Trong thảm kịch tại trường tiểu học Sandy Hook, giáo hội đem lại nguồn an ủi.

Trong thm kch ti trường tiu hc Sandy
Hook, giáo h
i đem li ngun an i.

Trần Mạnh Trác

12/15/2012

Người ta kéo đến hàng ngàn người, đứng tràn ra cả ngoài đường để tìm một câu trả lời và một nguồn an uỉ. Đó là cảnh tượng trong đêm thứ Sáu vừa qua tại nhà thờ St. Rose of Lima gần trường tiểu học Sandy Hook Elementary School ở Newtown, tiểu bang Connecticut, nơi mà một cuộc tàn sát thê thảm đã xẩy ra lúc 9:30 buổi sáng cùng ngày.
Adam Lanza, một thanh niên mới 20 tuổi còn ở với mẹ, đã bắt chết mẹ mình rồi vác 3 khẩu súng máy, lái xe tới trường, phá cửa kính xông vào và, không nói một lời, bắn giết 2 lớp học rồi tự sát. Có những thi thể bị bắn tới 11 viên đạn.
Bà hiệu trưởng Dawn Hochsprung, 47 tuổi, khi nghe tiếng nổ đầu tiên đã phóng mình ra khỏi văn phòng về phía tiếng súng và khi hiểu được sự việc đã khởi động hệ thống báo động cho toàn trường trước khi bị giết. Chuyên gia tâm lý, bà Mary Sherlach, 56 tuổi, cũng chạy theo bà hiệu trưởng bén gót, và tìm cách lý luận với tay súng trước khi bị bắn chết.
Cô giáo Victoria Soto, 27 tuổi, khi nghe báo động đã xua các em vào phòng áo rồi, khi tay súng xuất hiện đã nói lừa là các em đang ở phòng thể dục. Cô đã đổi mạng sống mình cho các em.
Một số giáo viên và phụ huynh đang ở một phòng họp, lo sợ co ro rút vào một góc phòng. một giáo viên đã lấy thân mình chặn lấy cửa không cho tay súng xông vào.
Nhiều viên đạn đã bắn qua cửa và cô giáo đã bị thương nặng ở tay và đùi.
Những hành động anh hùng trên đã cứu nhiều mạng sống.
Tử vong kể cả phạm nhân lên tới 28 người, trong đó có 20 con trẻ lớp 1 tuổi từ 6 cho đến 7, gồm 8 trai 12 gái. Nhiều em là giáo dân cuả giáo xứ St. Rose of Lima.
Nhiều người không cầm nổi nước mắt khi 26 ngọn nến được đặt lên bàn thờ trong lúc cộng đoàn cùng nắm tay nhau hát bài thánh ca ‘silent night’.
Nhà thờ đã mở cửa xuốt đêm, cha xứ Đức Ông Robert Weiss, nhiều linh mục ở các giáo xứ kế cận và các nhân viên Y Tế Công Giáo quanh vùng đã được huy động đến để an ủi các gia đình nạn nhân.
Cho tới quá khuya, gia đình nạn nhân vẫn chưa được phép tới nhận xác chết cuả con em mình. Chính quyền còn phải điều tra, ghi chép chứng cớ và nhận diện từng người một.
Cha Weiss cho biết ngài đã dành trọn ngày để an ủi nạn nhân và gia đình, nhưng ngài không thể trả lời cho họ về lý do tại sao sự việc đã xẩy ra thế nào.
“Tôi biết rằng nhiều người sẽ hỏi ‘Tại sao Chúa lại để sự việc xẩy ra như thế này?’ Đây không phải là việc do bàn tay Chuá làm. Đây là việc do bàn tay cuả một người, một người có vấn đề,” Ngài nói.
Trong buổi lễ, ngoài những lời chia buồn phát biểu bởi các quan chức chính quyền, một lời an ủi còn đến từ một nơi rất xa, một điện thư gửi đến từ đấng Cha Chung là đức Giáo Hoàng Benedict XVI:
“Trước tình cảnh của thảm kịch vô nghĩa này, ta cầu xin Thiên Chúa là Cha chúng ta ban ơn an ủi cho tất cả mọi người đang phải khóc than và xin Chuá nâng đỡ cộng đồng bằng sức mạnh tinh thần để chiến thắng bạo lực với sức mạnh của sự tha thứ, hy vọng và tình yêu hòa giải,”
Thống đốc tiểu bang Dannel Malloy cũng đồng hoạ lời cuả Đức Thánh Cha trong bài chia buồn tại buổi lễ:
“Nhiều người trong chúng ta, ngày hôm nay và trong những ngày kế tiếp, sẽ sống nương tựa vào một điều đã được học và được tin, đó chính là Đức Tin sẽ mang lại cho chúng ta câu trả lời” (there is faith for a reason)  Được biết ngay từ những giây phút đầu tiên khi tin tức loan ra, thì Đức Ông Robert Weiss đã có mặt ở hiện trường. Trước một thảm hoạ vô cùng to lớn, ngài lập tức báo động cho tòa Giám Mục và các linh mục gần đó đến tiếp tay, và các giáo sĩ đã làm việc không ngừng nghỉ cho đến nay.
Một chương trình Mục Vụ cấp tốc đã được giáo xứ St. Rose of Lima và giáo phận
Bridgeport tổ chức để hổ trợ các nạn nhân và gia đình không phân biệt tôn giáo chủng tộc.

Thánh Gioan Thánh Giá

Thánh Gioan Thánh Giá

(1541 – 1591)

14 Tháng Mười Hai

 

Gioan là thánh vì cuộc đời ngài là một nỗ lực quả cảm dám sống trọn vẹn với tên của ngài: “Gioan của Thánh Giá”. Sự điên rồ của thập giá cuối cùng đã được thể hiện. Câu
nói bất hủ của Ðức Kitô: “Ai muốn theo ta hãy từ bỏ chính mình, vác thập
giá mình mà theo ta” (Máccô 8:34b) là câu chuyện cuộc đời Thánh Gioan. Mầu
Nhiệm Vượt Qua — từ sự chết đến sự sống — đã được thể hiện trong cuộc đời
Thánh Gioan như một người cải cách, một nhà thơ thần bí và là một linh mục thần
học.

Sinh ở Tây Ban Nha năm 1542, Gioan hiểu được sự quan trọng của tình yêu tự hiến là nhờ cha mẹ. Cha ngài đã hy sinh của cải, danh vọng và sự an nhàn khi kết hôn với cô con gái của người thợ dệt và vì lý do đó đã bị gia đình từ bỏ. Sau khi cha ngài từ trần, mẹ ngài cố gắng đùm bọc gia đình trong khi họ lang thang đầu đường xó chợ để kiếm
việc làm. Những tấm gương hy sinh ấy đã giúp Gioan theo đuổi tình yêu vĩ đại
của chính ngài dành cho Thiên Chúa.

Dù gia đình đã tìm được việc làm, nhưng vẫn không đủ ăn nên Gioan phải lang thang giữa thành phố giầu có nhất Tây Ban Nha. Năm mười bốn tuổi, Gioan được nhận vào làm việc trong bệnh viện với nhiệm vụ trông coi các bệnh nhân bị chứng bệnh bất trị hoặc bị điên dại. Chính trong sự đau khổ và nghèo nàn này, Gioan đã nhận biết và đã đi tìm hạnh phúc không ở nơi trần gian, nhưng ở nơi Thiên Chúa.

Sau khi Gioan gia nhập dòng Camêlô, Sơ Têrêsa Avila nhờ Gioan tiếp tay trong công việc cải cách. Cả hai đều tin rằng nhà dòng phải trở về với đời sống cầu nguyện. Nhiều tu sĩ Camêlô cảm thấy bị đe dọa bởi sự cải tổ này nên một số tu sĩ đã bắt cóc thánh
nhân. Ngài bị nhốt trong một xà lim nhỏ hẹp và bị tra tấn ba lần một tuần bởi
chính các tu sĩ dòng. Trong cái tăm tối, lạnh lẽo, và cô quạnh của xà lim, tình
yêu và đức tin của ngài bừng lên như lửa. Ngài mất hết tất cả ngoại trừ Thiên
Chúa — và Thiên Chúa đã đem cho ngài niềm vui vĩ đại trong cái xà lim nhỏ bé
đó.

Sau chín tháng tù đầy, Cha Gioan vượt ngục bằng lối cửa sổ duy nhất của xà lim mà ngài đã leo lên đó bằng sợi dây được kết bằng tấm vải trải giường, và đem theo tất cả các bài thơ huyền nhiệm mà ngài sáng tác trong thời gian tù đầy. Vì không biết mình đang ở đâu, ngài phải theo một con chó để đi vào thành phố. Ngài trốn trong bệnh xá
của một tu viện và ở đây ngài đọc thơ cho các nữ tu nghe. Từ đó, cuộc đời ngài
tận tụy cho việc chia sẻ và dẫn giải tình yêu Thiên Chúa.

