BƯỚC VÀO MÙA TẬP LUYỆN CHIẾN ĐẤU THIÊNG LIÊNG

BƯỚC VÀO MÙA TẬP LUYỆN CHIẾN ĐẤU THIÊNG LIÊNG

Suy niệm Thứ Tư Lễ Tro

(Mt 6, 1-6; 16-18)

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Lễ Tro, khai mạc Mùa Chay Thánh, bằng nghi thức làm phép tro và mỗi người nhận tro trên đầu, cùng lúc đó sẽ nghe được một trong hai câu Lời Chúa : Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng, hoặc : Ta là thân cát bụi sẽ trở về cát bụi (SLRM).

Mỗi khi Mùa Chay về, chúng ta nghe văng vẳng bên tai lời Chúa mời gọi: “Các ngươi hãy thật lòng trở về với Ta trong chay tịnh, nước mắt và than van” (Joel 2,12).

Như thế, hai ý tưởng trong Mùa Chay Thánh luôn song hành với nhau, thứ nhất : chúng ta là những con người yếu đuối, tội lỗi; thứ hai : Thiên Chúa là Người Cha giàu lòng thương xót, Ngài luôn yêu thương chúng ta, Ngài sẵn sàng tha thứ và ban cho chúng ta sức mạnh với tình thương. Vì yếu đuối nên cần đến ơn Chúa, vì tội lỗi nên muốn được Chúa thứ tha, nhưng để lãnh nhận được ơn tha thứ thì cẩn phải trở về với Thiên Chúa trong cầu nguyện, trong chay tịnh và nước mắt, hướng tới tha nhân. Đó là ba việc phải làm trong Mùa Chay Thánh.

Ăn chay

Cầu nguyện

Và bố thí

Là ba việc cần phải làm trong Mùa Chay, vì nó diễn tả ba chiều kích, ba mối tương quan giữa đương sự với Thiên Chúa và với anh em. Tương quan với Thiên Chúa là cầu nguyện, với tha nhân là bố thí và với chính mình là ăn chay. Ba tương quan này đồng hành với nhau và thể hiện cùng một lúc trong đời sống thường nhật của người kitô hữu.

Để ba tương quan này gắn kết với nhau, điều kiện đã được Chúa Giêsu nói rõ đó là : nội tâm. Những việc chúng ta làm trong Mùa Chay xuất phát từ sâu thẳm của tâm hồn hướng lên Thiên Chúa và hướng đến anh em, chứ không phải là hình thức bên ngoài. Vì thế, ăn chay, cầu nguyện cũng như bố thì là những việc được làm vì đẹp lòng Chúa, chứ không phải cho người ta thấy.

Trước hết phải khiêm nhường

Ăn chay, tiếng La tinh là jejunium, nghĩa là : ” tự nhịn bất kỳ thức ăn nào”. Khi nhịn chay, con người nhận ra mình lệ thuộc vào Thiên Chúa, “hạ mình”  trước mặt Chúa, vì cảm thấy mình mỏng giòn, yếu đuối  như tác giả Thánh vịnh nói : ” Phần tôi, những ngày chúng đau yếu, tôi đã từng khoác áo nhặm vào thân, lại ăn chay để hãm mình phạt xác, lòng tôi ấp ủ câu kinh lời nguyện” ( Tv 34, 13).

Khiêm nhường khi ăn chay còn để Chúa thấy rằng chúng ta chẳng là gì nếu không có Chúa và thiết tha kêu cầu Chúa : ” Bấy giờ tất cả con cái Ít-ra-en và toàn dân đã lên Bết Ên; họ ngồi khóc tại đây trước nhan Ðức Chúa. Hôm ấy họ ăn chay cho đến chiều. Rồi họ dâng lễ toàn thiêu và lễ kỳ an lên trước nhan Ðức Chúa ” (x. Tl 20, 26) ; ” Vua Ða-vít cầu khẩn Thiên Chúa cho đứa trẻ, vua ăn chay nhiệm nhặt, và khi về nhà ngủ đêm thì nằm dưới đất ; Vua trả lời: “Bao lâu đứa bé còn sống, ta ăn chay và khóc lóc vì ta tự bảo: “Biết đâu Ðức Chúa sẽ thương xót ta và đứa bé sẽ sống! ” (2 S 12, 16.22), nhất là nhận biết mình là tội lỗi, là hư vô và cầu xin ơn Chúa tha : ” Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van”. (Dn 9, 3).  Việc giữ chay thể xác chỉ có ý nghĩa khi nhịn ăn đi kèm với việc trách xa tội lỗi : ” Chúng nói: “Chúng tôi ăn chay, sao Ngài không thấy, chúng tôi hãm mình, sao Ngài chẳng hay?”… Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Ðức Chúa? Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc,trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? ” (x. Is 58, 1-12), nếu không nó chỉ là phô trương.

Đừng phô trương

Chính Chúa Giêsu đã cảnh báo : “Các người hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để cho thiên hạ trông thấy…khi các người bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng… Các ngươi có bố thì, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc ngươi bố thí được giữ kín. Và Cha ngươi, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho người ” (Mt 6, 1-6).

Trong Kinh Thánh, Chúa tố cáo mạnh nhất cái vẻ bề ngoài, hay là giả hình. Vi khi giả hình, con người giáng cấp Thiên Chúa, họ đặt Ngài xuống hàng thứ hai, đặt tạo vật, công chúng lên chỗ nhất: “Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thí thấy tận đáy lòng” (1 Sm 16, 7). Trau dồi dáng vẻ bên ngoài của chúng ta hơn tâm hồn chúng ta có nghĩa là coi người phàm trọng hơn Thiên Chúa.

Như vậy, vẻ bề ngoài hay sự giả hình tự bản chất là một sự thiếu đức tin: nhưng đó cũng là một sự thiếu đức bác ái đối với tha nhân theo nghĩa nó có xu hướng qui những con người thành những kẻ say mê. Sự giả hình không công nhận phẩm giá thích đáng của họ, nhưng thấy họ tùy thuộc hình ảnh của chính mình. Thiếu đức tin và thiếu đức bác ái, việc làm sẽ trở nên vô ích, nên không có được công phúc gì.

Sống cậy trông vào Chúa

Sai lầm lớn nhất của nền văn hóa hiện nay là tin rằng con người có thể có hạnh phúc mà không cần Thiên Chúa. Như thế khi loại bỏ điều sâu thẳm trong con người, người ta chối bỏ điều liên kết con người với Thiên Chúa là Đấng ban sự sống … theo Đức Thánh Cha Phanxicô, đó là một tội ác, vì tước mất của người nghèo sự hiện diện của Thiên Chúa, mà cũng vì xem rằng con người có thể sống như thể không có Thiên Chúa, phủ nhận chiều kích thụ tạo và sự lệ thuộc của con người vào Thiên Chúa, không cậy dựa vào Chúa (x. Sứ điệp Mùa Chay 2014).

Người nghèo bị tước mất Thiên Chúa, và người giầu không cần đến Thiên Chúa, cả hai hạng người này đều được Giáo hội quan tâm. Giáo hội nhìn đến những ai đang thiếu thốn, không chỉ do nỗi khốn khổ về tâm linh, vốn thường ẩn chứa trong lòng mọi người và làm cho họ day dứt, dù họ có nhiều của cải… Khốn khổ vật chất là sống trong điều kiện không xứng với phẩm giá con người. Khốn khổ luân lý là nô lệ cho thói xấu và tội lỗi, có thể dẫn đến khốn khổ vật chất, và luôn đi đến chỗ khốn khổ tâm linh, đó là khi người ta xa rời Thiên Chúa, khước từ tình yêu của Ngài.

Đó là lý do mùa chay năm nay Đức Thánh Cha Phanxicô đã mời gọi chúng ta suy tư lời của thánh Phaolô : “Thực vậy, anh chị em biết lòng quảng đại của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta: Ngài giàu sang, nhưng đã trở nên nghèo vì anh chị em, để anh chị em trở nên giàu sang nhờ cái nghèo của Ngài ” (2 Cr 8,9). Sự giàu có đích thực của Chúa Giêsu là phận làm Con Thiên Chúa, đã nên người nghèo khó để chúng ta được làm con Thiên Chúa, trở nên giàu có nhờ sự khó nghèo của Ngài. Con người giầu vì được làm con Thiên Chúa theo bản tính. Con Thiên Chúa thấy cái nghèo của chúng ta, nên đã thi hành ý Chúa Cha, hạ mình nhập thể, chịu chết, sống lại để cứu chuộc chúng ta. Chúng ta cũng thế, làm sao để cái nghèo của anh em chạm đến con tim chúng ta, hầu chúng ta có thế giúp người anh em ta đang khao khát ơn cứu độ (x. Sứ điệp Mùa Chay 2014).

Xin Chúa Thánh Thần nâng đỡ những quyết tâm của chúng ta trong suốt hành trình của Mùa Chay Thánh này cho nên. Amen.

Tác giả: Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Hãy nhớ mình là bụi tro !

Hãy nhớ mình là bụi tro !

TRẦM THIÊN THU

Chuacuuthe.com

VRNs (05.03.2014) – Sài Gòn – Mùa Chay bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro bằng nghi thức xức tro. Tuy không bắt buộc theo truyền thống, nhưng đó là ngày thánh, không tới nhà thờ để được xức tro thì những người có tâm hồn đạo đức sẽ cảm thấy áy náy, cảm thấy có lỗi với Chúa. Ngay cả những người không thường xuyên tới nhà thờ cũng cố gắng bắt đầu thể hiện mùa Chay bằng việc chịu tro. Tây phương xức tro bằng cách vẽ hình Thánh giá trên trán, còn Việt Nam thường bỏ một ít tro trên đầu.

Xức tro để nhớ lại thân phận mình chỉ là bụi cát: Được hóa thân từ bụi cát rồi sẽ trở về bụi tro. Nói thẳng ra là CHẾT. Điều đó nhắc nhở người ta phải không ngừng canh tân cách sống sao cho càng ngày càng tốt hơn. Thiết tưởng cũng nên nhắc lại là Thứ Ba trước Lễ Tro thường được gọi là Thứ Ba Béo (Fat Tuesday, Mardi Gras).

14030500

Tro trong Kinh thánh

Thói quen dùng tro trong nghi lễ tôn giáo bị mai một từ giữa thời tiền sử, nhưng chúng ta vẫn thấy trong truyền thống tôn giáo thời Cựu ước. Chẳng hạn, tiên tri Giêrêmia kêu gọi sám hối thế này: “Thiếu nữ dân tôi ơi, hãy quấn vải thô vào mình và lăn trên tro bụi” (Gr 6:26).

Mặt khác, tiên tri Isaia lại phê bình cách dùng vải thô và tro để cầu xin Thiên Chúa, ông chỉ ra rằng việc này phổ biến trong dân Ítraen: “Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa?” (Is 58:5).

Tiên tri Đanien xin Chúa cứu dân Ítraen, và nêu gương cho họ thế này: “Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van” (Đn 9:3).

Có thể các ví dụ điển hình về ăn chay trong Cựu ước liên quan vải thô và tro. Khi tiên tri Giôna vâng lệnh Chúa đến rao giảng trong thành phố lớn Ninivê, cách giảng của ông đã hiệu quả, lời kêu gọi ăn chay và sám hối tới tận tai nhà vua: “Tin báo đến cho vua Ninivê; vua rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác áo vải thô, và ngồi trên tro” (Gn 3:6).

Trong sách Giuđitha, chúng ta thấy việc ăn chay xác định rằng tro được xức trên đầu: “Hết mọi người nam trong dân Ítraen cùng với vợ con cư ngụ ở Giêrusalem đều phủ phục trước Đền Thờ, rắc tro lên đầu, mặc áo vải thô ra trước nhan Đức Chúa” (Gđt 4:11; x. Gđt 4:15 và 9:1).

Thời Tân ước, nhóm người đấu tranh giành độc lập cho Do Thái cũng đã chuẩn bị cuộc chiến bằng cách dùng tro: “Ngày hôm ấy, họ ăn chay, mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu và xé áo mình ra” (1 Mcb 3:47; x. Mcb 4:39).

Trong Tân ước, Chúa Giêsu nhắc đến việc dùng vải thô và tro là dấu hiệu của sự sám hối: “Khốn cho ngươi, hỡi Kho-ra-din! Khốn cho ngươi, hỡi Bết-xai-đa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xi-đôn, họ đã mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối” (Mt 11:21; Lc 10:13).

Tro trong lịch sử Giáo hội

Dù các ám chỉ này có trong Kinh thánh, việc dùng tro trong Giáo hội chỉ còn lại ít tài liệu hồi thế kỷ I trong lịch lịch sử Giáo hội. Thomas Talley, chuyên gia về lịch sử phụng vụ, nói rằng phụng vụ ban đầu có thể xác định niên đại về Thứ Tư Lễ Tro cho thấy việc rắc tro có từ năm 960. Trước đó, tro được dùng làm dấu hiệu của sự chấp nhận đối với nghi thức sám hối. Từ đầu thế kỷ XVI, nghi lễ dùng cách vẽ hình Thánh giá bằng tro trên trán khi chấp nhận một người bệnh nặng đối với nghi thức sám hối. Từ đầu thế kỷ XI, Viện phụ Aelfric ghi chú rằng đó là thói quen đối với các tín hữu tham dự nghi lễ ngày Thứ Tư khởi đầu mùa Chay, bao gồm việc xức tro. Gần cuối thế kỷ XI, ĐGH Urbanô II kêu gọi dùng tro trong ngày này. Sau đó, ngày này mới được gọi là Thứ Tư Lễ Tro.

Đầu tiên, giáo sĩ và đàn ông được xức tro trên đầu, còn phụ nữ được vẽ dấu Thánh Giá bằng tro trên trán. Nhưng rồi cách vẽ Thánh giá bằng tro trên trán được áp dụng cho cả nam và nữ.

