NGƯỜI CON GÁI VIỆT NAM

NGƯỜI CON GÁI VIỆT NAM

                                                                                                                HẠNH NGUYÊN

                                                                                                           trích Ephata: 525

 VTT ZZAUG 22  JPEG HTVY

             Huỳnh Thục Vy

             Trịnh Kim Tiến

“Trịnh Kim Tiến, tên em gắn liền với những biến cố vui buồn của đất nước trong gần một năm qua. Dòng nước mắt em khóc cha, ông Trịnh Xuân Tùng, bị công an đánh chết, làm bao nhiêu người Việt Nam trong và ngoài nước khóc theo. Nhìn tấm hình em khóc, tôi cảm thấy thương em vô cùng vì trong giọt nước mắt của em có bóng của đời mình.

Vài tuần sau, nhìn Kim Tiến mỉm cười cùng các bạn hiên ngang đi giữa lòng chế độ độc tài, lòng tôi chợt dâng lên niềm hãnh diện:

“Khi em xuống đường vì Hoàng Sa, Trường Sa

Đồng bào bước cùng em

Thanh niên, sinh viên, học sinh bước cùng em

Sài Gòn bước cùng em

Hà Nội bước cùng em

Trong nước bước cùng em

Ngoài nước bước cùng em”

( Trần Trung Đạo – Những cánh én của mùa xuân dân tộc )

Tôi cũng như bao người Việt Nam xa xứ nặng lòng với quê hương mang tâm trạng như nhà thơ Trần Trung Đạo, dõi theo những thăng trầm của vận mệnh dân tộc, buồn vui với non sông cùng bước chân những người yêu nước. Kim Tiến đã làm bao người khóc cùng em khi cha em bị đánh gần chết giữa công đường, hân hoan nhìn dáng đứng thướt tha hiên ngang trong tà áo dài truyền thống khi biểu tình bảo vệ Hoàng Sa – Trường Sa:

“Thấy áo em bay giữa cờ gió lộng
Xin nghiêng mình tặng Em nhành Nguyệt Quế
Viết bài ca tặng Em Người Con Gái Việt Nam !
Gửi đến Em ! Người Con Gái Da Vàng !
Gửi đến Em ! Người Con Gái Việt Nam !” 

( Nhạc và lời Dzuylynh – Người Con Gái Việt Nam ) 

Mới đây bao người uất ức cùng em khi biết bản án bất công của những người hành xử pháp luật ( xem ghi chú bên dưới ). Em đã trở thành người con của Chúa: Monica Trịnh Kim Tiến, sau nhiều đau thương mất mát. Hôm nay tôi chúc mừng hạnh phúc khi bên em có người bạn đời Phaolô Thành Nguyễn đồng hành đi tìm công lý. Kim Tiến chọn ngày thành hôn cũng gần ngày kính thánh Bổn Mạng Monica, vị thánh quan thầy giới hiền mẫu. Hiếm có những trường hợp trong gia đình cả hai mẹ-con cùng là Thánh, nhất là trong hoàn cảnh gia đình tưởng như tan nát tuyệt vọng lại biến thành hạnh phúc tuyệt vời góp phần cho Giáo Hội vị đại Thánh Augustinô.

Ai mà không đau lòng khi nhìn những giọt nước mắt nơi em ngày cha mất cách tức tưởi, tiếng khóc của em không hẳn chỉ cho cha mà còn là tiếng kêu thê lương của cả một dân tộc oằn oại bao năm dưới luật pháp kẻ bạo tàn, nhà báo Lê Diễn Đức đã xót xa:

“Tiếng khóc em thảm thiết cứa vào thịt da.

Em, người con gái mất cha !

Uất ức, đau thương trùm lên mặt phố !”

( Lê Diễn Đức – Em đi tìm công lý nơi nào ? )

Nếu trước đây tôi vui mừng khi chị Tạ Phong Tần trở về mái nhà Cha và hãnh diện danh hiệu “Nhà Báo Tự Do Công Giáo” khi chị mạnh dạn viết những bài đấu tranh cho Công Lý và Sự Thật. Hôm nay niềm vui trong tim gấp bội hơn khi biết tin Kim Tiến, Thục Vy cùng đón nhận Đức Tin Công Giáo. Việc trở về cùng Cha không bao giờ là một sự muộn màng: người đến trước ( giờ thứ nhất ) hoặc đến sau ( giờ thứ 25 ) rốt cuộc cũng chỉ hưởng công… một đồng. Sự trở về của các cô từ chính trong tâm hồn cảm nghiệm Chúa chắc hẳn hơn một số người theo Đạo dòng như tôi. Có câu danh ngôn nào đã nói: Cánh cửa này đóng sẽ mở cho ta cánh cửa khác, như ánh sáng cuối đường hầm, niềm tin chính là ân điển của Thiên Chúa luôn bao bọc và mời gọi chúng ta ở những thời điểm khác nhau.

Chị Tạ Phong Tần về với Chúa như Thánh Phaolô Tông Đồ Dân Ngoại, trong thư gửi chúc mừng Kim Tiến, Thục Vy, Hoàng Vy chị đã viết: “Chúng ta cùng nhau cám ơn Chúa, cám ơn Đức Mẹ, cám ơn Giáo Hội đã cho chúng ta niềm tin và sự sống, đặc biệt chị muốn cám ơn các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế đã làm cầu nối để chúng ta đến được với Chúa. Bất cứ ai tha thiết với công lý, sự thật và tình thương đều có thể gặp được Chúa, qua kinh nghiệm của chúng ta, chị tin như thế. Bốn chị em mình mỗi người được gặp Chúa theo nhiều kiểu khác nhau. Chị khác các em, chị bước ra từ vũng lầy của tuổi trẻ sai định hướng, chị đến với Chúa trong một cuộc gặp gỡ tình cờ, tuổi xuân của chị có quá nhiều sai lầm mà ngày ấy chị ngỡ tưởng mình đúng hướng…” ( http://www. chuacuuthe. com/archives/34947 – Thư gửi Hoàng Vi, Thục Vi và Kim Tiến ).

Còn Kim Tiến, chị đã cảm nghiệm: “Không phải anh em chọn Thầy mà chính Thầy đã chọn anh em” ( Ga 15, 16 ), đúng vậy, chính Chúa đã chọn tôi làm con của Người. Câu nói này đến bây giờ, sau khi trải qua nhiều biến cố, thăng trầm, tôi mới hiểu được hết ý nghĩa của nó. Thật là khó nói hết ra những điều kỳ diệu mà Chúa đã mang đến cho tôi, thật sự nó rất huyền bí” ( Kim Tiến – Chúa trong tôi ).

Phần Maria Thục Vy khi được hỏi về lý do trở nên người con Chúa, cô viết: “Con tin rằng cuộc đời con không phải do con người quyết định mà được. Lúc con bị bắt, con tự nhiên thấy mình luôn được chở che. Con chưa hiểu vì sao con lại có cảm giác ấy. Nhưng con hy vọng nếu có một Đấng cao vời mà con chưa từng biết thì con mong các cha giúp cho con một cơ hội để bước vào con đường nhận biết Ngài. Đó là những lời con nói thật lòng mình” ( Nữ Vương Công Lý ).

Ban đầu, khi đọc những bài viết của Huỳnh Thục Vy, biết cô còn rất trẻ nhưng tư tưởng nhận định rất lớn, tôi còn hơi chút hòai nghi, nhưng hôm nay niềm tin và sự ngưỡng vọng cô là một điều khẳng định không chỉ nơi tôi mà còn biết bao nhiêu người. Nhà báo Lê Diễn Đức đã từng nhận xét Huỳnh Thục Vy là “một cô gái trẻ mà hiểu biết rộng, thông minh, có nhân cách trong sáng, can đảm, mãnh liệt nhưng rất ôn hòa trong các bài viết xuất sắc về các giá trị dân chủ, quyền công dân hay xã hội dân sự, được sự mến mộ và cảm phục của đông đảo người Việt trên khắp thế giới…”, hay “Cái đẹp của Huỳnh Thục Vy không chỉ của một người, nhưng là cái đẹp của cả một non sông” ( Nguyễn Bá Chổi – Một bông hồng cho Thục Vy ), và “nhà thơ năm chữ” Thái Bá Tân đã phác họa thật tâm đắc:

“Cháu – Cô gái xinh đẹp,

Đẹp cả ngoài lẫn trong.

Nhìn cháu mà cứ nghĩ,

Cái đẹp của non sông.”

( Thái Bá Tân – Huỳnh Thục Vy )

Thượng Đế là nguồn chân thiện mỹ từ trong sâu thẳm của con người, dù bạn theo bất cứ tôn giáo nào, đạo đức tâm linh, nhân bản có những chuẩn mực căn bản rất gần nhau, tình đồng loại, nghĩa đồng bào, lòng yêu quê hương thể hiện rất gần gũi. Huỳnh Thục Vy mang một ước mơ cháy bỏng cho dân tộc, thể hiện qua nhiều bài viết: “Tôi thương dân tộc tôi – dân tộc anh hùng có bốn ngàn năm Văn hiến đã và đang phải gò lưng nuôi cả một chế độ độc tài bất công, không những thế lại bị tước hết các quyền tự do được sống như những con người chân chính và có ý chí. Trong tình yêu thương ấy, với nhiệt huyết trào dâng trong lòng một cô gái trẻ, tôi đang mơ một ngày cả nước Việt Nam từ Hà Nội, Đà Nẵng, Sàigòn, tất cả chúng ta – những người Việt Nam không phân biệt già trẻ, nam nữ, Phật giáo đồ hay con Chúa… cùng xuống đường trong những khẩu hiệu chống độc tài, tham những, đòi quyền tự do dân chủ. Và rồi sẽ cùng nhau kiến tạo một Việt Nam với diện mạo mới”.

Chính tình thương vô biên nguồn Chân Thiện Mỹ của mọi tôn giáo chân chính, cộng với những đau thương từ gia đình thôi thúc trong cô lòng yêu nước hoài bão cho tương lai dân tộc. “Thục Vy sinh năm 1985 tại Tam Kỳ. Tình yêu quê hương và nỗi đau mười năm tuổi thơ là những ngày đi thăm cha trong tù, đã hun đúc tâm hồn của cô bé xinh đẹp, hồn nhiên lớn lên bên giòng sông Bàn Thạch, Quảng Nam thành một nhà lý luận chính trị vững vàng. Kiến thức Thục Vy dẫn chứng trong các bài viết vượt trội hơn tuổi tác và điều kiện trưởng thành thiếu thông tin bên ngoài mà em đã phải trải qua. Sinh ra và lớn lên trong một chế độ độc tài, một nền giáo dục ngu dân lạc hậu, cây bút Huỳnh Thục Vy nổi bật như một bông hoa hiếm hoi mọc lên giữa rừng gai nhọn. Có thể nhiều khi em cũng cảm thấy cô đơn, nhưng từ trong nỗi cô đơn đó đã sáng lên niềm kiêu hãnh… Huỳnh Thục Vy không chỉ là niềm vui của tuổi trẻ Việt Nam mà còn cho tất cả những ai đang nặng lòng với đất nước” ( Trần Trung Đạo – Những cánh én của mùa xuân dân tộc ).

“Dải đất Việt Nam 
Nằm co ro như một kẻ ăn mày 
Đang thoi thóp cuộc đời trên góc phố 
Như giọt lệ chảy dài nhưng chưa nhỏ 
Như chiếc lưng khòm Mẹ gánh cả trời thương.
Thuở Hùng Vương 
Đi chân đất dựng sơn hà 
Bao nhiêu máu đã âm thầm đổ xuống 
Khi Trưng Trắc trầm mình trên sông Hát 
Chỉ mong giữ tròn trinh tiết với giang san.” 

( Trần Trung Đạo – Thưa Mẹ Chúng Con Ði )

Điều khẳng định chắc chắn đau khổ của phụ nữ Việt Nam hơn bất cứ người phụ nữ nào trên thế giới, hai gánh quê hương gia đình luôn oằn trĩu đôi vai. Thân phận quê hương và gia đình đã quyện vào máu xương người phụ nữ Việt Nam. Có nơi đâu trên trái đất này con người phải trải qua hàng ngàn năm chinh chiến, nếu hình ảnh chinh phu oai hùng đi vào hùng sử thì bóng thầm lặng chinh phụ mòn mỏi chờ chồng dạ sắt son đã thành truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Cho tôi xin trân trọng gọi thầm mãi tiếng yêu thương lẫn tự hào đến bao Anh Thư Liệt Nữ nước Việt: Bà Trưng, Bà Triệu, Bùi Thị Xuân, Cô Bắc, Cô Giang… và hôm nay con cháu các vị anh hùng vẫn tiếp tục hy sinh vì đại nghĩa, dấn thân cho Việt Nam hôm nay hướng đến tương lai. Những cái tên hôm nay: Đặng Thị Kim Liêng, Lê Thị Công Nhân, Phạm Thanh Nghiên, Đỗ Thị Minh Hạnh, Hồ Thị Bích Khương, Bùi Thị Minh Hằng, Huỳnh Thục Vy, Trịnh Thị Kim Tiến, Tạ Phong Tần… đã và mãi mãi đi vào lòng người, là những tấm gương cổ vũ sức mạnh tiềm tàng lòng yêu nước của dân tộc một thời gần như quên lãng:

“Cho con thầm lặng gọi tiếng: Mẹ ơi !

Mẹ của Lê Sơn, Mẹ của Tạ Phong Tần.

Như hạt cải mục ươm mầm dưới đất.

Để sớm mai cả dân tộc hồi sinh”.

