánh” là để chỉ Hoàng-đế La Mã mà thôi. Nhưng, thánh sử không dùng lời lẽ thánh thiêng ấy để chỉ ông ấy mà cốt để nói về Đức Giêsu, là Chúa mọi người, không chỉ người của đế quốc La Mã, thôi.

Thánh sử nói: sùng bái thần-hoàng không thể là đường lối để ta áp dụng, mà chỉ có niềm tin vào Đức Giêsu Kitô mới xứng đáng để ta làm thế. Thuật lại Tin Mừng như thế, thánh Luca đã tìm được chỗ đứng xứng đáng cho Đức Giêsu để Ngài ngự trị trong cung lòng rộng mở của người La Mã cũng như Hy Lạp, thời đó.

Với thánh Luca, niềm tin không chỉ dựa trên những gì là đặc biệt, hoặc ngoại lệ thôi.

Thành thử, muốn cho mọi người dễ chấp nhận đường lối tư duy rất mới này, thánh Luca nghĩ: ông phải sử dụng các truyện kể phổ cập về hoàng đế Augustus vào lúc đó và ông đã xây dựng truyện kể song hành về Đức Chúa, rất Giêsu. Thánh-sử viết về Đức Giêsu theo kiểu đó, là cốt đem đến cho Đức Chúa một cung cách theo kiểu tiểu sử tương tự như hoàng-đế Augustus từng có, nhưng thánh-nhân còn muốn nhấn mạnh hơn tính chất rất “con người” của Đức Giêsu, về sự thật. Chứ, không chỉ mối tính chất rất thánh thiêng của Chúa, thôi.

Người đọc lâu nay nghe rất quen hai chương đầu ở Tin Mừng thánh Luca, đặc biệt là trình thuật về thời khắc có Giáng sinh, như mùa này. Điều mà thánh sử Luca còn muốn nhấn mạnh hơn nữa là định vị Đức Giêsu là Đấng duy nhất chỉ mình Ngài mới xứng hợp mọi danh dự lâu nay con người vẫn dành cho Hoàng đế.

Các truyện do thánh-sử kể cho ta nghe trước khi kể về cung cách Chúa Giáng Hạ -và cả truyện kể về thánh Gioan Tẩy Giả nữa- thánh Luca đều bắt đầu bằng câu: “Số là vào những ngày thời Hêrôđê, vua xứ Giuđê…” (Lc 1: 5) Nhưng khi kể về việc Chúa Giáng Hạ, thánh-nhân lại viết những giòng chữ như: “Trong những ngày ấy, Hoàng đế Augustus ra sắc chỉ ban hành lệnh kiểm tra toàn thể thiên hạ…”(Lc 2: 1) là thánh-sử muốn nối kết Đức Giêsu là người Do-thái với truyện hoàng-đế Augustus, là người La Mã. Nên, ở đây ta cũng thấy khó mà hiểu nổi lệnh kiểm tra này theo tính sử học. Bởi, làm sao khi ấy mấy ai có được khả năng khiến bắt mọi người trong đế quốc và trên toàn thế giới lúc đó lại có thể về nơi mình sinh hạ để kiểm tra được?

Thánh Gioan Tẩy Giả, như phụng vụ hôm nay có trích dẫn, cũng ở trong tình huống chính trị hệt như thế. Ta cứ nghĩ, rằng: thánh-nhân đây chỉ thực hiện một cuộc thanh tẩy giản đơn như đang làm ở nhà thờ nơi đây, lúc này thôi. Nhưng kỳ thực, thánh-nhân đã không làm như thế. Thánh nhân chỉ mỗi tụ họp mọi người về với giòng sông Gio-đan rồi dẫn họ đi vào giòng chảy rồi hụp lặn ở đó như động thái tẩy sạch bụi trần rồi bước qua sông để về đất miền đầy hứa hẹn mà đòi cho được đất miền của mình, do Chúa hứa tặng. Sự thể là, đất miền ở nơi đó lâu nay bị chiếm hữu và dân quân La Mã đã trụ trì, cũng khó đòi. Thánh Gioan khi ấy chỉ là nhân vật lịch sử rất chính trị. Thánh nhân, là đấng bậc sáng chế ra các nghi thức mang tính chính trị ở trong đó.

Thánh Luca, nay lại nói lên một ẩn dụ hàm ngụ tính chất “chính trị của Đạo Chúa” rất chính đáng bằng những lời ca mà thánh-sử gửi đến với ta ngang qua Đức Mẹ, là Mẹ của Chúa, đang lúc cưu mang Chúa, là Đấng cứu độ muôn dân. Và, Mẹ cũng qua đó đi vào với “chính trị” của Thiên Chúa, Giáo hội ta gọi đó là bài ca “Xin Vâng”. Qua bài này, Mẹ đã nói lên rằng Thiên Chúa sẽ làm một số việc ngang qua Con của Mẹ, là Đức Giêsu. Một số việc, bao gộp toàn bộ ý định của Thiên Chúa, trong đó có hành xử:

· Làm tan tác lũ kiêu căng

· Hạ kẻ quyền năng khỏi ngôi báu

· và suy tôn những người khiêm hạ

· Đói khó Ngài cho no phỉ sự lành

· Giàu sang Ngài xua đuổi về không

Một số việc, không là những ý tưởng đạo đức, sốt sắng, mà là thứ “thuốc nổ” rất chính trị. Là, khó khăn của mọi thời, như:

· Lòng tự hào, kiêu hãnh;

· Kẻ quyền năng thiếu công bằng và sự bất công;

· Sự bức bách người khiêm hạ ở dưới thấp;

· Áp lực từ kẻ giàu sang chỉ muốn chất chồng thêm của cải..

Các vấn đề như thế vẫn trải dài nơi Tin Mừng thánh Luca và nhất là  hai chương đoạn nói về thuở thơ ấu của Hài Nhi Giêsu. Chương đoạn đó không dành cho trẻ nhỏ, mà là thứ chính trị lớn cho người đứng tuổi. Bởi, với Giáng sinh, chỉ hiện thực khi nào ta ta đem nền chính trị lớn của Đạo tháp nhập vào với cảnh trí thế giới, mới được.