Thế kỷ XII, luật nói rằng tro được tạo ra bằng cách đốt những cành lá đã làm phép từ Lễ Lá năm trước. Ngày nay, nhiều giáo xứ kêu gọi giáo dân đưa lá được làm phép năm trước đến nhà thờ để làm nghi lễ đốt lá sau thánh lễ.

Nghi thức Sám hối

Có vẻ như việc dùng trong đầu mùa Chay là cách mở rộng việc dùng tro khi bước vào nghi thức sám hối. Quy luật này là cách mà Bí tích Hòa giải được cử hành qua hầu hết thế kỷ I của Giáo hội. Những người phạm tội trọng xưng tội với giám mục hoặc vị đại diện giám mục và được giao việc đền tội sẽ thực hành qua một thời gian. Sau khi đền tội xong, họ được giám mục giao hòa bằng lời tha tội trước cộng đoàn.

Khi làm việc đền tội, hối nhân thường có một chỗ riêng trong nhà thờ và mặc trang phục đặc biệt để cho biết tình trạng của mình. Như các tân tòng chuẩn bị lãnh Bí tích Thánh tẩy, họ thường ra khỏi cộng đoàn sau phần phụng vụ Lời Chúa.

Đây là toàn bộ quá trình được làm mẫu trên hành trình trở lại của tân tòng, vì Giáo hội thấy việc phạm tội trọng sau khi lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy là chưa thực sự trở lại. Đền tội là cố gắng thứ nhì để nuôi dưỡng sự trở lại. Các giáo phụ thời kỳ đầu của Giáo hội còn gọi việc đền tội là “Bí tích Thánh tẩy đệ nhị”.

Mùa Chay được phát triển trong Giáo hội là toàn thể cộng đoàn cầu nguyện và ăn chay cho các tân tòng chuẩn bị lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy. Lúc đó, cả cộng đoàn đã lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy cùng chuẩn bị tái tuyên hứa lời hứa rửa tội trong đại lễ Phục sinh. Như vậy, mọi người cùng các tân tòng đào sâu sự trở lại của mình. Đó là điều tự nhiên mà nghi thức sám hối tập trung vào mùa Chay, với sự hòa giải thường được cử hành vào Thứ Năm Tuần Thánh để việc tái hòa giải có thể chia sẻ trong các phụng vụ của Tam Nhật Thánh (Triduum). Mùa Chay là mùa tập trung vào Bí tích Thánh tẩy và Bí tích Hòa giải.

Thay đổi cách hiểu mùa Chay

Viếc tiếp nhận tân tòng dần dần biến mất khiến cách hiểu của người ta về mùa Chay cũng thay đổi. Thời Trung cổ, việc nhấn mạnh không còn rõ ràng về Bí tích Thánh tẩy. Thay vì thế, việc nhấn mạnh chính chú trọng vào cuộc Khổ nạn và Sự chết của Đức Kitô. Nghệ thuật Trung cổ phản ánh sự tập trung gia tăng này vào Đấng Cứu Thế Đau Khổ, cho nên lòng sùng kính phổ biến cũng vậy. Mùa Chay được coi là thời gian nhận biết tội lỗi mình đã khiến Đức Kitô phải đau khổ và chết thê thảm. Đền tội được coi là cách tránh hình phạt vì tội hơn là cách tái thề hứa lời hứa rửa tội.

Việc biến mất nghi thức sám hối dần dần, việc dùng tro trở thành phần thêm vào văn bản gốc. Sự tập trung vào việc đền tội riêng và Bí tích Hòa giải vẫn tiếp tục trong Mùa Chay, nhưng sự liên kết với Bí tích Thánh tẩy không còn rõ ràng với đa số chúng ta nữa. Điều này phản ánh trong công thức kết hợp với việc xức tro: “Hãy nhớ mình chỉ là cát bụi và sẽ trở về bụi tro”. Câu này tập trung vào sự chết của chúng ta, là cách nghiêm túc khích lệ đền tội, nhưng có chút gợi ý ở đây về ý nghĩa rửa tội nào đó. Cách nhấn mạnh vào sự chết hợp với kinh nghiệm sống thời Trung cổ, khi sự đe dọa của cái chết luôn chực chờ. Nhiều người chết còn rất trẻ, và sự tàn phá xã hội của bệnh dịch đã khiến tử vong rất dễ.

Thứ Tư lễ Tro sau Công đồng Vatican II

Công đồng Vatican II (1962-1965) đã kêu gọi đổi mới Mùa Chay, phục hồi đặc tính cũ liên quan Bí tích Thánh tẩy. Sự phục hồi này rất tiến bộ nhờ giữ lại cách tiếp nhận tân tòng được ủy thác của Nghi lễ Khai tâm Kitô giáo cho Người lớn (Rite of Christian Initiation of Adults) năm 1972. Khi người Công giáo gia tăng tương tác với các tân tòng trong giai đoạn cuối của việc họ chuẩn bị lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, họ bắt đầu hiểu Mùa Chay là mùa chuẩn bị rửa tội và tái thề hứa lời hứa rửa tội.

Vì Thứ Tư Lễ Tro đánh dấu khởi đầu Mùa Chay, tự nhiên cũng là khởi đầu khôi phục sự tập trung vào Bí tích Thánh tẩy. Một gợi ý là công thức thứ nhì được đưa ra cho việc xức tro: “Hãy sám hối và tin vào Phúc âm”. Dù điều này không minh nhiên nói tới Bí tích Thánh tẩy, nhưng vẫn nhắc nhớ chúng ta về lời hứa rửa tội là xa tránh tội lỗi và tuyên xưng đức tin. Rõ ràng kêu gọi chúng ta xa tránh tội lỗi, trở về với Chúa, người mà chúng ta phải ấp ủ cả đời mình.

Khởi đầu Mùa Chay, Thứ Tư Lễ Tro mời gọi chúng ta bắt đầu hành trình trở về, đánh dấu Mùa Sám Hối. Khi các tân tòng bước vào giai đoạn cuối của việc chuẩn bị cho các Bí tích mùa Phục sinh, tất cả chúng ta cũng được mời gọi đồng hành với họ để chúng ta cũng chuẩn bị tái thề hứa lời hứa rửa tội trong đêm vọng phục sinh.

Các bài đọc trong lễ Tro

Các bài đọc trong Thứ Tư Lễ Tro làm nổi bật lời mời gọi trở về. Bài đọc I trích từ sách Giôen, kêu gọi chúng ta trở về với Chúa “bằng việc ăn chay, than khóc và thống thiết than van”. Tiên tri Giôen nhắc nhớ chúng ta rằng “Thiên Chúa từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương”, đó là mời gọi chúng ta tín thác vào Tình Yêu của Thiên Chúa khi chúng ta cố gắng canh tân đời sống. Cần lưu ý rằng tiên tri Giôen không chỉ kêu gọi trở về cá nhân. Ông kêu gọi toàn thể mọi người, nên ông nói: “Hãy thổi kèn ở Sion, công bố ăn chay, kêu gọi nhóm họp; quy tụ mọi người, chú ý giáo đoàn; nhóm họp người lớn, con cái và trẻ em còn bú”. Khi chúng ta bước vào mùa canh tân, chúng ta kết hiệp với cả dân Chúa, vì tất cả chúng ta đều chia sẻ nhu cầu trở về liên tụcchúng ta được kêu gọi nâng đỡ nhau trong suốt hành trình này. Bắt chước những người tham dự Nghi thức Sám hối trong quá khứ, chúng ta cùng trở thành cộng đoàn sám hối khi tìm cách tiếp cận Thiên Chúa qua việc đền tội và canh tân đời sống.

Với cách nói khác nhưng không kém phần cấp bách, thánh Phaolô xin chúng ta “giao hòa với Thiên Chúa, vì đây là thời thuận tiện và là ngày cứu độ”. Thời điểm trở về với Chúa là lúc này, Mùa Chay Thánh này, chính ngày này.

Phúc âm Lễ Tro cho chúng ta lời khuyên tốt về cách chúng ta hành động trong Mùa Chay. Chúa Giêsu nói về 3 quy tắc chính của Mùa Chay: Bác ái, cầu nguyện và trai tịnh. Các hoạt động tâm linh này, như Chúa Giêsu đã dạy chúng ta, được làm dù không ai biết. Điều quan trọng không phải là chúng ta chỉ nên cầu nguyện một mình mà không cầu nguyện chung với cộng đoàn, mà là chúng ta chỉ nên cầu nguyện không phải để người ta thấy mình đạo đức hoặc thánh thiện. Việc ăn chay và bác ái cũng vậy, không cần phải giấu giếm mà nên làm vì kính mến Chúa và yêu thương tha nhân, chứ không để người ta biết mà khen mình.

Có điều mỉa mai là chúng ta sử dụng đoạn Phúc âm này, khuyên chúng ta rửa mặt và không làm ra vẻ ăn chay, với vẻ chỉ loanh quanh với việc xức tro là xong. Đây chỉ là cách Chúa Giêsu bảo chúng ta đừng làm những hành động mang tính tôn giáo chỉ muốn khoe khoang cho người khác biết. Chúng ta đừng xức tro để tỏ ra mình thánh thiện, mà phải biết rằng chúng ta đều là những tội nhân khốn nạn cần phải sám hối, đền tội và canh tân.

Từ tro tới giếng rửa tội

Lời mời gọi liên tục sám hối phản ánh trong các bài đọc cũng là sứ điệp của TRO. Chúng ta sống Mùa Chay từ tro tới giếng rửa tội. Chúng ta xức tro vào Thứ Tư Lễ Tro và rửa sạch bằng nước của giếng rửa tội. Sâu xa hơn, chúng ta phải chết cho tội và xác thịt từ đầu Mùa Chay để có thể sống trọn vẹn hơn trong Đấng Phục Sinh trong ngày đại lễ Phục sinh.

Khi xức tro, chúng ta nhớ mình là gì. Chúng ta nhớ rằng chúng ta là thụ tạo bởi bụi đất: “Hãy nhớ mình là bụi đất”. Chúng ta nhớ rằng chúng ta là những thụ tạo sẽ chết và “sẽ trở về bụi đất”. Chúng ta nhớ rằng chúng ta đã lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy. Chúng ta nhớ rằng chúng ta là những lữ khách trên hành trình trở về: “Hãy sám hối và tin vào Phúc âm”. Chúng ta nhớ rằng chúng ta là chi thể của Nhiệm thể Đức Kitô: Xức tro để công bố mình đồng nhất với người khác.

Canh tân mình trước mặt Chúa là điểm cốt lõi của việc thực hành Mùa Chay. Rất dễ quên, vì thế chúng ta thường “lăn vào vết xe cũ” của thói quen phạm tội, cách nghĩ và cách sống trái ngược với Ý Chúa. Chúng ta cũng như dân thành Ninivê trong chuyện kể của tiên tri Giôna. Chính sự “đồi bại” của họ khiến Chúa phải sai Giôna tới rao giảng cho họ. Tiên tri Giôna muốn tránh né sứ vụ đó và bị chìm sâu trong nước. Được cá cứu, cuối cùng tiên tri Giôna mới làm theo Ý Chúa và bắt đầu rao giảng trong khắp thành Ninivê. Lời giảng của ông lọt vào tai và lòng của dân thành, họ làm theo và đã được cứu.

Từ đầu Mùa Chay, Lời Chúa kêu gọi chúng ta trở về. Nếu chúng ta biết mở tai và mở lòng đón nhận Lời Chúa, chúng ta cũng sẽ như dân thành Ninivê cố gắng từ bỏ tội lỗi và thành tâm trở về với Chúa. Chắc chắn chúng ta sẽ được tha thứ và được cứu độ. Rất đơn giản, thời điểm đó bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro!

Nghi thức xức tro là nghi thức long trọng, là dấu hiệu khởi đầu Mùa Chay Thánh. Nghi thức rất đặc biệt, không có động thái phụng vụ như những ngày khác trong suốt năm phụng vụ.

Tro được tạo ra từ việc đố các lá đã làm phép của Chúa Nhật Lễ Lá năm trước. Tro được làm phép trong Thánh Lễ Thứ Tư Lễ Tro, sau bài giảng. Mọi người lần lượt lên chịu tro, thừa tác viên vừa xức tro vừa đọc: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần, hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1:15), hoặc: “Hãy nhớ mình là bụi đất và sẽ trở về bụi đất” (St 3:19). Tro là biểu tượng của 2 thứ chính trong Cựu ước.

Sự chết và sám hối

Tro tương đương với cát bụi, thân xác con người được tạo thành từ đất: “Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St 2:7), và khi thân xác hư nát, nó sẽ trở về đất cát hoặc bụi tro.

Tổ phụ Abraham đã thưa với Chúa: “Con chỉ là thân tro bụi” (St 18:27), ám chỉ cái chết của nhân loại. Còn tiên tri Giêrêmia mô tả cái chết là “thung lũng tử thi và tro thiêu xác” (Gr 31:40).

Tro là điềm gở, và chúng ta dùng tro vào ngày Thứ Tư Lễ Tro để nhắc nhớ về cái chết chắc chắn sẽ đến với chúng ta. Cái chết có thể đến sớm, cũng có thể đến chậm, nhưng chắc chắn nó sẽ đến. Nếu cái chết đến, chúng ta cần chuẩn bị, và thời gian chuẩn bị là ngay từ bây giờ, còn cách chuẩn bị là sống theo phương cách của Chúa.

Tiên tri Đanien đã khúm núm lúc mặc áo vải thô và xức tro, đó là dấu hiệu ăn năn vì đã phản nghịch, bội bạc và trụy lạc: “Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van” (Đn 9:3).

