Thánh Phaolô, Tông đồ của mọi người

Thánh Phaolô, Tông đồ của mọi người

Trầm Thiên Thu (Chuyển ngữ)

Chúa Cứu Thế


VRNs (25.01.2014) – Sài Gòn – Từ một người hăng say bắt đạo Chúa, thậm chí còn tham gia giết chết Thánh Stêphanô (Phó tế, Tử đạo tiên khởi), đã trở thành người nhiệt thành rao giảng Chúa-Giêsu-bị-đóng-đinh. Có thể nói rằng nếu không nhờ con người mạnh mẽ, thông minh và có ảnh hưởng rộng lớn này, thì niềm tin Kitô giáo có thể vẫn chỉ ở phạm vi nhỏ hẹp tại Do thái.

Từ Giêrusalem đến Damascô, sau 3 năm Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thập giá, một thanh niên Do thái ở Tarsus tên Saolê bị ngã ngựa vì một thị kiến ấn tượng. Tiếng Chúa Giêsu gọi: “Saolê! Tại sao anh tìm bắt tôi?”. Bị mù vì thị kiến, thanh niên này phải có người dẫn vào thành phố. Chưa đầy 3 ngày, thanh niên này bình phục và trở nên một thụ tạo mới – một người được tuyển chọn của Thiên Chúa.

Như vậy, nhờ sự thay đổi lớn trong tâm hồn, một trong các nhân vật vĩ đại nhất trong lịch sử Kitô giáo đã trở nên một người có đức tin. Chàng đã bỏ tên Do thái để thay tên Latin là Phaolô. Với tư cách là Tông đồ của dân ngoại, Phaolô được sai đi truyền giáo ở Địa trung hải. Ông chuyển Kitô giáo từ một giáo phái nhỏ Do thái thành một tôn giáo có tầm cỡ thế giới. Khi thuyết giảng và thư từ, Phaolô đã có hệ tư tưởng mà cho đến nay vẫn là nền tảng của việc giáo huấn Kitô giáo.

Ngoài các thư chúng ta có, trong sách Công vụ Tông đồ là nhật ký của bạn bè, thánh Luca – thầy thuốc và tác giả Phúc âm thứ ba. Từ các nguồn đó nổi bật một đời sống có nhiều khủng hoảng, quyết định nhanh chóng, lối thoát nhỏ hẹp, những dịp gặp gỡ, và những bùng nổ rải rác tạo nên câu chuyện phiêu lưu kỳ thú.

Thánh Phaolô sinh khoảng năm 5 tại Tarsus, Tiểu Á, ngày nay là thành phố tĩnh lặng ở Thổ nhĩ kỳ, nhiều người ở đây đã trở nên công dân của Đế quốc Rôma.

Khi còn nhỏ, Saolê học kinh doanh, có thể vì người cha là người buôn vải. Nhưng Saolê lại có tài lãnh đạo. Hơn 10 tuổi, Saolê đến Jerusalem học với thầy Gamaliel. Trong đền thờ chật người, lần đầu Saolê nghe nói đến Đức Kitô rao giảng ở Galilê. Dù chưa hề gặp Chúa Giêsu, “tiếng gọi” kia vẫn làm ông thay đổi. Ông đã bách hại Giáo hội sơ khai bằng cách hành hạ các tín hữu cho đến chết, trói và tống ngục cả đàn ông lẫn phụ nữ. Người đầu tiên bị Phaolô thủ tiêu là thánh Stêphanô, bị ném đá đến chết trước mặt người Pharisiêu. Vô tri bất mộ. Nhưng rồi Phaolô đã nhận là mình được Thiên Chúa thương đặc biệt. Phaolô đã tin tưởng, kiên trì, tự nhận mình yếu đuối, và ơn tha thứ tuôn đổ trên ông. Phaolô cũng đã than phiền về tính vô định của mình: “Điều tôi muốn thì tôi lại không làm, điều tôi không muốn thì tôi lại làm” (Rm 7:19). Nhưng nhiệm vụ lịch sử của Phaolô là định mệnh không chọn một người khá hơn. Là dân biệt phái, Phaolô đã trích Cựu ước khoảng 200 lần trong các thư gởi các Giáo đoàn. Là người Rôma, Phaolô đã đi khắp Đế quốc, nói 3 ngôn ngữ: tiếng Aram, tiếng Do thái và tiếng Hy lạp, đồng thời còn thông thạo tiếng Latin nữa.

Với tài năng như vậy, Phaolô khả dĩ tự biến thành “mọi sự cho mọi người” – Do thái đối với người Do thái, Rôma đối với người Rôma, ngụy biện đối với người ngụy biện, chân chất đối với người chân chất. Trổi vượt, khôn ngoan và hòa đồng, Phaolô còn là người rất nhân bản, dám tin rằng mọi người đều bình đẳng dù sống ở thời kỳ phân biệt giai cấp.

Hành trình tông đồ của thánh Phaolô đã đưa ngài tới những miền đất lạ, rảo bước khắp Tiểu Á, đến đảo Cyprus để “thả lưới”, vượt sang Âu châu để rửa tội cho những người ở Macedonia. Ngài đến đâu cũng gặp thuận lợi và được chấp nhận như một người Do thái. Chỉ khi đến với dân ngoại, thánh Phaolô mới gặp sự tức giận của người Do thái. Các tư tế cho rằng nam giới phải chịu cắt bì mới được cứu độ, vì luật đã ghi như vậy. Nhưng với tư cách một nhà truyền giáo, thánh Phaolô yêu cầu mỗi Kitô hữu phải bỏ luật Môi-sê, nếu không Kitô giáo không bao giờ là tôn giáo của mọi người, mà vẫn chỉ là sự thay đổi của Do thái giáo: Đức tin mới là vấn đề chứ không phải lề luật theo nghĩa hạn hẹp của nó. Từ đó phân chia thành Công giáo và Do thái giáo.

Không hiểu bằng cách nào mà thánh Phaolô “thương lượng” được để có thể đi qua vùng Cilician Gates, nơi có nhiều bọn thảo khấu ẩn nấp trên các vách đá cheo leo và các thác nước hiểm trở như thế. Ngài thường đi bộ, nhiều đêm phải ở lại trong hang động ẩm ướt, gió lộng, tuyết phủ, mưa bão liên tiếp. Chỉ một mục đích duy nhất khiến ngài miệt mài hành trình tông đồ là “tận hiến cuộc đời cho Chúa Giêsu Kitô”.

Ngài vẫn mưu sinh khi có thể, bằng cách làm vải lều – nghề cũ của ngài. Chẳng hạn ở Côrintô, thành phố trù phú của người Hy lạp, ngài làm chung với vợ chồng người Ý. Cơ sở phát triển tốt. Mọi tầng lớp dân chúng đều ghé vào mua hoặc tham quan và trò chuyện. Tính cách và sự duyên dáng của ngài đã gây ấn tượng với khách thập phương: Một cộng đoàn mới.

Nhiều người ngoại giáo gia nhập đạo. Thánh Phaolô khuyên họ đừng nóng giận, xảo trá, nguyền rủa hoặc mỉa mai người khác. Thời gian ngài ở Côrintô khoảng năm 51 (sau công nguyên), cũng là thời điểm ngài viết các thư gởi các giáo đoàn và các sứ đồ. Kho tàng văn chương độc nhất vô nhị này là một phần trong Tân ước ngày nay, được xuất bản cùng với các Phúc âm. Được viết bằng tiếng Hy lạp cho các giáo đoàn sơ khai và các cá nhân, các thư của ngài viết không có ý tạo nên công việc đơn lẻ. Kết hợp với nhau, các thư có cấu trúc chặt chẽ về tư ưởng tôn giáo, làm cho thánh Phaolô trở nên thần học gia đầu tiên của Kitô giáo. Ngài còn là học giả uyên bác, tử tế, lịch thiệp. Những điều ngài viết ra là những trân châu ngọc bảo.

Thư gởi giáo đoàn Rôma là thư dài nhất và là kiệt tác của thánh Phaolô. Các nền tảng như ân sủng, công trạng và ý muốn tự do, bắt đầu bằng khả năng và chính xác, đó là khởi nguồn cho các thần học gia Kitô giáo. Quan niệm chính của thánh Phaolô là Ơn Cứu Độ: Loài người sống trong tội cho đến khi Thiên Chúa sai Con Ngài là Đức Giêsu đến cứu thoát. Nhờ cuộc sống và cái chết trên Thập giá, Đức Giêsu đã cứu độ nhân loại. Mọi người thực hiện Ơn Cứu Độ của chính mình bằng ân sủng và đức tin. Thánh Phaolô ẩn dụ bằng việc cởi bỏ “con người cũ” có thể ám chỉ việc thay đổi tâm tính của ngài sau biến cố ở Damascus. “Con người mới” sống trong Đức Kitô và “cái chết không còn thống trị trên Ngài”. Trước đây cô đơn và bị bỏ rơi, nhưng thánh Phaolô đã tìm thấy nguồn vui nơi chính Đức Kitô và anh em, và hân hoan tuyên bố vào cuối thời gian rằng chúng ta được kết hợp với Chúa trong vinh quang của Ngài, chúng ta sẽ gặp Ngài trực diện.

Nhiệm vụ của thánh Phaolô gọi ngài đến một nơi khác là Giêrusalem, dù ngài định đi Rôma. Ngài đến Palestine với điềm chẳng lành. Sự thù ghét manh nha trong giới lãnh đạo Do thái. Khi thánh Phaolô vào đền thờ, có tiếng gọi giật ngược. Ngài bị kết án tử vì tội đưa dân ngoại vào đền thờ. Họ kéo ngài ra khỏi đền thờ và hành hạ gần chết. Một binh sĩ Rôma kịp xông vào cùng với vài binh sĩ khác giải cứu thánh Phaolô. Rồi sau đó ngài lại bị tống ngục ở Rôma. Nhiều học giả cận đại cho rằng thánh Phaolô bị kết án và được tha bổng. Các tác giả viết sách Kitô giáo cho biết thánh Phaolô đến tận Tây ban nha và Á châu. Đó là thời gian chống Kitô giáo dữ dội. Khoảng năm 60, thánh Phaolô bị bắt lần nữa và bị giải về Rôma. Tương truyền chính vua Nero, người chống Kitô giáo kịch liệt, đã ngồi ghế thẩm phán kết án thánh Phaolô bị xử trảm tại Hang Khuynh Diệp gần Rôma. Người ta nói rằng thủ cấp của thánh Phaolô rơi xuống và nảy lên 3 lần trên đất tạo thành 3 giếng nước. Cách đó khoảng 2 dặm là Đại Thánh đường Thánh Phaolô Ngoại thành được xây dựng chỉ sau khi ngài tử đạo một thời gian ngắn.

Đức Giêsu đã tạo lập một niềm tin mới, chuyển hóa một Saolê thành một Phaolô hiên ngang đem niềm tin đó tới mọi nơi trên thế giới để có một đạo Công giáo như ngày nay.

ERNEST O. HAUSER

Trầm Thiên Thu (Chuyển ngữ)

Nói Dối

Nói Dối

Nói dối là nói điều không thật: Bịa đặt, phao truyền, xuyên tạc, để nói xấu, vu khống, chụp mũ, bôi bẩn – hoặc tráo trở, đổi trắng thay đen, “nhổ rồi liếm” là thủ đoạn trong đấu trường chính trị hoặc của kẻ phản phúc, của phường vô ơn, ăn cháo đá bát, có thể xảy ra trong bất cứ xã hội nào trên thế giới. Tuy nhiên – trong xã hội Việt Nam hiện nay, điều nầy trở thành một căn bệnh trầm kha, lan tràn khắp nước, khắp mọi lãnh vực, mọi cơ quan, mọi lứa tuổi. Bệnh dối trá đang hoành hành thống trị cả nước ta…

Hai mươi năm (1954-75) miền Bắc sống dưới chế độ hoàn toàn bưng bít, nhà cầm quyền CS thường phịa ra những chuyện hoang đường như chuyện “miền Nam nghèo khổ không có chén ăn cơm”, “xe tăng địch làm bằng giấy”, “cháu ngoan bác Hồ dùng súng trường, một mình bắn hạ 6 tàu bay “con ma” của địch” v.v… để giáo dục nhồi nhét vào đầu trẻ con và tuyên truyền trong quần chúng… Trẻ con in trong trí. Người lớn tin bằng lời.

Bởi vì – “nói dối, nói dối mãi, người ta sẽ tin”. Câu chuyện Tăng Sâm giết người trong sách QVGKT là một bằng chứng: Lần thứ nhứt có người nói Tăng Sâm giết người. Mạnh mẫu không tin. Lần thứ 2, không tin. Lần 3, bà mẹ Tăng Sâm hoảng hồn bỏ chạy… Adolf Hitler áp dụng những phương pháp trị dân trong quyển “Mein Kampf” (Mon combat) – do chính ông là tác giả: “Nói dối nhỏ, người ta không tin – nói dối lớn, nói mãi, người ta sẽ tin”.

Nói dối, gian trá, lừa dối đã được các chế độ CS thế giới nghiên cứu đến mức tinh vi… được nâng lên hàng sách lược trị dân. Ông Hà nhân Văn – một nhân sĩ tại hải ngoại nhận xét về sự nói dối của chế độ CS: “Nói láo không ngượng miệng, không biết hổ thẹn, không biết liêm sĩ… Nói láo như là 1 phản ứng của con chó Pavlov, để ngụy tạo sự “tự nguyện” là sở trường. Nhưng khi bị lật tẩy, thực tế được phơi bày thì phải sử dụng phương án 2 là bạo lực. Bỏ sở trường, dùng sở đoản”.

Vua nói dối, quan nói dối – dân cũng phải nói dối – nói dối từ trên xuống dưới – nói dối ở mọi cấp, mọi ngành – nói dối trong học đường, ngoài xã hội, trong sự đối xử với nhau. Nói dối để làm ăn, để giao dịch – để thăng quan tiến chức, cả đến trong sự đối xử nhau trong cuộc sống hằng ngày. Trong một xã hội, mọi người đều nói dối, mà mình ngay thật, thì thật khó sống? Rốt cuộc người ngay thật nhất cũng phải nói dối – nói dối để sống còn. Về chuyện nầy, ông Khổng có nói một câu nói rất hay: “Ở chung với người bất lương thì như đi vào chợ cá ươn, lâu mà chẳng biết hôi tanh vì mình đã hóa hôi tanh rồi vậy”. Sống trong một xã hội nói dối, lâu ngày mình cũng thành người nói dối mà không biết, vì mình đã hóa người nói dối rồi!

Xã hội Việt Nam bây giờ – “giả dối lên ngôi, đạo dức suy đồi” – đến ông Bộ Trưởng Giáo dục Nguyễn thiện Nhân cũng phải lên tiếng công nhận “Đạo đức trong gia đình Việt Nam đồng nghĩa với sự dối trá”. Thầy dối trá thầy, trò dối trá trò – quản lý giáo dục báo cáo láo, nạn mua bằng bán bằng, bán đề thi, mua quan bán tước hiện đang là một đại họa cho nền giáo dục Việt Nam. Thậm chí đến trong gia đình cha con, chồng vợ cũng dối nhau, vì không tin nhau, nói dối như là một phản ứng của con chó Pavlov. Việc chính trị hóa nền giáo dục đã tạo cơ sở cho sự DỐI TRÁ đang làm bá chủ đất nước. Xin hãy nghe những nhà trí thức, nhà văn, nhà báo, bloggers, diễn đàn trên mạng trong nước lẫn ngoài nước, các đài quốc tế RFA, RFI, BBC…

Nói láo từ A tới Z:

Hầu hết những trí thức, nhà văn, nhà giáo có lương tâm, những ai còn nghĩ đến tiền đồ Tổ Quốc Việt Nam, đều lên tiếng về một xã hội dối trá đến cùng cực: Giả dối từ A đến Z: Ông giáo sư Trần kính Nghị từ Hà nội mỉa mai: Ở VIỆT NAM, MỌI THỨ ĐỀU GIẢ, CHỈ CÓ NÓI DỐI LÀ THẬT”. Một giáo sư khác từ Huế – ông Hà văn Thịnh, nói: “Tình trạng giả dối ở Việt Nam lan tỏa từ A đến Z. Trong bản chất, xã hội Việt Nam có SỰ GIẢ DỐI, ÍCH KỶ, VÔ CẢM VÀ TÀN NHẪN. Đó là những biểu hiện văn hóa Việt Nam hiện nay. Người ta giả dối từ A đến Z, từ trên xuống dưới, ai muốn làm gì thì làm, ai muốn lừa sao thì lừa, muốn tự tung, tự tác hay ăn cướp thế nào đó vẫn được”

Căn bệnh trầm kha:

Nói dối đã trở thành CĂN BỆNH TRẦM KHA. Nhà văn Nguyên Ngọc không giấu được sự cảm xúc của mình: “Một trạng thái chán chường sâu sắc và mênh mông về đạo dức xâm chiếm mọi người. Tâm trạng chán chường trước sự sa sút về đạo đức phát sinh từ một căn bệnh cứ vây kính quanh mình, va vào đâu cũng gặp, dưới mọi kiểu, trắng trợn hay tinh vi – ĐÓ LÀ SỰ GIẢ DỐI”. Tôi cho rằng căn bệnh nặng nhứt, chí tử nhất, toàn diện nhứt của xã hội ta là BỆNH GIẢ DỐI”.

Trong một tham luận nổi tiếng của nhà văn Trần mạnh Hảo đọc tại Đại hội nhà văn lần thứ XIII – ông nói rằng: “Ông cha chúng ta đã đánh thắng giặc Hán, Đường, Tống, Minh, Thanh, để bảo vệ đất nước. Tất cả các thứ giặc kể trên cọng lại cũng không ghê gớm bằng giặc NÓI DỐI đang tàn phá Tổ Quốc, giống nòi ta.”.

Nhiều đảng viên, tuổi đảng cao hơn tuổi hai cuộc chiến tranh tại Việt Nam, đặc biệt là ông Nguyễn Khải, cuối đời rất đau xót mà phải lên tiếng về sự dối trá toàn diện của xã hội Việt Nam trong quyển sách “Đi tìm cái tôi đã mất”: “Nói dối hiển nhiên không cần che đậy (bỏ một đoạn)… Nói dối lem lém, nói dối lì lợm nói không biết xấu hổ, không biết run sợ vì không có ai hỏi lại.”(Nguyễn Khải – Đi tìm cái tôi đã mất)

Tướng Trần Độ cũng nhận xét về xã hội Việt Nam hiện nay: “Đặc điểm bao trùm chế độ chính trị xã hội hiện nay là NÓI LÁO – nói một đàng làm một nẻo. Lãnh đạo lừa dối, Đảng lừa dối, cán bộ lừa dối, làm ăn giả dối, giáo dục giả dối, đến gia đình cũng lừa dối nhau”(Trần Độ – Nhật Ký Rồng Rắn)

Tại sao?

