Một Lời Xin Lỗi

Một Lời Xin Lỗi

Tưởng Năng Tiến


Trong hơn nửa thế kỷ qua, có lẽ, đây là lần đầu tiên công luận mới được biết đến một điểm son (hiếm hoi) trong hệ thống lao tù ở Việt Nam – theo như tường thuật của phóng viên Trọng Thịnh, trên Tiền Phong Online:

Ngày 28/6, tại Trại giam Xuân Lộc (tỉnh Đồng Nai), Tổng cục Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp (Tổng cục VIII) sơ kết đợt phát động phạm nhân viết thư với chủ đề “Gửi lời xin lỗi”. Sau hơn nửa năm, đã có gần 600 bức thư…

Ông Nguyễn Văn Quý (Xã Phú An, Nhơn Trạnh, Đồng Nai), cha của nạn nhân Nguyễn Văn Lợi đã rất ngạc nhiên khi nhận được lá thư xin lỗi của phạm nhân Từ Khánh Thiện – người đang thụ án về tội giết con ông…


Bà Nguyễn Kim Oanh (Hố Nai, Trảng Bom, Đồng Nai), mẹ của nạn nhân Lê Văn Vũ thì không tin rằng kẻ trong băng nhóm giết con mình là Nguyễn Minh Quang lại gửi thư cho bà. Dù còn nguyên đó nỗi đau mất con nhưng dòng chữ chân thành của kẻ giết người đã khiến bà cảm động: “Hôm nay con muốn viết lên hai từ xin lỗi dù đã quá muộn màng và con biết rằng không thể nào làm cho bác quên hết buồn đau của những chuyện đã qua”.

Bà Oanh kể: “Tôi đã suy nghĩ nhiều lắm. Tội của thằng Quang thì pháp luật đã xử nó, mình giữ lại thù oán cũng chẳng được gì. Tuổi của nó còn trẻ, còn tương lai ở phía trước. Vì thế tôi muốn đích thân lên trại để nói tôi tha thứ cho cháu”.

Nguyen Minh Quang

Phạm nhân Nguyễn Minh Quang và bà Nguyễn Kim Oanh.
Ảnh:
Trọng Thịnh

Cũng trên Tiền Phong Online, vào ngày 21 tháng 10 năm 2013 vừa qua, lại có thêm một bài báo nữa (Trào Lưu Tự Thú Về Cách Mạng Văn Hoá Ở Trung Quốc) cũng cảm động không kém – do  ký giả Sơn Duân lược dịch:

Với tư cách Chủ tịch Hội Cựu học sinh giai đoạn 1966 -1968 tại Trường trung học Bắc Kinh số 8, Trần Tiểu Lỗ (67 tuổi) đứng dậy, cúi đầu và đại diện cho các học sinh nói lời xin lỗi vì làm nhục và đánh đập thầy cô giáo trong thời Cách mạng Văn hóa. Các cựu học sinh khác cũng làm theo Trần. Những lời nói hối hận hòa lẫn với ngôn từ an ủi và nước mắt tuôn tràn trên các khuôn mặt. Theo tờ China Daily, trước khi tổ chức cuộc gặp, Trần đã đăng tải lời xin lỗi trên trang blog của nhóm cựu học sinh vì “trách nhiệm trực tiếp trong việc lên án và đưa nhiều người đến trại cải tạo”. Theo ông Trần, lời xin lỗi tận đáy lòng của ông với các thầy cô và bạn cũ “dù muộn nhưng cần thiết”.

Cuối bài viết này, sau khi đăng lại trên trang Đàn Chim Việt, có vị độc giả đã gửi đến phản hồi như sau:

Tudo.com says: Vậy khi nào CS VN sám hối về Cải Cách Ruộng Đất, Nhân Văn Giai Phẩm miền Bắc ?

Câu hỏi (khá) bất ngờ này khiến tôi chợt nhớ đến một đoạn văn của blogger Cu Làng Cát:

Gia đình tôi, bị quy địa chủ trong những năm tháng cải cách ruộng đất. Đó là điều vô lý, thật là vô lý. Đến bây giờ bố tôi và tôi vẫn không hiểu vì sao một gia đình nghèo đói như thế này, bỏ tất cả theo kháng chiến, không một mảnh đất cắm dùi thời kỳ đó mà vẫn bị quy là địa chủ… Bố tôi kể, đợt cải cách ruộng đất oan sai nhiều lắm.

Người oan toàn người giỏi, người tài và rất nhiều Đảng viên bị giết… Tôi đã nhiều lần ngồi nhậu với nhà thơ Ngô Minh, ông cũng mang trong mình nổi đau của oan sai cải cách ruộng đất. Khi rượu vào mềm môi, tôi hỏi: “Chuyện gia đình chú bị quy sai địa chủ chú có đau không?”. Ông cười nhưng từng thớ thịt trên mặt giật liên tục, như đang cố nuốt một nổi đau mà chỉ có người trong cuộc mới hiểu nổi…”

Nỗi đau này (chắc chắn) sẽ giảm bớt ít nhiều – nếu trong lần nhậu tới, vào lúc rượu vừa mềm môi thì bưu tá viên xuất hiện và đưa cho nhà thơ Ngô Minh một bức thư gửi từ Văn Phòng Thủ Tướng Chính Phủ của nước CHXHCNV, với nội dung (đại khái) như sau:

Ngày … tháng… năm …

Kính gửi ….ông/bà…

Thay mặt Chính Phủ của nước CHXHCNV, chúng tôi xin trân trọng gửi đến ông/bà lời xin lỗi chân thành nhất về những mất mát, thiệt hại cũng như đau buồn đã xẩy ra cho gia đình và thân quyến do nhiều sai lầm (vô cùng đáng tiếc, và đáng trách) đã khiến cho cụ ông Ngô Văn Thắng bị oan mạng trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất – vào năm 1956. Chúng tôi kính mong được ông/bà bao dung chấp nhận lời xin lỗi muộn màng này

Ký tên Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng

Thử tưởng tượng xem hai vị nhà thơ và nhà báo của chúng ta sẽ ngạc nhiên cỡ nào khi đọc những dòng chữ ngắn ngủi và giản dị trên? Bữa đó, hai chả – không chừng – dám uống tới sáng luôn vì xúc động!

Hãy tưởng tượng tiếp: có chiều, khi ngày đã đi dần vào tối, một bưu tá viên (khác) sùm sụp áo mưa len lách vào đến căn nhà số 24 ngõ 267 2/16 Dường Hoàng Hoa Thám, phường Liễu Giai, quận Ba Đình, Hà Nội để giao cho bà Ngô Thị Kim Thoa một bức thư khác – cũng gửi từ Văn Phòng Thủ Tướng Chính Phủ:

Ngày … tháng… năm …

Kính gửi …

Thay mặt Chính Phủ của NCHXHCNV, chúng tôi xin trân trọng gửi đến bà lời xin lỗi chân thành nhất về những mất mát, thiệt hại cũng như đau buồn đã xẩy ra cho gia đình và thân quyến do nhiều sai lầm, vô cùng đáng tiếc, đã khiến ông nhà (thi sĩ Phùng Cung) vô cớ bị bắt đi biệt tích và giam giữ rất nhiều năm – sau vụ án Nhân Văn Giai Phẩm – vào đầu thập niên 1950. Chúng tôi kính mong được bà bao dung chấp nhận lời xin lỗi muộn màng này…

Ký tên Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng

Cũng vào buổi chiều mưa này, một bức thư khác nữa – với nội dung gần tương tự –  đã được gửi đến bà Lê Hồng Ngọc ở ngõ số 26 Lý Thường Kiệt, quận Hoàn Kiếm, Hà Nộị… Đêm hôm ấy ngọn đèn dầu trên bàn thờ của Phùng Cung và Hoàng Minh chính có thể sẽ được khêu sáng hơn một tí, chỉ tí xíu thôi nhưng chắc cũng đủ làm cho những gian nhà quạnh quẽ của các bà quả phụ (đang bước vào tuổi tám mươi) được đỡ phần lạnh lẽo.

me gia

Nguồn ảnh: haigt.dva.vn

Có những bức thư khó chuyển hơn vì người nhận sinh sống ở những nơi xa xôi, và hẻo lánh hơn nhiều:

Trên bản đồ quân sự cũng như bản đồ của nha Địa Dư không bao giờ có địa danh “Đèo Bá Thở”. Bởi vì đặt cái tên cho ngọn đèo này chính là tôi và một vài người bạn … Ngọn đồi nằm không xa trại giam chúng tôi trong tỉnh Yên Bái. Ngày ngày đội chúng tôi có mười anh em phải băng qua bên kia cái đèo khốn nạn này, tới một khu rừng toàn thị là tre, nứa, giang …

Mấy ngày đầu chúng tôi không chú ý tới cuối dốc bên kia có một cái nhà tranh đã sập. Người chủ căn nhà lấy vài thân tre to, chống cái mái lên, nên mái nhà chạm đất. Tất nhiên trong tình trạng đó nó không có cửa. Chúng tôi đã vài lần đi về ngang đó và tưởng nó đã bỏ hoang, bởi vì trông nó còn thua một cái chòi chăn vịt ở miền Nam.

Một hôm cả bọn chúng tôi thấy trời còn sớm, nên nghỉ lại bên kia dốc một lát trước khi “bá thở”. Chúng tôi nghe lục đục trong cái chòi bỏ hoang, và phát giác đuợc một cụ già thật già. Nét mặt bà cụ nhăn nheo hệt như những vết nẻ của ruộng bị hạn hán nhiều ngày. Bà già có một cặp mắt nâu đục, lờ đờ và đầy rỉ mắt. Bà già mặc một cái áo bông vá chằng vá đụp. Phải gọi đây là cái áo vá trên những miếng vá. Nó nặng dễ chừng đến năm ký chứ không chơi. Chúng tôi gạ chuyện, song tất nhiên bà già biết chúng tôi là tù ‘Ngụy’ nên không hé răng một nửa lời.”


“Hôm sau trong lúc đốn tre chúng tôi hội ý. Chúng tôi lấy dư ra mỗi ngày vài cây về dấu ở gần căn lều của bà cụ. Được vài ngày đủ tre để dựng lại căn lều, chúng tôi để hai người lại sửa còn tám người vào rừng đốn tre cho đủ số lượng của mười người. Chúng tôi cũng cắt tranh về để dậm lại những chỗ quá mục nát. Căn nhà sửa xong, có cửa để chui ra chui vào. Bà già khi đó tự động nói chuyện với tụi tôi:

Lão có ba đứa con, một đứa đã có giấy tử sĩ, hai đưa kia thì hoà bình lâu rồi, nhưng lão không hề nhận được một chữ của chúng từ ngày chúng đi… (Hoàng Khởi Phong. “Bên Kia Đèo Bá Thở”. Cây Tùng Trước Bão. Thời Văn: Westminster, CA 2001).

Tôi hy vọng (mỏng manh) rằng có thể vẫn còn đủ thời gian để thêm một bức thư khác nữa, cũng  từ Văn Phòng Thủ Tướng Chính Phủ, đến kịp Bên Kia Đèo Bá Thở. Dù đây chỉ là một bức thư chung, gửi đến hàng vạn người, với chữ ký đã in sẵn chăng nữa – chắc chắn –  nó vẫn được người nhận trang trọng cất giữ mãi cho đến khi nhắm mắt.

–          Cứ thư từ linh tinh khắp nơi như thế (e) nhiêu khê, phiền phức, và tốn giấy mực quá không?

–          Dạ, không đâu. Tôi tin rằng số tiền hơn bốn trăm tỉ đồng (để xây Tượng Đài Mẹ Việt Nam Anh Hùng) không chỉ đủ để gửi thư xin lỗi mà còn có thể gửi thêm cả hài cốt (thật) của rất nhiều người lính đến (vô số) những bà mẹ đang thoi thóp – Bên Kia Đèo Bá Thở.