Khi Giôna cảnh báo dân thành Ninivê rằng Thiên Chúa sắp hủy diệt thành phố vì sự suy đồi và sự trụy lạc của họ, dân thành đã vội mặc áo vải thô và xức tro để tỏ ra xa tránh lối sống sa đọa: “Tin báo đến cho vua Ninivê; vua rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác áo vải thô, và ngồi trên tro. Thiên Chúa thấy việc họ làm, thấy họ bỏ đường gian ác mà trở lại, Người hối tiếc về tai hoạ Người đã tuyên bố sẽ giáng trên họ, Người đã không giáng xuống nữa” (Gn 3:6 & 10). Tro là lời khẩn thiết cầu xin Chúa ân ban lòng thương xót, lòng trắc ẩn, và ơn tha thứ.

Hơn nữa, đó còn là cách công nhận tội lỗi mình, lá cách bày tỏ sự buồn rầu vì tội lỗi đã trót phạm, là lời hứa canh tân và quyết tâm chống lại chước cám dỗ trong tương lai.

Chúng ta đều là những tội nhân. Khi chúng ta chịu tro trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, chúng ta xin lỗi Chúa về tội lỗi mình, và chúng ta muốn dùng Mùa Chay để sửa sai, để thanh tẩy tâm hồn, để kiểm soát ước muốn và tiến bộ trong sự thánh thiện, nhờ đó chúng ta sẽ chuẩn bị mừng lễ Phục sinh.

Sống tinh thần Lễ Tro

Thiên Chúa là Đấng chí thánh, Thiên Chúa của chúng ta, Đấng đã ban sự sống và mọi thứ cho chúng ta. Trong đời sống, áp lực của công việc và trách nhiệm thường khiến chúng ta quên sám hối, đền tội và yêu thương. Chúng ta sa ngã và không sống đúng bổn phận của mình, không thể hiện niềm tín thác vào Con Thiên Chúa.

Mùa Chay Thánh giúp chúng ta chấn chỉnh những gì sai sót, giúp chúng ta đền tội và canh tân đời sống bằng ân sủng của Chúa, giúp chúng ta nhớ mình chỉ là tội nhân, đặc biệt là giúp chúng ta nhớ đến Lòng Chúa Thương Xót vô biên.

Khởi hành từ Thứ Tư Lễ Tro, mong sao tro có thể nhắc nhớ chúng ta rằng chúng ta thuộc về Con Thiên Chúa. Ước mong sự thờ phượng, lời cầu nguyện và việc đền tội của chúng ta có thể kiên trì bền vững trong suốt 40 ngày Mùa Chay.

Nguyện xin Chúa giúp chúng ta thực sự canh tân để có thể hân hoan mừng với sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô trong đại lễ Phục sinh. Chúng ta hãy đồng hành cùng Chúa để có thể thanh thản bước vào Mùa Chay Thánh…

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ AmericanCatholic.org và TheCatholicSpirit.com)

ĐỂ CẢM THẤY VUI HƠN

ĐỂ CẢM THẤY VUI HƠN

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

Trong nếp sống hàng ngày, có nhiều chuyện “không đâu” xẩy ra khiến ta cảm thấy không thoải mái, bực mình, lo sợ. Chắc chắn là mình muốn làm một việc tích cực nào đó để khỏi bị quấy rầy, và không rơi vào con đường rượu chè, phạm pháp, tự hủy hoại thân thể.

Sau đây là một số điều mà mọi người có thể làm để cảm thấy yên vui hơn.

Xin hãy đọc qua tất cả các điều sau đây, lựa chọn những điều mà mình thấy hấp dẫn, có thể giúp ta vượt qua khó khăn. Viết các đìều đó vào một tờ giấy, dán lên tủ lạnh, trước cửa ra vào để nhắc nhở. và thực hiện ngay khi cảm thấy khó chịu.

1- Hãy làm việc nào mà mình cảm thấy thích thú như đọc sách, vẽ, chơi ô chữ, làm thủ công nghệ, trồng hoa, viết văn, làm thơ, chụp hình, đi câu…

2- Vận động cơ thể, đi bộ, bơi lội, đạp xe đạp…Tất cả đều làm tinh thần thoải mái, sức khỏe rồi rào hơn.

3- Tham gia các sinh hoạt tâm linh, tôn giáo, tĩnh lặng tâm hồn.

4- Tạo thói quen làm vài công việc thường lệ mỗi ngày, vào thời điểm đã định trước. Chẳng hạn tới giờ nào đó thì đi bộ, giờ đó đi tắm, điện thoại cho con cháu, coi phim bộ…

Thói quen tốt giúp kiểm soát được thời gian trong ngày của mình.

5- Mặc một chiếc áo mầu mà mình thích, đeo đôi bông tai kỷ niệm xa xưa…để tạo niềm vui cá nhân.

6- Làm những công việc lặt vặt trong nhà như lau bàn ghế, giặt quần áo trong máy giặt, quét nhà….để khỏi có thời gian nhàm chán, “không biết làm gì”, rồi chỉ đi ra đi vào.

7- Học một vài kiến thức mới về các lãnh vực liên quan tới đời sống, như ăn uống sao cho hợp lý, làm sao phòng tránh viêm xương khớp, cao huyết áp, học cách sử dụng máy vi tính, giữ gìn vệ sinh cá nhân, phòng ngừa bệnh tật…

8- Tìm hiểu sự thật trước khi hành động theo phản ứng tự nhiên cũng giúp mình tránh phiền muộn vì hiểu nhầm, ngô nhận.

Chẳng hạn thấy con đi học về trễ, đừng vội la mắng, cho rằng cháu lại la cà với bè bạn. Thực ra xe của cháu có thể bị bể bánh dọc đường phải thay hoặc cản trở lưu thông, hoặc có khi cháu ở lại trường học thêm với giáo sư với bạn bè…

9- Sống với hiện tại, tận hưởng thời gian, lạc thú mà thiên nhiên dành cho.

Có nhiều người không thực tế, ngồi đó để nuối tiếc quá khứ huy hoàng hoặc mơ mộng một tương lai giầu có…mà quên mất những điều hay điều vui hiện đang có.

10- Lâu lâu dành chút thời giờ để thưởng thức vẻ đẹp của một bông hoa, nhìn tấm hình đám cưới của vợ chồng hơn ba chục năm về trước, ngắm ngôi sao lấp lánh trên bầu trời, hít không khí trong mát của đêm khuya..ta sẽ thấy thoải mái, dễ chịu hơn.

11- Vui chơi với con cháu nội ngoại, vỗ về một con chó trung thành …cũng làm vợi đi nỗi ưu tư, căng thẳng của mình.

12- Tập luyện vài phương pháp cử động nhịp nhàng để gân cốt thư giãn, tập trung thiền định để tinh thần lắng dịu, bình an…

13- Nghe âm nhạc dịu nhẹ để thư giãn và dễ đi vào giấc ngủ, nhạc hùng mạnh để nâng cao tinh thần.

14- Ca hát tự do cho không khí trong lành vào phổi, cho âm thanh thoát ra khỏi cửa miệng cũng giúp giải khuây, đỡ buồn. Hát khi đi tắm. Hát khi quét nhà. Hát khi nấu cơm…

Mọi người vẫn thường nói: “hát hay không bằng hay hát mà”. Ðâu có cần hát giỏi, hát hay mà chỉ cần thấy trong lòng thoải mái là vui rồi.

15-Tắm nước ấm giúp thư giãn và hàn gắn căng thẳng tinh thần. Nếu được nằm trong bồn tắm có nước ấm xịt quanh mình, thì lại tốt hơn nữa.

16- Thưởng thức mùi thơm của những bông hoa hồng, của chiếc bánh mì nóng hổi mới làm cũng làm mình vui vui, sảng khoái

 

Hành Trình đi tới bình phục

Xin hãy bắt đầu con đường đi tới bình phục sau stress bằng cách tự hỏi mình muốn đời sống sẽ như thế nào.

Ðể bình phục, nên hoàn tất một số trong những gợi ý sau đây:

1- Hãy quý trọng cái thân thể với các chức năng, cấu tạo tuyệt hảo của mình.

2- Hãy đặt một giới hạn mà ta cảm thấy là đúng và an toàn trong mọi mối bang giao.

Hãy trả lời “KHÔNG” cho bất cứ điểu gì mình không muốn. Một người bạn quấy rầy mình bằng cách điện thoại nhiều lần trong ngày, hãy thẳng thắn nói cho họ hay là mình không muốn như vậy

3- Hãy tranh đấu cho quyền hạn của mình và tận lực làm việc để đạt được điều mình muốn và cần.

Chẳng hạn, nếu muốn học thêm một nghề mới lạ, hãy tìm hiểu về nghề đó qua sách báo, bạn bè. Muốn biết bệnh tình của mình ra sao thì nghiêm nghị yêu cầu bác sĩ giải thích rõ ràng hoặc gửi mình sang một bác sĩ chuyên môn khác.

4-Hãy tạo lòng tự trọng, vì mỗi người là một sinh vật đặc biệt, toàn hảo và đều đáng được hưởng những điều tốt lành mà tạo hóa dành cho.

5-Hãy làm một danh sách ghi rõ những điều mà mình muốn làm để cảm thấy thoải mái hơn. Hãy làm những điều đó mỗi ngày, nhất là khi nào cảm thấy buồn rầu, khó chịu.

6-Mỗi gia đình có một lối sống, một cách suy nghĩ riêng.

Những điều mà mình học được khi còn bé có thể ảnh hưởng, gây trở ngại cho nếp sống hiện tại, thì mình nên thay đổi. Chẳng hạn, ta học được thói quen là không kể chuyện riêng tư cho ai. Nhưng khi có khó khăn, cần giúp đỡ giải quyết, thì ta cũng cần tâm sự với người mà ta tin cậy.

7- Hãy tạo ra mối hài hòa với mọi người trong gia đình. Hãy vui chơi với họ, nghe tâm sự của họ mà không phê bình, chỉ trích…

8- Hãy tìm hiểu cách đối thoại với mọi người để họ thông cảm với mình. Hãy xin bạn bè cho biết mình nên diễn tả, hành động như thế nào để tăng sự hiểu biết lẫn nhau.

9- Mỗi người có thể có nhiều ý tưởng tiêu cực về mình và về nếp sống của mình. Xin hãy tìm cách chuyển đổi những tiêu cực đó thành tích cực hơn.

Chẳng hạn, mình cứ ám ảnh với ý nghĩ “chẳng ai ưa mình” thì chuyển ý nghĩ sang “tôi vẫn có nhiều bạn bè”. Rồi mạnh dạn tạo thêm tình bạn mới.

10- Hãy phác họa một kế hoạch hành động phòng tránh và phục hồi để giúp ta sống bình an và để đối phó với những căng thẳng của đời sống.

 

Như là:

a- Nhắc nhở điều gì cần làm mỗi ngày, chẳng hạn ăn ba bữa cơm chính với đầy đủ các chất dinh dưỡng, vận động đều đặn 30 phút, ngủ 8 giờ mỗi đêm…

b- Những hoản cảnh gây ra khó chịu cho mình và cách thức hóa giải, ngăn ngừa chuyện đó. Chẳng hạn cãi cọ bất hòa với con cái, bạn bè thì mình nên ôn tồn, thân thiện với họ…

c- Những dấu hiệu cho biết tình trạng sẽ trở nên trầm trọng hơn như là mệt mỏi, mất ăn mất ngủ, hay quên, rất buồn rầu, lo sợ, không muốn ra khỏi nhà…

d- Các tin tức mà thân nhân bạn bè cần biết khi mình không tự chăm sóc hoặc ở trong hoàn cảnh không an toàn.

Các dữ kiện này có thể là tên bác sĩ đang điều trị cho mình, tên người tư vấn tâm thần, dược sĩ, tên các loại thuốc đang dùng, các phương thức thường giúp mình cảm thấy an toàn, khỏe mạnh hoặc làm cho bệnh trầm trọng hơn.

Trên đường hồi phục sau stress, nếu xuất hiện những sự việc có thể gây khó khăn, ta cần sáng suốt đối phó.

Chẳng hạn sử dụng quá lố rượu thuốc đưa tời xáo trộn gia cang, gây gổ với lối xóm làm mất an ninh xã hội… thì phải hành động hợp lý hơn bằng cách bỏ thói quen xấu và tạo ra thói quen tốt.

Ta cần kiên nhẫn và can đảm để đi hết con đường phục hồi. Xin đừng nản chí, rút lui.

Và nên nhớ rằng, có nhiều người cũng gặp những khó khăn, chấn thương như mình, kể cả các vị anh hùng, danh nhân thế giới.

Họ cũng phải phấn đấu như mình và họ cũng đã thành công.

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

www.bsnguyenyduc.com

http://www.youtube.com/user/Drnguyenyduc/videos

Tác giả: Câu Chuyện Thầy Lang, Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

HÃY XÉ LÒNG

HÃY XÉ LÒNG

Một vị ẩn tu sống đơn độc trên ngọn núi cao.  Ngày đêm ông ăn chay cầu nguyện.  Ông ăn chay rất nghiêm ngặt và cầu nguyện rất tha thiết.  Để thưởng công, Chúa cho xuất hiện một ngôi sao trên đầu núi.  Khi ông ăn chay và cầu nguyện ít, ngôi sao mờ đi.  Khi ông ăn chay nhiều và cầu nguyện nhiều thì ngôi sao càng sáng lên.  Một hôm ông muốn leo lên đỉnh cao nhất của ngọn núi.  Khi ông chuẩn bị lên đường thì một bé gái trong làng đến thăm và ngỏ ý muốn đi cùng ông.  Thày trò hăng hái lên đường.  Đường càng lên càng dốc dác khó đi.  Mặt trời càng lúc càng nóng gắt.  Cả hai thày trò ướt đẫm mồ hôi và cảm thấy khát nước.  Nhưng không ai dám uống.  Em bé không dám uống trước khi thày uống.  Vị ẩn tu không dám uống vì sợ mất công phúc trước mặt Chúa.  Nhưng nhìn thấy bé gái mỗi lúc mệt thêm, thày ẩn tu thấy thương, nên mở nước ra uống.  Lúc ấy cô bé mới dám uống.  Uống nước xong, cô bé mỉm cười rất tươi và cám ơn thày.  Thày ẩn tu len lén nhìn lên đầu núi.  Thầy sợ ngôi sao biến mất vì thày đã không biết hãm mình.  Nhưng lạ chưa, trên đầu núi thày thấy không phải một mà có đến hai ngôi sao xuất hiện.  Thì ra, để thưởng công vì thày biết nghĩ đến người khác, Chúa đã cho xuất hiện một ngôi sao nữa, sáng không kém gì ngôi sao kia.

