Thánh Thể là bí tích của tình yêu thương, diễn tả tột đỉnh hành động cứu độ của Thiên Chúa

Thánh Thể là bí tích của tình yêu thương, diễn tả tột đỉnh hành động cứu độ của Thiên Chúa

Thánh Thể là bí tích của tình yêu thương làm nảy sinh ra lộ trình của đức tin, sự hiệp thông và chứng tá kitô. Cùng với bí tích Rửa Tội và Thêm Sức nó làm thành suối nguồn cuộc sống của chính Giáo Hội.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu trong buổi gặp gỡ chung sáng thứ tư 5-2-2014.

Tham dự buổi tiếp kiến cũng có 90 Giám Mục Ba Lan đang viếng mộ các thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và thăm Tòa Thánh. Sáng thứ tư 5-2-2014 trời Roma mưa khá lớn, nhưng nhiều tín hữu vẫn can đảm mặc áo mưa hay che dù kiên nhẫn tham dự buổi tiếp kiến. Nhiều người chạy vào trú dưới hai cánh hành lang của quảng trường và từ đó theo dõi buổi tiếp kiến trên hai màn truyền hình khổng lồ. Nhưng khi thấy xe díp của Đức Giáo Hoàng đi qua các lối chính chào dân chúng, họ lại chạy ra.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha trình bầy giáo lý về Bí tích Thánh Thể, là bí tích trung tâm của ”việc khai tâm kitô”. Đức Thánh Cha nói: điều chúng ta trông thấy khi tụ tập nhau cử hành bí tích Thánh Thể, khiến cho chúng ta trực giác được điều chúng ta sắp sống. Và ngài giải thích ý nghĩa các yếu tố của việc cử hành như sau:

Ở trung tâm không gian dành cho viỆc cử hành có bàn thờ, là một cái bàn phủ khăn, và điều này khiến chúng ta nghĩ tới một bữa tiệc. Trên bàn có thánh giá ám chỉ rằng trên bàn thờ đó được cử hành hiến tế của Chúa Kitô: chính Người là lương thực thiêng liêng mà chúng ta nhận dưới hình bánh và rượu. Bên cạnh bàn thờ có giá sách, nghĩa là nơi công bố Lời Chúa: điều này ám chỉ rằng chúng ta tụ họp nhau ở đây để lắng nghe Chúa nói qua Thánh Kinh, và như thế lương thực mà chúng ta lãnh nhận cũng là Lời Người.

Lời và Bánh trong Thánh Lễ trở thành một, như trong Bữa Tiệc Ly, khi tất cả các lời của Chúa Giêsu, tất cả các dấu chỉ Người đã làm, được cô đọng trong cử chỉ bẻ bánh và dâng chén, diễn tả trước hiến tế thập giá, và trong các lời: ”Các con hãy cầm lấy, hãy ăn, này là Mình Thầy… Hãy cầm lấy, hãy uống, này là Máu Thầy”. Cử chỉ của Chúa Giêsu đã làm trong Bữa Tiệc Ly là lời tạ ơn tột cùng Thiên Chúa Cha vì tình yêu của Người, vì lòng thương xót của Người. ”Tạ ơn” trong tiếng Hy lạp gọi là ”Eucharistia”. Đó, tại sao từ Eucaristia tóm tắt tất cả cử chỉ ấy, là cử chỉ của Thiên Chúa và cũng là của con người, cử chỉ của Chúa Giêsu Kitô, là Thiên Chúa thật và là Người thật.

Như vậy, việc cử hành Thánh Thể hơn là một bữa tiệc thường: đó là việc tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Chúa Giêsu, mầu nhiệm chính của ơn cứu độ. ”Tưởng niệm” không chỉ có nghĩa là nhớ lại, mà muốn nói rằng mỗi khi chúng ta cử hành Bí Tích này là chúng ta tham dự vào mầu nhiệm cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô. Đức Thánh Cha quảng diễn thêm về Bí tích Thánh Thể như sau:

Bí tích Thánh Thể là tột đỉnh hành động cứu độ của Thiên Chúa: thật thế, khi trở thành bánh bẻ ra cho chúng ta, Chúa Giêsu tuôn đổ trên chúng ta tất cả lòng xót thương và tình yêu của Người, đến độ canh tân con tim, cuộc sống, và kiểu tương quan của chúng ta với Người và các anh chị em khác.

Chính vì thế mà bình thường khi chúng ta tới gần Bí tích này, chúng ta nói ”lãnh nhận sự hiệp thông”, “làm sự hiệp thông”. Trong quyền năng của Chúa Thánh Thần, sự tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể khiến cho chúng ta đồng hình đạng với Chúa Kitô trong cách thế duy nhất và sâu xa, bằng cách làm cho chúng ta hưởng nếm trước ngay từ bây giờ sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa Cha, là đặc tích của bữa tiệc thiên quốc, nơi cùng với tất cả các Thánh chúng ta sẽ có niềm vui không thể tưởng tượng nổi chiêm ngưỡng Thiên Chúa mặt giáp mặt.

Anh chị em rất thân mến, chúng ta sẽ không bao giờ cảm tạ Chúa đủ vì ơn Người ban cho chúng ta với bí tích Thánh Thể. Đó là một ơn thật lớn lao và vì thế thật là quan trọng đi tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật, đi lễ không phải chỉ để cầu nguyện, mà để nhận sự Hiệp Thông, nhận lấy bánh là Mình của Chúa Giêsu Kitô, cứu rỗi chúng ta, tha tội cho chúng ta, kết hiệp chúng ta với Thiên Chúa Cha. Thật là đẹp, khi làm điều này. Và mỗi Chúa Nhật chúng ta hãy đi Lễ, bởi vì đó chính là ngày sống lại của Chúa. Vì vậy Chúa Nhật quan trọng đối với chúng ta đến thế. Và với bí tích Thánh Thể chúng ta cảm thấy sự tùy thuộc vào Giáo Hội, vào dân Chúa, vào thân mình của Chúa, vào Chúa Giêsu Kitô. Và chúng ta sẽ không bao giờ ngừng tiếp nhận tất cả giá trị và sự phong phú của nó. Như thế, chúng ta hãy xin cho Bí tích này có thể tiếp tục duy trì sống động sự hiện diện của Người trong Giáo Hội và nhào nặn các cộng đoàn của chúng ta trong tình bác ái và sự hiệp thông, theo con tim của Thiên Chúa Cha. Và điều này được thực hiện trong suốt cuộc sống, nhưng nó được bắt đầu với việc rước lễ lần đầu. Thật là quan trọng việc các trẻ em chuẩn bị tốt cho việc Rước Lễ lần đầu, và ước chi đừng có trẻ em nào không làm điều đó, bởi vì đó là bước đầu tiên của việc thuộc về Chúa Giêsu Kitô một cách mạnh mẽ, sau bí tích Rửa Tội và bí tích Thêm Sức.

Đức Thánh Cha đã chào tín hữu hiện diện tại quảng trường và chúc mọi người những ngày hành hương tươi vui. Chào các tín hữu và các Giám Mục Ba Lan Đức Thánh Cha nói: Anh em thân mến xin hãy chuyển lời chào thăm của tôi tới các linh mục, tu sĩ, giáo dân nam nữ và toàn dân Ba Lan. Tôi bảo đảm với anh em lời cầu nguyện của tôi cho anh em và những người Chúa trao phó cho sự săn sóc của anh em. Xin anh em cũng hãy cầu nguyện cho tôi. Xin Chúa chúc lành cho anh em và Giáo Hội tại Ba Lan.

Ngoài ra, Đức Thánh Cha cũng chào một nhóm Giám Muc tham dự một cuộc họp do cộng đoàn thánh Egidio tổ chức, và các linh mục đang tham dự tuần hội học về việc đào tạo nhân bản các ứng viên linh mục, do Đại học giáo hoàng Thánh Giá tổ chức. Ngài cầu chúc chuyến viếng thăm mộ thánh Phêrô là dịp canh tân dấn thân truyền giáo và loan báo Tin Mừng, cách riêng cho những người rốt hết và những người nghèo.

Ngài cũng chào các sĩ quan và binh sĩ Lữ đoàn Sassari và hiệp hội các khách sạn. Ban quân nhạc của Lữ đoàn đã trình tấu nhiều bài tạo bầu khí tươi vui hùng tráng cho buổi tiếp kiến.

Chào các người đau yếu Đức Thánh Cha nói vì trời mưa nên họ tụ tập trong đại thính đường Phaolô VI và ngài đã gặp họ trước khi bắt đầu buổi tiếp kiến. Đức Thánh Cha nhắc cho mọi người biết hôm qua là lễ nhớ thánh nữ Agata trinh nữ tử đạo. Ngài cầu mong nhân đức anh hùng của thánh nữ giúp các bạn trẻ hiểu tầm quan trọng sự trong sạch của đức khiết tịnh. Ngài xin thánh nữ giúp các anh chị em đau yếu chấp nhân thánh giá trong sự kết hiệp thiêng liêng với Thánh Tâm Chúa Kitô. Đức Thánh Cha nhắn nhủ các cặp vợ chồng mới cưới hiểu biết vai trò của nữ giới trong cuộc sống gia đình.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Chuyện những người tử tế

Chuyện những người tử tế

Việt-Long, viết lại từ news.yahoo.com/blog
2014-02-04

tyler

Tyler Gedelian, manager tiệm Goodwill ở Monroe, Michigan

Courtesy of aol.com/news

Là quản trị viên của tiệm bán hàng từ thiện Goodwill ở Monroe, Michigan, Tyler Gedelian thường kiểm soát những quần áo cũ của khách đem hiến tặng, để tìm tiền lẻ còn sót trong đó, đem nạp vào quỹ của công ty.

Thường thì anh chỉ thấy những tiền xu, đôi khi dăm đồng bạc lẻ, những dúm biên lai hay tờ ghi hàng vặt cần mua, nhất là những giấy chùi tay Kleenex, trong những quần áo thường là của người già, được con cháu, họ hàng đem hiến tặng cho Goodwill.

Nhưng hôm thứ tư (29 tháng 1, 2014), Gedelian cùng người đồng nghiệp làm chung, Laura Pietscher, không thấy những thứ đó, mà là một chiếc phong bì màu xanh, nằm trong túi một bộ suit cũ và một chiếc áo khoác ngoài.

Gedelian cho biết:”Tôi được cho rất nhiều quần áo hiến tặng, và khi kiểm soát qua các túi như thường lệ, tôi thấy một phong bì màu xanh ló ra khỏi túi một chiếc áo choàng. Lấy ra, tôi vẫn nghĩ trong đó toàn là giấy rác “

Anh nói tiếp với báo Detroit News :”Nhưng khi mở phong bì, thì lạ thay, tôi thấy nhiều xấp giấy 100 đô la cột riêng với nhau.”

Tổng cộng đếm được  43 ngàn đô la. Không chút do dự, Gedelian gọi cảnh sát.

Điều tôi lo nhất là làm sao trả lại tiền cho đúng người chủ của nó” Người quản trị viên nói với báo Monroe Evening News, “Tôi không thể tưởng tượng mình ra sao nếu mất món tiền lớn như vậy. Tôi thấy áy náy quá khi giữ số tiền lớn như vậy của người khác”

May là tìm được một cái bóp trong những xấp tiến giấy trăm đó, cảnh sát tìm ra ngay người chủ sở hữu món tiền. Người này, yêu cầu không nêu tên, cho biết ông dọn dẹp để bỏ bớt đồ đạc trong tủ của một thân nhân cao niên, và đem quần áo cũ trong đó để cho Goodwill, không hề biết có tiền trong những quần áo ấy.  Ông tỏ ra kinh ngạc khi biết người thân có nhiều

money

Xấp tiền 43 ngàn đô la

tiền cất giấu như vậy, và nói Gedelian quả thật rất lương thiện khi tìm ra số tiền.

”Tôi thấy những người ở Goodwil đó thật đáng hãnh diện. Tôi cảm thấy rất vui khi có những người như vậy ngoài xã hội, nhất là trong thời gian hiện tại”

Ông nói sẽ sớm đích thân đến cám ơn Gedelian và Pietcher. “Thời buổi này không có nhiều những người lương thiện như vậy. Tôi muốn cảm tạ họ từ đáy lòng. Trong thế giới mà chúng ta đang sống ngày nay, ta cần có thêm nhiều những con người và đức tính như thế.”

Hồi năm ngoái, 2012, có một ông đem tặng đôi giày cũ cho Goodwill mà không biết vợ ông đã dấu tiền tiết kiệm cả đời, khoảng 3 ngàn 300 đô la, trong đôi giày đó. Tiệm Goodwill để dành riêng số tiền đó ra, hy vọng chủ nhân sẽ tới lấy. Và họ đã tới.

Bên dưới bài báo, người ta gặp nhiều câu chuyện kể của người đọc, chứng tỏ những người lương thiện với tinh thần danh dự như vậy không phải là hiếm có trong thời nay, như người được lấy lại 43 ngàn đô la đã quan ngại.

Bà Lori F kể rằng người ông 92 tuổi của bà đánh rơi cái bóp ở tiệm Price Chopper cạnh bên nhà, trong đó có tất cả số tiền an sinh xã hội ông vừa đổi check lấy tiền mặt.

Một cô làm công 16 tuổi của tiệm đó nhặt được, đem đưa tới phòng dịch vụ cho khách hàng. Với số lương nhỏ nhoi của cô, cô bé nếu có rút lấy một ít tiền trong đó thì cũng chẳng ai biết, nhưng cô không làm thế. Tiệm Price Chopper gọi điện thoại cho người ông của bà Lori, lúc đó vừa về tới nhà và nhận ra bị mất bóp. Ông cụ cảm kích sự lương thiện của cô gái, và dù thu nhập nhỏ nhoi bằng tiền an sinh xã hội, ông rút một tờ 50 đô la ra cho cô. Cô không nhận, nhưng ông cụ nhất định phải đưa, không chấp nhận sự từ chối. Bà Lori kết luận, ông cụ và cô gái đều là những người đáng được luôn luôn kính trọng.

Một người với bút danh Seen Enough kể chuyện ông nhận cú điện thoại từ một người lượm được cái bóp của vợ ông rơi bên đường. Bà vợ để chiếc bóp trên nóc xe lúc rời khỏi thương xá, rồi quên, cứ thế lái đi. Điều thú vị, ngoài việc về người lương thiện đã nhặt được nó, là chiếc bóp nằm trên mui xe chạy tới hơn 2 miles (hơn 3 km) rồi mới rớt xuống đường, bà không hề hay biết. Chiếc bóp được trả lại với tất cả tiền mặt và thẻ tín dụng, không sót một đồng. Seen Enough viết rằng không một ai quên đi những điều tử tế, và ông luôn luôn nhớ lại chuyện này mỗi khi lái xe ngang qua nơi bà vợ rơi bóp!

Có tới hơn 2 ngàn 200 người đọc góp chuyện quanh câu chuyện của bài báo, mỗi người kể một chuyện tương tự về lòng danh dự của mình và của người khác, khi tìm đúng người để trả lại số tiền mà người đó làm mất. Có thư nói rằng bài báo trên kể một câu chuyện với nhiều tình tiết đặc biệt khiến người ta nghĩ đó là chuyện hiếm hoi, như người mất tiền và lấy lại được cũng nghĩ như thế. Thực ra thư góp chuyện của người đọc cho thấy những con người lương thiện vẫn có mặt khắp nơi, trong mọi thời gian, tuy rằng cũng có câu chuyện kể lại về một người khoe anh ta nhặt được mấy trăm đô la trong bóp có giấy tờ, nhưng đem quăng bóp đi mà không hề tìm cách trả lại tiền cho khổ chủ. Người kể lại chuyện này cho biết anh từ bỏ và không ngó mặt người bạn kia từ khi đó.

store

Cửa tiệm Goodwill ở Monroe, Michigan

Một người đọc kể lại một câu chuyện mà qua đó cô nhắn gửi là “Phải cẩn thận khi làm việc thiện”.

Có lần Janet thấy một bà mở bóp lấy đồ gì đó, làm rơi một tờ 20 đô la xuống đất mà không biết. Cô bước tới lẳng lặng nhặt lên, đưa cho bà kia và nói bà đã làm rơi tiền. Nhưng bà nọ liền dùng cái bóp đánh cô, la lên cô là kẻ móc túi. Một bà bán hàng ngay đó chạy tới giải cứu Janet. Hai người đành cười với nhau. Janet không nói bà kia có xin lỗi hay không.