( Tú Anh – Cho con thầm gọi )

Đức Hồng Y Peter Turkson, Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh Công Lý và Hòa Bình khẳng định rằng: “Các tấn kịch và bắt bớ chống lại các Kitô hữu sẽ không ngăn cản được việc làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa”. ( Linh Tiến Khải dịch – Bách hại không thể ngăn chặn chứng nhân Kitô hữu )

Bác ái là căn bản của đời sống mọi Kitô hữu, không thể chỉ kính mến Thiên Chúa trong Nhà Thờ bằng câu kinh tiếng kệ, điều quan trọng là bạn hãy làm chút gì đó cho những người anh em để thực thi công lý và tình thương. Ý chí nơi Kim Tiến thật đáng khâm phục, blogger Mẹ Nấm đã ghi lại cuộc trò chuyện với cô:

“Tôi cảm thấy công lý này cần tự mình giành lấy, và tôi sẽ đứng ra trước tòa để tranh luận công khai minh bạch trong phiên tòa sắp tới. Tôi sẽ nhìn thẳng vào các vị quan toà, những người đang nắm giữ trong tay cán cân công lý để khẳng định với họ một điều rằng: công lý không bao giờ chết, nó chỉ đang bị chèn ép…

Tôi tin rằng con đường tôi đi luôn có bạn bè và đồng bào tôi cùng đồng hành và chia sẻ. Thật sự đến giờ này, tôi chỉ biết cảm ơn mọi người. Mọi người đã cho tôi sức mạnh, đã cho tôi niềm tin. Niềm tin để cố gắng sống cho đúng nghĩa một con người, niềm tin rằng mỗi cá nhân, dù nhỏ bé đến đâu cũng có thể góp phần, góp sức, góp một viên gạch khiêm tốn nhưng cực kỳ cần thiết để xây dựng nhà Việt Nam thân yêu, không phải cho chúng ta mà cho thế hệ mai sau”. ( Mẹ Nấm – Chị có về được không ? )

Tôi viết bài này giữa lúc hôn lễ của Maria Kim Tiến và anh Paul Thành Nguyễn đuợc tổ chức tại Nhà Thờ Kỳ Đồng Sàigòn, Chúa Nhật 26.8.2012 và cũng được biết tin thêm là vào ngày 3.9.2012 đến đây, Maria Huỳnh Thục Vy và Lê Khánh Duy sẽ làm lễ thành hôn tại Tam Phú, Tam Kỳ, Quảng Nam. Mừng cho hai em có niềm tin, hạnh phúc bên những người chồng đồng chí hướng tương trợ, giúp đỡ, an ủi trong đời sống hôn nhân và hành trình đi tìm công lý cho cha, cho gia đình, cho dân tộc dưới sự bảo trợ của Đức Maria, Thánh Phaolô, Thánh Monica… để rồi một ngày nào đó:

“Em ngày mai hái những cành hoa của tình yêu, công lý

Cắm lên mộ cha và lên mảnh đất này

Cho Hà Nội thu về tay ấm lại cầm tay ?

( Lê Diễn Đức – Em đi tìm công lý nơi nào ? )

Ghi Chú:

Phiên tòa sơ thẩm ngày 13.1.2012 tại Tòa Án Nhân Dân Hà Nội diễn ra rất nhanh chóng, sơ sài và bất công với tội danh ‘làm chết người trong khi thi hành công vụ’ với bản án chỉ 4 năm tù giam tuyên phạt bị cáo Nguyễn Văn Ninh, tất cả những người đồng phạm đều không phải chịu bất cứ trách nhiệm nào Tòa Án robot’, ngày 14.5.2012, tại phiên tòa phúc thẩm trong một phiên xử kín, anh chị em ruột nạn nhân không được tham dự, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hình sự vì không triệu tập đầy đủ nhân chứng…, nên gia đình yêu cầu hoãn lại phiên tòa và đề nghị triệu tập đầy đủ những người liên quan. Trong phiên phúc thẩm ngày 17.7.2012, bạn Kim Tiến đã tự tham gia tranh luận trong phiên tòa, không luật sư. ( Hà Minh Thảo – Những Người Việt Công Giáo Mới ).

HẠNH NGUYÊN, Boston, 26.8.2012

 

 

 

 

SỰ THẬT

SỰ THẬT

                                                                             tác giả: PHÙNG VĂN HÓA

                                                 trích báo: Ephata 525

 Cư dân mạng hiện đang xôn xao bàn tán, có người còn tỏ ra choáng váng trước tin ông Từ Hoài Khiêm ( Xu Huaiqian ) 44 tuổi, tổng biên tập một tờ báo Đảng Cộng Sản Trung Quốc, vừa nhảy lầu tự sát hôm 25.8.2012 vừa qua. Lý do cái chết này được cho biết là ông ta bị trầm cảm vì đã không thể nói ra được điều muốn nói: “Tôi đau đớn vì dám nghĩ nhưng lại không dám nói ra. Nếu dám nói thì lại không dám viết và nếu dám viết thì cũng chẳng có nơi nào chịu đăng bài tôi cả. Tôi ngưỡng mộ những cây bút tự do nhưng tôi không thể rời hệ thống vì nếu làm như vậy thì gia đình tôi sẽ chịu hậu quả” ( Nguồn BBC ngày 25.8.2012 ).

Hệ thống được nói tới là Đảng Cộng Sản, còn những cây bút tự do đó là những người viết trong các nước Dân Chủ. Sống mà không dám nói, dám viết ra những suy nghĩ, quan điểm lập trường của mình, điều ấy là một mối nguy chẳng những cho cá nhân ấy mà còn cho cả đất nước dân tộc. Tại sao ? bởi vì như vậy là không sống trong sự thật mà đã không sống sự thật thì tất cả chỉ là dối trá, lừa đảo để rồi đưa đến hậu quả diệt vong không thể tránh. Bằng chứng là Thủ Tướng Đức, bà Angela Markel người đã từng sống dưới chế độ Cộng Sản Đông Đức, nhân dịp kỷ niệm ngày 20 năm bức tường Berlin sụp đổ, và ông Medeved cựu Tổng Thống Nga, người đã sinh ra, sống và được giáo dục bởi chế độ xô viết nhân dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng Đệ Nhị Thế Chiến; cả hai đều tuyên bố đại ý rằng: “Chế độ Cộng Sản là một guồng máy tạo ra sự dối trá, lừa đảo bịp bợm và giết người, chẳng những giết chính dân tộc nó mà còn giết những dân tộc khác.” ( Nguồn Chu Chỉ Nam – Tại sao chế độ Cộng Sản lại là một guồng máy lừa đảo giết người lớn nhất trong lịch sử nhân loại ? ).

Con người cần phải sống sự thật, thế nhưng điều hết sức khó khăn, hơn nữa có thể nói là không thể phân biệt đâu là sự thật, đâu là dối trá. Trước tòa, Philatô hỏi Chúa Giêsu, vậy ngươi là vua sao ? Chúa đáp: “Đúng như ngươi nói, Ta là Vua. Cốt vì việc ấy mà Ta sanh ra, cũng cốt vì cớ ấy mà Ta đến thế gian để làm chứng cho sự thật. Hễ ai thuộc về sự thật thì đều nghe tiếng Ta”. Philatô hỏi Sự Thật là gì ? ( Ga 18, 37 – 38 ). Đức Kitô không trả lời câu hỏi của Philatô, bởi Ngài biết rõ dù có nói cũng vô ích, ông ta không thể hiểu. Chẳng những không riêng gì Philatô mà tất cả người thế gian cũng không thể hiểu.

I. Thế gian không có sự thật

Từ Hoài Khiêm nói rằng mình ngưỡng mộ những cây bút tự do bởi cho rằng những con người trong các nước Dân Chủ ấy dám viết và nêu lên sự thật. Thế nhưng có hẳn là báo chí trong những quốc gia ấy phản ảnh đúng sự thật hay không ? Để có câu trả lời thì cũng không khó, bởi dù sao đó cũng chỉ là một nghề để kiếm sống hoặc địa vị danh vọng gì đó. Một khi đã là nghề nghiệp thì cũng phải tuân thủ những luật tắc của nó và luật tắc ở đây chính là lợi nhuận. Báo có nhiều độc giả thì sống, trái lại thì… ngỏm. Nói chung, toàn thể người ở cõi thế gian này đều chỉ sống vì lợi nhuận và lợi nhuận ấy dù trong bất kỳ tính chất nào, trong sạch hay dơ bẩn thì cũng đều chỉ có một cứu cánh là để thỏa mãn cho “Cái Tôi” mà thôi.

Bao lâu còn vì “Cái Tôi” mà làm thì dù cho có là hành vi tôn giáo đi nữa cũng không thể có sự thật, mà đã không sống sự thật thì ắt sẽ sống trong giả dối. Hết thảy con người đều sống giả dối bởi chưng không ai lại không bị tội nguyên tổ làm cho hư hỏng. Nguyên tổ vì nghe theo sự lừa dối của rắn Satan nên đã ăn trái cây phân biệt mà Thiên Chúa đã cấm, thế nên bị đuổi ra khỏi Vườn Địa Đàng ( St 3, 24 ). Chính bởi vậy, Đức Kitô nói Satan là cha của sự nói dối: “Các ngươi ra từ cha các ngươi là ma quỷ và các ngươi muốn làm theo tư dục của cha các ngươi. Từ ban đầu nó là kẻ giết người chẳng đứng trong lẽ thật, vì trong nó không có lẽ thật đâu. Khi nó nói dối thì tự mình nó nói, vì nó vốn là kẻ nói dối cũng là cha của sự ấy” ( Ga 8, 44 ).

Từ ban đầu Satan là kẻ nói dối và sự dối trá ấy tinh vi đến độ y như là thật. Bà Eva còn đang lưỡng lự thì rắn quả quyết: “Hai người chẳng chết đâu, nhưng Đức Chúa Trời biết rằng hễ ngày nào hai người ăn trái đó thì mắt mình mở ra sẽ như Đức Chúa Trời biết điều thiện điều ác” ( St 3, 4 ). Có vẻ như Satan… không nói dối vì sau khi ăn cây phân biệt cả hai ông bà nguyên tổ chẳng những không chết mà mắt còn… mở ra. Tuy nhiên cái chết đây không phải là chết phần xác nhưng là chết tâm linh: “Đoạn mắt hai người liền mở ra, biết mình lõa lồ bèn lấy lá cây vả đóng khố che thân” ( St 3, 7 ). Khi mắt xác thịt mở ra thấy mình lõa lồ tức là cái thấy của sự phân biệt nam nữ, giầu nghèo, sang hèn, có không ( thị phi ) được mất v.v…

Chính cái thấy của sự phân biệt ấy là nguồn gốc tội ác đưa đến khổ đau cho con người. Bởi thấy có nam có nữ mà nảy sinh dục vọng luyến ái nọ kia. Bởi thấy có ngôn ngữ màu da khác biệt mà kỳ thị chủng tộc. Bởi thấy có giàu nghèo sang hèn mà nảy sinh tỵ hiềm ganh ghét đố kỵ…

Hết thảy những cái thấy mang tính phân biệt đều là lừa dối nhưng bởi là lừa dối của Satan nên con người khó thể nhận biết. Ở đây có thể kể ra hai cuộc lừa dối mang tính… toàn cầu vô tiền khoáng hậu cho cả hai phía Cộng Sản và Dân Chủ Tây Phương.

Chủ Nghĩa Cộng Sản lấy chiêu bài đấu tranh giai cấp để xây dựng thế giới đại đồng vô giai cấp. Nhưng đại đồng đâu chẳng thấy mà chỉ thấy những chế độ độc tài đảng trị nối tiếp nhau. Bà Rosa Luxembourg, người bạn chiến đấu của Lénine, trước khi chết trong ngục tù chế độ ( 1919 ) đã viết một bức thư gửi cho ông ta: “Cái độc đảng và nhà nước độc tài mà anh lập ra anh bảo rằng nó phục vụ nhân dân và thợ thuyền. Nhưng trên thực tế nó chẳng phục vụ một ai cả, vì nó đã đi ngược lại với những nguyên tắc chính của Chủ Nghĩa Xã Hội, đó là tôn trọng tự do dân chủ” ( Nguồn: Chu Chỉ Nam – đã dẫn ).

Một người đã để cả đời tranh đấu cho lý tưởng Cộng Sản, ấy vậy mà cho đến lúc sắp chết trong lao tù vẫn còn ảo tưởng về nguyên tắc tự do dân chủ của Chủ Nghĩa Xã Hội thì thật khó mà hiểu, nếu không nhận ra đây chỉ là một trong vô vàn nạn nhân của Satan, cha đẻ của dối trá.

Mặt khác, ảo tưởng tự do dân chủ không phải chỉ có ở nơi người Cộng Sản mà còn là một cái gì đó… hấp dẫn cho cả những người theo đuổi lý tưởng dân chủ. Ảo tưởng ấy cách nay hơn một thế kỷ đã bị Đức Thánh Cha Pio IX vạch rõ: “Việc phổ thông đầu phiếu là một vết thương phá hỏng trật tự xã hội và đúng ra nó xứng đáng được gọi là “Sự nói dối phổ cập”. Ma quỷ chắc chắn có cùng ý kiến như nó đã để lộ cho thấy trong một cuộc trừ tà. Nó không giấu diếm ý dồ chính trị của nó… Nó tự tuyên bố là người Cộng Hòa nhiệt tình: Tự Do – Bình Đẳng – Huynh Đệ và Cộng Hòa Pháp. Chính ma quỷ dùng những lời lẽ ấy mà chào những khách đến thăm ( người bị quỷ nhập ). Một hôm ông Spies thị trưởng Selestat nói với hắn: “Ngu, mày không biết điều mày nói !” Nó liền đáp: “Tôi biết điều tôi nói, hoan hô Tự Do, Bình Đẳng, Huynh đệ. Lúc đó chúng tôi sẽ được việc lắm” ( Michel Servant – Ngày của Chúa ).