Mùa chay được mở đầu bằng nghi thức xức tro và một ngày ăn chay kiêng thịt.  Có lẽ có nhiều người thắc mắc tại sao ngày xưa người Do Thái rắc đầy tro trên đầu, ngồi cả trên đống tro, mà ngày nay ta chỉ xức một chút ít tro, và tại sao ngày xưa ăn chay trong bốn mươi ngày, mà ngày nay chỉ còn ăn chay có 2 ngày Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu tuần thánh?  Thưa vì Giáo hội muốn ta càng ngày càng đi vào tinh thần hơn là chỉ giữ hình thức bên ngoài.

Mục đích của Mùa Chay là giúp ta trở về với Chúa và với anh em bằng sám hối nhìn nhận tội lỗi của chính mình.  Việc xức tro, ăn chay, cầu nguyện, làm việc thiện, chỉ là những phương tiện.

Xức tro là để tỏ lòng sám hối.  Xức nhiều tro mà trong lòng không thật tình sám hối thì có ích gì.  Ngày nay, Giáo hội chỉ dùng một chút tro tượng trưng để nhắc nhớ ta.  Xức tro trên đầu không quan trọng bằng xức tro trong tâm hồn.  Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy tâm hồn mình đã ra hoen ố vì tội lỗi.  Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy rõ ta đã bôi tro trát trấu vào khuôn mặt Thiên chúa, làm lem luốc khuôn mặt Giáo hội, làm ô danh cho đạo thánh của Chúa.  Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy rõ ta đã làm cho mối quan hệ với tha nhân bị vẩn đục vì những tham vọng, những ích kỷ, những nhỏ nhen của ta.  Hãy xức tro vào tâm hồn để lòng ta xót xa, đau đớn, hối hận vì những tội lỗi đã phạm.

Ăn chay không phải là một hình thức làm cho qua lần, chiếu lệ.  Ăn chay không phải chỉ là nhịn ăn một hai bữa cơm.  Ăn chay có mục đích nhắc nhớ ta hãy biết hãm dẹp thân xác, hãm dẹp những tính mê tật xấu, hãm dẹp những gì làm mất lòng Chúa và làm phiền lòng anh em.  Giáo hội giản lược việc ăn chay vào 2 ngày trong một năm, không phải vì coi nhẹ việc ăn chay, nhưng vì Giáo hội muốn tránh thái độ ăn chay hình thức, để tập trung vào việc ăn chay trong tâm hồn. Nhịn ăn một bát cơm không bằng nhịn nói một lời có thể làm buồn lòng người khác.  Nhịn ăn một miếng thịt không bằng nhịn đi một cử chỉ xúc phạm đến anh em.  Nhịn một bữa cơm ngon không bằng nhường nhịn, tha thứ, làm hoà với nhau.  Kềm chế cơn đói không bằng kềm chế cơn nghiện rượu, nghiện ma tuý, nghiện cờ bạc.  Kềm chế cơn khát không bằng kềm chế dục vọng, tính tham lam, thói kiêu ngạo.

Chính vì thế mà tiên tri Joel đã kêu gọi dân chúng: “Hãy xé lòng chứ đừng xé áo”.  Người Do thái có tục lệ khi ăn chay, thống hối thì xé áo ra.  Đó là một hình thức biểu lộ sự thống hối.  Điều quan trọng là có tâm hồn thực sự sám hối.  Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi những tham lam, bất công.  Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi thói lười biếng, khô khan, nguội lạnh.  Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi những dính bén trần tục.  Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi thói gian dối, giả hình. Chỉ khi thực sự xé lòng ra như thế, ta mới gạt bỏ được những chướng ngại ngăn cản ta đến với Chúa.  Chỉ khi thực sự xé lòng ra như thế, ta mới đến gần Chúa, sống tình thân mật với Chúa, hưởng được tình yêu thương của Chúa.

Để ăn chay trong tinh thần và để thực sự hướng về tha nhân, nhiều nước trên thế giới đã biến việc ăn chay thành những hành động bác ái cụ thể.  Mỗi ngày trong mùa chay, họ bớt chi tiêu một chút, gửi tiền tiết kiệm giúp những nơi nghèo khổ, bị thiên tai.  Nhờ thế, việc ăn chay của họ không còn là hình thức, nhưng là những hi sinh thực sự và trở nên những việc làm đầy tình bác ái huynh đệ.

Bây giờ thì chúng ta đã hiểu thế nào là ăn chay và sám hối đẹp lòng Chúa.  Mỗi người hãy tự đặt ra cho mình, cho gia đình mình một chương trình sống Mùa Chay.  Ước gì mùa Chay năm nay sẽ là khởi điểm của một đời sống mới, giúp mỗi người chúng ta thực sự thay đổi đời sống, mến Chúa hơn, yêu người hơn.

Lạy Chúa, xin thương xót con,

vì con là kẻ tội lỗi. Amen.

TGM Ngô Quang Kiệt

From: ThiênKim & Nguyễn Kim Bằng

Mùa Chay và Việc Giữ Chay

Mùa Chay và Việc Giữ Chay

Luật ăn chay, giữ chay cần phải hiểu thế nào?

1. Mục đích và ý nghĩa:

  • Trở về với Thiên Chúa.
  • Noi gương Chúa Giêsu và vâng lời Giáo Hội.
  • Hy sinh hãm mình đền tội.
  • Thành tâm sám hối tội lỗi.
  • Tham gia công tác từ thiện, bác ái.
  • Cầu nguyện và làm việc lành.

2. Tiêu chuẩn:

  • Tuổi giữ chay, theo GL 97 và 1252: “Mọi tín hữu tuổi từ 18 cho đến 60 tuổi thì buộc phải giữ chay”.
  • Tuổi ăn kiêng, theo GL 1252 “buộc những tín hữu tuổi từ 14 trở lên”.
  • Tại Việt Nam hiện nay chỉ còn buộc giữ chay hai ngày (Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh). Một số giáo phận còn giữ luật cũ (tất cả các ngày Thứ Sáu trong Mùa Chay).
  • Luật giữ chay kiêng thịt cũng có thể miễn hoặc giảm cho những người già yếu, đau bệnh, phụ nữ có thai, phụ nữ nuôi con bằng sữa mẹ…

3. Cách thức:

  • Chỉ ăn một bữa no trong ngày. Nếu lấy bữa trưa làm chính thì bữa sáng và bữa tối chỉ được ăn chút đỉnh mà thôi.
  • Không ăn các loại “thịt”.
  • Không ăn quà vặt trong ngày.
  • Không uống các thức uống có chất kích thích như rượu, bia…

4. Kinh Thánh dạy ta ăn chay thế nào để đẹp lòng Thiên Chúa?

  • Is 58,2-12: Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?
  • Ge 2,12-13: Đây là sấm ngôn của Đức Chúa: “Nhưng ngay cả lúc này, các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van”. Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, Người hối tiếc vì đã giáng hoạ.
  • Hc 34,26: Cũng thế, kẻ ăn chay đền tội, rồi đi phạm lại vẫn những tội ấy, hỏi ai sẽ nghe lời nó cầu xin? Hạ mình kiểu đó, nào được ích lợi gì?
  • Mt 6,16-18: Còn khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh em, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh em ăn chay, ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh em, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh em.

5. Tóm lại:

Mùa Chay là mùa mà Giáo Hội kêu gọi mọi người Kitô hữu sống tinh thần: “Âm thầm cầu nguyện, lặng lẽ hy sinh và thành tâm sám hối.”

Để có thể giữ chay tốt, ta nên chú ý đến ý nghĩa của việc giữ chay hơn là những tiêu chẩn và cách thức (hình thức). Ví dụ như: nếu ta giữ đúng những tiêu chuẩn và cách thức của luật giữ chay, mà lại thay thế bữa thịt bằng một bữa ăn đặc sản vùng biển tốn kém, thì còn gì là ý nghĩa chay tịnh nữa.

Đàng khác, nếu ta chỉ giữ chay với thói quen hình thức, mà không yêu thương, từ tốn, nhã nhặn, tha thứ cho những người xung quanh ta, thì giữ chay nào có ích gì.

Vậy, ăn chay theo đạo Công Giáo là nhịn ăn hoặc bớt ăn để diễn tả sự hy sinh tự nguyện, để cổ võ lòng đạo đức hoặc lập thêm công đức; hơn nữa, nhịn ăn hay bớt ăn cũng là để chia sẻ với người nghèo khó trong tinh thần bác ái và phục vụ.

JB. Bùi Ngọc Điệp

 

Hạt Bụi Mùa Chay

Hạt Bụi Mùa Chay

Nguyễn Trung Tây, SVD

Mùa Chay khởi đi với thứ Tư Lễ Tro, người người tín hữu trên khắp năm châu cúi đầu nhận hình thánh giá bằng dấu tro ghi trên trán. Mùa Chay cũng nhắc nhở người tín hữu, dưới lăng kính màu tím, thân phận tro than của con người, có đó rồi mất đó, tương tự như hoa Quỳnh Hương khuya nở sớm tàn. Nhưng nhìn dưới lăng kính màu hồng, Mùa Chay cũng gợi nhớ mối liên hệ phụ mẫu tử giữa trời cao và đất thấp, bởi vì “Chúa ơi, con chẳng là chi, chỉ là hạt bụi, mà sao Chúa lại yêu con vô cùng?”. Mùa Chay, hơn thế nữa, kêu gọi người tín hữu bóc lột miếng vỏ cũ, khoác vào tấm áo mới, một dạng thay đổi, một cuộc đổi thay để thôi không làm trứng, làm sâu, làm nhộng, nhưng vươn mình triển nở hóa ra cánh bướm tô thêm đậm đặc màu xanh thiên đàng ngay trên cõi trần gian.

Những hạt bụi tro Mùa Chay ghi trên trán có thể được ví với những vị thuốc diệu kỳ có khả năng chữa trị những căn bệnh của nhân loại. Từ những thời kỳ đầu tiên khi trái đất cất tiếng khóc oe oe chào đời, kéo xuống tới ngày người ta chà đạp đá sỏi kinh thành kéo vào Vườn Cây Dầu trói chặt Đức Giêsu mang đi, cho tới thời kỳ của bây giờ và hôm nay, đã bao nhiêu bàn chân bước đạp giẫm lên trên mặt đất đen của trái địa cầu, đã bao nhiêu linh hồn từng ghé xuống cõi trần rong chơi một khoảng, đã bao nhiêu hình hài nghiêng đổ bóng dài xuống cõi nhân gian? Ai ngồi tính toán cho ra? Cuộc sống tiếp tục xoay vần, Sinh! Bệnh! Lão! Tử! Con người nhịp nhàng xoay tròn quỹ đạo trăm năm. Tiếp nối trăm năm vẫn chưa là gì ngoại trừ tro bụi. Trong vòng quay cuốn hút của sinh, bệnh, lão, tử, người người vẫn cứ thường thường quên đi là một ngày sẽ tới, khi đó tôi sẽ hóa ra tro bụi của hình hài nguyên thủy mà tôi đang mang trên vầng trán vào ngày thứ Tư của Mùa Chay. Khi nhớ lại thân phận con người là hữu hạn, là tro bụi, tôi sẽ bớt, thôi, không khóc lóc, hoặc là bớt, thôi, không than thở, hoặc là bớt, thôi, không khó chịu với cuộc đời, khi những phiền toái của cuộc sống đè nặng trên đôi vai nhỏ bé của tôi. Khi nhận ra cuộc sống đang được đếm từng ngày từng tháng, cho nên một giây không nên bỏ phí, một phút chớ nên bỏ quên, tôi sẽ dễ dàng gạt bỏ đi, bớt, thôi, không dõi nhìn những lăng kiếng khá tiêu cực của thường tình nhân gian.

Những hạt bụi màu đen của Mùa Chay cũng nhắc nhở tôi về liên hệ phụ mẫu tử của thiên đàng và trần gian. Thiên Chúa biết tôi là hạt cát, hạt bụi, thế mà tại sao Ngài lại yêu hại cát, hat bụi là tôi đến thế nhỉ? Đã bao nhiêu lần khi tôi bước chân lên bãi cãi dài vô tận của đại dương, bao nhiêu hạt cát đã lọt qua những kẻ chân hoặc bị tôi dẵm dí, chà đạp lên trên, nhưng có hạt cát nào đủ sức mời gọi tôi dừng bước kiên nhẫn cúi nhìn tìm kiếm sắc hình? Đã bao nhiêu lần khi tôi bước dẵm đạp lên trên những hạt bụi của sàn nhà, hạt bụi nào đủ ma lực kêu mời để tôi cúi xuống phân biệt bụi này bụi đỏ, bụi kia bụi tro? Hạt bụi nào? Chẳng có hạt bụi nào cả. Thế mà thiên đàng xa thẳm vẫn cứ tiếp tục từ trên trời cao vén mây kiếm tìm hạt bụi lạc loài trên trần gian là tôi. Đã từ bao lâu nay, vĩnh hằng vĩnh cửu vẫn cứ loay hoay đi ra đi vô than ngắn thở dài bên song cửa, bởi vì Phụ Mẫu thiên đàng vẫn chưa nhìn thấy bóng dáng hạt bụi trần gian quay về nơi căn nhà xưa. Lạ nhi? Hay ghê? Nhìn tôi trong kiếng, ngắm mình trong gương, tôi vẫn thấy mình nguyên vẹn hình hài của một hạt cát, hạt bụi. “Thế mà vĩnh hằng thiên đàng ơi, con vẫn không hiểu tại sao Ngài lại yêu con đến như thế?”.