Lẽ ra cuộc đời nghèo khổ và tù đầy đã biến ngài thành một con người yếm thế cay đắng. Nhưng ngược lại, ngài đã trở thành một người đam mê bí ẩn, sống với sự tin tưởng rằng “Có ai thấy người ta yêu mến Thiên Chúa bởi sự tàn nhẫn đâu?” và
“Ở đâu không có tình yêu, hãy đem lại tình yêu — và bạn sẽ tìm thấy tình yêu.”

Vì niềm vui chỉ xuất phát từ Thiên Chúa nên Thánh Gioan tin rằng những ai tìm kiếm hạnh phúc ở trần gian này thì giống như “một người đang chết đói mà há miệng đớp lấy không khí.” Ngài dạy rằng chỉ khi nào chúng ta dám cắt bỏ sợi dây dục vọng thì
chúng ta mới có thể bay lên cùng Thiên Chúa.

Là một tu sĩ dòng Camêlô, ngài cảm nghiệm sự thanh luyện tâm linh; là vị linh hướng, ngài cảm được cuộc chiến đấu tinh thần nơi người khác; là một thần học-tâm lý gia, ngài diễn tả và phân tích giá trị của sự đau khổ trong các văn bản của ngài. Hầu hết các văn bản của ngài đều nhấn mạnh đến cái giá phải trả của tinh thần kỷ luật,
con đường hiệp nhất với Thiên Chúa là: sống kỷ luật, từ bỏ mình, thanh luyện.
Một cách độc đáo và mạnh mẽ, Thánh Gioan nhấn mạnh đến sự mâu thuẫn của Phúc
Âm: Thập giá dẫn đến sự cứu chuộc, đau khổ dẫn đến sự ngất ngây, tăm tối dẫn
đến sự sáng, khi từ bỏ là lúc làm sở hữu, hy sinh bản thân để kết hợp với Thiên
Chúa. Nếu bạn muốn giữ mạng sống mình thì bạn sẽ mất. Thánh Gioan quả thật là
người “của Thánh Giá.” Ngài từ trần năm 49 tuổi — cuộc đời thật ngắn
ngủi, nhưng trọn vẹn.

Lời Bàn

Qua cuộc đời và văn bản, Thánh Gioan đã để lại cho chúng ta những lời quan trọng. Chúng ta muốn giầu có, an nhàn, thoải mái. Chúng ta không muốn nghe những chữ như hy sinh, hãm mình, thanh luyện, khắc khổ, kỷ luật. Chúng ta chạy trốn thập giá. Thông điệp của Thánh Gioan — cũng như trong Phúc Âm — thì thật rõ ràng: Ðừng chạy trốn — nếu bạn thực sự muốn có sự sống!

Lời Trích

Thomas Merton nói về Thánh Gioan như sau: “Cũng như chúng ta không thể tách rời sự khắc khổ với sự huyền bí thì nơi Thánh Gioan Thánh Giá, chúng ta tìm thấy sự tăm tối và ánh sáng, sự đau khổ và niềm vui, sự hy vinh và tình yêu kết hợp với nhau thật chặt chẽ đến nỗi dường như lúc nào cũng chỉ là một.

Maria Thanh Mai gởi

Nói cho con người (Thư Cần Giờ 1990-1993): Lm. Chân Tín (12)

Nói cho con người (Thư Cần Giờ 1990-1993): Lm. Chân Tín (12)

Đăng bởi cheoreo lúc 1:24 Sáng 14/12/12

VRNs (14.12.2012) – Sàigòn – Cần Giờ 23/6/1990

Anh Lan mến,

Hôm qua, Công an Tp xuống “làm việc” sáng, chiều, và còn sáng nay. Tóm lại ba buổi
làm việc:

– Sự đóng góp của anh Lan vào ba bài giảng?

– Cho tin về Giáo Hoàng cuối bài 3?

– Soát tài liệu CT trong văn phòng, không có bài giảng, lại thấy trong nhật ký
anh Lan, như thế anh Lan đã góp ý và tài liệu cho bài giảng?

– Đôi khi có nhờ anh ấy tìm cho một tài liệu gì đó, tôi nhớ mà không tìm ra ở
đâu. Đó là bình thường.

– Có tham khảo anh Lan?

-Có đưa cho anh ấy xem. Anh không góp ý vì tôn trọng tôi. Có cho tin tức ngày
Giáo Hoàng ban phép lành cho Roma.

-Về vụ này, anh nói “tia hy vọng” đây là gì?

-Hy vọng giữa Giáo hội và VN có đối thoại trực tiếp không qua trung gian.

-Ai đánh mấy?

-Tôi nhờ cô Diệu, vì là nhân viên của tôi.

-Nhân viên từ hồi nào?

-Đầu tháng 5.

-Cô ấy bảo đã đánh cho anh đã lâu.

-Hồi đó tôi nhờ đôi khi, còn đầu tháng 5, tôi nhận làm nhân viên, nên cô ấy đánh
những gì tôi giao.

-Liên lạc của anh với cô Diệu.

-Câu hỏi kỳ cục. Tôi nhờ đánh máy và liên lạc nhân viên, chớ còn có liên lạc gì
nữa mà hỏi kỳ cục vậy.


Anh biết mẹ cô ta?



Trước cô ta hay sau? Gặp ở đâu?


Sau. Gặp dịp liên hoan tết.


Đánh máy bao nhiêu bản?


Không nhớ.


Đánh để làm gì?


Cho người ta đọc chứ để làm gì?


Cho ai?


Ai cần biết nội dung đích xác.


Ai?


Không nhớ.


Có gửi cho anh Tri bên Pháp?


Không có gửi.


Sao lại có thư cho anh và khen anh? (thư nằm trong hộc).


Thì có ai đó gửi và anh ấy viết về.


Anh quen anh Tri hồi nào?


Năm ngoái.


Bạn của anh Lan?


Vâng.


Thư ấy gửi cho anh Lan hay cho anh?


Tôi không nhớ. Thường gửi cho anh Lan vì hai người ấy bạn thân từ bên Pháp.


Nội dung có hại cho đất nước.


Tôi làm theo lương tâm và vẫn xác tín là tôi làm cho nhân dân và Đất nước. Nếu
Nhà nước cho đó là xấu, thì Nhà nước cứ ra biện pháp, như biện pháp hiện tại.
Vì thế, tôi chấp nhận biện pháp đi đày và chỉ định cư trú. Nhưng không chấp
nhận lý do Nhà nước đưa ra.


Ba bài giảng đó, có ý đồ gì? Sao chỉ nói tiêu cực?


Tôi muốn giúp người dân ý thức tình trạng bi thảm của Đất nước hôm nay để người
dân cùng tôi góp phần vào việc thúc đẩy Nhà nước đổi mới.


Nếu có phần tích cực thêm thì được hoan nghênh.


Tôi không làm việc tổng kết để có cái hay cái dở. Tôi làm công việc bắt mạch
con bệnh để tìm cách chữa trị.


Anh có gửi đi ngoại quốc.


Tôi không gửi đi ngoại quốc.


Sao ông Dominic có thú nhận ở hải quan là anh đưa ba bài giảng khi anh và anh
Lan đến gặp ông ấy ở Phú Nhuận?


Tôi trao cho ông ấy xem ở đây chứ không gửi đi ngoại quốc. Đưa đi là việc của
ông ấy.


Đưa ông ấy để làm gì?


Ông xin tôi cho ông ấy để nghiên cứu.


Sao không nghiên cứu ở Tòa giám mục?


Chắc có. Nghiên cứu thì nghe nhiều tiếng chuông.


Anh biết ông ấy như thế nào?


Tôi biết ông ấy là linh mục dòng Tên đã từng dạy học ở Đà Lạt. Nhưng không quen
ông ấy.


Không quen sao gặp được ông ấy?


Sau mấy bài giảng của tôi, ông có viết vài chữ mời tôi đến.


Gặp mấy lần?


Một lần.


Có đưa cho người ngoại quốc nào nữa không?


Không.


Có gặp ai nữa không?


Có gặp một nhà báo Ý, tờ báo Il Regno.


Có đưa bài giảng?


Không.


Nói gì?


Ông ấy có đọc thư của tôi gửi Hồng y Etchegaray, nên ông muốn hỏi thêm cho rõ.


Tài liệu ngoại quốc do đâu?


Tôi đọc báo ngoại quốc, chỗ này chỗ nọ.


Ông Đỉnh và ông Tri có gửi báo?


Thỉnh thoảng có bài gì liên quan đến Giáo hội VN, các anh ấy có gửi photocopy.


Tri gửi cho anh hay anh Lan?


Nói chung là gửi cho anh Lan vì anh ấy là bạn của anh Lan.


Anh ấy có đưa cho anh xem?


Dĩ nhiên.


Còn anh Đỉnh gửi gì cho anh?


Có gửi thư anh ấy gửi cho CCFD (có trong văn phòng).