Tất nhiên – phải do nhiều nguyên nhân đến từ nhiều phía: Theo nhận xét của tác giả Đại Nghĩa (Danlambao): “Do chính Hồ chí Minh mang con vi trùng bệnh hoạn từ chủ nghĩa CS quốc tế về truyền bá trong đất nước ta”. Và do sách lược của Đảng Cộng sản (ban Tuyên giáo Trung Ương) chủ trương: Kiểm soát toàn bộ đời sồng tinh thần của nhân dân bằng một bộ máy tuyền truyền tinh vi có hệ thống – biến thái nhân dân thành con người XHCN, viết lại lịch sử bằng sử quan CS, hủy diệt đạo đức truyền thống của Tổ tiên và thay thế bằng văn hóa duy vật, tôn sùng lãnh tụ, vinh danh “anh hùng lao động”, đề cao “đạo đức Cách Mạng”, “yêu nước là yêu Xã hội chủ nghĩa, yêu nước là yêu đảng”, tẩy não, cải tạo mọi tầng lớp nhân dân. Để thực hiện chánh sách trên – bộ máy tuyên truyền phải sử dụng vũ khí NÓI DỐI, bóp méo lịch sử để nhào nặn ra con người XHCN. Thực trạng xã hội hiện nay là đạo đức truyền thống gần như bị hủy diệt. Cảnh nhiễu nhương hỗn loạn, đạo đức suy đồi là kết quả của sách lược hủy diệt văn hóa cũ của chế độ CS. Ngoài ra – để củng cố bộ máy độc tài, trị dân có sách lược, các lãnh tụ CS thế giới đều nằm lòng tư tưởng của 2 tác phẩm nổi tiếng sau đây:

1.- “The prince” của NICCOLO MACHIAVELLI, xuất bản năm 1613, Machiavelli viết: “Vì con người vô ơn hay thay đổi, phản phúc khi có quyền lợi, hèn nhát và tham lam, nên tạo sự sợ hãi thì an toàn hơn là tạo sự yên thương”. Theo tác giả, phép trị dân không thể dùng tình thương để cảm hóa vì con người thường vô ơn và hay phản phúc, nên phải dùng bạo lực sắt máu cho dân sợ hãi mà phục tùng. Bạo lực phải đi đôi với nói dối. Nói dối phải đi kèm với sự bưng bít và bạo lực. Nói dối không đi kèm với 2 điều kiện nầy thì nói dối dễ bị khám phá, bị lật tẩy – và vô hiệu. Bạo lực mà không nói dối thì chỉ là bạo lực của chế độ độc tài phong kiến, dễ bị lật đổ. Muốn cho dân tin thì phải nói dối. Và “Phải làm cho dân vừa yêu, vừa sợ. Nếu không thể làm cho dân yêu mến thì cũng phải tuyệt đối duy trì nỗi sợ hãi, để họ không bao giờ có ý nổi loạn. Đảng ta luôn luôn biến động thay đổi không ngừng, biết bù đắp khiếm khuyết, che dấu yếu điểm, phô trương sức mạnh và vô cùng linh động làm lan tỏa chân rết đến mọi ngỏ ngách của xã hội, kiểm soát cái dạ dày lẫn linh hồn của nhân dân”.(Bài nói chuyện trong buổi họp kiều vận của một cán bộ cao cấp tại hải ngoại). Nguồn: Việtland.

2.- “Mein Kampf” (Mon combat) xuất bản ngày 18-Juillet 1925 tại Đức và 1934 – do dịch giả André Calmettes, nhà xuất bản Les Nouvelles Editions Latines Paris, ấn hành 1934. Sách được dịch ra 16 thứ tiếng và bán được từ 1924 đến 2008 là 80.000.000 quyển. (Nguồn: Vikipedia). Theo đó – Hitler sử dụng những phương pháp tẩy não con người, để bắt con người phải phục tùng tuyệt đối. Một phương pháp đặc biệt trong sách lược trị dân là NÓI DỐI: “Cứ nói dối, nói dối mãi, người ta sẽ tin”.

Vì muốn nắm quyền lực lâu dài, 2 tác phẩm trên đây chắc chắn là sách gối đầu giường của các lãnh tụ CS thế giới. Ngoài ra – các nhân vật lịch sử nổi tiếng độc tài như Napoleon đệ nhứt, tàn bạo như Tần thủy Hoàng, tài ba như Ngô Khởi, Quản Trọng và ghê gớm như Vệ Ưởng – một kỳ tài, tác giả của “Ngũ gia liên bảo”và hình luật tố cáo nhau vô cùng tàn khốc đời chiến quốc – chắc chắc sẽ được Mao trạch Đông nghiên cứu rút tỉa những phương sách và kinh nghiệm trị dân bằng bạo lực và nói dối.

Nhìn lại các chế độ CS Liên Xô, Nam Tư, Đông Âu, Trung Quốc, Bắc Hàn v.v… sách lược trị dân đều là NÓI DỐI VÀ BẠO LỰC. Đảng CS Việt Nam không là một ngoại lệ, cũng rập khuông CS Trung Quốc và Liên Xô.

Chính Tổng bí Thư M.Gorbachev xác nhận: “Tôi đã bỏ nửa cuộc đời đi theo lý tưởng CS, nhưng hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng CS chỉ biết nói dối và truyên truyền.

Còn ai biết rõ Cọng sản hơn ông Trùm Cộng Sản Liên Xô?

Đạo đức suy đồi, Văn hóa xuống cấp…

Đạo đức xuống dốc thê thảm dìm xã hội trong sự hỗn loạn, trong tệ trạng chưa từng thấy. Nhan nhãn hằng ngày trên mặt báo “lề đảng”, “lề dân”, các diễn đàn trên mạng, các bài phóng sự từ trong nước gửi ra, hình ảnh xác thực trong you tube, các bài của các người về nước chứng kiến tại chỗ.

Bộ mặt xã hội Việt Nam:

Tại Việt Nam hiện nay, ngày nào cũng cướp, cũng giết, cũng có những tội phạm xã hội khủng khiếp. Nó lan tràn khắp nước, không còn là một hiện tượng riêng lẻ mà toàn bộ hệ thống xã hội.

Những vụ chặt tay cướp xe, đâm người cướp của giữa đường phố, xông vào tiệm vàng cướp giựt, xông vào nhà bắt trói gia chủ cướp của giữa ban ngày, thậm chí trộm một lúc 11 xe gắn máy tại một chung cư… (Văn Quang – Thời Báo) Nạn gã gẫm phụ nữ, trẻ em vị thành niên bán vào các đông mãi dâm ở Kampuchia, Ma cau… Nạn buôn phụ nữ, bắt cỡi trần truồng cho mấy thằng Đại Hàn, Trung Quốc, Đài Loan ngắm nhìn sờ mó để tuyển chọn.. Phụ nữ Việt bị để trong lồng kiến bán đấu giá tại Mã Lai, trên bích chương bán công khai tại Đại Hàn. Đó là một quốc nhục chưa từng thấy. Nhân phẩm người phụ nữ Việt xuống cấp như một món hàng bày bán ngoài chợ… Những sự thật sờ sờ ra đó – ngày nay không còn ai nghi ngờ gì nữa.

Ở học đường, giáo dục bị chính trị hóa. Học sinh không được giáo dục những giá trị nhân bản về tinh thần, về quốc gia dân tộc, về đạo đức làm người. Chỉ có một loại đạo dức là đạo đức Cách Mạng: “Yêu nước là yêu đảng”. Chính sách giáo dục hủy diệt văn hóa truyền thống của ông cha, tạo ra những hậu quả hỗn loạn, học sinh đánh đập, đâm chém nhau đổ máu, một nhóm học sinh đứng ngoài vỗ tay cổ võ (tại trường Ứng Hòa B -Hà Nội), cảnh nữ sinh nắm tóc, xé áo, xô ngã té xuống đất, chửi nhau bằng lời lẽ hết sức thô tục, hạ cấp, một số nữ sinh lạnh lùng ngồi ngó (xem ảnh). Tháng 3 – 2010 – một nữ sinh khác đánh đập rất tàn nhẫn một nữ sinh ngay giữa hè phố, dân chúng đi đường làm ngơ, vô cảm…

Tồi tệ hơn nữa – một Hiệu Trưởng Trung học tên Sầm Đức Xương tại Hà Giang, bắt ép nữ sinh của mình làm gái chơi hiến thân cống nạp cho các quan đầu tỉnh là Nguyễn trường Tô. Chuyện thầy giáo Nguyễn quang Hoàng dùng súng khống chế, cưỡng ép tình dục với nữ sinh tại khách sạn – chuyện một nữ sinh ở Cà Mau khai trước Công An là có quan hệ tình dục với thầy giáo Phạm Thái Tây 2 lần, để được thầy hứa cho tiền và cho biết đề thi để lên lớp… Tại TP mang tên bác, một cô giáo trường Marie Curie phạt một nam sinh 18 tuổi bằng cách sờ ngay vào chỗ kín của cậu nầy. Chuyện động trời như vậy mà H.T Nguyễn Văn Vân lại bao che lấp liếm, cho là “một sai sót nhỏ”. (Tin CTV News). Thật đáng xấu hổ cho nền giáo dục Việt Nam hiện nay.

Học đường không còn là nơi tôn nghiêm để dạy dỗ học sinh nên người, nơi mà tình phụ tử, tình mẫu tử, tình sư đệ, tình anh em bầu bạn, những giá trị đạo đức truyền thống của ông cha: Nhân, nghĩa, Lễ, Trí, Tín, được giảng dạy trong môn Đức Dục. Nền giáo dục cũ dựa trên Nhân Bản, Dân tộc và Khai Phóng đã bị xóa bỏ… Cho nên những cảnh trên đây xảy ra cùng khắp nước. Không thể ghi hết được.

Học đường nay là nơi buôn bán cấp bằng, bán đế thi, thầy dụ dỗ trò, trò quan hệ tình dục với thầy. Trò với trò đánh nhau đổ máu. Nữ sinh giựt tóc, xô té xuống sân trường, đánh nhau với nữ sinh. Trẻ con nói chuyện với nhau bằng một ngôn ngữ hết sức hạ cấp. Thậm chí, trò nói với thầy bằng câu: “Đéo biết” – thầy hỏi vậy trả lời “đéo” được. Thầy giáo, nhà mô phạm hành xử như một côn đồ, xách dao rượt chém người láng giềng đổ máu phải vào bệnh viện tại thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Tiến sĩ Nguyễn xuân Diện ngao ngán nói rằng: “Những vụ giết người càng ngày càng táo bạo, kẻ ác thủ tuổi đời ngày càng trẻ, cách thức giết người càng ngày càng dã man, độc ác hơn”.

Nói có sách, mách có chứng. Một cuộc điều tra xã hội của báo chí tại Việt Nam, kết quả như sau: 30 – 40% học sinh tiểu học nhiễm thói lừa dối – 40-50 % hs Trung Học nhiễm thói lừa dối và gian lận – lên Đại Học tăng đến 50-60 %. Càng lên cao càng lừa dối và gian lận. (Đối thoại online ngày 24-7-2007). Ở trường dối gạt thầy, về nhà dối gạt cha mẹ. Cấp 1:20% ; Cấp 2: 25 % ; Cấp 3: 64 %. Càng cao càng thạo nói láo. (RFA online ngày 30-9-2013).

Bộ mặt xã hội nhiễu nhương, trộm cắp giết người, đánh nhau đổ máu xảy ra như cơm bữa – người đối xử với người không một chút tình người, không chút lòng nhân trước cảnh thương tâm bệnh hoạn ngặt nghèo. Mọi người như chực hờ xâu xé nhau. Ra đường, chỉ vì một cái nhìn, một câu nói mà có thể xảy ra án mạng. Con có thể giết cha, vợ giết chồng (cô Văn thị Thủy cùng tình nhân bắt trói ông chồng tên Thanh, rồi dùng giây dù siết cổ đến chết…) Còn việc tham ô, hối lộ, là cách kiếm tiền đương nhiên. Dối trá, lường gạt là tiêu chuẩn giao tiếp, coi pháp luật là đồ trang sức cho chế độ, coi bản án hình sự là món hàng mua bán. Thanh niên thì tôn thờ chủ nghĩa lai căng, chủ nghĩa kiếm tiến kiếm danh bằng mọi giá – tôn thờ thần tượng Michael Jakson, hôn đít ghế ngồi của tài tử Đại Hàn Be Rian. Đó là nhận xét của mục sư Nguyễn trung Tôn (Thanh Hóa). Ngoài sự nói dối – con người trong xã hội VN hiện nay rất lạnh lùng, vô cảm, sẵn sàng vồ xé nhau vì một chuyện cỏn con… một lý do không đáng kể…

Vô Cảm

Tâm lý cầu an, tránh phiền phức trong một nền luật pháp tùy tiện và tham nhũng – người dân không còn tin tưởng nơi loại luật pháp “Tao là luật”, không còn tin tưởng nơi chính quyền, nơi giữa con người với nhau và tự bản thân không được giáo dục những giá trị nhân bản về đạo làm người – nên con người trở nên VÔ CẢM. Trong gia đình vợ chồng, cha con cũng phải e dè – tâm lý dối trá, luồn lọt, làm mọi cách để kiếm tiền, đưa con người đến chỗ vô cảm, vô tâm và tàn nhẫn.

Hình ảnh một người bị cướp giựt cái xách tay làm đổ tung tóe những tờ giấy bạc, những người đi đường bu quanh, tranh nhau giành giựt những tờ giấy bạc mà không một ai ngó ngàng đến nạn nhân đang quằn quại ngã quỵ xuống đất. Mặc kệ… nạn nhân rên siết với cánh tay bị gẩy lìa, máu tuông xối xả… những người đi đường, sau khi giành được vài tờ giấy bạc, rồi lạnh lùng bỏ đi…

Còn các đại gia thân nhân các quan cán bộ giàu có, các vương tôn công tử, những triệu phú, tỉ phú tiền xanh, ở trong những biệt thự cực kỳ sang trọng, đi xe Roll Royce, Cadillac, Ferrari, Mercedes xài tiền như nước, đánh cờ ăn thua cả thì VN đồng một ván, ăn phở thịt bò Kobe nhập cảng, cá độ bóng tròn hàng chục ngàn đô la, làm đám cưới cho con rước dâu bằng xe bóng láng đắt tiền dài hàng cây số, mua áo cô dâu tại Paris giá đến 200.000 Euros một chiếc. Họ càng vô cảm hơn ai hết. Không có gì làm cho họ động lòng trắc ẩn, thương xót người nghèo đói, tật nguyền…

Vì vô cảm, không một chút tình người, các đại gia nhẫn tâm thả chó căn chết người ngay giữa thành phố. Còn một bà già nghèo khổ tại Ban Ma Thuột, đi mót hột cà phê bị một đại gia thả cả bầy chó cắn chết… Bầy chó tranh nhau xé xác chết thành từng mảnh, nhầy nhụa… Chủ nhà làm ngơ không can thiệp. Vô cảm đến mức tàn nhẫn, mất tính người. Rồi đến nạn cướp đất làm sân golf, xây khách sạn, cho ngoại quốc thuê dài hạn, cho Trung Quốc lập làng (Thí dụ tại Cà Mau, công Ty sx phân bón lập 1 làng có 5000 người từ TQ sang) vô cảm đến nỗi mẹ con bà Nguyễn Thị Lài ở Cần Thơ phải dùng sự phơi bày thân thể như là cái vũ khí cuối cùng của người đàn bà, để chống sự cướp đất, nhưng cũng vô hiệu… Công an coi như pha. Vô cảm đến nỗi phải cướp đến phần đất hương hỏa mấy đời của một bà mẹ chiến sĩ, huy chương đầy ngực… Nói tóm lại – sự vô cảm lan tràn khắp nước, khắp nơi, từ thành thị đến thôn quê, từ dân thường đến nhà cầm quyền – từ người nghèo khổ đến kẻ giảu sang….

Cả đến ngành y tế cũng vô cảm, tàn nhẫn còn hơn những ngành khác. Bệnh viện Mắt ở Hà nội đánh tráo thủy tinh thể, khiến cho 3000 bệnh nhân có thể lâm vào cảnh mù lòa. Cảnh bệnh nhân nằm bất tỉnh trước bệnh viện Từ Dũ, không được cứu cấp vì không có tiền nộp… Nói hoài không hết. Viết mãi cũng còn…

Quả là một thời mạt pháp. Thiên hạ sống trong sự giả trá. Đạo đức suy đồi. Văn hóa xuống cấp trầm trọng chưa từng thấy. Con người bị vong thân, tha hóa đến tột cùng. Nhìn đâu cũng thấy con người đối xử với con người, vô cảm, nhẫn tâm và tàn bạo…

Tuy nhiên – đạo đức hiểu theo đạo đức truyền thống, những giá trị luân lý ngàn đời của ông cha để lại… Còn đạo dức của chế độ CS là đạo đức Cách Mạng. Đạo đức và tư tưởng bác Hồ, đạo dức khóc lãnh tụ như đại thi hào Tố Hữu:

“Xít ta lin, ông ơi! ông mất đất trời có không?

Thương cha thương mẹ thương chồng

Thương mình thương một, thương ông thương mười”

Đó là đạo dức Cách Mạng. Mà hiểu đạo dức theo nghĩa đạo dức Cách Mạng thì có phải là đạo đức suy đồi không? Câu trả lời dành cho Đảng CS Việt Nam.

Giả định bà Nguyễn thị Đoan còn hiểu đạo đức theo nghĩa cũ, nên bà Phó Chủ Tịch nước CHXHCN, lên tiếng xác nhận một sự thật bất khả phủ nhận: Đó là ĐẠO ĐỨC SUY ĐỒI THÊ THẢM TẠI VIÊT NAM, bà tuyên bố:

“Đạo đức xã hội xuống cấp đến mức báo động – xuống cấp ở mọi lãnh vực, kể cà y đức và giáo dục”: Bạo lực học đường (một học sinh bị đánh chết vì đẹp trai). Niềm tin nhân dân giảm sút nghiêm trọng. Có nơi, dân tự xử những trường hợp ăn cắp – chỉ vì bắt trộm một con chó mà bị đánh chết. cướp ở thành phố xảy ra mỗi ngày – du đảng, bảo kê lộng hành ở các thành phố lớn.

Còn ai đủ thẫm quyền xác nhận tình trạng đạo đức suy đồi, xã hội tha hóa, hỗn loạn ở Việt Nam, hơn bà Phó Chủ Tịch nước VNXHCN.