Mùa Chay cũng gợi lại trong tôi nhạc phẩm, “Kià con bướm vàng…” của một thời ấu thơ. Đã có một thời của Lớp Mẫu Giáo, Lớp Một, tôi mê nhìn những cánh bướm màu sắc rực rỡ bay lượn trên những cánh đồng. Vào một khoảng của thơ ấu, đã biết bao lần tôi mơ làm bướm vàng bay xa bay cao vào trong bầu trời rực rỡ. Thời của ngây thơ đơn giản hóa vấn đề không bao giờ đặt trong tôi câu hỏi về mối tương quan và sợi giây liên hệ giữa trái trứng lốm đốm trên mặt lá xanh với con sâu lông lá xấu ơi là xấu, với con nhộng nằm chết héo khô lặng lẽ treo trên nhánh cây, và với chú bướm vàng đẹp đẽ bay lượn trong bầu trời. Thơ ấu trôi xa vào quá khứ để lại giọng khàn vỡ đục của tuổi bắt đầu làm người lớn cho tôi lại thêm một lần nữa hiểu biết và kinh nghiệm về đổi thay của trứng bướm, của con sâu, của con nhộng, và của con bướm. Nếu không thay đổi, tôi sẽ tiếp tục nằm chết trong quả trứng bướm, một quả trứng hư, trứng ung, trứng thối. Nếu tôi đổi thay chuyển động lắc mình, mầm trứng nhúc nhích biến hình đổi dạng, khiến tôi nứt vỏ trứng, mở mắt ngỡ ngàng hé nhìn thế gian. Nhưng thay đổi từ trứng sang sâu vẫn chưa đủ, bởi nếu tôi vỡ trứng hóa ra con sâu lông lá xấu xí, khắp cùng thiên hạ đều sẽ gớm ghét, tránh xa khi họ đối diện tôi. Mà có quý chi một kiếp sâu, bởi con sâu cũng chỉ làm tôi nổi bật hóa ra mồi thơm cho chim trời bay lượn trên không dừng lại một nhịp cánh, bay xuống nuốt trôi tôi vào vực thẳm tối tăm. Là con sâu, tôi cũng chỉ tiếp tục cong người trườn bò đi dưới mặt đất. Nếu thiên hạ giơ chân đạp xuống, thế là thân phận con sâu cái kiến biến dạng trên mặt đất. Nhưng thay đổi từ sâu sang nhộng vẫn chưa đủ, bởi nếu tôi chịu nhả tơ làm kén, hóa thành nhộng, thì tôi cũng vẫn tiếp tục lặng lẽ chết đi trong kén. Nếu vậy, cuộc đời cũng chẳng có chi gọi là khá hơn. Đáng giá gì một sợi tơ tằm? Lụa nào kết nối chỉ bởi một đường tơ? Con nhộng, hình hài của thây ma xác chết, ai xót thương, ai nhỏ lệ cho một chú nhộng?

Đổi thay, thương hải biến vi tang điền, biển cả (đổi thay) biến thành ruộng dâu.

Thay đổi, hạt lúa gieo vào đất đen đổi thay nảy mầm vươn cao biến thành cây mạ xanh non.

Đổi thay, thay đổi, khi vươn vai phá rách bốn bức tường bao bọc phận kén, tôi nhẹ mình bay bổng vào cõi trời xanh trong của rực rỡ hương hoa thiên đàng.

Mùa Chay, mùa để tôi thay đổi, tôi không dự tính, lên kế hoạch, vẽ họa đồ đổi thay ai khác nhưng chính tôi, hạt bụi trần gian.

Tôi đang ngồi đếm trứng bướm trên mặt lá của cuộc đời vào những ngày đầu tiên của Mùa Chay. Tôi thắc mắc không biết trái trứng nào cần phải chuyển mình nứt vỏ nhường lại cho tôi một đời sống mới của con bướm vàng. Nếu chưa biết, tôi sẽ hỏi,

— Chúa ơi, xin chỉ cho con biết con sẽ phải chết đi thói hư tật xấu nào trong Mùa Chay này?

□ Nguyễn Trung Tây, SVD
www.nguyentrungtay.com

 

Lịch sử Mùa Chay Thánh

Lịch sử Mùa Chay Thánh

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

2/27/2014

Tứ thời bát tiết Xuân, Hạ, Thu, Đông, thay đổi tuần hoàn luân vòng chuyển đổi. Niên lịch phụng vụ của Giáo Hội Công Giáo cũng nằm trong chu kỳ ấy.

Phụng vụ Giáo Hội cũng có bốn Mùa như : Mùa Vọng, Mùa Giáng Sinh qua đi, Mùa Thường niên tiếp nối, chúng ta chuẩn bị bước vào Mùa Chay Thánh, cao điểm là Tuần Thánh và Đêm Vọng Phục Sinh. Vậy Mùa Chay có từ bao giờ, kéo dài bao lâu ? Những việc chúng ta làm trong Mùa Chay có ý nghĩa thế nào ? Mùa Chay đến rồi lại đi, chúng ta làm gì để Mùa Chay không trở nên nhàm chán và có ý nghĩa ?

Mùa Chay có từ bao giờ, kéo dài bao lâu ?

Vào những thế kỷ đầu Kitô giáo, để sống đạo và thực hành đạo, các kitô hữu tiên khởi đã quan sát những người chung quanh xem họ sống đạo và thực hành đạo thế nào, cụ thể như việc người Dothái giữ ngày Sabát, hay lên Đền thờ cầu nguyện. Tuy các kitô hữu tiên khởi họp nhau thành một cộng đoàn tế tự, cử hành phép rửa nhân danh Cha và Con và Thánh Thần theo một công thức tuyên xưng đức tin. Nhưng khi cử hành các ngày đại lễ như lễ Vượt Qua, lễ Năm Mươi, dù vẫn giữ nguyên những ngày lễ của người Dothái nhưng lại mặc cho các ngày lễ ấy một ý nghĩa mới, chẳng hạn : khi cử hành, họ không chỉ nhắc lại các biến cố Xuất Hành Cựu Ước, mà còn tưởng nhớ cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Kitô, cũng như việc Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các Tông đồ.

Mãi đến thế kỷ thứ IV, trong Giáo Hội mới nảy sinh những ý kiến khác nhau như : liệu có cử hành lễ Phục Sinh vào ngày lễ Vượt Qua của người Dothái không ? Tại các Giáo đoàn thuộc Tiểu Á, họ vẫn giữ nghi lễ chiên vượt qua. Riêng Giáo đoàn Antiokia lại ấn định lễ Phục Sinh vào ngày Chúa Nhật sau lễ Vượt Qua của người Dothái, trong khi đó, các kitô hữu tại Alexandria do các nhà chiêm tinh tính toán nên đã chuyển rời lễ Phục Sinh vào dịp phân xuân.

Cho dù có sự khác nhau về ngày cử hành các ngày lễ, nhưng lễ Phục Sinh vẫn là lễ chung của toàn thể cộng đoàn Kitô giáo, vì lễ Phục Sinh dựa trên nền tảng đức tin, trước lễ Phục Sinh, có một thời gian chuẩn bị tương đối dài gọi là Mùa Chay hay « 40 ngày », tưởng nhớ 40 Chúa Giêsu ở trong hoang địa 40 đêm ngày.

Việc thực hành Mùa Chay đã có từ thời thì đầu Kitô giáo, nhưng trải qua những bước thăng trầm, mãi tới thế kỷ thứ II, thời thánh Irênê, giám mục thành Lyon, việc giữ chay ngắn hạn từ hai đến ba ngày, không ăn bất kỳ thức ăn nào mới được phổ biến. Sang kỷ thứ III tại Alexandria, người ta kéo dài việc ăn chay ra hết một tuần. Những dấu tích của Mùa Chay hay « 40 ngày » được tìm thấy ở thế kỷ thứ IV, trong lễ qui của Công Đồng Nicêa. Đây là thời gian chuẩn bị mừng lễ, nhưng ưu tiên vẫn là việc giúp các người dự tòng chuẩn bị lãnh Phép Rửa Tội và Đêm Vọng Phục Sinh.

Cuối thế kỷ thứ IV, Giáo đoàn tại Giêrusalem bắt đầu giữ chay 40 ngày hay còn gọi là Mùa Chay 8 tuần, người ta ăn chay suốt thời gian này, trừ thứ Bẩy và Chúa Nhật. Sang thế kỷ thứ V, tại Aicập người ta cũng giữ chay, tiếp đến là xứ Gôlơ, người ta ăn chay ngày thứ Bẩy và thứ Sáu tuần trong Mùa Chay. Trong khi giữ chay, các kitô hữu chỉ ăn một bữa mỗi ngày, thức ăn gồm có bánh, rau và nước. Giữ nghiêm ngặt nhất là ngày Thứ Sáu và Thứ Bẩy Tuần Thánh, người ta không ăn một chút thức ăn nào. Giờ ăn chay được qui định tùy theo sự khác nhau của mỗi giáo đoàn. Vì mùa chay gồm 6 tuần không thể tương ứng với 40 ngày được. Nên sang thế kỷ thứ VII, người ta đã lùi về trước Mùa Chay mấy ngày, cụ thể như bắt đầu từ ngày thứ Tư cho đến ngày thứ Bẩy tuần trước khi bước vào Mùa Chay, ngày mà hôm nay chúng ta gọi là Thứ Tư Lễ Tro, ngày ăn chay. Đồng thời, ba Chúa Nhật trước Mùa chay, là gồm tóm thời gian chuẩn bị mừng lễ Phục Sinh, cách lễ Phục Sinh chín tuần. Việc giữ chay ngày càng đòi hỏi nghiêm ngặt hơn, chẳng hạn như buộc chỉ ăn bữa tối. Nhưng đến thế kỷ thứ VIII, việc giữ chay được nới rộng ra, nghĩa là cho phép những người ốm đau bệnh tật được ăn chứng, bơ, sữa, cá và cả rượu nữa. Sang thế kỷ XII và XIII, bữa ăn ngày chay được ấn định là trước giờ trưa 3 giờ tức 9 chín giờ sáng, tiếp theo được ăn « bữa ăn nhẹ » vào buổi tối. Sang thế kỷ XVII việc ăn chay giảm dần và Giáo Hội cho phép được ăn cháo, sữa và cá nhỏ. Trong ngày chay, tại các hoàng gia, nhà bếp thi nhau trổ tài làm ăn với những thực đơn sao cho dồi dào phong phú hơn ngày thường.

Một cảnh chợ cá ngày Thứ Tư Lễ Tro

Từ năm 1949, Giáo Hội Công Giáo qui định việc giữ chay và kiêng thịt là ngày Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh mà thôi. Lý do vì hai ngày đó là ngày tưởng nhớ sự chết : ngày thứ tư lễ Tro, linh mục chính thức làm phép tro được đốt từ những cành lá đã làm phép vào ngày Lễ Lá năm trước rồi vẽ hình thánh giá trên trán người nhận tro và nhắc lại rằng « ngươi là tro bụi, và người sẽ trở về tro bụi », nhắc lại cái chết của mỗi người chúng ta, tiếp đến, ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, ngày tưởng niệm cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá.

Trong phụng vụ của Giáo Hội Chính Thống, thời gian chuẩn bị bước vào Mùa Chay kéo dài năm tuần liền, mỗi tuần đọc một đoạn Tim Mừng riêng, với cách thức sám hối sâu xa. Tuần thứ bốn, được ấn định là ngày kiên thịt và ăn chay trong toàn Giáo Hội. Chúa Nhật thứ năm được gọi là Chúa Nhật Hòa giải, mỗi người hòa giải với người bên cạnh trước khi toàn thể cộng đoàn xin lỗi Chúa.

Cảm tưởng chung là một bầu không khí « vui và buồn ». Mỗi tín hữu, với sự hiểu biết có giới hạn và khác nhau về phụng vụ, nên khi bước vào nhà thờ với các kinh nguyện của Mùa Chay, mỗi người mỗi cảm tưởng khác nhau. Một phần vì những lời kinh tiếng hát mang đậm nét buồn, màu áo tím, những bài đọc dài hơn, đơn điệu hơn ngày thường, và hầu như không có nét vui tươi. Một nét đẹp nội tâm rực sáng, tựa như ánh sáng ban mai chiếu rọi từ thung lũng tối tăm lên tận đỉnh cao của núi đồi.

Niềm vui âm thầm, êm dịu và toàn bộ các bài Sách thánh trong Mùa Chay nghe thật đơn điệu cho thấy sự bình an đã dẫn đưa người ta tới những điệp ca hòa tấu Allêluia trong Đêm Vọng Phục Sinh.

Chúa Nhật lễ Lá là thời gian không còn dành riêng cho việc tưởng niệm cuộc khổ nạn nữa, bước vào một Tuần Thánh, với những bài đọc nhắc lại những ngày sau hết của Chúa Kitô trên trần gian và sự Phục Sinh của Ngài.

Tại sao lại gọi là 40 ngày chay thánh ?