Còn với hàng trăm ngàn tỉ đã chi cho Vinashin thì (ôi thôi) cả nước –  từ Nam ra Bắc – chắc ai cũng có thể nhận được một lá thư xin lỗi về những chuyện đáng tiếc đã qua vì gia đình có người bị chôn sống trong hồi Tết Mậu Thân, có người bị vùi thây trong trại cải tạo, có người bị chìm nghỉm trong lòng đại dương, hay cả dòng họ tan nát và tứ tán vì những cuộc cải tạo công thương nghiệp…

Những bức thư xin lỗi kể trên, nếu được viết bằng thiện ý và lòng thành – chắc chắn – sẽ tạo dựng lại được ít nhiều niềm tin đã mất (từ lâu) trong lòng người, và làm mờ bớt (phần nào) nào cái nét bất nhân của chế độ hiện hành. Điều đáng tiếc là “thiện ý” cũng như “lòng thành” vốn không hề có trong thâm tâm của những người cộng sản cầm quyền ở Việt Nam, bất kể thế hệ nào.

Tưởng Năng Tiến

NÀY LÀ DÒNG DÕI NHỮNG NGƯỜI TÌM CHÚA

NÀY LÀ DÒNG DÕI NHỮNG NGƯỜI TÌM CHÚA

Anmai, CSsR

Thánh vịnh 24 được chọn làm Thánh Vịnh đáp ca trong Thánh Lễ các Thánh Nam Nữ. Linh mục nhạc sĩ Phêrô Thành Tâm DCCT viết nhạc và lời của Thánh Vịnh này dựa trên ý của Thánh Vịnh thật hay :

Này là dòng dõi những người tìm Chúa,

đây là những người mong bệ kiến Ngài,

một đời lòng ngay không hề gian dối,

giữa bao hận thù luôn sống mến yêu

Chúa làm chủ trái đất cùng muôn vật muôn loài

làm chủ địa cầu cùng toàn thể dân cư

còn nền trái trất Ngài dựng trên biển cả

và đặt vững vàng trên mặt nước bao la …

Dòng dõi những người tìm Chúa mà Thánh Vịnh mô tả sao mà hay quá ! Họ là những người cả cuộc đời đi tìm một mình Thiên Chúa là Chúa, là Cha, là Chủ cuộc đời của họ. Cha, Chúa, Chủ cuộc đời của họ là Tình Yêu và là Chân Lý. Nét đặc trưng hay nói đúng hơn là căn cốt của đời những người này là “một đời lòng ngay không hề gian dối, giữa bao hận thù luôn sống mến yêu”.

Người ta vẫn thường ví von thế gian là cái thế giới mà đầy sự gian dối. Nói như thế cũng có cái lý của họ bởi lẽ giữa cái thế gian này, hình như nhìn đâu đâu cũng thấy sự gian dối, sự gian tà. Gian dối, gian tà đó xuất phát tự ma quỷ.

Thuở ban đầu, lòng con người đẹp tinh tuyền tựa đóa hoa tươi thắm mà Thiên Chúa dệt nên nhưng rồi theo thời gian và với thời gian lòng con người thay đổi bởi ma quỷ và đã chống lại Thiên Chúa. Chính sự gian tà đã làm thay đổi lòng người. Và, từ ngày đó, từ ngày mà Ađam – Eva phạm tội thì tội lỗi đã đi vào trong thế gian, sự gian dối đã đi vào trong cõi đất này. Cũng từ ngày đó, bóng tối tìm cách che lấp ánh sáng và sự hận thù muốn tiêu diệt tình yêu.

Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của mình cho thế gian như thánh Tông Đồ Gioan cảm nghiệm. Tình Yêu Thiên Chúa đã đến thế gian, Thần Chân Lý của Thiên Chúa cũng đã đến trong thế gian để gửi vào thế gian luồng gió mới của tình yêu, của sự thật.

Những người mà cả đời canh cánh đi tìm Thiên Chúa không đi con đường nào khác của con đường chân lý và con đường tình yêu. Những người đó như những người lội ngược dòng của thế giới, của xã hội, của con người trống vắng tình yêu Thiên Chúa và Chân Lý.

Tưởng chừng bóng tối, sự gian ác đè bẹp được ánh sáng và chân lý nhưng vẫn còn đó những con người, những tấm lòng can đảm và kiên trung để sống giữa thế gian này. Số người này không chỉ dừng lại ở một người, một nhóm người như các môn đệ tiên khởi hay của một dân tộc nào đó mà lan rộng khắp toàn cõi đất này. Sách Khải Huyền đã mô tả đoàn người đông đảo đó ở chương 7, câu 9 : “Sau đó, tôi thấy: kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế”

Đoàn người đông vô kể mà sách Khải Huyền nói đó chính là những người đi tìm Con Chiên, đã theo Con Chiên, đã giặt áo mình trong máu của Con Chiên. Đoàn người đông đảo không tài nào đếm nổi đó là các thánh nam nữ của Thiên Chúa. Trong đoàn người đó có thể có ông bà cha mẹ thân bằng quyến thuộc của chúng ta. Những người đó là những người hết sức bình thường nhưng đã sống cái bình thường đó gói gọn trong chân lý và tình yêu.

Nhìn lại một chút của cuộc đời các thánh, chúng ta thấy đậm nét của đoàn người đi tìm Chúa.

Một Stêphanô bị người ta ném đá nhưng đã ngước cao lên Trời và xin Chúa tha cho những người giết hại mình.

Một Maximilianô Kônbê đã can đảm chết thay cho người bạn tù của mình.

Một Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã yêu thương đến cùng trong hoàn cảnh cay nghiệt của người đời cách riêng qua những người sống chung với chị Thánh.

Một Têrêsa Calcutta đã bồng ẵm trên tay những con người nghèo, những con người bị đẩy ra ngoài lề của xã hội để chỉ mong cho họ chết với tư cách là người hơn mà thôi.

Và, một dòng dõi người đông đảo tử đạo trên mảnh đất hình chữ S thân thương này vẫn còn in dấu trong tâm thức của người dân Việt. Dòng người đông đảo này đã “hân hoan khi lao tù, mừng rỡ lúc gươm vung dù thịt tan xương nát” để minh chứng lòng tin và tình yêu của mình vào Thiên Chúa. Triều Thiên Vinh Hiển được gắn trên đầu những con người đã mến yêu trước đau khổ tột cùng của đòn roi, của gươm giáo, của máy chém, của thú dữ. Nếu như họ căm thù, họ oán hận chắc chắn họ sẽ không được triều thiên Tử Đạo mà Thiên Chúa ban cho họ.

Trong dòng người tử đạo đó, họ có khi là quan chức, có khi là thương gia nhưng cũng có khi họ là những người nông dân chân lấm tay bùn hay là những bà mẹ mỏng dòn và non yếu. Họ sống hết sức thường trong cuộc đời nhưng họ đã minh chứng sự thật, minh chứng tình yêu với Đấng mà họ tin theo. Họ là những người cũng mang trong mình cái phận người yếu đuối của mình nhưng khi minh chứng họ đã minh chứng bằng cả cuộc đời của họ, bằng chính thân xác của họ.

Cuộc đời vẫn là một cuộc giằng co giữa thiện và ác, dữ và lành, yêu và hận thù. Khi còn sống, còn thở ta luôn phải đấu tranh mãnh liệt giữa hai ranh giới đó. Không giản đơn để sống sự thật trước mặt nhan nhản những điều gian dối và cũng không đơn giản để sống yêu thương giữa một thế giới còn quá nhiều hận thù bất công.

Khi và chỉ khi sống chân thật và yêu thương như Thầy Chí Thánh thì mới được thừa hưởng gia nghiệp mà Thiên Chúa đã hứa ban. Thật khó để sống bởi lẽ khoảng cách giữa miệng đến tay tuy gần nhưng thật xa. Thật khó sống bởi lẽ khoảng cách giữa nói và làm là một khoảng cách coi chừng trở nên bất tận.

Chợt nhớ đến tâm tình của nhạc sĩ nào đó gởi đến trong tâm tình bài hát : Tình thương nhiệm mầu :

Xin cho con lòng mến thương để dù đời đắng cay trăm chiều,

cho con yêu một Chúa thôi, để đời sẽ hết nỗi đìu hiu.

Cho con mê say tình Ngài, để tình đời chẳng còn vương vấn.

Dâng mạng sống con cho Ngài, luôn sẵn sàng minh chứng cho tình yêu.

Yêu thương là thế đấy, tình yêu ôi đắm đuối nhiệm mầu.

Yêu con, chính vì yêu con, Chúa đã chết trên đồi vắng.

Con xin hy sinh cuộc tình nguyện theo tiếng Chúa mời gọi.

Dầu có lúc sầu héo hon, xin trung kiên theo Chúa suốt cuộc đời.

Vâng ! Tình yêu thật nhiệm mầu ! Nhiệm mầu hơn nữa đó là chính Tình Yêu chết cho người mình yêu mà người mình yêu là người tội lỗi.

Chỉ khi nào ta chận chân ra rằng ta tội lỗi mà ta được tha thứ, ta được yêu thương thì ta mới có thể tha thứ và yêu thương anh chị em thật lòng ta được.

Giữa những nổi trôi của cuộc đời, giữa một xã hội đầy gian ác và hận thù, chỉ xin Chúa nung nấu tình yêu thương và lòng mến trong lòng ta để ta luôn sống : “một đời lòng ngay không hề gian dối, giữa bao hận thù luôn sống mến yêu”. Có như thế thì sau cõi đời này ta cũng có một chỗ trong hàng ngũ của dòng dõi những người tìm Chúa được.

Anmai, CSsR

Khổ nỗi danh xưng

Khổ nỗi danh xưng

Tạp Ghi

huyp021113


Huy Phương

Khoảng năm 1985, khi nhà văn Đỗ Tấn bị bạo bệnh qua đời tại Saigon, tôi là người có nhiệm vụ đi đăng cáo phó cho anh. Lúc bấy giờ trong thành phố đã đổi tên chỉ có một tờ nhật báo của chế độ mới, đó là tờ “Sài Gòn Giải Phóng”. Sau khi xem qua bản cáo phó viết tay của tôi mang đến, chắc là thấy cái tên người chết có vẻ lạ, nhân viên tòa báo trả lại tờ giấy cho tôi và nói:
– “Ông này có ở trong Hội Nhà Văn không và nếu có, cho tôi xem giấy chứng nhận, tôi mới đăng được!”
Tôi đành mang tờ cáo phó ra về. Trong chế độ này tất cả những thứ như Nghệ sĩ Ưu Tú, Nghệ Sĩ Nhân Dân, Nhà Giáo Nhân dân, thậm chí là Anh Hùng cũng phải được “Nhà Nước” phong tặng, có văn bản đàng hoàng, nói chung là Đảng và Nhà nước giành quyền ấn định danh xưng cho nhân dân.
Trong chế độ này, muốn trở thành nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ phải mang giấy chứng nhận có con dấu của đảng, duy chỉ có một cái giấy chứng nhận cần thiết không nghe ai nói đến là giấy chứng nhận làm người.