Liên hệ với anh Đỉnh như thế nào?


Đỉnh là học trò của tôi. Tôi thấy báo công an bảo Đỉnh là chủ nhiệm Nguyệt san
Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở California là sai bét.


Ai gửi cho anh báo ĐMHCG mà người ta khám phá ra trong văn phòng anh?


Tôi không có liên lạc với báo đó. Nếu có một photocopy bài nào đó, thì do giáo
hữu nhận được từ bên kia rồi cho tôi một bản.


Ai cho?


Làm sao nhớ được. Vả lại nhiều lần họ gửi cho tôi trong lúc không có nhà.


Sau ba bài giảng, ông Trị có nhắn nhủ gì anh?


Ông cho biết Nhà nước không vui và yêu cầu tôi stop


Anh có làm theo?


Không, vì hôm Chúa nhật sau đó tôi còn nói một bài ở nhà thờ để giải đáp thắc
mắc: linh mục có được nói về chính trị không?


Nội dung?


Tôi nói: Giáo hội không làm chính trị, không nói chính trị vì chính trị, vì
đảng phái, nhưng có quyền và bổn phận phê phán chính trị khi chính trị không
phục vụ nhân dân.


Có gặp Dương Thu Hương?


Có.


Mấy lần?


Một lần.


Ở đâu?


Cô ấy đến thăm anh Lan và tôi được mời ăn cơm chung.


Có bàn gì?


Chắc cô nghe người ta bàn tán về bài giảng của tôi, nên có lẽ cô ta muốn biết
mặt tôi. Chứ chả bàn gì. Nói chuyện vui hoặc thời sự.


Có quen Lữ Phương?


Có.


Có gặp? Ở đâu? Quen như thế nào?


Có gặp ở văn phòng tôi. Trước kia anh đấu tranh ở Sài Gòn rồi vào bưng, nên
biết anh ấy hồi đó.


Có quen anh Đoàn Thanh Liêm? Có đến nhà? Có đi ăn đám cưới?


Có quen, vì làm việc với nhau trong công việc quận 3 nhờ làm kiều hối. Nhà,
chưa đến bao giờ. Có mời dự đám cưới, nhưng không đi vì bận.


Biết Cao Lập?


Cao Lập là sinh viên tranh đấu, ở tù, tôi đi nuôi với má anh. Nên anh biết ơn
tôi.


Có đến anh không? Gặp ở đâu?


Anh ấy không đến tôi. Tôi có đến nhà anh xem video.


Dịp phục sinh, anh, anh Lan và Cao Lập làm gì ở nhà anh Lan?


Gặp gỡ thường, ăn cơm chung.


Anh Lan có đọc cái gì về hiện tình đất nước?


Tôi không nhớ.


Anh làm gì trong câu lạc bộ kháng chiến cũ?


Tôi được mời đến tham dự.


Họ có giao công tác gì cho anh?


Anh Tạ Bá Tòng có nhờ tôi mời anh em Công giáo tranh đấu trước 75 gặp gỡ. Chỉ
có một lần rồi thôi, vì hình như Thành Ủy không tán thành.


Tài liệu kháng chiến cũ đâu mà anh có? Ai trao cho anh?


Tôi mua ở Câu lạc bộ.


Anh nghĩ thế nào?


Họ là những người 3, 4 chục tuổi đảng. Họ ao ước đất nước đổi mới.


Có gặp thường anh Tòng?


Không.


Anh tập họp cựu tu sĩ dịp Phục sinh?


Họ mỗi năm tổ chức tĩnh tâm và họ muốn ai thì mời giảng. Năm nay họ mời cha
Đào, nhưng ông ấy bận nên có nhờ tôi giảng.


Tĩnh tâm bao lâu, bao nhiêu người dự, anh giảng bao lâu?


Tĩnh tâm một ngày. Có khoảng 3, 4 chục người. Giảng nửa tiếng.


Nội dung?


Giảng về sám hối cá nhân.


Ai viết thư cho ông Bình và Hội đồng Giám mục?


Anh em bàn bạc trao đổi, rồi nhờ anh Hiên viết cho hàng giám mục, anh Thái viết
cho Đức cha Bình.


Anh có mặt.


Dĩ nhiên.


Các anh họp, anh Tri đến vì được mời?


Tình cờ anh đến từ giã đi Pháp.


Ai trao 2 lá thư cho anh Tri?


Anh em đang ký chưa xong, anh xin một bản. Chả ai trao.


Anh quen anh Điệp như thế nào?


Anh Điệp là học trò của tôi. Sau này, anh Điệp phụ trách dưới này, tôi cũng có
giúp vận động giáo dân đóng góp xây dựng hợp tác xã chế biến hải sản Cần Thạnh.


Anh có đầu tư?


Không. Do tiền mục sư Vinay, tôi có giúp gần một nửa số tiền 11 ngàn đô tôi
nhận được, phần khác giúp cho một trường học trên quận 3.


Anh có nhận viện trợ để giúp học trò nghèo.


Cho đến bây giờ, không. Tôi có nhờ giáo dân trong xóm tôi phụ trách làm một quỹ
nhỏ để giúp người nghèo.


Vụ cháy nhà anh xin viện trợ

-Tôi có gợi ý cho anh Trị và anh ấy đứng xin và họ đã cho như thấy đăng trên
báo.

-Anh quen anh Dong hồi nào?

-Không nhớ. Anh em linh mục quen nhau là sự thường.

-Anh Dong mời anh làm lễ?

-Không, tôi lên chơi thấy đôi khi ông bận hay đau như hồi bị tai nạn xe hơi, tôi
gợi ý giúp. Và anh ấy chấp thuận.

-Có gặp trước khi về Duyên Hải?

-Có, tối trước đó, có hai linh mục ở xa về lãnh tiền Thanh Hương tổ chức buổi
cơm thân mật tại nhà anh Dong.

-Còn mấy ông Ý, Diễm, Định?

-Cũng thỉnh thoảng gặp gỡ, bồi dưỡng, giải trí.

-Tại nhà anh Dong anh có trao đổi cho ông Diễm một tài liệu về sinh viên cựu
kháng chiến?

-Tôi không nhớ.

-Tôi đã theo dõi hoạt động của anh trước 75 và thán phục, nhưng tôi thắc mắc lý
do gì anh thay đổi như vậy?

-Tôi trước sau như một. Tôi không thay đổi. Trước cũng như bây giờ, tôi chỉ nghĩ
đến Đất nước, đến nhân dân. Luôn luôn vì nhân dân mà tôi phấn đấu, bất chấp
nguy hiểm. Nếu tôi muốn hưởng thụ thì quá dễ. Tôi và anh Lan là hai người đã
đấu tranh chống Mỹ, chống Thiệu như anh biết. Sau giải phóng tôi muốn hưởng chế
độ này thì có gì khó. Vì sao đến tuổi 70 này mà còn lên tiếng nói thẳng, nói
thật để phải gặp khó khăn? Vì dân, vì Đất nước.

-Những điều anh nói trong bài sám hối, có khi nào anh nói với cấp lãnh đạo?

-Có. 5 năm ở Mặt trận Trung ương, 4 năm ở Mặt trận Tp và trước Đại Hội Đảng 6,
tôi đã lên tiếng với cấp trên. Nhưng đâu còn đó. Một cây làm chẳng nên non, ba
cây chụm lại nên hòn núi cao. Một mình tôi nói không đến đâu. Tôi phải giúp kẻ
khác ý thức để nhiều người nói để giúp Nhà nước đổi mới. Chính vì lý do đó mà
tôi đánh máy các lời phát biểu, những bài giảng để nhiều người ý thức.

-Khi nghe Trần Xuân Bách bị loại, nhà dòng anh có ý kiến gì không?

-Cũng như tất cả người dân khác, khi nghe tin đó, thì cũng bàn tán qua loa vậy
thôi.

– Anh có gửi ba bài giảng cho anh Phụng mang ra Bắc? bao nhiêu bản?

-Anh Phụng ra Bắc không mang theo. Nhưng vì giáo dân ngoài Bắc xôn xao về ba bài
giảng, anh Phụng xin một bản để cho người ta nắm vấn đề chính xác hơn. Anh
Phụng có gửi thư cho tôi (thư nằm trong ngăn kéo).

-Anh gửi ra, mang đi?

-Anh Phụng có giới thiệu 1, 2 người sắp ra Bắc. Tôi có nhờ người mang đến chứ
tôi không gặp họ, nên không biết ai.

-Các giám mục đọc bài của anh có ý kiến gì không?

-Tôi không rõ, vì không gặp ai.

-Ông Nhật có ý kiến gì?

-Tôi cũng không rõ.

-Anh quen với N.V.Ân như thế nào?

-Anh ấy trước có đấu tranh trong phong trào Thanh Lao Công. Nay là giáo dân họ
đạo chúng tôi.