Bởi, Tiệc Thánh Thể ta tham gia, đều có nghĩa như một cam kết, rằng: các nhà cầm quyền phải nhận ra rằng: của cải/tiền bạc trên thế giới đều thuộc mọi người dân trong đó và phải phân phối đều cho họ. Phải dành ưu tiên phân phát cho người bị bỏ rơi ngoài xã hội và người đói khát nghèo hèn cần thức ăn. Thế mới là món quà Giáng Sinh xứng hợp. Đúng ra, đó không phải là quà cáp hay quà tặng, mà là công nhận quyền lợi căn bản của con người. Quyền làm người. Thành thử, mùa Vọng là mùa nên sắp xếp suy tư mang tính đợi chờ có lợi cho người không được liệt kê trong danh sách những người được hưởng thụ.

Hiểu được thứ chính trị nhà Đạo rất chờ đợi, cũng nên ngâm lại lời thơ trên, rằng:

 

“Ta như kẻ hoài nghi đành bỏ cuộc.

Ngôn ngữ buồn, khánh kiệt của tim đau.

Ta vắt cạn tận cùng trong nỗi nhớ.

Bóng Em về, tha thướt quẩn quanh đâu.”

(Vương Ngọc Long – Đêm Nguyệt Quỳnh)

Hoài nghi hay bỏ cuộc, vẫn cứ chờ. Chờ, ngày Chúa đến Ngài sẽ “tha thướt”, “quẩn quanh”, “trong nỗi nhớ”. Nhớ rồi, ta sẽ cương quyết rao truyền thứ chính trị nhà Đạo rất nhân đạo, nhẹ nhàng của dân con. Mãi mãi.

 

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh

Mai Tá luợc dịch

Vấn đề đau khổ

Vấn đề đau khổ

Tác giả: Trầm Thiên Thu

Tại sao có đau khổ? Đó là một câu hỏi rất cũ mà vẫn hoàn toàn mới. Và chắc hẳn chẳng ai có thể trả lời “thấu tình đạt lý” để ai cũng khả dĩ “tâm phục khẩu phục”.

Đau khổ là Tứ Diệu Đế của Đức Phật: Sinh là khổ, Lão là khổ, Bệnh là khổ, và Khổ là khổ. Ông thấy có nhiều thứ đau khổ nên ông đã giác ngộ để có thuyết nhà Phật. Vấn nạn “tại sao có đau khổ?” là câu hỏi về lý do chúng ta chịu đau khổ, loại hàng đầu trong cuộc sống, vì ít nhiều gì thì ai cũng trăn trở suốt ngày thâu đêm, chỉ có người điên hoặc sống thực vật mới không trăn trở và không đau khổ. Nhưng nếu có thể “vắt chân lên trán” thì cũng không tìm ra nguyên nhân chính xác nhất. Theo ý nghĩa nào
đó, tôn giáo là nỗ lực của con người muốn trả lời câu hỏi này và muốn giải quyết vấn nạn này.

Không ai lại không đau khổ. Sinh ra chưa biết gì đã khóc. Vui sao lại khóc? Phải chăng “khóc” là tiên báo  đau khổ? Khóc giống nhau ở tình trạng “chảy nước mắt”, nhưng khóc vì vui sướng thì không “nức nở” và “nhức nhối” như khi khóc vì đau khổ. Và chúng ta thường nói câu cửa miệng: “Đời là bể khổ!”. Phải chăng khổ-ải-trần-gian là “phần cứng” đã được cài đặt mặc định như một định-luật-muôn-thuở?

Xét theo khoa học, nước mắt cũng có lợi là “làm vệ sinh” mắt, vì chất muối mặn giúp sáng mắt và chữa lành các tổn thương nhẹ của mắt. Người chịu đau khổ nhiều nhất là Chúa Giêsu, nên chính Ngài đã chúc phúc cho những người-chịu-đau-khổ:

“Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an” (Mt 5:5), và chính Ngài cũng đã thực sự phải chịu đau khổ nhiều (x. Mc 8:31; Lc 17:25). Đồng thời Ngài còn cảnh
báo những người-sống-ung-dung-vui-sướng: “Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ
bây giờ đang được vui cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than”
(Lc 6:25). Ngài đề cao sự đau khổ, vậy đau khổ không như chúng ta nghĩ. Rồi Ngài còn căn dặn và xác định: “Đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6:34).

Vâng, ngày nào cũng có cái khổ của ngày đó – không thiếu, không thừa, mà luôn “vừa đủ”. Không ai có thể diệt khổ. Càng tránh khổ càng gặp khổ, càng cố diệt khổ càng thêm khổ. Cách thoát khổ tốt nhất là “đi xuyên qua đau khổ”, như kiểu “dĩ độc trị độc” vậy.

Nhưng đôi khi chúng ta thiếu hiểu biết, hiểu lệch lạc hoặc thiếu công bằng khi nhận định về đau khổ. Thấy một người chịu đau khổ – chẳng hạn bị tai nạn, nếu chúng ta quý mến người đó thì chúng ta nói là “thánh giá Chúa trao”, còn nếu chúng ta không ưa người đó thì chúng ta nói đó là “Chúa phạt”. Rõ ràng có sự thiên vị từ trong suy nghĩ của chúng ta. Nhưng tất cả là “để giữ vững kế hoạch Thiên Chúa đã tự do chọn
lựa, mà chọn không dựa vào việc người ta làm, nhưng dựa vào ý muốn của Thiên
Chúa” (Rm 9:10-12).

“Tại sao có đau khổ trên thế gian?” là câu hỏi cơ bản nhưng cũng rất trừu  tượng. Nhưng đau khổ lại là một khái niệm cụ thể, vì hằng ngày chúng ta vẫn phải đối mặt với đau khổ ở nhiều dạng và nhiều mức độ: Bệnh tật, tai nạn, căng thẳng, vất vả lao động, lo lắng, bị hiểu lầm, bị chê trách, bị ghen ghét, thất nghiệp,… Không thể liệt kê hết đau khổ trong cuộc sống. Đau khổ hầu như vượt qua tầm hiểu biết của con
người.