 

Nhà thơ Bùi minh Quốc đau lòng thốt lên 2 câu thơ:

Ngoảnh mặt vào đâu cũng phải ghìm cơn mữa

Cả một thờ đểu cáng đã lên ngôi.

Xuân Giáp Ngọ 2014

 

Tết Tây – Tết Ta

Tết Tây – Tết Ta

2014 vừa đến thì Giáp Ngọ cũng phi nước đại vào. Mỗi năm, người Á Đông chúng ta được ăn Tết hai lần. Trong dịp này, tôi bỗng cần “ôn” lại phong tục tập quán ngày Tết ta và nhân thể nhắc qua ngày Tết “Tây” ở những quê-hương thứ hai của mình, nhân thể khai bút luôn.

Ngày đầu năm là một ngày lễ đã được ăn mừng từ lâu năm, lần đầu tiên hình như đã hơn bốn ngàn năm tại Babylone (hiện thuộc nước Iraq).
Thuở nguyên thuỷ, lúc kinh-tế dựa trên canh nông, người ta thường đánh dấu năm mới vào đầu mùa xuân, lúc vạn-vật bắt đầu sống lại và người nông dân bắt đầu gieo hạt đầu mùa. Dần dần, năm mới được “đồng hoá” vào ngày 1 tháng 1 đầu năm trong tất cả các loại lịch (âm-lịch hay dương-lịch).

1. Âm lịch – Dương lịch

Ngày Tết của người Tây phương được tính theo dương lịch (do Giáo-Hoàng Gregorio XIII lập nên). Ngày, tháng, năm được tính theo vị tri của quả đất chuyển động chung quanh mặt trời (do đó gọi là dương lịch): 365,5 ngày một năm (365 ngày hoặc 366 ngày những năm nhuận, mỗi 4 năm).
Ngày Tết ta thì được tính theo âm lịch, nghĩa là tháng được tính theo chu kỳ vận-hành của mặt trăng chung quanh quả đất: ngày đầu tháng là tháng mới (new moon / nouvelle lune) và ngày thứ 15 là trăng tròn (full moon / pleine lune) và 1 năm chỉ có 354 (29,5 x 12) ngày.
Trên thực tế, các loại lịch này phải được gọi là âm-dương lịch vì tháng được tính theo mặt trăng nhưng năm thì lại tính theo mặt trời để trùng khớp với mùa màng, cho nên cứ 2 (hoặc 3) năm phải thêm vào 1 tháng để 1 năm có đủ 365,5 ngày..
Ngày nay, dương lịch đã trở thành lịch quốc-tế, âm-dương lịch chỉ còn dùng cho những ngày lễ cổ-truyền hay tôn giáo (ngày Tết, Trung Thu, lễ Vu Lan…) hay trong thiên văn, tử vi.

2. Tết Tây

Hết năm cũ, sang năm mới là một cơ-hội để ăn mừng trên toàn thế-giới và ngày mồng 1 tháng giêng dương-lịch đã trở thành ngày lễ mừng năm mới trên (gần như) toàn cầu.
Nếu Giáng Sinh được xem như một ngày lễ trong gia-đình và ở nhà thì người ta thường ăn mừng năm mới với bạn bè ở ngoài (tiệm ăn, vũ trường, …).
Và đã gọi là sang năm mới thì năm cũ phải kết-thúc, cho nên thời-điểm quan-trọng phải là lúc chuyển-tiếp, nghĩa là ngày 31 tháng 12 (dương-lịch), và đặc biệt là lúc 12 giờ khuya, trước khi bước qua năm sau.
Giao thừa bên Pháp gọi là “Réveillon de la Saint Sylvestre”. Người Pháp thường đón giao-thừa bằng một bữa ăn thịnh soạn với gan ngỗng (foie gras) và champagne, rồi nhảy đầm; đến 12 giờ đêm thì hôn má và chúc mừng năm mới nhau dưới một cành tầm gửi (gui). Ở Paris, thì mọi người hay tụ tập nơi tháp Eiffel hay trên đại-lộ Champs Elysées.
Mừng năm mới thường chấm dứt vào ngày lễ Hiển Linh (Épiphanie) ngày 6 tháng 1 và hôm đó mọi người chia nhau ăn “bánh vua” (galette des rois).

Bên Mỹ, đặc biệt là ngày New Year’s Eve (giao thừa), ở Nữu Ước (New York City), mọi người tụ tập ở 1, Time Square để xem quả cầu pha-lê (to 2 thước đường kính, nặng 500 ký) được từ từ hạ xuống, một phút trước 12 giờ đêm.

Một tục-lệ khác là gửi nhau thiệp chúc mừng năm mới, nhưng thời buổi Internet, thiệp giấy dần dần bị thay thế bằng thiệp điện-tử (email, text messages, …).

Đầu năm, người Tây-phương còn có một tục-lệ có ý nghĩa là “ý định cương quyết” (tôi thật không biết phải dịch chữ “resolutions / résolutions” như thế nào?) : “Năm nay, tôi cương quyết sẽ… bỏ hút thuốc, xuống 10 ký-lô, đi học đàn/nhảy/nấu bếp…, bớt làm việc và dành nhiều giờ với gia-đình hơn, …”
Tinh thần của những “nghị quyết” này là mượn dịp năm mới để sống lại (rebirth / renaissance), để làm lại từ đầu (starting fresh / repartir du bon pied), là không phó mặc cho số phận mà nhất quyết làm chủ đời mình. Làm được hay không lại là chuyện khác…

Đấy, tham khảo đó đây đại khái chỉ bấy nhiêu, ăn Tết kiểu Tây phương chỉ giản-dị vậy, đến khi vào Wikipedia xem “Tết Nguyên Đán” thì sơ sơ cũng hơn chục trang.

3. Tết Nguyên Đán
(phỏng theo Wikipedia)

Tết Nguyên Đán (hay còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền hay chỉ đơn giản Tết) là dịp lễ quan trọng nhất của Việt-Nam.
Chữ “Tết” do chữ “Tiết” (節) mà thành. Hai chữ “Nguyên đán” (元旦) có gốc chữ Hán: “nguyên” có nghĩa là sự khởi đầu hay sơ khai và “đán” có nghĩa là buổi sáng sớm, cho nên đọc đúng phiên âm phải là “Tiết Nguyên Đán”.
Phong-tục, tập quán của người Á-Đông chung quanh ngày Tết thì thật phức-tạp, có thể nói là “rườm rà” nên, nhất là thời buổi này, ít có gia-đình nào, trong hay ngoài nước, áp dụng hoàn toàn được. Chúng ta cũng nên duyệt sơ qua, gọi là ôn lại chút ít truyền-thống văn-hoá của dân-tộc mình.

3.1 Những giai-đoạn chính:

Sự khác biệt giữa âm lịch và âm-dương lịch khiến cho ngày Tết ta muộn hơn Tết tây và thường rơi vào giữa ngày 21 tháng 1 (dương lịch) và ngày 19 tháng 2 (dương lịch).
“Tháng giêng là tháng ăn chơi,
tháng hai trồng đậu, tháng ba trồng cà…”
Bài ca dao này muốn nói người ta ăn Tết không phải chỉ một ngày mồng một.

Nói đúng hơn nữa, không khí Tết đã bắt đầu từ ngày 23 tháng chạp là ngày mà người Việt cúng ông Táo (Táo Quân). Ông Táo vừa là thần bếp trong nhà vừa là người ghi chép tất cả những việc làm tốt xấu mà gia chủ đã làm trong năm cũ và báo cáo về Ngọc Hoàng.

Một số gia đình ở nông thôn vẫn còn gìn giữ phong tục dựng cây nêu để chống lại quỷ dữ và những điềm gở.

Ngày Tất niên (trước Tết) có thể là ngày 30 tháng chạp (nếu là năm đủ) hoặc 29 tháng Chạp (nếu là năm thiếu).
Buổi tối ngày này, gia đình sum họp lại với nhau để ăn cỗ cúng Giao thừa, là lễ cúng để đem bỏ hết đi những điều xấu của năm cũ sắp qua để đón những điều tốt đẹp của năm mới sắp đến. Giữa ngày 30 (hoặc 29) tháng Chạp và ngày mồng 1 tháng giêng (từ 23 giờ hôm trước đến 1 giờ hôm sau), giờ Tý là thời khắc quan trọng nhất của dịp Tết. Nó đánh dấu sự chuyển giao giữa năm cũ và năm mới và được gọi là Giao thừa.
Trong thời khắc giao thừa mọi người trong gia đình thường dành cho nhau những lời chúc tốt đẹp nhất.

Qua ngày mồng 1, chúng ta bước vào Tân niên (năm mới, sau Tết) và ăn Tết 7 ngày.
Ngày mồng Một tháng Giêng (còn gọi là ngày Chính đán) là ngày Tân niên đầu tiên và được coi là ngày quan trọng nhất trong toàn bộ dịp Tết. Không kể những người tốt số, hợp tuổi được mời đi xông đất vào sáng sớm ngày này, người Việt cổ thường không ra khỏi nhà, chỉ bày cỗ cúng Tân niên, ăn tiệc và chúc tụng nhau trong nội bộ gia đình.
Đối với những gia đình đã tách khỏi cha mẹ và cha mẹ vẫn còn sống, họ đến chúc tết các ông bố theo tục: Mồng Một Tết cha.

Cứ năm mới tới, mỗi người tăng lên một tuổi, bởi vậy ngày mồng Một Tết là ngày con cháu “chúc thọ” ông bà và các bậc cao niên.
Ngược lại, người lớn thường tặng trẻ em tiền bỏ trong một bao giấy đỏ, hay “hồng bao”, gọi là “lì xì” với những lời chúc mừng ăn no, chóng lớn. Theo cổ tích Trung Quốc thì trong “hồng bao” có 8 đồng tiền (là Bát Tiên hóa thân) được đặt dưới gối đứa trẻ để xua đuổi quỷ đến quấy nhiễu, vì ma sẽ sợ giấy màu đỏ. Tiền mừng tuổi nhận được trong ngày Tết gọi là “Tiền mở hàng”.
Ngày mồng Hai là ngày có những hoạt động cúng lễ tại gia vào sáng sớm. Sau đó, nguời ta chúc tết các bà mẹ theo tục Mồng Hai Tết mẹ. Riêng đàn ông chuẩn bị lập gia đình còn phải đến nhà cha mẹ vợ tương lai (nhạc gia) để chúc Tết theo tục “Đi sêu”.
Ngày mồng Ba là ngày sau khi cúng cơm tại gia theo lệ cúng ít nhất đủ ba ngày Tết, các học trò thường đến chúc Tết thầy dạy học theo tục Mồng Ba Tết thầy,
đúng theo truyền-thống
Mùng Một thì ở nhà cha,
Mùng Hai nhà vợ, Mùng Ba nhà thầy
hay nói cách khác
Mùng Một tết cha,
Mùng Hai tết mẹ,
Mùng Ba tết thầy.

Xông đất (hay đạp đất, mở hàng) là tục lệ đã có lâu đời ở Việt-nam.
Với quan niệm ngày mồng Một “khai trương” một năm mới, vào ngày này, nếu mọi việc diễn ra suông sẻ, may mắn, cả năm cũng sẽ được tốt lành, thuận lợi. Ngay sau thời khắc giao thừa, bất cứ người nào bước từ ngoài vào nhà với lời chúc năm mới được coi là đã xông đất cho gia chủ.
Người khách đến thăm nhà đầu tiên trong một năm cũng vì thế mà quan trọng. Cho nên cứ cuối năm, mọi người cố ý tìm xem những người trong bà con hay láng giềng có tính vui vẻ, linh hoạt, đạo đức và thành công để nhờ sang thăm. Nếu không tìm được người “lý tưởng” thì gia chủ tự xông đất bằng cách ra khỏi nhà rồi bước vào trở lại.

Hoá vàng: Ngày mồng 4 tháng Giêng theo lịch cổ là ngày con nước. Trong ngày này (hoặc ngày mồng 5), người Việt làm lễ cúng tổ tiên đã về ăn Tết với con cháu và đốt nhiều vàng mã để tiền nhân về cõi âm có thêm tiền vốn đầu năm, mà phù hộ độ trì cho con cháu hậu thế làm ăn phát đạt. Tại nhiều vùng ở Đồng bằng Bắc Bộ, người Việt có tục hát chèo đò đưa tổ tiên trở lại thế giới bên kia.

Ngoài ra, còn có những tục lệ khác như:
– xuất hành: lần đi ra khỏi nhà ngày đầu tiên trong năm, thường được thực hiện vào ngày tốt đầu tiên của năm mới để đi tìm may mắn cho bản thân và gia đình, có người đi du xuân luôn;
– khai xuân tuỳ theo nghề nghiệp: khai trương, khai thương mở hàng, khai ấn (nếu là người có chức tước), khai bút (học trò, sĩ phu), khai canh (nhà nông) hay… khai pháo;
– hái cành lộc: ở các nơi đền, chùa miền Bắc ngụ ý xin hưởng chút lộc của Thần, Phật;
– khai hạ: hạ cây nêu ngày mồng 7 Tết, chấm dứt Tết nguyên đán để sau đó bắt đầu bước vào việc làm ăn trong năm mới;
– … …

3.2 Sắm Tết – Trang hoàng

Đã gọi là Tết thì phải linh đình, năm mới cái gì cũng phải mới và đây là dịp để đi sắm Tết. Chợ Tết là những phiên họp chợ vào trước Tết, từ 25 tháng Chạp cho đến 30 tháng Chạp, bán nhiều mặt hàng, nhưng nhiều nhất là các mặt hàng phục vụ cho tết Nguyên đán. Vào những ngày này, các chợ sẽ bán suốt cả đêm, và đi chợ Tết đêm là một trong những cái thú đặc biệt. Kèm theo các chợ mua bán ngày giáp tết đông đúc, nhiều nơi còn tổ chức các chợ hoa nhằm vui xuân.Những loại chợ Tết đặc biệt cũng sẽ chấm dứt vào trước giờ Ngọ.
Cây Tết tiêu biểu nhất là cây nêu, một loại tre cao khoảng 5-6 thước, ngọn thường treo nhiều thứ (tùy theo từng địa phương) như vàng mã, bùa trừ tà, cành xương rồng, bầu rượu bện bằng rơm, hình cá chép bằng giấy để táo quân dùng làm phương tiện về trời,…
Ngoài ra, cây quất được trang trí trong phòng khách, cây xum xuê, lá xanh tốt, quả vàng chi chít thể hiện sự trù phú, hứa hẹn năm mới được mùa, ăn nên làm ra, dồi dào sức sống.

Mâm ngũ quả là một mâm có khoảng năm thứ trái cây khác nhau thường có trong ngày Tết.
Mâm ngũ quả của người miền Bắc gồm chuối, bưởi, đào, hồng, quýt, nhưng hầu như tất cả các loại quả đều có thể bày được, miễn là nhiều màu sắc.
Mâm ngũ quả người miền Nam gồm dừa, đu đủ, mãng cầu, xoài, sung, với ngụ ý “cầu sung vừa đủ xài”.

Cũng không thể quên quả dưa hấu mà An Tiêm đã mang lại cho chúng ta và đã được người Trung Hoa khen: “Hẩu”.
Hoa Tết thì không thể thiếu hoa đào (để xua đuổi ma quỷ, theo sự tích hai vị thần ở núi Sóc Sơn) và hoa mai (màu vàng tượng trưng cho sự cao thượng vinh hiển cao sang, cho sự phát triển nòi giống).
Hoa để cúng có thể là vạn thọ, cúc, huệ, … và hoa để trang trí thì muôn màu sắc như hồng, thuỷ tiên, lan, cẩm chướng, thạch thảo, …

Để trang trí trong những ngày Tết, đặc biệt còn có tranh Tết và câu đối Tết.
Tranh Tết là một phần không thể thiếu và những màu sắc rực rỡ như khơi gợi nên cảm giác mới mẻ ấm cúng rộn rã sắc xuân trong mỗi gia đình của người Việt.

Câu đối Tết được viết bằng chữ Nho (màu đen hay vàng) trên những tấm giấy đỏ hay hồng đào cho nên còn được gọi là câu đối đỏ:

Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Nêu cao, pháo nổ, bánh chưng xanh.
(Xin mời đọc thêm về câu đối trong bài “Tôi yêu tiếng nước tôi: Chơi chữ” tháng này

Và không ai là không nhớ bài thơ “ông đồ” của Vũ Đình Liên:

Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu, giấy đỏ
Bên phố đông người qua

Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng bay

Nhưng mỗi năm, mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu

Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay

Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ ?

3.3 Ẩm-thực ngày Tết

Thành ngữ Việt Nam có câu “Đói giỗ cha, no ba ngày Tết”. Tết đến, dù nghèo khó đến đâu thì người ta cũng cố vay mượn, xoay xở để có đủ ăn trong ba ngày Tết sao cho “già được bát canh, trẻ có manh áo mới”. Hơn thế nữa, dù có đói khát quanh năm thì đến Tết, mọi người, nhất là trẻ em thường được ăn uống no đủ.
Bữa ăn ngày Tết thường có nhiều món, đủ chất hơn và sang trọng hơn bữa ăn ngày thường. Vì vậy mà người ta cũng thường gọi là “ăn Tết”.

Thức ăn mặn thì nhất định phải có những bánh truyền-thống như bánh chưng (vuông), bánh dày, bánh tét (còn gọi là bánh chưng tày hay bánh tày, tròn và dài) với dưa hành, gắn liền với các sự-tích cổ thời vua Hùng.
Tôi vẫn nhớ các món ăn giỗ ông bà hay cỗ Tết người Bắc có thể có bóng bì, canh măng, chân giò, miến gà, xôi gấc đỏ, thịt gà, thịt đông với dưa muối, giò lụa, nộm, cơm rượu, …
Ngoài ra, các gia đình miền Nam thường có thêm nồi thịt kho, nước dừa (thịt kho rệu) và nồi khổ qua hầm và nem bì, dưa giá miền Nam, củ kiệu ngâm, bánh tráng (để quấn) để ăn mấy ngày Tết. Thông thường, người nội trợ miền Nam lục tỉnh nghỉ ngơi, không nấu nướng trong 3 ngày Tết, mà chỉ dùng thức ăn đã được chuẩn bị sẵn trước Tết.
Miền Trung có dưa món và món tré (giống giò thủ của miền Bắc nhưng nhiều vị củ riềng), thịt chua và tai heo, …

Mứt Tết và các loại bánh kẹo khác để thờ cúng, sau đó dọn ra để đãi khách. Tôi cũng nhớ những lần cắn hạt dưa đến đỏ cả môi và tay, hạt bí, hạt hướng dương, …
Thức uống ngày Tết vẫn là rượu: rượu truyền-thống như rượu nếp thơm, nếp nương, nếp cẩm, rượu đế, … hay những rượu Tây-phương như cognac, whisky, bia, …
Sau bữa ăn, người ta thường dùng trà xanh.