-Anh có thắc mắc với UBĐK? Vấn đề cá nhân?

-UBĐK là một tổ chức của chính quyền. Tôi không có ý kiến. Nhưng khi Ủy Ban đó
can thiệp vào những vấn đề nội bộ Giáo hội, đứng trên cả giáo quyền để thao
túng và làm trung gian giữa Giáo hội và Nhà nước, một thứ trung gian nịnh thần,
tôi phản đối. Tôi muốn giữa Giáo hội và Nhà nước có một sự trao đổi trực tiếp
để xây dựng Đất nước và giải quyết những trục trặc, những khó khăn.

Làm việc trọn ngày 22 và thêm sáng ngày 23/6/1990. Sau đó, có anh Điệp, phó công an huyện, phó công an xã, đại úy Hoàng và ông Lê Minh Cảnh, trưởng phòng PA 16 của Sở Công an, mời tất cả đứng lên để nghe quyết định của UBND Tp ký ngày 6/7/1990 về việc “quản chế công dân Nguyễn Tín”.

1.Phạt quản chế tại Duyên Hải, xã Cần Thạnh, trong thời gian 3 năm, kể từ ngày
lấy quyết định (7/6/1990).

2.Nghiêm chỉnh chấp hành các quy định: tuân các quy định địa phương; chỉ đi lại
trong xã Cần Thạnh, muốn ra ngoài xã phải có phép Công an xã, trường hợp đặc
biệt phải có Công an huyện hoặc Công an thành phố; không được hành nghề tôn
giáo; trình diện Công an xã 15 ngày một lần.

3.Mất quyền công dân trong thời gian quản chế.

4.Chính quyền địa phương, đoàn thể tổ chức thi hành quyết định dưới sự điều hành
của Giám Đốc Công an Tp.

5.Những người trách nhiệm thi hành…

Trên đây là nội dung 3 buổi làm việc với trưởng phòng PA 16 của Sở Công an Tp và
quyết định mới của UBND Tp.

Tái bút: Ông Cảnh: Anh đã được ông Thứ trưởng Nội Vụ cảnh cáo, được anh Trị lưu ý, thế mà ngày chủ nhật sau, anh lại nói thêm một bài chính trị. Như vậy là liều thuốc
không còn hiệu nghiệm. Nhà nước đã cho một liều khác mạnh hơn: chỉ định cư trú
và quản chế tại Cần Thạnh.

Chân Tín: Bài sám hối của tôi cũng là liều lượng mạnh cho Nhà nước, khi mà những
điều tôi đã nói với cấp trên từ trước không còn hiệu nghiệm.

(Hai người cùng cười).

Lm. Chân Tín

(NKNNL 1990-1991, trang 32-38)

 

Hệ lụy gia đình – nhà trường

Hệ lụy gia đình – nhà trường

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi pleikly lúc 12:07 Sáng 14/12/12
nguồn: Chuacuuthe.com

VRNs (14.12.2012)
– Sài Gòn – Quả là chí lý khi tục ngữ khuyên “dạy con từ thuở còn thơ”. Trước khi viết, vẽ, các nhà văn, nhà thơ và họa sĩ phải “thai nghén” ý tưởng đến chín muồi mới thể hiện ra trên giấy. Nếu sai, dù có tẩy xóa khéo léo cũng không thể hết dấu vết. Nicolas Boileau nói: “Trước khi viết, hãy học suy nghĩ” và chỉ có suy nghĩ người ta mới khả dĩ có được phương thức khả thi và hiệu quả. Thật vậy, “thiếu phương pháp thì người tài cũng lỗi, mà có phương pháp thì người thường cũng làm được điều phi thường”. Huống chi là giáo dục, một công việc và một nghệ thuật, đào tạo một con người ắt là điều tối quan trọng với trang giấy trẻ. Giáo dục không chỉ đơn thuần là nuôi con cái đầy đủ về vật chất, mà giáo dục chủ yếu nhằm giúp con cái trở nên người hữu dụng, một công dân tốt cho gia đình, cho xã hội, đất nước và cho giáo hội (với những
người có tín ngưỡng). Chúng sẽ là những người cha, người mẹ trong tương lai. Vậy
thì về tâm sinh lý, trưởng thành nghĩa là biết dẹp bỏ “cái tôi” để biết vì người khác. Cái Tôi là đáng ghét.

Giáo dục nền tảng là giáo dục gia đình. Nhà giáo dục Mỹ – ông Ragan, đã nói: “Nhà trường đầu tiên là gia đình và người thầy đầu tiên là mẹ”. Như vậy, người mẹ rất quan trọng đối với trẻ, vì vốn dĩ nữ tính là hiền từ và dịu dàng. Phụ nữ nào hay nóng nảy, gắt gỏng, nhỏ mọn,… là thiếu tố chất cần thiết trong thiên chức làm mẹ và làm bà (nội,
ngoại). Giáo dục tốt, cha mẹ sẽ hãnh diện và hạnh phúc thấy con cái ích nước, lới nhà, hiếu thảo. Vâng, giáo dục là một thiên chức, một trọng trách khó khăn nhưng cao cả. Không ai lại không ảnh hưởng và thừa hưởng di sản văn hóa của tiền nhân, dù chỉ là vô thức. Bên cạnh nền giáo dục đó, chúng ta cần cập nhật hóa phương pháp giáo dục cho hợp với hoàn cảnh xã hội của thời đại mới, dù vẫn biết phương pháp nào cũng có ưu và khuyết điểm. Thế nên, chúng ta phải chọn lựa kỹ lưỡng và chính xác các điểm tối ưu khả thi.

Song song, sự ảnh hưởng quan trọng khác nữa là nền giáo dục của xã hội, của người thầy. Cùng lúc, trẻ nhận hai nền giáo dục của gia đình và nhà trường. Cả hai đều hỗ trợ toàn diện cho nhau. Nhờ đó, sau khi xa gia đình, xa trường lớp, con người đủ sức khả thi vai trò một con người bản lĩnh. Con người đó, sau bao năm dùi mài kinh sử, đủ kiến thức cơ bản và đủ tư cách làm người, sau những năm tháng học đạo làm người ở gia đình.  Rồi con người đó lại tạo lập một gia đình mới – tế bảo cơ bản của xã hội và đất nước.

Ngày nay, nhiều khoa học mới lạ được mở ra về khoa học kỹ thuật, tâm lý học, giáo dục học, phấn tâm học, xã hội học, là những khoa học có thành tựu nghiên cứu về giáo dục con người. Do đó, trẻ ngày nay tiếp nhận nền giáo dục theo phương pháp khoa học khác xưa rất nhiều, bớt phần nghiêm khắc. Kiểu “gọi dạ, bảo vâng” hoặc “đặt đâu ngồi đó” không còn thích hợp nữa. Thế nhưng, ngày nay các phụ huynh lại quan
ngại về con cái nhiều hơn, nhất là đến tuổi trưởng thành. Đôi khi phụ huynh như
cảm thấy bất lực trong việc giáo dục con cái. Phải chăng gia đình và nhà trường
có lối giáo dục mâu thuẫn?

Vì “chạy đua” nhà trường đã “nhồi nhét” kiến thức để học sinh chán ngán và đuối sức (tinh thần và thể lý). Nhà trường quá chú trọng vào việc lấp đầy kiến thức mà quên dạy học sinh làm người hữu dụng, môn công dân giáo dục bị mờ nhạt trước các môn khoa học khác. Đồng thời, cha mẹ thiếu quan tâm đầy đủ vì công việc thường nhật, lo kiếm tiền nhiều đến nỗi đuối sức và không còn thời gian dành cho con cái. Rất nhiều học sinh đã than vì sự “khập khiễng” đó. Thật vậy, phương pháp sư phạm và sách giáo khoa cứ thay đổi liên tục, học sinh phải “xoay” theo, còn cha mẹ không có kiến thức phù hợp nữa: quan niệm, phương pháp học và làm bài đều lỗi thời. Hai luồng giáo dục bỗng bị “lệch pha”. Nhiều phụ huynh đã chê trách lối nhồi nhét của nhà trường. Gia đình và nhà trường cứ “khoán trắng” hoặc đổ lỗi cho nhau. Học sinh thì mỏi mệt vì 3 “món” tương tự nhau: học chính khóa, học phụ đạo và học thêm. Việc học kín hết thời gian, không còn giờ giải trí hoặc tự học để “tiêu hoá”. Ngay cả giờ ăn cũng vội vàng. Có học sinh phải “thổi kèn” (ăn bánh mì) cho… kịp giờ!