Thánh Ý Chúa quá mầu nhiệm! Đau khổ là một trong những kế hoạch của Thiên Chúa. Chúng ta chấp nhận đau khổ không phải do “bị triệt buộc” mà do “đức tuân phục”, nhờ vậy mà đau khổ trở thành đường dẫn đến Ơn Cứu Độ. Chúa Giêsu đã khuyên người ta chịu đau khổ: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 7:13-14).

Người ta coi đau khổ là điều phải tránh. Họ tránh đau khổ bằng cách nỗ lực tối đa, cố gắng tách mình ra khỏi thế giới, vì thế giới bị coi là nguyên nhân gây đau khổ.
Người Công giáo coi đó là một trong ba đại thù. Người ta còn tránh đau khổ bằng
cách làm ngược lại, bằng cách tích lũy của cải và tìm kiếm những niềm vui ở mức
tối đa. Dù khác nhau, nhưng việc tránh đau khổ vẫn là nguyên lý tột đỉnh để
chúng ta áp dụng.

Ở một góc nhìn khác thì đau khổ thuộc lĩnh vực đức tin Công giáo, đau khổ là thập giá. Chúa Giêsu nói: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt 10:38), và Ngài xác định: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16:24). Theo đó, đau khổ không là điều cần tránh. Thực sự là chúng ta cố gắng làm giảm đau khổ của người khác, nhưng giáo lý làm nên đức
tin duy nhất thì đau khổ mang tính cứu độ. Đối với người Công giáo, đau khổ là phương thế để thánh hóa bản thân, là đền tội mình, cầu nguyện cho tha nhân và cứu các linh hồn, là cách tiếp cận Thiên Chúa và chia sẻ đau khổ của Chúa Giêsu Kitô – Đấng đã chịu chết vì toàn nhân loại.

Đau khổ là “chướng ngại vật” mà mọi người đều cố gắng tránh, giảm thiểu hoặc cách ly, nhưng chính đau khổ lại là “chìa khóa vạn năng” để mở cánh-cửa-cứu-độ. Phải có mức can đảm cao thì người ta mới khả dĩ chấp nhận và chịu đau khổ một cách ngoan cường – dù là đau khổ  tinh thần hoặc thể lý. Chứ theo bản năng nhân loại thì không ai đủ sức chịu đựng. Thật vậy, theo nhân tính, Chúa Giêsu cũng đã lo sợ đến
toát mồ hôi trong Vườn Dầu: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải
uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha”
(Mt 26:39).
Con ngưới rất yếu đuối và luôn sợ đau khổ.

Nhưng một lúc sau, Ngài đã vượt qua nỗi sợ nên thân thưa: “Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng Ý Cha” (Mt 26:42). Nỗi sợ vẫn đeo bám Ngài đến nỗi trước khi trút hơi thở, Ngài lại phải thốt lên: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27:46; Mc 15:34). Đau khổ lúc đó lên tới mức tột đỉnh ở nơi Ngài, huống chi chúng ta!

Đôi khi chúng ta thiếu bản năng nhìn thấu nỗi đau khổ. Điều này có thể tạo ra “điểm mù” khi chúng ta nói về tình yêu, lòng trắc ẩn, lòng thương xót, hoặc an tử (cách làm người khác chết êm dịu – mercy killing, euthanasia). Điều này rất quan trọng khi
chúng ta cân nhắc mà không thấu hiểu nỗi đau khổ.

Những căn bệnh trầm kha ở giai đoạn cuối và các chứng rối loạn gen thường là cách biện hộ để áp dụng biện pháp an tử hoặc phá thai. Không vì mục đích của Chúa thì đau khổ trở nên vô nghĩa, hóa gánh nặng, là điều khủng khiếp, và đau khổ lại chồng chất thêm đau khổ. Do đó, cuộc đời càng trở nên ảm đạm!

Thực sự vấn đề đau khổ không thể nào có câu trả lời thỏa mãn theo lý lẽ của con người. Hiểu được và có thể chấp nhận đau khổ thì người ta phải nhờ ánh sáng khôn ngoan của Thiên Chúa. Phúc Âm là Tin Mừng cho chúng ta. Chính những đau khổ chúng ta cố gắng chịu đựng có thể đem chúng ta đến với Ơn Cứu Độ. Thánh Gióp và nhiều vị thánh khác đã minh chứng hùng hồn về mối liên quan chặt chẽ giữa sự đau khổ và Ơn Cứu Độ. Trừ thánh Gioan, các Thánh tông đồ và các Thánh tử đạo càng minh chứng rõ ràng hơn về mối quan hệ đó khi các ngài hiên ngang chịu tan xương nát thịt. Như vậy, đau khổ là điểm son chứ không đáng nguyền rủa.

Đau khổ liên quan Đức Tin, nói theo người đời là lòng tin hoặc niềm tin.

Trong số những người không có  niềm tin tôn giáo vẫn có những người có tính chịu đựng hoặc nhịn nhục. Nếu họ không tin vào cái gì đó cao hơn hoặc vô hình thì họ cần gì cam chịu như vậy? Với người có niềm tin tôn giáo thì rõ ràng hơn: Họ chịu đau khổ vì vâng lời dạy của Đức Kitô, để đền tôi mình, để đền tội thay người khác, và để cứu các linh hồn. Đó mới là Đức Tin chân chính, chứ cứ “đường đường chính chính” thì chẳng ai sợ ai, chưa biết ai ăn ai, vì người khỏe ỷ sức mạnh thì người yếu cũng biết
dùng mưu lược.