3.4 Phong-tục, tập quán và sinh hoạt Tết
Phong-tục Tết thì nhiều lắm. Ngoài những gì đã đề-cập ở phần trên, còn có:

Đốt pháo thường hay có trong dịp cúng tất niên hay thời khắc giao thừa ngày Tết cổ truyền để xua ma, trừ quỷ.

Áo quần mới: Ngày xưa, trước Tết một thời gian ngắn, các bà các mẹ trong nhà phải thức khuya quay tơ, dệt vải, may áo quần mới cho cả nhà. Công việc này thường kết thúc vào ngày cuối năm để đến sáng mùng Một Tết, cả nhà dậy sớm, thay quần áo mới làm lễ gia tiên. Người ta cho rằng cần phải rũ bỏ những cái cũ, cái không may mắn đi theo quần áo cũ và đón một năm mới với nhiều hy vọng và niềm vui mới từ bộ quần áo mới đó.

Trả nợ cũ: Đối với nhiều người Việt, cuối năm là dịp trả nợ cũ, xóa bỏ xích mích của năm cũ, để hướng tới năm mới vui vẻ.

Tuỳ theo bản sắc văn hóa của mình, mỗi địa phương đều tổ chức lễ hội ngày tết với những phần “lễ” và phần “hội” chứa đựng những nét văn hóa khác nhau rất phong phú.
Các lễ hội truyền-thống thường có thi đấu cờ người (không phải loại của bà Hồ Xuân Hương đâu nhé), đua thuyền, đấu vật, múa lân, múa rồng, thi thả chim bồ câu…
Trò chơi dân gian: bịt mắt bắt dê, múa võ, hát bội, hát cải lương, hát chèo, đánh đu, chọi gà và nhiều trò dân gian cổ truyền khác.

Cờ bạc: Ngày xưa các gia đình có nề nếp quanh năm cấm đoán con cháu không được cờ bạc rượu chè nhưng trong dịp Tết thì tam cúc, chắn, tổ tôm, cờ gánh, ai thích gì thì cứ chơi. Đến lễ khai hạ (hạ nêu) thì xé bộ tam cúc, cất bộ tổ tôm… hoặc đốt các bộ bài trong lễ hóa vàng.

Còn nhiều phong-tục thất -truyền nữa như “đi sêu Tết” (trước ngày Tết, con rể tương lai mang lễ đến biếu bố mẹ vợ), lạy sống ông bà, hát sặc bùa (trẻ con nghèo đến cửa các nhà vừa hát vừa gõ trống để được chủ nhà phát tiền mừng tuổi), …
3.5 Tín ngưỡng ngày Tết

Đi lễ chùa: Có người cả năm không đi lễ, nhưng đến Tết nhất thiết phải qua chùa thắp nén hương, dâng tiền giọt dầu hoặc tiền công đức cho chùa. Trong những ngày đầu năm âm lịch thì rất nhiều người thích đi lễ ở các lăng tẩm, đền chùa để cúng bái và xin xăm, nhất là vào buổi sáng mồng một. Phong tục này thường được tiến hành chung với tục lệ chọn hướng xuất hành và hái lộc.
Xin xăm là một hình thức tin vào các thẻ xăm có ghi lời sấm báo trước điềm lành hay dữ trong năm và thường cần có thầy bàn xăm. Ở miền Bắc có tục “bốc quẻ thẻ” giống như tục “xin xăm” ở phía Nam.

Người Việt ta hay tin dị-đoan.
Mong sao có những điềm lành như:
– Sau Giao thừa, nếu hoa mai (loại 5 cánh) nở thêm nhiều và đầy đặn thì đó là một điềm may. Và may mắn hơn nữa khi có một hoặc vài bông hoa 6 cánh;
– Chó lạ vào nhà: theo tục ngữ “Mèo đến nhà thì khó, Chó đến nhà thì sang”;
– Cây đào nếu có nhiều cánh kép (hoa kép) 3 lớp (hàng) trên đài hoa và có hình dáng như bông hồng thì sẽ có nhiều phúc lộc;
– Cây quất nếu có nhiều chồi xanh mọc thì năm đó sẽ có nhiều lộc. Nếu có đủ Tứ quý: quả chín, quả xanh, hoa và lộc thì sẽ may mắn và thành đạt cả năm;
… … …

Và cũng có nhiều điều kiêng kỵ nên tránh như:
– Kỵ mai táng: Ngày Tết Nguyên Đán là ngày mở đầu cho vận hội hanh thông của cả một năm, có ý nghĩa rất thiêng liêng và gia đình phải tạm gác mối sầu riêng để hoà chung với niềm vui toàn dân tộc;
– Ngày mùng Một Tết người ta rất kỵ người khác đến xin lửa nhà mình vì quan niệm lửa là đỏ, là may mắn, nên giữ, không nên cho đi;
– Kiêng cho nước đầu năm vì nước được ví như nguồn tài lộc trong câu chúc “tiền vào như nước”, nếu cho nước thì coi như mất lộc;- Theo quan niệm dân gian, việc quét nhà trong ngày Tết sẽ quét đi theo cả lộc xuân (xác pháo đốt trong đêm giao thừa), người quét nhà sẽ bị “rông” (xui xẻo) cả năm;
– Ngày đầu năm cũng như ngày đầu tháng, người ta rất kiêng kỵ việc vay mượn hay trả nợ, cho vay (cho nên phải làm dịp cuối năm cho xong);
– Trong ăn uống, người ta kiêng ăn thịt chó, cá mè, thịt vịt… nếu không sẽ “xúi quẩy”.
Ngoài ra, người già cũng khuyên con cháu trong ngày này không được đánh vỡ bát đĩa, cãi nhau, nói xấu, kiêng những điều không vui xảy ra với gia đình;
Người ta thường kiêng khóc lóc, buồn tủi hoặc nói tới điều rủi ro hoặc xấu xa trong dịp Tết, kiêng mặc quần áo màu trắng và đen (màu của tang lễ);- … … …
3.6 Tết tha-hương

Tôi nhớ mãi những buổi văn-nghệ Tết bên Bỉ, bên Pháp khi tôi còn là du học sinh, bao giờ cũng vừa vui, vừa buồn. Vui vì có dịp vui chơi với bao nhiêu bạn bè, buồn vì có vui mấy cũng chỉ là vui “tạm bợ” nơi xứ người, xa gia-đình, xa quê-hương.
Và bây giờ tôi vẫn “phải” tiếp tục vui Tết tha hương.

Người Việt hải-ngoại nếu không có điều kiện về Việt Nam cũng tổ chức những hoạt động trong dịp Tết Âm lịch mang đậm truyền thống văn hóa.
Những nơi đông Việt Nam như quận Cam, San Jose, Houston, Cabramatta-Úc, Paris, … cũng có chợ Tết, chợ hoa, những khu thương xá cũng có bán các mặt hàng mứt, bánh chưng, hạt sen, …, cũng có đốt pháo, múa lân, …
Các cộng đồng và các hội đoàn người Việt, các chùa, các giáo xứ, các hội sinh-viên, … có tổ chức Hội tết và ca nhạc văn nghệ Tết.
Chúng tôi có dịp đi giúp vui văn-nghệ trong những buổi Tết cộng-đồng, thường có đốt pháo, múa lân, ăn uống (món ăn Tết), bầu cua, cá cọp, lì xì cho trẻ em, văn nghệ thường có nhạc Tết, nhạc quê-hương, cải lương, nhạc vui, có những màn múa thanh thiếu niên và trẻ em.

Hội Tết nào cũng thật vui, nhưng bao giờ tôi cũng cảm thấy bùi ngùi, không hiểu vì sao?
Con người “xa mặt, cách lòng” và dù muốn dù không, xa quê-hương, chúng ta cũng mất mát đi một chút gì văn hoá truyền-thống của mình.
Tết ngày hôm nay nơi xứ người, chúng ta còn giữ được những gì trong tất cả những phong-tục, tập quán của người Việt-Nam ta? Còn giữ được bao lâu?
Vui buồn lẫn lộn.

Yên Hà,

tháng Giêng, 2014

Xuân trong ca dao và tục ngữ

Xuân trong ca dao và tục ngữ


Trầm Thiên Thu

01/22/2014

Dân gian “đúc kết” kinh nghiệm cuộc đời thành hai điều đơn giản: “Sống Tết, chết giỗ”. Hai điều đó có vẻ đơn giản thôi, thế nhưng cũng nhiêu khê lắm.

Theo sách “Le Khmer”, trước kia dân Việt ăn Tết theo Trung Quốc, nhưng cũng có thời gian dân Việt ăn Tết theo Chiêm Thành. Tết này bắt đầu vào tháng Hai âm lịch, có đủ lễ lạc, vui chơi, hát xướng, rượu chè,… trong ba ngày liên tiếp, nhưng người ta cũng đi thăm viếng nhau, và cũng có nhiều điều kiêng cữ. Trong mấy ngày ấy, dù gặp kẻ thù thì người ta cũng chào và chúc mừng nhau. Theo tục lệ người Chiêm, ngày ấy là ngày “xóa bỏ hờn giận”. Ý nghĩa Tết như vậy rất nhân bản, tốt lành và cao thượng.

Trẻ em còn vô tư nên háo hức mong Tết mau đến. Người lớn có những người cũng mong Tết, nhưng sự mong chờ của họ mang “ý nghĩa” khác hẳn so với trẻ em, thậm chí có người thực dụng, họ mong Tết để có lợi về vật chất.

Tuy nhiên, có những người không hề mong Tết, họ nghèo khổ quá nên họ sợ Tết, nếu có thể thì họ chỉ mong “đừng có Tết”. Buồn lắm thôi! Nhưng thời gian cứ luân phiên, tứ thời bát tiết tuần tự theo quy luật tự nhiên của đất trời. Cứ đến cuối năm thì những người nghèo lại “giật mình” như điện giật, như chớp bể mưa nguồn. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Tết đến sau lưng, ông vải thì mừng, con cháu thì lo”. Cái lo ngày thường đã khiến họ rối trí rồi, cái lo ngày Tết làm họ càng nhức đầu hơn. Nỗi niềm không biết tỏ cùng ai. Nỗi khổ cứ chồng chất, làm sao vui được!

Cả năm đầu tắt mặt tối, bán lưng cho trời bán mặt cho đất, từ sớm tới khuya không ngơi tay, thế mà vẫn chẳng thấy chút niềm vui: “Đi cày ba vụ, không đủ ăn ba ngày Tết”. Nghe người ta chúc giàu sang phú quý mà thêm mủi lòng, cũng đành cười gượng để gọi là Xuân. Người nghèo đáng thương biết bao!

Ngày Tết là dịp vui Xuân, bù đắp những ngày tháng cực nhọc vất vả suốt năm, có lợi cho cả tinh thần và thể lý. Nhưng thương thay, có những người “gọi là” nghỉ ngơi ăn Tết mà lòng vẫn lo ngay ngáy:

Bây giờ tư Tết đến nơi
Tiền thì không có sao nguôi tấm lòng
Nghĩ mình vất vả long đong
Xa nghe lại thấy Quảng Đông kéo còi
Về nhà công nợ nó đòi
Mà lòng bối rối đứng ngồi không yên

Khổ quá! Bình thường thì chẳng ai biết ai thế nào, nhìn thấy họ vất vả nhưng chưa chắc khổ, hoặc nhìn thấy họ nhàn hạ nhưng chưa chắc sướng. Có “cháy nhà mới lòi mặt chuột”. Kinh nghiệm dân gian cũng cho biết: “Khôn ngoan đến cửa quan mới biết, giàu có Ba mươi Tết mới hay”. Hoặc như ca dao phân tích:

Có, không: đến mùa Đông mới biết
Giàu, nghèo: ba mươi Tết mới hay

Chuyện giàu – nghèo đã vậy, như một quy luật muôn thuở, như “phần cứng” đã được “cài đặt” mặc định rồi, chẳng ai dám nhận mình hiểu hết ngọn nguồn.

Chuyện tình cảm đôi lứa cũng rắc rối, phiền toái. Bảo là yêu nhau nhưng hành động lại không thể hiện tình yêu đó. Cô nàng trách anh chàng: “Chiều Ba mươi anh không đi Tết, rạng ngày Mồng Một anh không đi lạy bàn thờ, hiếu trung mô nữa mà bảo em chờ uổng công”. Và rồi anh chàng cố gắng phân bua, biện minh cho sự “lỡ hẹn” của mình, mong cô nàng cảm thông: “Hôm Ba mươi anh mắc lo việc họ, sáng mồng Một anh bận việc làng, ông bà bên anh cũng bỏ huống chi bên nàng, nàng ơi!”. Nhiêu khê quá! Ai bày Tết nhất làm chi không biết!

Tết là thế đó. Tết vừa minh nhiên vừa mặc nhiên. Tết cũng có biết bao phong tục, nghi thức, lễ nghĩa,… mà người ta phải thực hiện – dù muốn hay không. Một trong các nghi thức chứng tỏ lễ nghĩa là nhớ ơn người khác: “Mồng một tết Cha, mồng hai tết Chú, mồng ba tết Thầy”. Đó là “công thức” chung. Riêng nam giới hoặc quý ông đã có vợ thì có “kiểu” lễ nghĩa khác một chút, nhưng cũng không ngoài chuyện nhớ ơn. Ca dao nói:

Mồng một thì ở nhà cha

Mồng hai nhà vợ, mồng ba nhà thầy

Tết còn là dịp nhắc nhở người ta phải sống chân thật, không được lọc lừa, giả dối, ăn không nói có,…

Hễ ai mà nói dối ai
Thì mồng một Tết, Ba Giai đến nhà

Đó là câu ca thể lục bát đã có từ khi Ba Giai và Tú Xuất còn sinh thời. Ba Giai là một biệt danh của một danh sĩ Việt Nam nổi tiếng hồi cuối thế kỷ XIX. Ông được biết nhiều bởi tài làm thơ châm biếm, với “đối tượng” chính là các quan lại tham nhũng, các trọc phú. Trong giai thoại dân gian, ông được biết đến là người trong cặp bài trùng với Tú Xuất. Tuy nhiên, theo lời truyền tụng trong dân gian và ý kiến của một số nhà nghiên cứu, Ba Giai còn có thể là tác giả của một thi phẩm chính luận “Hà Thành Chính Khí Ca”, gồm 140 câu thơ lục bát, được cho là sáng tác ngay sau khi Hà Nội bị quân Pháp xâm chiếm ngày 25-4-1882.

Ba Giai có tên thật là Nguyễn Văn Giai, không rõ năm sinh và năm mất. Có thể ông sống vào khoảng thời gian triều đại các vua Thiệu Trị (1841-1847) và Tự Đức (1848-1883), người làng Hồ Khẩu, huyện Vĩnh Thuận (nay thuộc phường Bưởi, quận Tây Hồ, TP Hà Nội). Ông là con thứ ba trong gia đình nên người ta gọi là Ba Giai. Gia cảnh nghèo khó, cha mẹ mất sớm, ông đi làm thuê để có tiền ăn học. Ông học giỏi, nhưng gặp lúc nước nhà lâm cảnh loạn lạc, nên ông không được đi thi. Không rõ Ba Giai gặp và kết bạn với Tú Xuất thế nào và lúc nào, có thể hai ông thường gặp nhau vào thời gian giữa hai lần quân Pháp đánh chiếm Hà Nội (1872 và 1882). Có lẽ cùng từ quan hệ học hành thi cử mà hai ông kết thân với nhau.

Tục ngữ có câu: “Mồng chín vía Trời, mồng mười vía Đất”. Có những thứ con người muốn mà không làm già được, thế nên người ta vẫn tin vào thần linh vô hình. Ngoài ra người ta còn có nhiều kiểu vui chơi trong mùa Xuân. Riêng vùng đất Nam Định có những câu ca dao giới thiệu những phiên chợ của họ một cách thú vị:

Mồng một chơi cửa, chơi nhà
Mồng hai chơi xóm, mồng ba chơi đình
Mông bốn chơi chợ Quả linh
Mồng năm chợ Trình, mồng sáu non Côi
Qua ngày mồng bảy nghỉ ngơi
Bước sang mồng tám đi chơi chợ Viềng
Chợ Viềng một năm mới có một phiên
Cái nón em đội cũng tiền anh mua

Ngày xưa, dân chúng chủ yếu là nông dân, công việc đồng áng theo mùa, có lúc vất vả nhưng có lúc lại nông nhàn. Vì thế, người ta ăn Tết không chỉ mấy ngày đầu Xuân mà người ta vui vẻ suốt tháng Giêng, rồi còn “lai rai” cả những tháng ngày kế tiếp:

Tháng Giêng là tháng ăn chơi
Tháng Hai cờ bạc, tháng Ba rượu chè

Ca dao và tục ngữ là kho tàng văn chương quý giá, tuy bình dân nhưng vẫn sâu sắc và chứa nhiều bài học sống giá trị. Ngày Xuân có dịp đọc lại và ngẫm nghĩ về ca dao và tục ngữ thì thật là thú vị.

NHỚ XUÂN

NHỚ XUÂN

Tác giả: Gs. Phan Văn Phước

Bàn thờ nghi ngút khói nhang

Ngồi bên những cánh mai vàng tươi xinh

Mẹ già lẩm nhẩm đọc kinh

Nhớ thương những đứa con mình ở xa

Vườn xuân rộn tiếng chim ca

Cõi lòng của mẹ bao la, nặng sầu

Con đi biền biệt đã lâu

Không còn giúp mẹ têm trầu như xưa

Mẹ ăn ấm buổi Giao Thừa

Con mừng tuổi mẹ… khi vừa nghinh tân

Mẹ cười, nét mặt khoan nhân*

Đẹp hơn cả mấy vạn lần xuân tươi

Mùa xuân phúc lộc cõi người

Tức là có mẹ mỉm cười với con

Từ khi cha mẹ không còn

Xuân càng quạnh quẽ, héo hon nơi nầy

Như chim xa tổ, lạc bầy

Lệ sa, nhớ thuở sum vầy đón xuân…

————–

*Mừng tuổi, rồi xin lỗi. Ngày đầu xuân, mẹ bao dung mỉm cười.

 

Kính mời quý Vị nghe nhạc Xuân:

httpv://www.youtube.com/watch?v=RTajaAhQ3js

Có lời, hình thục nữ và Hoa Xuân: Mùa xuân của mẹ – YouTube

httpv://www.youtube.com/watch?v=sFZwDtexrKk

Có lời, Ngọc Hà hát bằng giọng Huế: Mua xuan cua me – Ngoc ha.avi_(360p).avi – YouTube

Tác giả: Gs. Phan Văn Phước

Từ nghiện ngập trở thành linh mục giúp người nghiện ma túy

Từ nghiện ngập trở thành linh mục giúp người nghiện ma túy

Peter Thái Hùng

1/10/2014

Món quà từ sự trở về của linh mục Phanxico xavie Trần An!