Việc học biến thành cuộc chạy đua, học sinh buộc phải là “những tay đua” nhưng có thể là “những tay đua… kiệt sức”. Vì thế, học cho qua giáo trình, điều đọng lại không bao nhiêu, tạo ra nhiều lỗ hổng kiến thức. Gia đình càng phải kiếm tiền bằng mọi cách để con cái khả dĩ đi học. Học sinh cứ loay hoay với mớ kiến thức từ chương, hối hả lo lắng học thi, chỉ làm giàu cho một sổ giáo viên cuối cấp và những lò luyện thi. Thật
tức cưới khi họ quảng cáo là “Bảo đảm thi đậu” hoặc “không đậu không nhận học phí”. Chẳng qua là “lừa bịp” những người “nhẹ da cả tin”. Phương pháp học như thế chỉ là vô bổ. Thậm chí, có khi sách giáo khoa còn sai “nghiêm trọng”. Dục Tử nói: “Biết là hay mà không tin, đó là Dại. Biết là dở mà không sửa đó là Mê”. Giáo dục đã bị thương mại hóa!

Trước sức ép tiêu cực của xã hội bằng văn hóa đồi trụy: ma túy, và ma lực vật chất, con cái chúng ta khó đứng vững vì còn trẻ người non dạ, ăn chưa no lo chưa tới. Sự không đồng bộ giữa giáo dục gia đình và giáo dục nhà trường khiến trẻ mất niềm tin nơi cha mẹ, dễ sống buông thả, đua đòi. Và ngay cả lòng tôn sư trọng đạo đối với người thầy
cũng giảm sút nhiều. Thế nhưng, cha mẹ và người thầy cũng cần xem lại chính mình. Vì người trên dễ dãi quá thì người dưới sẽ coi thường. Thân quá hóa nhờn!

TRẦM THIÊN THU

Phước và Họa

Phước và Họa
***********************

Photo

Quan niệm, nhận thức của con người về phước (phúc) và họa hay may và rủi, được và mất, lợi và hại rất chủ quan. Bản chất của phước, họa cũng như mọi điều khác trong thế giới sự vật, hiện tượng từ vật chất cho đến tinh thần đều là duyên sinh, không có thực thể, thực tướng.
Một người đi trễ chuyến xe, tự cho là mình rủi. Nhưng ngày hôm sau đọc báo, thấy chuyến xe mà mình đi hụt bị rơi xuống vực sâu. Bấy giờ người ấy không còn thấy sự trễ xe hôm trước là rủi nữa, trái lại còn cho đó là may, vì nhờ đi hụt mà còn sống sót.
Thấy một người đàn ông cưới được cô vợ vừa đẹp lại vừa giàu sang, ai cũng trầm trồ khen ngợi, ước ao, cho rằng anh ta có phước. Nhưng chẳng bao lâu người đàn ông nọ và vợ dắt nhau ra tòa ly dị vì cô vợ sinh lòng lang chạ và sa đọa trong ăn chơi trụy lạc. Khi ấy người ta lại tặc lưỡi bảo nhau: Anh này thật vô phước!
Có người trúng vé số độc đắc được mấy tỷ đồng, ai cũng nghĩ rằng phước phần của anh ta đã đến. Không ngờ chính vì có số tiền quá to ấy mà anh ta sinh tật: đua đòi, hưởng thụ, đam mê cờ bạc rượu chè, đi sớm về khuya, vợ bé vợ mọn; vợ chồng anh ta vì tranh chấp tiền bạc mà bất hòa, vì chuyện anh lăng nhăng bên ngoài mà kéo nhau ra tòa ly dị; con cái ỷcó tiền của mà bỏ bê học hành, chỉ lo ăn chơi phóng túng. Còn nhiều trường hợp khác vì trúng số mà anh em, bạn bè trở mặt nhau; vì trúng số
mà bị giết hại do cướp vào nhà, do người tình phản bội…
Vậy người đi hụt chuyến xe kia là rủi hay may? Có được người vợ đẹp và giàu như anh chồng kia là họa hay phước? Và trúng số như những người nói trên là nỗi lo hay điều đáng mừng?
Tùy theo cái thấy, sự nhìn nhận, tùy theo duyên mà người ta cho đó là phước hay họa, nó luôn biến chuyển, thay đổi không ngừng, phước chuyển thành họa, họa chuyển thành phước, vừa là phước lại vừa là họa. Người xưa thường bảo: “Trong họa có phước, trong phước có họa”, nhưng kỳ thực họa phước do duyên, có nghĩa là do điều kiện, do hoàn cảnh, do sựnhìn nhận nó như thế nào, tùy theo duyên mà nó được xem là phước hay họa. Các bậc cha mẹ có con mắt tinh đời khi thấy con mình ra đời lập nghiệp, tuổi còn trẻ mà thành công quá sớm thì vừa mừng vừa lo. Mừng vì con
thành công trong cuộc sống, lo vì con thành công sớm quá sẽ sinh tâm tự phụ,
kiêu căng. Tuổi còn trẻ chưa từng trải, chưa có nhiều kinh nghiệm trong cuộc
sống, chưa hiểu đời nhiều, vì thế nếu thành công quá dễ dàng sẽ sinh tâm chủ
quan khinh suất, như thế sẽ dễ mắc phải sai lầm đưa đến sớm thất bại, dù buổi
đầu có thành công nhưng không thể thành công lâu dài, sự nghiệp khó bền vững.
Hơn nữa vì sớm thành công nên tâm cao khí ngạo, tự phụ kiêu căng, từ đó có thái
độ, hành vi coi thường người khác, dễ va chạm và làm mất lòng mọi người, từ đó
sẽ có nhiều người bất mãn, chống đối, đó cũng là nguyên nhân thất bại.
Có nhiều phụ nữ lấy được chồng đẹp trai lại giàu có, về nhà chồng chỉ việc làm vợ làm mẹ, mọi thứ khỏi cần bận tâm. Bạn bè đồng trang lứa thấy thế cho rằng họ có phước quá, ai cũng ước ao mình được như thế. Nhưng cha mẹ của những cô gái được xem là diễm phúc kia thì có người băn khoăn: “Chồng hào hoa, đẹp trai thì có nhiều người mến mộ. Nếu nó có thêm tánh phong lưu bay bướm, không chung thuỷ thì con gái mình sẽ khổ”, “Ăn ở không, được chồng nuôi chưa hẳn là có phước. Sống lệ thuộc
không làm chủ được bản thân chắc chắn sẽ chịu nhiều thiệt thòi. Thà ra ngoài
làm việc để có cơ hội khẳng định mình, có khả năng tự lập, có điều kiện rèn luyện, trau giồi bản thân, có thêm kiến thức, kinh nghiệm, có thêm niềm vui trong cuộc sống”. Cách nhìn về phước, họa của mỗi người mỗi khác, tùy thuộc điều kiện, hoàn cảnh, tùy thuộc quan niệm, lối sống, kinh nghiệm, hiểu biết v.v…
Một nghệ sĩ nổi tiếng trong làng giải trí nói trên báo rằng, từ khi ông bán đi mấy chiếc xe hơi thì thấy thanh thản, thoải mái hơn. Bây giờ mỗi khi đi đâu chỉ cần gọi taxi hoặc xe ôm là được. Lúc còn mấy chiếc xe hơi phải thuê người lái, đi đến đâu
phải tìm chỗ đậu xe cũng mệt. Thỉnh thoảng bị tài xế làm khó dễ để vòi tiền.
Khi gặp bạn bè hay đi tiệc tùng thì lại nghe những lời bàn tán về xe, họ bình
luận, so sánh, chê khen, nào là xe này đẹp, xe kia không đẹp; xe này sang, đắt
tiền, xe kia thuộc hạng xoàng rẻ tiền; xe này sành điệu, thời thượng, xứng
tầmđại gia, xe kia lỗi thời, cổ lỗ v.v… Nghe những chuyện như thế rất mệt.
Có người nghe ông nghệ sĩ kia nói thế thì cho rằng ông ta “giả bộ”, nói không thật bụng, có xe sướng quá mà làm bộ than phiền. Đâu phải ai muốn có xe hơi cũng được. Người chưa từng có xe hơi thì nghĩ có xe hơi là “ngon lành” lắm, sung sướng lắm, có phương tiện tốt để đi lại, hãnh diện với bạn bè. Nhưng người có rồi thì cảm thấy có xe cũng thêm nhiều phiền phức, cũng vướng bận thêm vì phải lo có chỗ đậu mỗi khi đến
đâu, phải lo giữ gìn, bảo quản, lo chiều lòng tài xế, lo bà con, bạn bè buồn khi hỏi mượn mà mình không cho, mà cho muợn thì không yên tâm lắm (rủi xảy ra tai nạn hoặc hư xe thì cũng khổ)…
Đối với vấn đề họa phước, người trí bình thản, an nhiên, không để nó làm dao
động tâm mình, chỉ xem nó như mây trôi, gió thoảng. Nhìn mây trôi ngang qua
trời, nghe gió thoảng qua bên tai, chỉ thấy thế, chỉ nghe thế, biết thế thôi,
không cần bận tâm, không cần nghĩ ngợi, không vui buồn vì nó. Phải tập như thế,
phải tu sao cho được như thế (dù là pháp môn nào) thì tâm mới được tự tại, an
vui, không buồn không lo, không khổ não.
Tâm bình thản, an nhiên, khôngđiều chi có thể làm bận lòng, như thế không phải là người vô tri, không phải là người vô tâm, vì vẫn hay vẫn biết, vẫn thấy, vẫn sống và hành động dưới sự soi sáng của tuệ giác nhưng tùy duyên, không miễn cưỡng, gượng ép, không vướng mắc, không bị buộc ràng, hệ lụy.
Đức Phật chưa bao giờ cho rằng việc Đề Bà Đạt Đa lăn đá và xua voi dữ giết hại mình là họa. Đức Phật cũng chưa bao giờ cho rằng việc Ngài được vua Bình Sa cúng cho vườn tre Trúc Lâm, được ông trưởng giả Cấp Cô Độc cúng khu đất để xây tinh xá Kỳ Viên, khu đất mà ôngđã mua với số tiền vàng trải đầy trên mặt đất, và được hoàng thân Kỳ Đà cúng cho vườn cây trên mảnh đất này là phước. Tâm Phật không hề dao động trước nhữngđiều xảy ra đó, Ngài không mừng khi được cúng dường, tán dương khen ngợi; không lo không buồn khi bị chống đối, hãm hại, Ngài bình thản, an nhiên, tự tại.
Cũng như trong âm có dương, trong họa có phúc và ngược lại
Người trí có thể chuyển cái mà thế gian cho là họa thành phước, và làm tăng trưởng, phát triển to lớn hơn cái mà thế gian cho là phước đang có. Nhưng người vô trí thì biến cái mà thế gian cho là phước thành họa. Ví dụ Đức Phật đã biến sự chống đối, dã tâm làm hại Ngài của Đề Bà Đạt Đa thành cơ hội khảo nghiệm, thành thử thách giúp Ngài thành tựuđạo hạnh, viên mãn công đức.
Một người con có tài trí, có nhân phẩm, đạo đức tốt biết tận dụng tài sản do ông cha để lại (phước) để xây dựng hạnh phúc cho mình, phát triển sự nghiệp bản thân, làm ích nước lợi nhà. Nhưng ngược lại, người con bất tài vô trí, nhân phẩm đạo đức kém sẽ ỷ lại vào gia sản của ông cha để lại mà ăn chơi phóng túng, sa đọa trụy lạc, kết cục
anh ta biến cái phước (có nhà cao cửa rộng, có tài sản, sự nghiệp) thành ra cái họa.
Người có tài năng, có đức độ, có chí hướng, biết siêng năng cần mẫn, dù sinh ra trong hoàn cảnh cùng  khổ, khốn đốn (kém phước), họ vẫn vươn lên và đạt nhiều thành công trong cuộc sống. Đó là vì họ biết tận dụng hoàn cảnh khó khăn, khắc nghiệt để rèn luyện mình, nuôi dưỡng chí hướng phấn đấu vươn lên. Họ đã chuyển sự không may (hoàn cảnh kém phước) thành điều hạnh phúc. Cũng như người biết xử lý rác thải có khả năng biến đống rác bỏ thành những vật dụng trong nhà, có thể dùng rác để tái chế ra những sản phẩm mới. Nhưng người vô trí, không biết sử dụng thì có thể biến những sản phẩm mới thành ra đống rác.
Họa hay phước là do chúng ta. Bản chất của họa phước vốn không có thực, chúng là pháp duyên sinh, không có thực thể, thực tướng. Cái phước thật sự, lớn nhất là khi làm chủ được tâm mình, không bị những thành bại, được mất, hơn thua làm cho bận lòng, làm cho phiền não.