Chẳng bù với đời sống ở hải ngoại này, ai muốn có danh xưng nào tùy thích chọn lựa, không hề bị ai hạch hỏi. Một người không biết nói, biết hát, biết đàn, biết vẽ, biết làm thơ viết văn… có thể tự nhận mình là… nghệ sĩ.
Một lần, tôi được giới thiệu với một vị cao niên tình cờ gặp trong quán cà phê, vị này nhoài mình về phía tôi và đưa tay bắt, tự giới thiệu:
– “Tôi là nhà thơ XYZ.”
Ở trong cái thành phố nhỏ “đi dăm phút đã về chốn cũ”, bằng cái lỗ mũi này cái tên nhà thơ này thật tình tôi chưa hề nghe. Nghe nói năm ngoái ông có in một tập thơ, tôi nghĩ như vậy tác phẩm, ở hải ngoại này có thể thay giấy chứng nhận của đảng. Ông cũng có tên trong tác phẩm thi ca “1,000 thi sĩ ở Hoa Kỳ” mà mỗi thi sĩ tự đóng tiền, góp ấn phí, để đem về 50 tập thơ bằng tiếng Anh tặng cho bạn bè.

Trong các loại danh xưng, Bác Sĩ được xếp loại cao nhất.
Danh xưng Bác Sĩ phải ghi trước tên là Dr. và sau là MD như “Dr. Trần Văn A, MD.”
cũng như trong trường hợp “Bác Sĩ Nguyễn Văn B, MD.”
Nhiều vị Bác Sĩ dùng tước vị như là một danh xưng ở ngôi thứ nhất. Trong nhiều chương trình quảng cáo cho các phòng mạch y khoa hay sản phụ khoa, chúng ta thường nghe nhiều vị bác sĩ thường dùng tiếng “Bác Sĩ” thay cho tiếng “Tôi” ở ngôi thứ nhất số ít như “Bác sĩ nói cho em nghe… Bác sĩ khuyên bà nên dùng…” Gọi bệnh nhân gọi vào chương trình hội thoại bằng “em” đã khó nghe, dùng danh xưng bác sĩ thay cho “tôi” hay “chúng tôi” là điều chỉ thấy trong cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại.
Trong các tiệm ăn ở gần các bệnh viện, thỉnh thoảng chúng ta thấy nhiều vị bác sĩ, y tá, hoặc nhân viên y tế, mặc đồng phục của bệnh viện ra ăn trưa, nhiều vị bác sĩ còn mang cả ống nghe trên cổ, nghề y quả bận rộn, vất vả!

Danh xưng Giáo Sư nhiều người cho rằng chỉ dùng cho Giáo Sư Đại Học, nhưng thời VNCH, dạy Trung Học đã được gọi là Giáo Sư, vì có ngạch trật là Giáo Sư Trung Học. Hiện nay, người ta dùng danh xưng Giáo Sư quá nhiều, nên rất khó phân biệt là Giáo Sư Trung Học (có bằng Tú Tài II, tốt nghiệp Cao Đẳng Sư Phạm Hà Nội, Đại Học Sư Phạm 3 năm, hay ĐHSP Cấp Tốc 1 năm hay GS Đại Học có bằng Thạc Sĩ, Tiến Sĩ trở lên, có vài ngành chỉ cần có Cử Nhân.
Trong ngôn ngữ Việt Nam, có nhiều nghề được quý trọng và nhân gian thường gọi bằng Thầy như Thầy Địa, Thầy Bói, Thầy Tử Vi, Thầy Bói Dịch, Thầy Tu, Thầy Tụng, Thầy Cúng, Thầy Chùa, Thầy Dùi, Thầy Dạy Nhảy… nhưng nếu diễn nghĩa chữ “Thầy” ra “Giáo Sư” như một vài trường hợp chúng ta thường gặp trên báo chí như Giáo Sư Khiêu Vũ, Giáo Sư Phong Thủy, Giáo Sư Cố Vấn, Giáo Sư Bói Toán nghe khá chướng tai.

Trong các chương trình talk show trên TV, chúng ta thường thấy các danh xưng có vẻ kiêm nhiệm: “Giáo Sư-Nhà Văn”. Hai danh xưng này cái gì quý hay lớn hơn cái kia. Nếu chỉ là một chương trình hội thoại về văn chương, thì nghề giáo sư dạy toán ở trung học không cần thiết phải đưa lên màn ảnh TV hay nhờ xướng ngôn viên giới thiệu về mình. Một bài biên khảo về y học được ký dưới tên một bác sĩ là đúng, nhưng một bài thơ hay một truyện ngắn, mà tác giả cố đem vào trước tên mình cái danh xưng Giáo Sư hay Bác Sĩ là không cần thiết.

Danh từ Viện trong tiếng Hán Viện dùng để chỉ một nơi có tường thành bao bọc như Tu Viện, Viện Hán Học, Kỹ Viện, nhưng ngày nay người ta lạm dụng tiếng Viện dành cho một tiệm uốn tóc chỉ có vài ba người thợ, gọi là Thẩm Mỹ Viện hay Viện Uốn Tóc thật không ổn. Mong rằng rồi đây sẽ không bao giờ có những Viện Sửa Xe Hơi, Viện Dry Clean, Viện Food To Go… ra đời.

Về các cấp bậc trong quân đội trước năm 1975 ở miền Nam, nhiều câu nói khôi hài cho rằng, chúng ta tan hàng nhưng phòng thăng thưởng nhân viên là vẫn còn tồn tại. Bằng chứng là nhiều vị vào lúc tan hàng chỉ mang cấp bậc Đại Úy, nay ra hải ngoại không còn ở quân đội đã 38 năm mà nay vẫn được gọi là Thiếu Tá. Nhiều người chỉ có cấp bậc Trung Tá ngày trước, được thuộc cấp hay bạn bè nịnh hót gọi Đại Tá, lâu ngày nghe quen tai, thay vì một lời cải chính, thì lại “im lặng là nhận lời,” đôi khi tưởng mình là Đại Tá thật.
Nhiều vị lại quá “khiêm nhường” chỉ mới Đại Úy nhưng cho mình xứng đáng mang cấp bậc Thiếu Tá trong các buỗi lễ lược hay tự xưng, với lý do cùng giống nhau là đã có giấy tờ (ai chứng minh) vào những ngày cuối tháng 4-1975 nhưng “chưa kịp gắn lon”, cho nên bây giờ tôi “khiêm tốn” tự gắn cấp bậc mới cho mình.
Đó là chưa nói đến chuyện nhiều vị vẫn thích mặc đồng phục, mang cấp bậc Thiếu Tướng, Đại Tá của một đơn vị không có trong tổ chức của Quân Đội Mỹ cũng như Quân Đội VNCH, kể cả gắn sao lên xe hơi của mình. Đây thật sự là xứ tự do!

Dù là một Phật Tử, thú nhận tôi cũng chưa rành về các danh xưng của Quý Thầy, nên hồi ở TTHL Quang Trung, tôi bị ông Thượng Tọa Trưởng Phòng Tuyên Úy Phật Giáo “cự” vì nhân viên biên tập đã ghi nhầm danh vị của ông là Đại Đức thay vì đúng là Thượng Tọa. Cách đây gần 10 năm, khi viết loạt bài “Chân Dung Một H.O.” cũng vì tưởng lầm Thượng Tọa là danh vị cao nhất (ngồi trên) tôi đã bị Hòa Thượng Hạnh Đạo “mắng yêu”: “Ông Huy Phương, ông hạ chức của Thầy rồi!”

Chúng ta vẫn thường đọc, và nghe trên/trong, những quảng cáo nhiều danh xưng quá nổ và thiếu đức khiêm cung như “Đệ Nhất MC” hay “Lương Y Nguyễn Văn X., chuyên chẩn bệnh, bốc thuốc”… Người đi hát có thể gọi là ca sĩ, nhưng không thể tùy tiện nhận mình là danh ca.

Ở tiệm bán đồ lưu niệm và khắc chữ “Things Remembered” công khắc phải đếm, tính từng chữ một.
Ở bia mộ khi chúng ta qua đời, cũng vậy!

Huy Phương

50 năm sau cái chết của Tổng thống Ngô Đình Diệm

50 năm sau cái chết của Tổng thống Ngô Đình Diệm

Kính Hòa, phóng viên RFA
2013-10-31

Ngo_Dinh_Diem_-_Thumbnail_-_ARC_542189-305.jpg

TT Ngô Đình Diệm tại Washington DC tháng 8 năm 1957.

Courtesy U.S. Air Force

Ngày 1 tháng 11 năm 1963, một nhóm tướng lãnh quân đội Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam Việt Nam thực hiện cuộc đảo chánh làm sụp đổ chế độ của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Kính Hòa hỏi chuyện một số nhân chứng của thời điểm ấy 50 năm sau.

Người lập ra nền đệ nhất cộng hòa

Nửa thế kỷ đã trôi qua từ ngày bùng nổ cuộc đảo chánh của quân đội Việt Nam Cộng Hòa lật đổ vị Tổng thống của nền đệ nhất cộng hòa tại miền nam Việt Nam. Cuộc đảo chánh kết thúc đẫm máu với cái chết của ba anh em gia đình Tổng thống.

Hồi tưởng lại thời điểm 50 năm trước, nhà báo Trần Phong Vũ, vào thời điểm tháng 11 năm 1963 đang dạy học và làm việc tại đài phát thanh Sài Gòn, hiện đã về hưu và sống ở miền Nam California:

“Thế hệ chúng tôi là những người di cư từ miền Bắc vào miền nam vào lúc đã trưởng thành lúc đất nước bị chia đôi, nếu anh theo dõi các cao trào của đám sinh viên di cư từ miền bắc vào rồi được giúp đỡ rất là nhiều để học hành trở lại, rồi về phía quần chúng đượcc ổn định trong một đời sống rất khó khăn khi bỏ hết tài sản ở miền Bắc, với con số cả triệu người. Tôi nghĩ là trong tâm thức của họ là những ý nghĩ rất tốt đối với vị Tổng thống đã lập ra nền đệ nhất cộng hòa ở miền Nam.”

Tổng thống Ngô Đình Diệm gắn bó rất nhiều với cộng đồng Công giáo di cư từ miền Bắc. Một người Công giáo khác là Linh mục Phạm Trung Thành, Giám tỉnh Dòng Chúa cứu thế TP HCM, vào thời điểm của cuộc đảo chánh hãy còn là một thiếu niên hồi tưởng về sự kiện ngày 1tháng 11 năm 1963,

Ngo_Dinh_Diem_at_Washington_-_ARC_542189-250.jpg

TT Ngô Đình Diệm bắt tay với Tổng thống Mỹ Dwight D. Eisenhower, tại sân bay Dulles, Washington DC năm 1957. Courtesy U.S. Air Force.

“Đó là ấn tượng tuổi thơ của tôi, lúc ấy tôi còn nhỏ mới học hết tiểu học. Gia đình rất là kính trọng và quý mến cố Tổng thống Ngô Đình Diệm. Cha tôi là một công chức nhỏ trong chánh quyền. Các ấn tượng của tôi là suốt một thời gia dài chúng tôi rất hòa bình, sung túc và hạnh phúc. Khi nghe tin chế độ đệ nhất Cộng hòa bị sụp đổ, và Tổng thống Ngô Đình Diệm bị giết chết, gia đình chúng tôi rất là đau lòng. Tôi còn nhớ là mẹ tôi cùng với vài chị em quen biết ngồi đọc kinh cho Tổng thống và khóc rất là nhiều. Lúc đó chúng tôi còn thơ trẻ nhưng có một ấn tượng là có một cái gì đó mất mát rất là lớn. Lúc lớn lên tôi cũng cảm nhận được sự mất mát đó. Tôi vẫn nhớ lại thủa sống bình an yên lành, những gì mà cố Tổng thống Ngô Đình Diệm và những cộng sự xây dựng cho miền nam này.”

Sự tiếc thương đó của những người công giáo kéo dài cho đến 50 năm sau. Những buổi lễ tưởng niệm ngày mất của cố Tổng thống được các cộng đồng công giáo hải ngoại tổ chức hàng năm.