Cảm nhận từ cuộc gặp gỡ với “người cha” của Trung Tâm Hướng Thiện – La Vang

Trong một con người ta sẽ luôn tìm thấy món quà vô giá mà Thiên Chúa ban tặng, đó chính là sự sống. Sự sống vẫn luôn triển nở cho dù con người có nhận ra và trân trọng điều đó hay không. Có những người tự vùi dập món quà mà Chúa ban tặng. Để rồi, họ sống mà như đã chết. Tồn tại mà như ở trong cõi hư vô. Tuy nhiên, Thiên Chúa là Đấng hết mực yêu thương vẫn luôn quan phòng gìn giữ sự sống mà Ngài đã thông ban. Bởi thế, Ngài vẫn dùng tình yêu của mình để cảm hóa những cuộc đời còn đang chìm lạc trong bóng tối của u mê khờ dại vì buông mình theo thế gian. Ngài dẫn đưa họ về với ánh sáng của Chân Lý, dẫn đưa họ về với tình yêu và để cho họ cũng trở thành những chứng tá cho tình yêu.

Xem Hình

Trong đời sinh viên của mình, tôi cũng từng suy nghĩ rất hạn hẹp. Cuộc sống vẫn cứ trôi trong cái dòng chảy không biết điểm dừng chân, không biết đích đến. Nhưng rồi, một cuộc gặp gỡ đã khiến tôi hồi tâm và dừng lại trong chính bản thân để suy gẫm về món quà của Thiên Chúa ban tặng. Suy gẫm về cuộc đời và về sự sống. Đó là cuộc gặp gỡ khiến tôi thay đổi về cả cách sống cũng như cách nhìn về một con người.

Theo cách thông thường, chúng ta thường đánh giá người khác qua lăng kính chung: Địa vị, danh vọng, tiền bạc,… hoặc tốt hơn một chút ta đánh giá cái đạo đức, cái tính tình, cái thể hiện ra bên ngoài. Qua lăng kính đó đôi lúc khiến ta quên mất cái chính yếu nhất trong một con người: nhân vị! Qua cái lăng kính đó ta quên rằng: con người mà ta đang nhìn đến đang mang trong mình hình ảnh và tình yêu mà Thiên Chúa đặt để. Chính việc nhìn vào sự thay đổi của một con người bằng xương bằng thịt mà tôi có cách nhìn nhận trọn vẹn và sâu sắc hơn. Chính sự thay đổi của một con người từ trong vũng bùn của tội lỗi, của sự tha hóa biến chất trở thành một vị Linh mục, thành một mẫu gương cho người khác mà tôi mới biết tình yêu Thiên Chúa dành cho con người thật vô tận và chương trình của Ngài thật không thể nào suy thấu. Câu Kinh Thánh: “Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng của Ta vượt trên tư tưởng của các người bấy nhiêu” (Isaia 55:8-10) thật ứng với tôi lúc này.

Cha An cầu nguyện với những người đang cai nghiện

Có một con người đã thay đổi như thế. Một chàng thanh niên từ cảnh giàu sang đến sự thấp hèn vì lối sống buông thả. Từ cảnh được mọi người ngưỡng mộ đến lúc phải trốn chạy sự dèm pha của người đời. Bởi chìm trong lạc thú, bởi sa đọa trong những thói hư tật xấu, bởi tự vùi dập mình trong tệ nạn chích hút hoang đàng. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã đánh thức lương tri nơi con người ấy. Ngài đã giúp cho khao khát sống, khao khát tự do trong tình yêu nơi con tim chàng trở nên mãnh liệt. Để rồi, chàng trai đã trở về sống đời công chính. Chàng trai ấy đã trở thành một vị linh mục của tình yêu. Hơn nữa, từ sự tha hóa đến lúc trở về của chàng thanh niên ấy Thiên Chúa đã hoạch định một chương trình cho biết bao con người khác. Qua cuộc đời của chàng thanh niên rất nhiều cuộc đời đã đổi thay, rất nhiều con người đã tìm lại sự sống thật. Chính chàng trai, chính cuộc đời của vị linh mục đó cũng đã đánh thức con tim và cho tôi một cách nhìn mới về tha nhân. Vị linh mục mà tôi muốn nhắc đến ở đây là cha Phanxicô Xaviê Trần An, linh mục Đan viện Thiên An – Huế.

Sinh ra trong một gia đình thuộc loại khá giả thời bấy giờ ở giáo xứ Cầu Rầm, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Cha Phanxicô Trần An được sống trong cảnh bao bọc yêu thương của những người cha, người mẹ đạo hạnh. Lớn lên, giỏi dang trong học tập và được sự yêu mến của mọi người chung quanh. Nhưng rồi cậu thanh niên Trần An đã thay đổi từ một quyết định của tuổi trẻ, của sự tự do và trong sự tin tưởng của cha mẹ. Một khoản vốn đã được cha mẹ chấp thuận khi cậu muốn tách riêng để làm ăn kinh doanh: làm nghề vàng và buôn bán vàng bạc. Bằng tài năng của mình, chàng trai đã rất thành công và gây dựng được danh tiếng mà không phải ai ở độ tuổi của cậu cũng có được. Rất nhiều người ngưỡng mộ, rất nhiều người yêu mến bởi vì dù thành công An vẫn luôn tỏ ra là một con người lịch sự, lễ phép và sống chân thành với người khác.

Thế nhưng, chuyện gì đến cũng sẽ đến. Sống trong một xã hội của một thành phố Vinh nổi tiếng chất chứa nhiều cạm bẫy, nhiều sự lôi kéo vào con đường ăn chơi, hưởng thụ. Cũng yếu đuối, cũng nông nổi, cũng ham muốn như bao người trẻ khác, hơn nữa, trong cảnh đầy đủ và thành công ban đầu dễ khiến Trần An bị cuốn vào vòng xoáy của lớp thanh niên đương thời. Ăn chơi, tiêu phá hết tất cả những gì đã gầy dựng. Sa vào bất mãn và mong muốn gỡ lại những gì nhận từ phụ mẫu. Trần An đã sai lại càng thêm sai. Chán nản, buồn bã Trần An lại càng lâm vào vui chơi hoang đàng, sa đọa trong men đắng tình trường, trong nghiện ngập chích hút. Cuộc đời và những người bạn xấu đã đẩy Trần An đến việc lỗi phạm đức công bằng, đưa Trần An đến chỗ thân tàn ma dại và ra vào vòng lao lý.

“Giữa cuộc đời tha hương lữ thứ

Tôi đi tìm lạc thú niềm say

Khi cuộc tình khi chén rượu cay

Khi quân bài hay khi khói thuốc…

Bỗng đâu chiếc còng người cảnh sát

Dẫn tôi đi vào chốn quạnh hiu

.. ….” (Trần An, 10.1995)

Thế nhưng, tình yêu của người mẹ, lời cầu nguyện và nước mắt của bà, cũng như chương trình của Chúa dành cho cậu thật quá ư vĩ đại. Được thức tỉnh và muốn làm vui lòng cha mẹ, Trần An đã được gửi đến Đan viện Thiên An để tĩnh tâm, để cai nghiện. Trải qua bao thăng trầm của một cuộc sống thật quá ư xa lạ, Trần An đã thành công và còn dâng hiến đời mình cho Chúa. Chàng muốn dâng cả thân xác và linh hồn mình để một đời thân mật với Chúa, đáp lại ân huệ yêu thương mà Chúa đã dành. Để rồi, bây giờ không ai không biết đến một vị linh mục mang cái tên rất đỗi thân thương và chứa đựng nhiều ý nghĩa: Phanxicô Trần An hay thường gọi là “Tràn Ân”.

“……….

Con xin cảm tạ Chúa nguồn yêu

Đã thương ban tặng biết bao điều

Từ vũng bùn nhơ Ngài thánh hiến

Đưa về chung sống bến “Trời yêu”

.. ….” (Trần An, 28.5.1995)

Không dừng ở đó, cha Trần An còn đã và đang thực hiện một công việc mà đối với cuộc đời từng trải như cha thật không mấy người có thể thay thế. Cha đã xin phép và được bề trên chấp thuận để lập một trung tâm giúp đỡ cho những thanh niên từng lâm vào cảnh nghiện ngập trở về. “Trung tâm Hướng Thiện” do cha An sáng lập và điều hành đã được xây dựng ngay phía sau linh địa Đức Mẹ La Vang (Quảng Trị), nơi mà Đức Mẹ không ngừng kêu gọi ăn năn hoán cải. Đến nay, dù thời gian chưa đầy hai năm, nhưng đã có hàng trăm con người sa ngã đã đến và được cha Trần An hướng dẫn tĩnh tâm. Trong số đó, đã rất nhiều người trở về lại với gia đình, thành công trong công việc kinh doanh. Hơn nữa, có 6 người tại Trung Tâm Hướng Thiện đã bước theo con đường của cha An để dâng mình cho Chúa trong các tu viện và đan viện, 6 người anh chị em từ trung tâm đã được hồng phúc lãnh nhận phép rửa để trở thành con cái của Thiên Chúa. Tôi cũng từng có may mắn được viếng thăm và sinh hoạt cùng những con người nơi Trung tâm Hướng Thiện mà cha An đã gầy dựng nên. Những con người mà có lẽ khi nghe nói về họ, về quá khứ nghiện ngập, trường trại và lối sống buông thả mà họ đã từng chúng ta sẽ có một cảm giác sợ hãi hay khinh thường… Thế nhưng, nơi Trung tâm Hướng Thiện những con người ấy lại trở nên thu hút một cách lạ kỳ. Nơi ấy đầy ắp tiếng cười và như một cộng đoàn dòng tu thực thụ với lối sống kỷ luật, tự giác. Họ đã không còn bị tiền bạc chi phối khi chấp nhận sống mà không giữ tiền riêng. Họ đã trở nên những con người có nề nếp khi chấp nhận một lối sống mới đúng giờ giấc, đúng lịch trình sinh hoạt hằng ngày. Họ đã trở về với Chúa và đến với Ngài mỗi ngày trong các giờ kinh phụng vụ, các thánh lễ bên người cha yêu quý của họ. Những con người đã quen với lối sống giành giật, trộm cắp, phung phí, chích hút…nay lại đổ mồ hôi hằng ngày để lao động, để làm việc. Họ đã bị đánh động bởi một cuộc đời đổi thay để rồi cũng thay đổi chính mình. Họ đã bị tiếng đàn, tiếng hát, hay những lời thơ chứa đựng bao niềm cảm xúc, chứa đựng bao tâm tư và cũng là nhật ký của một con người mang tên Trần An đánh động. Từ những người xa lạ với Thiên Chúa, xa lạ với đời sống Đức Tin thế mà giờ đây họ đang nếm hưởng những mật ngọt của tình Chúa. Họ đã và đang dần nhận ra Chúa nơi chính bản thân và nơi người khác để rồi biết tôn trọng món quà quý giá mà họ được lãnh nhận nơi Ngài.

Thật là một câu chuyện cảm động về kế hoạch yêu thương mà Thiên Chúa đã hoạch định. Dù Trung Tâm Hướng Thiện của vị linh mục “Tràn Ân” còn gặp nhiều khó khăn và thách đố, nhưng tin tưởng rằng: Chúa đang cùng cha An đồng hành để đưa tin vui đến cho nhiều gia đình, đưa niềm hy vọng đến cho nhiều phận người sa ngã, khổ đau.

Peter Thái Hùng

MÔI-SÊ THỤ GIÁO

MÔI-SÊ THỤ GIÁO

Có người đã kể về Môi-sê như sau:

Trước khi được sai đi lãnh đạo cuộc giải phóng dân Do thái khỏi ách nô lệ bên Ai cập, Môi-sê đã đến thụ giáo với một vị thầy nổi tiếng tại vùng núi Ma-đi-an.

Qui luật tối thượng mà vị này buộc Môi-sê phải giữ trong suốt thời gian thụ huấn là tuyệt đối giữ thinh lặng.

Ngày ngày thầy trò cùng ngao du sơn thủy.  Ðứng trước núi non hùng vĩ và bao vẻ đẹp của thiên nhiên, Môi-sê cảm thấy không gì dễ và thích thú cho bằng được ở thinh lặng.

Thế nhưng, một hôm, khi hai thầy trò đang đi dọc theo bờ biển, Môi-sê bỗng thấy một bé trai đang chới với trong nước, và người mẹ kêu la cầu cứu inh ỏi.  Môi-sê không thể giữ im lặng được trước một cảnh tượng như thế.  Ông cất tiếng hỏi thầy:

– Thưa thầy, thầy không làm gì để cứu đứa bé sao?

Nhưng vị thầy làm dấu bảo thinh lặng rồi tiếp tục đi.

Môi-sê bước theo thầy mà lòng không yên chút nào.  Ông cứ suy nghĩ tại sao thầy mình lại nhẫn tâm như thế?  Ði được một đoạn Môi-sê bỗng dừng lại giơ tay chỉ ra biển và nói với thầy:

– Thầy nhìn kìa, cả một chiếc thuyền chở đầy người đang đắm kìa!

Lại một lần nữa Môi-sê được thầy ra lệnh giữ thinh lặng và tiếp tục đi, như thế họ không cần phải quan tâm đến những gì đang xảy ra trước mắt.

Tâm hồn nhạy cảm của Môi-sê càng bối rối thêm nữa.  Ông đưa chuyện ấy thưa với Chúa và muốn biết tại sao thầy mình đã cư xử như vậy.  Chúa đã biện minh cho cử chỉ của thầy như sau:

– Thầy của con hoàn toàn có lý.  Ðứa bé chới với bên bờ biển chỉ là một dàn cảnh để khai mào một cuộc chiến tranh khốc liệt giữa hai dân tộc.  Còn chiếc thuyền đang đắm ngoài khơi là thuyền của một bọn cướp đang chuẩn bị tấn công một ngôi làng ven biển.

Thầy của con đã có lý, để giữ con đứng bên ngoài những hành động tội ác ấy.

******************************************

Tư tưởng và hành động của Thiên Chúa thường không giống với tư tưởng và hành động của con người.

Thánh Kinh kể lại rằng Môi-sê đã được nuôi dưỡng trong triều đình Ai cập, nhưng ông vẫn luôn ý thức được nguồn gốc Do thái của mình.

Một hôm chứng kiến cảnh một người Ai cập hành hạ một người Do thái.  Nhìn chung quanh không thấy có ai, Môi-sê đã ra tay giết chết người Ai cập rồi vùi xác người đó dưới cát.  Ngày hôm sau thấy hai người Do thái đang xâu xé nhau, Môi-sê đến can thiệp.  Nhưng một trong hai người đã đe dọa tố cáo ông về tội giết người Ai cập hôm trước.  Bị bại lộ, Môi-sê đành rời bỏ cung điện và trốn lên núi.

Môi-sê đã tưởng mình hành động đúng.  Ông không biết rằng Chúa đang có một chương trình, một kế hoạch đòi hỏi ông phải suy nghĩ, chờ đợi và kiên nhẫn hơn.

Sống đức tin là một hành trình đi vào kế hoạch của Thiên Chúa.  Qui luật tối thượng của cuộc hành trình ấy chính là thinh lặng.

Thinh lặng trước những ồn ào, dành dật của cuộc sống.  Thinh lặng trước những đam mê sôi sục và những tính toán đê hèn.

Thinh lặng để không ngừng lắng nghe tiếng Chúa trong từng giây phút, từng biến cố của cuộc sống.

R. Veritas

******************************************

Lạy Thiên Chúa, Đấng ưa thích sự thinh lặng, xin dạy chúng con thinh lặng để ở một mình với Ngài, trò chuyện, lắng nghe và thấm nhuần Lời Hằng Sống.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi con mắt, biết nhắm lại trước những vấp váp của tha nhân, biết quay đi trước những dịp tội gây xao xuyến.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi đôi tai,để nghe được tiếng kêu của người nghèo đói, để khép lại trước những mời mọc của ma quỷ.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi miệng lưỡi, để biết ca tụng Chúa và đem lại an vui cho muôn người, tránh cho mọi lời nói gây đau đớn đổ vỡ.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi trí khôn,để mở ra trước sự thật và khép lại trước dối trá.

Cuối cùng xin dạy chúng con thinh lặng nơi quả tim,để tránh xa mọi ích kỷ,thù hằn,ghen ghét,để yêu mến và ước ao Thiên Chúa trên hết mọi sự. Amen!

From: ngocnga_12

 

ĐÂY CHIÊN THIÊN CHÚA

ĐÂY CHIÊN THIÊN CHÚA

TGM Ngô Quang Kiệt

Trong Thánh Lễ, ta đọc Chiên Thiên Chúa nhiều lần.  Có lẽ ít người hiểu được ý nghĩa của cụm từ “Chiên Thiên Chúa”.  Nhưng khi Gioan Baotixita giới thiệu Chúa Giêsu cho dân Do Thái: “Đây là Chiên Thiên Chúa” thì người Do Thái hiểu rõ ý nghĩa của từ ngữ.

Trong Kinh Thánh, chiên được dùng làm biểu tượng cho những người hiền lành, đạo đức.  Trong dụ ngôn về ngày phán xét, Chúa đã tách chiên ra khỏi dê.  Chiên ở bên phải, dê ở bên trái.

Thế nhưng chiên còn có một ý nghĩa sâu xa hơn.  Hằng năm, vào Lễ Vượt Qua của người Do Thái, mỗi gia đình có tục lệ ăn thịt một con chiên.  Phải lựa con chiên non dưới một năm tuổi, tốt đẹp, không tì vết.  Người Do Thái ăn thịt Chiên Vượt Qua, không phải để mừng mùa đông đã qua và mùa xuân vừa mới khởi đầu.  Nhưng là để kỷ niệm ngày Chúa giải phóng họ khỏi ách nô lệ Ai Cập.

Lễ Vượt Qua được cử hành vào đầu mùa xuân.  Người Do Thái nhớ đến con chiên.  Con chiên đã chết cho họ được sống.  Máu chiên đã đưa họ ra khỏi mùa đông tăm tối, tiến vào mùa xuân tươi sáng.  Máu chiên đã giúp giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập, đưa họ về miền Đất Hứa, sống trong tự do.

Chúa Giêsu đã chịu tử hình vào dịp Lễ Vượt Qua của người Do Thái.  Bữa tiệc ly chính là tiệc Lễ Vượt Qua mà Chúa Giêsu ăn với các môn đệ.  Chịu chết vào dịp Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu chính là con chiên của Thiên Chúa bị sát tế để cứu nhân loại.