Ở trên đất Mỹ người ta phải rất thận trọng khi đi đứng gần những bà già Mỹ. Người viết bài này có lần xếp hàng chờ đưa toa thuốc ở một pharmacy, đứng sau một người thanh niên người Hispanic, người này đứng sau lưng một bà Mỹ, cách chừng hơn 1 mét. Bà này đeo một cái bóp lớn ở dưới thắt lưng, xế ra phía sau. Khi quay lại nhìn thấy người thanh niên, bà già liền trợn mắt rất dữ tợn, và xoay ngoắt cái bóp ra đằng trước…

Bạn gặp trường hợp đó bạn sẽ làm gì? Vui lòng viết email trong mục góp ý cuối bài này. Tôi sẽ kể cho bạn biết người thanh niên kia làm gì vào lúc đó.

Điều 79 và 88 được áp dụng tùy tiện’

Điều 79 và 88 được áp dụng tùy tiện’

Thứ ba, 4 tháng 2, 2014

Luật sư Sơn nói ông bị xã hội xa lánh khi bảo vệ cho thân chủ bị xử theo hai điều 79 và 88 BLHS.

Phát biểu tại Geneva, luật sư Hà Huy Sơn bày tỏ quan ngại về cách áp dụng các điều luật 79 và 88 trong Bộ Luật Hình sự (BLHS) và nói ông từng bị đe dọa.

Tham dự buổi Hội thảo về Trách nhiệm của Việt Nam trong Vai trò Thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ vào hôm 04/02/2013, Luật sư Sơn nói về những khó khăn khi đại diện cho những thân chủ trước tòa tại Việt Nam.

“Vai trò luật sư của tôi là rất hạn chế. Điều 79 và 88 hạn chế quyền bảo vệ cho người bị bắt. Không có ai tôi đại diện pháp l‎‎‎ý được tuyên vô tội.

“Một số trường hợp được trả tự do ngay tại tòa nhưng vẫn chịu án tù treo hoặc bị quản chế, hoặc bị tước đoạt một số quyền công dân.

“Theo thực tế của Việt Nam thì Hiến pháp mới năm 2013 cho rằng quyền lực nhà nước là thống nhất, kể như lập pháp, tư pháp và hành pháp không độc lập.

“Do đó các ý kiến của luật sư và người bị bắt không được xem xét khách quan và tòa khó có cơ sở độc lập với các bị cáo, ” luật sư Sơn nói.

“Chủ quan và tùy tiện”

“Nội dung hai điều 79 và 88 qui định không cụ thể và rõ ràng và công dân Việt Nam rất khó xác định gianh giới đâu là quyền của công dân và đâu là hành vi bị nhà nước cấm”

Luật sư Sơn cũng bình luận về việc hạn chế theo dõi phiên tòa xử những thân chủ của ông.

“Đối với các phiên tòa xét xử tội 79 và 88 nói xét xử là công khai nhưng thực tế là xét xử kín và người thân trong nhiều trường hợp không được dự phiên tòa.

“Nội dung hai điều 79 và 88 qui định không cụ thể và rõ ràng và công dân Việt Nam rất khó xác định gianh giới đâu là quyền của công dân và đâu là hành vi bị nhà nước cấm.

“Vì thực tế như thế nên các cơ quan tiến hành tố tụng dễ áp dụng hai điều này chủ quan và tùy tiện. Hai điều này hạn chế quyền công dân do chính Hiến Pháp Việt Nam qui định.

“Tại các phiên tòa các ý kiến bị cáo và luật sư không được hội đồng xét xử thường không chú ý quan điểm của họ và thường đồng tình với quan điểm của Viện Kiểm sát,” luật sư Sơn nói.

“Bị đe dọa”

“Đôi khi tôi bị bắt lỗi và nhắc nhở và gây khó khăn cá nhân. Khi làm các vụ án cũng có nhận các cuộc điện thoại, tin nhắn đe dọa.”

Luật sư Hà Huy Sơn cũng mô tả về điều ông gọi là “không thực hiện được đầy đủ được quyền luật sư qui định theo pháp luật.”

“Đôi khi tôi bị bắt lỗi và nhắc nhở và gây khó khăn cá nhân. Khi làm các vụ án cũng có nhận các cuộc điện thoại, tin nhắn đe dọa.

“Tôi không thể xác minh được thủ phạm là ai và không có chứng cứ để trình báo cơ quan nhà nước bảo vệ mình.

“Khi bảo vệ những bị cáo bắt vì điều 79 và 88 thì tôi bị xã hội xa lánh vì khi tiếp xúc với các luật sư như chúng tôi thì họ sợ bị ảnh hưởng.

“Những người có quyền lợi từ bộ máy nhà nước và các khách hàng có nhu cầu về tư vấn pháp luật cũng e ngại vì nếu tôi làm luật sư thì họ sẽ không được đối xử công bằng.

Trả lời câu hỏi rằng ông đã chuẩn bị tinh thần khi quay trở về Việt Nam sau sự kiện tại Geneva, luật sư Sơn nói:

Mở bằng chương trình nghe nhìn khác

“Việc tôi có sự hiện diện tại đây đã có sự quan tâm của chính quyền và tôi cũng đã nói với họ rằng tôi sang đây và sẽ nói về những thực tế về pháp luật Việt Nam và về thực tế nghề nghiệp của mình đã trải qua.

“Tôi hy vọng qua sự tiếp xúc sẽ có những điều tốt hơn với nghề nghiệp của tôi và nếu có thể mong muốn có những điều tốt hơn cho đất nước Việt Nam”

Ông Hà Huy Sơn là luật sư từng có thời gian thực tập và làm việc tại Văn phòng Luật sư Cù Huy Hà Vũ và từng bảo vệ cho nhiều nhân vật bị cáo buộc các tội theo Điều 88 và Điều 79 Bộ Luật Hình sự.

Vào tháng 11 năm 2013, luật sư Sơn Bấm gửi thư phản đối việc ông không được tham gia Đại hội Đoàn Luật sư Hà Nội.

Thư của LS Sơn viết: “Tôi cực lực phản đối hành vi xúc phạm danh dự, xâm phạm nghiêm trọng quyền, lợi ích hợp pháp của luật sư của Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP Hà Nội nhiệm kỳ VIII”.

“Tôi yêu cầu Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP Hà Nội xin lỗi công khai.”

Mồng 2 Tết: Về với Gia Đình

Mồng 2 Tết: Về với Gia Đình


Lm Giuse Nguyễn Hữu An

1/31/2014

Những ngày giáp Tết, dọc dài Quốc lộ I, xe cộ nối đuôi nhau tấp nập ngược xuôi Nam Bắc. Ai cũng hối hả, nôn nao mong sớm về với gia đình.

Tết là dịp mọi người về sum họp mái ấm tình thương. Con cháu sum vầy bên cha mẹ và anh chị em hòa hợp bên nhau. Anh chị em công nhân đi chuyến xe cuối năm chấp nhận bị nhồi nhét miễn là về đến nhà.

“Ngày đầu xuân bao người đi xa, cũng về với gia đình”. Về với mẹ cha nguồn cội gia đình hay về nhà tự thắp nén hương bày tỏ tấm lòng thành của con cháu với ông bà tổ tiên.

Tết là lễ hội của gia đình. Nhà cha mẹ trở nên ấm cúng thân thương. Con cháu quy tụ về vui mừng nói cười rộn rã. Con cháu thắp nén hương trước bàn thờ tiên tổ với tâm tình thành kính tri ân rồi thì thầm với các ngài những điều nguyện ước. Quây quần quanh ông bà cha mẹ để chúc thọ tỏ lòng thảo kính và đón nhận lời giáo huấn đầu năm.Tết còn liên kết người sống với người chết, hiệp thông con cháu với tổ tiên ông bà cha mẹ đã qua đời. Nhiều người có thói quen đi tảo mộ những ngày trước Tết. Nhiều giáo xứ tổ chức Thánh lễ tại nghĩa trang để cầu nguyện cho những người thân yêu đã an nghĩ. Người ta tin rằng dịp đầu năm ông bà tổ tiên về sum họp với con cháu. Niềm tin đó có tác dụng tích cực giúp người sống luôn nhớ tới cội nguồn, sống hiếu thảo, ăn ở xứng đáng với dòng tộc của mình. Đạo lý ngày Tết tuyệt đẹp: “Uống nước nhớ nguồn”, con cháu tỏ lòng biết ơn đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên.

Người Việt rất trọng lễ giáo, coi trọng sự bền vững gia đình với những tôn ti trật tự.Trong lễ giáo thì ân nghĩa là đầu tiên.Tôn kính tổ tiên là cách tỏ ân nghĩa đối với các vị tiên nhân,ông bà cha mẹ.Lúc các ngài còn sống,con cháu phải kính mến phụng dưỡng,vâng lời chiều ăn ở sao cho các ngài hài lòng. Khi các ngài qua đời, lo an táng tử tế, con cháu thờ kính, giỗ chạp hàng năm.Việc thờ cúng tổ tiên là mạch nước ngầm trong mát vẫn mãi nuôi sống và nối kết những tâm hồn Việt giàu tình trọng nghĩa.

Mỗi người Việt đều có một đạo rất gần gũi. Đó là Đạo Ông Bà hay Đạo Hiếu.

Đạo Hiếu là cốt tuỷ của nền văn hoá Việt Nam. Hiếu là gốc của Đức. Người ta có một trăm nết nhưng hàng đầu vẫn là Hiếu.Chưa từng có người nào hiếu thảo lại bất trung,cũng như chưa từng có người hiếu thảo nào lại bất nhân.

Cốt lõi của Hiếu bắt đầu bằng: tôn kính cha mẹ lúc còn sống, thờ phượng cha mẹ lúc qua đời. Biết ơn cha mẹ phải được nói lên bằng đạo hạnh, bằng thờ cúng giỗ chạp.Đó là nhiệm vụ thiêng liêng, là phẩm chất tối cao của con người.

Việc hiếu lễ từ ngàn xưa đã in sâu vào tâm linh mỗi người. Dân tộc Việt từ Nam chí Bắc, dù ai theo tín ngưỡng nào, dù có bài bác thần linh nhưng với ý niệm “Cây có cội,nước có nguồn”, đều coi trọng gia lễ.

Ca dao đã đúc kết lòng hiếu nghĩa ấy:

Cây có gốc mới nở ngành sanh ngọn.
Nước có nguốn mới bể rộng sông sâu.
Người ta có gốc từ đâu.
Có cha có mẹ rồi sau có mình.

Biết ơn là sống tâm tình tri ân tình cha nghĩa mẹ. Cha mẹ đã hy sinh cả đời mưa nắng cho con. Cha mẹ đã sống vì hạnh phúc của con. Lòng hiếu thảo hơn mọi lễ vật mà con cái dâng cho các ngài.

Đạo Hiếu chính là đạo của lòng biết ơn.Biết ơn trời đất,biết ơn tổ tiên ông bà cha mẹ.Ơn cha nghĩa mẹ sinh thành, ơn chín chữ, đức cù lao, ơn võng cực biển trời “Ai ai phụ, mẫu sinh ngã cù lao,dục báo chi đức,hạo thiên võng cực”. Cha mẹ sinh ra ta, nâng đỡ ta từ cung lòng,vỗ về âu yếm, nuôi dưỡng bú mớm, bồi bổ cho lớn khôn, dạy ta điều hay lẽ phải, dõi theo mỗi bước đường đời của ta, tuỳ tính tình mỗi đứa con mà khuyên dạy, che chở bảo vệ con. Ơn Đức Cha mẹ như trời biển : “Công cha như núi thái sơn,nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.

Đạo Hiếu là nền tảng văn hoá gia đình. Người Việt yêu chuộng những gì là tình, là nghĩa, coi tình nghĩa hơn lý sự “một trăm cái lý không bằng một tí cái tình”; chấp nhận “bán anh em xa mua láng giềng gần”; thích “dĩ hoà vi quý”, độ lượng “chín bỏ làm mười”; quý trọng con người, không tôn thờ của cải “người là vàng, của là ngãi; người làm ra của chứ của không làm ra người”; mong muốn anh em bốn biển một nhà “tứ hải giai huynh đệ”; đề cao tinh thần khoan dung “đánh kẻ chạy đi, ai đánh người chạy lại”. Đỉnh cao của lòng nhân ái là “thương người như thể thương thân”.

Gia đình Việt Nam có nhiều thế hệ sống với nhau “tứ đại đồng đường”. Cha mẹ già không còn lo việc đồng áng, ở nhà chăm nom giữ cháu. Bầu khí gia đình luôn ấm cúng.Tuổi thơ con trẻ được ươm đầy tiếng ầu ơ của bà, câu chuyện cổ tích của ông.Từ lúc chưa rời vành nôi, trẻ thơ đã được trau dồi cái nhân cái nghĩa. Khi lớn lên, con cái lập gia thất, cha mẹ cho miếng đất dựng căn nhà, con cháu sum vầy bên ông bà cha mẹ, tối lửa tắt đèn có nhau. Chính gia sản tinh thần gia đình là chất keo nối kết tầm hồn con người lại để rồi ai ai cũng cảm thấy “quê hương mỗi người chỉ một ….đi đâu cũng phải nhớ về” (Quê hương, Đỗ Trung Quân). Dù đi học xa, đi làm xa, đi đâu xa cũng phải về với gia đình sum họp những ngày cuối năm, ngày đầu năm.Tết là những ngày thiêng liêng ấm áp tình gia đình.

Gia đình là môi trường đào tạo con người toàn diện, tỉ mỉ và hiệu lực nhất. Dưới mái trường này, con người được đào tạo cả về kiến thức, tâm hồn, tư duy, nhân cách, lối sống để rồi có đủ bản lãnh và khả năng bước vào đời sống xã hội.Gia đình là nơi đào tạo căn bản nhất lòng đạo đức, giúp phát triển cái tài, nhân rộng cái đức cho con cái vào đời.

Đạo Hiếu chính là sợi chỉ vàng nối kết mọi người, mọi sinh hoạt gia đình. Đạo Hiếu làm nên bản sắc văn hoá người Việt. Như thế, tâm thức dân Việt rất gần với Tin mừng Đạo Chúa.

Điều răn thứ bốn dạy thảo kính cha mẹ được đặt ngay sau ba điều răn về Thiên Chúa đủ nói lên tính cách quan trọng của lòng hiếu thảo.

Sách Giảng Viên dạy: “Thảo kính cha mẹ là thảo kính Chúa, tôn kính cha mẹ là tôn kính Chúa”.

Sách Huấn ca dạy : “Hỡi các con hãy nghe cha đây.Hãy xử sự sao để được độ sinh.Vì Chúa đặt vinh quang cha trên con cái,quyền lợi mẹ, Ngài củng cố nơi đàn con.

Kẻ tôn kính cha thì bù đắp lỗi lầm và trọng kính mẹ khác gì tích trữ kho tàng.Kẻ tôn kính cha sẽ hoan lạc nơi con cái, khi khẩn nguyện, sẽ được nhậm lời.Kẻ tôn vinh cha sẽ được trường thọ, người an ủi mẹ sẽ được công nơi Chúa.Kẻ kính sợ Chúa sẽ tôn kính cha,nó sẽ phục vụ các bậc sinh thành như chủ của mình.

Hãy thảo kính cha con bằng lời nói việc làm, ngõ hầu mọi phúc lành đổ xuống trên con, vì chúc lành của cha làm cho rễ chắc, còn chúc dữ của mẹ thì nhổ cả cây.

Con đừng vênh vang về việc cha con bị nhục,vì vẻ vang gì cho con, cái nhục của cha con!

Quả thế, người ta chỉ được vẻ vang lúc cha mình được tôn kính, và con cái phải ô nhục khi mẹ mình bị khinh bỉ.

Con ơi! Hãy săn sóc cha con lúc tuổi già. Sinh thời người, chớ làm người sầu tủi. Trí khôn người có suy giảm, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người.Vì lòng hiếu thảo đối với cha sẽ không bị quên lãng, nó sẽ đền bù tội lỗi cho con.

Thiên Chúa sẽ nhớ đến con, ngày con gặp khốn khó, và các tội con sẽ biến tan, như sương muối biến ta lúc đẹp trời.Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, Kẻ khinh rể mẹ, chọc giận Đấng tạo thành ra nó” (Hc 3,1-16).

Thiên Chúa muốn con cái phải hết lòng tôn kính và thảo hiếu, đặc biệt nhấn mạnh đến công ơn sinh thành của người mẹ: “Hết lòng tôn trọng cha con và đừng quên những cơn đau đớn của mẹ. Hãy nhớ rằng nhờ họ, con đã sinh ra. Làm sao con báo đền được điều họ cho con?” (Hc 7,27-28).

Sách Tôbia cũng dạy rằng :“Hãy thảo kính mẹ con. Đừng bỏ người ngày nào trong suốt đời người. Con hãy ăn ở đẹp lòng người và đừng làm điều chi phiền lòng người cả. Hỡi con, con hãy nhớ là người đã phải trải qua bao nỗi gian lao hiểm nguy vì con khi con còn trong lòng dạ người” (Tob 4,3-4).