Phải tha thứ, phải cảm thông

Song cũng có những tiếng nói khác. Một viên chức cao cấp của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, hiện sống ở Hoa Kỳ, không muốn nêu tên, thì lại nói rằng dù cái gì diễn ra đi nữa thì việc sử dụng Dụ số mười đối với cộng đồng Phật giáo như một sự kỳ thị vào nửa đầu năm 1963 là không thể chấp nhận, trong một quốc gia mà cộng đồng Phật giáo là đa số.

Ai làm gì thì thú thật tôi có đọc, có xem, có nghiên cứu nhưng tâm hồn của tôi thì tôi muốn nói rằng tôi phải tha thứ, phải cảm thông.
-LM Phạm Trung Thành

Ông nói tiếp rằng những tranh cãi nhau về sự kiện này giữa những người Việt không cộng sản với nhau vẫn còn. Nhà báo Trần Phong Vũ nói về việc tranh cãi này:

“Chuyện tranh cãi ấy là có thật. Cái phản ứng đó cũng dễ hiểu thôi. Những người Việt Nam chúng ta không có dữ kiện trong tay một cách đầy đủ, rồi có thiên kiến, rồi cũng có khi do những quan điểm đấu tranh khác nhau mà dẫn tới việc tranh giành mọi thứ về phía mình rồi dẫn tới chuyện tranh cãi.”

Trong khi đó Linh Mục Phạm Trung Thành từ TP HCM nêu ý kiến của ông rằng nên tha thứ:

“Tôi không muốn quan tâm đến ai, hay những nguyên nhân nào đã làm hại Tổng thống. Dưới cái nhìn của một tu sĩ thì tôi cho rằng Tổng thống đã qua một con đường khổ giá cho sự yêu mến giáo hội, đất nước, dân tộc. Còn ai làm gì thì thú thật tôi có đọc, có xem, có nghiên cứu nhưng tâm hồn của tôi thì tôi muốn nói rằng tôi phải tha thứ, phải cảm thông. Tôi không thể có một nhận định nào nặng nề, tiêu cực về phía đó.”

Liệu lớp bụi thời gian 50 năm có làm tan đi được tranh cãi, khoảng cách nửa thế kỷ có làm cho sự cảm thông của Linh Mục Phạm Trung Thành lan tỏa!

Khiêm nhu

Khiêm nhu


Lm Vũđình Tường

10/23/2013

Hai tuần trước Kinh Thánh dẫn dắt con người cầu nguyện bằng tâm tình tạ ơn. Chúng ta luôn phải tạ ơn Thiên Chúa vì những ơn nhận được. Tuần qua Kinh Thánh lại nhắc đến một yếu tố quan trọng trong cầu nguyện nữa đó là kiên tâm bền chí trong cầu nguyện ngay cả khi chúng ta cảm thấy chán nản, mệt mỏi mong chờ nhưng đừng nản chí, cần nhẫn nại, kiên tâm. Hôm nay Kinh Thánh đưa ra một điều cần nữa cho cầu nguyện đó là tâm tình khiêm nhu. Tấm lòng khiêm nhu dẫn chúng ta đến gần Chúa. Lối suy nghĩ hoặc tư tưởng của ta dẫn ta đến gần Chúa hơn hay là dẫn chúng ta xa lìa Thiên Chúa. Ba yếu tố cần có khi cầu nguyện là: tâm tình tạ ơn, kiên tâm trong cầu nguyện và tấm lòng khiêm nhường.

Dụ ngôn người Biệt Phái và người thu thuế cho thấy không phải những lời chúng ta nói nơi cửa miệng mà chính là điều không nói, tâm tư thầm kín, sâu thẳm trong tâm hồn con người mới là điều quan trọng. Đức Kitô xác nhận cảm xúc trong tâm hồn, trong tim ta là điều Ngài quan tâm hơn cả. Thiên Chúa đến ngự trong tấm lòng khiêm nhu, biến tấm lòng đó ra thanh khiết và trở thành đền thờ Thánh Thần Chúa. Điều này chính Đức Trinh Nữ Maria dậy chúng ta khi Mẹ dâng lời tạ ơn trong kinh Magnificat.

Linh hồn tôi ngợi khen Chúa và thần trí tôi vui mừng trong Thiên Chúa Đấng cứu chuộc tôi bởi Người đã nhìn đến tôi tớ hèn mọn.
Người hạ khỏi ngai vàng kẻ tự cao, tự đại và nâng người hèn mọn lên Lc 1,46tt


Khiêm nhu trong tấm lòng là điều Thiên Chúa mon muốn. Dụ ngôn hôm nay chính là nói về cầu nguyện chân thành phải xuất phát tự tâm. Kẻ tự cao, tự đại làm phật lòng Thiên Chúa và làm phiền lòng người khác và đó là điều sai trái, cần tránh. Kiêu căng thường tự đánh giá mình hơn người, tự cho mình hơn người và dẫn đến chối bỏ ơn Chúa trong tâm hồn. Chối bỏ ơn Chúa sẽ sống ngoài tình Chúa yêu thương. Họ không nhận biết khuôn mặt Đức Kitô trong những người anh em khác và họ cũng không chấp nhận giáo huấn căn bản Chúa dậy là mọi người bình đẳng trước mặt Thiên Chúa vì tất cả đều là tạo vật do Chúa tạo thành.

Dụ ngôn cho thấy kẻ kiêu căng không cần Thiên Chúa. Người đó đến trước Thiên Chúa với cái tôi của mình. Nhận ơn Ngài ban nhưng không biết sống tâm tình tạ ơn. Trái lại anh ta cho đó là do tài năng riêng của anh có được. Anh tự kiêu đứng trước thánh điện, nơi trang nghiêm trong đền thờ, đứng thẳng kể ra công lao, thành tích của mình. Đức Kitô cho biết tư tưởng kiêu ngạo, tự cao, tự đại không thể đến gần Thiên Chúa. Trái lại tấm lòng khiêm cung, lời nói chân thành đến tự tâm lọt vào trái tim tràn đầy yêu thương của Thiên Chúa. Trái lại người thu thuế tự nhận mình có tội, sai trái không dám ngẩng mặt lên Thiên Chúa nhưng cúi sâu xuống thống hối, ăn năn. Chính tâm tình này mà Đức Kitô xác nhận lời cầu của anh được Thiên Chúa đón nhận. Anh biết mọi sự anh có đều là ơn Chúa ban và sống tâm tình tạ ơn.

Đức Kitô cảnh cáo chúng ta về kiêu ngạo. Kẻ kiêu ngạo bị hình ảnh kiêu căng làm mờ tầm nhìn và nhận biết sai lầm về tình yêu Chúa cũng như tài năng chính mình. Khiêm nhường là cách sống đẹp lòng Chúa và chính khiêm nhường là cửa ngõ đón Chúa vào trong tâm hồn mình. Người khiêm nhường nhận biết con người bất toàn và xin ơn thứ tha.

Lm Vũđình Tường
TiengChuong.org

VỀ SỰ TIỀN ĐỊNH CỦA Thiên Chúa VÀ VỀ TỘI LỖI CỦA CON NGƯỜI

VỀ SỰ TIỀN ĐỊNH CỦA Thiên Chúa VÀ VỀ TỘI LỖI CỦA CON NGƯỜI

(ĐỐI THOẠI NĂM ĐỨC TIN)

Lm. Đan Vinh

10/30/2013

VẤN ĐÊ 20 A:

Tin có Thiên Chúa sẽ làm cho con người trở nên ỷ nại, chấp nhận hoàn cảnh hiện tại vì tin mọi sự xảy ra đều do Chúa định, mà không cố gắng vượt qua số phận để đạt tới một cuộc sống ấm no hạnh phúc hơn.

GIẢI ĐÁP :

1.Ý nghĩa của hai chữ “Chúa định” là gi ? :

Người Công Giáo thường nói: “Mọi sự đều do Chúa định”. Vậy phải chăng con người không có tự do quyết định vận mệnh của mình ? Phải chăng con người sẽ trở thành nô lệ cho một vị Thiên Chúa độc đoán, và họ chỉ còn biết ỷ nại vào sự định đoạt của Thiên Chúa, mà không có thể vượt qua số phận bất hạnh gặp phải, hầu đạt tới một cuộc sống ấm no hạnh phúc hơn ?

1) Thế nào là “Chúa định”: Chúa định hhông đồng nghĩa với tất định như có người lầm tưởng, mà chỉ có nghĩa là biết trước, thấy trước những gì xảy ra.

Nếu thực sự Thiên Chúa định đoạt tất cả mọi việc lớn nhỏ trong vũ trụ thiên nhiên, định đoạt só phận của nhân loại và cá nhân mỗi người… mà dù muốn dù không chúng ta buộc phải chấp nhận, thì khi ấy con người không khác chi một cái máy vô hồn, hoặc như thú vật hoạt động hoàn tòan theo bản năng hay như một trẻ thơ ấu trĩ chỉ biết hoàn toàn cậy nhờ vào sự bao bọc của cha mẹ… đúng như có người đã chỉ trích nói trên.

Nhưng trong thực tế, ai trong chúng ta cũng đều ý thức về sự tự do của mình: tự do làm hay không làm một việc nào đó, tự do quyết định làm một việc tốt hay làm điều xấu. Ai cũng cảm thấy mình có khả năng làm chủ vận mệnh cuộc đời của mình chứ không phó mặc hoàn toàn cho số phận may rủi. Vậy hai chữ “Chúa định” chỉ có nghĩa là sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngài tạo dựng nên muôn loài muôn vật và hằng quan tâm săn sóc để chúng tồn tại và tiến hóa theo các định luật thiên nhiên như Ngài đã an bài. Thiên Chúa là Đấng sáng tạo ra không gian và thời gian trong vũ trụ, nên Ngài không ở trong không gian và thời gian, cũng không bị lệ thuộc vào không gian thời gian ấy. Nơi Thiên Chúa không có quá khứ hay tương lai, nhưng luôn là hiện tại. Thiên Chúa nhìn thấu suốt mọi sự đã xảy ra trong quá khứ, đang xảy ra trong hiện tại và sắp xảy ra trong tương lai trong một cái nhìn “hic et nunc” (ở đây và bây giờ). Ngài nhìn thấu suốt vận mệnh của nhân loại nói chung và cá nhân mỗi người chúng ta trong một cái nhin. Ngài hằng quan tâm săn sóc, ban ơn giúp đỡ như một người cha yêu thương con cái để ban ơn cứu độ cho họ như thánh Phao-lô đã viết trong thư Ti-mô-thê: Trước hết tôi khuyên ai nấy dâng lời cầu xin khấn nguyện nài van, tạ ơn cho tất cả mọi người, cho vua chúa và tất cả những người cầm quyền, để chúng ta được an cư lạc nghiệp, mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh. Đó là điều tốt và đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1 Tm 2,4). Tuy nhiên, dù muốn cứu độ hết mọi người nhưng Thiên Chúa cũng tôn trọng tự do quyết định làm hay không làm, làm điều tốt hay điều xấu, nên họ phải chịu trách nhiệm về việc làm của họ. Cho nên thánh Au-gút-ti-nô đã nói: “Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta mà không cần sự cộng tác của chúng ta; nhưng Ngài không thể cứu chuộc chúng ta, nếu chúng ta không cộng tác với Ngài”.

2)Thiên Chúa quan phòng tiền định theo sách Tin mừng:

Trong Tin mừng, Đức Giê-su nhiều lần nhắc đi nhắc lại việc Chúa Cha hằng quan tâm săn sóc tất cả mọi tạo vật nhất là loài người là dưỡng tử của Ngài:

a)Thiên Chúa yêu thương săn sóc mọi loài:

-“Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho. Thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao ? Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được, dù chỉ một gang không ? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì ? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: Chúng không làm lụng, không kéo sợi. Thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: Ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em. Ôi những kẻ kém tin !” (Mt 6, 26 – 30).