Chúa Giêsu là con chiên hiền lành, không hé môi khi bị đem đi xén lông.  Người khiêm nhường gánh lấy tội lỗi nhân loại.

Bản tiếng Việt dịch là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian.  Từ ngữ “xóa” là một cách nói văn hoa nhẹ nhàng, nhưng không lột hết ý nghĩa của nguyên ngữ.  Tiếng Hy Lạp dùng từ ‘airein’, tiếng La tinh dùng từ ‘tollit’ có nghĩa là nhận lấy vào mình, gánh lấy, vác lấy.  Có lẽ nên dịch là Chiên Thiên Chúa, Đấng ‘gánh’ lấy tội nhân loại thì đúng hơn.  Xóa là đứng ngoài cuộc.  Đức Giêsu không đứng ngoài cuộc.  Người đã nhập cuộc, gánh lấy thân phận con người, và nhất là gánh lấy tội lỗi của con người.  Chính vì gánh lấy tội lỗi mà Người, Đấng hoàn toàn trong sạch, vô tội đã chịu hạ mình xếp hàng giữa những người tội lỗi xin Gioan rửa tội.  Chính vì gánh lấy tội lỗi nhân loại mà Người lui tới với những người tội lỗi, chuyện trò với họ, ăn uống đồng bàn với họ.  Nhưng nhất là chính vì gánh lấy tội nhân loại mà Người phải chịu chết giữa hai tội phạm, đồng số phận với họ, đồng bản án với họ, như những người trộm cướp.

Người gánh lấy tội của ta để ta được tha thứ.  Người hạ mình xuống để ta được nâng lên.  Người trở nên nghèo hèn để ta được giàu có.  Người làm con loài người để ta được làm con Thiên Chúa.  Người trở nên yếu hèn để ta được nên mạnh mẽ.  Người chịu nhục nhã để ta được vinh quang.  Người nhận lấy thân phận nô lệ để ta được tự do.  Người cam lòng chịu chết để trả lại cho ta sự sống.

Người tín hữu thường được gọi là “Con chiên của Chúa”.  Danh hiệu đó ngầm chứa một lời cầu chúc: Mong cho người tín hữu được xếp vào loại ‘chiên’ trong ngày phán xét.  Được đứng bên hữu Vua Thẩm Phán.  Được vào hưởng vinh quang trong nước Chúa.

Nhưng danh hiệu đó phải chăng cũng gợi lên một ước mong.  Ước mong người tín hữu sống theo gương của Chiên Thiên Chúa.  Ước mong những con chiên con nối gót theo chiên mẹ đầu đàn đi vào con đường hiền lành khiêm nhường.  Ước mong đoàn chiên tự hiến đời mình như một của lễ dâng lên Thiên Chúa.  Và ước mong đoàn chiên gánh lấy số phận của người khác, để yêu thương, đoàn kết, liên đới, chia sẻ với anh em tất cả mọi niềm vui nỗi buồn của họ.

Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội con, xin thương xót con.

TGM Ngô Quang Kiệt

From: langthangchieutim

 

 

BÀI GIÁO LÝ CỦA ĐTC PHANXICÔ VỀ BÍ TÍCH RỬA TỘI

BÀI GIÁO LÝ CỦA ĐTC PHANXICÔ VỀ BÍ TÍCH RỬA TỘI

Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ

“Nhờ Bí Tích Rửa Tội, chúng ta có khả năng tha thứ và yêu thương ngay cả những người xúc phạm đến mình và làm tổn thương mình, chúng ta có thể nhận ra trong những người rốt hết và những người nghèo khổ nhất khuôn mặt của Chúa là Đấng đến thăm và gần gũi chúng ta.”

Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý ĐTC Phanxicô ban hành ngày 8 tháng 1 năm 2014 trong buổi Triều Yết Chung được tổ chức tại Quảng Trường Thánh Phêrô.  Hôm nay ĐTC bắt đầu loạt bài giáo l‎ý‎ về các Bí Tích, mở đầu bằng Bí Tích Rửa Tội.

* * *

Anh chị em thân mến, chào anh chị em!

Hôm nay chúng ta bắt đầu một loạt bài giáo lý về các Bí Tích, và Bí Tích thứ nhất là Bí Tích Rửa Tội.  Với một sự trùng hợp ngẫu nhiên rất hạnh phúc là Chúa Nhật tới đánh dấu Lễ Chúa chịu Phép Rửa.

1. Bí Tích Rửa Tội là Bí Tích mà trên đó đức tin của chúng ta được xây dựng và cho chúng ta trở thành phần tử sống động của Đức Kitô và Hội Thánh của Người. Với Bí Tích Thánh Thể và Thêm Sức, Bí Tích Rửa Tội tạo thành các Bí Tích gọi là “Khai Tâm Kitô Giáo”, tạo thành một biến cố Bí Tích lớn duy nhất, cho chúng ta được trở nên giống Thiên Chúa và biến chúng ta thành một dấu chỉ sống động của sự hiện diện và tình yêu của Ngài.

Nhưng chúng ta có thể thắc mắc là: Bí Tích Rửa Tội có thực sự cần thiết để sống như Kitô hữu và để theo Chúa Giêsu không? Theo cơ bản đó có phải một nghi lễ đơn giản, một hành động chính thức của Hội Thánh để đặt tên cho một em bé không?  Đó là một câu hỏi có thể được đặt ra. Và những lời của Thánh Tông Đồ Phaolô viết đã làm sáng tỏ điều này: “Anh em không biết rằng: khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6:3-4 ). Vì vậy, nó không phải là một thủ tục!  Bí Tích Rửa Tội là một hành động chạm đến cuộc sống chúng ta một cách sâu xa.  Một em bé đã được Rửa Tội và một em bé chưa được ữa tội không giống nhau!  Một người được Rửa Tội không giống một người chưa được Rửa Tội.  Chúng ta, qua Bí Tích Rửa Tội, được đắm mình trong nguồn vô tận của sự sống là cái chết của Chúa Giêsu, hành động cao quí nhất của tình yêu trong lịch sử; và nhờ tình yêu này mà chúng ta có thể sống một đởi sống mới, không còn đưới quyền thống trị của sự dữ, của tội lỗi và của sự chết, nhưng trong sự hiệp thông với Thiên Chúa và với anh chị em mình.

2. Việc nhiều người trong chúng ta không nhớ cuộc cử hành Bí Tích này của mình là điều hiển nhiên, nếu chúng ta đã được Rửa Tội một thời gian ngắn sau khi sinh ra. Tôi đã hỏi câu hỏi này hai hoặc ba lần ở Quảng Trường này: Ai biết ngày Rửa Tội của mình, giơ tay lên.  Biết ngày mà tôi được dìm vào dòng nước cứu độ của Chúa Giêsu là điều quan trọng.  Tôi xin phép khuyên anh chị em một điều.  Nhưng còn hơn một lời khuyên nhủ, một bài tập ở nhà cho ngày hôm nay.  Hôm nay ở nhà, anh chị em hãy tìm và hỏi xem ngày Rửa Tội của mình là ngày nào, và do đó anh chị em sẽ biết thật rõ ngày Rửa Tội tốt đẹp ấy.  Biết ngày Rửa Tội của chúng ta là biết một ngày rất vui.  Nếu chúng ta không biết nó, chúng ta có nguy cơ mất ký ức về những gì Chúa đã làm trong chúng ta, ký ức về hồng ân mà chúng ta đã nhận được.  Chung cuộc chúng ta chỉ coi nó như là một biến cố đã xảy ra trong quá khứ – và thậm chí không do ý muốn của chúng ta, nhưng do ý‎ muốn của cha mẹ chúng ta – điều đó không còn có bất kỳ ảnh hưởng nào đến hiện tại của chúng ta.  Chúng ta cần phải đánh thức k‎‎‎ý ức về ngày Rửa Tội của mình.  Chúng ta được mời gọi sống Bí Tích Rửa Tội của chúng ta mỗi ngày, như một thực tại có thật trong cuộc sống của mình.  Nếu chúng ta theo Chúa Giêsu và ở lại trong Hội Thánh, bất chấp những giới hạn, những yếu đuối và tội lỗi của chúng ta, chính nhờ Bí Tích này mà qua đó chúng ta đã trở thành những tạo vật mới và đã mặc lấy Đức Kitô.  Thực ra, chính nhờ Bí Tích Rửa Tội mà chúng ta được giải thoát khỏi Tội Nguyên Tổ, chúng ta được ghép vào mối liên hệ của Chúa Giêsu với Thiên Chúa Cha, chúng ta thành những người mang một niềm hy vọng mới, vì Bí Tích Rửa Tội cho chúng ta niềm hy vọng mới này: hy vọng bước đi trên con đường cứu độ suốt cuộc đời mình.  Và không điều gì hoặc không ai có thể dập tắt niềm hy vọng này, bởi vì hy vọng không làm chúng ta thất vọng.  Hãy nhớ rằng: hy vọng nơi Chúa không bao giờ làm cho chúng ta thất vọng.  Nhờ Bí Tích Rửa Tội, chúng ta có khả năng tha thứ và yêu thương ngay cả những người xúc phạm đến mình và làm tổn thương mình, chúng ta có thể nhận ra trong những người rốt hết và những người nghèo khổ nhất khuôn mặt của Chúa là Đấng đến thăm và gần gũi chúng ta.  Bí Tích Rửa Tội giúp chúng ta nhận ra trên khuôn mặt những người nghèo, những người đau khổ, ngay cả trong những người lân cận của mình, khuôn mặt của Chúa Giêsu.  Tất cả những điều này có thể được là nhờ vào sức mạnh của Bí Tích Rửa Tội!

3. Một yếu tố quan trọng cuối cùng. Và tôi đưa ra câu hỏi: Một người có thể tự Rửa Tội cho mình được không? Không ai có thể tự rửa tội cho mình được!  Không ai.  Chúng ta có thể yêu cầu được rửa tội, mong muốn được rửa tội, nhưng chúng ta luôn luôn cần một người nhân danh Chúa ban Bí Tích này cho chúng ta.  Bởi vì Bí Tích Rửa Tội là một món quà được ban tặng trong bối cảnh quan tâm và chia sẻ huynh đệ.  Luôn luôn trong lịch sử, một người rửa tội cho một người khác, một người khác, và một người khác nữa… đó là một chuỗi, một chuỗi ân sủng.  Nhưng, tôi không thể tự làm phép rửa cho mình: tôi phải xin người khác rửa tội cho tôi.  Đó là một hành động huynh đệ, một hành động liên kết với Hội Thánh.  Trong việc cử hành Bí Tích Rửa Tội, chúng ta có thể nhận ra những đặc tính chân chính nhất của Hội Thánh, là một người mẹ tiếp tục sinh ra những con cái mới trong Đức Kitô, trong hoa quả của Chúa Thánh Thần.

Vậy giờ đây chúng ta hãy xin Chúa bằng cả tâm hồn để chúng ta có thể cảm nghiệm nhiều hơn và nhiều hơn nữa trong cuộc sống hàng ngày, ân sủng này mà chúng ta nhận được qua Bí Tích Rửa Tội.  Để khi gặp gỡ chúng ta, anh chị em chúng ta có thể gặp những con cái thật của Thiên Chúa, những người em thật sự của Chúa Giêsu Kitô, các phần tử thật sự của Hội Thánh.  Và đừng quên bài tập ở nhà ngày hôm nay: tìm kiếm, hỏi cho biết ngày chịu phép Rửa Tội của mình.  Như một người biết ngày sinh của mình, tôi cũng phải biết ngày rửa tội của tôi, vì đó là một ngày lễ!

Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ

http://giaoly.org/vn/

Tác giả: GLV. Phạm Xuân Khôi (chuyển ngữ)

MÙA XUÂN, ÁO MỚI

MÙA XUÂN, ÁO MỚI

Phan sinh Trần

Bạn ơi khi mình yêu ai thì mỗi buổi gặp gỡ là một kỷ niệm rất thích thú phải không ?

Trong buổi hẹn hò, mình hay chú ý hình dáng của người yêu, chú ý cái áo thường là rất đẹp của người yêu mặc. Tôi còn nhớ, mình đã từng làm bài thơ này khi thấy người yêu mặc áo sơ mi lụa hồng phấn, lần đầu đến thăm tôi tại nhà trong Ngày đầu Xuân.

Chiều mồng ba Tết đến nhà,

Ôi em mắt biếc, lụa là mới xinh

Áo hồng em mặc lung linh

Mịn màng má trắng, môi trinh nguyên nồng

Thơ ngây, e ấp em cười

Anh nghe xuân mới sáng tươi cuộc đời

Lòng anh nở hội sao đăng

Đơn sơ áo lụa mà răng nhớ hoài…

Đó là chuyện của Ngày xưa còn bé phải không? Bây giờ thì sao rồi.

Đáng tiếc là tình yêu thế gian dù ít, dù nhiều cũng có sự  “bể mộng”, chưa lấy thì “nay ước mai ao “, tranh đấu mãi để có nhau, nhưng khi lấy được rồi thì lại “ sáng mắt như tôi mới chừa”. Nếu bạn lập gia đình rồi thì  biết rõ điều này phải không ? Vì những truân chuyên trong cuộc đời làm cho hoa mộng vơi vãi đi rất nhiều, những khiếm khuyết của uyên ương lộ ra sau ngày cưới cũng làm phôi pha hình ảnh của thần tượng. Có cách nào làm sao để tình còn mãi, tinh nguyên và mặn nồng ?…

Trong tình yêu dành cho Chúa Giê Su mình cũng mặc áo mới khi bắt đầu mối tình đầu với Ngài. Bạn có biết khi nào  ta từng mặc áo thiêng liêng, áo mới Chúa ban không? Có thể bạn sẽ nói vào dịp ta rửa tội hay thêm sức. Thực ra việc này cũng có thể xảy ra vào một dịp ta tham dự tĩnh tâm Canh Tân Đặc sủng, hay Tĩnh tâm Linh Thao, Tĩnh tâm Coursillo, Thăng Tiến Hôn Nhân…, bạn có thể đã từng được mặc Áo mới Chúa tặng . Điều khác biệt là Áo đó không phải do mình mua rồi may cắt theo sở thích mà là Áo mới thiêng liêng do Chúa Giê Su ban tặng và Chúa Thánh linh mặc cho ta.  Áo đó chính  là tình trạng của một tấm lòng hoàn toàn mới, đơn sơ, vui mừng do Chúa ban tặng khi Ngài thăm viếng hồn ta và rồi Thánh Linh của Ngài  làm cho ta thêm mãi tình yêu mến Chúa Giê Su quá đỗi, quá chừng. Tình yêu đó  làm cho tim bạn tan chảy và muốn thuộc về Chúa trọn vẹn ,  không muốn phạm bất cứ một tội nào nữa làm buồn lòng Chúa kính yêu của mình phải không ? Trong cuộc tình với Chúa, nó rất thơ mộng và tuyệt vời , tôi và một số bạn luôn gọi nó là Tình Đầu với Chúa vì nó có đủ mọi ưu điểm của Tình Đầu

Có một bài hát nói lên tình trạng này , mà tôi rất thích, bài “ at the foot of the Cross” , lời của bài có  tâm tình như sau :

Nơi gốc cây Thập Tự ,
Chỗ  ân huệ và thương tổn gặp  nhau
Ngài đã tỏ tình Ngài cho con
Qua án xử mà Ngài nhận lấy

Và Chúa đã chiếm trái tim con ,
Và Chúa chiếm đoạt tim con rồi.
Giờ thì con có thể …
đổi tro bụi này   lấy thanh cao đẹp đẽ,
Con đội ơn tha thứ như vương niệm lấp lánh.
hôn đôi chân của lòng xót thương.
Con đặt hết gánh nặng dưới chân cây Thập Tự

At the foot of the Cross ( Xin bấm vào link)

Trong cuộc tình,  Chúa mặc Áo mới cho mình, đặc điểm của Áo mới Chúa ban là gì ?

Áo trắng của lòng tinh tuyền mặc vào ta không còn ham muốn tiền tài , danh vọng và lạc thú ở Đời nữa

Áo nhẹ như tơ trời của lòng đơn sơ, bé nhỏ mặc áo vào,  lòng ta sẽ rất nhẹ nhàng như mây trời, thậm chí cái “Tôi”  vốn to như ngọn núi có thể tan chảy hồi nào mà mình không hay biết.

Áo điểm tô bằng ngọc ngà của sự tha thứ và yêu thương, mặc vào lòng ta luôn chạnh thương và sắn lòng tha thứ cho Anh Em một cách dễ dàng trong sự rộng lượng, thông cảm về thân phận yếu đuối của con người.

Áo mượt mà óng ả của tình bác ái  đi đâu ta cũng muốn phục vụ và cầu nguyện cho mọi hoàn cảnh khó khăn của Anh Em.

Áo của Chúa ban còn vô vàn điều tuyệt vời có lẽ khó mà diễn tả , nhưng cách để biết rõ về nó là ta hãy đầu phục Chúa hoàn toàn trong một buổi lễ rửa tội thiêng liêng , khi ta có dịp để thực sự từ bỏ mọi oán hờn , mọi đam mê, đầu phục Chúa hoàn toàn và để Chúa khoác áo mới vào cuộc đời của mình. Áo đó thực ra là một cuộc cách mạng triệt để làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời của mình , giống như tình trạng được bắt đầu lại hay là sinh lại lần thứ hai, Chúa Giê Su từng minh xác với Ông Ni cô Đê Mô rằng:

–          Quả thật, quả thật, tôi bảo ông, ai không sinh ra bởi Nước và Thần khí,

thì không thể vào được Nước Thiên Chúa. ( Gioan 3: 3)

Kinh Thánh cũng nói về dụ ngôn Nước Trời giống như một tiệc cưới mà trong đó khách mời ai cũng phải mặc y phục dành cho tiệc cưới :

–          Nhà vua đi vào coi khách dự tiệc, mới thấy ở đó một người không mặc y phục lễ cưới, nên mới nói với y: “Này bạn, làm bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?” Người ấy câm miệng. Bấy giờ, vua bảo quân hầu: “Hãy trói chân tay nó lại mà đuổi nó ra tối tăm bên ngoài: ở đó nó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng”.( Mattheu 22:11-13)

Không ai vào được nước Trời nếu không có một đời sống mới, có sự thay đổi giống như tình trạng mình mặc Y phục thánh thiện tinh tuyền trong tiệc cưới Nước Trời .

Bây giờ, tôi xin phép được trỏ lại với câu hỏi ban đầu, làm sao cho tình trần gian được bảo tồn ?