Hồ Như…

Có đôi lúc ta ngỡ mình ngọn núi

Trên thân đầy cây cỏ với ngàn hoa.
Cũng có khi ta ngỡ mình con suối
Cùng chim rừng hòa âm điệu, hoan ca..
Có đôi khi ta ngỡ mình như đá
Nằm im lìm mặc rêu phủ thời gian.
Một lần kia, thấy phận mình như bụi
Bay trong chiều hồn sa mạc khô khan.
Và có khi ta ngỡ mình hạt nắng
Giữa tim người cổ mộ đóng nghìn năm.
Rồi thi thoảng phiêu du là cơn gió
Hương Từ bi ta quyện đến xa xăm..
Một lần nọ ta thấy mình như biển
Hát ru đời ca khúc Hải Triều Âm.
Rồi lẳng lặng ta làm con sóng nhỏ
Hòa đại dương… thôi chuyển biến, thăng trầm.
Bao la đời…, không còn chút vọng âm.
Bodhgaya chớm Đông 2012

Th Tánh Tuệ

Anh Nguyễn văn Thập gởi

Nói cho con người (Thư Cần Giờ 1990-1993): Lm. Chân Tín (10)

Nói cho con người (Thư Cần Giờ 1990-1993): Lm. Chân Tín (10)

Đăng bởi cheoreo lúc 1:46 Sáng 12/12/12

nguồn: Chuacuuthe.com

VRNs (12.12.2012) – Sài Gòn – Cần Giờ 15/6/1990

Anh Lan, chị Vân và bé Chi Thương,

Ngày mai, 16/6/1990, chúng ta ăn  mừng “đầy tháng” đó. Phải, chúng ta mừng vì đã sống cho Giáo hội và cho dân tộc, mình được bằng khen do miệng Caipha như anh nói: ngày họ đọc lệnh quản chế và lục soát nhà anh, ngày họ trục xuất tôi ra khỏi “hội đường” Kỳ Đồng, ngày chị Vân được giấy cho nghỉ việc vì lý do những gì xảy ra ngày 16/5, mặc tổ Tin đã nói lên tình thương và cảm phục của tất cả các tổ viên đối với chị Vân. Như vậy, mình không vui sao được, không mừng sao được. ngày mai tôi sẽ đồng tế “chui” với anh Điệp (mình dự lễ như một giáo dân và dâng lễ) để tạ ơn Chúa cho
chúng ta. Và sau đó sẽ mở chai rượu cabernet anh gởi cho hôm nọ, để cụng ly
mừng ngày “đầy tháng”. À rượu cabernet của anh, như vậy chứng minh tôi điều độ
lắm đó: bữa ăn trưa có 3 người mà có 2 lon bia. Bữa ăn tối, một ly nhỏ rượu nếp
than của anh Điền TS Châu gửi biếu. Anh thấy tôi ngoan chưa? Thôi chúng ta trở
về với những chuyện nghiêm túc hơn. Hôm nay, đọc lại không biết lần thứ mấy lá
thư 31/5 và 4/6 anh gửi cho tôi, cũng như lá thư 3/6 anh gửi cho bé Lan Chi.

Trước hết, khi đọc những đoạn nói về những buổi “làm việc” kéo dài ngày này qua ngày khác của bạn hữu ta cũng như việc nhốt cachot “bé bự D.” Trong khi đó không hỏi “thủ phạm” chính một câu nào, thì rõ là giận cá chém thớt, hành hạ những người bạn của ta vô tội như ta. Có người bảo một nhân vật nào đó trong chính quyền nói rằng CT giăng bẫy để nhốt CT mà họ không mắc bẫy, họ chỉ cho về nhà Dòng Chúa Cứu Thế Duyên Hải. Tôi chắc tất cả các bạn đã chấp nhận chia sẻ với anh em ta.

Với ngày 16/5, vị trí của anh em ta trong lòng Giáo hội và dân tộc càng rõ nét đối với mọi người xa gần… Trong nước cũng như nước ngoài, ngoại cũng như đạo, đảng viên cũng như không đảng viên. Tôi tạm gọi anh X, Y, Z người có tên trong thư (cả 3 đảng viên): “Cha ơi biết nói gì đây, khi chúng con để cho cha, một người cha 70 tuổi, suốt đời chỉ vì tình thương đối với con người mà phải sống cảnh đày ải như hôm nay? Anh em luôn luôn nghĩ và hiểu về cha, xem cha là cha của mình. Cha can đảm vì bên cha
còn bao nhiêu tấm lòng, bao trái tim luôn luôn nhớ đến cha. Anh Z đã nói về cha
đã khóc với con, nước mắt của anh Z là nước mắt của chúng con. Không thể nói
nhiều nhưng cha hiểu chúng con luôn luôn nghĩ đến một xã hội có tự do, có hạnh
phúc và phải làm cho bằng được điều đó, nếu không thì có tội với bao thế hệ mai
sau. Cha an tâm và giữ gìn sức khỏe. Ba mẹ và X đòi đi thăm cha, nhưng anh em
không cho. Hôn cha ngàn cái hôn yêu thương và cảm phục.” Y.

Đọc thư trên, tôi không cầm nổi nước mắt. Khóc vì tình thương của con người ngoại đạo dành cho tôi và anh, cho tất cả những ai “thụ nạn” vì nhân dân. Khóc vì mừng có những người thiện tâm như X, Y, Z trong những đảng viên. Có khác với bà giám tỉnh nào đó anh nói trong thư.