Thánh Phaolô khẳng định, hiếu thảo là việc làm đẹp lòng Thiên Chúa: “Con cái hãy vâng phục cha mẹ trong mọi sự, vì là điều đẹp lòng Thiên Chúa” (Col 3,20).

Chính Chúa Giêsu là mẫu mực hiếu thảo với Cha, yêu mến Cha, vâng ý Cha, luôn làm đẹp lòng Cha. Là Ngôi Hai Thiên Chúa và với thân phận con người, trong vai trò làm con, Ngài đã thực hành đạo hiếu qua đời sống vâng phục cha mẹ của mình. Thánh Kinh ghi lại rằng sau khi hoàn tất công việc của Thiên Chúa tại đền thờ Giêrusalem: “Ngài theo ông bà trở về Nazareth, và vâng phục các ngài” (Lc 2,51).

Đạo Chúa cũng là Đạo Hiếu. Hiếu với cha mẹ, đấng bậc sinh thành dưỡng dục. Hiếu với Thiên Chúa và thờ phượng Ngài, Đấng sáng tạo muôn loài, dựng nên con người giống hình ảnh Ngài. Như vậy Đạo Chúa cũng chỉ gồm chữ Hiếu.Thờ lạy Thiên Chúa là chân nhận Ngài chủ tể muôn loài, con người có bổn phận tôn vinh thờ phượng tỏ bày lòng hiếu thảo. Đối với tha nhân, Đạo Chúa dạy phải sống hiếu, phải thể hiện hiếu. Điều răn trọng nhất “kính Chúa,yêu người” là điều răn của Đạo Hiếu. Không một tôn giáo nào khai triển Đạo Hiếu cho bằng Đạo Chúa. Hiếu với Chúa, hiếu với tha nhân, đặc biệt hiếu với tổ tiên ông bà cha mẹ.Vì hiếu với Chúa nên phải tu thân tích đức để làm vui lòng Chúa, xứng đáng làm con cái của Ngài.Vì hiếu với ông bà cha mẹ nên phải sống đạo làm con, giữ nề nếp gia phong lễ nghĩa, làm vinh dự cho gia đình, gia tộc. Nếu một người con không thảo kính cha mẹ, người đó không phải là một Kitô hữu đúng nghĩa. Bởi lẽ, người ấy đã không giữ luật Thiên Chúa. Giới luật Thứ Tư còn được gọi là giới răn hiếu thảo: “Thứ bốn thảo kính cha mẹ.”. Mỗi Kitô hữu đều biết hiểu và thực hành giới răn này.

Chính từ tổ tiên ông bà cha mẹ mà người Việt có thể tìm đến với Đấng là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất. Đạo Hiếu là một điểm tựa, một bước đi khởi đầu thuận lợi, một lối đi dễ dàng, gần gũi, một mãnh đất phì nhiêu để đưa con người vào Đạo Chúa. Loan báo Tin mừng của Đạo Chúa chính là làm sáng lên những nét tinh tuý tiềm tàng trong mỗi nền văn hoá. Đối với môi trường gia đình Việt Nam, đó chính là “minh minh đức”, làm sáng cái đức sáng trong môi trường gia đình. Tin Mừng chính là nguồn nước thẩm thấu qua mọi lớp ngăn văn hóa và tôn giáo. Tin Mừng là ánh sáng cho các dân tộc (LG). Tin Mừng là ánh sáng trần gian (Ga 8,12). Tin Mừng và văn hóa giao thoa và hoà điệu với nhau.

Phụng vụ Giáo Hội dành ngày Mồng Hai Tết để cầu cho tổ tiên. Hằng ngày trong mọi thánh lễ, Giáo Hội đều có lời cầu nguyện cho ông bà tổ tiên.

Đạo Chúa dạy, có một Cha trên trời mà con người phải tôn kính hiếu thảo; dạy yêu thương nhau : “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”; dạy sống chan hoà, bình dị : “anh em hãy học cùng tôi vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng”, dạy yêu quý sự sống : “Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào”.Tin Mừng làm sáng lên những giá trị sáng ngời có sẵn trong môi trường văn hoá Việt Nam, mang đến cho các giá trị văn hoá ấy chiều kích siêu việt, chiều kích cứu độ.

Tinh thần hiếu hoà, lòng thảo hiếu của người Việt là điểm son đậm đà bản sắc dân tộc.Tin Mừng bén rễ sâu vào nền văn hoá ấy làm xanh lên chồi lộc sự sống tình yêu rồi kết thành hoa trái tốt lành cho con người và cuộc đời.

Dưới ánh sáng đức tin, Đạo Hiếu không chỉ là một hành động luân lý, đạo đức xã hội mà còn là một giới luật được Thiên Chúa truyền dạy, một giới răn chỉ đứng sau ba giới răn dành riêng cho Thiên Chúa. Người Công Giáo thảo hiếu, kính trọng cha mẹ không chỉ theo ảnh hưởng của văn hóa, xã hội, tâm lý, mà còn đặt trên niềm tin tôn giáo. Thảo kính cha mẹ là điều làm đẹp lòng Thiên Chúa.

Lạy Chúa là Cha rất nhân từ,Chúa dạy chúng con phải giữ lòng hiếu thảo.
Hôm nay nhân dịp đầu năm mới Giáp Ngọ.
Chúng con họp nhau để kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ.
Xin Chúa trả công bội hậu cho những bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng con,và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối với các ngài. Amen (Lời nguyện nhập lễ, Mồng Hai Tết).

“Đêm qua ra đứng bờ ao,”

“Đêm qua ra đứng bờ ao,”

Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ
Buồn trông con nhện giăng tơ
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai.”

(Văn Phụng – Đêm Buồn)

(Lc 2: 21)

Nếu bạn và tôi, ta thử tưởng tượng một tình huống trong đó có đấng bậc anh-hùng nọ xuất thân là người Do-thái nay trở về thăm quê nhà vời vợi, bèn “ra đứng bờ ao trông cá, cá lặn trông sao, sao mờ”; thế rồi lại còn cất tiếng hát những câu lạ kỳ, như sau:

“Buồn trông chênh chếch sao Mai
Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ.
Đêm đêm tưởng giải Ngân Hà.
Ngôi sao Tinh Đẩu đã ba năm tròn.
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn.
Tào Khê nước chảy vẫn còn trơ trơ.”

(Văn Phụng – bđd)

Đã “buồn trông chênh-chếch sao Mai”, lại thấy nhớ thứ gì đó, ông bèn ới gọi: “Sao ơi sao hỡi, nhớ ai sao mờ”, nhớ như thế không chỉ mỗi “Ngôi sao Tinh Đẩu” mà thôi, nhưng là nhớ rất nhiều thứ/nhiều chuyện hơn nữa. Nhớ cả chuyện “Tào Khê nước chảy, vẫn còn trơ trơ”, và những chuyện luật lệ căn bản để trở thành người Do-thái chánh hiệu, như nhận định của đấng bậc vị vọng là thày dạy, hôm nào khi giảng giải:

“Ngay từ đầu, thánh Phaolô đã được hai thánh tông đồ hàng đầu là Phêrô và Giacôbê đồng ý về nhiều chuyện; chí ít là chuyện không nên buộc các tân tòng vừa vào Đạo phải qua thủ tục ‘cắt bì’…

Có thể, thánh Giacôbê lúc đầu cũng chọn lập trường thứ hai, tức: người ngoài Đạo muốn trở lại, buộc phải qua thủ tục ‘cắt bì’ vì khi trước họ cũng đâu buộc phải chịu “cắt bì” khi sống chung với người Do-thái cho đến lúc cuối, trước khi vào Đạo…”

“Cả bên trong nội bộ Hội thánh ở Galát cũng như ngang qua các vị trước đây từng gia nhập đoàn/nhóm của thánh Giacôbê, khi đó đã thấy mọi người đều cổ võ lập-trường chủ-trương rằng: tân-tòng nào vừa hồi-hướng trở về, đều phải thông qua tục lệ “cắt bì”, như mọi người. Thế nên, chuyện dễ thấy nhất, là: sự việc ở đây đã đính kết với thói tục địa phương. Nhiều người hẳn sẽ hỏi: nếu ta cổ võ những chuyện như thế, thì tại sao ta lại có thể hội nhập với nền văn hoá sở tại được? Nhiều vị lâu nay từng gây khó khăn hoặc trực tiếp khuấy động ở nhiều vụ –tức các bạn đạo thuộc nhóm Giacôbê- đã đến Galát sau thời gian thánh Phaolô lưu lại nơi đây, lần chót. Họ được coi như tín hữu Đạo Chúa gốc Do-thái-giáo. Các vị chủ trương áp dụng luật Torah khá triệt để, và cả đến tục “cắt bì” cũng như luật ăn đồ cúng kiếng đối với người ngoại giáo vừa trở lại, nữa…”

Vấn đề đặt ra chẳng là chuyện thứ yếu, ít quan trọng. Nhiều vị –nếu không muốn nói là hầu hết- là thành viên của nhóm bạn đạo ở Galát trước đây kính sợ Chúa, tức những người ngoài Đạo nay trở thành dân con Thiên Chúa của Israel, nhưng lại không muốn thành người có gốc Do-thái-giáo vì họ chẳng ưa thích gì tục “cắt bì”, cũng vì thế. Họ là người được thanh tẩy là cốt để dấn thân vào với cộng đoàn dân con của Chúa nhưng lại không muốn chịu phép “cắt bì”, mỗi thế thôi. Hỏi rằng: như thế phải chăng họ vẫn là người ngoài Đạo? Họ có là con cháu Abraham cùng đấng thánh tổ phụ không? Họ có thực sự chung cùng một Giao ước lành thánh với Chúa chứ?” (Xem Lm Kevin O’Shea, Phaolô, Vị thánh của mọi thời, nxb Tôn giáo 2013, tr. 182-188).

Tiếp tục tưởng tượng người hùng Do-thái-giáo nói trên, giống bất kỳ tân-tòng nào vừa mới nhập Đạo Chúa, thời tiên-khởi cũng sẽ tự hỏi xem thói-tục “cắt bì” là gì, mà ghê gớm thế?

Giáo dân tân-tòng hôm nay, có thể sẽ không buộc phải như thế nữa. Nhưng, khi tiếp cận Kinh Sách của Đạo Chúa, hẳn cũng có những lần giáo dân của ta cứ tự hỏi mình/hỏi người những câu, giống dân con nhà Đạo ở Sydney, hỏi “ông” cha ở Tuần Báo The Catholic Weekly những câu tương-tự, như sau:

“Thưa cha,

Con nhớ: khi xưa phụng vụ Đạo mình cũng để ra một ngày đặc biệt như ngày Đầu Năm Dương Lịch để cử hành thánh lễ kính nhớ việc Chúa chịu phép “cắt bì”. Nay, ngày ấy được thay thế bằng lễ “Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa”, rất long trọng. Vậy hôm nay, con kính hỏi cha xem lý do tại sao Đạo Công giáo ta từng tổ chức thánh-lễ long trọng là thế, nay lại bỏ, như thể tức là Hội thánh của ta không còn muốn nhắc nhở gì chuyện ấy hết, sao?” (Câu hỏi của một người ở Sydney, biết rất ít về thần học và lịch sử Đạo).

Là thần dân đi Đạo mà lại nói “biết rất ít về thần học và lịch sử Đạo” nhưng nhớ nhiều về phụng vụ vào dạo trước, thì chỉ có thể là dân “ta ru” tức tu ra mà thôi. Nhưng, không sao. Tu ra hay tu vào, cũng vẫn là tu miễn đừng “tu hú” hoặc “tu huyền tù” ở thế giới tục trần, dần dần rời xa Đạo là được. Vậy thì, ta cứ thử nhín chút thì giờ mà xem đấng bậc vị vọng có trọng trách giải đáp thắc mắc của tuần báo trên giải quyết ra sao. Và, giải quyết là giảng giải và nhất quyết rằng:

“Đúng như anh/chị nói, khi xưa vào ngày Đầu Năm Dương Lịch, Hội thánh có thói quen cử hành Lễ Chúa Chịu Phép Cắt Bì. Đây là ngày giờ rất thích hợp cho sự kiện xảy ra cách đích thực. Bởi lẽ sự kiện ấy xảy ra đúng một tuần lễ sau khi Chúa sinh ra đời đúng theo luật của tất cả bé trai Do-thái đều phải làm thế và khi ấy bé sẽ được đặt tên như mọi người. Thánh-sử Luca mô tả việc ấy rất rõ như sau:

“Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.” (Lc 2: 21)

Việc Chúa chịu phép cắt bì có nguồn gốc và ý nghĩa tuợng-trưng cũng rất hay. Tục lệ này bắt nguồn từ thời tổ phụ Abraham, tức chung quan niên-đại 1900 trước Công nguyên. Sách Sáng Thế Ký có ghi lại sự kiện khi ấy Abraham đã 99 tuổi, được Chúa lập Giao-ước hứa với ông là sẽ cho ông sinh con đàn cháu đống và ban cho đất Canaan làm sở hữu đến mãn đời. Cùng lúc ấy, Ngài đổi tên ông từ Abram thành Abraham (x. Stký 17: 1-8). Ngài còn dạy ông rằng:

“Đây là giao ước của Ta mà các ngươi phải giữ, giao ước giữa Ta với các ngươi, với dòng dõi ngươi sau này: mọi đàn ông con trai của các ngươi sẽ phải chịu cắt bì.11 Các ngươi phải chịu cắt bì nơi bao quy đầu: đó sẽ là dấu hiệu giao ước giữa Ta với các ngươi.12 Sinh được tám ngày, mọi con trai của các ngươi sẽ phải chịu cắt bì, từ thế hệ này qua thế hệ khác, kể cả nô lệ sinh trong nhà, hay nô lệ các ngươi dùng bạc mà mua của bất cứ người ngoại bang nào không thuộc dòng dõi các ngươi.13 Buộc phải cắt bì nô lệ sinh trong nhà cũng như nô lệ mua bằng bạc. Giao ước của Ta ghi dấu trong xác thịt các ngươi, sẽ thành giao ước vĩnh cửu.” (x. Stký 17: 10-13)

Kể từ đó, coi như dấu hiệu của Giáo ước giữa Chúa và loài người, tất cả các bé trai đều phải đem “cắt bì” vào ngày thứ 8 sau khi sanh; và việc này trở thành khuôn khổ để đi vào Giáo ước giống như việc người Kitô-hữu hôm nay lĩnh-nhận ơn thanh tẩy, vậy. Đến thánh Phaolô cũng lấy làm kiêu-hãnh về tục-lệ này của dân Do-thái khi thánh-nhân bảo: tôi chịu cắt bì ngày thứ tám, thuộc dòng dõi Ít-ra-en, họ Ben-gia-min, là người Híp-ri, con của người Híp-ri; giữ luật thì đúng như một người Pha-ri-sêu”.(Phil 3: 5) Xem như thế, thì “cắt bì” làm cho người Do-thái khác với dân ngoại, tức những người chẳng bao giờ chịu tuân theo tục-lệ này hết.

Vì thế nên, việc Chúa chịu phép “cắt bì” chứng tỏ Ngài là người thật, được sinh ra từ người nữ thuộc giống giòng Do-thái là xứ sở Ngài hạ sinh để cứu vớt họ. Chúa tuyển chọn dân riêng của Ngài như sách Cựu ước đã chứng mình là để chuẩn bị con đường cho Con Một Ngài Nhập thể làm người là Đấng Mêsia đã được xức dầu ngõ hầu giải-thoát mọi người khỏi mọi tội lỗi họ mắc phạm và kiến tạo Giao ước mới với họ một cách dứt khoát.