Tình đầu của Chúa, Áo Chúa ban tặng có giúp ích gì cho Tình yêu riêng tư đôi lứa giữa bạn và người yêu trần gian không ? Vâng , theo kinh nghiệm mà tôi nhận ra thì có, và có rất nhiều là đằng khác, nó làm cho Tình yêu trần gian có thêm yếu tố yêu vô điều kiện, yêu vô vụ lợi và làm cho đôi uyên ương sẵn lòng hy sinh cho nhau , làm cho uyên ương thêm nhiều hạnh phúc ý nghĩa đến dài lâu,  vì đơn giản là khi ta biết  nhìn lại mình,  khi ta đơn sơ nhỏ bé thì Ta cũng đương nhiên sẽ dễ yêu người, yêu nhau hơn .

Yêu Chúa rồi Yêu nhau , Yêu Người như là một hệ quả tất nhiên từ nguồn sung mãn của Đấng vô vàn kính yêu. Kinh nghiệm của chúng ta là càng yêu Chúa thì càng yêu nhau hơn.

Một người trí thức VN nhập đạo nói về cảm nghiệm “Đi tìm Giáo Hội”

Một người trí thức VN nhập đạo nói về cảm nghiệm “Đi tìm Giáo Hội”


Vũ Văn An

01/11/2014

Nhiều người thích đọc lời mô tả hết sức cổ điển về Giáo Hội trong cuốn tiểu thuyết của Myles Connolly, viết năm 1951, đã hơn 60 năm qua, tựa là Dan England and the Noonday Devil. Lời mô tả này nhắc ta nhớ rằng Giáo Hội không phải là một định chế mà là một Thân Thể, là Chúa Kitô. Xin nhường lời cho Myles Connolly:

Với tôi, Giáo Hội là tất cả những điều quan trọng ở khắp mọi nơi. Giáo Hội là thẩm quyền và hướng dẫn. Giáo Hội là hy vọng và bảo đảm. Giáo Hội là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Giáo Hội là Đức Bà và Thánh Giuse. Giáo Hội là Thánh Phêrô và Đức Piô XII. Giáo Hội là giám mục và cha xứ. Giáo Hội là giáo lý và là mẹ đang cúi xuống nôi dạy ta đọc kinh tối. Giáo Hội là nhà thờ chính tòa thành Chartres và là túp lều với thánh giá trên nóc ở Ulithi. Giáo Hội là các tử đạo tại Colosseum và các tử đạo tại Uganda, các tử đạo tại Tyburn và các tử đạo tại Nagasaki. Giáo Hội là vị nữ tu già và cô dự tu mắt đầy tha thiết. Giáo Hội là gương mặt rạng rỡ của vị tân linh mục dâng thánh lễ mở tay, và là cậu bé giúp lễ ngái ngủ để lộ đôi giầy trắng chơi quần vợt đã cũ mèm dưới chiếc áo giúp lễ đen…

Giáo Hội là đỉnh tháp nhọn thoáng thấy từ cửa sổ xe lửa và là nhà thờ thu nhỏ hình thánh giá nhìn xa từ trên cao máy bay nhìn xuống. Giáo Hội là Thánh Lễ 6 giờ sáng với một nhúm thánh nhân vô danh tại chấn song rước lễ trong bóng tối mờ nhạt và là Thánh Lễ đại trào với đám đông vĩ đại và vẻ huy hoàng sáng lạn tại Nhà Thờ Thánh Phêrô… Giáo Hội là Ca Đoàn Nhà Nguyện Sistine và là đoàn rước kiệu Tháng Năm của trẻ em Trung Quốc miệng hát Lạy Nữ Vương Thiên Đàng ở Bắc Kinh.

Giáo Hội là tu sĩ Carthusian trẻ trung tại Monte Allegro và là tu sĩ Dòng Tên đang dạy nhận thức luận ở Tokyo. Giáo Hội là linh mục gốc Scheutveld của Bỉ đang chiến đấu chống bệnh ngủ tại Congo và là tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế đang tranh đấu chống thành kiến tại Vermont. Giáo Hội là tu sĩ Biển Đức, Augustinh, Thương Khó, Đa Minh, Phanxicô. Giáo Hội là mọi tu sĩ và đặc biệt Dòng Các Cha Xứ vĩ đại nhưng vô danh.

Giáo Hội là Nữ Tu Cát Minh đang đốt những ngọn nến cho buổi kinh chiều trong cái giá lạnh thê lương của Iceland và là Nữ Tu Đức Bà Namur đang may những chiếc khăn trùm Rước Lễ Lần Đầu tại Kwango. Giáo Hội là Nữ Tu Vincentian đang chăm sóc một người Da Đen Baptist sắp chết vì ung thư tại Alabama và là Nữ Tu Maryknoll đang đối diện với một ủy viên Cộng Sản tại Manchuria. Giáo Hội là Nữ Tu Dòng Trắng đang dạy những người Ả Rập nghề làm thảm tại Sahara và là Nữ Tu Chúa Chiên Lành tại St Louis đang cung cấp nơi ẩn náu cho một đứa trẻ bị bỏ rơi, một mái ấm cho con chiên lạc. Giáo Hội là Nữ Tiểu Muội của Người Nghèo đang thoa thuốc mỡ cho những vết lở loét của một ông già bị bỏ rơi ở Marseilles, là Nữ Tu Áo Xám đang phục vụ những người cùng khốn tại Haiti, là Nữ Tu Thánh Thể đang giúp một thanh niên Da Đen làm thơ tại New Orleans. Giáo Hội là Nữ Tu Bác Ái… Giáo Hội là tất cả các Nữ Tu khắp nơi.

Giáo Hội là người đàn bà nhăn nheo đang giữ cho tươi mát những bó hoa trước bàn thờ Đức Mẹ và là người nữ giáo lý viên trẻ đang dạy các tân tòng đi chân đất tại những đồi núi xa xôi. Giáo Hội là thiếu nữ đang từ bỏ cuộc chơi bài để lái các Nữ Tu tới trại giam và nhà người nghèo, và là người đàn bà tới từng cửa xin giúp đỡ các trẻ mồ côi. Giáo Hội là bà mẹ hãnh diện của vị linh mục và là bà mẹ đứt ruột đứt gan của tội nhân. Giáo Hội là tất cả các bà mẹ và bà chị bà em đang khóc, đang đau, và đang cầu nguyện để những người con trai,người anh, người em trai duy trì được đức tin.

….Giáo Hội là những bài giảng xấu và những bài giảng tốt, những ơn gọi giả và những ơn gọi thật. Giáo Hội là người thanh niên cao lớn đi Đàng Thánh Giá mỗi chiều và là người cha của mười đứa con đang đẩy xe đưa đứa con bệnh đi Lễ sáng Chúa Nhật tại Bệnh Viện Quận.

Giáo Hội là Thánh Martin và Thánh Martin de Porrès, Thánh Augustinô và Thánh Phocas, Thánh Grêgôriô Cả và Thánh Grêgôriô Thaumaturgus, Thánh Ambrôsiô và Charles de Foucault, Thánh Inhaxiô Tử Đạo, Thánh Thomas More và Thánh Barnaba. Giáo Hội là Thánh Têrêxa và Thánh Philomena, Gioan thành Arc và Thánh Winefride, Thánh Annê và Thánh Maria Euphrasia. Giáo Hội là mọi các thánh, xưa và nay, được nêu danh và không được nêu danh, và mọi kẻ tội lỗi.

Giáo Hội là tiếng bật ca Sáng Danh vào Thứ Bẩy Tuần Thánh và là hang đá tù mù trong Thánh Lễ hừng đông vào Lễ Giáng Sinh. Giáo Hội là phẩm phục mầu hồng của Chúa Nhật Laetare (Hãy Vui Lên) và là chiếc áo khoác làm việc mầu lam của linh mục đang làm việc với các lao công tại một hầm mỏ ở vùng Ruhr.

Giáo Hội là những đôi giầy mới bóng loáng và các khuôn mặt đầy tôn kính của cô dâu và chú rể Tháng Sáu đang qùy trước bàn thờ phủ hoa trắng trong Thánh Lễ Hôn Phối, và là người mẹ trẻ tái nhợt, bối rối tại giếng rửa tội, vì niềm vui của bà trộn lẫn với nỗi lo âu khi thấy đứa con đầu lòng khóc lời phản đối nước rửa tội. Giáo Hội là hàng nối đuôi dài, mờ ảo, nhấp nhô các hối nhân đang đứng chờ ngoài tòa giải tội lúc chạng vạng của một buổi chiều mùa đông, mỗi người đều cách biệt và cô đơn một cách long trọng với các tội lỗi của riêng mình, và là hình ảnh đang khom lưng của một linh mục in bóng lên các chiếc đèn chiếu của xe cảnh sát trên xa lộ tối đen khi ngài đọc những lời kinh cuối cùng trên thân xác tan nát đang nằm trên vỉa hè bên cạnh chiếc xe bẹp dúm.

Giáo Hội là Kinh Magnificat và là kinh tạ ơn đọc trước các bữa ăn. Giáo Hội là cuốn sách lễ nhầu nát và là bức tượng sứt mẻ của Thánh Antôn, là chiếc hộp thu tiền cho người nghèo và là chiếc chuông nhà thờ đã nứt nẻ. Giáo Hội là Chiếc Cửa qua đó tôi bước vào đức tin và là Chiếc Cửa qua đó, nếu Chúa muốn, tôi sẽ ra đi về miền vĩnh cửu.

Chổi cùn, bút lông vô giá trị

Giáo Hội quả là các thánh và những người tội lỗi. Năm 1986, tại Đà Lạt Việt Nam, một người trở lại Đạo Công Giáo năm 1949 lúc Việt Nam đang cựa mình thật mạnh trong giấc mơ độc lập của mình, cũng có cùng một ý nghĩ ấy về Giáo Hội. Đó là ông Nguyễn Khắc Dương, cựu quyền khoa trưởng khoa văn Đại Học Đà Lạt, tác giả hồi ký Quia Dilexit Humilitatem Meam (Vì Người Thích Sự Khiêm Nhường Của Tôi). Bỏ ngoài các nhận định về chính trị, là những nhận định có thể gây tranh cãi, cuốn tự thuật này qúy giá ở chỗ cho ta cái nhìn rất trung thực của một người, sau khi đã trải qua nhiều kinh nghiệm tâm linh, cuối cùng đã chọn Thầy Giêsu làm lẽ sống trong lòng Giáo Hội.

Nguyễn Khắc Dương vốn là em ruột Nguyễn Khắc Viện, một trong các lý thuyết gia hàng đầu về văn hóa của Cộng Sản Bắc Việt, nên hồi nhỏ, đương nhiên không thích Đạo Công Giáo. Cũng như nhiều người khác, cậu tin rằng Đạo này có trách nhiệm dẫn đường cho Pháp cướp nước ta. Đạo này còn là “tà đạo” dạy những điều mê tín dị đoan, có những lễ nghi kỳ quặc… Người Công Giáo lại “cứ quây quần trong mấy xứ đạo như tách rời khỏi cộng đồng dân tộc, do mấy cố đạo chỉ huy, gây ấn tượng làm sao ấy! Thấy người Công Giáo ra vào lui lủi nơi các toà giải tội, lên “lè lưỡi” rước lễ, rồi trở về mắt nhắm tay chắp gối quỳ – thật là không tài nào chịu nổi! Và nhìn người Công Giáo nào cũng có vẻ như bị “bùa mê”, như “mê” một cái gì đó, bị một ma lực nào quyến rũ, ám ảnh, mê hoặc (possédé, envouté)! Cho nên, chúng tôi – con nhà khoa bảng, học thức – hơi có vẻ khinh đạo Công Giáo, cho như là một hình thức quyến rũ, mua chuộc, mê lú, mà các cố đạo đã đánh bả cho một lớp người hạ lưu trong xã hội! Trong họ vừa có cái gì dễ ghét, vừa có cái gì đáng tội nghiệp như là những người bị mê hoặc”.

Nhưng cậu ấm con quan này thi hỏng chương trình Việt vì môn chính tả, nên bà mẹ gửi vào Huế học chương trình Pháp không có môn chính tả tại tư thục Công Giáo Thiên Hựu. “Vào học trường Thiên Hựu, tôi được dấn bước vào thế giới Công Giáo, mà dần dần khám phá ra những giá trị của nó”. Trước hết là sự tận tâm chức nghiệp của các linh mục giáo sư. “Điều thứ hai là ‘tình yêu người’ được bộc lộ ra qua cách đối xử”. Theo Nguyễn Khắc Dương, yêu khác thương. Khổng Giáo và Phật Giáo đều dạy thương người, thậm chí thương cả vạn vật nữa, “nhưng ‘yêu’ người thì hình như chỉ có đạo Kitô mới dạy và mới giúp người ta thực hiện được”. Vì yêu là xem người yêu như “một giá trị duy nhất vô nhị và không thể thay thế… và như thế là mình được nhìn nhận đúng phẩm giá làm người của mình, như là một ngã vị, một chủ thể duy nhất, như là được lên ngôi”. Yêu không hẳn là một đức hạnh (vertu) mà là một tác phong (comportement) “bắt nguồn từ một cảm thức dựa trên căn bản một nhận thức nào đó về giá trị con người”.

Nguyễn Khắc Dương cho rằng vị thượng tọa cậu quen biết, về mặt luân lý, “có lẽ ít linh mục Công Giáo nào sánh kịp”, có thể “liều chết cứu tôi, nhưng động thái (comportement) của ngài có cái gì lạnh nhạt. Tôi có cảm tưởng dù thương tôi hết sức, nhưng ngài thương tôi trong cái đại từ bi vô ngã đối với một chúng sinh vô ngã như bất cứ chúng sinh nào! Và tôi xin vô lễ (vì tôi rất kính mến ngài) mà cả gan suy diễn rằng có lẽ ngài xót thương cho cái chấp ngã hiện hữu của tôi, thay vì vui mừng vì hiện hữu của tôi như một ‘ngã vị’. Và xin thú thật rằng: tôi rất tôn kính Đức Thích Ca, nhưng mỗi lần chiêm ngưỡng tượng Ngài điềm nhiên trên toà sen, tôi vẫn có cảm tưởng như vậy. Tôi được chiếu rọi bởi ánh từ bi của Ngài, nhưng không có cảm tưởng được sưởi ấm cõi lòng bởi lửa yêu mến của Ngài”.

“Sau này tôi mới hiểu rằng cái ấn tượng người Công Giáo như bị “bùa mê thuốc lú”, bị “thần ám” (possédé), bị “huyễn hoặc” (envouté) không phải là không có lý do! Bởi vì trong căn bản, người Công Giáo là kẻ có cảm thức được yêu bởi Thiên Chúa, được yêu một cách khủng khiếp (được yêu mà cũng có thể nói là bị yêu, vì tình yêu nào cũng có tính cách ràng buộc: nợ tình) và được mời gọi đáp lại tình yêu như vậy. Có cái gì như kẻ si tình, chứ không phải bậc Đại Giác, Đại Ngộ như Phật dạy. Si ở đây bắt nguồn từ sự điên rồ của màu nhiệm Khổ giá (la folie de la croix); và như chữ Thương khó, khổ nạn (passion) không phải không có âm hưởng của cái gì như là đam mê (cũng là passion). Sự so sánh các thánh Kitô giáo với các thiền sư, đạo gia, thì một bên có cái gì da diết, đầy đam mê (passion), một bên thì thanh thản, đầy minh triết (sagesse)”.

Rồi nhờ học giáo lý, Nguyễn Khắc Dương khám phá ra Chúa Giêsu. “Cuộc đời của Đức Giêsu trước hết gợi lên lòng thương của tôi đối với một người vô tội bị oan khiên, sau là sự hấp dẫn của một người dịu dàng, đơn sơ, bình dị. Có thể nói tình cảm đầu tiên đối với Ngài là lòng thương mến (có pha trộn một chút tội nghiệp nào đó) hơn là lòng tôn kính đối với một bậc tôn sư: có một cái gì như tình bạn ít nhiều bình đẳng giữa hai người cùng hội cùng thuyền. Ấn tượng đầu tiên đối với Ngài có cái gì tương tự như sự an ủi của mẹ hiền, bạn quí, hàn gắn thương đau, khuyết điểm, khuyến khích về mặt cảm tính khi chán nản; sưởi ấm cõi lòng khi cô đơn – nhiều hơn là một vị tôn sư dạy một giáo thuyết”.

Cậu cho rằng “sự hấp dẫn của chúa Giêsu hình như do chính con người và cuộc đời của Ngài từ việc sinh ra trong máng cỏ, qua 30 năm âm thầm lặng lẽ, ba năm nay đây mai đó, trà trộn với dân chúng, rồi bị giết oan, nhiều hơn là do đạo lý Ngài truyền dạy. Bởi vì, xét về mặt tâm lý đạo đức thì các bài dạy của Ngài cũng chẳng có gì là cao siêu tuyệt vời, nhưng điều làm cho tôi cảm mến Ngài chính là “con người” và “cuộc sống” (gồm cả cái chết của Ngài): sa “personne” et sa “vie”. Đã có cảm tình với Ngài rồi thì khó quên, khó phai và hình như càng lâu càng thắm thiết hơn… Đối với các bậc thánh hiền khác, thì có thể nhớ bài dạy của Ngài mà quên đi con người và cuộc đời của các ngài. Đối với Đức Giêsu thì khác hẳn: đôi khi quên lời Người dạy, nhưng chính Ngài thì không quên được. Và có lẽ càng hay sống trái lời Ngài dạy, thì hình ảnh Ngài lại càng thêm xoáy vào tâm khảm… nhớ quay nhớ quắt, nhớ quằn quại đến độ không chịu được!… Thông minh, tài trí, dũng cảm… Có lẽ nhiều người hơn Giêsu, nhưng đáng yêu nhất thì có thể chỉ có duy nhất một mình Ngài mà thôi!”

Rồi cậu “gặp Pascal”, một thiên tài “cuối cùng đã vất bỏ tất cả để sống một cuộc đời cống hiến cho Chúa Giêsu! Vì sao? Vì Pascal đã cảm nghiệm được rằng Giêsu đã yêu Pascal đến chết, Giêsu đã nhỏ những giọt máu cho Pascal. Và Pascal đã nhìn nhận Giêsu là Thiên Chúa”

Nhưng hình như Đấng Giêsu này đã bị Giáo Hội do Người sáng lập, ít nhất là cái Giáo Hội trước mắt Nguyễn Khắc Dương, tức Giáo Hội Việt Nam đang ở lúc trưởng thành, phản bội. Vì cái Giáo Hội này đã biến “con chiên bổn đạo” thành “một đàn cừu của Panurge!”: khúm núm, khép nép, cúi đầu “trước một ông Trời làm chúa tể qua trung gian mấy cha cố”, nhất là các cha cố Tây. Cậu cho rằng “Tin vui cứu chuộc của Giêsu đã bị Giáo Hội biến thành một thứ bùa mê để thao túng, cầm buộc con người trong một xiềng xích tinh thần, làm cho con người trở nên ngoan ngoãn, hiền lành, dễ bảo, dễ trị; nhưng thiếu khí phách, thiếu tự do phóng khoáng – cởi mở – tiến bộ: một dạng “ngu dân” nào đó!”. Trái ngược “với Giêsu Na-da-rét là người đã có ý muốn nâng cấp cứu vớt con người, nhất là lớp người thấp hèn, khốn khổ. Tôi hình như mang máng có ý nghĩ là giáo quyền đã phản ngược lại lý tưởng của Giêsu Na-da-rét”.