Từ « Mùa Chay » là một từ tương phản với từ gốc latinh là « quadragesima » có nghĩa là 40. Trong Kinh thánh, con số 40 có ý diễn tả một khoảng thời gian chờ đợi, một quá trình, tượng trưng cho việc chuẩn bị gặp gỡ Thiên Chúa. Số 40 còn diễn tả hành trình trong sa mạc trên đường về Đất hứa của Dân Dothái kéo dài 40 năm. Ông Môisen đã ở trên núi Chúa 40 ngày (x. Xh 24,18; 34,28). Những người trinh sát đã ở trong vùng đấy 40 ngày (x. Ds 13, 25). Elia đã đi 40 ngày trước khi tới được hang ở đó Ngài được thị kiến (x. 1V 19,8). Ninivê đã được cho 40 ngày để sám hối (x. Gn 3,4). Và quan trọng nhất là Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần thúc đẩy vào trong hoang địa 40 ngày để ăn chay cầu nguyện trước khi thi hành sứ vụ công khai (x. Mt 4,2).

Như vậy Mùa Chay là mùa nhắc nhớ 40 năm hành trình trong sa mạc của dân Dothái, 40 ngày trong hoang địa của Chúa Giêsu. Con số 40 ngày, là thời gian đi vào hoang địa của cõi lòng, thinh lặng để chuẩn bị gặp gỡ Chúa. Đây là thời gian phụng vụ cao điểm thuân tiện thích hợp cho các kitô hữu noi gương Đức Kitô dùng 40 ngày để ăn năn đền tội và dấn thân phục vụ anh chị em. Và bằng 40 ngày long trọng của Mùa Chay, mỗi người được liên kết mật thiết hơn với các Mầu Nhiệm của Chúa Giêsu, Đấng đang tiến đến cái chết và sự sống lại.

Mùa chay mang lại cho chúng ta điều gì?

Phần lớn người kitô hữu không thực hành việc ăn chay, nguyện ngắm, nên Mùa Chay không có ảnh hưởng tới đời sống của họ là bao? Khi nói về Mùa Chay, người ta thường hiểu một cách không tích cực lắm. Đại đa số dân chúng cho rằng trong Mùa Chay việc kiêng ăn, kiêng uống giữ chay chiếm vị trí hàng đầu.

Tuy nhiên điều đáng lưu ý là đại đa số người kitô hữu không thực hành đạo trong đời sống nhưng họ vẫn đến nhận tro vào Thứ Tư Lễ Tro. Đây là một nghi thức giầu tính biểu tượng, nó tác động đến tận đáy lòng con người, nhắc nhớ người ta suy nghĩ về thân phận của mình khi nhận tro và mời gọi con người trở về với Chúa. Vì nhiều khi con người quên đi thân phận yếu hèn, mỏng giòn của mình, dẫn đến đau thương và đổ vỡ. Bi kịch cuộc đời con người đều từ đó mà ra. Con người phạm tội, tội cắt đứt sự hiệp thông giữa con người với Thiên Chúa, làm cho con người mất đi hạnh phúc, phải đau khổ và phải chết. Chuyện sa ngã của Nguyên tổ đã chứng minh điều đó. Lịch sử cứ độ của Dân Chúa, tội thì Chúa phạt, hối cải thì Chúa tha và cứu. Nên mỗi khi lâm vào hoàn cảnh bi đát đau thương hay thất vọng, Dân Chúa đều nhận ra rằng cần phải sám hối trở về giao hòa với Thiên Chúa để được chữa lành. Mùa Chay là mùa sám hỗi, chúng ta hãy ra sức làm những việc cần thiết để được giao hòa và hiệp thông với Chúa, hầu được Chúa ban ơn.

Trong đời sống người kitô hữu, nhiều khi lắng nghe lời Chúa xong, chúng ta đã có quyết tâm đi xưng tội, làm việc đền tội, nhưng rồi kết quả không mấy khả quan, thì Mùa Chay là cơ hội rất thuận lợi. Thư thánh Phaolô nói với chúng ta : « Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ» (2 Cr 6,2). Đây là thời gian khẩn trương trong năm phụng vụ, thời gian thuận tiện được ban cho chúng ta để đẩy mạnh quyết tâm hoán cải, tăng cường việc lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện, thống hối, mở rộng tâm hồn đón nhận thánh ý Chúa, thực hành khổ chế một cách quảng đại hơn, để đi tới và giúp đỡ tha nhân đang túng thiếu: đó là một hành trình tinh thần giúp chúng ta chuẩn bị sống Mầu Nhiệm Phục Sinh. Vậy chúng ta hãy tin tưởng điều đó và bước vào Mùa Chay Thánh.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

CHÚNG TÔI RAO GIẢNG MỘT ĐẤNG KITÔ BỊ ĐÓNG ĐINH

CHÚNG TÔI RAO GIẢNG MỘT ĐẤNG KITÔ BỊ ĐÓNG ĐINH

Tác giả: Sr. Minh Nguyệt

Cha René-Luc 48 tuổi là Linh Mục thuộc giáo phận Montpellier ở miền Nam nước Pháp. Vốn là con hoang không cha, được một tên vô-lại nuôi dưỡng, sau một thời thơ ấu bầm-dập rách-nát, Cha may mắn gặp gỡ THIÊN CHÚA và dâng hiến trọn cuộc đời cho Ngài. Xin ghi lại chứng từ Cha trình bày trước cử tọa gồm khoảng hơn một ngàn học sinh trung học của hai trường tư thục Công Giáo ở Roche-sur-Yon.

Với nụ cười thẳng thắn và đoan hậu, với thân hình lực sĩ cao lớn và bằng giọng nói dõng dạc trầm lắng, Cha René-Luc mở đầu buổi nói chuyện như sau.

Điều Cha sắp kể cho các con nghe không phải là chuyện phim mà là chuyện thật cuộc đời Cha. Và Cha muốn nói ngay với các con rằng, ngay cả khi bị tuột dốc chúng ta vẫn luôn luôn tìm ra một lối thoát. Cha chào đời tại Nimes, có hai anh trai và hai em gái trong một gia đình vắng bóng thân phụ. Thân mẫu Cha một mình dưỡng dục các con. Năm Cha 10 tuổi, thân mẫu Cha gặp một người đàn ông tên Martial và chung sống với ông. Cứ tưởng cuộc sống gia đình giờ đây sẽ tươi sáng hơn, nào ngờ, mọi sự nhanh chóng đổi chiều. Bởi vì, ông Martial nghiện rượu và là một tên trộm cướp từng bị cảnh sát theo đuổi. Cuộc sống gia đình biến thành địa ngục. Không biết bao nhiêu lần thân mẫu dẫn Cha trốn chạy nhưng ông Martial luôn luôn tìm ra chỗ trú ẩn nên bắt cả hai mẹ con đem trở về nhà.

Mãi cho đến một buổi chiều trong tháng 11 năm 1979, ông Martial tự bắn một phát súng vào ngực và kết liễu cuộc đời. Năm ấy Cha 13 tuổi. Chứng kiến thảm trạng cuộc đời, lòng Cha bỗng nổi loạn và khởi đầu một cuộc sống ăn chơi trộm cắp và bạo hành ngay cả với thân mẫu Cha.

May mắn thay vào năm 1980 thân mẫu Cha gặp bà Marie-Do một tín hữu Công Giáo nhiệt thành. Bà mời cả hai mẹ con đến tham dự buổi thuyết trình của mục sư tin lành Nicky Cruz, một cựu thành viên băng đảng bất-lương ở thành phố New-York. Trước một cử tọa gồm 2 ngàn người, vị mục sư làm chứng rằng chính cuộc gặp gỡ với THIÊN CHÚA đã thay đổi toàn vẹn cuộc đời ông.

Chứng từ của mục sư Nicky Cruz đã đi vào tận cõi thâm sâu linh hồn Cha. Cha rất xúc động và nước mắt tuôn trào. Ngày hôm ấy, quả thật Cha đã sống kinh nghiệm câu kinh thánh nơi sách tiên tri Êdêkien: ”Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các con và sẽ ban tặng các con một quả tim bằng thịt” (36,26).

Chưa hết. Bà Marie-Do giúp Cha khám phá Đức Tin Công Giáo dưới những chiều kích sống động và mới mẻ. Rồi bà đưa Cha đi hành hương Lộ Đức. Chính tại Trung Tâm Thánh Mẫu Lộ Đức mà Cha đã quyết định dâng hiến cuộc đời cho Đức Chúa GIÊSU KITÔ, Đấng Cứu Độ nhân loại. Cha gia nhập Chủng Viện năm 20 tuổi và thụ phong Linh Mục năm 27 tuổi. Từ đó đến nay hơn 20 năm trôi qua, Cha du hành khắp nước Pháp để làm chứng về Tình Yêu THIÊN CHÚA cũng như làm chứng về niềm vui được trở thành Linh Mục. Độc thân không phải là một trạng thái bệnh-hoạn ẻo-lã. Trái lại, độc thân giúp trái tim được hoàn toàn tự do và có thể quảng đại yêu thương mọi người, không trừ ai.

Vào năm 13 tuổi Cha biết rằng thân phụ Cha là một người Đức và ông đã bỏ rơi thân mẫu Cha chỉ vỏn vẹn sau ba tháng chung sống, khiến Cha trở thành một đứa con hoang, một đứa trẻ không cha!

Thế rồi một ngày, người cha ruột này tìm kiếm và muốn gặp Cha. Thân phụ liên lạc được với Cha vào chính buổi chiều trước khi Cha thi vấn đáp môn Đức ngữ. Sau đó hai cha con tạo cơ hội gặp nhau và chính thân phụ ngỏ lời xin Cha tha lỗi. Sau đó cả hai cha con cùng đi ra tòa thị chính để làm giấy chứng thực về tờ khai sinh. Năm ấy Cha 37 tuổi và sống kinh nghiệm đầu tiên về lòng tha thứ cũng như hưởng nếm tình phụ tử bao la.

Một bạn trẻ nêu câu hỏi:

– Làm thế nào mà Cha có thể đặt trọn niềm tin tưởng nơi THIÊN CHÚA khi cuộc đời chỉ cống hiến toàn những gian trá đáng nghi ngờ?

Cha René-Luc cẩn thận trả lời bằng cách dùng một hình ảnh. Cha nói.

Các con cứ tưởng tượng có một ngôi nhà bị bỏ hoang. THIÊN CHÚA đứng trước nhà và gõ cửa. Đàng sau nhà có các cánh cửa khác mở ra bên ngoài: cho thể thao, cho chia sẻ và có lẽ cho cả ích kỷ nữa .. Trong khi cánh cửa THIÊN CHÚA đang đứng đã không bao giờ được mở ra. Nhưng khi quan sát thật gần người ta mới thấy rằng cánh cửa này không có nắm-cửa ở bên ngoài mà chỉ có ở bên trong. Vậy thì THIÊN CHÚA không thể nào mở được cánh cửa lòng các con. Ngài chỉ gõ và đứng đó chờ đợi. Chính các con mới là những người duy nhất có thể quyết định mở hay không mở cánh cửa này. Vậy thì, Cha xin cầu chúc cho mỗi người trong các con, một ngày nào đó, hãy mở cánh cửa lòng mình để đón tiếp THIÊN CHÚA Nhân Lành ngự vào.

… ”Thật thế, lời rao giảng về Thánh Giá là một sự điên rồ đối với những kẻ trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của THIÊN CHÚA. Vì có lời chép rằng: ”Ta sẽ hủy diệt sự khôn ngoan của kẻ khôn ngoan, và sẽ vứt bỏ sự thông thái của người thông thái. Người khôn ngoan đâu? Người học thức đâu?” Người lý sự của thời này đâu? THIÊN CHÚA lại đã không để cho sự khôn ngoan của thế gian ra điên rồ đó sao? Thật vậy, thế gian đã không dùng sự khôn ngoan mà nhận biết THIÊN CHÚA ở những nơi THIÊN CHÚA biểu lộ sự khôn ngoan của Người. Cho nên THIÊN CHÚA đã muốn dùng lời rao giảng điên rồ để cứu những người tin. Trong khi người Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng KITÔ bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được THIÊN CHÚA kêu gọi, dù là Do-thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính là Đức Chúa GIÊSU KITÔ, sức mạnh và sự khôn ngoan của THIÊN CHÚA. Vì cái điên rồ của THIÊN CHÚA còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của THIÊN CHÚA còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1Côrintô 1,18-25).

(”Catholiques en Vendée”, La Vie de l’Église de Luçon, n.89, 13 Novembre 2013, trang 28)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Nguồn : vietvatican.net

 

Điều nghịch lý của hạnh phúc

Điều nghịch lý của hạnh phúc

Có câu truyện về một người cỡi một con ngựa đang phi như bay trên đường.  Khi anh và con ngựa chạy ngang qua một khu phố, có vài người đứng bên đường thấy vậy gọi với theo, “Anh kia có việc gì phải đi đâu mà vội vã thế?”  Anh ta ngoái đầu lại và nói lớn, “Tôi cũng không biết nữa, hỏi con ngựa kìa!”  Sự tiến bộ trong xả hội của chúng ta ngày nay cũng được ví giống như con ngựa trong câu truyện ấy, chúng ta đang phi như bay nhưng có biết mình đang đi về đâu chăng?

Theo tôi nghĩ thì những phát minh, sáng tạo mới của khoa học giúp cho cuộc đời bớt đi những tật bệnh, làm vơi bớt khổ đau là một điều rất tuyệt vời và vô cùng quý báu cho nhân loại.  Nhưng chúng ta cũng đừng quên đi những nguyên nhân sâu xa của khổ đau.

Nếu như những “tiến bộ” ấy lại vô tình khiến ta tách rời xa sự tốt lành tự nhiên, thì ta cũng cần nên phải thận trọng.  Ông Bob Moorehead, một tiến sĩ về thần học ở Hoa kỳ có những nhận xét như sau, về những điều nghịch lý của thời đại ngày nay,

“Điều nghịch lý của thời đại ngày nay là chúng ta có những toà nhà cao hơn nhưng sự kiên nhẫn lại ngắn hơn, ta có những xa lộ rộng lớn hơn nhưng cái nhìn lại nhỏ hẹp hơn. Chúng ta tiêu xài nhiều hơn nhưng có được ít hơn, mua sắm nhiều hơn nhưng thưởng thức lại kém hơn. Ta có căn nhà to rộng hơn nhưng gia đình nhỏ bé hơn; có nhiều tiện nghi hơn nhưng thời giờ ít ỏi hơn. Chúng ta có nhiều bằng cấp hơn nhưng hiểu biết lại giảm đi, ta dư thừa kiến thức nhưng lại thiếu sự xét suy; ta có thêm nhiều nhà chuyên môn nhưng cũng thêm biết bao nhiêu là vấn đề, có thêm thuốc men nhưng sự lành mạnh lại càng sụt giảm.