Lạy Thiên Chúa, xin ban Thần Khí Chúa để chúng con có thể hiểu giá trị của đau khổ mà can đảm đi xuyên qua đau khổ. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

 

 

“Người Samari” nhân hậu hôm nay

“Người Samari” nhân hậu hôm nay

Tâm Thương

 

WGPSG — Đã hơn một tuần lễ nay, các phương tiện truyền thông ồ ạt đề cập đến chuyện một cô gái tên là Nguyễn Thị Ngọc Thúy (SN 1984, ngụ P. Thạnh Mỹ Lợi, Q.2, Tp. Hồ Chí Minh) bị bọn cướp mang trong người dòng “máu lạnh”, chém cánh tay phải gần đứt lìa, hiện đang còn nằm bệnh viện Chấn Thương – Chỉnh Hình Tp. Hồ Chí Minh. Tai nạn kinh hãi này đã làm cho biết bao người không khỏi bàng hoàng, xót xa và lo lắng; đồng thời đã làm dấy lên một làn sóng dư luận xôn xao phẫn nộ trước những con người tàn ác, hoặc những người đi đường vô cảm bỏ mặc chị Thúy bị cướp chém lìa cánh tay khi đang chạy trên cầu Phú Mỹ, hướng từ quận 7 về quận 2.

Thế nhưng, có một người đàn ông can đảm, tốt bụng, đã động lòng xót thương, ra tay cứu giúp chị Thúy trong cơn hoạn nạn “thập tử nhất sinh”. Đó là ông Đặng Văn Nỡ (42 tuổi, ngụ quận 2, Tp. Hồ Chí Minh). Hành động yêu thương xuất phát từ tình người của ông làm tôi nhớ đến người Samari mà Chúa Giêsu đã đề cập trong Tin Mừng gần 2000 năm qua (Lc 10,25-37). Phải chăng vì hành động can đảm, yêu thương như thế mà mỗi Kitô hữu chúng ta có thể ví ông như người Samari nhân hậu hôm nay?

Hành động yêu thương cứu người của ông Đặng Văn Nỡ

Trên tờ báo Dòng Đời số 28, thứ Sáu 30.11.2012, có đề cập đến tình huống ông Đặng Văn Nỡ bắt gặp người bị bọn cướp chém gần đứt lìa cánh tay phải: “Khi vừa đổ dốc cầu Phú Mỹ, trong ánh đèn lờ mờ, ông thấy một cô gái còn rất trẻ đang bò lết dưới đường, trên người đầy máu… Ông vội ra tín hiệu cho một số xe dừng lại cùng ứng cứu nạn nhân nhưng không một xe nào đáp ứng.” Tình huống này làm tôi nhớ đến những người kinh sư, biệt phái đã lặng lẽ làm ngơ bỏ đi khi một người đàn ông đang kêu cứu vì bị bọn cướp chặn đường đánh một trận nhừ tử và cướp hết tài sản. Trong tình huống ấy chỉ có một người Samari tốt bụng, đến gần người bị nạn, cho lên ngựa, đưa về quán trọ nhờ người săn sóc và sẵn sàng thanh toán mọi chi phí cho chủ quán.

Trong trường hợp tai nạn thương tâm và kinh hãi của chị Thúy, xảy ra vào khoảng 20 giờ ngày 24.11 cũng tương tự như dụ ngôn người Samari nhân hậu trong Tin Mừng. Người đàn ông cứu giúp chị hoàn toàn xa lạ, không nghĩ đến chuyện sợ bị người khác làm liên lụy đến bản thân, sẵn sàng giúp người chị em đồng loại bằng tất cả tình người: “Lúc này, khi bọn cướp đã bỏ đi, nhiều người dân mới dừng lại xôn xao bàn tán. Cô gái đang trong tình thế rất nguy hiểm, máu tuôn xối xả từ cánh tay bị đứt lìa, ông Nỡ nhanh chóng lấy áo của mình bó chặt vết thương cho nạn nhân. Lúc này, có rất nhiều người đứng xem, ông Nỡ nhờ người phụ đưa nạn nhân vào bệnh viện nhưng ai cũng từ chối. Không thể trễ hơn, một tay điều khiển xe, một tay quàng ra sau ôm nạn nhân, ông vội đưa cô gái đi cấp cứu. Sau hai lần chuyển viện, ông ngủ lại ở Bệnh Viện Chấn Thương – Chỉnh Hình Tp. HCM. Chờ ca cấp cứu thành công và người nhà nạn nhân đến ông mới ra về.”

Những “người Samari” nhân hậu hôm nay

Bạn thân mến, cuộc sống hôm nay luôn biến  động, khó khăn về mọi mặt, và ngày càng phát sinh nhiều tệ nạn xã hội như cướp của, giết người, xì ke, ma túy, hay những trò đỏ đen thâu đêm suốt sáng… Điều này dẫn đến những hậu quả tai hại cho chính cá nhân, gia đình và xã hội như vướng vào những căn bệnh nan y, vào tù ra khám, nợ nần chồng chất, người dân hoang mang không dám ra đường vì sợ nguy hiểm đến tính mạng và tài sản, an ninh và trật tự xã hội lộn xộn. Hơn thế nữa, cuộc sống đô thị hiện đại hôm nay chạy theo đồng tiền, hưởng thụ cá nhân đã làm cho não trạng, tâm lý của phần đông người ta chỉ biết nghĩ đến bản thân, ngại dấn thân và nghĩ đến tha nhân bằng những nghĩa cử giúp đỡ với hết tấm lòng như ông Nỡ đã làm trong câu chuyện trên đây.

Tuy nhiên, cuộc sống vẫn còn ý nghĩa khi có những người Samari tốt bụng hôm nay. Đó là những mạnh thường quân ủng hộ hàng trăm ngàn phần cơm từ thiện cho nhiều bệnh nhân từ Bắc, Trung, Nam vào Tp. HCM trị bệnh. Đó còn là những người phụ nữ âm thầm, một tuần ba ngày vào bệnh viện gội đầu miễn phí, hoặc chăm sóc những bệnh nhân nghèo neo đơn, ít người thân chăm sóc. Động lực của những người Samari hôm nay là gì? Phải chăng đó là tình thương, sự sẻ chia không toan tính vị lợi đối với những mảnh đời nghèo túng, bệnh tật và cô thế cô thân?

Vậy thì điều cốt lõi để trở nên người Samari nhân hậu hôm nay như Chúa Giêsu muốn đó chính là tình yêu thương: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Thế nhưng, phải làm gì để gọi là yêu thương thật sự, hay tình yêu thương dựa vào những điều gì? Phải chăng đó là những hành động xuất phát từ quả tim muốn sẻ chia và đồng cảm với những buồn vui của kiếp người, hay với những người anh em đồng loại đang trong cảnh nghèo túng, hoạn nạn và khổ đau?