Tự Do – Bình Đẳng – Huynh Đệ ( Liberté – Égalité – Fraternité ) là ba lý tưởng căn bản được nêu lên trong Cách Mạng Pháp 1789 và rồi đã được các nướ c dân chủ Tây Phương lấy đó để làm mục tiêu hành động. Satan hoan hô tự do bình đẳng huynh đệ và đồng thời nó cũng biết rất rõ đó chỉ toàn là ảo tưởng. Nhưng với con người thì lại coi đây như là lý tưởng cần thực hiện để có được cuộc sống hạnh phúc.

Lý do khiến Satan biết rõ đó chỉ là ảo tưởng bởi vì trong ba yếu tố ấy loài người không thể thực hiện được điều thứ ba, tức tình huynh đệ. Trong những thể chế thực sự dân chủ, người ta có thể tương đối có tự do và bình đẳng, thế nhưng nếu không có tình huynh đệ coi hết mọi người như anh chị em một nhà thì rút cục cũng chẳng thể nào có tự do bình đẳng, nếu không muốn nói là hỗn loạn.

Một mặt Satan hoan hô nhưng mặt khác nó lại nói lúc đó chúng tôi sẽ được việc lắm. Cái gọi là… “được việc” ấy là khi người ta nói rằng mình tranh đấu cho tự do bình đẳng thì ngay khi ấy cũng là lúc mà ganh ghét hận thù nổi lên. Tất cả nguyên nhân khiến không thể có tự do bình đẳng là vì không có tình huynh đệ. Đức Kitô nói: từ ban đầu Satan là kẻ giết người chẳng đứng trong lẽ thật thì việc giết của nó chính là giết chết tình huynh đệ – đệ huynh ở nơi con người. Đức Kitô xuống thế hầu đem lại cho nhân loại Sự Thật và chỉ trong Sự Thật ấy nhân loại mới có thể tìm đến với nhau như anh em một nhà.

II. Con đường đưa tới sự thật

Để có thể đi tới bất cứ nơi nào thì cần phải biết đường, còn như không biết thì hỏi, người ta sẽ chỉ cho. Đối với đường đời đã vậy, còn đường đạo tức đường thực hiện tâm linh thì việc hỏi, thắc mắc lại còn quan hệ hơn gấp bội. Không hỏi không nghi thì không bao giờ có lời giải đáp. Tuy nhiên việc hỏi ấy có thể đưa đến kết quả khác nhau, chấp nhận hay không chấp nhận. Người Do Thái vây quanh Chúa Giêsu chất vấn: “Thầy để chúng tôi vơ vẩn đến chừng nào. Nếu thầy là Đấng Kitô thì hãy nói tỏ tường cho chúng tôi” ( Ga 10, 24 ).

Đối với câu hỏi này cũng như của Philatô hỏi sự thật là gì. Chúa không  trực tiếp trả lời, bởi biết họ không tin. Thế nhưng trường hợp các Tông Đồ thì khác, sau khi nghe Chúa nói mình đi để chịu chết thì Tôma hỏi: “Thưa Chúa chúng tôi chẳng biết Chúa đi đâu làm sao biết đường ?” Chúa Giêsu đáp: “Ta là đường, là sự thật, và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” ( Ga 14, 5 – 6 ).

Qua câu trả lời này, ta thấy Đức Kitô chẳng những rất ân cần với các Tông Đồ mà còn trở nên con đường để những ai theo Ngài có thể bước đi trên đó. Mặc dầu Chúa nói mình là đường, là sự thật, sự sống nhưng như thế không có nghĩa có thể dừng lại trên con đường này. Dừng như thế thì Đường Giêsu sẽ ắt thành… đường cụt. Lý do bởi vì có đường thì phải đi mà đã đi thì phải đến một nơi chốn nào đó chứ chẳng lẽ lại cứ đi vơ đi vẩn ? Đức Kitô đã nói một cách rõ ràng rằng không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Điều ấy chứng tỏ cứu cánh con đường Giêsu phải là Đấng Cha chứ không phải là Ngài.

Thời này là thời Tục Hóa tức Giải Thiêng ( désacralisation ) mà đã giải thiêng thì tất nhiên không thể còn cứu cánh là Đấng Cha nữa. Một khi đã không còn Đấng Cha như một cứu cánh thì cũng không thể có sự thật. Tại sao ? Bởi vì sự thật chỉ đến với con ngườii khi nào nó nhận biết được phẩm vị Con Thiên Chúa ở nơi chính mình.

Quả thật, con người được dựng nên giống Hình Ảnh Thiên Chúa ( St 2, 26 ) tức Con của Ngài, nhưng do ảnh hưởng tội nguyên tổ mà chúng ta như đã hoàn toàn quên mất phẩm vị cao quý ấy. Cũng bởi vì quên nên con người mới sa đà vào đủ thứ giống tội nhưng lại chẳng cho đó là tội. Tội khiến làm cho che lấp Sự Thật tức phẩm vị Con Thiên Chúa nơi mình. Vì vậy Đức Kitô nói: “Nếu các ngươi cứ ở trong Đạo Ta thì thật là môn đệ Ta, các ngươi sẽ nhận biết sự thật và sự thật sẽ giải thoát các ngươi” ( Ga 8, 31 – 32 ).

Chúa là Đấng Giải Thoát nhưng sự giải thoát ấy hoàn toàn không phải do phép mầu hay quyền năng nào mà nó chỉ đến với chúng ta khi nhận biết sự thật. Lý do nhận biết sự thật lại giải thoát là vì sự thật ấy vốn dĩ đã có ở nơi mỗi người, chỉ cần nhận ra là được.

Sự thật cần nhận biết ấy như đã nói đó chính là Hình Ảnh Thiên Chúa và cũng là Nước Trời mầu nhiệm mà Đức Kitô rao giảng: “Người Pharisêu hỏi Chúa Giêsu về Nước Đức Chúa Trời chừng nào đến thì Ngài đáp: “Nước Đức Chúa Trời không đến cách mắt thấy được. Người ta cũng sẽ không thể nói đây này hay đó kia, vì này, Nước Đức Chúa Trời ở trong lòng các ngươi” ( Lc 17, 20 – 21 ).

Nước Trời là nước vô cùng mầu nhiệm, ấy vậy mà nước ấy lại chẳng có ở đâu khác ngoài mình và đây mới chính là Sự Thật chúng ta cần hết lòng tìm kiếm. Tìm kiếm địa vị sang giàu ở thế gian là việc cũng chẳng phải dễ. Thế nhưng dù cho nó có được thì cũng chẳng ra gì nếu không muốn nói là chỉ chuốc vào mình lo âu phiền muộn. Đang khi đó con đường tâm linh đem lại cho ta Sự Thật, một Sự Thật vĩnh cửu chẳng bao giờ tàn, chẳng bao giờ phai.

Tuy nhiên để có được Sự Thật ấy thì ngoài con đường tín thác, cậy trông vào Chúa Giêsu chẳng còn con đường nào khác.

PHÙNG VĂN HÓA,

 9.2012

Thực thà với Chúa

Thực thà với Chúa

                                                           PM. CAO HUY HOÀNG

1:10 Sáng 1/09/12

 

VRNs(01.09.2012) – Suy Niệm Lời Chúa CN 22 TN B

Noi gương Ông Giosuê, bắt chước Thánh Phêrô, tuần trước, chúng ta cùng thưa với Chúa rằng: Chúng con quyết không bỏ Chúa, gia đình chúng con tôn thờ Thiên Chúa và trung tín với Chúa.

Tuần này, Lời Chúa dạy chúng ta cách tôn thờ Thiên Chúa thế nào cho đúng với ý Chúa muốn, và còn phải biết “dạy cho con cháu” cách sống đạo cho nên ( x. Đnl 4, 1-2. 6-8 ).

Tôi bỗng nhớ câu chuyện của mẹ tôi. Trước lúc cha tôi mất, Người chỉ để lại một di ngôn ngắn lắm: “Sống đẹp lòng Chúa”. Mẹ tôi ôm ấp di ngôn của cha và hay nhắc bảo anh em chúng tôi. Mười năm sau, trước lúc mẹ mất, di ngôn của mẹ có ba điều: “Các con hãy:

1. Đoàn kết thương yêu nhau.

2. Làm lành lánh dữ.

3. Giáo dục con cái biết thờ phượng Đức Chúa Trời cho nên”.

Vào những ngày Giỗ, Chạp, Tết nhất hay những lúc sum họp gia đình, anh em tôi thường lặp lại Di Ngôn của cha mẹ. Có lần, chú em tôi cảm động quá, khóc và thưa với mẹ rằng: “Cảm ơn mẹ đã chú giải di ngôn của cha, cho chúng con biết thế nào là sống đẹp lòng Chúa”.

Cô Út chợt nhận ra điều gì, nói: “Sau này, Chúa sẽ không hỏi em rằng em đã làm gì cho Chúa, nhưng chắc chắc Chúa sẽ hỏi em có tin tưởng, yêu mến và phó thác vào Chúa không ? Vậy mà có lần em cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, con tin tưởng, yêu mến, và phó thác hoàn toàn vào tay Chúa. Xin Chúa ban cho con thoát khỏi cảnh nợ nần, nghèo khổ hôm nay”. Em tự thấy mình có điều gì gian dối. Đã tin, yêu, cậy trông mà làm như Chúa hổng biết gì về mình vậy, còn thưa lảm nhảm hoài: con khổ quá Chúa ơi ! Như vậy “tin yêu mến” của em chắc là “đầu môi chót lưỡi” rồi. Đúng không ?

Cả nhà không ai dám giải thích gì. Vì có lẽ ai cũng không khác cô út bao nhiêu !

Sống thành thật với nhau đã là khó. Sống thành thật với Chúa còn khó biết bao. Người đời có thể lầm cách sống đạo của tôi, của bạn, nhưng chắc chắn Chúa không lầm. Chúa biết rõ chúng ta tin tưởng và yêu mến Chúa tới mức nào.

Ở đời, mà nhất là đời nay, thời buổi này, trong toàn cảnh Việt Nam hôm nay, thì sự dối trá càng rõ hơn. Dối khắp nơi, chỗ nào cũng dối. Dối từ trên xuống, từ dưới lên, từ trong ra, từ ngoài vào. Dối tứ phía. Tình gian dối. Tiền gian dối. Quyền lực gian dối. Tài sản gian dối. Ngay cả việc tôn kính lãnh tụ cũng chẳng có gì là thật lòng. Khóc gian dối. Cười gian dối. Và nếu chỗ nào cũng dối, người nào cũng cũng dối, thì có thể nói đó là một thách thức lớn cho Tin Mừng Sự Thật.

Thánh Giacôbê bảo: “Anh em hãy khử trừ mọi thứ nhơ bẩn và lòng đầy gian ác”. Thiết nghĩ, thứ nhơ bẩn ấy chính là sự dối trá trong lòng.

Chúa Giêsu thì vạch mặt sự dối trá của những thầy thông luật, những kinh sư, những Pharisêu giả hình khi họ bắt bẻ các môn đệ Chúa không rửa tay trước khi ăn cho sạch sẽ theo tập tục cha ông của họ: “Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người. Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người”.

Lời trách mắng của Chúa Giêsu cũng đang nhắm đến hầu như tất cả chúng ta. Gọi là “tất cả”, bởi vì, mỗi người trong chúng ta, không ai tránh khỏi ảnh hưởng sự dối trá, cách sống dối trá do hậu quả của tội nguyên tổ: Không tuân phục Thiên Chúa, lừa dối Thiên Chúa.

Trong khi Thánh Thần của Thiên Chúa luôn hướng dẫn chúng ta sống cuộc sống chân thành để chúng ta trưởng thành về mặt Đức Tin hơn, thì ma quỷ cùng thế lực chống Thiên Chúa lại xúi quẩy chúng ta sống giả dối, cách sống ấu trĩ của ma quỷ:

Chúng ta đang biến việc thờ phượng Thiên Chúa qua các lễ nghi phụng tự thành lễ hội. Hình thức tổ chức lễ có vẻ được quan tâm hơn là chuẩn bị tấm lòng yêu mến tôn kính cách chân thực.

Càng có nhiều lễ hội tôn giáo càng chứng tỏ ra rằng đất nước ấy tự do tôn giáo, một thứ tôn giáo hời hợt bên ngoài, thứ tôn giáo giả hình.

Từ lễ hội linh đình của các cấp Giáo Hội lớn, đến nhỏ hơn, và xuống đến nhỏ hơn nữa là gia đình, là cá nhân… ai cũng làm bộ có đạo, làm bộ đạo đức, mà quên rằng chúng ta đang thực sự lừa dối Thiên Chúa, cũng chẳng khác nào quân Pharisêu thờ kính Chúa ngoài môi miệng, bằng băng-rôn biểu ngữ, bằng rêu rao tự do, bằng xây cất cho hoành tráng, bằng lễ lớn lạc lớn, bằng tham gia đủ thứ hội đoàn, bằng chức danh ông kia bà nọ, bằng áo mão chỉnh tề, bằng xuất hiện công khai cách long trọng, bằng bảng vàng dâng cúng, bằng con số, bằng báo cáo thành tích, bằng toàn bộ hình thức bên ngoài và giả dối bên trong khi có thể.

Lời Chúa muốn cảnh tỉnh chúng ta phải trở về với nội tâm sâu xa của lòng yêu mến chân thành. Lòng yêu mến Chúa thúc đẩy chúng ta thực hiện lề luật của Chúa và truyền dạy cho con cháu thực hiện lề luật ấy cách chân thành.

Thánh Vịnh đáp ca chỉ rõ mấy việc cần làm ngay của người có đạo: “Sống thanh liêm và thực thi công chính”, “trong lòng suy nghĩ điều ngay, và lưỡi không bịa lời vu khống”, “không làm ác hại bạn đồng liêu, cũng không làm nhục cho ai lân cận”, “không xuất tiền đặt nợ thu lời, cũng không ăn hối lộ hại người hiền lương” ( x. Tv 14, 2 – 3ab . 3cd – 4ab . 4c – 5 ).