Nhưng biến cố 1945 đã quét sạch “cái hình ảnh Hội Thánh gắn liền với quyền bính… Cái vỏ ‘cố Tây’ được bóc vất đi để lộ nguyên hình là các vị ‘thừa sai’ của Chúa Kitô, mà đã có thời tỏ rạng qua dáng dấp của chân phước Théophane Vénard”. Hình ảnh vị “Giám Mục Việt Nam tiên khởi địa phận Vinh lúc ra Thanh Hóa thụ phong Giám Mục, được gánh đi lủi thủi không tiền hô hậu ủng, không kèn, không trống âm thầm lặng lẽ phục xuống trước bàn thờ, như bị đè bẹp dưới cuốn Kinh Thánh đặt trên mình, đã xóa nhòa hình ảnh các vị Giám Mục áo Vàng áo Tím, oai vệ ngồi trên khán đài danh dự cạnh quan Khâm quan sứ trong các buổi duyệt binh vào dịp lễ Quốc khánh của nước Bảo Hộ Đại Pháp trước 1945”.

Nguyễn Khắc Dương cho rằng năm 1945 “quả là Năm Đại Hồng Phúc đối với riêng tôi” làm thay đổi hẳn tương quan của cậu đối với Giáo Hội. Từ từ, cậu nhận ra “trong một môi trường chịu ảnh hưởng của Chúa Giêsu Na-da-rét, tương quan liên-ngã-vị (relation intersubjective, interpersonnelle) cũng đậm đà hơn. Một gia đình, một họ đạo, một cơ sở Kitô giáo nào cũng mang màu sắc ấy (dù trình độ văn hóa và kể cả trình độ đạo đức cá nhân có thể là thấp)”. Bầu không khí của cộng đoàn Công Giáo luôn “có cái gì thân hữu, đầm ấm”. Dù có thể lắm lúc xảy ra cãi cọ tranh chấp, “nhưng vẫn là có nhau – nghĩa là dù tốt hay xấu đều có nhau, đều có tương quan liên- ngã-vị, hữu ngã và hữu tha trong cái với nhau”. Cậu cho rằng “cái tương quan liên-ngã-vị quan trọng như vậy là vì từ trong nguồn gốc của mỗi hữu thể, tức là trong Mầu Nhiệm Thiên Chúa tương quan lập hữu giữa Ba Ngôi (Cha, Con và Thần Khí) không phải là một tùy thể thêm vào một hữu thể nòng cốt; nhưng chính là “bản tính” của hữu thể. Nơi con người cái tương quan là cha, là con, là thầy, là trò chỉ là một chuyện phụ thuộc, có vất bỏ đi vẫn còn có con người. Còn nơi Thiên Chúa: Chúa Cha chỉ là Cha thôi, nếu không là Cha thì không còn gì nữa, cho nên chính cái tương quan ấy (Cha, Con, Thần Khí…) là bản tính của Hữu thể”.

Từ đó, cậu luôn tìm về với một gia đình, một cộng đoàn Công Giáo để tìm ra cái tương quan liên ngã vị này. Rất may, sau khi đậu tú tài 2 năm 1946, cậu có dịp được dạy Việt Văn tại Trung Học Đậu Quang Lĩnh tại Vinh. “Được trở về sống trong cái khí quyển mà tôi đã hấp thụ sáu năm tại trường Thiên Hựu, tôi như một ngọn cây đang bị héo rũ, bỗng được tưới mát hồi sinh… Dần dần, tôi mới khám phá ra rằng chỉ có môi trường Công Giáo mới hợp với con người tôi, và có lẽ tôi chỉ sống được trong môi trường ấy mà thôi”. Vì sau Cách Mạng Tháng Tám, chỉ “tại các xóm đạo, trong các gia đình Công Giáo thì tôi cảm thấy như sinh khí vẫn dồi dào, tương quan vẫn có cái gì đằm thắm sâu xa mật thiết, đầy sinh khí tuy có vẻ thầm lặng kín đáo nhưng vẫn vui tươi ấm áp. Nhất là những giờ kinh sáng tối trong gia đình hoặc tại nhà thờ tuy chưa có đức tin tôi vẫn cảm thấy như mình là cây được cắm vào lòng đất có nhựa sống, được bao bọc và sưởi ấm bởi tình người trong tương quan liên-ngã-vị. Có lẽ tôi đã cảm nghiệm mầu nhiệm các Thánh thông công trong sinh hoạt của Hội Thánh Công Giáo trước rồi sau mới phát giác ra rằng: mối dây của sự thông công ấy là Chúa Giêsu mà ngôi thánh đường có nhà tạm, nơi Chúa ngự, có đèn thắp sáng là trung tâm và vị linh mục, Giám mục là đại diện và thừa tác viên… Mỗi giáo xứ, mỗi Cộng đoàn Công Giáo quả là một gia đình! Bếp lửa, mỗi tổ ấm ấm cúng, có lò lửa sưởi ấm là Chúa Giêsu, mà Thánh Thể là bí tích về sự hiện diện, tuy vô hình nhưng thực sự của Ngài, vị tư tế là đại diện và thừa tác viên, các tín hữu là anh chị em, là con chung của Cha trên trời. Và trong tổ ấm ấy, đời sống cộng đoàn (communauté) chứ không phải tập thể (collectivité) vẫn không làm giảm tương quan liên-ngã-vị cá thể: vì mọi tín hữu đều có tương quan riêng duy nhất, trực tiếp với Chúa Giêsu trong một sự kín nhiệm mà không một người thứ ba nào có quyền xâm lược bằng bạo lực hay âm mưu xảo trá”.

Ngoài ra, “tôi nghĩ rằng vấn đề căng thẳng giữa cá nhân và đoàn thể, chỉ có cộng đoàn Công Giáo là giải quyết tuyệt vời. Sau này tôi mới biết rằng là nhờ phạm trù nhiệm thể và chi thể Đức Kitô mà vấn đề được giải quyết mỹ mãn đến mức độ tối đa… Hầu như tổng hợp rất nhuần nhuyễn tính cách quân chủ và dân chủ”.

Tuy nhiên, nếu chỉ xét ở bình diện con người, thì người và cộng đoàn Công Giáo Việt Nam chỉ mới ở mức độ rất bình thường, đôi khi còn kém thua người khác. Nói chung, họ thiếu khí phách hiên ngang so với mẫu người Nho Giáo. Nhưng “điều đáng lưu ý nhất nơi những cá nhân và Cộng đoàn Công Giáo nằm ở chỗ họ đang làm chứng một cách nào đó về một cái gì rất kỳ lạ, nói đúng hơn, về một con người: Đức Giêsu người Na-da-rét, còn gọi là Đức Kitô… Thực ra từ bản chất, không phải chính họ chủ động trong sự làm chứng ấy bằng nỗ lực nêu gương sáng, nhưng chính là Đức Kitô đã dùng họ mà tỏ mình ra cho dù họ là những người rất tầm thường, và đôi khi còn tệ hơn nữa là khác! Nói theo tiếng chuyên môn thần học, người Công Giáo cá nhân cũng như tập thể, đều là ‘bí tích của Đức Kitô’, là sự hiện diện và tác động của Đức Kitô trong hiện tại và ở nơi này (hic et nunc) chứ không phải họ chỉ loan truyền một tin vui xảy ra trong quá khứ cách 2000 năm về trước ở Thánh Địa xa xôi. Họ gần như là bí tích Thánh Thể vậy! Cũng như lúa mì thuộc hạng tốt hay xấu vậy, bột mì dùng làm bánh Thánh có loại thơm loại không thơm, loại thô, loại mịn, loại trắng, loại hẩm, nhưng khi đã được vị tư tế đọc lời truyền phép dưới tác động của Chúa Thánh Thần đều trở nên Thánh Thể cả, cũng đều có Chúa Kitô hiện diện thực sự…”

Giáo Hội, vì thế, theo Nguyễn Khắc Dương “chỉ là chứng tích và là dấu chỉ” qua đó, cậu “tiếp cận được với một người đang hiện diện và tác động ‘hic et nunc’: Đức Giêsu Kitô”. Cái Giáo Hội này cũng có nhiều nét tiêu cực, không hẳn “đạo đức tài trí vượt bực! Thế nhưng, cái Giáo Hội này đã “giúp tôi thấy sự hiện diện và tác động của Đức Kitô gần như là còn sống, sống giữa, sống trong Hội Thánh ấy! Và tôi thấy rằng những sai lầm thiếu sót của Hội Thánh, của các Giáo Hoàng, Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ, Giáo dân suốt 2000 năm lịch sử Tây Phương và gần 100 năm chủ nghĩa thực dân, những sai lầm thiếu sót mà trước đó đã làm cho tôi nghĩ rằng Hội Thánh đã phản ngược lại lý tưởng nguyên thủy của đạo Tin Mừng, thì nay tôi bỗng nhận thấy rằng: Hội Thánh Công Giáo không phải là một cộng đoàn lý tưởng gồm những kẻ tài cao đức trọng, đã thể hiện được một đạo sống theo một giáo thuyết cao siêu thâm thúy gì cả! Hội thánh chỉ là một số người đủ loại, y như số người hành khất tật nguyền dơ bẩn lê lết bên vệ đường, bỗng được gọi vào dự tiệc cưới mà Chúa Giêsu có nhắc đến trong bài dụ ngôn mô tả Nước Trời. Họ được Ngài gọi, được Ngài chọn để sai đi làm chứng và mang sự hiện diện tác động của Ngài theo họ, tất cả do Ngài chứ không phải do giá trị cá nhân của họ gì cả. Borgia đã làm Giáo Hoàng, Richelieu làm Hồng Y. Cauchon làm Giám mục thì nếu có một ông Linh mục Tây nào đó, có thể đã nộp một Linh mục Việt Nam tham gia cách mạng cho mật thám Pháp, thì cũng thường tình. Ở thế kỷ thứ 19, một người Tây Âu mà không có óc thực dân thì phải là bậc Đại Trí, Đại Thánh! Người mà Đức Giêsu chọn là bọn thu thuế sài lang, có khi là đĩ điếm, trộm cướp còn đầy thành kiến, ganh tị, nhỏ nhen, ngớ ngẩn, sai lầm đủ thứ… Thế nhưng, tất cả chỉ làm một việc này: làm chứng về Đức Giêsu, làm cho người ta thấy Đức Giêsu hiện diện và tác động qua họ. Các môn đệ của Đức Giêsu như lời Bernadette ở Lộ Đức “đều là cái chổi cùn Chúa muốn dùng, dùng xong thì xếp xó” hay như chính Tê-rê-sa Hài Đồng nói: “tất cả đều là ngọn bút lông vô giá trị trong tay một nghệ sĩ tài tình!” Và như vậy thì nói hơi quá cho dễ hiểu: chổi càng cùn, bút lông càng xoàng lại càng chứng tỏ có sự hiện diện và tác động của Chúa. Hội thánh Công Giáo không những với tất cả những gì là nhân loại tính tầm thường (lắm lúc còn ghê rợn: như các giàn hỏa thiêu) của nó mà đôi khi xét trên một phương diện nào đó, chính nhờ sự tầm thường ấy mà nó là dấu chỉ, làm chứng cho sự hiện diện và tác động của Chúa Giêsu. Alexandre, César, Hán Cao Tổ, Thành Cát Tư Hãn, Napoléon… các thánh nhân và hiền triết dù vĩ đại đến đâu, đều là những người đã chết; còn Giêsu người Na-da-rét thì đang sống vì đang hiện diện và tác động. Hội thánh Công Giáo cũng chỉ là nhóm người đủ loại như bất cứ nhóm người nào, chỉ khác ở chỗ là cho thấy được Đức Giêsu đang còn sống, hoạt động giữa trần gian mọi ngày, mọi giây, mọi phút, ở mọi nơi và sẽ như vậy cho đến tận thế”.

Nguyễn Khắc Dương xác tín rằng: không thể tách Giáo Hội khỏi Chúa Giêsu, như tách rời một tổ chức với người sáng lập ra nó. Vì “không có Thầy các con chẳng làm nên trò trống gì”.

PHÉP RỬA KHIÊM NHƯỜNG

PHÉP RỬA KHIÊM NHƯỜNG

TGM Ngô Quang Kiệt

Sông Gio-đăng, tiếng Do Thái là “yarad” có nghĩa là đi xuống.  Sông Gio-đăng phát nguồn từ ngọn núi Héc-mon ở độ cao 520m.  Suốt 220km đường dài dòng sông không ngừng đi xuống.  Thoạt tiên sông chảy vào hồ Hu-lê chỉ còn 68m trên mực nước biển.  Kế đó sông chảy vào biển hồ Galilê, nơi Chúa Giêsu thường qua lại, và các tông đồ thường chài lưới.  Ở đây lòng hồ sâu 212m dưới mực nước biển.  Sông tiếp tục chảy xuống miền Nam, đổ vào Biển Chết.  Ở đây độ sâu là 394m dưới mức nước biển.  Có thể nói đây là điểm thấp nhất của địa cầu.

Khi Chúa Giêsu bước xuống sông Gio-đăng để chịu phép rửa, Người đã xuống chỗ thấp nhất không chỉ về chiều sâu theo không gian địa lý mà còn về chiều sâu tâm lý xã hội.  Bước xuống để Gioan Baotixita làm phép rửa tội, Chúa Giêsu đã hòa mình vào dòng thác người tội lỗi, cần thống hối ăn năn. Tuy đến để cứu độ người tội lỗi, nhưng Chúa Giêsu không cho mình quyền đứng trên kẻ tội lỗi.  Người đã hạ mình xuống ngang hàng với họ, liên đới với họ và trở nên anh em của họ.  Không ai nhận ra Người.  Mọi người đều cho rằng Người là một trong những kẻ tội lỗi.

Trong đêm Giáng Sinh, ta được chứng kiến một Thiên Chúa hạ mình xuống làm người.  Làm một người bé nhỏ nghèo hèn như chưa đủ đối với tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa, nên hôm nay người lại hạ mình xuống thêm một bậc nữa, xuống tận đáy xã hội nhân loại khi nhận mình tội lỗi.

Hôm nay, bắt đầu cuộc đời công khai của Chúa Giêsu.  Người bắt đầu xuất hiện để rao giảng Tin Mừng.  Trước khi tiến ra gặp gỡ quần chúng, Chúa Giêsu đã tới dìm mình trong dòng sông Gio-đăng. Để chuẩn bị ra gặp loài người Chúa Giêsu cảm thấy cần phải thanh tẩy.  Mặc lấy xác phàm, Chúa Giêsu chưa cảm thấy mình gần với nhân loại cho đủ.  Người còn hạ mình xuống làm một người tội lỗi. Người dìm mình xuống lòng sông Gio-đăng, dường như muốn mượn làn nước trong xanh tẩy sạch đi tất cả dáng vẻ cao quý của Thiên Chúa còn vương vấn nơi thân xác nhân loại của Người.  Tẩy sạch đi tất cả những gì ngăn cách, để Người được thực sự là một người anh em của mọi người.

Dòng nước sông Gio-đăng có trong xanh đến mấy cũng đâu đủ sức rửa Thiên Chúa làm người.  Thực ra chính Người tự rửa mình bằng sự khiêm nhường thẳm sâu.  Khiêm nhướng là một phép rửa.  Vì khiêm nhường là sự quên mình, là chết đi một chút.  Dìm mình vào dòng sông là chấp nhận đau khổ và chết đi.  Cái chết chính là phép rửa như Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Thầy còn phải chịu một phép rửa, và Thầy những bồn chồn chờ đến lúc hoàn tất” (Lc 12,50).  Người còn hỏi hai ông Gioan và Giacôbê khi hai ông này đến xin được ngồi bên tả, bên hữu trong nước Người: “Các ngươi có thể uống chén Ta uống và chịu thanh tẩy thứ thanh tẩy Ta phải chịu không?” (Mc 10, 38).  Khi nói thế Chúa Giêsu có ý nói đến cái chết Người sẽ phải chịu.

Một câu châm ngôn nói; Không ai thấy được tình yêu.  Người ta chỉ thấy được những bằng chứng của tình yêu.  Bằng chứng tình yêu của Chúa Giêsu đối với ta đó là sự hạ sinh làm một em bé nghèo hèn yếu ớt. Đó là sự khiêm nhường hoà mình vào đoàn lũ những tội nhân tới dìm mình trong dòng sông Gio-đăng.  Tình yêu đã thúc đẩy Người đi những bước táo bạo, bất ngờ.  Mượn dòng nước sám hối xoá đi mọi khoảng cách còn lại giữa Thiên Chúa và con người.

Cử chỉ khiêm nhường của Người là một lời mời gọi ta.  Nếu ta cảm thấy mình còn xa cách Chúa.  Nếu ta cảm thấy mình cần được thanh tẩy.  Đừng ngần ngại thay đổi đời sống.  Hãy mạnh dạn tiến đến lãnh nhận phép rửa của Chúa Giêsu để trở nên gần gũi với Người.  Nếu ta chưa thể lãnh nhận phép rửa trong cái chết tủi nhục như Chúa Giêsu, ta vẫn có thể được thanh tẩy trong phép rửa khiêm nhường. Hãy rửa mình trong dòng lệ sám hối.  Hãy tắm mình trong dòng nước khiêm cung.  Như lời vua Đavit nói: “Lễ dâng Chúa là tâm hồn sám hối.  Một tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê” (Tv 50).

Khiêm nhường sám hối là bước khởi đầu để ta đón nhận Phúc Âm.  Khiêm nhường sám hối là quay trở về nhà Cha, sống trọn tâm tình của người con thảo hiếu.  Khi khiêm nhường trở về, ta sẽ gặp được người Cha nhân hậu đang đứng chờ ta.  Người sẽ nói về ta như nói về Chúa Giêsu: “Đây là con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về con”.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con biết đến với Chúa và đến với anh em bằng sự khiêm nhường sám hối. Amen.

TGM Ngô Quang Kiệt

From: langthangchieutim & Anh chị Thụ Mai gỡi