Việc Chúa chịu phép cắt bì còn có giá trị tượng-trưng rất lớn. Đó là việc Ngài chấp-nhận đổ máu Ngài lần đầu tiên song song với việc tên lính hầu La Mã đã đâm thủng “nương long” Ngài khi Ngài kêu “khát nước” trên thập tự/khổ giá (x. Ga 19: 34). Việc này còn cho thấy trước giòng thanh-tẩy nhờ đó mọi Kitô-hữu cũng được chung phần đi vào với Giao ước của Chúa. Về việc này, thánh Phaolô còn viết thêm, như sau:

“Trong Người, anh em đã được chịu phép cắt bì, không phải phép cắt bì do tay người phàm, nhưng là phép cắt bì của Đức Ki-tô, có sức lột bỏ con người tội lỗi của anh em.12 Anh em đã cùng được mai táng với Đức Ki-tô khi chịu phép rửa, lại cùng được trỗi dậy với Người, vì tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết.(Col 2: 11-12)

Khi Chúa chịu phép cắt bì, Ngài được đặt tên bằng danh-tánh mà thần-sứ đã báo cho cả thánh Giuse (Mt 1: 2) lẫn Đức Mẹ nữa (Lc 1: 31). Danh-tánh Chúa Giêsu có nghĩa: Ngài là Đấng Cứu Thế, cho nên thần-sứ mới báo cho thánh cả Giuse rằng: Trẻ này sẽ được gọi là Giêsu, bởi “Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”. (Mt 1: 21)

Lễ Chúa Chịu Phép Cắt Bì khi xưa được cử-hành vào ngày thứ 8 sau Giáng sinh, tức đúng nhất vào ngày 1 tháng Giêng Dương lịch, kể từ các thế kỷ đầu đời. Lễ Giáng Sinh lần đầu được mừng vào ngày 25 tháng Chạp sớm nhất vào thế kỷ thứ 4. Bởi lẽ, ngày 1 tháng Giêng là ngày đầu năm mới của Tây Lịch, nên Lễ mừng dành cho Kitô-hữu khi ấy đụng phải lễ hội của người ngoại giáo cũng mừng cùng một ngày, như người đời vẫn giữ tập-tục này cho đến hôm nay. Theo nghi-thức của người Gals thì Lễ Cắt bì khởi sự được cử hành từ thế kỷ thứ 6 và theo lịch của người sắc tộc Byzantin là vào thế kỷ thứ 8 và thứ 9. Từ thế kỷ thứ 7 ở Rôma, mọi người ở đây cũng có thói lệ mừng ngày Bát Nhật Giáng Sinh cũng vào dịp ấy.

Dù lễ này được gọi là Lễ Chúa Chịu Phép Cắt Bì, nhưng nội dung phụng vụ thánh lễ lại bao gồm nhiều điều nói đến Đức Mẹ. Cho đến năm 1960, lịch Công giáo La Mã vẫn có thói quen cử hành lễ Chúa Chịu Phép Cắt Bì vào ngày 1 tháng Giêng dương lịch và Bát Nhật Giáng Sinh trong cùng một ngày như thế. Sau lần duyệt xét lịch Đạo từ năm 1960, ngày 1 tháng Giêng được gọi một cách đơn giản là Lễ Bát Nhật Giáng Sinh, thôi. Nhưng cuối cùng thì, theo Lịch Công giáo La Mã ấn hành từ năm 1969, lễ này trở thành Lễ trọng gọi là Lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng vẫn được qui chiếu làm Lễ Bát Nhật Giáng Sinh. Điều này phù hợp với sự việc ta cử hành mừng kính vai trò làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Mẹ rơi vào đúng Bát Nhật Giáng Sinh, khi ta cử hành Sinh Nhật của Con Thiên Chúa làm người. Và thêm nữa, lễ mừng Tên thánh của Chúa Giêsu được cử hành vào ngày 3 tháng Giêng mỗi năm, như sự thường.” (xem Lm John Flader, The Circumcision of Christ, Question Time, The Catholic Weekly 29/12/2013)

Xem thế thì, “Cắt Bì” hay cắt “da qui đầu” theo cổ lệ của người đi đạo Do-thái-giáo, là như thế. Như thế, tức như thể: mỗi khi gia-nhập nhóm hội/đoàn thể nào đó ở xã-hội, người người đều thấy người gia-nhập buộc phải tuân theo một số qui-định hoặc qui-luật nào đó, cho thuận lợi. Thuận lợi càng nhiều, thì xã-hội ấy/đạo-giáo ấy càng có cơ phát-triển và nổi tiếng.

Tuy nhiên, càng nhiều luật-lệ hoặc càng bó buộc nhiều vào qui-định này khác, thì đạo ấy/xã-hội nọ lại sẽ có cơ bị nhiều người có lập-trường hoặc quyết-tâm đối chọi, rồi từ từ cũng sẽ từ-bỏ hoặc lơ là cả luật-lệ hoặc tục-lệ, giống như thế.

Tương tự như thế, vừa qua, toà thánh La Mã lại đã đề cao cảnh-giác một số tục-lệ được nhiều người ở trời Tây “đổ xô” hoặc rủ rê nhau tìm đến với lý lẽ để duy trì lòng tin/yêu hoặc “lòng đạo” xưa nay vẫn có. Lời cảnh-báo, có ghi rõ như sau:

“Bộ trưởng Thánh Bộ Tín Lý đã cảnh-báo người Công-giáo Hoa-Kỳ về việc các vị này hay tham dự các lễ lạy mừng kính điều mà nhiều người cho rằng Đức Mẹ cũng đã hiện ra ở Medjugorje, xứ Bosnia-Herzegovina.

Đức Tổng Giám Mục Carlo Maria Vigano, sứ thần Toà thánh, có viết cho ngài Ronny Jenkins, Tổng Thư Ký Hội Đồng Giám mục Hoa Kỳ và nhắc nhở ông về chuyện Đức Mẹ hiện ra ở đây lâu nay vẫn chưa được Toà Thánh La Mã xác-chứng coi đó là việc đúng thực.

Sau đó, Đức Tổng Giám Mục Vigano có viết trong thư luân-lưu của ngài những điều như sau: “Hàng giáo sĩ cũng như giáo-dân của ta không được phép tham-dự bất cứ buổi họp mặt, hội-thảo, mừng kính công-khai nào có dụng đích khiến mọi người tin rằng việc Đức Mẹ hiện ra ở nơi đó, là sự việc được Hội thánh công nhận”. Thư nhắc nhở của Đức Tổng Giám Mục Vigano cũng được gửi đến Đức Tổng Giám Mục Gerhard Muller, Chủ Tịch Thánh bộ Tín Lý trong thư ghi rõ: “đến nay chưa có khả năng để cam kết rằng có sự việc Đức Mẹ hiện ra ở đây hoặc Mẹ có mặc-khải điều gì rất siêu nhiên”.

Cùng lúc Toà thánh La Mã nói rằng: các giáo-phận không được phép tổ chức bất cứ cuộc hành-hương nào đến Medjugorje, nhưng vẫn thêm rằng: người Công giáo vẫn có tự do đến thăm thị trấn này và/hoặc đến đó mà nguyện cầu và có điều nữa là: Giáo phận Mostar-Duvno và thủ phủ do các tu sĩ Dòng Phanxicô trông nom vẫn có bổn phận trông nom chăm sóc về mục vụ cho giáo dân ở đây.” (xem Bản tin có tựa đề: Don’t attend Medjudorje meetings, Vatican warns, The Catholic Weekly 17/11/2013 tr. 4)

Hôm nay, bần đạo cũng có dịp “ra đứng bờ ao” nào đó, nhưng không là ao nhà, mà là ao người mãi tận xứ Ba-Tư cứ suy-tư rất ư là vô tư-lự rất nhiều giờ về câu nói của cụ hướng-dẫn-viên du lịch người Iran đã nói trong lúc diễn-giải lịch-sử của đất nước từng được gọi là “ngàn đêm lẻ xứ Ba-Tư” rằng: phụng-vụ trong Đạo Công-giáo ta cũng đã vay mượn một số tập tục của đạo thờ thần lửa khi xưa gọi la Zoroastrian…”

Tiếc một điều, là vị ấy không đan-cử trường hợp nào làm chứng-cứ hỗ trợ lời khẳng định của mình. Nay, khi ra đứng bờ ao của xứ lạ quê người, bần đạo lại cũng nhớ có lần bậc thày dạy Kinh thánh từng nói Khi xưa các bậc thánh-sử của Đạo mình khi viết Kinh-thánh cũng có đưa một vài tập tục dân gian ở đời vào bài viết của mình. Và sau này, Hội thánh dùng đó đưa vào Cựu Ước và một số vào Tân-ước. Lại rất tiếc, hôm ấy cha giáo Kinh thánh Nguyễn Thế Thuấn không nói rõ đọan ấy là đọan nào.

Nay suy nghĩ nhiều bên bờ ao, hôm nào, bần đạo đây lại quay về bài ca trên mà hát thêm:

“Đêm qua ra đứng bờ ao

Trông cá, cá lặn trông sao, sao mờ

Buồn trông con nhện giăng tơ

Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai

Buồn trông chênh chếch sao Mai

Sao ơi, sao hỡi nhớ ai sao mờ.”

(Văn Phụng – bđd)

“Trông cá, cá lặn; trông sao, sao mờ” chắc chắn không phải là và cũng không giống như câu nói của ai đó vẫn cứ bảo mình “trông gà hóa quốc”. Hôm nay đây, bần đạo cũng đã trông và thấy, một bài thơ rất “mờ mờ” của ai đó, có giòng chữ như sau:

“Còn gặp nhau thì hãy cứ vui.

Chuyện đời như nước chảy hoa trôi.

Lợi danh như bong mây chìm nổi.

Chỉ có tình thương để lại đời.

Còn gặp nhau thì hãy cứ thương.

Tình người muôn thuở vẫn còn còn vương.

Chắt chiu một chút tình thương ấy.

Gửi khắp muôn phương vạn nẻo đường…”

(x. thơ Tôn Nữ Hỷ Khương tìm gặp trên điện thư và trang mạng, ở đâu đó)

Bần đạo nhớ: bài thơ trên cứ ghi thêm các câu có những vận như: “hãy cứ chơi”, “hãy cứ cười”, “hãy cứ chào”, “hãy cứ say” và “hãy cứ đi” … để rồi người luận thơ kết luận bằng một ý nghĩ vẫn cứ bảo: “Khi vui, luôn có nhau trong tình tri kỷ. Lúc buồn, cũng có nhau trong tình thương ái tương thân, nói với nhau những lời yêu thương dịu ngọt, cho nhau những nụ cười, những niềm vui, những ngọt bùi, để khi theo quy luật tự-nhiên, luật vô thường, mọi vật đều có thể mất đi, thì “chỉ có Tình Thương để lại đời”… (người luận thơ ký tên: GS TS Trần Văn Khê)

Trong giòng chảy suy tư giống như thế, bần đạo lại bắt gặp câu truyện của ai đó có nhan đề “Họa và Phúc” do bạn bè gửi đến, như sau:

“Có một vị quốc vương, khi ra ngoài đi săn không may bị đứt một ngón tay, mới hỏi vị đại-thần thân-cận nên làm thế nào? Đại-thần nói với giọng lạc-quan nhẹ nhõm: Đây là việc tốt! Quốc vương nghe vậy giận lắm, trách ông hí-hửng khi thấy người khác gặp nạn, vì thế ra lệnh nhốt ông vào đại lao.

Một năm sau, quốc vương lại ra ngoài đi săn, bị thổ-dân bắt sống, trói vào đàn tế, chuẩn bị tế thần. Thấy phù-thủy đột nhiên phát hiện quốc vương khuyết mất một ngón tay, cho rằng đây là vật tế-thần không hoàn chỉnh, bèn thả quốc-vương ra, thay vào đó lấy viên đại-thần tùy-tùng làm vật hiến-tế.

Trong niềm vui thoát nạn, quốc vương nghĩ tới viên đại thần vui vẻ từng nói rằng: mất ngón tay là việc tốt, liền ra lệnh thả ông, và xin lỗi vì đã vô cớ bắt ông chịu nạn một năm trong ngục tối. Vị đại thần này vẫn lạc quan nói: “Cái họa một năm ngồi tù cũng là việc tốt, nếu như tôi không ngồi tù, thì thử nghĩ vị đại thần theo người đi săn mà bị lên đàn hiến tế kia sẽ là ai?

Bởi vậy, việc tốt chưa chắc đã tốt hòan tòan, việc xấu cũng chưa chắc xấu hoàn toàn. Mọi việc trên đời đều có thể trở thành tốt xấu. Người bi quan mãi mãi nghĩ đến mình chỉ còn một triệu đồng mà buồn lo; người lạc quan vẫn cảm thấy hạnh phúc vì mình vẫn còn mười ngàn đồng…”

Họa là gốc của Phúc. Phúc là gốc của Họa. Họa-Phúc luân chuyển và tương sinh. Sự biến đổi ấy không thể nhìn thấy được, chỉ thấy cái kết quả của nó. Hai điều Họa-Phúc cứ xoay vần với nhau, khó biết được, nên khi được Phúc thì không nên quá vui mừng mà quên đề phòng cái Họa sẽ đến, khi gặp điều Họa thì cũng không nên quá buồn rầu đau khổ mà tổn hại tinh-thần. Việc đời, hết may tới rủi, hết rủi tới may, nên cần giữ sự thản nhiên trước những biến đổi thăng trầm, trong cuộc sống…” (trích bài viết của một người không ký tên, trên mạng về “Họa & Phúc”)

Bần đạo đây, nay trích dẫn đôi điều ở trên là để phiếm khi gặp vấn đề này khác, như: “cắt bì”, “tri kỷ”, “họa-phúc” xuất hiện ở bài thơ, bài báo lẫn câu nhạc đây đó giúp mình có được những suy nghĩ cho riêng mình. Rồi từ đó, hiên ngang sống đời còn lại để cùng với bạn đạo khác thực hiện một vài động-tác gọi là “tái rao giảng Phúc Âm” theo cương vị của mọi người như đề nghị của Đức đương kim Giáo Hòang mới đây từng đề xuất.

Nghĩ thế rồi, bần đạo bắt chước người nghệ sĩ trên, dù có hát như sau, nhưng không buồn:

“Đêm qua ra đứng bờ ao,

Trông cá,cá lặn; trông sao, sao buồn.

Buồn trông con nhện giăng tơ,

Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai.”

(Văn Phụng – bđd)

Những mong rằng: mối nhện ấy không là mối tơ vương của nhện buồn, nhưng lại là mối nhện rất thân thương của tình thương yêu trầm lắng, vẫn cứ giăng.

Trần Ngọc Mười Hai

Dám học hỏi nhiều điều

Từ chú nhện giăng tơ

Lẫn mạng lưới tình thương

Vẫn đang chờ.

Suy tư Tin Mừng Chúa nhật thứ 5 mùa thường niên năm A 09.02.2014

“Hoa cười nguyệt rọi, cửa lồng gương,”

Lạ cảnh buồn thêm, nỗi vấn vương.”

(dẫn nhập từ thơ Hàn Mặc Tử)

Mt 5 13-16

Với nhà thơ, nay cứ vấn vương một nỗi như hoa cười, nguyệt rọi, cửa lồng gương. Với nhà Đạo, xưa cũng vương vấn nhiều tình đầy hạnh phúc rất “8 mối”, được thánh-sử diễn tả ở trình-thuật.

Trình-thuật về “phúc hạnh 8 mối” hay “Hiến Chương Nước Trời”, thật ra không là lời Chúa đã nói thế, mà chỉ là lối hành văn đặc-biệt mà thánh Mát-thêu đã diễn-tả và như đường lối sáng-tác kiểu Do thái, vào thời đó. Văn-chương thời đó cốt đưa ra cho người đọc hiểu theo kiểu “bánh mì xắt lát nhiều lớp, xếp bắt chéo”. Lát đầu song song với lát cuối và lát thứ hai song song với lát áp chót, cứ thế diễn tả cách thoải mái, ý nhị. Rõ ràng là, cung cách viết lách theo kiểu này cứ xếp lớp chòng chéo nhau, chuyển thông-điệp thật rất đẹp.

Trình thuật, nay thánh Mát-thêu diễn-tả ở đoạn đầu, vào lúc Chúa cất bước lên đồi cao có chúng dân cứ thế kéo nhau đi theo; và đoạn cuối trình-thuật, lại mô-tả Chúa xuống đồi, cũng có chúng dân đi theo Ngài, rất lũ lượt. Các đoạn tiếp theo sau, thánh-sử đề-cập đến 9 mối phúc hạnh. Và, đoạn chót nhắc nhở những 3 lời rất cảnh-báo: các “lát bánh” mô-tả ở giữa bài, bàn việc thực-thi luật Torah và chuyện các ngôn-sứ thời buổi trước theo cung-cách cũng diễn-tả theo cách “tượng thanh tượng hình”, giống như thế.

Trọng tâm trình-thuật, nay thánh-sử cốt bàn về luật chính-yếu ở thời đó, như: cấm giết người, chớ ngoại tình hoặc đừng ly dị, cùng một số hành-xử khác như: thề độc, hoặc trừng phạt cùng đòi hỏi phải yêu thương cả đến kẻ thù mình, nữa. Điều này tương-xứng với yêu-cầu ở phần cuối của điều luật, là: làm cách nào xử lý tiền bạc/tài sản cho tốt đẹp và làm sao liên-hệ mật-thiết với bà con họ hàng, chốn thôn làng.