Phải sống thành thực, không sống giả dối, bởi vì, theo Thánh Giacôbê: “Người đã muốn sinh ra chúng ta bằng lời chân thật, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các tạo vật”.

Ngài khuyên chúng ta tránh xa sự gian dối: “Anh em hãy khử trừ mọi thứ nhơ bẩn và lòng đầy gian ác, anh em hãy ngoan ngoãn nhận lãnh lời đã gieo trong lòng anh em, lời có sức cứu độ linh hồn anh em. Anh em hãy thực thi lời đã nghe, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình”.

Và đó là “lòng đạo đức trong sạch và tinh tuyền” (x. Gc 1, 17 – 18 . 21b – 22 . 27)

Lạy Chúa Giêsu, Đấng Thánh vì là Sự Thật của Thiên Chúa, nhờ Máu Chúa, chúng con đã được tẩy rửa sự gian ác trong lòng chúng con. Xin cho chúng con giữ được lòng đạo đức trong sạch và tinh tuyền ấy trước những cám dỗ dối trá của cuộc đời. Amen.

 

 PM. CAO HUY HOÀNG, 30.8.2012

Âm mưu thâm độc của Stalin

Âm mưu thâm độc của Stalin

 1:01 Sáng 2/09/12

 

VRNs (02.09.2012) – UCANews.com – Dựa trên việc nghiên cứu văn khố của Tòa thánh, một cuốn sách mới cho thấy chi tiết về mưu mô độc ác của Stalin muốn bỏ đói cả Soviet Ukraine tới chết.

Bầu trời u ám và ngày giờ ngắn của tháng 11 nhắc mọi người nhớ rằng đây là tháng cầu nguyện cho những người đã qua đời. Tháng này có vẻ thích hợp để giới thiệu các tài liệu mới về một trong các sự kiện bi thảm nhất — và thực sự chưa được biết — về thời hiện đại, Nạn đói của Ukraina.

Cuốn “The Holy See and the Holodomor: Documents from the Vatican Secret Archives on the Great Famine of 1932-1933 in Soviet Ukraine” (Tòa thánh và Cuộc bỏ đói: Tài liệu từ Văn khố mật của Tòa thánh về Nạn đói năm 1932-1933 tại Ukraina của Soviet) của LM Athanasiô McVay và GS Lubomyr Luciuk đã được giới thiệu ngày 26-10-2011 tại Trung tâm Đại kết Nga (Russian Ecumenical Center) ở Rôma. Cuốn sách này hiện có bản tiếng Anh ở các nhà sách Kashtan Press và Abe Books.

Từ ngữ Holodomor theo nghĩa đen là “giết bằng cách bỏ đói”, xảy ra trong những năm 1932-33 ở vùng đất phì nhiêu Ukraina của Liên xô. Số tử vong không biết chính xác vì thiếu tài liệu, nhưng ước tính có tới 2,4 tới 7,5 triệu người chết. Nạn đói này do con người tạo ra, họ muốn bỏ đói những người yêu nước Ukraina đến chết, đã được coi là tội ác diệt chủng của nhiều nước trên thế giới.

TRẦM THIÊN THU

Sống – chết vì sự thật

Sống – chết vì sự thật

                                                                                            tocngan k1

WGPSG — Bài phóng sự của Trường Long “Vết trượt của nam giảng viên ngữ văn hoạt ngôn” cho độc giả thấy kết cuộc đáng tiếc của bị can Vinh (cựu giảng viên lý luận văn học), người có tài ăn nói, quan hệ xã hội khá phức tạp cùng “khả năng kiếm tiền” vượt trội.

“Ông Vinh năm nay 53 tuổi, quê gốc ở huyện Hưng Nguyên, Nghệ An. Sau khi tốt nghiệp Đại học sư phạm Vinh, người này được nhận vào làm giảng viên ở Đại học Đồng Tháp. Hơn 10 năm sau (1997), thạc sĩ Vinh xin chuyển về Đại học Vinh, công tác tại Khoa ngữ văn.

Đầu năm 2000, với khả năng hoạt ngôn, ông Vinh khoe quan hệ rộng với nhiều sếp ở Thanh Hóa nên có thể “chạy” nhận thầu san lấp mặt bằng, cung cấp vật liệu… tại dự án xây dựng Nhà máy lọc hóa dầu ở Khu công nghiệp Nghi Sơn.

Tin lời vị giảng viên có tài ăn nói này, một nữ giám đốc ở huyện Đông Sơn (Thanh Hóa) đã đưa trước 700 triệu đồng nhờ “tác động” để có được hợp đồng san lấp mặt bằng nhà máy và thi công con đường ở huyện Quảng Xương. Giao xong tiền, vị doanh nhân ngồi đếm hết cái hẹn này tới cái hẹn khác của ông Vinh mà vẫn không thấy có được hợp đồng nào. Biết bị lừa, nữ giám đốc tới công an tố cáo.

Cùng thời gian này tại quê nhà, ông Vinh khoe có khả năng đưa người đi nước ngoài, “chạy việc”, “chạy dự án”. Nhận tiền của nhiều người “nhờ vả”, vị giảng viên mua ôtô, chi tiêu phóng tay khiến nhiều đồng nghiệp ngỡ ngàng về tài làm ăn của thạc sĩ lý luận văn học này.

Khi bị bắt ông Vinh không nhớ hết danh tính của những nạn nhân đã bị ông ta lừa đảo “chạy việc”, “chạy dự án”, chiếm đoạt hơn 3 tỷ đồng, trong đó có nhiều nạn nhân là học trò cũ của ông ta.

Một vị giáo sư có tài lợi khẩu mà dùng sự khéo nói của mình để lường gạt thì thật đáng tiếc biết bao!

Hội thánh hôm nay kính nhớ đến một vị thánh được xưng tụng là cao trọng nhất trong nam giới, được nhớ đến trong ngày sinh nhật và cả ngày về với Chúa. Đó là thánh Gioan Tiền Hô, ngài bị vua bắt vào tù cũng vì lời nói, nhưng là lời nói thật.

Ngài không được phép lấy vợ của anh ngài. (Mc 6,18)

Bực bội vì bị thánh nhân nói đúng tim đen, nhưng vua vẫn thích nghe ngài nói chuyện. Chỉ tiếc rằng vua lại nghe lời của bà vợ loạn luân đầy lòng thù hận, ra lệnh chém đầu thánh Gioan trong ngục vì lời hứa trong cơn say điệu vũ.

Lạy Chúa Giêsu mến yêu, thánh Gioan Tẩy Giả đã sống, đã chết vì tình yêu với Đấng là Sự Thật mà ngài loan báo. Xin cho chúng con biết noi gương thánh nhân, luôn sống cho, sống với và sống vì sự thật, nhất là luôn trung thành với Chúa cho đến cùng. Amen.

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Sống để tìm cái gì?

Sống để tìm cái gì?

                                                             Tâm Thương

                                                    nguồn: Thanhlinh.net

Bạn thân mến, cuộc đời này là một hành trình đi tìm. Có người đi tìm cho mình một công việc thật nhiều tiền. Nhiều người đàn ông giàu có, thành đạt lại muốn tìm cho mình một người vợ sắc đẹp “nghiêng nước nghiêng thành”. Nhiều bạn trẻ lo tìm cho mình một trường dạy Anh văn thật nổi tiếng để hy vọng có một chỗ làm cho nhiều công ty nước ngoài thu nhập rất cao. Gần tới ngày tựu trường, nhiều sinh viên tất bật lo đi tìm cho mình một chỗ ở trọ như ý muốn v.v… Tựu trung lại, ai cũng muốn đi tìm hạnh phúc cho đời mình. Đó là hành trình đi tìm nhiều thứ. Thế nhưng, có bao giờ bạn và tôi thử đi tìm chính mình. Vậy, đi tìm chính mình nghĩa là gì? Phải chăng sống là đi tìm chính mình cũng là hành trình đi tìm người khác và đi tìm Thiên Chúa?

Đi tìm người khác

Trước tiên, đi tìm chính mình cần phải được cắm mốc trong mối tương quan với người khác. Vì thế, một linh mục nhạc sĩ đã viết: “Tôi chỉ thật sự là người nếu tôi sống với anh em tôi. Thế giới này không ai là một hòn đảo. Loài hoa này không có loài hoa lạc loài.” (Bài hát Không Ai Là Một Hòn Đảo – Linh mục Giuse Đào Trung Hiệu). Ngoài ra, một nhà tư tưởng trứ danh nào đó đã trải nghiệm: “Sống không bạn chết cô đơn.” Thật vậy, cuộc đời này sẽ chẳng còn ý nghĩa gì khi mỗi chúng ta đánh mất mối tương quan tốt đẹp với người khác. Không được người khác quan tâm, chúng ta sống trong cô đơn chán chường.

Không có tình yêu thương nơi người khác, cuộc đời này vô vị biết bao. Bởi thế, Thánh Phaolô đã viết những lời thật thấm thía: “Anh em đừng mắc nợ nhau điều gì ngoài món nợ của tình thương.” Quả thật, đây là món nợ bám víu thân phận cuộc đời mỗi Kitô hữu chúng ta. Bởi vậy, có người bảo rằng: “Nợ tiền đem trả thì vơi. Nợ tình đem trả ai ơi càng đầy.”

Mấy ngày trước đây, cha tôi lên bệnh viện Đại học y dược Tp. Hồ Chí Minh khám bệnh. Cha đi từ ba giờ sáng. Đến chiều tối, mẹ tôi không thấy cha về. Cha đi không mang theo điện thoại. Vì phải đợi kết quả vào sáng hôm sau nên cha ở lại Sài Gòn một đêm. Mẹ tôi thấp thỏm lo âu trong nước mắt. Mọi người ai cũng tìm mọi cách để tìm cha tôi. Cuối cùng, cha tôi bình an.

Mọi người ai cũng thấy ấm áp vui mừng trong lòng. Vậy đó, cuộc sống luôn dệt nên bởi nhiều mối tương quan với tha nhân.

Tương quan giữa chồng với vợ. Tương quan giữa cha mẹ và con cái. Tương quan bạn bè anh em v.v… Khi đánh mất những mối tương quan ấy, con người ta sẽ cảm thấy hụt hẫng. Đánh mất tương quan với tha nhân làm ta đau khổ. Đánh mất chính mình cũng là đánh mất cả một cuộc đời. Vì vậy, chúng ta cần phải đi tìm chính mình như thế nào?

Đi tìm chính mình

Triết gia Socrate có câu nói trứ danh: “Hãy tự biết mình.” Quả thật, con người hôm nay hiểu biết rất nhiều thứ. Tuy nhiên, người ta thường không hiểu biết về chính mình. Nhiều người sống nhưng không tìm ra ý nghĩa cho cuộc sống. Nhiều người không biết mình đang muốn cái gì, sống để làm gì? Vì thế, đi tìm chính mình nghĩa là trở về với sự thật sâu thẳm lòng mình. Dám nghĩ và dám sống thật với con người của mình. Đó là hành trình đi tìm chính mình. Danh ngôn có câu: “Biết người biết ta. Trăm trận trăm thắng.” Thế nên, biết rõ chính mình là một sự thành công lớn trong đời ta.

Thế nhưng, dòng chảy cuộc sống hôm nay luôn cuốn hút ta dính bén bởi nhiều thứ. Nào là những dính bén tình cảm. Nào là những dính bén quyền lực và tiền tài. Dính bén những thú vui thế thái nhân tình. Càng dính bén nhiều vào những thứ như thế, chúng ta càng dễ đánh mất chính mình. Bởi vậy, một tác giả đã cảm nghiệm như sau: “Dòng đời ngược xuôi, Chúa ơi con biết về đâu. Về đâu con đi tìm Ngài. Đi giữa cuộc đời con bơ vơ. Năm tháng cuộc đời con ngu ngơ.” Vậy, sống chỉ để tìm chính mình thôi vẫn chưa đủ. Con người cần đi tìm Thiên Chúa.

Đi tìm Thiên Chúa

Thiên Chúa là cội nguồn của vũ trụ. Ngài là ý nghĩa tối hậu cho vận mệnh con người. Thế nhưng, mỗi Kitô hữu chúng ta thường dễ để lạc mất sự hiện diện của Chúa trong đời. Ma quỷ, xác thịt và thế gian lôi kéo chúng ta ra khỏi mối tương quan với Thiên Chúa. Chúng ta lo tìm nhiều thứ không phải là Thiên Chúa. Cuối cùng, tâm hồn chúng ta cảm thấy trống rỗng.

Dù vậy, Chúa vẫn đi tìm chúng ta. Chúa yêu chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân. Chúa vẫn chờ đợi chúng ta như người cha già đợi chờ đứa con út đi hoang trở về như một tác giả nào đó đã viết: “Ngài có đó khi con tưởng mình đang cô đơn. Ngài bên con khi mà con không biết gì.”

Cuối cùng, có lẽ bạn và tôi đã biết mình sống trên đời để đi tìm cái gì cho đời mình. Vậy, chúng ta cần phải làm gì để dấn thân cho lý tưởng tìm Chúa làm lẽ sống cho đời mình?

Nguồn: WGPSG

CẦN PHẢI KÊU VAN THIÊN CHÚA TRỢ GIÚP!

CẦN PHẢI KÊU VAN THIÊN CHÚA TRỢ GIÚP!