Rất hiên ngang và rất thương “người cộng tác đắc lực” của anh và như thế cũng là của tôi. Xin dành sự cảm phục và tình thương có thể có được cho chị Vân. Nhất là dành cho chị nhiều kinh nghiệm để chị cứ công tác đắc lực cho anh và cho tôi. Ngoài kinh Phụng vụ, tôi suy gẫm Lời Chúa (từ ngày về suy niệm Thư Galát và Philip) liên qua đến thánh Phaolô bị đày và tù tội, tôi cầu nguyện cho anh, cho chị Vân, cho bé Chi cũng đang tù tại gia, cũng như cầu cho tôi, người tù tại gia với người “cai tù” nhân hậu là anh Điệp, tương tợ thánh Phaolô ở Rôma. Phaolô ở hai năm như vậy, trước khi bị chém đầu ở Trefontane. Tôi không biết tôi có vượt Phaolô về năm tháng hay không.
Nhưng, như tôi đã viết cho anh: lúc nào họ trả tự do cho người “cộng tác”, “thủ
phạm” chính mới có quyền ra khỏi chốn tù đày.

Thấy anh, “người cộng tác đắc lực” phải đi làm việc mỗi tuần với “bạn dân”, trong khi tôi không ai hỏi một câu, trừ vụ công an đến nhà thờ yêu cầu tôi không được làm lễ và giảng (tôi chủ tế và giảng ngay ngày 16/5, lúc mới xuống Duyên Hải và trong 4 ngày đầu), tôi rõ không muốn bịt miệng tôi và khủng bố bạn bè và “người cộng tác đắc lực”.

Hôm nọ, được thư anh VKP cho biết: “Ở Hà Nội, nói chung là dè dặt kể cả các vị có uy tín như cha Oánh… cho rằng không nên nói mạnh làm gì (điều này trước 16/5). Ở Bắc Ninh và Hải Phòng thì lại có vẻ rất nhiệt tình đối với tôi và anh. Đức cha Cương nhờ VKP chuyển lời với anh: “Tôi không được quen ông, nhưng rất hoan nghênh ông.” (Những vụ  tiếp xúc với BN và HP đều trước 16/5). Đó là phía giáo sĩ. Giáo dân Hà Nội rất nhiệt tình, chuyền tay nhau bản tin của báo nhân dân và xuýt xoa. Đến bây giờ thì có những người lúc thường không mấy để ý đến vấn đề này, nhưng từ nay “cầu nguyện cho cha Chân Tín” đều đều. Có người thuộc thành phần tích cực thì phát biểu:
“Lúc này mà các giám mục không lên tiếng thì chờ lúc nào?”

Nhân đám tang Hồng Y Căn. VKP có gặp Đức Tổng ở Hà Nội. Anh nói với ngài “Mấy hôm nay Đức Cha có điều gì buồn phiền không?”

– Tôi buồn phiền lắm chứ. Giáo dân nó viết thư đến TGM phê bình tôi không lên tiếng như Đức Cha Điền, Đức Cha Thuận, thật các cha Dòng Chúa Cứu Thế làm tôi tổn thọ quá.

– Đức Cha tính lên tiếng như thế nào?

– Tôi biết lên tiếng làm sao bây giờ? Thôi để tôi về Sài Gòn, rồi bàn với mấy cha xem sao.

Đức Cha im tiếng (chắc đã về Sài Gòn bàn với mấy ông Đoàn kết), UBĐKCGYN cũng im tiếng tuyệt đối. Tờ Công giáo và Dân tộc không những im tiếng mà còn đi dự cấm phòng các linh mục ngóng xem cụ Lịch sẽ thông tin như thế nào. Đủ loại tin tức bên Tây, bên Bỉ. Nhưng không có một tiếng về vụ Chân Tín. Cho tới bây giờ chưa có gì mới.

Hôm cha Điện đến cứu đói với quận 10 có ghé nghỉ mưa và có nói: trong buổi họp 50 linh mục, tu sĩ, giáo dân, cụ Lịch có hỏi hai câu: “Ông Lan cộng tác đắc lực có cái gì rõ ràng không? Ông CT thanh minh hôm Chúa nhật về việc ông giảng về sám hối có làm chính trị không?” Điều này không biết cụ Điện có nói đúng hay không? Nhưng thái độ im lặng mà anh P nói là cái im lặng đồng lõa với những ai bắt bớ anh em ta.

Hôm nọ anh Điệp lên Đức Tổng, để yêu cầu ngài can thiệp, lên tiếng. Nhưng tôi cản. Dù vậy, khi anh Điệp lên có việc, thì Đức Tổng hứa sẽ về Duyên Hải thăm tôi. Có đi thì hỏi Ban Tôn Giáo và mấy ông Đoàn kết? Mình cũng không mấy muốn ngài xuống thăm.

Chúc anh chị, cháu Chi bình an trong Chúa.

 

Lm. Chân Tín

(NKNNL 1990-1991, trang 22-24)

 

TRẢI NGHIỆM DẤN THÂN CỦA MỘT TÂN TÒNG

TRẢI NGHIỆM DẤN THÂN CỦA MỘT TÂN TÒNG

(Trích tập san GHXHCG số 4)

►Mẩu Bút Chì

nguồn: conggiaovietnam.net

Người ta thường bảo rằng những người tân tòng được Chúa đặc biệt yêu thương. Đó là một màu nhiệm, tôi không hiểu thấu. Nhưng tôi biết chắc một điều: tôi là một tân tòng và tôi được Thiên Chúa yêu thương quá đỗi.

Tôi biết Chúa khi đã trưởng thành, đó là ơn Người ban cho tôi theo nghĩa Người cho tôi có cơ hội trải nghiệm hai trạng thái tâm linh: Sống chưa biết Chúa và sống có Chúa.

Khi chưa biết Chúa, tôi chưa biết khái niệm “dấn thân”, chỉ biết “ở hiền gặp lành”, “làm phước gặp may”, “bố thí’, “từ thiện”…, nghĩa là mở lòng THI ÂN với đời.

Khi đón nhận bí tích thanh tẩy, quả là tình thương và ân sủng Chúa đổ đầy hồn xác tôi. Chúa gần tôi như hơi thở. Người nghe lời thủ thỉ của tôi và tỏ hiện cho tôi biết lòng thương xót của Người. Đã có thời tôi khao khát: nếu chưa lập gia đình, tôi nguyện sẽ
đi tu. Tôi đắm chìm trong nguyện cầu, Thánh Lễ,  Lời Chúa và sự hướng tâm nên Thánh. Tâm hồn tôi tràn ngập bình an, thanh khiết.

Thời ấy, tôi dự lớp Kinh  Thánh mấy khóa liền, nên cầu nguyện rất thạo và Lời Chúa gần như nằm lòng. Ưu tiên số một cho đời sống tâm linh, các thực thể trần gian, các mưu cầu vật chất đối với tôi dường như rất nhẹ. “Ai muốn theo Ta phải từ bỏ chính mình” –  tôi muốn từ bỏ tất cả để đi theo Ngài trọn vẹn. Với lòng sốt sắn ấy, Chúa đã dùng tôi để hoán cải nhiều tâm hồn khô khan nguội lạnh, và đưa nhiều người trở về nhận biết Chúa, trong đó có bà, cha mẹ và một số anh chị em ruột của tôi. Linh hồn tôi chứa chan vui sướng, và không ít lần nước mắt ràn rụa trong niềm cảm tạ.

Nhưng rồi tôi phải đối mặt  với nhiều sự xung đột trong cuộc sống: có người ngưỡng mộ, ước muốn được như tôi, nhưng gánh nặng cơm áo trĩu vai, đầu tắt mặt tối lo không trọn, thời gian đâu nghiền ngẫm Kinh Thánh, tham gia nhóm cầu nguyện, chia sẻ Lời Chúa hay làm công việc bác ái như tôi. Và họ buồn lòng lắm, cứ như là cánh cửa Nước Trời đã đóng lại trước mắt. Nhưng cũng có người diễu cợt rằng tôi sống như “người cõi trên”, xa rời thực tế… Những ý kiến ấy cũng không mấy quan trọng, mà quan trọng là chồng và con tôi dần dà thấy không vui, muộn phiền khi tôi thường
xuyên vắng nhà, đi cầu nguyện, chia sẻ Lời Chúa khi gần khi  xa, bỏ lỡ công ăn việc làm cũng như không thể chu toàn bổn phận gia đình cho tươm tất. Bởi lúc ấy trong nhận thức của tôi, ngoài việc đem lời Chúa đến với mọi người (theo nghĩa đen), tất cả là thứ yếu. Có lẽ tôi đã hiểu quá cạn nghĩa của hai tiếng “từ bỏ”“nên Thánh” trong Lời Chúa.