-“Hai con chim sẻ chỉ bán được một xu phải không ? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em” (Mt 10,29).

-Đức Giê-su đáp: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5,17).

b)Thiên Chúa đặc biệt săn sóc loài người:

-“Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ” (Mt 10,30-31).

-“Như vậy anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,45).

Như vậy, người tín hữu tin “Chúa định” cũng là tin “Chúa biết trước”: Ngài hằng săn sóc mọi loài mọi vật do ngài đã dựng nên, đặc biệt là loài người chúng ta. Một khi tin chắc vào sự quan phòng của Thiên Chúa, người tín hữu sẽ thêm lòng tin cậy mến, thể hiện qua thái độ năng tạ ơn Chúa và cầu xin Ngài ban ơn để được cứu độ.

Tuy nhiên, có người lại đặt vấn đề: Phải chăng tin có Thiên Chúa tiền định, quan phòng biết trước như thế sẽ làm cho con người trở thành ỷ nại, không muốn làm việc để làm chủ thiên nhiên, vượt qua vận mệnh của mình để đạt tới một đời sống ấm no hạnh phúc hơn ?

2.Đức tin không tiêu diệt sự làm việc và ý chí tự do của con người:

Tin vào sự quan phòng, biết trước của Thiên Chúa không những không làm cho con người ỷ nại vào sự sắp xếp của Thiên Chúa, nhưng trái lại, còn thúc đẩy con người cố gắng làm việc nhiều hơn để làm chủ thiên nhiên và làm chủ vận mệnh của mình như sau:

a)Dựa vào Lời Chúa trong Thánh Kinh:

-Con người được tạo dựng khác hẳn mọi loài khác: Mở sách Sáng thế, ta đọc thấy: Thiên Chúa đã ưu đãi con người, chỉ tạo nên con người sau khi đã chuẩn bị sẵn sàng mọi sự: Dựng nên vũ trụ để làm chỗ cho con người trú ẩn; Dựng nên các sinh vật như thảo mộc hoa màu để làm thức ăn nuôi sống và dựng nên muôn thú vật để làm bạn với con người; Vũ trụ và muôn vật phải tuân theo định luật hay bản năng thiên nhiên (Stk chương 1 và 2), đang khi con người được phú cho linh hồn thiêng liêng với hai tài năng là trí khôn suy nghĩ và ý chí tự do vượt trổi mọi loài vật khác: “Chúa phán: Ngươi được ăn mọi thứ cây trong vườn, nhưng cây biết lành biết dữ thì đừng ăn, vì ngày nào ngươi ăn vào thì ngươi sẽ phải chết” (Stk 2,7; 2,16). Con người có trí khôn hiểu biết sự lành sự dữ, đồng thời còn có ý chí tự do quyết định: làm hay không làm, chọn làm lành để được phúc và chọn làm ác sẽ phải chết.

-Các khả năng khác: Ngoài trí khôn và ý muốn nói trên, con người còn được Thiên Chúa ban cho có tay chân với khả năng làm việc hữu hiệu dưới sự điều động của trí khôn hơn mọi loài. Ngài cũng trao cho con người quyền làm bá chủ vũ trụ vạn vật như sách Sáng Thế ghi lại: “Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ: ‘Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất’. Thiên Chúa phán: “Đây Ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ mang hạt giống trên khắp mặt đất, và mọi thứ cây có trái mang hạt giống, để làm lương thực cho các ngươi. Còn đối với mọi dã thú, chim trời và mọi vật bò dưới đất mà có sinh khí, thì Ta ban cho chúng mọi thứ cỏ xanh tươi để làm lương thực. Liền có như vậy” (St 1,28-30).

Qua đó, Thiên Chúa đã sáng tạo vũ trụ vạn vật và đặc biệt ưu đãi đối với con người. Ngài ban cho họ có tay chân và hai tài năng siêu việt là lý trí suy luận và ý chí tự do là nhằm khuyến khích họ hãy làm việc, chứ không khoanh tay ngồi chờ, ỷ nại vào Thiên Chúa, giống như loài thú vật hoạt động theo bản năng, hoặc như vũ trụ vô tri vô giác, hoàn toàn tuân theo các định luật thiên nhiên cách máy móc.

b)Dựa vào sự hợp lý:

Một tín hữu tin có Thiên Chúa, tin rằng sau cuộc sống trần gian hôm nay vẫn còn một cuộc sống khác tồn tại vĩnh hằng… thì chắc chắn ngay từ cuộc sống hiện tại đã phải cố gắng làm việc, phải ăn ở lương thiện hơn những người bất tín, không chấp nhận có Đấng Tạo Hóa sẽ phán xét công minh, cũng không tin có sự thưởng phạt thiên đàng hỏa ngục đời sau… Vì người tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa sẽ có động lực thúc đẩy hăng hái làm việc, có lòng mến yêu và sự ao ước được về với Thiên Chúa sau khi chết, đang khi người vô tín sống không có lý tưởng, hoặc nếu có thì chỉ nhắm những mục đích mang tính vụ lợi ích kỷ… họ chỉ biết làm ra nhiều tiền, rồi lại dùng tiền ấy để thỏa mãn những đam mê lạc thú tầm thường mà thôi.

TÓM LẠI: Tin có Thiên Chúa không những không làm cho con người lười biếng, ỷ nại vào một quyền lực siêu phàm bên ngoài, mà trái lại, chính niềm tin ấy lại là động lực thúc đẩy người tín hữu làm việc nhiều hơn để làm chủ thiên nhiên, và cố gắng sống lương thiện ăn ngay ở lành để hy vọng sẽ được hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa trên thiên đàng đời sau. Trái lại, những người không tin có Thiên Chúa sẽ chỉ biết hưởng thụ, chỉ đi tìm lợi lộc vật chất cho mình dù phải sử dụng phiương thế bất nhân thất đức. Họ sẽ trở thành những kẻ nguy hiểm cho xã hội, vì không tin có sự thưởng phạt đời sau. Na-pô-lê-ông Đại Đế cũng nói tương tự: “Một dân tộc không có niềm tin tôn giáo sẽ phải được cai trị bằng sung đạn, nhà tù và bạo lực !”

PHÚT HỒI TÂM:

-LỜI CHÚA:

Đức Giê-su nói: “Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho. Thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao ? Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được, dù chỉ một gang không ? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì ? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: Chúng không làm lụng, không kéo sợi. Thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: Ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em. Ôi những kẻ kém tin !” (Mt 6,26-30).

-LỜI CẦU:

Lạy Thiên Chúa Cha giàu lòng từ bi thương xót. Cha đã dựng nên muôn vật muôn loài để chuẩn bị trước khi dựng nên loài người chúng con. Cha lại còn an bài để mọi tạo vật có thể tồn tại trong trật tự và ngày một tiến hóa theo thánh ý Cha. Đặc biệt Cha đã thương yêu săn sóc loài người là dưỡng tử của Cha và trao quyền làm chủ mọi loài. Rồi khi nguyên tổ phạm tội phải chịu án chết, Cha lại hứa ban Đấng Cứu Thế là Giê-su Ki-tô. Xin giúp chúng con tin vào Con Cha là Đức Giê-su và noi gương Người sống tình con thảo với Cha và tình huynh đệ với nhau, đồng thời quyết tâm theo con đường “Qua đau khổ vào trong vinh quang” của Người, hầu sau này được về thiên đàng hưởng hạnh phúc đời đời với Người. A-MEN.

LM ĐAN VINH – HHTM

VẤN ĐỀ 20 B:

Không có tội lỗi theo nghĩa tôn giáo. Chỉ có những lỗi lầm đối với xã hội như lười biếng, hèn nhát, ích kỷ… mà thôi.

GIẢI ĐÁP :

1.Thế nào là tội lỗi theo nghĩa tôn giáo ?

Giáo lý Công Giáo dạy rằng: Tội là khi cố tình lỗi giới răn của Thiên Chúa, hay lỗi các điều răn Hội Thánh dạy biểu lộ thánh ý của Thiên Chúa.

Lỗi giới răn Thiên Chúa là tội thực sự vì:

-Là một hành động phản nghịch: một người cố ý không tuân giữ luật lệ của quốc gia có tội với quốc gia thế nào, thì một người cố tình lỗi giới răn Thiên Chúa cũng có tội với Ngài như vậy, vì chống lại thánh ý của Ngài.

-Là một hành vi bất hiếu: cũng như con cái không vâng lời cha mẹ dạy dỗ… là một đứa con bất hiếu thế nào, thì một người cố tình không tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa cũng là đứa con bất hiếu với Ngài như vậy.

2.Những hành vi nào là có tội?

Đức Giê-su đã thâu tóm tất cả mọi giới răn của Thiên Chúa trong hai điều này: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy, là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điểu răn ấy” (Mt 22,37-40).

Do đó, tất cả những hành vi nào cố tình lỗi hai giới răn mến Chúa yêu người nói trên đều có tội: Những lỗi lầm đối với xã hội như: lười biếng, hèn nhát, ích kỷ, gian dối bất công… là những tội lỗi giới răn “yêu người thân cận như chính mình”, nên đều có tội và đáng bị trừng phạt. Tuy nhiên, cả những tội bất hiếu với Thiên Chúa, cố tình nhắm mắt bịt tai để khỏi nhận biết những kỳ công của Ngài mà tin thờ Ngài cũng là tội bất hiếu nặng nề nữa. Đến ngày tận thế, khi mọi người được sống lại và chịu phán xét chung, những người cố tình không tin sẽ không tránh khỏi hình phạt cân xứng với tội cứng lòng của họ như lời Đức Giê-su nói với các người Pha-ri-sêu trong Đền thờ rằng: “Các ông chớ ngạc nhiên về điều này vì “Giờ” đã đến. “Giờ” mọi kẻ ở trong mồ sẽ nghe tiếng người Con và sẽ ra khỏi đó. Ai đã làm điều lành thì sẽ sống lại để được sống. Ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án” (Ga 5,28–29).

Đức Giê-su cũng cảnh báo về các hình phạt những kẻ cứng lòng tin sẽ phải chịu như sau: “Tôi đã nói với các ông là: các ông sẽ mang tội lỗi mình mà chết. Thật vậy, nếu các ông không tin là Tôi Hằng Hữu, các ông sẽ mang tội lỗi mình mà chết” (Ga 8,24). Chết ở đây là cái chết do bị mất ơn cứu độ và phải chịu hình phạt đời đời trong hỏa ngục, chung số phận với ma quỷ như Đức Giê-su sẽ phán với những kẻ ở bên trái rằng: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta, mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó” (Mt 25,41).

PHÚT HỒI TÂM:

LỜI CHÚA:

Chúa Giê-su nói: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được. Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho, và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi” (Ga 15,5-6).

LỜI CẦU:

Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã nói rằng: “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy, để niềm vui của Thầy ở trong anh em, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn”. Xin mở lượng hải hà xoá bỏ các tội của con. Xin tạo cho con quả tim trong sạch và gìn giữ con đừng cố tình phạm tội, để tâm hồn con luôn thanh sạch, hầu xứng đáng là đền thờ của Thiên Chúa và luôn được ở trong tình thương của Ngài. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời. A-MEN.

LM ĐAN VINH – HHTM

Tất Cả Là Hồng Ân.

Tất Cả Là Hồng Ân.

Giuse Thẩm Nguyễn

Khi nghĩ về những hồng ân, người đời thường nghĩ về những điều phúc, điều lành, chứ không ai coi cái họa, cái xui là hồng ân cả. Tuy nhiên, câu thành ngữ : “tái ông thất mã, an tri họa phúc”, có nghĩa là “ông lão ở biên giới mất ngựa, biết đâu là họa hay là phúc” thì chứng tỏ phúc hay hoạ là do chúng ta thôi.