                                                           Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt 

 

… Tôi thay đổi. Dù muốn dù không, tôi thay đổi. Tôi thay đổi nơi hình dáng, cách cư xử và tư tưởng. Đúng thế, bởi vì cuộc sống có một điều kiện cơ bản chính xác, đó là mối quan hệ. Thật vậy, không thể nghĩ rằng tôi có thể sống mà không liên hệ với điều gì đó, với người nào đó sống chung quanh tôi. Mỗi một kiểu trao đổi nào đó ở bên ngoài, vẫn khiến tôi phải can dự bằng sự đáp trả, bằng tư tưởng và bằng thái độ tương ứng với con người của tôi. Vậy thì, nếu có thay đổi nào đó liên hệ đến tất cả mọi người thì đáng cho chúng ta phải dành thời giờ để suy tư. Nhưng có sự khác biệt: có những thay đổi đưa con người vào tình trạng khủng hoảng, chẳng hạn như: thay đổi việc làm, thay đổi xứ sở mình đang sống hoặc phải đặt lại vấn đề khi có một biến cố bất ngờ xảy ra. Tôi bị bó buộc phải cố gắng tối đa hầu có thể thích ứng với hoàn cảnh mới, cũng như tìm kiếm một quân bình mới cho chính tôi để đáp ứng với thế giới bên ngoài. Thế là tôi bị mất hướng, xem ra như thể các chắc chắn cổ xưa giờ đây trở thành suy yếu, không còn đáng tin nữa. Bị mất hướng nhưng tôi vẫn hy vọng có các điểm tựa mới hầu giúp tôi được ổn định.

Cách đây vài năm, nếu nhớ không lầm, tôi có đọc một bài báo trong đó có một câu làm tôi suy nghĩ mãi và không bao giờ quên:
– Không ai được cứu rỗi nếu không biết tha thứ!

Khi chúng ta bị rơi vào vòng vây của chính mình hay bị cuốn hút vào các biến cố, hoặc khi xảy đến cho chúng ta điều gì đó làm cho chúng ta bị bấn loạn đảo điên, thì có lẽ, bước đầu tiên chúng ta phải làm là: Tha Thứ!

Tôi muốn nói rằng: Không hẳn chúng ta đã phạm một lầm lỗi nào đó khiến chúng ta phải rơi vào tình trạng hoang mang hoảng sợ. Không phải như vậy. Tôi chỉ muốn nới rộng tư tưởng đi đến chỗ: Hãy thương xót chính chúng ta! Cứ chấp nhận coi như chúng ta bị thua và chúng ta cần trở về tìm kiếm mối quan hệ quân bình với chính mình và với thế giới chung quanh chúng ta.

Đừng từ chối xem như thể đó là những ”chuyện bên ngoài chúng ta”, nhưng phải nhận biết và tái nhận biết cái khủng hoảng khiến chúng ta bị treo lơ lửng trên hố thẳm. Nên chấp nhận là chúng ta cần được giúp đỡ. Vậy hãy xin giúp đỡ và tiếp nhận sự giúp đỡ.

Mỗi khi có một thay đổi làm lo âu bấn loạn thì việc đầu tiên phải làm là thân thưa cùng THIÊN CHÚA. Khiêm tốn nhìn nhận với chính mình rằng sức lực hạn hẹp không cho phép chúng ta có thể thoát ra khỏi những giai đoạn trầm trọng của cơn khủng hoảng. Cần phải kêu van THIÊN CHÚA trợ giúp. Ngài làm được mọi sự và luôn luôn cứu giúp mọi người, không trừ ai.

Không ai được cứu rỗi nếu không biết tha thứ!

Thật vậy! Tha Thứ là ngôn ngữ của THIÊN CHÚA, là phương tiện Ngài ban cho để nói với chúng ta và nói với người khác. Hãy tìm nương ẩn nơi niềm tin vào THIÊN CHÚA trong những lúc gặp gian nan thử thách, giống y như thể là chúng ta trở về Nhà Cha. Xin Chúa ban cho chúng ta thoáng trông thấy ánh sáng mà trước đó chúng ta không còn trông thấy nữa, mặc dầu ánh sáng luôn luôn ở đó. Ngay trong những hoàn cảnh thay đổi khốn khổ nhất, xem ra không còn có hy vọng nào nữa, vẫn có một chút ánh sáng mặt trời len lỏi vào. Chẳng hạn như một cử chỉ nhỏ nhặt, một đóa hoa, một nụ cười, một tư tưởng. Hoặc dưới bất cứ hình thức nào khác. Điều quan trọng là phải quyết định mở rộng cửa để cho ánh sáng tràn vào nhà. Nên luôn luôn ghi nhớ rằng chúng ta không hứng chịu một thay đổi nhưng là sống một thay đổi. Và phải luôn luôn tha thứ như chính THIÊN CHÚA luôn luôn tha thứ cho chúng ta.

Chứng từ của nữ tu Maria Giacomina Stuani thuộc Đan Viện Agostiniano Thánh Nữ Rita thành Cascia (Trung Ý).

… Khi đến nơi gọi là ”Đồi Sọ”, họ đóng đinh Đức Chúa GIÊSU vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. Bấy giờ Đức Chúa GIÊSU cầu nguyện rằng: “Lạy CHA, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Luca 23,33-34) .. Được đầy ơn Thánh Thần, ông Têphanô đăm đăm nhìn trời, thấy vinh quang THIÊN CHÚA và thấy Đức Chúa GIÊSU bên hữu THIÊN CHÚA. Ông nói: “Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu THIÊN CHÚA”. Họ liền kêu lớn tiếng, bịt tai lại và nhất tề xông vào ông, rồi lôi ông ra ngoài thành mà ném đá. Họ ném đá ông Têphanô, đang lúc ông cầu xin rằng: “Lạy Đức Chúa GIÊSU, xin nhận lấy hồn con”. Rồi ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này”. Nói thế rồi, ông an nghỉ (Công Vụ 7,55-60).
 
(”Dalle API alle ROSE”, Bimestrale Del Monastero Agostiniano Santa Rita Da Cascia, Gennaio-Febbraio 2012, Nr.1, trang 31-33)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt 

Nguồn : vietvatican.net

Maria Thanh Mai gởi

Hãy Buông Ra

Hãy Buông Ra

  

Một đứa trẻ đang chơi cạnh một cái bình quý.

Nó thò tay vào bình và không thể rút ra được. 

Bố nó đến giúp, nhưng vô ích. 

Họ đã nghĩ đến việc phải đập cái bình đi. 

Ông bố nói, “Con trai, hãy cố nốt lần này. Thả lỏng và duỗi thẳng các ngón tay như bố đây này, rồi rút tay ra.”

Trước sự ngạc nhiên của bố, thằng bé kêu lên, “Không được bố ơi. Con không thể làm như thế được, nếu thế con sẽ làm rơi đồng xu của con mất.”

Có thể bạn sẽ cười, nhưng, hàng nghìn người trong chúng ta cũng giống cậu bé đó, cứ cố nắm giữ thứ gì đó vô nghĩa dù phải hi sinh những điều quý giá, thậm chí cả sự tự do! Vì thế, “hãy buông nó ra”, tôi thực lòng khuyên bạn điều đó.

P/s:Nhiều người trong chúng ta có khi tốn cả cuộc đời để loay hoay trong những cái không quan trọng để rồi bỏ qua những điều thực sự quan trọng. Không nói về những chuyện to tát trong cuộc đời mà ngay cả trong việc giải quyết một công việc cũng vậy.

Biết từ bỏ, biết hy sinh những điều không cần thiết, không quan trọng để tập trung thời gian và công sức vào những điều cần thiết, những điều quan trọng là một trong những bí quyết để thành công.

(tổng hợp từ nhiều nguồn)

 nguồn: Maria Thanh Mai gởi

PHÚC ĐỨC TẠI MẪU

 

PHÚC ĐỨC TẠI MẪU

1. LỜI CHÚA: Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” Người đáp: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói. Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng.

2.CÂU CHUYỆN: CÁCH DẠY CON CỦA MỘT BÀ MẸ

Mạnh Tử thuở nhỏ nhà ở gần nghĩa địa thấy người ta đào huyệt và mang xác chết đi chôn, về nhà cậu cũng bắt chước đào huyệt, khóc lóc và an táng người chết. Bà mẹ thấy thế tự nhủ rằng: “Chổ này không phải là chổ cho con ta ở đuợc“. Rồi bà liền dọn nhà ra phố chợ. Mạnh tử thấy người ta mua bán gian xảo, ăn nói chua ngoa tục tĩu, cậu cũng học chơi trò buôn bán xảo trá lừa lọc và ăn nói lỗ mãng với mọi người .Bà mẹ thấy thế tự nhủ rằng: “Chổ này cũng không phải là chổ ở tốt cho con trai ta“. Sau đó, bà dọn nhà đến gần trường học. Mạnh Tử thấy các học trò biết lễ độ kính trên nhường dưới và chăm chỉ học tập các sách thánh hiền, cậu cũng bắt chước học đòi bút nghiên đèn sách. Thấy vậy, bà mẹ rất hài lòng và tự nhủ rằng: “Đây mới thực là chỗ ở tốt cho con trai ta“.

Một hôm Mạnh Tử đến chơi nhà hàng xóm, thấy họ làm thịt heo liền về nhà hỏi mẹ rằng: ”Mẹ ơi, nhà bên cạnh người ta giết heo làm gì vậy ?” Bà mẹ nói đùa với con: ”Họ giiết heo cho con ăn đấy !”. Nói xong, biết mình lỡ lời, bà liền suy nghĩ “Con mình còn nhỏ chưa phân biệt thật giả đúng sai. Nếu ta nói dối nó thì chẳng khác gì ta đã dạy cho con ta nói dối hay sao ?” Sau đó, bà đã ra chợ mua một cân thịt heo về nhà làm món ăn ngon cho con.

Lần khác ,Mạnh Tử  đang học ở trường bỗng trốn học về nhà chơi. Bà mẹ đang ngồi bên khung cửi dệt vải, biết con trai trốn học, liền cầm con dao chặt đứt tấm vải đang dệt và dạy con rằng: ”Con ơi! Con đang học mà bỏ trốn đi chơi thì chẳng khác gì mẹ đang dệt tấm vải mà lại chặt đứt nó vậy !” Từ đó, Mạnh Tử quyết tâm chuyên cần học tập. Về sau ông đã trở thành một hiền nhân xuất chúng và rất nổi tiếng của nước Trung Hoa.

3.SUY NIỆM : 

Trong việc giáo dục con cái, người ta thường hay đỗ lỗi cho các bà mẹ nếu con cái bị hư hỏng như câu : ”Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà“. Tuy nhiên nếu con cái được thành đạt thì vai trò của bà mẹ cũng đựơc đặc biệt đề cao : ”Phúc đức tại mẫu“ do biết dạy dỗ con cái : “Dạy con từ thuở còn thơ“. Chính nhờ có một bà mẹ khôn ngoan, biết ứng xử nhanh nhậy và có khả năng tiêu liệu điều tốt cho con mà ngày nay chúng ta mới có được một hiền nhân rất nổi tiếng là thây Mạnh Tử. Vậy cha mẹ cần dạy con từ khi nào ? Phải dạy con những gì ? và nên dạy con bằng phương pháp nào ?

1)PHẢI DẠY CON TỪ KHI NÀO ?

Một nhà trồng tỉa muốn uốn cây cảnh mỹ thuật, cần phải uốn khi cây còn non mới đem lại kết quả tốt. Cha ông chúng ta cũng dạy các bậc làm cha mẹ : “Dạy con từ thưở còn thơ”. “Còn thơ” hay “còn nhỏ” còn được hiểu là ngay từ khi con còn trong bụng mẹ. Khoa học ngày nay cho thấy: Người mẹ cũng ảnh hưởng đến tâm tính và sức khoẻ của đứa con ngay từ lúc còn phôi thai. Việc giáo dục này được gọi là thai giáo. Trong thời gian này, các tâm tình và thái độ ứng xử của bà mẹ sẽ ghi dấu sâu đậm trên tâm tính thai nhi của mình. Tránh cho bà mẹ mang thai bị xúc động như buồn sầu bực tức, để thai nhi được phát triển khỏe mạnh cả về thể xác cũng như tâm hồn.

Tuy nhiên, thời gian thuận tiện nhất để trực tiếp giáo dục con cái là khi con bắt đầu nhận biết những lời cha mẹ dạy dỗ : “Dạy con từ thuở lên ba”. Trong giai đọan này gia đình chính là mái trường đầu tiên dạy cho đứa bé những bài học làm người, và cha mẹ chính là những “thày cô” được con tín nhiệm và vâng lời hơn cả, vì cha mẹ sống gần con, hiểu biết tính nết của con và có lòng yêu thương con hơn tất cả.

2) CHA MẸ CÔNG GIÁO CẦN DẠY CON NHỮNG GÌ?

Mục tiêu của việc giáo dục đức tin là giúp con cái thành một người trưởng thành nhân cách và thành con hiếu thảo của Cha trện Trời theo gương Chúa Giêsu là “Con yêu dấu luôn làm đẹp lòng Cha”.

a)Giáo dục nhân bản: Cha mẹ cần quan tâm giáo dục con về đức dục, trí dục, thể dục và tính dục:

-Thể dục: dạy con ăn ở vệ sinh sạch sẽ, bảo vệ sức khỏe bản thân.

-Trí dục: giúp con trau dồi học vấn và nghề nghiệp, có khả năng sống tự lập và giúp ích cho tha nhân.

-Đức dục: Lọai trừ các thói hư tật xấu và tập luyện các tính tốt. Nhất là các đức tính nền tảng như: khôn ngoan, công bình, khiêm tốn, thật thà, tiết độ và dũng cảm. Ngòai ra nam giới còn cần học Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, và nữ giới cần học về Công, Dung, Ngôn, Hạnh.