Phần giữa trình-thuật, tác-giả Mát-thêu càng đi dần vào cốt-lõi của “Hiến Chương Nước Trời”, tức: bàn về bổn-phận phải bố thí, nguyện cầu và kiêng khem. Điều, làm cho trình-thuật thánh Mát-thêu khác với thánh Luca và/hoặc các thánh-sử khác, là tác giả Mát-thêu lại đã chêm vào bản-văn mình viết “Kinh Lạy Cha” Chúa truyền-dạy như trọng-tâm mọi động-tác nguyện cầu nội-tâm; và đặc biệt là quyết-tâm tha-thứ hết mọi người.

Có thể nói, toàn-bộ công việc cải-tân luật Torah do Đức-Chúa-là-Môsê-Mới trên núi thánh, là nội-dung chính được nhắm đến trong “Kinh Lạy Cha”. Nội dung kinh này, tỏ cho thấy quan-hệ huyền-nhiệm Cha-Con rất tốt đẹp của Thiên-Chúa. Sự việc này, tăng dần với bổn phận tiên-quyết của người biết “cảm kích” quà tặng khó lường, do Cha ban. Lời kinh tập trung vào tương-quan xã-hội cũng như nhu-cầu tha-thứ hết mọi người; đồng thời, chấp-nhận sự thứ-tha của người khác. Tất cả, đã trở-thành điều quan-trọng đối với hành-xử căn bản là chúc-tụng/ngợi ca và cảm tạ Chúa phú ban món quà quí già, làm con Ngài.

Vào Mùa Chay, Hội-thánh thiết-lập nghi-thức “Khai-tâm Lòng đạo” là cốt tăng-cường ý-nghĩa quà tặng Chúa ban như nhiệm-tích thánh-thiêng đưa vào cử-hành ở Lễ Vọng Phục Sinh. Sở dĩ “Kinh Lạy Cha” đặt vào phụng-vụ của buổi ấy, là để chuẩn-bị cho những ai chấp-thuận “khai tâm lòng đạo” biết nhận ra quà của Chúa rất quí giá. Hiến Chương Nước Trời ở trình-thuật thánh Mát-thêu diễn tả giúp ta hiểu được sự việc canh-cải gồm tóm ý-nghĩa và kinh-nghiệm quí giá của quà tặng, còn nhiều hơn.

Đàng khác, tư-duy ý-nghĩa của “8 mối phúc-hạnh” nơi Hiến Chương Nước Trời, còn là suy-tư về toàn-bộ ý nghĩa rút ra từ nơi đó. Đây, là ý-nghĩa Lề-luật mà người Do-thái từng tuân-thủ rất nhiều năm ta có thói quen gọi là “Luật Torah”.

Cụm từ “Torah” ta nghe biết cũng nhiều, thật ra, là phần đầu của Kinh Thánh Do-thái và là Sách Cựu Ước dành cho mọi Kitô-hữu, tức gồm các sách: Sáng Thế, Xuất Hành, Lê-vi, Dân Số vá Đệ Nhị Luật. Các bậc thức-giả vẫn gọi đó là Sách Ngũ Thư, tức đầu đuôi 5 cuốn Kinh Sách do Môsê lập. Các điều-luật ghi ở Ngũ Thư được viết trên “chỉ cảo” duy-nhất, tức: văn-bản chính-thức được thiết-lập ngay từ đầu. Đây là Sách Thánh “tiên khởi” của Do-Thái-giáo lẫn Đạo Chúa. Người Do-thái trân-trọng Sách này với tất cả niềm vui như trọn vẹn tài sản của riêng mình.

Cụm-từ “Torah” được mọi người hiểu theo nghĩa “lề-luật của Do-thái”. Quả là, sách Ngũ Thư bao gồm rất nhiều điều-khoản, chẳng hạn như: 10 điều răn-dạy, tuyển-tập luật-pháp và một số qui-định đặc-biệt dành riêng cho người Do-thái mà thôi như: tục cắt bì, thừa kế, vv… gồm tóm nhiều truyện kể, ghi ở trong đó. Lâu nay, ta vẫn gọi đó là: “Lề-luật Do-thái”, nhưng đó không là văn-bản được chuyển-vận từ sách ghi rõ luật Torah cho người Do-thái, như đa số nhiều người vẫn hiểu thế mỗi khi nói đến Ngũ Thư, tức: sách đề-cập mỗi luật và luật, thôi.

Thật ra thì, “Torah” chỉ có nghĩa như: chỉ-thị hoặc giáo-huấn mà người Do-thái muốn mọi người chú tâm như qui-định do cha ông để lại và là luật-lệ do cha mẹ đề ra, tựa Châm ngôn 18 ở Cựu Ước. Giáo huấn rút từ Luật Torah, mang nhiều ý-nghĩa hơn các điều-luật cần được áp-dụng cách triệt-để. Đó là chỉ-dẫn giúp ta học cách quan-hệ với Chúa, và đi vào thế giới của Ngài. Có điều hay, là: ngay phần đầu Luật Torah là sách Sáng Thế Ký, lại không thấy bất cứ điều-khoản nào nói về luật-pháp mà chỉ là truyện kể, thế thôi.

“Torah” tiếng Hipri xuất tự cụm-từ Hy Lạp “nomos”, diễn tả quan-hệ ta có với Chúa, nhưng không là điều mọi người ưa thích. Chính Luther, là người đầu tiên trong Đạo đã trích-dịch cụm-từ ấy thành “điều luật” và đưa vào văn-bản Kinh-thánh cùng nền thần-học chính-mạch. Nói chung, ông muốn nói lên phản-ứng của người đi Đạo đối với hệ-thống luật-lệ rất chi tiết mà ông thấy đầy nơi cuộc sống của người Công-giáo, vào thời ấy.

Kinh thánh Do thái, ở sách cuối như: Ezra, Nêhêmiah, Ký sự 1 và 2 lại thấy có câu “Torah của Đức Chúa” như mặc-khải thánh-thiêng do Môsê điều-nghiên suy-tư. Cứ thế, “Torah” trở-thành Luật truyền-khẩu do Chúa nói cho ta biết, rồi dần dà, ta coi đó như luật viết thành văn. Tuy nhiên, bản-văn Torah viết bằng chữ, tự nó không đứng vững, nhưng được bao- bọc bằng các khoản luật truyền-khẩu, có diễn giải.

Nói chung thì, “Torah” là đường-lối giúp ta sống đúng cách; đúng phong-tục/luật-lệ của người Do-thái từ trước đến nay. Tầm-suy nguồn-gốc tiếng Do-thái, người đọc thấy: tiếng ấy có nghĩa như “Mũi tên bắn” đánh thẳng vào mục tiêu, rất trúng đích. Như, Thánh vịnh 119 có đoạn viết rất rõ:

“Luật pháp Ngài, lạy Chúa, con yêu chuộng dường bao, suốt ngày cứ suy đi gẫm lại! Mệnh lệnh Chúa làm con khôn hơn địch thủ, vì con hằng ấp ủ mệnh lệnh đó trong lòng “(Tv 119: 97-98)

Cũng tựa hồ sự việc người Công giáo lâu nay cất-giữ Mình Chúa ở “Nhà Tạm” thế nào, thì người Do-thái khi xưa cũng lưu-trữ Luật Torah trong “Khám” ở hội-đường, hệt như thế.

Với thánh Mát-thêu, “Torah-Mới” không là văn-bản giảng về Lề-luật hoặc Tin Mừng viết thành sách, cũng chẳng là bộ sưu-tập gồm mọi ký-ức truyền-tụng qua cửa miệng, cũng chẳng là truyền-thuyết hoặc truyện kể rất “đáng nể”, nhưng là chính Chúa bằng xương bằng thịt, được ban cho ta.

Thánh Mát-thêu ưa gọi Tin Mừng mình viết như “Sáng Thế Ký” mới của Đạo. Thật ra thì, Sáng Thế Ký ở Kinh-Sách là văn-bản cuối thêm vào Luật Torah theo cách hiểu này khác, đây lại là thành-tựu của bộ luật được người Do-thái xưa nay trân trọng. Đó cũng là truyện kể về cách sống của nhân loại, trong đó có phần khai-thác rất lan man, tản mạn nguy không kém. Thêm vào đó, là: đoản-văn ngẫu-hứng về tự-do và lý-sự gồm một số truyện xung-khắc nam/nữ, và/hoặc nền tảng gia-đình, tương lai nhân-loại; có sự chết, có nét đẹp và các anh-hùng-ca cùng truyện cám dỗ, có công bằng chính trực của giao ước và lề-luật, nữa.

Nói cho cùng, đây là văn-bản/truyện kể của con người về giai-đoạn chuyển từ di-sản tổ-tiên và lòng sùng-kính rất Đạo vào tình huống hy-vọng. Sáng Thế Ký có đoạn nói rõ: Đức Chúa là Đấng Tạo Thành Trời Đất, Ngài để mọi sự cứ thế xảy ra và biến mọi hỗn-độn thành trật-tự. Con người, đặc biệt là nữ-giới, lại được Tạo-hóa chăm-nom đặc-biệt và được ở chốn rất cao của cuộc sống, cũng rất thánh. Nói cho cùng, Sáng Thế Ký còn là truyện tình-tứ rất triệt-để và tích-cực.

Thánh Mát-thêu từng nắm rõ điều đó, nên đã tuyển-chọn các truyện kể tiêu-biểu và còn tiến xa hơn. Mở đầu Tin Mừng mình, tác-giả Mát-thêu đã sử-dụng những câu như: “Sách Cội Nguồn” về gia phả của Đức Giêsu như sau…” Rõ ràng là, với thánh Mát-thêu, Đức Giêsu là “Torah-Mới và Chung Cuộc”, tức: ý-nghĩa mới-mẻ và kết-cuộc của một Khởi-Đầu Mới” của nhân-loại khi Ngài chấp-nhận thân-phận làm Con Thiên Chúa-là-Cha-và-là-Tình-Yêu, rất thực.

Cùng một cảm-nghiệm với thánh-sử như thế, cũng nên ngâm tiếp lời thơ trên, mà rằng:

“Hoa cười nguyệt rọi, cửa lồng gương;

Lạ cảnh buồn thêm nỗi vấn vương.

Tha thướt liễu in hồ gợn bong,

Hững hờ mai thoảng, gió đưa hương.”

(Hàn Mặc Tử – Bài Cửa Sổ Đêm Khuya)

Đêm khuya cửa sổ, mở ra chân trời mới. Chân trời của Chúa, vẫn là 8 mối hoặc 10 mối rất phúc thật, nơi đời thực của mọi người.

Lm Kevin O’Shea CSsR

Mai Tá lược dịch

CON PHẢI LÀM GÌ?

CON PHẢI LÀM GÌ?

Bài sách Công vụ Tông đồ hôm nay kể về một cuộc gặp gỡ lạ lùng giữa Đức Giêsu Nadarét với anh Saun, kẻ đang bách hại các Kitô hữu.  Chính Ngài muốn gặp anh trên con đường anh đang đi.  Dưới mắt Saun, Kitô hữu là những kẻ bỏ đạo Do Thái chính thống, để chạy theo một tà phái của ông Giêsu nào đó mà họ tin là đã phục sinh.  Trong tư cách là một người Pharisêu nhiệt thành và nghiêm túc (c. 3), Sa-un thấy mình có bổn phận phải trừng trị những kẻ phản đạo, bằng cách bắt bớ, xiềng xích, tống ngục, thậm chí thủ tiêu (cc. 4-5).

Chính lúc đang say sưa đến gần thành Đamát thì anh bị quật ngã.  Cuộc gặp gỡ bắt đầu, đời anh từ nay giở sang một trang mới.  Khi anh đang tự tin và hiên ngang tiến bước, thì ánh sáng chói lòa từ trời làm anh ngã quỵ (c. 7).  Khi Saun nghĩ mình là người sáng mắt, thì ngay giữa trưa, anh trở nên mù lòa (c. 11).  Khi anh định chỉ đạo cho những kẻ lầm đường lạc lối, thì bây giờ anh lại cần một người cầm tay dắt đi (c. 11).  Cuộc đối thoại bắt đầu giữa anh với người mà anh chỉ nghe tiếng nói.

Ngài âu yếm gọi tên anh hai lần và tự giới thiệu:  “Saun, Saun, tại sao ngươi bắt bớ Ta?  Ta là Giêsu Nadarét mà ngươi đang bắt bớ” (c. 8).  Bắt bớ các Kitô hữu là bắt bớ chính Đức Giêsu.  Đức Giêsu và các Kitô hữu là một.  Bài học đầu tiên này Saun sẽ chẳng thể nào quên.

“Lạy Chúa, con phải làm gì?” (c. 10).  Lần đầu tiên Saun gọi người mà anh không hề tin là Chúa.  Khi tuyên xưng Đức Giêsu Nadarét là Chúa, anh lập tức phó thác cho Ngài, để Ngài chỉ bảo điều mình phải làm.  Nhưng Chúa Giêsu phục sinh đã không nói gì.  Ngài trao anh cho ông Khanania, một người chưa phải là Kitô hữu.  Chính ông này cho mắt anh thấy lại và cho anh biết anh được chọn để làm chứng nhân cho Ngài trước mặt mọi người.

Đa-mát là nơi Đức Giêsu tỏ mình cho Saun, cũng được gọi là Phaolô, là nơi ông nghe tiếng gọi trở nên tông đồ cho dân Ngoại, và cũng là nơi khởi đầu cho cuộc hoán cải tận căn của ông.  Chính mặc khải của Đấng phục sinh dẫn đến ơn gọi và hoán cải.  Từ nay cuộc đời của Phaolô đi sang một hướng mới.  Giêsu đã trở nên trung tâm của đời ông. “Tôi coi tất cả như đồ bỏ, để chiếm được Đức Kitô” (Ph 3, 8).  Biến cố trên đường đi Đamát đã chia đời ông làm hai. “Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước” (Ph 3, 13).

Chúng ta cũng có những kinh nghiệm như Phaolô: ngã ngựa, mù lòa, nghe và gặp Đức Kitô, rồi hoán cải.  Như Phaolô, mong chúng ta để cho Đức Kitô Giêsu chiếm lấy mình, và trở nên người tông đồ nhiệt thành cho thế giới.

Lm Nguyễn Cao Siêu

***********************************

Xin hãy dẫn dắt con

đi từ cõi chết đến sự sống,

từ lầm lạc đến chân lý.

Xin hãy dẫn dắt con

đi từ thất vọng đến hy vọng,

từ sợ hãi đến tín thác.

Xin hãy dẫn dắt con

đi từ ghen ghét đến yêu thương,

từ chiến tranh đến hòa bình.

Xin hãy đổ đầy bình an

trong trái tim chúng con,

trong thế giới chúng con,

trong vũ trụ chúng con.