Chuyện Tái Ông Mất Ngựa trong sách Hoài Nam Tử như thế này: Ông lão ở nước Hồ bị mất một con ngựa, tưởng là xui. Ai ngờ vài tháng sau, con ngựa kéo thêm cho ông con ngựa khác, tưởng là phúc. Có ngựa nên con trai ông cưỡi ngựa bị gãy chân, tưởng là hoạ. Bị gẫy chân nên con trai của ông được miễn đi lính, tưởng là phúc….

Cái vòng luẩn quẩn phúc và họa ấy sẽ chấm dứt khi con người chết.Chết là hết chuyện. Thật vậy đối với đời sống con người cái chết là kết thúc mọi chuyện. Dù khi sống người ấy có là ông này bà kia, có giàu sang phú quý, hay nghèo hèn thế nào thì chết cũng là hết. Bởi thế không bản án nào nặng bằng bản án tử hình, tức là cướp đi sự sống của một người. Nói một cách khác, sự sống là món quà quý nhất mà Thiên Chúa ban tặng cho con người.

Chết quả là sự cay đắng cho những ai chỉ cậy dựa và muốn hưởng thụ thế gian này, nhưng chết đối với người tin Chúa thì lại là niềm hy vọng được trở về hưởng Tôn Nhan Thiên Chúa, Đấng đã tạo ra mình.

Đối với đức tin Công Giáo, thì sống cũng là hồng ân mà chết cũng là hồng ân, nếu cái chết ấy được chuẩn bị chu đáo để sẵn sàng về hưởng Tôn Nhan Chúa. Thánh Phaolô quan niệm sự sống và sự chết của Ngài như thế này “Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi “. (Pl 1,21

Theo quan niệm nhân gian, thì điều gì mình thích thì gọi là phúc, điều gì mình không thích thì gọi là họa. Sống thọ, có sức khỏe tốt, được người ta kính trọng, được giàu có thì ta gọi là phúc (hên). Ngược lại chết chóc, bệnh tật, bị hiểu lầm, bị nghèo đói thì gọi là họa (xui).

Cho nên trong các lời rao đầu lễ Chúa Nhật, tôi thường nghe thấy những lễ xin tạ ơn như được khỏi bệnh, được thăng chức, được thi đỗ, được có việc làm, được bằng an.. chẳng bao giờ tôi nghe thấy xin lễ tạ ơn vì đã bị bệnh, đã bị hiểu lầm, đã thất nghiệp, đã bị đau khổ… mà thực ra những điều chúng ta không thích cũng là hồng ân Chúa ban để giúp ta đến gần Chúa.

Suy tư về điều phúc và họa, tôi giật mình khi thấy đã bao lần tôi cất tiếng trong nhà thờ đọc kinh ‘Tám Mối Phúc Thật” mà chẳng ý thức về những điều Hội Thánh dạy.

Phúc thay người có tâm hồn nghèo khó, người hiền lành, người sầu khổ, người đói khát sự công chính, người từ tâm, người có tâm hồn trong sạch, người kiến tạo hòa bình, người bị bách hại vì sự công chính, người bị xỉ nhục, bị bắt bớ, bị nói xấu, bị đặt điều vì Danh Chúa.

Tôi không biết có bao nhiều người hiện diện trong nhà thờ cầu mong những điều phúc này. Toàn là những điều mà thế gian gọi là tai họa, thế mà những người Công Giáo đích thực lại cho là có phúc?

Cái phúc ở đây ,theo người tin Chúa, là những cơ hội dẫn đưa ta về với Chúa là hạnh phúc cùng đích của đời sống. Sống không phải chỉ là sống mà là chuẩn bị cho sự sống bất diệt sung mãn cùng với Chúa Yêu Thương trong nước của Người.

Lần tìm trong Sách Giáo Lý Công Giáo, tôi được hiểu thêm: “Những phúc thật này vẽ lên khuôn mặt Chúa Kitô và mô tả đức bác ái của Người. ..Các phúc thật là những lời hứa nghịch lý để nâng đỡ niềm hy vọng trong những lúc gian truân, loan báo nhưng phúc lành và những phần thưởng mà các môn đệ của Chúa đã âm thầm đạt được.” (GLCG, câu 1717)

Người đời cho rằng trúng xổ số là có phúc, vậy mà theo báo Houston, ông Bille đã tự tử vì những đồng tiền từ trên trời rớt xuống ấy. Phóng viên Steve viết trong báo Houston rằng: ông Bille Bod Harrel Jr đã trúng 31 triệu dollars độc đắc bang Texas. Lúc đầu mọi sự đều tuyệt vời…Ông dùng tiền mua nhà, xe, làm từ thiện. Ông có thêm rất nhiều bạn… nhưng chỉ 20 tháng sau, gia đình ông tan tác, ông bị vỡ nợ và đã tự tử. (From A Treasury of Terribly sad Stories of Lotto Winners)

Có ai khổ cực trăm bề bằng những người Công Giáo bị bắt đạo thời xa xưa. Họ bị hành hạ thể xác, hành hạ về tinh thần và phải chịu chết một cách dã man. Thế mà đối với chúng ta, các Ngài đã được phúc tử đạo.

Tôi đã nghe và rất thích bài hát “ Tất Cả Là Hồng Ân”, tác giả cho rằng có những biến cố chúng ta cho là phúc, có những điều khác chúng ta cho là họa thì đối với Thiên Chúa Tất Cả Là Hồng Ân.

Những phúc/họa này có mục đích hướng chúng ta nhận biết sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời mình và giúp chúng ta yêu mến Chúa nhiều hơn, giúp chúng ta đạt được mục đích đầu tiên khi được sinh ra trong cõi đời này là “ thờ phượng và yêu mến Chúa”. Như thế trong đời sống đức tin Công Giáo không có gì là họa, mà tất cả là hồng ân. Chúng ta phải cảm tạ Chúa về mọi hồng ân Chúa ban cho mình.

Một bài thánh ca khác “ Khúc Ca Tạ Ơn”, tác giả cho rằng cuộc đời chúng ta được dệt bằng những niềm vui hân hoan hoà lẫn với những nỗi buồn da diết, những phút cười vui an bình pha lẫn những thử thách, long đong. Tất cả dệt thành Khúc Ca Tạ Ơn.

Nếu đời của chúng ta găp toàn chuyện may lành, thì chúng ta không biết giá trị của đau khổ, ngược lại nếu đời toàn là đắng cay thì cuộc sống chưa trọn vẹn. Một bức tranh đẹp do người hoạ sĩ tài ba là Chúa Giêsu vẽ lên cho đời ta phải điểm muôn màu muôn sắc. Tạ ơn Chúa vì chính Ngài đã dùng những nét chấm phá phúc-họa để vẽ lên con giống Chúa hơn.

Chúa đã dẫn tôi qua mọi biến cố của cuộc đời. Chúa đã cho tôi được gia nhập đạo Thánh Chúa khi vừa chào đời, Chúa đồng hành với tôi qua những tháng ngày tăm tối trong trại cải tạo, Chúa vui với tôi qua những tháng ngày bơ vơ nơi xứ người và Chúa nâng đỡ, kề cận tôi trong lúc tuổi già. Tôi đã phó thác trong tin tưởng để bước đi theo Chúa. Con đường quanh co, lúc thì phúc, lúc thì họa là con đường “Thánh Ý Chúa”.

Lạy Chúa, con đường phúc-hoạ nào Chúa đã đi qua, xin cho con được bước đi theo Ngài. Xin dạy con nhận ra sự hiện diện và hướng dẫn của Chúa qua những biến cố trong đời con. Xin cho con biết chấp nhận để kiên trì vác thánh giá theo chân Chúa suốt đời con vì có Chúa thì “ Tất Cả Là Hồng Ân “. Amen.

Giuse Thẩm Nguyễn

Vatican tiến hành cuộc thăm dò ý kiến trên tòan thế giới

Vatican tiến hành cuộc thăm dò ý kiến trên tòan thế giới

Nguyễn Long Thao

11/2/2013

NEW YORK – Tòa Thánh Vatican sẽ tiến hành một cuộc thăm dò ý kiến trên toàn thế giới về một số vấn đề nhạy cảm như: thuốc ngừa thai, vấn đề vợ chồng ly dị, hôn nhân đồng tính. Mục đích của cuộc thăm dò dư luận là để cung cấp dữ liệu cho cuộc họp quan trọng về gia đình mà Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ triệu tập vào năm 2014.

Cơ quan thông tấn The National Catholic Reporter, một cơ quan truyền thông độc lập có trụ sở tại Hoa Kỳ, đã công bố tin này vào ngày thứ Năm 31 tháng 10 năm 2013. Đồng thời bà Helen Osman, phát ngôn nhân của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ tại Washington đã xác nhận tin về cuộc thăm dò dư luận của Tòa Thánh với hãng thông tấn AP (The Associated Press). Hội đồng Giám Mục Anh đã công bố bản thăm dò dư luận này trên mạng lưới điện tử để giáo dân trả lời

Theo tin, đức Tổng Giám Mục Lorenzo Baldisseri sẽ là điều hợp viên cho cuộc thăm dò dư luận này. Bảng câu hỏi để thăm dò dư luận đã được Tòa Thánh gửi tới các Hội Đồng Giám Mục vào trung tuần tháng 10 năm 2013. Theo yêu cầu của Tòa Thánh, bản câu hỏi cần được phổ biến rộng rãi tới từng giáo hạt, giáo xứ trong địa phận để thu thập ý kiến của giáo dân càng nhiều càng tốt.

Bản thăm dò có tất cả 39 câu hỏi,trong số này có những câu như:

Hôn nhân đồng tính có được chấp nhận trong đất nước của qúy vị không?

Các Linh mục đã cung ứng mục vụ thế nào cho các cặp đồng tính?

Giáo Hội qúy vị đã đáp ứng thế nào khi cặp hôn nhân đồng tính muốn được học hỏi tôn giáo hay muốn cho con cái được rước lễ ?.

Bản phỏng vấn cũng hỏi vấn đề lòng thương xót Chúa đã được tuyên bố như thế nào đối với các cặp vợ chồng ly dị hay tái hôn?

Vấn đề cung ứng mục vụ cho các cặp không kết hôn nhưng sống chung với nhau như thế nào?

Bản điều tra cũng hỏi người tín hữu xem có tin vào giáo huấn của Giáo Hội trong vấn đề ngừa thai nhân tạo?

Kết quả cuộc thăm dò dư luận sẽ là khung sườn cho nghị trình cuộc họp của các vị Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục trên toàn thế giới họp tại Roma vào năm 2014 để bàn về vấn đề gia đình.

Giới quan sát tại Vatican bình luận rằng, cuộc thăm dò dư luận lần này của Tòa Thánh có tính cách mạng, vô tiền khoáng hậu, vì từ trước các chính sách đưa ra đều từ trên xuống dưới, nhưng lần này, chính sách mục vụ gia đình của Tòa Thánh Vatican đã có căn bản từ dưới lên trên.

Nguyễn Long Thao

NGƯỢC DÒNG…

NGƯỢC DÒNG…

Hoa viên vng ngt bun tênh,
Bâng khuâng nh
bước lênh đênh ni bun,
Ng
ược dòng d vãng l tuôn,
Nh
sao là nh tiếng chuông Đc Bà,
Bây gi
mi tht xót xa,
Sài Gòn hoa l
ngc ngà nay đâu,
Duy Tân trút lá me s
u,
Công tr
ường quyn khói chìm sâu gót hài,
L
i xưa đng mi ưu hoài,
Lung linh s
i nng loay hoay góc đường,
Cà phê gi
t đng ngát hương,
Riêng ta th
n thc su vương bn mùa….!!!!!