Ước gì mỗi Kitô hữu chúng ta sẽ là những người Samari nhân hậu, trở nên dấu chỉ tình yêu như Chúa muốn trong cuộc sống luôn biến động, phức tạp hôm nay, và cho những con người chưa một lần biết yêu thương bao giờ.

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Nói cho con người (Ba bài giảng sám hối): Lm Chân Tín (3)

Nói cho con người (Ba bài giảng sám hối): Lm Chân Tín (3)

Đăng bởi cheoreo lúc 1:00 Sáng 5/12/12

VRNs (05.12.2012) – Sài Gòn – Mấy hôm nay, nhiều độc giả đề nghị chúng tôi phổ biến ngay Ba bài giảng sám hối của cha Chân Tín, vì tuy là sự kiện lớn đối với giới Công giáo vào Mùa Chay năm 1990, nhưng các thế hệ 7x, 8x, 9x, là nguồn nhân lực chính cho mọi sự thay đổi hiện nay của Giáo hội cũng như xã hội Việt Nam, gần như chưa có cơ hội tiếp xúc. Do đó, VRNs xin chấm dứt phần các tham luận của cha Chân Tín tại các cuộc họp với Mặt trận tổ quốc, mà cho đăng lại ngay các bài giảng sám
hối này.

Ba bài giảng sám hối

(Mùa Chay, tháng 4/1990)

Nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp – DCCT

(đường Kỳ Đồng  Sài Gòn)

 

Bài giảng thứ nhất

Sám hối cá nhân

 

Mùa Chay là mùa Sám hối. Tuần Thánh là chóp đỉnh của cuộc sám hối.

Khi có ý định lấy việc sám hối làm đề tài cho ba ngày tĩnh tâm của giáo xứ ta, tôi cũng có chút nghĩ ngợi: Anh là gì mà đi giảng sám hối cho kẻ khác? Thôi đi ông, ông có nghe câu ngạn ngữ: “Ông lang ơi, hãy chữa mình trước đã!” Đúng thế anh chị em. Nói đến sám hối là tôi nghĩ đến tôi trước hết. Hơn ai hết, linh mục là người phải sám hối nhiều nhất, vì đã lãnh năm nén bạc. Mà linh mục là người yếu đuối như ai, cũng bị tham sân si chi phối, cũng chưa thực thi tốt chức năng của người tín hữu và của người có chức vụ linh mục.

Đến đây, tôi nhớ một câu chuyện tiếu lâm nghe được trong một buổi cơm gia đình mà tôi là linh mục độc nhất. Tôi nhớ đại khái: Một hôm, có một linh mục và mấy ông giáo dân của ông sắp vào Thiên Đàng. Vậy cũng ngon rồi. Tuy Chúa đã phán xét rồi, nhưng ông Phêrô còn muốn kiểm tra lần cuối. Thủ kho to hơn thủ trưởng đó mà. Phêrô sai mấy ông thánh tí hon mang một hộp phấn xuống chân cầu thang trao cho mỗi người một cục phấn để vừa đi lên vừa biên tội mình ở mỗi bậc thang. Mấy ông giáo dân người thì xài nửa cục, người thì 2/3, người cao lắm một cục còn ông cha sở lấy một cục phấn hì hục biên tội, lên mãi tận trên. Nhưng thấy ông lại đi xuống. Ông buồn rầu
bảo: Tôi viết hết một cục phấn rồi, mà chưa hết tội, tôi xuống xin thêm một cục
nữa.

Câu chuyện tiếu lâm đại loại như thế, để thấy rằng càng nhiều chức phận, càng nhiều trách nhiệm và đồng thời cũng nhiều sai phạm.

Anh chị em thân mến,

Mỗi người chúng ta là một cá nhân chịu trách nhiệm về đời sống Kitô hữu của ta. Vì thế có vấn đề sám hối cá nhân. Nhưng người Kitô không đơn độc. Chúa đã muốn tụ họp tất cả trong một cộng đoàn, cộng đoàn Giáo hội. Với tư cách là thành viên của Giáo hội, mỗi người chúng ta đều có trách nhiệm về những thiếu sót của Giáo hội. Vì vậy, ta còn phải sám hối trong lòng Giáo hội. Đàng khác, ta là công dân nước Việt nam, ta cũng có trách nhiệm về những thiếu sót của Đất nước ta.

Hôm nay, tôi đề cập đến sám hối cá nhân. Ngày mai, về sám hối trong lòng Giáo hội, và ngày mốt, sám hối trong lòng Dân tộc.

1. Lời kêu gọi của các tiên tri:

+ Joel (2,12-18): “bấy giờ Chúa phán: Các ngươi hãy  thật lòng trở về với ta trong chay tịnh, nước mắt và than van. Hãy xé tâm hồn, chứ đừng xé áo các ngươi. Hãy trở về với Chúa là Thiên Chúa các ngươi vì Ngài nhân lành và từ bi, nhẫn nại, giàu lòng thương xót… Hãy kêu lên: Lạy Chúa, xin thương xót dân Chúa… Chúa đã tha thứ cho dân Ngài.”

+ Isaia (58,1-14): “Các ngươi ăn chay trong sự cãi vã, ẩu đả và đánh nhau hung tợn… Ăn chay như ta mong muốn là hủy bỏ xiềng xích bất công, tháo gỡ ách nặng, trả tự do cho kẻ bị áp bức, dẹp bỏ mọi gánh nặng, chia sẻ cơm bánh cho kẻ đói, tiếp rước những kẻ phiêu bạc không nhà, cho kẻ trần truồng áo mặc. Nếu người loại bỏ khỏi tâm hồn sự đàn áp, cử chỉ đe dọa và những lời hiểm độc, khi ngươi hết lòng quảng đại
với người đói khát làm cho tâm hồn đau khổ được thư thái, thì sự sáng của ngươi
xuất hiện trong tối tăm.”