(Mẹ Têrêxa Calcutta)

From: ThiênKim & Nguyễn Kim Bằng

Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi…

Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi…

Song Chi

Ngay sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc chưa được bao lâu, khi “phe thắng cuộc” còn đang ngây ngất trong “hào quang chiến thắng” và thế giới còn đang nhìn vào đảng cộng sản Việt Nam với ít nhiều khâm phục thì người dân, chủ yếu là từ miền Nam, bắt đầu ồ ạt bỏ nước ra đi…

Mặt trái của tấm huy chương lộ ra dần dần theo những thông tin, hình ảnh về những thuyền nhân bị hãm hiếp, bị cướp bóc tàn nhẫn hay vĩnh viễn nằm lại dưới lòng biển sâu trong quá trình trốn chạy đi tìm bến bờ tự do, được đăng tải rộng rãi…

Cô Phạm Thị Trúc quê huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang, lấy chồng Nam Hàn chết bất thường tại nhà chồng ở Busan hồi tháng Tư, 2013.
Một trong những cuộc di dân lớn nhất trong thế kỷ XX bắt đầu và kéo dài nhiều năm sau đó.
Ðiều đáng nói là cho mãi đến bây giờ, gần 40 năm sau, người Việt vẫn đang tiếp tục tìm đường ra đi, bằng cách này cách khác.
Người nghèo thì chủ yếu đi bằng con đường bán sức lao động, dưới danh nghĩa đi lao động hợp tác, còn gọi là “xuất khẩu lao động” – một trong những khái niệm mới có dưới chế độ ưu việt của đảng ta.
Cách làm này đã đem lại cho nhà nước Việt Nam một món ngoại tệ không nhỏ hàng năm, cộng với số tiền của kiều bào gửi về, khiến Việt Nam mấy năm gần đây liên tục lọt vào danh sách các quốc gia có lượng kiều hối cao trên thế giới. Thực chất, đây là nạn buôn người một cách công khai và Việt Nam cũng đã bị nhiều tổ chức nhân quyền trên thế giới cảnh báo về điều này.
Người viết bài này đã từng tiếp xúc, trò chuyện với nhiều người đi xuất khẩu lao động tại một số quốc gia ở Ðông Âu như Ðức, Tiệp Khắc, Ba Lan… Hầu hết đều phải cầm cố ruộng vườn nhà cửa, vay nợ ngân hàng để có tiền đóng cho các công ty môi giới lao động. Vì vậy khi sang đến nơi họ phải “cày” ngày “cày” đêm, ăn uống sinh hoạt hết sức tằn tiện, vừa dành tiền trả nợ, nuôi gia đình, tiết kiệm mong để dành được chút vốn sau này về nước làm ăn.
Dù làm việc vất vả, sống eo hẹp nhưng vẫn còn là… may mắn. Cực khổ, rủi ro hơn nhiều là những người đi sang nước khác bằng hộ chiếu du lịch rồi ở lại làm lao động “chui”.
Chẳng hạn, có rất nhiều người đi du lịch sang Nga rồi nhờ đường dây đưa sang Ðức sang Tiệp, đi đường bộ, đường rừng. Biết bao nhiêu hiểm nguy bất trắc rình rập, còn với phụ nữ thì khó mà thoát khỏi nạn bị cưỡng hiếp dọc đường, không phải chỉ một lần.
Vì không có giấy tờ, họ chỉ có thể làm việc cho những người chủ Việt, bị bóc lột nặng nề trong những điều kiện vô cùng tồi tệ mà không kêu cứu được ai.
Ðôi khi chúng ta lại đọc thấy tin tức như một xưởng may ở Nga bị cháy (tháng 9 năm 2012), nhiều công nhân Việt Nam bị chết, hóa ra đó là một xưởng may hoạt động bất hợp pháp và các công nhân có thể đã bị đưa đi xuất khẩu lao động “chui”. Hay “một người Việt ở Nga bị bắt vì sử dụng 700 lao động Việt như nô lệ” (Vietinfo). “Cảnh báo rủi ro lao động Việt Nam đi làm việc chui ở Philippines” (Báo mới), “Góc khuất về người lao động Việt Nam ở Angola” (VOV)…
Ngay các nước Bắc Âu như Na Uy, Ðan Mạch, Thụy Ðiển… bây giờ cũng có nhiều người đi du lịch rồi ở lại. Nhiều cặp vợ chồng bỏ lại con nhỏ cho ông bà nội ngoại nuôi, biền biệt làm ăn cả chục năm chưa về nước là chuyện bình thường!
Liều lĩnh hơn nữa, mới đây báo chí Việt Nam đưa tin nhiều người đi du lịch theo tour rồi bỏ trốn, chấp nhận vứt luôn cả hộ chiếu, sống hoàn toàn không giấy tờ trên nước người. (“Khắp nơi cảnh giác du khách Việt: xuất ngoại rồi bỏ trốn,” VietNamNet.)
Tất cả cũng chỉ vì quê hương không còn là “chùm khế ngọt” nên con người phải tha hương nhọc nhằn kiếm sống.
Nhiều cô gái trẻ ở nông thôn, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long thì chọn con đường đổi đời bằng những cuộc hôn nhân thông qua các tổ chức môi giới, với những người chồng đến từ Ðài Loan, Hàn Quốc.
Những cuộc hôn nhân vội vàng chớp nhoáng, lệch pha, mà bản thân các cô gái và gia đình chỉ nhận được một món tiền rẻ mạt, đa phần không tìm được hạnh phúc. Thậm chí kết thúc bằng cái chết.
Từ chuyện một cô dâu Việt mới bước qua tuổi 20 chưa lâu (sinh năm 1993) bị người chồng Hàn Quốc bóp cổ đến chết mới đây, báo Dân Trí có bài “Sự sỉ nhục nhìn từ những cô dâu Việt bị giết.”
Bởi đây không phải là lần đầu tiên, các bậc cha mẹ khi tiễn con gái đi lấy chồng xa cứ nghĩ là đời con mình sẽ sung sướng vì được lấy chồng “ngoại”, chẳng bao lâu sau đã phải đón con về trong những bình tro cốt giá lạnh. Những cái chết tức tưởi, bị đánh, bị đâm, hay quẫn trí quá mà nhảy lầu tự sát ôm theo con…
Vậy mà theo bài báo: “Phụ nữ lấy chồng Hàn Quốc, Ðài Loan bị đánh đập, hành hạ, bị giết, nhưng tỉ lệ thấp hơn và ít rủi ro hơn lấy chồng Trung Quốc…
Cuối năm 2013, ba cô dâu Việt Nam là Tô Thị Hà, Trịnh Thị Hoa, Mai Thị Sư được điều trị tại Bệnh viện thần kinh thành phố Phúc Châu, tỉnh Kiến Phúc – Trung Quốc. Cả ba người đều là nạn nhân của lấy chồng Trung Quốc, bị đày đọa nhiều năm cho đến khi thân tàn thì đuổi khỏi nhà… Có nhiều trường hợp bị đẩy vào động mại dâm, bị khai thác như súc vật cho đến khi bệnh tật, bị chết hoặc điên dại.”
Ðó là chưa kể đến những cô gái Việt bán phấn buôn hương trong những địa điểm ăn chơi cho đến những ổ chứa gái rẻ tiền trên đất Thái Lan, Philippines, Cambodia, Malaysia…
Nếu như các cô gái nông thôn ở phía Nam hoặc các tỉnh sát biên giới phía Bắc thường lấy chồng Ðài, Hàn, Trung qua con đường môi giới thì các cô gái ở các thành phố lớn, có ăn học, có nhan sắc, nhất là có chút tiếng tăm nếu hoạt động trong giới showbiz Việt như người mẫu, ca sĩ, diễn viên… lại có xu hướng lấy chồng ngoại quốc hoặc Việt kiều từ Mỹ và các nước phương Tây.
Nói vậy không có nghĩa là mọi cuộc hôn nhân có yếu tố “ngoại” đều tính toán, vẫn có những cuộc hôn nhân xuất phát từ tình yêu, do cả hai đều có cơ hội và thời gian chọn lựa hơn. Nhưng với một tỷ lệ không nhỏ và ngày càng tăng những cuộc hôn nhân như vậy trong giới showbiz vẫn khiến người ta tự hỏi phải chăng cái quốc tịch của các đức ông chồng (và cả các cô vợ) là một ưu điểm lớn?
Những người gia đình trung lưu, khá giả thì đầu tư cho con cái đi du học tự túc rồi tìm cách ở lại. Trước kia cha mẹ thường cho con đi học sau khi tốt nghiệp phổ thông, nhưng càng ngày người ta càng cho con đi sớm hơn, từ khi mới lớp 9, 10, 11. Riêng ở Hoa Kỳ, hiện tại “Việt Nam đứng thứ 8 về số du học sinh ở Mỹ” với hơn 16,000 sinh viên tại các trường đại học và cao đẳng trên toàn nước này” (Việt Nam Express).
Nhưng không phải cuộc đầu tư cho con đi học nào cũng thành công, nếu không có sự chuẩn bị tốt về ngoại ngữ, kiến thức, một nền tảng giáo dục tốt từ gia đình và một mục đích rõ ràng. Những cô cậu học sinh, sinh viên hoặc theo không nổi, học là phụ chơi là chính, sau này về nước chỗ làm đã có cha mẹ “dọn” sẵn, điều này dễ thấy với dạng con ông cháu cha. Hoặc dễ chệch hướng, sa ngã.
Ðám quan chức và những kẻ thủ lợi nhiều nhờ chế độ này, miệng thì chửi bới Mỹ và các nước “tư bản giãy chết” nhưng hỏi ra đều đã tính đường “hạ cánh an toàn” cả. Phần lớn đều có con cái, nhà cửa, cơ sở kinh doanh ở Mỹ hay một nước phương Tây, có trương mục trong các ngân hàng uy tín nhất thế giới. Ðám này sướng từ trong nước đến khi ra nước ngoài vẫn tiếp tục nhàn nhã nhờ vào những đồng tiền mà chúng tham nhũng, ăn cướp từ nhân dân.
Và vẫn chưa hết, cảnh vượt biên bằng đường biển, đường bộ… Úc là một trong những điểm đến được nhắm tới trong những năm gần đây của thuyền nhân Việt và các nước khác. Nhưng với chính sách mới cứng rắn của chính phủ Úc, người Việt vượt biển sẽ không bao giờ được định cư ở Úc mà nếu được xét là người tỵ nạn thực sự, họ cũng chỉ được định cư tại đảo Papua New Guinea mà thôi.
Ðất nước như một con tàu lớn đang chìm dần trong khi những người cầm lái thì vẫn tiếp tục mù quáng, chưa tỉnh thức, buộc lòng nhân dân, mạnh ai nấy phải tìm cách nhảy ra khỏi con tàu đắm vậy.
Như câu hát của nhạc sĩ họ Trịnh: “Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi…” (bài “Một cõi đi về”). Có lẽ chỉ đến khi chế độ này sụp đổ và thay đổi theo hướng tự do dân chủ, mới hết cảnh người Việt bỏ nước ra đi, hết những bi kịch đầy máu và nước mắt đằng sau những cuộc trốn chạy khỏi thiên đường XHCN Việt Nam

từ Lâm Kim Trọng

Đổi mới là mệnh lệnh cuộc sống

Đổi mới là mệnh lệnh cuộc sống

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-01-31

RFA

000_Hkg9412950-305.jpg

Bán hoa đào Tết ở Hà Nội hôm 27/1/2014

AFP photo

Trong dịp năm mới Giáp Ngọ 2014, TS Lê Đăng Doanh chuyên gia kinh tế độc lập ở Hà Nội qua Đài Á Châu Tự Do đã gởi lời chúc đến người dân và cộng đồng doanh nghiệp tại Việt Nam.

“Tôi xin chúc và cầu mong người dân Việt Nam và các doanh nghiệp sẽ có thể thực hiện các quyền tự do kinh doanh, các quyền tự do dân chủ của mình như trong Hiến pháp để thúc đẩy nền kinh tế, thúc đẩy đất nước phát triển lên. Trong giai đoạn sắp tới đây nền kinh tế Việt Nam sẽ phải hội nhập đứng trước những cơ hội và những thách thức hết sức to lớn và cũng gay gắt.”

Nhiều “bệnh” nặng

Ngày 29/1/2014, trên báo Saigon Tiếp Thị Online, TS Lê Đăng Doanh, có bài viết “Đâu là thách thức lớn nhất trên đường phát triển?” Chuyên gia kinh tế này từng là thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương và sau này là thành viên Viện Nghiên cứu phát triển IDS đã tự giải thể, khi chính phủ dùng biện pháp hành chánh để cản trở tính cách độc lập của tổ chức này.

Theo TS Lê Đăng Doanh, câu hỏi nhiều người đặt ra trong những giờ phút suy tư trầm lắng của mùa xuân là “Phải làm gì để đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng và trì trệ kéo dài này.”

TS Lê Đăng Doanh nhận định sau hơn 20 năm đổi mới với một số thành công đầy hứng khởi, ngày nay nhìn thẳng vào đời sống kinh tế-xã hội, ai cũng thấy lo âu cho tương lai đất nước. Theo lời ông, hiện nay thể chế đã trở thành nút thắt cổ chai quan trọng nhất phải vượt qua nếu nền kinh tế muốn tiếp tục tiến lên. Không cải cách thể chế, Việt Nam không chỉ bế tắc trong “bẫy thu nhập trung bình” mà còn phải đối mặt với những xung đột xã hội ngày càng tăng.

Vẫn theo TS Lê Đăng Doanh nền kinh tế đang phải đối mặt với nhiều bệnh nặng: nợ xấu ngân hàng, khủng hoảng bất động sản, doanh nghiệp nhà nước nợ lên đến 1,3 triệu tỷ đồng, nợ công tăng quá nhanh, số lớn doanh nghiệp tư nhân phá sản, đóng cửa, số còn lại chỉ kinh doanh cầm chừng hay đình đốn.

Trong bài viết TS Lê Đăng Doanh còn đề cập tới lũ lụt tàn phá miền Trung, nhân dân chịu thiệt hại lớn không chỉ là thiên tai mà có phần quan trọng là “nhân tai”: phá rừng, làm thủy điện thiếu tính toán đến môi sinh và an toàn của người dân vùng hạ lưu.

TS Lê Đăng Doanh nhấn mạnh trong bài viết của ông trên SGTT Online:  Tại Việt Nam tệ nạn tham nhũng, tiêu cực lớn nhỏ đều khắp, lãng phí chia chác rất phổ biến. Bộ máy hành chính cồng kềnh, tốn kém mà không hiệu quả, việc bổ nhiệm nhân sự hoàn toàn không minh bạch, không qua sự giám sát, xét duyệt của cơ quan dân cử, có quá nhiều cán bộ kém năng lực. Lợi ích nhóm chi phối không ít quyết định và chính sách, cơ chế “xin-cho” lại thịnh hành và thay thế quyền tự do kinh doanh, cạnh tranh theo pháp luật.

Tôi nghĩ rằng, công cuộc cải cách doanh nghiệp nhà nước cũng đòi hỏi những những quyết định, những biện pháp mạnh mẽ hơn để đưa những biện pháp đó vào thực tế.
– TS Lê Đăng Doanh

Đối với câu hỏi “Phải làm gì để đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng và trì trệ kéo dài”, TS Lê Đăng Doanh đưa ra câu trả lời là cần cải cách thực chất về thể chế. Trong đó thực hiện công khai minh bạch theo các chuẩn mực quốc tế về chi tiêu ngân sách, cũng như trong các hoạt động khác của chính quyền. Vị chuyên gia nhấn mạnh rằng, phải luật hóa vai trò giám sát của báo chí, tổ chức quần chúng đối với bộ máy nhà nước, luật hóa quyền tiếp cận thông tin của người dân. Pháp luật phải bảo vệ người tố cáo tham nhũng, tiêu cực, thực hiện được điều gọi là  làm cho công chức “không dám tham nhũng, không thể tham nhũng và không cần tham nhũng.”

TS Lê Đăng Doanh cũng kêu gọi xóa bỏ những “vùng cấm”, đặc quyền đặc lợi, hạn chế sự lộng hành của các nhóm lợi ích bất chính. Ông cho là, những cải cách đó không có gì mới, nhiều nước đã áp dụng và họ đã xây dựng được nền kinh tế phồn vinh, xã hội công bằng, thịnh vượng, văn minh.

Phần kết trong bài viết trên SGTT Online, TS Lê Đăng Doanh hàm ý một tối hậu thư cho Đảng và Nhà nước: “Đổi mới vì đó là mệnh lệnh cuộc sống, sự thôi thúc của người dân trong mùa xuân trên đất nước Việt Nam này.”

TS Lê Đăng Doanh được ghi nhận như một nhân vật tích cực ủng hộ quan điểm đổi mới thể chế kinh tế-chính trị trong thông điệp đầu năm  2014 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Đáp câu hỏi của Nam Nguyên là đã một tháng trôi qua, chuyên gia có nhận thấy một tín hiệu nào về việc chính quyền thực hiện những lời hứa hẹn của Thủ tướng. TS Lê Đăng Doanh đáp lời:

“Thủ tướng có triệu tập một số nhà kinh tế trong nhóm tư vấn kinh tế tài chính của Thủ tướng và cũng đã yêu cầu xây dựng một kế hoạch thực hiện cái thông điệp đó. Trong cuộc họp của chính phủ vừa qua, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam có trình bày một dự thảo kế hoạch về nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam, của các doanh nghiệp Việt Nam. Cho đến nay các nỗ lực ấy chủ yếu mới chỉ dừng lại ở các dự thảo và chương trình hành động. Còn về các công việc thực tiễn thì chính phủ tập trung vào việc lo Tết cho dân và cung cấp gạo cho những người nghèo, cũng như bảo đảm cho người công nhân ở Hà Nội và TP. HCM được về quê ăn Tết. Tôi nghĩ rằng đấy là các nỗ lực ban đầu của chính phủ và nhằm tập trung vào cái Tết Giáp Ngọ này.”

Dân mất niềm tin

000_Hkg9412954-250.jpg

Một phụ nữ bán trái cây rong ở Hà Nội đang đếm tiền hôm 27/1/2014. AFP photo

Câu chuyện đổi mới thể chế cả kinh tế lẫn chính trị không phải là chủ trương mới nhưng trước kia nói nhiều hơn làm, bây giờ được tái vận động mạnh mẽ, người dân hoài nghi vì đã mất niềm tin. Vậy những việc cần làm ngay của nhà nước sẽ là gì. Nam Nguyên nêu câu hỏi này và được TS Lê Đăng Doanh trả lời:

“Hiện nay về mặt Đảng, ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có nỗ lực thúc đẩy chống tham nhũng bằng các biện pháp như yêu cầu phải kê khai tài sản và có chỉ thị yêu cầu phải công khai việc kê khai tài sản đó ở mức độ cao hơn so với trước đây. Ông Tổng Bí thư cũng sử dụng Ban Nội chính để thúc đẩy quá trình điều tra chống tham nhũng và đưa ra một số vụ án như Vinalines với Dương Chí Dũng và em là Dương Tự Trọng.