Liverpool.2/11/2013.
Song Nh
ư.

‘Cậu Thủy’ và ‘Cậu Hồ’

‘Cậu Thủy’ và ‘Cậu Hồ’

Ngân hàng Chính sách Xã hội cũng đã nhờ 'cậu Thủy' tìm kiếm hài cốt và mồ mả của các liệt sĩ.

Ngân hàng Chính sách Xã hội cũng đã nhờ ‘cậu Thủy’ tìm kiếm hài cốt và mồ mả của các liệt sĩ.

Nguyễn Hưng Quốc

31.10.2013

Hằng ngày, tôi vẫn vào các tờ báo mạng ở trong nước, từ lề phải đến lề trái, để đọc tin. Có điều, hầu như chưa bao giờ tôi mở các bản tin về những chuyện như “tâm linh” hay “ngoại cảm”. Với tôi, chúng đều thuộc loại nhảm nhí, không đáng mất thì giờ: vô ích, hơn nữa, còn có thể gây cảm giác bức bối khó chịu: vô duyên. Vậy mà, tình cờ, sáng nay, một người bạn lại hỏi tôi về “Cậu Thủy”. Tôi ngơ ngác, không biết gì cả. Anh mới kể vắn tắt về các “thành tích” của “cậu”. Thấy thú vị, về nhà, tôi vào internet để… làm quen với “cậu”.

“Cậu” tên thật là Nguyễn Văn Thúy, quê ở thị trấn Chờ, Yên Phong, Bắc Ninh, sinh năm 1959, năm nay 54 tuổi. Trước, “cậu” làm công an; sau, không biết vì lý do gì, “cậu” về làm dân. Quen thói cũ, làm dân, “cậu” cũng không chịu sống một cách lương thiện: Cậu tàng trữ vũ khí quân dụng và lừa đảo hết người này đến người khác. “Cậu” và vợ “cậu” bị bắt và ở tù hơn 10 năm. Được thả về, mấy năm sau, “cậu” bỗng nổi tiếng là một nhà ngoại cảm xuất sắc và càng ngày càng giàu.

Cái giàu của “cậu” có thể nhìn thấy ngay ở ngôi nhà “cậu” ở: Nhà ba tầng, xây theo kiểu biệt thự, trên nóc có hai con rồng chầu; trước cổng, có hai bức tượng sư tử bằng đá trắng lớn sừng sững rất uy nghi. Trong nhà, nghe nói, các vật dụng đều thuộc loại đắt tiền.

Tiền ấy từ đâu ra?

Trước hết là từ khách hàng của cậu, những người muốn tìm hài cốt hoặc mồ mả của thân nhân. Suốt mấy chục năm chiến tranh, số người chết mà không tìm thấy xác hoặc xác bị vùi vội vã đâu đó trong rừng hoặc trên đồng hoang khá nhiều. Sau chiến tranh, một số người bị tù hoặc bị cải tạo chết và bị lấp dối giá đâu đó dưới lớp đất nông cũng không ít. Thân nhân những kẻ bất hạnh ấy không ngừng tìm kiếm. Cách tìm kiếm được báo chí trong nước quảng cáo nhiều nhất là nhờ các nhà ngoại cảm, trong đó, có “Cậu Thủy”.

Nghe nói khách hàng của “cậu” đông đến độ, lúc nào cũng nườm nượp; nhiều người, muốn gặp cậu, phải ăn chực nằm chờ trước nhà “cậu” cả đến mấy ngày trời. Khi gặp, “cậu” yêu cầu ghi tên người chết muốn tìm để “cậu” gọi âm binh tìm kiếm hoặc nhờ “Mẫu” chỉ giúp.  Sau khi đã được “âm binh” báo cáo, “cậu” cho thuê xe chở gia đình khách hàng đi tìm mộ. Toàn bộ chi phí xe cộ và tài xế cho chuyến đi, khách hàng phải trả, khoảng năm bảy chục triệu. Cuối cùng, sau khi tìm được mộ thân nhân rồi, khách lại phải “hậu tạ” cho “cậu” một số tiền nữa. Nói chung, theo dư luận, muốn đến gặp “cậu”, người ta phải chuẩn bị ít nhất là 150 triệu đồng!

Thứ hai, một số cơ quan nhà nước cũng nhờ “cậu”, trong đó, được đề cập đến nhiều nhất là Ngân hàng Chính sách Xã hội. Cơ quan này đã nhờ “cậu Thủy” tìm kiếm hài cốt và mồ mả của các liệt sĩ. Dĩ nhiên là “cậu” làm được ngay. Tổng cộng, “cậu” tìm được 105 bộ hài cốt; mỗi bộ, được trả 75 triệu đồng; như vậy, “cậu” bỏ túi cả thảy được 7.9 tỉ đồng (khoảng gần 400.000 đô la). Các hài cốt được “cậu” tìm, sau đó, được mang về cải táng trong Nghĩa trang liệt sĩ các tỉnh một cách long trọng để mọi người thấy rõ là đảng và chính phủ không hề quên ơn những người con đã hy sinh thân mình cho… cách mạng!

Nhưng mới đây, một số nhà báo, sau nhiều năm âm thầm điều tra, đã tiết lộ một sự thật khủng khiếp: những cái gọi là hài cốt ấy chỉ là xương heo hay xương bò mà “cậu” Thủy đã thuê người chôn sẵn. Chưa hết. “Cậu” còn khôn ngoan chôn theo một số bình tông (“bidon”, bình đựng nước) có khắc tên nguệch ngoạc cũng như một số đôi dép cao su. Có điều phần lớn các bình tông cũng như dép cao su ấy còn khá mới. Nhưng không sao. Ngân hàng Chính sách Xã hội vẫn nhắm mắt trả tiền cho “cậu”. Miễn là có cái xương nào đó mang về cải táng trong Nghĩa trang liệt sĩ để thân nhân của họ an tâm và đồng bào khắp nơi đến thắp nhang kính vái!

Trước những sự thật được vạch trần không thể chối cãi được đó, ngày 28 tháng 10 vừa qua, công an đã đến còng tay “cậu Thủy”. Những ngày sau đó, báo chí khắp nơi nhao nhao chửi bới “cậu” là nhà ngoại cảm dỏm (ý là có những “nhà ngoại cảm” thật?).

Riêng tôi, đọc, tôi lại thấy thương “cậu”. Đương nhiên là “cậu” có lỗi, trước hết và chủ yếu là có lỗi với thân nhân những người đã chết. Những người ấy chắc phải thương bố/mẹ/chồng/vợ/con của mình lắm nên trong bao nhiêu năm không ngừng tìm kiếm; đến khi cầm được bộ xương heo/bò ngỡ là hài cốt của người thân, hẳn họ mừng rỡ vô cùng. Đến lúc nhận ra được sự thật, không biết họ sẽ đau đớn đến độ nào? Nhưng dù vậy, tôi vẫn thương “Cậu Thủy” vì, nghĩ cho cùng, tội của “cậu” cũng chả có gì đặc biệt.
Ở Việt Nam, trong thế kỷ 20 vừa qua, có một “nhà ngoại cảm” khác lừa dối nhiều người và nhận được nhiều tiền thưởng bất chính hơn “cậu Thủy” nhiều: Đó là “Cậu Hồ”.

“Cậu Hồ” cũng có tài sai khiến rất nhiều âm binh. “Cậu” cũng có “Mẫu” chỉ vẽ từng đường đi nước bước. “Cậu” cũng đem nhiều xương heo, xương bò, xương chó… ra lừa dân chúng để mọi người tin đó là thánh tích hay xá lợi của các bậc thần linh rồi sì sụp cúi lạy. “Cậu Thủy” chỉ làm 105 bộ hài cốt liệt sĩ giả; “cậu Hồ” chế tạo không những hài cốt liệt sĩ giả mà cả hài cốt quốc tổ giả và thần thánh giả; không những chỉ quy tập trong các nghĩa trang mà còn dựng sừng sững trong các cung điện, lâu đài, dinh này phủ nọ hết sức lộng lẫy và nguy nga. Nhiều bộ xương đến bây giờ vẫn còn ngọ nguậy và phóng uế tùm lum. “Cậu Thủy” chỉ lừa được một dùm người trong có sáu năm; “Cậu Hồ” thì lừa được cả thiên hạ trong gần một thế kỷ.

“Cậu” nào cũng dỏm. Nhưng nghĩ cho cùng, so với “cậu Hồ”, “cậu Thủy” chỉ là một thằng nhóc khôn lỏi. Có gì mà phải làm ầm ĩ chứ? Thôi, tha cho “cậu” ấy đi mấy bạn công an ạ.
Đồng môn và đồng chí với nhau cả mà.

Có phải công chức nhiều làm túi tiền quốc gia eo hẹp?

Có phải công chức nhiều làm túi tiền quốc gia eo hẹp?

Vũ Hoàng, phóng viên RFA
2013-10-31

cong-chuc-305

Đợt thi tuyển công chức trực tuyến đầu tiên do Bộ Nội Vụ tổ chức hồi tháng 1 năm 2013.

Courtesy TPO

Cùng với ngân sách Chính phủ gặp nhiều khó khăn, cân đối thu chi căng thẳng, dù kiến nghị giảm lương 100.000 đồng đối với mỗi cán bộ công chức đã bị Thủ tướng bác bỏ, song ít nhiều những động thái này cho thấy túi tiền quốc gia đang nhiều eo hẹp, trong đó, nhân tố gánh nặng công chức khiến nhiều người lo lắng.

Dư 30% số công chức

Với nhận định của Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cách đây không lâu: “có tới 30% số công chức không có cũng được, bởi họ làm việc theo kiểu sáng cắp ô đi, tối cắp ô về không mang lại bất cứ thứ hiệu quả công việc nào”, đã ít nhiều cho thấy thực trạng cồng kềnh và trì trệ của giới công chức Việt Nam. Nếu đối chiếu con số này với một phân tích khác của nguyên Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Vũ Đức Đam rằng: “cứ hình dung nếu ngân sách thu 100 đồng…có 65% chi cho thường xuyên, trong số này khoảng một nửa là chi lương cho công chức, viên chức”, thì mới thấy một lượng ngân sách nhà nước đã bị lãng phí ra sao.

Hãy khoan bàn tới các con số cụ thể của từng bộ ngành hay các cấp tỉnh thành, tính đến hết năm 2012, Việt Nam có trên 2,2 triệu công chức viên. Theo khái niệm của Luật cán bộ, họ là các đối tượng thuộc cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị hay xã hội làm việc trên khắp 63 tỉnh thành Việt Nam.

” Bây giờ người ta nói nhiều đến chuyện tinh giản biên chế, nhưng sẽ dẫn đến những khó khăn trong việc sửa luật, nghị định rồi thông tư, điều này rất là khó.
-TS Vũ Ngọc Xuân”

Vẫn biết mọi so sánh là khập khiễng, nhưng thử làm một phép tính: Hoa Kỳ có trên 310 triệu dân, số công viên chức quản lý khoảng 2,2 triệu người, trong khi Việt Nam có dân số chưa bằng 1/3 nhưng số công viên chức cũng xấp xỉ, chưa kể xét về địa lý Việt Nam lại nhỏ chưa bằng 1/10 Hoa Kỳ… Những con số biết nói này cho thấy Việt Nam đang gặp một trở ngại lớn về hiệu quả làm việc của đội ngũ công chức… phải chăng túi tiền quốc gia eo hẹp vì lượng công chức quá đông, quá nhiều? Câu hỏi này của dư luận hẳn không phải là không có cơ sở.