+ Giona (3,1-10): “Còn 40 ngày nữa, Ninivê sẽ bị hủy. Dân thành tin tưởng nơi Thiên Chúa, củng cố việc ăn chay, mặc áo nhặm. Vua ra sắc lệnh: phải kêu to lên cùng Chúa và phải cải thiện đời sống, phải bỏ đàng tội lỗi và những điều bất chính đã phạm. Biết đâu Chúa sẽ đổi ý và tha thứ chúng ta khỏi chết.” Và Chúa đã tha cho họ.

+ Ezechiel (18,21-28): “Nếu kẻ gian ác ăn năn, sám hối mọi tội nó phạm, tuân giữ mọi giới răn của ta và thực thi công bằng chính trực, nó sẽ sống chứ không phải chết.”

+ Daniel (9,4-10): “Chúng tôi đã phạm tội và làm điều gian ác, chúng tôi đã làm điều bất chính và phản bội, chúng tôi đã bỏ các giới răn và lề luật Chúa, chúng tôi đã không nghe lời các tiên tri tôi tớ Chúa. Lạy Chúa, điều dành cho chúng tôi, các vua chúa, thủ lãnh, cha ông chúng tôi là phải chịu hổ mặt; vì đã phạm tội. Lòng từ bi và
tha thứ thuộc về Chúa là Thiên Chúa chúng ta, vì chúng ta phản bội cùng Chúa.”

+ Isaia (10,16-20): “Hãy lắng nghe lề luật Thiên Chúa. Hãy tắm rửa, hãy thanh tẩy, hãy dẹp khỏi mắt ta các tư tưởng xấu xa, đừng làm điều xấu nữa, hãy làm điều lành, hãy tìm kiếm chân lý, hãy cứu giúp kẻ bị áp bức, hãy xét xử công bằng cho những kẻ mồ côi và bênh vực cho người góa bụa!”

+ Jeremia (17,5-10): “Khốn thay cho kẻ tin tưởng người đời, họ nương tựa vào sức mạnh con người, còn tâm hồn họ sống xa Chúa. Họ như cỏ cây trong hoang địa, họ ở nơi khô cháy hoang địa, vùng đất mặn không người ở. Phúc cho những người tin tưởng vào Thiên Chúa và Thiên Chúa sẽ là niềm hy vọng của họ. Họ sẽ như cây trồng bên bờ suối, cây đó đâm rễ vào nơi ẩm ướt, không sợ gì khi mùa hè đến, lá vẫn xanh tươi, không lo ngại gì khi nắng hạn, mà vẫn đơm hoa kết quả luôn.”

+ Michêa (7,14-15, 18-20): “Có Chúa nào giống như Chúa là Đấng dẹp tan mọi bất công và tha thứ mọi tội lỗi của kẻ sống sót về Chúa? Chúa không khư khư giữ mãi cơn thịnh nộ của mình, vì Chúa ưa thích lòng từ bi, Chúa còn thương xót chúng tôi, còn dày đạp những bất công của chúng tôi dưới chân Chúa và ném mọi tội lỗi chúng tôi xuống đáy biển.”

+ Daniel (3,25, 34-43): “Xin đừng hủy bỏ lời giao ước của Chúa, xin chớ cất lòng từ bi Chúa khỏi chúng tôi. Chúng tôi đã trở nên yếu hèn hơn mọi dân tộc và hôm nay, vì tội lỗi chúng tôi, chúng tôi bị nhục nhã mọi nơi… Với tâm hồn sám hối và với tâm hồn khiêm tốn, chúng tôi xin Chúa chấp nhận… Xin đừng để chúng tôi phải hổ thẹn, xin hãy đối xử với chúng tôi theo lòng nhân hậu và lòng từ bi sung mãn của Chúa.”

+ Osê (14,2-10): “Các ngươi hãy trở về với Chúa và thưa: xin hãy xóa bỏ tội ác.”

2. Lời kêu gọi của Gioan Tẩy giả:

Chúng ta vừa nghe Tin Mừng theo Matthêô (3,1-12). Gioan kêu gọi dân “hối cải vì Nước Trời đã gần bên”. Đối với những người thật tình sám hối, Gioan làm phép rửa cho họ. Khi họ “xin thú tội lỗi”, còn biệt phái bè Sađốc đến xin làm phép, mà không sám hối, thì Gioan có những lời nặng nề: “Nòi rắn độc, ai mách cho các ngươi cơn thịnh nộ hòng đến. Hãy sinh quả phúc đức xứng với lòng hối cải, đừng tưởng nói được với mình: Ta có cha là Abraham. Tôi bảo các ông: Thiên Chúa có thể lấy những viên đá này mà gầy nên con cái cho Abraham. Lưỡi rìu đã sẵn gốc cây, cây nào không sinh quả lành sẽ bị chặt và quăng vào lửa. “Rồi Ngài nói với dân chúng: “Phần tôi, tôi sẽ thanh tẩy anh em bằng nước để lo hối cải. Còn Đấng sẽ đến sau tôi, quyền thế hơn tôi và tôi không dám xách dép cho Ngài. Ngài sẽ thay đổi anh em trong Thánh Thần và lửa. Cái rê lúa sẵn trong tay, Ngài sẽ sạch lúa sân Ngài”

3. Lời kêu gọi hối cải của Chúa Kitô:

Tin Mừng theo Luca (14, 1-9) nhắc lời kêu gọi của Chúa Giêsu khi có người đến báo tin cho Ngài về những người Galilê bị tổng trấn Rôma đổ máu hòa với lễ tế họ. Ngài nói với họ: “Các anh tưởng những người Galilê ấy là hạng người tội lỗi hơn mọi người Galilê khác, vì đã khốn như thế. Không đâu. Tôi bảo các anh: nếu các anh không hối cải thì các anh cũng sẽ bị tiêu diệt như thế. Hay 18 người đã bị tháp Siloam đổ xuống đè chết kìa, các ngươi tưởng họ có tội hơn mọi người trú ngụ tại Je1rusalem sao? Không đâu. Tôi bảo các anh: Nếu các anh không hổi cải, các anh cũng sẽ bị tiêu diệt giống như thế.”