-Giới tính: Ngoài ra, trong việc giáo dục nhân bản cũng phải để ý đến việc giáo dục giới tính, hướng dẫn con cái về phái tính và tính dục. Việc giáo dục này nhằm mục đích giúp con cái hiểu biết căn bản về tính dục phù hợp với lứa tuổi và tầm nhận thức, để chúng có thể sống trong sạch, trưởng thành, xứng đáng là theo thánh ý Thiên Chúa. Trong việc giáo dục này, cũng cần dạy cho con cái biết sử dụng cách đúng đắn các phương tiện truyền thông, đặc biệt phim ảnh, trò chơi game và sử dụng mạng dưới sự kiểm sóat của cha mẹ.

b) Giáo dục đức tin:

Mến Chúa yêu người: Ngoài nền giáo dục nhân bản, cha mẹ công giáo còn phải giáo dục đức tin cho con, nghĩa là ngay từ nhỏ, đã phải dạy cho con biết “mến Chúa yêu người”, biết tuân giữ những giới luật của Chúa, năng tham dự những việc đạo đức, năng lãnh nhận các bí tích… Nhờ đó, con cái sẽ trở thành những tín hữu thực sự, nghĩa là có Đức Kitô trong tâm hồn và mang Đức Kitô giới thiệu cho người chưa biết Chúa.

Đáp lại tiếng Chúa kêu gọi: Trong việc giáo dục đức tin, cũng cần để ý tới việc giúp con cái nhận ra lời mời gọi của Chúa và sẵn sàng đáp lại ơn gọi dâng mình phục vụ Chúa theo lý tưởng tu trì.

Chia sẻ sứ vụ loan Tin Mừng: Khi con cái tới tuổi học giáo lý, cha mẹ nên quan tâm tìm hiểu hệ thống các lớp giáo lý tại giáo xứ của mình. Cha mẹ nên tham gia dạy giáo lý, là cách đơn giản để nâng cao trình độ của mình và trang bị khả năng đào tạo đức tin cho con cái sau này. Hiện nay việc giảng dạy giáo lý thường được giao cho Giáo lý viên chưa lập gia đình. Thật ra, đội ngũ Giáo lý viên cần những người có bề dày kinh nghiệm sống đức tin, nên Hội Thánh rất mong các cha mẹ trẻ quảng đại tham gia vào sứ mạng này.

4)Để việc giáo dục đạt kết quả tốt

a)Đồng tâm nhất trí: Cha mẹ phải nhất trí với nhau trong đường hướng và phương thức giáo dục con cái: Tìm hiểu tính tình, năng khiếu của con cái và phải biết dùng những phương pháp thích hợp với lứa tuổi để việc giáo dục đạt hiệu quả. Ngoài ra cha mẹ cần cộng tác với thầy cô nhà trường và các Giáo lý viên nhà thờ.

b)Làm gương sáng“Cha nào con nấy, mẹ nào con nấy”, “Cha mẹ hiền lành để đức cho con”; “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”; “Đời cha ăn mặn đời con khát nước”; ….Thật vậy, đứa con chưa có đủ trí khôn để phân biệt điều tốt và điều xấu, nên thường bắt chước những gì đập vào mắt nó. Vì thế, gương sáng của cha mẹ là điều cần thiết trong việc giáo dục con cái. Người xưa có câu: “Lời nói hương bay, Gương bày lối kéo”.

c)Tạo bầu khí gia đình đầm ấm: Thư chung của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 1980 số 12 viết: “Gia đình của anh chị em phải trở nên như một trường học về đức tin, một nơi để cầu nguyện, một môi trường sống bác ái yêu thương và rèn luyện tinh thần tông đồ để làm chứng nhân cho Chúa”.

d)Tìm hiểu con cáiViệc đầu tiên cần thực hiện là cha mẹ phải tìm hiểu con cái, phải biết con cái nghĩ gì, muốn gì, nói gì và làm gì thì mới có thể hướng dẫn chúng cách hữu hiệu. Duy trì phát triển điều tốt của con cái và uốn nắn nhắc bảo chúng lọai bỏ điều xấu, Cần dạy con bằng những lời lẽ ôn tồn tế nhị và yêu thương. Tránh la mắng con bằng lời thô lỗ tục tĩu.

e)Kiên nhẫn dạy dỗ: Người xưa đã từng khuyên: “Dục tốc bất đạt”. Trẻ con thường ham chơi và mau quên. Cho nên cha mẹ phải nói nhiều lần, phải nhắc đi nhắc lại để những lời khuyên ấy thấm dần vào đầu óc chúng. Nhất là phải dùng lời Chúa mà khuyên dạy con. Đừng bao giờ thất vọng nản chí trong việc sửa dạy con.

d) Cầu nguyện cho con cái:

Trong việc giáo dục con cái, hai vợ chồng cần chạy đến với Chúa, bởi vì như Chúa dạy: “Không có Thầy, anh em không làm được gì” (Ga 15,5). Đến với Chúa để xin Người soi sáng và hướng dẫn cách dạy dỗ. Năng cầu nguyện cho con cái, đặc biệt trong những giai đoạn phát triển khó khăn cuộc đời của chúng.

Sau cùng chúng ta cần học nơi Chúa Giêsu như Người đã nói : “Hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11,29). Người sẽ ban Thánh Thần cho ta để ta được biến đổi nên hiền lành và khiêm nhường noi gương Ngừơi. Đây là điều kiện để cha mẹ chu tòan sứ mệnh giáo dục con cái.

4. THẢO LUẬN:

 1)Hãy kể một số câu hướng đẫn cho các bậc cha mẹ trong việc giáo dục con cái và cho biết bà mẹ thày Mạnh Tử đã áp dụng những câu nào để day dỗ con mình ?”. (Chẳng hạn: ”Yêu  cho rôi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi; Dạy con từ thuở còn thơ; Học ăn học nói học gói học mở; Tiên học lễ,hậu học văn; Gần mực thì đen gần đèn thì ság…).

 2)Trong các phương cách giáo dục con cái nói trên, bạn thấy cách nào hữu hiệu nhất giúp cha mẹ chu tòan bổn phận giáo dục đức tin cho con cái ?

5.LỜI CẦU:

Lạy Chúa Giêsu. Xin giúp mỗi tín hữu chúng con ý thức và chuẩn bị cho mình có các nhân đức tự nhiên và siêu nhiên hầu chu tòan bổn phận nuôi dạy con cái cả về nhân bản và đức tin. Ước chi chúng con năng học sống Lời Chúa dưới ơn soi dẫn của Thánh Thần để được ơn biến đổi ngày càng nên hoàn thiện hơn, hầu có thể chu tòan bổn phận làm cha làm mẹ đạo đức, tích cực cộng tác với Chúa trong việc nuôi dạy con cái nên “Con rát yêu dấu luôn làm đẹp lòng Cha” noi gương Chúa khi xưa. Amen

LM ĐAN VINH

www.hiephoithanhmau.com

 nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Chống Công Giáo

Chống Công Giáo,

                                                                             Thanh Tam (08-02-2012)

Tôi là một tín hửu Công Giáo tầm thường như những tín hửu khác. Qua bao kinh nghiệm về cuộc đời của một con người trên 70 năm lăn lộn; cho đến giờ nầy, lúc viết mấy hàng chữ nầy, tôi vẫn muôn vàn yêu mến Giáo Hội của tôi. Tại sao? Thưa qua nhận xét và thấy rằng không có đạo nào có tỷ số tín hửu hành xữ sai phạm ít như trong đạo Công giáo: Với con số giáo sĩ trên dưới 50 ngàn, giáo dân chiếm 1, 2 tỷ người và cán bộ nam nữ làm việc, phụng sự xã hội thì vô số. Tôi nhớ cách nay lối 5 năm, đã đọc một tờ báo Công giáo cho hay theo thống kê của bộ Xã Hội Nam Hàn, người công giáo chiếm đa số về hoạt động từ thiện và ít phạm pháp nhất.

Những nước văn minh và tiến bộ đều ảnh hưởng sâu đậm nền triết lý Thiên Chúa Giáo. Những nước xa lìa hoặc lăm le bỏ Thiên Chúa Giáo như Nga Sô, Bắc Hàn, Trung Quốc kể cả Việt Nam … thì không bại cũng xuội; dân tình thì sống như trong địa ngục trần gian. Tại sao? Thưa vì chính quyền không có tình thương! Một chế độ thuộc quyền quỷ vương; chẳng ai thiết tha đến vận mạng chung. Sự liên hệ dựa trên tư lợi, ích kỷ và óc tư hửu.

Ông HTA viết và suy nghỉ không phải là sai: Đã là giáo sĩ thì phải thế nầy…phải thế kia…mới đúng. Nhưng đó là lý tưởng mà con người cố thực hiện. Thiên Chúa cho chúng ta bộ óc biết phân biệt tốt xấu, cái nên và không nên làm…Nhưng xem ra khó và có những thời điểm rất khó trong việc thực hiện; vì bản chất con người không chỉ quá yếu kém, dòn mõng mà còn tự do nữa; trong khi thế gian lại quá hấp dẫn. Hãy nhìn đảng Cộng Sản; mọi thành viên đều nói: Không được tham nhũng. Rốt cùng anh nào cũng xe hơi đắt giá, nhà lầu 3,4,5… tầng, bồ nhí hằng tá.

Nhìn lên Thập Giá, nếu ai có quả tim “mềm” sẽ không cầm nỗi giòng lệ. Ôi Giêsu! Người quá dịu hiền! Ngài không muốn Thiên Chúa Cha dùng đến phép công thẳng đối với tội nhân, nên Ngài đã chịu mọi cực hình để đền thay: “Xin Cha tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm…”

Nói đến đây, lại nhớ lời bà xã tôi trách: Thế thì Đức Chúa Cha ác?! Tôi đã trả lời “Không”! Nếu bảo rằng Đức Chúa Cha ác “1” đối với con người, thì con người đã tỏ ra ác “1” triệu lần hơn đối với Thiên Chúa. Tôi chứng minh: Thiên Chúa cho chúng ta khuynh hướng dục tình; cốt để truyền sinh. Chúa chỉ đòi buộc xữ dụng cho mục đích chính đáng. Chúng ta đã lạm dụng; Nam nữ gần gủi với nhau thiếu chính đáng đã đành, có chữa lại giết bào thai; tức phạm tội sát nhân! Mỗi năm có hằng triệu triệu thai nhi bị giết. Tội phạm lan tràn như thế mà muốn Chúa ngồi nhìn thôi sao?!

Tôi cũng vừa đọc bài viết về tội ác của Công Gíao thời Trung Cổ như giết người phạm tội gọi là dị giáo. Tôi buồn và cũng đau nữa, nhưng rất thông cảm. Tại sao? Vì theo dị giáo là kẻ phản nghịch với Thiên Chúa (thờ ngẫu tượng). Kẻ theo Chúa, vừa có quyền vừa cực đoan thì cái gì họ cũng có thể làm. Có một điều chắc chắn là Thiên Chúa không muốn việc giết người, dù kẻ đó là ai. Tôi quyết đoán như sắt đá là vì tôi tin Thiên Chúa toàn năng; nhưng vì tình yêu mà nhiều sự việc đã không xảy ra như ý muốn của con người. Thiên Chúa vẫn chờ đợi tội nhân sám hối và những gì con cái Chúa gánh chịu sẽ không bao giờ trở nên vô ích. Cũng như cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu đã mang lại cái mà những anh em đang chống Công Giáo gọi là “thảm trạng, đại họa”…Không đúng chút nào! Họ đang nghỉ sai và vì đã nghỉ sai nên viết cũng sai luôn. Thế gian quả là giả trá; chẳng ai nói đúng 100%; được 50,60% là quí lắm rồi.  

Tôi thông cảm với các anh em đang viết bài chống, bươi móc đánh phá Công Giáo. Tôi biết quí vị đang hổ trợ chiến dịch bài Công Giáo bên quê nhà, đồng thời “viết” để kiếm sống. Người Công Giáo gọi việc làm của các anh là “bất lương”; nhưng biết làm sao hơn? Tôi chỉ muốn nhắc nhở các anh em đó chớ quên rằng Công Giáo từng bị bách hại qua 2000 năm rồi. Hậu quả là gì? Nhiều anh em bảo: Kẻ bỏ đạo ngày càng đông! Đúng! Nhưng kẻ gia nhập đạo bao nhiêu bạn có biết không? Ngày càng đông hơn kẻ “bỏ”.

Chứng minh: Lúc Chúa Giêsu tắt thở, chỉ có 11 người theo. Giờ đây là 1,2 tỷ.

                                                                                                Thanh Tam (08-02-2012)

YÊU KẺ THÙ

YÊU KẺ THÙ

Martin Luther King

Martin L King JrHãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.
Như vậy anh em mới trở nên con cái của Cha anh em, Ðấng ngự trên trời
“.

Mt 5,44-45

Có lẽ không có lời khuyên nào của Ðức Giêsu lại khó đem ra thực hành cho bằng lời khuyên “Hãy yêu kẻ thù”. Một số người chân thành nghĩ rằng, trong thực tế, không ai có thể giữ được lời khuyên này. Yêu người yêu mình thì dễ, còn ai lại đi yêu kẻ tìm cách làm hại mình một cách công khai hay âm thầm? Ðối với một số người khác như triết gia Nietzsche chẳng hạn, lời khuyên “Hãy yêu kẻ thù” cũng đủ để chứng minh rằng đạo đức Kitô giáo chỉ dành cho những kẻ bạc nhược, nhát đảm, chứ không phải cho những người can đảm, dũng mạnh. Họ cho rằng Ðức Giêsu là người quá lý tưởng và thiếu thực tế.