Thời đại ngày nay chúng ta uống rượu và hút thuốc quá nhiều, tiêu pha không tiếc nuối, thiếu vắng tiếng cười, lái xe quá nhanh, nóng giận rất dễ, thức rất khuya, dậy mệt mỏi, đọc sách rất ít, xem ti vi quá nhiều, và hiếm khi ta biết ngồi lại trong tĩnh lặng! Tài sản của ta tăng lên gấp bội phần, nhưng giá trị chúng ta cũng sụt giảm đi. Chúng ta nói quá nhiều, thương yêu quá ít, và thù ghét thì lại quá thường.

Chúng ta biết cách kiếm sống, nhưng không mấy ai biết sống. Chúng ta cộng thêm năm tháng vào đời mình, nhưng chỉ là năm tháng mà thôi. Chúng ta đã lên đến mặt trăng và trở về trái đất, nhưng rất khó bước qua bên kia đường để chào người hàng xóm mới. Ta chinh phục được thế giới bên ngoài nhưng không biết gì về thế giới bên trong. Chúng ta đã làm được rất nhiều việc lớn lao, nhưng rất ít việc tốt lành.

Chúng ta làm trong sạch không khí chung quanh, nhưng lại làm ô nhiễm tâm hồn mình. Chúng ta chia cắt được một hạt nguyên tử, nhưng chưa phá được thành kiến của chính mình. Chúng ta chia sẻ nhiều hơn, nhưng học được ít hơn. Chúng ta có nhiều dự án hơn, nhưng hoàn tất ít hơn. Chúng ta biết cách làm việc nhanh chóng, nhưng không biết cách đợi chờ; có nhiều người quen, nhưng ít ai là bè bạn. Chúng ta thiết kế thêm nhiều máy điện toán, chứa thêm nhiều dữ kiện, in ra thật nhiều tài liệu, nhưng sự truyền thông giữa con người mỗi ngày lại càng ít đi.

Ngày nay là thời đại của mì ăn liền, tiêu hoá chậm, con người to lớn nhưng chí khí rất nhỏ, lợi nhuận thì rất sâu mà tình người thì rất cạn.  Thời đại của hòa bình thế giới, mà nội chiến trong gia đình.

Đây là thời đại của gia đình với hai đầu lương nhưng trăm ngàn ly dị, nhà cửa khang trang nhưng hạnh phúc đổ vỡ. Đây là thời đại của những chuyến đi ngắn vội vàng, đồ xài chỉ một lần, đạo đức vứt bỏ, và những viên thuốc giải quyết cho mọi vấn đề, từ hưng phấn, đến lắng dịu, đến cái chết.

Đây là thời đại của những mặt hàng trưng bày ngoài cửa tiệm thì rất nhiều, nhưng trong nhà kho lại trống không. Đây là thời đại mà công nghệ có thể mang lá thư này đến thẳng với bạn và bạn cũng hoàn toàn tự do để chọn đọc nó hay xoá bỏ đi…

Nhưng xin bạn hãy nhớ bỏ thì giờ ra với người thương, vì họ sẽ không có mặt với ta mãi mãi. Hãy nhớ chọn những lời dễ thương với những ai đang ngước nhìn bạn nhiều ngưỡng phục, vì cô hay cậu bé đó rồi cũng sẽ lớn lên và rời xa ta.

Hãy nhớ ôm chặt người gần bên, vì đó là một món quà vô giá mà ta có thể ban tặng cho người khác, khi nó được xuất phát từ đáy tim mình, mà không tốn một xu nào.

Hãy nhớ nói lời thương yêu với những người thân yêu, và phải hết sức thật lòng mình. Một nụ hôn, một vòng tay ôm, sẽ chữa lành hết mọi vết thương khi nó phát xuất từ chính con tim.

Hãy nhớ nắm tay nhau và trân quý phút giây này, vì biết rằng tất cả sẽ không ở với ta mãi mãi. Hãy có thì giờ để thương nhau, để lắng nghe nhau, và nhất là hãy chia sẻ với nhau những ý tưởng đẹp nhất trong tâm mình.

Và nhất là bạn hãy luôn nhớ rằng, cuộc sống không phải được đo lường bằng con số hơi thở của mình, mà bằng những giây phút kỳ diệu trong cuộc đời đã mang hơi thở ấy bay cao.”

Lấy từ Internet

 

THIÊN CHÚA QUAN PHÒNG

THIÊN CHÚA QUAN PHÒNG

Có một nhà hiền triết quan sát cơn gió thổi qua đồng cỏ.  Khi cơn gió nổi lên, cây cỏ đều ngả theo chiều của gió.  Khi cơn gió tạm ngưng thì cây cỏ lại ngóc đầu lên.  Khi con gió đổi chiều, thì cây cỏ cũng đổi chiều

Thấy vậy, nhà hiền triết bèn nói: Cây cỏ là chúng ta, còn cơn gió là số mệnh.  Số mệnh không bao giờ để cho chúng ta nghỉ yên, nó thổi tung và thổi tung mãi, khi thì thổi bên trái, lúc thì thổi bên phải.  Điều quan trọng là phải biết nương theo chiều gió.  Đừng chống cự, đừng phản kháng, nhưng hãy biết gắn bó với số mệnh của mình, bởi vì số mệnh là chính Thiên Chúa, là thánh ý của Ngài.

Từ đồng cỏ, nhà hiền triết ghé thăm một người bạn quen.  Thoạt khi tới cửa, thì con chó sủa vang, đứa bé đang chơi ngoài sân, nhìn thấy người lạ, bèn chạy đi nép mình vào vòng tay người mẹ.  Nhà hiền triết càng tiến tới, thì đứa trẻ níu chặt lấy đôi tay người mẹ.

Thấy vậy, nhà hiền triết bèn nói: Đứa trẻ sợ hãi là chúng ta.  Người lạ mặt là số mệnh, còn vòng tay chở che là Thiên Chúa.  Số mệnh nhiều khi âm thầm từng bước tiến lại gần, khiến chúng ta sợ hãi, thế nhưng điều khôn ngoan là hãy noi gương bắt chước đứa trẻ, biết nép mình vào vòng tay uy quyền của Thiên Chúa.   Tương lai càng đen tối, chúng ta lại càng phải níu chặt bàn tay của Thiên Chúa.  Sống dưới cái nhìn trìu mến của Ngài, chúng ta sẽ không còn sợ hãi.  Nếu đứa trẻ nhận ra tôi là một người quen, thì nó sẽ vui mừng chạy ra và ôm lấy.  Cũng vậy, số mệnh dù có bẽ bàng thì cũng là thánh ý của Thiên Chúa.  Nếu chúng ta có một đức tin mạnh mẽ, chúng ta sẽ sẵn sàng đón nhận không kêu ca oán trách.

Thế nhưng có một người đàn bà đã lên tiếng phản đối: Làm sao tôi có thể giơ tay đón nhận số mệnh, vì nó như những ngọn roi quất vào cuộc đời tôi.  Chồng tôi bị chết trong chiến tranh, và bây giờ, mười mấy năm sau, đứa con trai tôi cũng lại chết trong chiến tranh.

Nhà hiền triết thông cảm với những đau khổ ấy, nhưng rồi ông đã trả lời bằng một giọng đầy an ủi khích lệ:  Tôi biết, rất có thể chúng ta sẽ phải khóc dưới sức nặng của thập giá, nhưng chúng ta không có quyền chất vấn Thiên Chúa.  Chúng ta phải tin rằng Đấng đã dựng nên những bông hoa xinh tươi, những trái cây ngon ngọt, Đấng đã cẩn thận sắp xếp từng nguyên tử của vật chất, thì Ngài sẽ chẳng để cuộc sống con người bị bất ổn.

************************

Con người đau khổ, đó là điều dĩ nhiên.  Nhưng đau khổ không phải là một cái gì thừa thãi và vô ích, chính Chúa Giêsu cũng đã từng chịu đau khổ, nhưng Ngài đã mặc cho những đau khổ ấy một giá trị tuyệt vời và đã dùng những đau khổ ấy để cứu chuộc chúng ta.  Rồi Ngài lại phán: Phúc cho những ai than khóc vì Nước Trời là của họ.  Vậy thì chị là người đang đau khổ, Nước Trời là của chị đó.  Nếu không có Nước Trời, thì tôi sẽ lên tiếng kêu gọi mọi người đau khổ hãy đoàn kết, chống lại số mệnh, chống lại Thiên Chúa.  Nhưng Nước Trời còn đó, và Thiên Chúa đang chờ đón chúng ta.  Hãy để Ngài tẩy rửa và thanh luyện chúng ta nên xứng đáng với hạnh phúc tuyệt vời ấy.

Đừng hỏi tại sao Thiên Chúa lại dựng nên bông hồng có những gai nhọn, Ngài có chương trình của Ngài.  Hãy để cho Ngài uốn nắn và hành động.  Thái độ khôn ngoan nhất là biết nép mình vào bàn tay Chúa.  Nếu cây cối chống trả với ngọn gió, nó sẽ bị gẫy đổ, nếu chúng ta chống trả với Thiên Chúa, đời chúng ta sẽ chồng chất thêm nhiều khổ đau, dù cuộc đời chúng ta có sóng gió, thì cũng hãy tin tưởng vào Thiên Chúa vì trước mặt Thiên Chúa, chúng ta đáng giá hơn chim trời và hơn hoa cỏ đồng nội rất nhiều.

************************

Lời Kinh Của Người Đau Khổ

Lạy Chúa,
Con cầu xin ơn mạnh mẽ
để thành đạt trong cuộc đời,
Chúa lại làm cho con ra yếu ớt
để biết vâng lời khiêm hạ…

Con cầu xin có sức khỏe
để mong thực hiện những công trình lớn lao,
Chúa lại cho con chịu tàn tật
để chỉ làm những việc nhỏ tốt lành…

Con cầu xin được giàu sang
để sống sung sướng thoải mái,
Chúa lại cho con nghèo nàn
để học biết thế nào là khôn ngoan…

Con cầu xin được có uy quyền
để mọi người phải kính nể ca ngợi,
Chúa lại cho con sự thấp hèn
để con biết con cần Chúa…

Con xin gì cũng chẳng được theo ý muốn.
Nhưng những điều con đáng phải mơ ước,
Mà con không hề biết thốt lên lời cầu xin,
Thì Chúa lại đã ban cho con
thật dư đầy từ lâu…

Lạy Chúa,
Hóa ra, con lại là người hơn hết trên đời này,
Bởi con đã nhận được ơn Chúa vô vàn…

From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ Mai gởi

 

AI ĐANG THỐNG TRỊ TÂM HỒN TÔI?

AI ĐANG THỐNG TRỊ TÂM HỒN TÔI?

Tác giả: Lm. Inhaxio Trần Ngà

Suy niệm Tin Mừng Mat-thêu (6, 24-34)

Lòng tham lên ngôi thống trị

Ai đang điều khiển bản thân ta? Đó là một câu hỏi không dễ trả lời.

Khi vừa mới nghe qua câu hỏi nầy, nhiều người sẽ vội đáp: Tất nhiên là lương tri tôi, lý trí tôi đang điều khiển tôi. Tuy nhiên, thực tế cho thấy là không hẳn như thế.

Có nhiều thứ quyền lực đang thống trị và điều khiển bản thân ta mà chính ta cũng không hay biết.

Nơi người nầy, có thể là những ham muốn nhục dục đang thống trị; nơi người kia, có thể là sự khao khát danh vọng đang nắm quyền chỉ huy…

Nhưng có lẽ quyền lực lớn lao và mạnh mẽ hơn hết đang thống trị nhiều người, đó là lòng tham lam.

Khi lòng tham đã lên ngôi, đã nắm quyền thống trị ai, thì lý trí, lương tri của người đó mất hết quyền chỉ huy bản thân mình.

Một số bác sĩ thừa biết thế nào là “lương y như từ mẫu”, nhưng lòng tham đang ngự trị trong tâm hồn các vị nầy đã thôi thúc các vị thực hiện những hành vi man trá (như nhân bản xét nghiệm chẳng hạn) tác hại đến sức khoẻ bệnh nhân để trục lợi hoặc từ chối cấp cứu nạn nhân không tiền đang lúc nguy kịch, khiến họ phải chết cách oan ức.

Không ít thầy cô thừa biết thế nào là đạo đức nhà giáo, nhưng lòng tham đang thống trị trong lòng một số thầy cô đã chỉ đạo cho các vị nầy bắt học sinh phải học thêm liên tục, để tăng thêm thu nhập cho mình, bất chấp các em phải học ngày học đêm, vừa cạn kiệt túi tiền, vừa khiến cho đầu óc tê liệt, thân xác rã rời!

Không ít vị lãnh đạo (như Chủ Tịch Nước Trương Tấn Sang gọi là cả một bầy sâu) thừa biết rằng tham ô là quốc nạn, là tội ác đối với dân tộc, nhưng lòng tham đang ngự trị trong tâm hồn những vị nầy sai khiến họ phải tiếp tục vơ vét không biết điểm dừng.

Nói chung, lòng tham đang thống trị trong tâm hồn con người đã xui khiến, xô đẩy người ta thực hành đủ mọi hình thức tham ô, trấn lột, chiếm đoạt, cướp bóc, giành giựt, xâm lấn, lường gạt, giết người cướp của, kể cả buôn người xuyên biên giới… để thu lợi về cho mình, bất chấp thiệt thòi, mất mát, đau thương, khốn cùng… của bao nhiêu người khác.