Thưa anh chị em, qua lời của các tiên tri cũng như của Gioan và của Đức Kitô, việc sám hối của ta là việc căn bản, nếu chúng ta muốn chấp nhận ơn cứu độ dồi dào của Chúa Kitô trong mùa Phục Sinh này.

4. Thế nào là sám hối?

a. Không phải đấm ngực khóc lóc như ít người làm khi xưng tội, hơn mấy người khóc mướn, nhưng chả có gì cả.

b. Không phải chỉ có ân hận.

+ Juda ân hận đã làm cho Chúa Giêsu bị lên án, trả tiền lại đền thờ, rồi đi thắt cổ.

+ Người trộm dữ ân hận vì bị bắt, bị án xử tử. Nhưng lại thách Chúa Giêsu sao không tự cứu mình và cứu hắn.

+ Mười Vân, giám đốc Công an Đồng Nai: trước tòa y ân hận vì đã tổ chức bảy chuyến di tản để hốt vàng, tổ chức làm ăn phi pháp với lực lượng công an, làm hồ sơ giả để bắt giam người vô tội, hối lộ, tham ô, móc ngoặc. cho thân nhân 118 căn nhà, 87 xe hơi, 19 xe máy, 919 đồng hồ và những máy móc.

+ Cán bộ cao cấp (tỉnh ủy, chủ tịch, trưởng phòng hình sự) dính vào vụ Đường Sơn Quán: ân hận, chưa sám hối.

c. Sám hối là đổi mới sau khi ân hận.

+ Người con trai hoang đàng ân hận vì đói rách (chưa vì cha mình), nhưng đã trở về với cha và bắt đầu cuộc đời mới bằng đứa con có hiếu.

+ Đứa con từ chối làm việc cha nó bảo rồi sám hối và làm như cha.

+ Zakhê: ân hận vì những bất công và sẽ hứa trả gấp bốn lần.

+ Phêrô: ân hận đã chối Chúa và trở lại, hy sinh cả cuộc đời cho Chúa.

+ Phaolô ân hận đã bắt bớ Giáo hội, trở lại trên đường Damas và hy sinh rao giảng Đức Kitô.

+ Một Augustinô, một Foucault, sau một cuộc đời buông thả, đã ân hận, đã sám hối bằng một cuộc trở lại với Thiên Chúa và hiến cả cuộc đời cho Nước Trời.

+ Một số tín hữu quen biết cũng đã có một cuộc đời bê bối, ích kỷ, nhưng sau khi đã ân hận, đã sám hối bằng cách đổi mới cuộc đời.

5. Sám hối về những gì?

a. Thường tình, ta sám hối vì đã phạm luật (Mười điều răn Đức Chúa Trời, Sáu điều răn Hội thánh). Ít khi ta sám hối về thiếu tình yêu đối với Chúa và con người. Ta chỉ sám hối cái tiêu cực. còn cái tích cực mà ta bỏ qua, ta không sám hối. Đây là điều phải sám hối vì rất căn bản.

Ta coi chừng việc thỏa mãn vì đã giữ lề luật. Người biệt phái đã tự mãn, cho mình là công chính. Nhưng lại thiếu bác ái (chống Chúa Giêsu vì đã làm phép lạ ngày Sabat).

b. Sám hối căn bản mà tôi muốn đề cập hôm nay là thực hiện ơn gọi nên hoàn hảo và thực thi ba chức năng của người Kitô hữu (tư tế, ngôn sứ và vương đế).

Nên hoàn hảo.

Tin Mừng theo matêô(5, 48) đề cập đến các mối phúc thật và tin thần yêu thương của đạo mới  và kết thúc bằng lời gọi  của Chúa Giêsu: “Các hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành.”

Cộng đồng Vatican II, trong Hiến chế  về Giáo hội, chương 5, cũng có đề cập đến vấn đề này: “Mời gọi chung mọi người trong Giáo hội phải nên thánh.” Lời mới gọi này, lệnh này của Đức Kitô liên hệ  đến mọi người. Nghe đến đây có người sẽ nói: “Việc nên thánh, việc nên hoàn hảo là việc của mấy ông cha bà phước, chớ đâu là việc của chúng tôi, những giáo dân, ở ngoài đời, có được lên Thiên Đàng cũng ngon rồi.” Nghĩ như vậy là lầm to rồi. Chưa xác tín điều đó thì thấy cần phải sám hối rồi đó. Vì đây là vấn đề căn bản của đời sống Kitô hữu. công đồng nói: “Giáo hội là hoàn toàn thánh
thiện trước con mắt đức tin. Thật vậy, Đức Kitô, con Thiên Chúa cùng với Chúa
Cha và Thánh Linh, được xưng tụng là Đấng Thánh duy nhất đã yêu mến Giáo hội
như hiền thê đã hiến thân để thánh hóa Giáo hội (Ep 5, 15-26). Ngài đã kết hợp
với Giáo hội như thân thể Ngài đã ban đầy ơn Thánh Linh để Thiên Chúa được vinh
danh. Vì thế, trong Giáo hội, mọi người, dù thuộc hàng giáo phẩm hay được hàng
giáo phẩm dìu dắt, đều được mời gọi nên thánh như lời thánh Phaolô: “Vâng,
thánh ý Thiên Chúa là muốn cho anh em nên thánh” (1 Th. 4,3; Ep. 1,4).