Còn về phía Chính phủ thì trong chương trình hành động cũng có đề ra một số biện pháp, nhưng trong cuộc thảo luận về thực hiện thông điệp 2014 thì một số nhà trí thức mong muốn có những biện pháp ngay trước mắt mạnh mẽ hơn và cụ thể hơn. Thí dụ như xem xét trả tự do một số người bị giam giữ mà thực sự không có hành động gì chống đối ngoài việc phát biểu ý kiến một cách thẳng thắn. Bên cạnh đó bãi bỏ một số quyết định ban hành trước đây mà ngày nay thấy không thích hợp. Thí dụ như Quyết định 97 dẫn đến việc Viện Nghiên cứu Phát triển IDS đã phải tự giải thể…v..v.. Những ý kiến đó cho tới nay chưa thấy được thực hiện.”

Bước vào Năm mới Giáp Ngọ, người dân Việt Nam có thể hy vọng gì khi cách đây không lâu các chuyên gia đã liệt kê những khăn rất lớn đang tồn tại của nền kinh tế. TS Lê Đăng Doanh nhận định:

“Tình hình của Tết Giáp Ngọ này phản ánh rất rõ sức mua giảm, rồi hoa đào cành đào quất ở Hà Nội ế và ê hề ra cả. Tôi thấy có những người bán phải vứt cành đào đi vì họ thấy sức mua giảm, giá giảm đến mức nếu họ ở lại Hà Nội thêm nữa thì cũng không có đủ tiền để tiếp tục kinh doanh. Đấy là thể hiện rất rõ sức mua giảm sút của người dân.

Tôi nghĩ trong thời gian sắp tới cần phải có những biện pháp mạnh mẽ về việc thực hiện công khai minh bạch về việc kê khai tài sản, về việc sử dụng một cách có hiệu quả và công khai ngân sách nhà nước; hạn chế tối đa việc lạm dụng ngân sách nhà nước vào việc tư thí dụ dùng xe công đi ăn cưới hay đi lễ hội…mới đây báo chí có nêu lên cảnh dùng xe công đi lên tận Sơn La để chở đào rừng về Hà Nội. Tất cả những biểu hiện đó cần phải được sớm chấm dứt và đưa ra xử lý.

Tôi nghĩ rằng, công cuộc cải cách doanh nghiệp nhà nước cũng đòi hỏi những những quyết định, những biện pháp mạnh mẽ hơn để đưa những biện pháp đó vào thực tế. Nếu thực hiện được các biện pháp đó thì tôi hy vọng nền kinh tế Việt Nam có thể vươt qua những khó khăn. Nếu không thực hiện được những biện pháp cải cách mạnh mẽ thì tình hình ngân hàng, tình hình nợ xấu, sự trì trệ trong bất động sản cũng như tình hình sử dụng ngân sách nhà nước một cách lãng phí trong đầu tư công có thể sẽ lại tiếp tục làm cho nền kinh tế Việt Nam trì trệ. Đây là điều rất cần tránh.”

Trong thời gian sắp tới cần phải có những biện pháp mạnh mẽ về việc thực hiện công khai minh bạch về việc sử dụng một cách có hiệu quả và công khai ngân sách nhà nước
– TS Lê Đăng Doanh

Nếu TS Lê Đăng Doanh cho là “Đổi mới là mệnh lệnh cuộc sống, sự thôi thúc của người dân trong mùa xuân trên đất nước Việt Nam”, vậy thời gian cần thiết để nhà nước Việt Nam thực hiện tối hậu thư của nhân dân sẽ như thế nào. TS Phạm Chí Dũng, một nhà nghiên cứu chính sách ở TP.HCM, người vừa từ bỏ đảng Cộng sản nói với chúng tôi là sẽ có một độ trễ nhất định. Ông nói:

“Nếu vấn đề cải cách kinh tế hay là xóa độc quyền có thể thực hiện ngay trong năm 2014 với một độ trễ khoảng từ 8 tháng tới một năm, thì nhân quyền phải cần ít nhất 2 năm để người ta quen dần với khái niệm mới và quen dần với cách ứng xử mới, cách ứng xử có văn hóa hơn. Chứ không phải giống như là cách ứng xử  tôi gọi là một nền văn hóa đấm đá nhân quyền mà ngay cả những ngày đầu năm mới 2014 vẫn xảy ra.”

Sau khi thống nhất đất nước vào năm 1976,  Nhà nước Việt Nam cai trị đất nước theo chính sách lỗi thời của Đảng Cộng sản dẫn tới bế tắc toàn diện, lạm phát cao nhất lên tới mức 800% trong những năm 1980. “Đổi mới hay là chết” trở thành khẩu hiệu để tới đầu những năm 1990 Việt Năm bước vào một mùa xuân đổi mới.

Ngày nay đất nước đang lâm vào khủng hoảng và trì trệ kéo dài, nhu cầu cải cách kinh tế chính trị một lần nữa được đặt ra, điều mà TS Lê Đăng Doanh gọi là : “Đổi mới – đó là mệnh lệnh của cuộc sống, là sự thôi thúc của người dân trong mùa xuân trên đất nước Việt Nam này.”

 

Câu chuyện đầu xuân: Văn hóa Việt trong vận khí suy vong

Câu chuyện đầu xuân: Văn hóa Việt trong vận khí suy vong

Thụy My

RFI

Đầu năm, khi đất trời vào xuân, cũng là dịp để suy ngẫm lại những vấn đề về văn hóa. RFI đã phỏng vấn tiến sĩ Phạm Chí Dũng, cũng là một nhà văn đồng thời còn là người có nhiều bài viết phê bình về văn học nghệ thuật.

 

Tiến sĩ Phạm Chí Dũng

 

01/02/2014

 

Nghe (11:37)

 

 

 

RFI : Thân chào tiến sĩ Phạm Chí Dũng, rất vui được tiếp chuyện anh nhân dịp xuân về. Trước hết anh có thể cho biết cảm xúc của anh trong bầu không khí đầu năm mới ?

Rất khó tả, nhưng rõ rệt nhất là thiếu hẳn hương sắc mùa xuân. Làm sao có thể vui nổi khi đây là cái Tết thứ ba liên tiếp tôi chứng kiến cảnh tượng hàng vài chục ngàn công nhân ở các khu công nghiệp, khu chế xuất không có đủ tiền mua vé tàu xe về quê ăn Tết. Với họ, đang xảy ra một nét văn hóa rất mới, có thể gọi là “văn hóa tết cấm trại”. Tức phỏng theo một điều lệnh trong quân đội, công nhân ở nguyên trong khu nhà trọ mà không dám bước ra đường vì chẳng có tiền. Mà như vậy thì còn gì là tết?

Không khí đường phố cũng uể oải và bải hoải. Chỉ sát Tết người dân mới có chút tiền để mua sắm, nhưng ở nhiều tụ điểm mai và đào vẫn ế chỏng chơ. Khách hàng đã và đang quay lưng với thị trường như một dạng văn hóa phủ nhận trong kinh doanh.

Đã đến lúc người dân không thể mặc định sắc màu của nền văn hóa dân tộc như những báo cáo tô hồng của chính phủ về nền kinh tế hay những nghị quyết của đảng về đường lối kiên định đi lên chủ nghĩa xã hội đến hết thế kỷ 21. Hiện tại được dẫn dắt bởi quá khứ, và tương lai lại được quyết định bởi những gì trong hiện tại.

Quá khứ đó, chúng ta thấy cái gì? Năm 2013 chứng kiến những trận hôi của vĩ đại chưa từng thấy ở một số địa phương, cuộc tranh cướp bánh sushi trong một nhà hàng ngay tại thủ đô, cho dù không thể cho rằng tất cả những người tranh giành đều đói khát và đất nước cũng chưa đến thời đói kém…

Những hiện tượng xã hội đó đang góp phần triệt tiêu nhanh chóng khẩu hiệu của đảng “xây dựng nền văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc”. Tương tự, điều lạ lùng là trong mấy năm gần đây, chẳng mấy cơ quan tuyên giáo và dân vận còn nhắc tới khẩu hiệu này. Vì sao vậy? Đơn giản là thực tiễn đã trở nên tồi tệ đến mức giới chức đảng lẫn chính quyền không thể cứ mãi tự ru ngủ mình và mị dân xã hội bằng những lý lẽ một chiều đã bị thực tế bào mòn đến tận chân gốc. Dù luôn bị ăn sâu tâm lý thành tích, ít nhất họ cũng phải tự rung động một nỗi xấu hổ tối thiểu nào đó chứ!

RFI : Những giá trị truyền thống của ông cha như « Giấy rách phải giữ lấy lề », « Một câu nhịn chín câu lành »…dường như đã bị thay bằng sự vô cảm, tâm lý mạnh được yếu thua. Ngày nào đọc báo cũng đều thấy những tin được gọi là « cướp, hiếp, giết », người ta sẵn sàng chà đạp lên nhau, thậm chí mạng người có thể bị mất đi vì những lý do rất nhỏ nhặt. Thưa anh, phải chăng đạo đức xã hội đang rơi xuống tận đáy ?

Khi xảy ra cái chết ở thẩm mỹ viện Cát Tường tại Hà Nội vào năm 2013, một quan chức cao cấp ngành y tế đã phải thốt lên rằng đạo đức và y đức đã xuống đến đáy. Nhưng tôi cho là tất cả vẫn chưa phải tồi tệ nhất. Cái tồi nhất nằm ở phía trước, ở thì tương lai đầy sương mù và dưới vực thẳm, mà chế độ này và phần lớn dân chúng vẫn chưa hình dung hết.

Phía trước ấy là một cuộc tha hóa vĩ đại của toàn bộ nền văn hóa. Tuân theo quy luật vật chất quyết định ý thức, kinh tế quyết định văn hóa và bất kỳ khi nào nền kinh tế lao vào hố sâu khủng hoảng, đời sống sẽ trở nên thiếu thốn và đói kém đến mức một bộ phận dân chúng sẵn sàng giết nhau để sinh nhai.

Lịch sử đã chứng minh hết sức cận kề ở một quốc gia đông dân nhất thế giới, chính là Trung Quốc trong thời Cách mạng văn hóa những năm 60 của thế kỷ trước. Khi đó có đến 30 triệu người bị chết không chỉ bởi vô số cuộc thanh trừng, mà còn bởi đất nước này đã rơi vào thảm trạng đói kém đến mức tại một số nơi người dân đã phải ăn nhau để cầm hơi. Đó chính là điều tồi tệ phi nhân tính nhất, mà một nền văn hóa suy đồi đến tận cùng có thể mang lại.

Năm 2013 đã trở nên một đặc tả khá kinh khủng, trên bức tranh khốn quẫn của nền văn hóa đang lao dốc và còn chưa tìm thấy đáy ở Việt Nam. Cùng với cái gọi là nền văn hóa tham nhũng chưa từng thấy ở đất nước này, khắp nơi trong xã hội đã diễn ra cảnh cha con giết nhau, vợ chồng giết nhau, thầy đánh trò và trò giết thầy, nạn cướp của và hiếp dâm nổi lên khắp nơi. Cường hào ác bá cũng hoàn hành tàn lộng và bất chấp đạo lý. Nhưng nghịch lý ghê gớm là kinh tế càng suy thoái, người giàu lại càng giàu. Không biết bao nhiêu quan chức đã ních đầy túi và chỉ còn chờ chực cơ hội biến khỏi tổ quốc nếu xảy ra động loạn…

Rồi một điều tất yếu phải xảy ra là khi luật pháp không còn là mái nhà che chở cho người dân, chính nhân dân đã phải làm thay luật pháp. Nạn tự xử đối với những kẻ trộm chó mèo diễn ra ở Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, … Ở Bắc Giang, khi vài người dân bị công an khởi tố bắt giam vì đánh chết cẩu tặc, đã có đến 800 người dân khác đồng ký tên vào một bản tuyên bố cùng nhận tội. Đó là cái gì? Một loại văn hóa phản kháng của người dân đang phát tiết ngay trong lòng chế độ “của dân, do dân và vì dân”.

Tố chất văn hóa phản kháng đó đã dẫn đến làn sóng chống người thi hành công vụ lan rộng một cách đầy tự phát và bạo lực ở nhiều nơi. Không hiếm cảnh thanh niên đi đường và những người dân “săn sóc” một cách đặc biệt đến hành vi của cảnh sát giao thông, bởi lực lượng cảnh sát bị xem là đối tượng tham nhũng nhất quốc gia này càng ngày càng mang ý nghĩa như một mồi lửa châm ngòi cho các cuộc xung đột tự phát và rất khó kềm chế.

RFI : Thưa anh đầu năm thường nói chuyện vui, nhưng bức tranh thực tế xã hội lại quá xám. Những cách hành xử của con người thường từ nền giáo dục mà người đó được hấp thụ. Vậy thì theo anh trách nhiệm của ngành giáo dục đối với nền văn hóa như thế nào ?

Đóng góp không nhỏ vào sự xuống cấp của nền văn hóa là thực trạng lầy lội và ô nhiễm nặng mùi của ngành giáo dục vẫn chưa hề được cải tạo. Tiên đề “Tiên học lễ, hậu học văn” từ ngàn đời nay đã từ lâu bị phần lớn trường học biến thành thảm trạng mà chúng ta nên nhận thức lại là “Tiên học phí, hậu học thêm”. Có lẽ mệnh đề này mới nói lên tất cả cái thực trạng quay quắt đến mức khốn cùng của môi trường giáo dục đào tạo và giới quan chức điều hành ngày nay.

Không khác gì thị trường bất động sản, vài năm gần đây người ta đã phải dùng đến cụm từ “bong bóng đại học” cho sự bùng nổ bội cung của hàng trăm trường đại học tư thục và dân lập từ Bắc chí Nam. Nhưng ngược lại với đà tăng tiến theo cấp số nhân về số lượng các trường đại học, cao đẳng và chương trình “đào tạo 20.000 tiến sĩ’ của nguyên Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Thiện Nhân và đời Bộ trưởng kế vị, chất lượng đào tạo còn lâu mới làm nên một nền văn hóa xứng tầm với Thái Lan. Ít nhất là về tỉ lệ công trình nghiên cứu được công bố trên đầu các tiến sĩ, cùng bài luận văn tả cảnh các cô giáo bỏ nghề và học sinh vùng cao phải bắt chuột ăn thay cơm.

Tình trạng xuống cấp toàn diện của giáo dục và văn hóa cũng khiến cho hiện tượng không có tác phẩm hay trong văn học nghệ thuật trong suốt nhiều năm qua trở nên rất dễ lý giải trong đời sống văn nghệ Việt Nam. Bất chấp các cuộc thi và trao giải thưởng đều đặn hàng năm của các hội đoàn văn học và nghệ thuật nhà nước, vẫn không có lấy vài ba tác phẩm trong lĩnh vực văn học, sân khấu, mỹ thuật, điện ảnh, âm nhạc… ghi dấu ấn cho một tinh thần hồi tâm thành khẩn.

Hầu như tất cả đều nhàn nhạt, nhòa nhạt và luôn đi sau hiện tồn nhức nhối của xã hội ít ra vài thập kỷ. Nhiều nhà văn và nhà viết kịch đủ lòng tự trọng không còn cầm nổi bút, bởi tâm trạng chán chường và thất vọng quá giới hạn cho phép. Chỉ còn một số người viết vì cơm áo gạo tiền, hoặc làm cái gọi là “sáng tạo” vì các đơn đặt hàng và giải thưởng từ Nhà nước. Không thể nói khác hơn, văn học nghệ thuật quốc doanh từ lâu nay đã mang trên mình thiên chức văn hóa cộng sinh.

RFI : Khái niệm « văn hóa cộng sinh » mà anh vừa đề cập, có lẽ không thể loại trừ giới quan chức, vì những lề thói đã ăn sâu vào họ ?

Văn hóa gia đình, văn hóa trường học và văn hóa cộng đồng là ba rường cột của một nền văn hóa. Nhưng một khi cả ba trụ cột ấy đều bị xâm hại một cách trầm kha, thì không còn gì có thể cứu vãn nổi một nền văn hóa chính trị. Nhất là khi nền văn hóa chính trị ấy lại bị ruỗng mục bởi thói vô cảm, vô trách nhiệm và quá đậm đặc tố chất lợi ích nhóm của giới quan chức.