Lương tâm tôi giằng xé dữ dội. Làm sao cho trọn vẹn? Lời Chúa mời gọi tôi dấn thân, loan báo Tin Mừng, nhưng tôi cũng được dạy rằng gia đình bé nhỏ yêu thương của tôi cũng là một ân huệ của Chúa. Nhưng quả thực tôi không tìm ra con đường để dung hòa giữa sự hướng thượng của tâm linh với những đòi hỏi của thực tại trần thế, giữa
những nhu cầu kinh tế, vật chất và những ước muốn dấn thân phục vụ con người,
phục vụ thiện ích chung. Có lúc tôi đã thật sự lâm vào khủng hoảng – cho đến
lúc tôi học biết GHXHCG.

GHXHCG dạy tôi biết rằng tôi không cần phải đi đâu xa để loan báo Tin Mừng hay dấn thân phục vụ, mà hãy loan báo và dấn thân ngay trong công việc, nghành nghề, gia đình của mình: “Nếu người ta xã thân làm việc với lòng tin, cậy, mến của các môn đệ Đức Kitô, thì ngay cả kinh tế và tiến bộ cũng có thể biến thành những địa điểm cứu độ và thánh hóa” (x. số 326 sách Tóm lược HTXH). Giáo huấn cũng dạy tôi rằng lao động là một phương tiện để nâng cao phẩm giá con người, hãy sử dụng lao động như cách thế diễn tả tình yêu và cộng tác vào ơn cứu độ Thiên
Chúa (Chương VI sách tóm lược HTXH).

Tôi nghiệm ra một điều: chắc chắn Giáo hội và xã hội đang cần tôi chung sức, chung trí, nhưng cũng chắc chắn rằng tôi không thể hướng đến sự nên Thánh trước khi tôi làm một con người tử tế, sống tròn những bổn phận mà Chúa đã trao ban cho tôi. Và tôi không thể nên Thánh, nếu như tôi không tham gia xây dựng xã hội trần thế này cho được ổn định, an sinh hơn. Trước khi Chúa Giêsu đến phán xét lần thứ hai, thì người nghèo  vẫn được ký thác cho tôi. (“Nghèo” ở đây không đơn thuần là nghèo vật
chất mà còn là tình thương, tinh thần, tự do, văn hoá, tín ngưỡng… ) Ngài mời
gọi tôi dấn thân cho những thiện ích giúp người, giúp đời, mà Thiên Chúa là “sự
thiện tối thượng”.

Dấn thân cho công ích không còn đơn thuần là một “việc đạo đức” tuỳ hứng hay một “ước muốn hướng thượng”, mà là sự thúc giục của lương tri, của tình đồng loại trong tôi. Đó còn là một trách nhiệm ràng buộc tôi phải cam kết với Thiên Chúa. Và GHXH chính là phương thế giúp tôi diễn tả, cụ thể hóa Lời Chúa trong đời sống hôm nay, bằng những ngôn từ hiện đại của kinh tế, lao động, môi trường, nhân phẩm, quyền con người.v.v…

Con đường dấn thân của tôi như thế đó, nó gập ghềnh theo từng bước trưởng thành tâm linh và ý thức của tôi.

Xin Chúa nhân từ  luôn ở cùng con, để dù con có xiêu vẹo nghiêng ngả, Ngài cũng sẽ đưa con đến cùng đích cuộc đời.

Tác giả: Mẩu Bút Chì

Nhận và Cho


Nhận và Cho

 

TRẦM THIÊN THU

Cuộc đời là xã hội, là cộng đồng, nghĩa là không ai lại không phải ít nhiều nhờ
vả nhau – dù trực tiếp hay gián tiếp. Không ai có thể sống như một ốc đảo, mà
luôn có những mối quan hệ và những hệ lụy theo một quy luật tất yếu của cuộc
sống.

Trong quan hệ đó, mỗi người có một nhân sinh quan riêng nhưng luôn hợp thành
một tổng thể cộng đồng. Như vậy, cần có tình đồng loại thực sự. Con người vốn
dĩ yếu đuối nên rất cần sự cảm thông và tha thứ không ngừng. Sống chân thành và
hài hòa với nhau là hạnh phúc được nhân đôi: Cho bạn và cho tôi. Mỗi người phải
biết chia sẻ, không thể khư khư giữ “cái tôi” mãi.

Nhưng, để được NHẬN thì phải biết CHO trước. Tất nhiên phải biết mở lòng ra như
cuốn sách để người khác “đọc” mà cùng quan tâm lẫn nhau.

Dĩ nhiên không ai trên đời có thể hiểu hết nhau – dù trong mối quan hệ nào. Có
chăng là hiểu một đôi phần trong lĩnh khía cạnh nào đó. Cố gắng hiểu người chứ
đừng đòi người hiểu mình nhiều quá. Vả lại, ai cũng có “khoảng riêng” bất khả
xâm phạm. Biết vậy để tự trọng và tôn trọng nhau đúng mức. P. Gerandy (Mỹ) phân
tích: “Chỉ cần hơi giống nhau là có thể hiểu nhau,
nhưng cần phải hơi khác nhau để có thể yêu nhau”.

Có những người chê bai, trách cứ mà không chịu “nhìn” để cảm thông. Có những
người chỉ biết đòi hỏi mà không biết trao tặng. Có những người lại quá “hạ
mình” đến mức nhu nhược hoặc hóa kiêu ngạo. Người may mắn có cuộc sống sung túc
từ nhỏ thì không muốn quen thân những người nghèo khó. Người giàu có nhờ “số
hên” thì coi trời bằng… nắp bia.

Biển luôn vỗ sóng vì lòng biển thẳm sâu, chứa nhiều châu báu. Những con người
đau khổ và gian nan là những người đầy kinh nghiệm. Pythagore cảnh báo: “Đừng
thấy bóng mình to lớn mà tưởng mình vĩ đại”. Biết người, biết ta thì không ai
dám “nổ”. Khoác lác là tự phơi bày cái “không tưởng” của mình.

Nhưng thế nào là quan tâm đến nhau? Có thể dùng ngôn ngữ, cử chỉ, động thái,
ánh mắt, nụ cười,… để thể hiện. Quan tâm đến nhau là điều cần thiết trong mọi
mối quan hệ. Thiết tưởng, dưới đây là các “khởi điểm” để tạo mối quan thiết tốt
đẹp và bền vững:

1. Bạn có thể viết thư, gởi thiệp, tặng hoa hoặc quà để chúc mừng vào những dịp
đặc biệt như sinh nhật, lễ, tết, cưới hỏi, thi đậu, thôi nôi, tân gia, ngày
8-3, ngày tình yêu (Valentine’s Day, 14-2),… Trên thế giới còn có những ngày
khác như Ngày Ông Bà (Grandparents’ Day, Chúa nhật thứ nhất sau lễ Lao động),
Ngày Thân Mẫu (Mother’s Day, Chúa nhật thứ nhì của tháng Năm), Ngày Thân Phụ
(Father’s Day, Chúa nhật thứ ba của tháng Sáu) dành cho con cháu tỏ lòng thảo
hiếu đối với Ông Bà và Cha Mẹ mình.

2. Thi thoảng, nếu có thể thì thường xuyên điện đàm, nhắn tin, thăm viếng,… kẻo
“xa mặt cách lòng”.

3. Luôn biết sử dụng tiếng “xin lỗi”, “cảm ơn” và “làm ơn…”, dù bạn đi mua
hàng, hỏi đường, hỏi giờ,…

4. Biết sẵn sàng giúp đỡ nhau khi cần (an ủi, động viên, khen ngợi, chân thành
sửa lỗi…). Một người bạn tốt là người có mặt đúng lúc, và là người dám làm trái
ý cả trăm lần chỉ vì muốn tốt cho chúng ta.

5. Xởi lởi, trung thực, chân thành tâm sự để chia vui sẻ buồn, cả thành công
lẫn thất bại trong cuộc sống để cùng dìu nhau đi.

Nhưng đôi khi cũng cần biết “phớt tỉnh Ăng-lê” (kiểu người Anh) để không “xoi
mói” đời tư người khác.

Sống tốt khó hay dễ tùy mỗi người. Ai có cá tính mạnh là có tính cách đặc biệt
“khác người”. Bạn có thể bị hiểu lầm, nhưng một khi hiểu ra thì người ta càng
nể phục. Hãy sống theo “chiều sâu”, đừng sống theo “chiều dài”, và hãy cứ là
chính mình chứ đừng để tính cách bị “lai căng”.

Biết quan tâm đến người khác là một cách sống tốt, điều mà không ai lại không
muốn, và giúp người khác cùng sống tốt. Đừng “vô tình” biến họ thành Chí Phèo!
Văn hào Victor Hugo nói: “Tôi thích trở thành người nổi tiếng, vì đó là hạnh
phúc. Nhưng tôi muốn trở thành người hữu ích, vì đó là nghĩa vụ”.

Nguyễn văn Thập gởi