Mặc dầu các câu hỏi này có được nhấn mạnh đến đâu chăng nữa và các thắc mắc có được lặp đi lặp lại không biết bao nhiêu lần, lời khuyên của Ðức Giêsu vẫn tra vấn chúng ta hơn bao giờ hết. Hết biến động này đến biến động khác không ngừng nhắc nhở chúng ta rằng con người thời đại ngày nay đang đi trên con đường hận thù dẫn đến diệt vong và trầm luân. Thay vì là lời khuyên đạo đức của một kẻ mộng tưởng, thì lời khuyên “Hãy yêu kẻ thù” lại là một điều cần thiết tuyệt đối, nếu chúng ta muốn sống còn. “Hãy yêu kẻ thù” là chìa khóa giúp chúng ta giải quyết các vấn đề trong thế giới ngày nay. Ðức Giêsu không phải là con người quá lý tưởng để quên mất thực tế; Người là con người thực tế đích thực.

Tôi tin rằng Ðức Giêsu biết rõ khó khăn khi nói phải “yêu kẻ thù”. Người không toa rập với những kẻ cho rằng sống đúng theo các đòi hỏi luân lý là chuyện dễ. Người biết rõ rằng mọi biểu hiện của tình yêu đích thực đều xuất phát từ sự phó thác hoàn toàn và dứt khoát vào Thiên Chúa. Khi Ðức Giêsu nói: “Hãy yêu kẻ thù”, thì không phải là Người không biết đến các đòi hỏi của lời khuyên này. Mỗi từ trong câu này đều có nghĩa của nó. Các Kitô hữu có trách nhiệm khám phá ý nghĩa của lời khuyên này và đem ra thực hành trong đời sống hàng ngày.

I

Chúng ta hãy tỏ ra thực tế và đặt cho mình câu hỏi sau đây: Làm thế nào chúng ta yêu kẻ thù được?

Thứ nhất, chúng ta phải phát huy và củng cố khả năng tha thứ. Không biết tha thứ thì cũng không biết yêu thương. Không thể bắt đầu yêu kẻ thù mà trước đó không chấp nhận cần phải không ngừng tha thứ cho những kẻ làm hại chúng ta. Cũng cần phải hiểu rõ rằng người tha thứ trước tiên phải là người đã bị lừa gạt và bị ám hại, người bị áp bức và gánh chịu bất công. Kẻ phạm tội có thể xin tha thứ, có thể quay về với chính mình và, như đứa con hoang đàng, đang rảo bước trên con đường đầy gió bụi nào đó, với lòng ao ước được tha thứ. Nhưng chỉ có người thân cận đã bị xúc phạm, người cha giàu lòng thương xót mới có thể đưa kẻ có tội vào ngôi nhà ấm áp và mới có thể tha thứ.

Tha thứ không phải là không biết điều đã phạm là một hành vi xấu hay gọi hành vi xấu này bằng một tên gọi không đúng với thực chất của nó. Ðúng hơn, tha thứ là xem hành vi xấu này không còn là một chướng ngại để thiết lập những quan hệ mới. Tha thứ là một chất xúc tác tạo nên một bầu khí cần thiết cho một cuộc lên đường, một khởi đầu mới. Tha thứ là cất đi một gánh nặng, hay xóa bỏ một món nợ. Chúng ta có thể nói: “Tôi tha thứ cho anh, nhưng tôi sẽ không bao giờ quên điều anh làm cho tôi”. Nói như vậy không phải là tha thứ thật. Ðành rằng chúng ta không bao giờ quên, nghĩa là xóa bỏ hoàn toàn trong tâm trí điều người khác đã làm cho mình. Nhưng nếu chúng ta tha thứ, thì chúng ta cũng quên, nghĩa là điều người khác đã làm cho chúng ta không còn là một chướng ngại khả dĩ ngăn cản các quan hệ mới. Cũng không bao giờ chúng ta có thể nói: “Tôi tha thứ cho anh, nhưng tôi không muốn quan hệ với anh nữa”. Tha thứ là hòa giải, là gặp lại nhau. Nếu không, chẳng có ai có thể yêu kẻ thù. Mức độ chúng ta có thể tha thứ là thước đo mức độ chúng ta có thể yêu kẻ thù vậy.

Thứ hai, người thân cận làm tổn thương chúng ta chính là kẻ thù. Nhưng phải nhìn nhận rằng hành vi xấu của con người đó không bộc lộ hết toàn diện con người đó. Nơi kẻ thù tệ nhất, chúng ta có thể khám phá ra những điểm tốt lành. Nhân cách của mỗi người chúng ta có cái gì đó mang dáng dấp tâm thần phân lập, làm chúng ta tự chựng lại một cách bi thảm. Một cuộc chiến trường kỳ luôn diễn ra nơi mỗi cuộc sống, và có cái gì đó làm chúng ta phải thốt lên như thi sĩ Ovide: “Tôi nhận biết sự thiện, tôi chấp nhận sự thiện nhưng tôi lại làm sự ác”, hay như triết gia Platon khi nghĩ rằng con người giống như một cỗ xe song mã, nhưng mỗi con kéo theo một hướng, hoặc như thánh Phaolô: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,19).
Ðiều này đơn giản có nghĩa là nơi người xấu nhất vẫn có cái tốt và nơi người tốt nhất vẫn có cái xấu. Một khi khám phá ra chân lý này, chúng ta sẽ ít chiều theo khuynh hướng tự nhiên là ghét kẻ thù. Nếu nhìn kỹ bên dưới bề mặt, bên dưới những hành vi xung động, chúng ta có thể tìm thấy nơi kẻ thù một điều tốt lành, đồng thời chúng ta cũng nhận thấy rằng điều ác họ làm cũng không biểu lộ hết con người họ. Nhìn kẻ thù trong một ánh sáng mới, chúng ta mau chóng nhận thấy rằng hận thù nơi họ xuất phát từ sợ hãi, kiêu căng, ngu dốt, tiên kiến, hiểu lầm. Nhưng, dù sao, hình ảnh Thiên Chúa nơi họ không thể bị xóa nhòa. Như thế, chúng ta yêu kẻ thù vì biết rằng họ không hoàn toàn xấu về mọi phương diện và họ cũng không ở ngoài tầm tác động của tình yêu cứu chuộc mà Thiên Chúa dành cho họ.

Thứ ba, chúng ta phải tránh làm nhục kẻ thù. Trái lại, phải tìm cách gây thiện cảm và cảm thông với họ. Có thể chúng ta có thừa khả năng cũng như các điều kiện thuận lợi để làm nhục kẻ thù. Ðiều không thể tránh được là họ cũng có những sơ hở, những giây phút yếu đuối và chúng ta có thể tận dụng các cơ hội này để thẳng tay tiêu diệt họ. Nhưng đây lại là điều chúng ta không bao giờ được phép làm. Trái lại, mỗi lời nói, mỗi hành vi của chúng ta phải góp phần làm tăng thêm sự hiểu biết, cảm thông với kẻ thù, đồng thời tạo điều kiện để khai mở dòng thiện chí đã bị ngăn chặn bởi bức tường hận thù.

Chúng ta đừng lầm lẫn tình yêu chân thành với tình cảm ướt át. Tình yêu có cái gì đó sâu lắng hơn cảm xúc. Ở đây có lẽ tiếng Hy Lạp sẽ giúp chúng ta làm sáng tỏ ý nghĩa của tình yêu. Trong Tân Ước, tiếng Hy Lạp sử dụng ba từ để nói về tình yêu. Eros là tình yêu mang tính cách thẩm mỹ lãng mạn. Trong các đối thoại của Platon, eros là sự vươn lên của linh hồn tới lãnh vực thần linh. Philia là tình yêu liên kết cách mật thiết các bạn hữu. Chúng ta yêu người chúng ta ưa thích, và chúng ta yêu vì được người khác yêu. Agapè là tình yêu đặt nền tảng trên hiểu biết và cảm thông, ước muốn sáng tạo và cứu chuộc dành cho tất cả mọi người. Là tình yêu đầy tràn, không chờ đợi điều gì cho mình từ phía người khác, agapè là tình yêu Thiên Chúa tác động lòng trí con người. Ở mức độ này, chúng ta yêu mọi người không phải vì họ làm vừa lòng chúng ta, hay vì chính họ lôi kéo chúng ta, cũng không phải vì nơi họ có cái gì đó thuộc thần linh. Chúng ta yêu mỗi người chỉ vì Thiên Chúa yêu họ. Ở mức độ này, chúng ta yêu kẻ làm điều ác trong khi vẫn ghê tởm điều ác họ làm.

Bây giờ, chúng ta có thể nói gì khi nói “Hãy yêu kẻ thù”. Có lẽ chúng ta hãy vui mừng vì Ðức Giêsu đã không nói “Hãy quý trọng kẻ khác”, vì đây quả là điều chúng ta không thể làm được đối với một số người nào đó. Làm sao chúng ta có thể quý trọng một người muốn tiêu diệt chúng ta bằng cách đặt các chướng ngại trên đường đời chúng ta? Làm sao chúng ta có thể quý trọng một người đang đe dọa mạng sống con cái chúng ta, phá hoại nhà cửa chúng ta? Quả thật, đây là điều không thể làm được. Nhưng Ðức Giêsu cho chúng ta biết tình yêu thì ở một mức độ cao hơn quý trọng. Khi khuyên chúng ta yêu kẻ thù, Ðức Giêsu không nói đến tình yêu theo nghĩa eros hay philia; nhưng Người muốn nói tình yêu theo nghĩa agapè – một tình yêu đặt nền tảng trên cảm thông và ước muốn sáng tạo cứu chuộc dành cho mọi người. Chỉ bằng cách đi theo con đường này và dấn thân vào tình yêu này, chúng ta mới có thể trở thành con cái Cha chúng ta, Ðấng ngự trên trời vậy.

II

Bây giờ, chúng ta hãy từ thực tế sang lý thuyết, từ làm thế nào sang tại sao. Tại sao chúng ta phải yêu kẻ thù?

Lý do thứ nhất thật là hiển nhiên. Lấy oán báo oán chỉ có thể làm tăng thêm hận thù, chỉ có thể làm cho đêm tối lại càng thêm tối tăm mù mịt bởi thiếu vắng ánh sáng các vì sao. Bóng tối không thể nào xóa tan bóng tối. Chỉ có ánh sáng xóa tan bóng tối. Hận thù tăng thêm hận thù; bạo lực kéo theo bạo lực; tàn nhẫn nhân thêm tàn nhẫn, như một cơn gió xoáy ập tới tiêu diệt tất cả. Như vậy, khi khuyên chúng ta yêu kẻ thù, Ðức Giêsu đưa ra một lời cảnh giác mạnh mẽ về cái chung cuộc cuối cùng mà chúng ta không thoát khỏi, nếu không đem lời Người ra thực hành. Trong thế giới ngày nay, phải chăng chúng ta đang bị dồn vào chân tường là yêu kẻ thù, nếu không… thì điều gì sẽ xảy ra? Phản ứng dây chuyền của sự ác – hận thù tăng thêm hận thù, chiến tranh kéo theo chiến tranh, chúng ta phải chận đứng phản ứng này, nếu không tất cả chúng ta sẽ rơi vào hố diệt vong.

Lý do thứ hai chúng ta phải yêu kẻ thù là vì hận thù làm tổn thương tinh thần và hủy diệt nhân cách. Quá nhấn mạnh đến hận thù như là một sức mạnh xấu, nguy hiểm, chúng ta thường quan tâm đến các tác hại nơi người bị oán ghét. Ðây là điều dễ hiểu vì hận thù gây nhiều tác hại không thể cứu vãn nỗi nơi các nạn nhân. Chúng ta đã chứng kiến các tội ác ghê tởm khi thấy hơn sáu triệu người Do Thái bị tiêu diệt man rợ bởi một tên điên rồ có tên là Hitler, khi thấy các người anh em da đen bị đọa đày bởi một tầng lớp người da trắng, khi thấy cảnh điêu tàn đổ nát do chiến tranh gây nên, khi thấy các bất công khổ nhục mà con cái Thiên Chúa phải gánh chịu.

Nhưng cũng có một điều mà chúng ta không bao giờ được phép quên, đó là hận thù cũng gây tác hại cho chính con người oán ghét kẻ khác. Như một căn bệnh ung thư tiềm ẩn, hận thù làm tổn thương và phá vỡ thế thống nhất của nhân cách. Hận thù làm con người không còn biết nhận thức các giá trị khách quan, coi cái đẹp là xấu, cái xấu là đẹp, lầm lẫn cái thật với cái giả và cái giả với cái thật.

Trong một cuốn sách về tính cách bệnh hoạn của nạn kỳ thị chủng tộc, E. Franklin Frazier cho chúng ta thấy một số trường hợp người da trắng bình thường, dễ mến trong quan hệ hàng ngày với những người da trắng khác, nhưng lại có những phản ứng rất phi lý, bất bình thường khi được mời gọi xem các người da đen là những người bình đẳng với mình hoặc chỉ thảo luận về các bất công do nạn kỳ thị chủng tộc gây nên. Ðây là điều xảy ra khi hận thù ngự trị lòng người. Các nhà phân tâm học cho biết rằng có những điều kỳ lạ như thế tồn tại và phát triển nơi tiềm thức, có những cuộc xung đột ác liệt diễn ra nơi nội tâm con người: đa số những điều này thường phát xuất từ hận thù. Họ đặt chúng ta trước một sự lựa chọn: “Yêu thương hoặc tiêu diệt”. Tâm lý học hiện đại nhìn nhận điều Ðức Giêsu đã dạy thuở xưa: hận thù hủy diệt còn tình yêu phát triển và thống nhất nhân cách một cách lạ lùng và hữu hiệu.

Lý do thứ ba chúng ta phải yêu kẻ thù là vì tình yêu là sức mạnh duy nhất có khả năng biến thù thành bạn. Chúng ta không bao giờ có thể loại bỏ kẻ thù bằng cách lấy hận thù đối lại hận thù. Chúng ta chỉ có thể loại bỏ kẻ thù bằng cách loại bỏ hận thù chiếm ngự lòng chúng ta. Tự bản chất, hận thù phá hoại, hủy diệt; còn tự bản chất, tình yêu sáng tạo và xây dựng. Tình yêu đổi mới bằng sức mạnh cứu chuộc.