Sự thánh thiện này của Giáo hội vẫn thấy là biểu lộ bằng những thành quả do ơn Chúa Thánh Linh phát sinh trong tín hữu; dưới mọi hình thức, sự thánh thiện được thấy qua những người cố đạt tới đức Mến trọn hảo trong lối sống riêng biệt nên gương cho người khác. Là thấy vẫn mẫu mực của mọi sự trọn hảo, Chúa Giêsu đã dạy tất cả và từng môn đệ của Ngài, dù họ ở địa vị nào, phải sống thánh thiện như Chúa là Đấng khởi xướng và kết thúc: “Chúng con hãy nên trọn hảo như Cha chúng con ở trên Trời là Đấng trọn hảo”. Và thực Chúa đã gởi Thánh Linh Người đến với tất cả, thúc đẩy bên
trong để họ “mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết năng lục” (Mc.
12,13) và thương nhau như Giêsu đã thương họ (Gn. 13,34; 15,12). Được Chúa gọi,
không phải vì công đức của họ, nhưng chỉ vì Chúa muốn ban ơn để họ trở nên công
chính trong Đức Kitô; là môn đệ Kitô nhờ phép rửa, họ thực sự trở nên con cái
Thiên Chúa, tham dự vào bản tính Chúa và dĩ nhiên thực sự họ là thánh. Sự thánh
hóa đã nhận được, ta phải giữ gìn và hoàn thành qua cuộc sống của mình. Phaolô
đã khuyến cáo ta sống như những vị thánh (Ep. 5,3), và mặc lấy những tâm tình
từ bi, nhân hậu, khiêm nhu, hiền từ, đại lượng, chịu đựng lẫn nhau, tha thứ cho
nhau… “Cũng như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em hãy tha thứ cho nhau. Và
trên hết các điều ấy, anh em hãy mặc lấy đức Mến, tức là giềng mối của sự trọn
hảo” (Col. 3,12-14).

Đề cập đến những đặc tính của lòng Mến, thánh Phaolô nói: “Lòng Mến thì khoan dung, nhân hậu, lòng Mến không ghen tuông, không ba hoa, không tự mãn, không khiếm nhã, không ích kỷ, không cáu kỉnh, không chấp nhất sự dữ, không mừng trước sự bất công, nhưng biết chia vui cùng lòng chân thật” (Co. 13, 4-6).

Như vậy, chúng ta thấy rằng việc nên trọn hảo là lời mời gọi, là mệnh lệnh của Chúa Kitô đối với mọi tín hữu, không trừ ai. Xưa nay ta có bao giờ sám hối về việc nên trọn hảo này không hay chỉ xét mình năm điều bảy chuyện, rồi có khi chả ân hận, chả có sám hối, cốt là đi xưng tội là thấy yên tâm.

Ba chức năng của tín hữu

Đề cập đến mầu nhiệm Giáo hội mà mỗi chúng ta là thành phần, Công đồng Vatican II gọi chúng ta là “dân Thiên Chúa”. Cũng như Thiên Chúa đã chọn Israel làm dân riêng của Ngài, bằng giao ước cũ, thì nay trong máu Chúa Kitô, Thiên Chúa đã kêu gọi ta làm dân mới của Ngài và đã ký với ta một giao ước mới: Như vậy ta đã trở nên “dòng giống được lựa chọn, hàng tư tế, hoàng  vương, một dân tộc thánh” (1 P. 2,9-10). Chính Chúa Kitô là thủ lãnh của dân mới này, vì Ngài “đã bị nộp vì tội ta và đã sống lại vì công chính hóa của chúng ta” (Rom. 4,25).

+ Chức tư tế:

Người Kitô hữu nhờ sự tái sanh trong Thánh thần, đã được thánh hiến để trở nên đền thờ thiêng liêng và một hàng tư tế thánh, để nhờ tất cả hoạt động của người Kitô hữu,, dâng lên Thiên Chúa những của lễ thiêng liêng của chính bản thân, cũng như hoạt động. Dâng mình làm của lễ hy sinh sống động, chứng tá cho Chúa. Tham gia chứa tư tế của linh mục trong bí tích Thánh thể và tiếp nhận các bí tích, bền tâm cầu nguyện, tạ ơn, từ bỏ mình và bác ái thực sự.

+ Chức ngôn sứ:

Đức Kitô là ngôn sứ của Thiên Chúa, bằng chứng là của đời sống và sức mạnh của lời nói, Ngài đã tuyên bố nước Trời với những đòi hỏi của nó. Muốn làm ngôn sứ, tín hữu phải nghe lời Chúa, đọc lời Chúa, chia sẻ lời Chúa. Người giáo dân còn là ngôn sứ bằng làm chứng tá trong đời sống gia đình, xã hội, trong các cơ cấu trần gian. Tông đồ giáo dân, phúc âm hóa xã hội. Đôi lúc thay thế linh mục làm một số mục vụ.

+ Chức vương tế:

Phục vụ trong khiêm nhường, bền chí, gương mẫu, Chúa Kitô đã phục vụ cho đến chết trên thập giá. Dùng khả năng chuyên môn để nâng cao lao động, kỹ thuật, văn hóa, chia sẻ của cải công bằng, tranh đấu cho tự do, nhân phẩm, cải thiện điều kiện sống. Lành mạnh hóa các cơ cấu và hoàn cảnh, phù hợp với đòi hỏi của công bằng. Đem những giá trị luân lý thấm nhập văn hóa và việc làm của con người.

Như vậy, là chuẩn bị cho cánh đồng để đón nhận hạt giống Kitô giáo. Đón nhận Lời Chúa và mở cửa cho hoạt động của Giáo hội.

Phân biệt tư cách công dân và tư cách người của Giáo hội (quyền lời và nghĩa vụ). Dung hòa quyền lợi và nghĩa vụ.

Lương tâm công giáo hướng dẫn hoạt động trần thế. Hoạt động trần thế được quản trị theo luật riêng của nó nhưng được lương tâm công giáo cho một hướng đi nhân bản.

Cải thiện trật tự thế trần. Đấu tranh cho nhân quyền và dân quyền. Lo nên trọn hảo và thực thi ba chức năng của người Kitô hữu, đó là nội dung của cuộc sám hối của ta hôm nay.

Ta xác tín lời gọi nên trọn hảo như Cha trên Trời, đến mức độ nào hay ta nghĩ đó là chuyện ông cha bà phước?

Ta thi hành ba chức năng tư tế, ngôn sứ, vương đế như thế nào?

Anh chị em thân mến,

Chúng ta phải ân hận, phải sám hối, phải đổi mới tâm tư và sinh hoạt của chúng ta.

Nhân dịp Mùa Chay, mùa sám hối, ta hãy quyết tâm sám hối đến nơi đến chốn, chứ không chỉ tìm một sự công chính theo lề luật.

 

Lm. Chân Tín

(9.4.1994)