Giải thích về hiện tượng trên, T.S Vũ Ngọc Xuân, giảng viên chính khoa Kinh tế, trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho chúng tôi biết:

“Về mặt thể chế Việt Nam có mô hình giống với Trung Quốc, công chức viên chức mang tính chất là gắn bó suốt cuộc đời. Cho nên thu nhập của công chức ở Việt Nam thấp, một mặt là do cơ chế của Việt Nam là kinh tế thị trường nhưng định hướng xã hội chủ nghĩa. Về yếu tố con người, để sa thải người lao động thì luật pháp không cho phép mặc dù có một số trường hợp nhưng rất khó để vận dụng. Vì thế, bây giờ người ta nói nhiều đến chuyện tinh giản biên chế, nhưng sẽ dẫn đến những khó khăn trong việc sửa luật, nghị định rồi thông tư, điều này rất là khó.”

cong-chuc-1-250

Công chức làm việc trong một cơ quan hành chính công ở Đà Nẵng, ảnh minh họa chụp trước đây. Courtesy LĐ.

Vấn đề mà T.S Vũ Ngọc Xuân phân tích chính do cơ chế và luật định của “định hướng xã hội chủ nghĩa” là những rào cản khiến việc sa thải công chức tại Việt Nam không dễ dàng… chưa kể những chuyện chưa nói ra ai cũng biết là một lượng lớn thành phần này lại nằm ở những vị trí được xem là “dễ chấm mút,” là con ông cháu cha hay có các mối quan hệ chằng chịt với giới lãnh đạo… vì thế không phải ngẫu nhiên mà bản thân Chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng từng thừa nhận “chạy này, chạy kia… khâu nào cũng có.”

Để có góc nhìn của người trong cuộc, chúng tôi trao đổi với ông Trương Văn Quảng, một cán bộ phụ trách nhân sự ở một bộ tại Hà Nội, ông cho biết còn rất nhiều bất cập không chỉ ở khâu cuối sa thải, mà bắt nguồn ngay từ khâu đầu vào tuyển dụng công chức ở Việt Nam:

“Khi tuyển dụng những người mới vào làm thì năng lực còn hạn chế, chưa có kinh nghiệm… nhưng do mối quan hệ cấp trên cấp dưới, do chạy chọt hay nể nang nhau nhưng cứ tuyển người vào làm, nên hiệu quả công việc trong quá trình triển khai thực tế gặp rất nhiều khó khăn, nên không đáp ứng được nhu cầu công việc. Có bức xúc trong vấn đề tuyển dụng cán bộ ngay từ khâu đầu vào.

Đáng lẽ giải quyết công việc nhanh gọn nhưng do cơ chế, chính sách văn bản chồng chéo, thủ tục hành chính cồng kềnh, số lượng người ngồi chơi xơi nước hơi bị nhiều, điều đó làm cản trở công việc.”

Làm ít, thưởng nhiều

Không chỉ những đối tượng được cho là “ngồi chơi xơi nước hơi bị nhiều” mà điểm đáng chú ý là khi có chế độ khen thưởng, tăng lương hay nhận hưởng các quyền lợi thì thường những cán bộ công chức này lại đứng đầu danh sách xét duyệt, ông Quảng cho biết tiếp:

” Vấn đề tăng lương hay sắp xếp tổ chức công việc gặp nhiều khó khăn bởi do những quan hệ cấp trên cấp dưới, nể nang đâm ra không đi thẳng vào năng lực cán bộ.
-Ô. Trương Văn Quảng”

“Khi họ đã làm việc thì vấn đề tăng lương hay sắp xếp tổ chức công việc gặp nhiều khó khăn bởi do những quan hệ cấp trên cấp dưới, nể nang đâm ra không đi thẳng vào năng lực cán bộ, đây là thực trạng trong bộ máy hành chính sự nghiệp của các bộ ngành hay thành phố hay các cơ sở của các tỉnh.”

Ngoài ra, ông Quảng còn cho biết thêm rằng, bởi nhiều khi trình độ của người quản lý có hạn, họ cần nhận vào tổ chức mình những thành phần “tay chân” để coi như có những người hậu thuẫn anh em, luôn đứng ra ủng hộ mỗi khi bầu cử, bỏ phiếu… Nghiễm nhiên thành phần đó là những kẻ ngồi chơi xơi nước, đi muộn về sớm, ăn cắp giờ công, đến nơi làm việc chỉ để lên mạng mua sắm, facebook, hết giờ về đi nhậu… phải chăng vì thế Việt Nam nghèo nhưng tỉ lệ người dùng internet thuộc diện cao nhất trên thế giới? và Việt Nam cũng trở thành quốc gia tiêu thụ hàng đầu thế giới 2,6 tỉ lít bia mỗi năm?

Nếu nhìn vào gốc gác vấn đề, những đối tượng cán bộ công chức là những người hưởng lương từ ngân sách nhà nước, mà ngân sách nhà nước là tiền thuế của dân. Quay lại chuyện 30% công chức “sáng cắp ô đi tối cắp ô về” nghĩa rằng chúng ta đang có chừng hơn 700.000 cán bộ dôi dư, nhân với con số trung bình 2 triệu đồng/ tháng, nghĩa là, mỗi năm Việt Nam lãng phí khoảng 17.000 tỷ đồng để chi trả cho bộ máy công chức nhà nước.

Số tiền này được chắt chiu từ mồ hôi công sức của những người nông dân chân lấm tay bùn, bán mặt cho đất bán lưng cho trời, của những người công nhân vất vả trong các xưởng may nóng nực…họ đóng thuế để cho những công chức ngồi hưởng thụ trong các phòng điều hòa mát lạnh. Phải chăng nỗi nhức nhối cho vấn đề bội chi ngân sách hay túi tiền quốc gia eo hẹp mà Quốc hội đang đau đầu đã có lời giải đáp?

Hẳn câu hỏi mà quý vị đang đặt ra là làm sao để loại bỏ những thành phần “ăn cơm chúa múa tối ngày”này! Chắc chắn không dễ dàng, bởi họ đã có một hệ thống dày đặc những văn bản pháp lý đứng ra bảo vệ, họ có một lớp quan hệ thần thế đứng ra bao bọc. Chỉ khi nào cái tâm của nhà quản lý, của các cấp lãnh đạo thực sự nghĩ đến lợi ích chung của toàn xã hội thì việc chọn lọc và loại bỏ những đối tượng trên mới có thể trở thành sự thật…

Sự Sống Bất Diệt

Sự Sống Bất Diệt

 

Hôm ấy, một hoàng tử nọ và ba vị cận thần lên đường kinh lý kiểm tra đất nước rộng lớn của vua cha.  Khi tới trên đỉnh núi cao, hoàng tử đưa mắt nhìn xuống miền đất mênh mông phía dưới.  Một lúc sau, hoàng tử ngậm ngùi lên tiếng:

– Ôi, quê hương thân mến!  Ôi đất nước dấu yêu!  Ngươi thật xinh đẹp biết bao với những thung lũng êm dịu, những mặt hồ trong xanh đầy ánh sáng, những cánh đồng với đủ thứ hoa muôn màu sắc, những núi đồi hùng vĩ và những khu rừng tĩnh mạc êm đềm.  Thế nhưng, ta sẽ phải chết và sẽ phải từ biệt ngươi, sẽ không bao giờ còn được chiêm ngắm vẻ đẹp của ngươi nữa.  Ôi sự chết, nhưng tại sao lại phải có sự chết?

Rồi hoàng tử buồn sầu nức nở.  Thấy vậy, hai vị cận thần cũng mủi lòng khóc theo.  Họ than thở và tìm cách ủi an hoàng tử. Trong khi đó, vị cận thần thứ ba chỉ mỉm cười và không một lời phát biểu.  Về tới triều đình, hoàng tử gọi vị cận thần thứ ba đến và trách hỏi:

– Hôm nay, khi đứng trên núi cao, tâm hồn ta buồn sầu khôn tả.  Trong khi hai vị cận thần kia tìm cách an ủi ta, còn ngươi, tại sao ngươi chẳng nói gì mà lại mỉm cười như thế?

Vị cận thần thứ ba khôn ngoan trả lời:

– Tâu lạy hoàng tử.  Xin hoàng tử hãy nghĩ lại xem.  Nếu những vị danh nhân đại tướng từ trước đến nay tiếp tục sống mãi, không ai phải chết, đời sống họ sẽ ra thế nào và vận mệnh thiên hạ sẽ ra sao?  Nếu hoàng đế, vua ông nội của hoàng tử không phải chết thì làm sao vua cha của hoàng tử có thể lên ngôi kế vị được?  Nếu vua cha của hoàng tử còn tiếp tục sống mãi thì làm sao hoàng tử có thể cai trị trên ngai vua cha được?  Nếu như tất cả các hoàng tử và các vua chúa trên trần gian này còn tiếp tục sống mãi thì lúc này hoàng tử sẽ thế nào?  Hôm nay, hạ thần đã nhìn thấy một hoàng tử thiếu hiểu biết sự thật về thân phận con người, lại thêm hai vị cố vấn chỉ biết nịnh bợ vuốt ve sự khờ dại của hoàng tử nữa thì làm sao mà hạ thần lại không thấy buồn cười được?

Lời nói khôn ngoan của vị cận thần thứ ba đã làm cho hoàng tử thức tỉnh và cảm thấy hổ ngươi vì sự khờ dại của mình.  Hoàng tử nói thêm:

– Sau này, khi giờ chết đến, ta chỉ muốn một mình ngươi bên cạnh giường ta mà thôi.

Là người, ai lại không sợ chết.

Bởi vì biết rõ những gì phải bỏ lại đàng sau, nhưng không biết trước mắt sẽ gặp thấy điều gì, chính vì những điều chưa biết đó làm cho con người thêm băn khoăn lo sợ.  Tuy nhiên, trên trần gian này không có chân lý nào chắc chắn hơn là sự chết.  Mỗi người sinh ra trên trần gian đều phải chết, tuy không ai biết được chính xác mình sẽ phải chết khi nào, chết cách nào và chết ở đâu.  Thế nhưng, đâu phải tất cả mọi người đều nghĩ tới cái chết của mình.  Biết bao nhiêu người sống như thể là sẽ không bao giờ phải chết hoặc vì dửng dưng, hoặc vì cố tình muốn gạt bỏ nó sang một bên để khỏi phải bận tâm đến cuộc sống hiện tại của họ.

Chúa Giêsu tuy là Con Một của Thiên Chúa hằng sống và là nguồn mạch sự sống, nhưng đã tự nguyện mặc lấy thân phận con người hay chết, và hơn nữa đã muốn chấp nhận cái chết khổ nhục trên thập giá để nhắc nhở con người thực tại về sự chết là gì và đâu là con đường dẫn tới sự sống hạnh phúc thật, sự sống bất diệt.

Trong Phúc-âm, trước khi bước vào con đường khổ nạn, Chúa Giêsu đưa ba môn đệ thân cận nhất lên núi cao và cho họ thấy trước vinh quang của Ngài để củng cố niềm tin của họ, để họ không nản lòng thất vọng vì sẽ phải đứng trước cái chết khổ nhục của Ngài, vì biết rằng đó là ngưỡng cửa dẫn vào vinh quang của sự sống bất diệt.

Con đường cứu độ đó không thể nào chỉ dừng lại trong vinh quang của núi Tabor, nhưng là vững bước cùng Chúa vác thập giá tiến lên núi Sọ qua sự chết đi từng ngày trong cuộc sống của mình.

Chết đi cho tính kiêu ngạo, cho lòng ích kỷ tự ái và mọi thói hư nết xấu, để sống cho Chúa trong tinh thần phục vụ và yêu thương.

 

R. Veritas

From: ThiênKim & Nguyễn Kim Bằng