Abraham Lincoln đã có một kinh nghiệm như thế về tình yêu và đã trở thành một gương mẫu tuyệt vời cho hậu thế. Trong cuộc vận động tranh cử chức vụ Tổng Thống Hoa Kỳ, Stanton là người chống đối Lincoln kịch liệt nhất. Vì một lý do nào đó, Stanton thù ghét và tìm hết mọi cách để hạ nhục Lincoln trước công chúng. Stanton chế diễu dáng điệu của Lincoln với lời lẽ khiếm nhã, đả kích mãnh liệt và gây bối rối cho Lincoln. Nhưng các cố gắng của Stanton đã không ngăn cản Lincoln đắc cử Tổng Thống Hoa Kỳ. Khi lập nội các, Tổng Thống Lincoln đã chọn một số cộng sự viên thân tín nắm giữ các bộ trong chính phủ nhằm thực hiện chương trình đã được đề ra. Ðến ngày phải chọn người giữ chức vụ quan trọng nhất là Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng, các bạn có biết Tổng Thống Lincoln đã chọn ai không? Không ai khác ngoài Stanton! Quyết định này đã làm dư luận xôn xao và các cố vấn thân tín đã phải lên tiếng can gián Tổng Thống: “Ngài đã phạm sai lầm. Ngài có biết Stanton là ai không? Và đã chống lại ngài quyết liệt như thế nào không? Stanton là kẻ thù của ngài và sẽ tìm cách phá hoại chương trình ngài đã đề ra. Ngài đã suy nghĩ kỹ chưa?” Tổng Thống Lincoln đã trả lời một cách lịch sự và thẳng thắn: “Tôi biết Stanton cũng như những điều Stanton đã nói và đã làm để chống lại tôi. Nhưng, tại quốc gia này, nhìn kỹ, tôi thấy Stanton là người thích hợp nhất để giữ chức Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng”. Và trong cương vị của mình, Stanton đã tận tình phục vụ Tổng Thống và Quốc Gia mình. Vài năm sau, Tổng Thống Lincoln bị ám sát. Nhiều người đã hết lời ca ngợi Lincoln. H. G. Wells xem Abraham Lincoln là một trong sáu người vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại. Nhưng một trong số những lời đã được nói để ca ngợi Tổng Thống Lincoln, không một lời nào có thế sánh được với những lời Stanton đã nói. Ðứng trước thi hài của người một thời đã là kẻ thù của mình, Stanton đã nói về Abraham Lincoln như một con người vĩ đại nhất đã sinh ra trên trái đất này, và ông tuyên bố: “Từ nay, Abraham Lincoln thuộc về lịch sử”.

Nếu Lincoln thù ghét Stanton, thì cả hai đều xuống mồ như kẻ thù. Nhưng nhờ sức mạnh tình yêu, Lincoln đã biến thù thành bạn. Ông cũng đã có một thái độ tương tự như vậy đối với Miền Nam trong cuộc nội chiến, khi chiến sự đến hồi ác liệt nhất. Một trong số quý bà nghe ông diễn thuyết, đã tỏ thái độ bất bình về cách phát biểu của Tổng Thống. Ông nói: “Biến thù thành bạn, phải chăng đã là tiêu diệt được kẻ thù rồi?” Ðây chính là sức mạnh của tình yêu có sức cứu độ.

Tuy vậy, chúng ta phải nói ngay rằng các lý do trên khiến chúng ta yêu kẻ thù cũng chưa phải là lý do quyết định. Lý do căn bản nhất và được diễn tả rõ ràng nhất chính là lý do Ðức Giêsu đã nêu lên khi nói: “Anh em hãy yêu kẻ thù ?. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Ðấng ngự trên trời”. Chúng ta được mời gọi làm công việc khó khăn này cốt là để cùng với Thiên Chúa tạo nên được một mối tương quan độc nhất vô nhị. Chúng ta có thể trở thành con cái Thiên Chúa. Nhờ yêu thương, chúng ta có thể biến khả năng này thành hiện thực. Chúng ta phải yêu kẻ thù vì, như vậy, chúng ta mới có thể biết được Thiên Chúa và nhận biết Thiên Chúa là Ðấng Thánh.

Hiển nhiên là những điều tôi vừa nói có liên quan đến vấn đề phân biệt chủng tộc. Sẽ không bao giờ có được một giải pháp lâu dài cho vấn đề này bao lâu các người bị áp bức chưa yêu kẻ thù. Bóng tối của nạn kỳ thị chủng tộc chỉ có thể bị xóa tan bởi ánh sáng của tình yêu tha thứ. Hơn ba thế kỷ, các người Mỹ da đen đã bị ngược đãi, ban ngày thì chịu đòn vọt, ban đêm thì bị ức hiếp một cách bất công và tàn nhẫn. Sống trong tủi nhục, hẳn chúng ta cũng muốn lấy ác báo ác, lấy hận thù đối lại hận thù. Nhưng nếu điều này xảy ra, thì trật tự mới chúng ta muốn xây dựng chẳng qua cũng chỉ là bản sao của trật tự cũ. Với tất cả sức mạnh và lòng khiêm nhường, chúng ta phải lấy tình yêu đối lại hận thù.

Dĩ nhiên làm như vậy quả là không thực tế. Sống là chiến đấu, cạnh tranh, giành giật, ăn miếng trả miếng. Thế mà tôi lại nói với các bạn rằng Ðức Giêsu dạy chúng ta phải yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ đã ngược đãi các bạn. Cũng như đa số các nhà giảng thuyết, phải chăng tôi cũng chỉ là một người quá lý tưởng để quên mất thực tế? Các bạn có thể nghĩ rằng, trong một thế giới mộng tưởng nào đó, thì điều tôi nói còn có thể nghe được, còn trong thế giới lạnh lùng, nghiệt ngã như thế giới chúng ta, thì hẳn là không nghe được rồi.

Thưa các bạn, trong quá khứ, chúng ta đã đánh mất quá nhiều thời gian khi đi theo một đường lối tạm gọi là thực tế, và nó đã dẫn chúng ta đến xáo trộn sâu xa và hỗn loạn. Nhiều cộng đồng đã lún sâu vào hận thù và bạo lực. Vì lợi ích của quốc gia chúng ta, vì lợi ích của toàn thể nhân loại, chúng ta phải từ bỏ đường lối này. Làm như vậy không có nghĩa là chúng ta không còn cố gắng đấu tranh cho công lý. Còn chút sức lực nào, chúng ta sẽ dùng nó để giải thoát quốc gia này khỏi cơn ác mộng của nạn kỳ thị chủng tộc. Nhưng trong quá trình đấu tranh, chúng ta không bao giờ từ bỏ bổn phận phải yêu kẻ thù. Dấn thân chống lại nạn kỳ thị chủng tộc, chúng ta hết lòng yêu thương những kẻ kỳ thị chủng tộc. Không có cách nào khác để chúng ta tạo nên một cộng đồng trong đó mọi người yêu thương nhau. Với những người thù ghét chúng ta nhất, chúng ta nói: “Quý vị làm chúng tôi đau khổ; để chống lại, chúng tôi chịu đựng đau khổ. Quý vị dùng bạo lực; để chống lại, chúng tôi dùng sức mạnh tinh thần. Ðối với chúng tôi, quý vị muốn làm gì tùy ý; chúng tôi vẫn hết lòng yêu thương quý vị. Theo lương tâm, chúng tôi không thể tuân theo những luật lệ quý vị áp đặt, vì không cộng tác làm điều ác cũng quan trọng như cộng tác làm điều lành. Quý vị tống chúng tôi vào ngục, chúng tôi vẫn yêu thương quý vị. Quý vị sai các tên khủng bố gieo rắc khiếp sợ trong các cộng đồng chúng tôi vào ban đêm, chúng tôi vẫn yêu thương quý vị. Xin quý vị biết cho rằng khả năng chịu đựng đau khổ của chúng tôi sẽ làm quý vị nản lòng, kiệt sức. Một ngày kia chúng tôi sẽ giành được tự do, nhưng không chỉ cho chúng tôi mà thôi. Chúng tôi sẽ gửi đến quý vị một lời kêu gọi đủ sức thức tỉnh lương tâm, lay chuyển con tim và biến đổi quý vị thành những người anh em trong khi chúng ta cùng nhau tiến bước trên đường đời. Như vậy, chúng tôi đã chiến thắng hai lần rồi vậy”.

Tình yêu là sức mạnh tồn tại lâu dài nhất ở thế gian này. Như được minh chứng một cách rõ ràng nơi đời sống Ðức Giêsu, tình yêu sáng tạo là công cụ hữu hiệu nhất mà nhân loại có thể sử dụng trong công cuộc tìm kiếm hòa bình và an toàn. Napoléon Bonaparte là một thiên tài quân sự vĩ đại. Người ta kể lại rằng, sau nhiều năm chinh chiến, ông đã nhận định như sau: “Alexandre, César, Charlemagne và tôi đã lập được những đế quốc rộng lớn. Nhưng nhờ vào gì? Nhờ sức mạnh. Thế mà, nhiều thế kỷ trước đây, Ðức Giêsu đã lập một đế quốc đặt nền tảng trên tình yêu và, cho đến ngày nay, hàng triệu người vẫn sẵn sàng chịu chết vì Người”. Ai có thể nghi ngờ tính xác thực của lời nhận định này? Các thiên tài quân sự đã biến mất; các đế quốc rộng lớn đã sụp đổ. Còn đế quốc mà Ðức Giêsu đã lập và đặt nền tảng vững chắc trên tình yêu thì vẫn tồn tại và không ngừng phát triển rộng lớn. Ðức Giêsu đã bắt đầu với một nhóm người dấn thân, thấm nhuần tinh thần của Người. Nhờ vậy, họ đã mở toang cánh cửa đế quốc Rôma, và rao giảng Tin Mừng khắp mọi nơi. Ngày nay, đế quốc trần thế của Ðức Kitô gồm hơn chín trăm triệu người, sinh sống khắp trên mặt đất. Ngày nay, chúng ta lại nghe nhắc lại lời hứa về một cuộc chiến thắng:

Ðức Giêsu ngự trị khắp nơi
bao lâu mặt trời chiếu soi ban ngày;
Triều đại Người lan rộng khắp nơi
bao lâu mặt trăng chiếu soi ban đêm
.”

Và một đoàn hợp xướng khác hân hoan đáp lại:
Nơi Ðức Kitô chẳng có Ðông và chẳng có Tây,
chẳng có Nam và chẳng có Bắc.
Nơi Ðức Kitô tình yêu huynh đệ
liên kết mọi người trên toàn cõi đất
.”

Ðức Giêsu luôn có lý. Lịch sử để lại biết bao cánh đồng đầy ắp xương khô tại những quốc gia đã từ chối nghe lời Người. Thế kỷ XX này, ước gì chúng ta biết nghe lời Người và đem ra thực hành, trước khi quá trễ! Ước gì chúng ta ý thức được rằng chúng ta sẽ không bao giờ là con cái đích thực của Cha chúng ta ở trên trời, trừ khi chúng ta yêu kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi chúng ta.

Martin Luther King: “Aimer les ennemis” trong “La Force d’aimer”, Ed. Casterman, Paris 1965, trg.63-74. Tóm tắt

Những cụ già VN không ai nuôi dưỡng thì kiếm sống như thế này đây

Những cụ già VN không ai nuôi dưỡng thì kiếm sống như thế này đây . Thật kính phục thay lòng tự trọng của các cụ vì nếu các cụ chỉ ra ngồi bên chợ , vỉa hè thì chỉ trong chốc lát , tiền bố thí sẽ gấp nhiều lần tiền các cụ kiếm được trong một ngày .

80 tuổi còm cõi, gồng mình gánh hàng rong đi bán đã khiến tôi rơi nước mắt.

Các bà tuổi đã cao, lưng đã còng, tóc đã bạc nhưng đôi chân vẫn sớm hôm đều bước giữa dòng đời…

 Xúc thương những cụ bà lặn lội gánh hàng rong

Gánh những bó rau từ lúc trời tờ mờ sáng

 Xúc thương những cụ bà lặn lội gánh hàng rong

Bán hàng tới lúc 1h đêm

 Xúc thương những cụ bà lặn lội gánh hàng rong

Đôi chân trần mải miết bước đi

 Xúc thương những cụ bà lặn lội gánh hàng rong

Gánh nặng trên vai những thứ quà lặt vặt

 Xúc thương những cụ bà lặn lội gánh hàng rong

Là 2 chiếc làn nhựa chỉ chứa được mấy đôi giày

 Xúc thương những cụ bà lặn lội gánh hàng rong

Dù cả ngày chỉ kiếm thêm được vài ba đồng vẫn còn hơn không có

 Xúc thương những cụ bà lặn lội gánh hàng rong

Dù những món hàng đem bán chỉ là mớ rau muống, bó dọc khoai.

 Xúc thương những cụ bà lặn lội gánh hàng rong

Số tiền lãi chỉ được tính bằng 1-2 nghìn lẻ.

 Xúc thương những cụ bà lặn lội gánh hàng rong

Các cụ vẫn rất yêu đời, vẫn cười tươi…

 Xúc thương những cụ bà lặn lội gánh hàng rong

….Tuổi già đè nặng trên vai nhưng không có ai chia sẻ nên dù tuổi cao, dù lưng mỏi, các cụ vẫn phải lặn lội sớm khuya để kiếm thêm miếng cơm ăn, kiếm manh áo mặc…

 Xót lòng trước cảnh cụ bà còng lưng đi nhặt rác

Hình ảnh cụ bà nhặt rác

nguồn: Từ Đặng Thịnh gởi