Điều đáng sợ là trong xã hội ngày nay, lòng tham ngày càng thắng thế. Lòng tham từng bước truất phế lương tri, lý trí, lòng đạo đức nơi rất nhiều người để chiếm lấy vị trí thống trị trong tâm hồn và đời sống của họ; và điều đáng sợ hơn nữa là hầu như không có một quyền lực nào – ngoại trừ quyền lực của Tin Mừng, của điều thiện – có thể lật đổ, truất phế lòng tham để cho lòng đạo đức và lương tri được lên ngôi.

Qua trích đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su cảnh báo rằng nếu chúng ta để cho lòng tham thống trị là chúng ta đã truất phế Chúa ra khỏi tâm hồn và khỏi cuộc đời mình. Ngài nói: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được.” (Mat-thêu 6,24)
Một khi đã truất phế Thiên Chúa, lật đổ chân thiện mỹ, để cho lòng tham lên ngôi, thì cuộc sống con người sẽ sa đoạ và đau thương.

Chúa Giê-su kêu gọi truất phế lòng tham.

Chúa Giê-su khuyến khích nhân loại đừng vơ vét tài sản vật chất khi Ngài tuyên bố: “Phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó” (Mt 5,3) và đừng tích trữ “kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm cho hư nát, nơi kẻ trộm khoét vách lấy đi, nhưng hãy tích trữ cho mình kho tàng trên trời…” (Mt 6, 19)

Chúa Giê-su hô hào nhân loại lật đổ, truất phế sự thống trị của lòng tham khi Ngài răn dạy: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam…” (Lc 12, 15); khi Ngài cảnh báo người phú hộ chỉ biết lo tích luỹ của cải đời nầy mà không biết chia sẻ cho tha nhân rằng: “Đồ ngốc! Nội đêm nay ta đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi tích trữ sẽ về tay ai?” (Lc 12,20)

Chúa Giê-su hô hào nhân loại lật đổ, truất phế sự thống trị của lòng tham khi Ngài kết án những người sống xa hoa như ông nhà giàu chỉ biết vui hưởng của cải dư dật của mình mà không chia sớt cho La-da-rô nghèo khổ (trong Tin Mừng Luca 16, 19-26) thì sẽ phải chịu cực hình đời đời trong hoả ngục.

Và đặc biệt, Chúa Giê-su kêu mời mọi người hãy đánh đổi, đổi một lấy trăm triệu lần hơn, bằng cách chia sớt tài sản đời nầy cho người nghèo khổ để mai sau được vui hưởng hạnh phúc thiên đàng, qua lời Ngài nói: “Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm cho mình những những túi tiền, những kho tàng bất hoại trên trời…” (Lc 12,33)

Lạy Chúa Giê-su,

Xin cho chúng con kiên quyết lật đổ lòng tham, không để nó thống trị tâm hồn và cuộc sống chúng con và dứt khoát tôn Chúa lên làm vua thống trị đời mình, biết vâng lời Chúa dạy để tích luỹ kho tàng trên trời bằng cách rộng tay chia sẻ những gì mình có với anh chị em chung quanh. Amen.

Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà

 

Từ Ukraina, Việt Nam sẽ học hỏi và cải cách những gì?

Từ Ukraina, Việt Nam sẽ học hỏi và cải cách những gì?

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2014-02-24

02242014-maclam.mp3

000_TS-Par7803470-600.jpg

Bà Catherine Ashton, đại diện ngoại giao châu Âu đang chụp hình tại khu tưởng niệm tạm thời những người thiệt mạng do biểu tình chống chính phủ tại Quảng trường Độc lập, Kiev hôm 24/2/2014

AFP photo

Khi giới cầm súng của Ukraina từ chối không tiếp tục bắn vào người dân theo lệnh của Tổng thống Viktor Yanukovych nữa thì cuộc cờ giữa dân chúng và chính phủ coi như kết thúc. Người luôn luôn chấp nhận những yêu cầu của Nga trước khi lắng nghe nguyện vọng của dân chúng đã phải rời bỏ dinh thự riêng cực kỳ xa hoa của mình để chạy trốn người dân. Viktor Yanukovych biết rõ nếu bị bắt sinh mạng của ông sẽ không ai bảo đảm, kể cả mẫu quốc Nga hay người bạn Putin.

Sự chọn lựa Nga, khước từ liên minh EU của Viktor Yanukovych đã dấy lên lòng căm phẫn của người dân Ukraina vốn luôn rất nhạy cảm với Nga, đất nước từng chôn vùi dân chúng Ukraina trong triểu đại Stalin qua cuộc tắm máu người dân nước này vào thập niên 30 đã làm cho dân chúng không còn sợ hãi họng súng của chính phủ.

Ba tháng kéo dài tranh đấu trong băng giá đã tôi luyện ý chí dân chúng cho thành quả hôm nay: độc tài phải ra đi nhường sân chơi lại cho những người yêu tự do dân chủ.

Những hứa hẹn về kinh tế của Nga không mê hoặc được dân chúng Ukraina vì họ biết rằng trong thế giới toàn cầu ngày nay đất nước này sẽ được vực dậy nếu có quyết tâm chuyển đổi nền kinh tế một cách khôn ngoan và Nga không phải là nước duy nhất có thể làm bạn với Ukraina khi bên cạnh nó một khối EU hùng mạnh sẵn sàng đưa tay nắm chặt người láng giềng đang tự cô lập mình bởi những món tiền mà tổng thống Viktor Yanukovych nhận được.

” Đúng là vấn đề Ukcraina với Việt Nam là khá giống nhau. Chính quyền đi thân với mẫu quốc chứ còn nhân dân thì người ta lại muốn tự do đi với phương tây thế cho nên hai bên mâu thuẫn, Việt Nam cũng đang y như thế.
– Tiến sĩ Hà Sĩ Phu “

Tiến sĩ Hà Sĩ Phu nhận xét biến cố này qua so sánh Ukraina với Việt Nam, một đất nước theo ông đang từ chối cơ hội tốt hơn để nhận về phần quà cho một thiểu số cầm quyền:

Đúng là vấn đề Ukcraina với Việt Nam là khá giống nhau. Chính quyền đi thân với mẫu quốc chứ còn nhân dân thì người ta lại muốn tự do đi với phương tây thế cho nên hai bên mâu thuẫn, Việt Nam cũng đang y như thế. Tóm lại mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam mà đại diện là những tầng lớp dân chủ, trí thức, giới trẻ và giới tiến bộ trong nhân dân với đảng. Nhân dân ở đây phải được hiểu là giới tiên tiến chứ số đông thì chỉ là con số chưa có định hướng.

Người ta bảo nhân dân là một dãy số 0 nhưng khi nó đứng sau một con số có nghĩa thì những số 0 ấy trở thành có nghĩa. Rõ ràng có mâu thuẫn giữa nhân dân và đảng. Cái quyết tâm giữ cho kỳ được cái độc tài, đặc quyền đặc lợi của Việt Nam nó còn mạnh hơn cả Ukraina nữa.

Blogger Mẹ Nấm cùng quan điểm với TS Hà Sĩ Phu khi chị cho rằng Việt Nam không hề cô độc sao phải tự lừa dối mình bằng chính sách ổn định chính trị, chị nói:

Việt Nam có rất nhiều sự lựa chọn chứ không phải chỉ có một con đường là ngả về phía Trung Quốc vì thật sự ngả về phía Trung Quốc không còn là lợi ích nhà nước hay quốc gia nữa mà là lợi ích và sự tồn vong của đảng cộng sản. Với cái thế cân bằng hiện nay mà Mỹ và các nước khác đã mở ra cho Việt Nam thì không thể dùng lý luận là nước yếu hay nhỏ đề mà thần phục Trung Quốc. Phải có thái độ dứt khoát và rõ ràng các vấn đề trên Biển Đông, biên giới hay vấn đề tiểu ngạch hay mậu dịch. Đừng sử dụng tiểu xảo với thế giới, cứ làm đàng hoàng thì Việt Nam chắc chắn sẽ có cửa đề thấy sự thay đổi.

Yều tố Trung Quốc đã và đang chia cắt chính quyền với người dân, tuy nhiên đối với nông dân thì mối quan ngại của họ vẫn là đất đai và hy vọng đó đã tiêu tan khi bản hiến pháp mới vẫn không thay đổi những lề luật cơ bản khi viết rằng “đất đai là sở hữu toàn dân do nhà nước quản lý”.

Ông Trần Văn Huỳnh, cha của người tù nhân lương tâm Trần Huỳnh Duy Thức cho rằng sai lầm quan trọng của nhà nước rất nhiều tuy nhiên làm yên dân trước tiên thì không gì tốt hơn là cải tổ luật đất đai, ông nói:

Rõ ràng là có những sai lầm trong vấn đề quản lý nhà nước và sửa đổi những sai lầm đó thì tôi thấy rằng đó là việc cần phải làm còn nếu không thì hậu quả thế nào thì không biết đò là quy luật. Hiện giờ trong nội bộ đảng cầm quyền ai cũng thấy điều đó. Tôi cho rằng nếu mà khắc phục những sai lầm đó thì sẽ tránh được tình trạng Ukraina. Phải thấy cái nào lớn hơn, cái nào liên quan đến lợi ích tối thượng của đất nước và dân tộc. Tôi cho rằng khi luật đất đai được thông qua thì sẽ có thể giảm tệ nạn tham nhũng mà chính tệ nạn đó là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ tất yếu không thể tránh khỏi.

Đừng xem thường tiếng nói người dân

000_Par7803599-250.jpg

Người dân Ukraine mang một cây thánh giá lớn tưởng niệm cho các nạn nhân của cuộc xung đột gần đây giữa người biểu tình và cảnh sát tại Kiev. Ảnh chụp hôm 24/2/2014. AFP photo

Blogger Mẹ Nấm người từng được hãng tin CNN phỏng vấn vì các hoạt động dân chủ, nhân quyền thì cho rằng bên cạnh yếu tố Trung Quốc việc nhà nước cần làm hiện nay là lắng nghe tiếng nói của người dân thông qua các cá nhân bất đồng chính kiến. Lắng nghe sẽ tránh được bài học của Tổng thống Viktor Yanukovych khi xem thường tiếng nói của người dân:

Tôi nghĩ việc đầu tiên dễ nhất mà nhà nước có thể làm đó là tránh việc chụp mũ và bắt những người bất đồng chính kiến vì những lý do khác nhau. Có sửa đổi hay không thì nó phải bắt nguồn từ sự lắng nghe. Cách dễ nhất có thể học được tù Ukraina đó là lắng nghe nguyện vọng của người dân.

Riêng luật sư Lê Thị Công Nhân qua kinh nghiệm đấu tranh của mình cho rằng báo chí tư nhân xuất hiện trong lúc này sẽ phần nào rút bớt những bức xúc trong dư luận quần chúng, LS cho biết:

Cộng sản Việt Nam hiện nay chắc chắn không thể cùng một lúc giải quyết được nhiều việc đúng như anh nói tại vì đảng quá bừa bộn và trên mọi lĩnh vực chúng ta đều thấy. Theo tôi nghĩ thì trước mắt phải thả bớt áp lực tinh thần người dân đã bị dồn nén suốt nhiều năm qua bằng cách thực hiện việc tự do ngôn luận mà cụ thể là cho Việt Nam có được nền báo chí tư nhân. Tuy chỉ là tinh thần thôi nhưng các diễn biến trong đời sống của đất nước nó sẽ bộc lộ hết bản chất thật.

Bên cạnh tự do ngôn luận thì kinh tế Việt Nam cũng phải được nhìn lại một cách khách quan đúng theo quy luật phát triển của một nền kinh tế lành mạnh. Theo LS Lê Thị Công Nhân muốn thế thì Việt Nam phải can đảm triệt bỏ các doanh nghiệp quốc doanh vốn đang giết chết dần nền kinh tế Việt Nam qua sự bòn rút, thâm lạm và đặt lợi ích nhóm cao hơn lợi ích quốc gia của các tống công ty, tập đoàn nhà nước

Khía cạnh thứ hai đó là buông tất cả những doanh nghiệp nhà nước dưới mọi hình thức dù là tổng công ty, hay là tập đoàn như là cái đài truyền hình Việt Nam chằng hạn. Buông tất cả những cái đó để cho giới tư nhân người ta làm mà ở Việt Nam người ta gọi là cổ phần hóa chính là tư nhân hóa tất cả lĩnh vực kinh tế mà hiện nay nhà nước sống chết nắm lấy một cách hết sức mù quáng.

” Có sửa đổi hay không thì nó phải bắt nguồn từ sự lắng nghe. Cách dễ nhất có thể học được tù Ukraina đó là lắng nghe nguyện vọng của người dân.
– Blogger Mẹ Nấm “

Doanh nghiệp nhà nước đã bóp chết nền kinh tế bởi vì đã giao cho doanh nghiệp nhà nước quá nhiều đặc quyền, đặc lợi trong khi hiệu quả kinh tế gần như là thấp kém thậm chí là âm trong rất nhiều doanh nghiệp nhà nước.

Sau khi Liên sô sụp đổ, Việt Nam đổi mới để tồn tại. Với cuộc cách mạng Mùa xuân Ả Rập Việt Nam siết chặt mạng lưới Internet, bắt giam blogger, nhà báo, dân oan, những người đấu tranh đòi dân chủ và nhân quyền.

Ukraina là lần thứ ba và người dân Việt Nam lại rất tin câu nói của ông bà để lại “nhất quá tam ba bận”.

Liệu bận thứ ba Việt Nam sẽ có quyết định như thế nào và người dân Việt Nam có xứng đáng để được lãnh đạo lắng nghe thực sự?