Vì thế, chúng ta có thể coi văn hóa quan chức là thành tố thứ tư gây xâm hại đối với nền văn hóa Việt Nam đương đại, nhưng đặc biệt hơn cả lại là nhân tố cộng sinh ưu tú nhất. Giới quan chức đổ cho 70% doanh nghiệp chủ động đưa hối lộ, nhưng làm sao có thể lý giải sự mâu thuẫn không thể chấp nhận được, giữa tỉ lệ “chỉ có 1% công chức yếu kém” như báo cáo của chính quyền, với con số ít nhất 30% công chức “chủ động nhận hối lộ” trong những kết quả khảo sát về tham nhũng?

Một cuộc khủng hoảng văn hóa đang tăng tiến với gia tốc ngày càng gấp rút. Cuộc khủng hoảng ấy lại biến diễn sang cuộc khủng hoảng niềm tin của người dân đối với xã hội, của công dân đối với đất nước và cuối cùng là của người dân đối với chế độ. Những cuộc điều tra xã hội học đã cho thấy niềm tin của giới trẻ vào đảng và chế độ sa sút khủng khiếp, và trong giới trẻ giờ đây không còn cái gọi là lý tưởng nữa. Nếu có được một cuộc khảo sát độc lập, người ta tin chắc rằng chỉ còn không đầy 10% trong số lớp trẻ tin vào việc “nền văn hóa xã hội chủ nghĩa” có thể tôn tạo cho nền văn hóa dân tộc.

Ngược lại, một chủ nghĩa văn hóa phủ nhận đang hình thành và phát triển rất ghê gớm trong một số khá đông lớp trẻ ở Việt Nam.

RFI : Về « chủ nghĩa văn hóa phủ nhận » như anh nói, theo anh lớp trẻ đang phủ nhận những giá trị gì ?

Phủ nhận những giá trị tinh thần, phủ nhận những giá trị truyền thống, và phủ nhận với chính những thế hệ đi trước. Hiện tượng đó làm chúng ta nhớ lại thế hệ mất mát, nảy sinh ở châu Âu trong vài thập kỷ sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Cũng là suy thoái kinh tế trầm kha, cũng là cái nhìn về một tương lai mơ hồ, cũng là tâm trạng đầy bất an và dễ nổi loạn.

Nhưng ở Việt Nam, điều nguy hiểm hơn nhiều là cái tương lai như thế còn trở nên vô định bởi một nền chính trị hủ hóa, cố chấp và luôn có nguy cơ gây nên hiệu ứng hạ cánh cứng. Từ đó sẽ sinh đẻ vô số hậu quả trầm luân cho đời sống người dân, đặc biệt là dân nghèo.

Hơn bao giờ hết, đặc thù văn hóa Việt Nam được quyết định bởi nội lực nền kinh tế và kế sinh tồn của mỗi công dân. Trong giai đoạn “cất cánh” từ thời mở cửa kinh tế những năm 1990, chủ nghĩa kiếm tiền và đầu cơ thượng hạng đã phủ trùm lên cả xã hội, để sau đó vào thời kỳ suy thoái từ năm 2008 đến nay, điều được coi là “văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc” cũng bị suy mòn theo lý lịch không mấy trong sáng của đồng tiền.

Phía trước, màu đen khó che giấu của của nền kinh tế đang chờ đón một khoảng trống chân không văn hóa, nơi mà hố sâu bất bình đẳng xã hội sẽ sâu thẳm hơn bao giờ hết. Tâm lý chà đạp lẫn nhau sẽ thổi bùng lên ngọn lửa tranh đấu cực kỳ tàn khốc giữa các giai tầng và trong chính từng giai cấp, để cuối cùng bản thân nền văn hóa bị giẫm đạp đến kiệt sức.

Không thể lạc quan về nền văn hóa Việt trong năm 2014 và cả những năm sau đó, tôi cho rằng sự biến mất của một nền chính trị đương thời còn dễ được chấp nhận hơn rất nhiều, so với những mất mát của một nền văn hóa dân tộc mà người dân nước Việt có thể phải mất đến nửa thế kỷ để phục hồi nó.

Rất nhiều người như tôi vẫn ngày đêm dồn dập thổn thức trong lòng một câu hỏi đích đáng: Ai và những tác nhân nào đã khiến cho nền văn hóa dân tộc suy đồi và suy vong ghê gớm đến thế? Kẻ nào phải chịu trách nhiệm lịch sử về hậu quả lịch sử quá đau đớn ấy?

RFI : Xin chân thành cảm ơn tiến sĩ Phạm Chí Dũng đã dành thì giờ để tâm tình với thính giả RFI Việt ngữ trong những ngày đầu năm về những suy tư liên quan đến nền văn hóa Việt.

 

Nữ sinh Việt và con đường tới Đại học Harvard

Nữ sinh Việt và con đường tới Đại học Harvard

Tường Vân trong ngày tốt nghiệp trung học.

Tường Vân trong ngày tốt nghiệp trung học.

VOA Tiếng Việt

29.01.2014

Lê Tường Vân đã từ chối 6 trường đại học hàng đầu của Mỹ để tới theo học tại ngôi trường lâu đời nhất Hoa Kỳ.

Vân cho biết, ngoài Harvard, cô còn nộp đơn vào 6 trường hàng đầu khác của Mỹ như Princeton, Yale hay Stanford, và cô được nhận vào học tất cả các trường này với học bổng toàn phần.

Sau đó, cô cân nhắc giữa Princeton và Harvard, và sau khi tới thăm hai nơi này, cô quyết định chọn đại học từng đạo tạo 8 tổng thống Mỹ.

Lý giải về lựa chọn của mình, cô gái tuổi đôi mươi nói rằng cô chọn Harvard vì môi trường học vấn, và đặc biệt, Boston, nơi đại học này tọa lạc, là thành phố khá thân thiện với sinh viên cũng như có nhiều cơ hội thực tập và làm việc.

” Nhưng có một bài học tôi rút ra được khi học ở Harvard, đó là không so sánh mình với người khác, và luôn nghĩ về điều mình có thể đạt được, về con đường riêng của mình, những mục tiêu riêng của mình để hướng tới nhưng đồng thời cũng phải hiểu rõ bản thân mình, những hạn chế của mình để khắc phục. Ta không nên so sánh vì luôn luôn có những người tài giỏi hơn mình.

Lê Ngọc Tường Vân nói.”

Vân kể với VOA Việt Ngữ về một bài học sau khi kết thúc kỳ đầu tiên tại Harvard: “Không chỉ riêng tôi, mà mọi người ở Harvard đều luôn hết sức bận rộn. Trong năm đầu tiên, đôi khi tôi cũng cảm thấy căng thẳng lắm vì xung quanh mình toàn những bạn có thành tích học tập đáng nể. Tôi cũng cảm thấy bị áp lực phải cố gắng nhiều hơn nữa. Mọi người ở đây ai cũng vậy”.

Cô nói tiếp: “Nhưng có một bài học tôi rút ra được khi học ở Harvard, đó là không so sánh mình với người khác, và luôn nghĩ về điều mình có thể đạt được, về con đường riêng của mình, những mục tiêu riêng của mình để hướng tới nhưng đồng thời cũng phải hiểu rõ bản thân mình, những hạn chế của mình để khắc phục. Ta không nên so sánh vì luôn luôn có những người tài giỏi hơn mình”.

Cô gái nhỏ bé tới Mỹ du học cùng với anh trai sau khi học xong lớp 6 tại TP Huế.

Vượt qua những khó khăn ban đầu về ngôn ngữ, suốt những năm học cấp hai và cấp ba, Vân đã giành được nhiều giải thưởng, trong đó có bằng khen của Tổng thống Hoa Kỳ về thành tích học tập xuất sắc.

Ngoài việc học, Tường Vân cũng tham gia một loạt các hoạt động xã hội, thiện nguyện. Vừa qua, cô đã tới Trung Quốc để giúp đỡ trẻ em tại một trại trẻ mồ côi trong hai tuần nhân dịp nghỉ đông ở Harvard.

Khi được hỏi nếu có cơ hội đưa ra lời khuyên với những học sinh Việt Nam muốn nộp đơn vào các trường đại học nổi tiếng nước Mỹ như Harvard, Vân nói: “Hãy tận dụng mọi cơ hội mà bạn có. Học vấn là điều quan trọng nhất nhưng các hoạt động ngoại khóa cũng là cơ hội học tập rất tốt mà ta cần phải nắm bắt. Khi tôi học trung học, tôi học được nhiều từ các hoạt động động ngoại khóa hơn là các giờ học trên lớp. Các kỹ năng thực tế, kỹ năng lãnh đạo là những thứ rất quan trọng cho công việc trong tương lai”.

” Tôi nghĩ nhiều học sinh Việt Nam học rất giỏi, tôi không bao giờ nghi ngờ về điều đó. Điều bất lợi đối với học sinh Việt Nam là họ không tích cực tham gia vào các hoạt động ngoại khóa và các hoạt động vì cộng đồng. Tôi nghĩ đó là những yếu tố rất quan trọng khi các trường đại học xét hồ sơ xin học của các ứng viên.

Lê Ngọc Tường Vân nói thêm.”

Cô nói thêm: “Tôi nghĩ nhiều học sinh Việt Nam học rất giỏi, tôi không bao giờ nghi ngờ về điều đó. Điều bất lợi đối với học sinh Việt Nam là họ không tích cực tham gia vào các hoạt động ngoại khóa và các hoạt động vì cộng đồng. Tôi nghĩ đó là những yếu tố rất quan trọng khi các trường đại học xét hồ sơ xin học của các ứng viên”.

Ngoài việc học ở lớp, khi còn học cấp hai và cấp ba, Vân còn tham gia các cuộc thi khác nhau về toán cũng như viết luận, và đã giành nhiều giải thưởng.

Hiện cha mẹ của cô vẫn ở Việt Nam, và khi được hỏi về khả năng trở về nước làm việc, cô nói: “Tôi không hoàn toàn chắc chắn là tôi sẽ trở về Việt Nam sau khi học xong hay không, nhưng đó hoàn toàn là một khả năng. Tôi dự tính sẽ tới làm việc ở châu Á, có thể là Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc hay Việt Nam. Tôi muốn làm việc cho các tổ chức hay các công ty của Mỹ có chi nhánh tại Việt Nam”.

Truyền thông ở Việt Nam đã đưa tin về thành tích học tập của Tường Vân, và có tờ báo còn coi cô là một trong những người ‘làm rạng danh đất Việt’.

Website của nhiều đoàn thanh niên ở Việt Nam coi cô gái này là một tấm gương cho các đoàn viên khác.

Trang web của đoàn thanh niên tỉnh Quảng Ngãi viết rằng Vân là một trong các ‘trí tuệ Việt đấm chuông xứ người’ và đã ‘khẳng định thương hiệu Việt’.

Đảng vinh quang, tài tình: Thứ tôn giáo xuống cấp

Đảng vinh quang, tài tình: Thứ tôn giáo xuống cấp

Fri, 01/31/2014  nguyenhuuvinh

RFA

Ngày đầu xuân Nhâm Ngọ, trên mọi nẻo đường đất nước, nhan nhản đâu đâu ta cũng gặp câu khẩu hiệu: “Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm”. Đọc   qua, người ta cứ ngỡ rằng Đảng ta” được ca tụng tận mây xanh, vinh quang thật và vĩ đại thật!

Nhưng, thực chất, ngẫm kỹ thì câu khẩu hiệu này là phản động.

Nhất là nhìn vào cuộc sống người dân qua tết này, không khí tết đã cho thấy đó là sự mỉa mai.

Còn nhìn vào thực tế tấm lòng người dân người ta thấy đó là sự hài hước.

Lấp liếm và phản động

Điều lệ Đảng CSVN ghi như sau: “Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản…” Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định khi thế giới tiến đến Chủ nghĩa Cộng sản thì lúc đó “của cải tuôn ra dào dạt, mọi người làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” (Theo Chủ nghĩa Mác – Lênin). Khi đó xã hội hoàn thiện không còn đảng phái, giai cấp, thậm chí nhà nước cũng tiêu vong.

Vậy thì khi đến CNCS – hẳn nhiên không còn giai cấp, đảng phái và nhà nước cũng phải bị triệt tiêu. Vì thế, câu khẩu hiệu “Đảng Cộng sản Việt Nam muôn năm” chính là câu khẩu hiệu phản động nhất, đứng trên quan điểm CN Mác – Lênin.

Vậy mà luôn luôn mọi nơi, mọi lúc, hễ có điều kiện là câu khẩu hiệu nói trên được bưng ra mời chào. Phải chăng, thói nói một đằng làm một nẻo cũng bắt đầu nhiễm từ câu khẩu hiệu này trở đi?

Vinh quang, tài tình!

Chỉ mới mấy chục năm, chưa dài lắm, mà “Đảng ta” đã tự bộc lộ một sự èo uột, một sắc thái xám xịt thiếu sức sống. Đặc biệt với sự tụt dốc thê thảm về đạo đức, bản chất của đảng được bộc lộ ra ngoài hoàn toàn “khách quan, biện chứng” dù đã cố tình che giấu bằng mọi cách, kể cả che giấu bằng nhà tù và… súng.

Điều đó không phải do “thế lực thù địch” hoặc kẻ thù của đảng nói ra, nó được chính các cán bộ lãnh đạo đảng tự thú nhận bằng cách này hay cách khác. Qua từng thời kỳ, qua chính những phát biểu của lãnh đạo đảng và người dân nói về Đảng, điều không thể không nhận thấy rõ ràng bản chất của Đảng ngày càng lộ rõ và vì vậy người dân càng xa lánh, đảng mất thiêng.

Ngay từ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng  tháng 10/1930 đã ghi: “Đảng phải chuẩn bị cho quần chúng về “con đường võ trang bạo động” và “phải tuân theo khuôn phép nhà binh” đánh đổ chính phủ địch nhân, giành chính quyền”. Như vậy, đường lối của Đảng ngay từ đầu đã khẳng định con đường bạo lực và “cướp chính quyền”. Và việc đó đã xảy ra năm 1945, Đảng đã cướp được chính quyền về tay mình.

Dường như, khi men chiến thắng đang rừng rực trong mình, Đảng không hề giấu diếm bản chất của mình qua việc sử dụng các ngôn từ để biểu thị bản chất, mục đích của hành động. Trong các sách vở, tài liệu, Đảng ngang nhiên tuyên truyền việc “Cướp chính quyền” về tay mình bằng võ trang bạo động.

Thế rồi khi cầm quyền, Đảng tha hồ tung hô, được tung hô và tự tung hô cũng như buộc tất cả phải tung hô sự vinh quang, về đạo đức, về sự tuyệt vời của Đảng.

Nào là “…phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân” (Điều lệ Đảng).

Rồi thì “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. (Hồ Chí Minh)

Những cái mà Đảng tự nhận là “sai lầm” thực chất là hàng loạt tội ác, nhưng chỉ cần “nhận lỗi” thế là xong, Đảng lại tiếp tục vĩ đại, tiếp tục là đạo đức, văn minh. Về việc “nhận lỗi”, chúng tôi đã có bài viết “Khi người Cộng sản nhận lỗi” để đề cập đến vấn đề đó.

Biệt tài đổ lỗi của “đảng ta” luôn được phát huy trong mọi hoàn cảnh, điều kiện. Ngay từ xưa, người dân Việt Nam đã có lý khi đúc kết kinh nghiệm tuyên truyền của Đảng như sau: “Mất mùa là bởi thiên tai. Được mùa là bởi thiên tài Đảng ta”. Có lẽ chừng đó đã nói lên bản chất tranh công, đổ lỗi và không dám chịu trách nhiệm của “đảng ta”. Nhưng, điều đó cũng không cứu vãn nổi sự tụt dốc thảm hại về sự tín nhiệm vào đảng.

Như vậy, một đảng được vũ trang bằng lý thuyết vô thần, bạo lực, thực thi bằng dối trá, liệu đó có là sự vinh quang?

Một điều thường xuyên được nhai đi nhai lại là “Công lao của đảng lãnh đạo đất nước đứng lên chống thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ”(?) Thử xem?

Hẳn nhiên, khi đất nước chúng ta đánh đuổi thực dân, không chỉ có một Đảng CS, ở đó còn có các đảng phái khác. Dù nhiều người cho rằng, Đảng Dân Chủ và Đảng Xã Hội là hai con bài do Đảng CS giật dây lãnh đạo. Cũng rất có thể xảy ra trong thực tế. Tuy nhiên, về danh chính ngôn thuận, Đảng CS chưa dám đủ bản lĩnh thừa nhận việc hai cái đảng cá cảnh kia chỉ để làm những gì Đảng CS điều khiển. Ngay cả cái tên Đảng CS, khi đó đảng còn chưa dám danh chính, ngôn thuận.

Còn, cái gọi là “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước” liệu có đúng là cuộc chiến cứu nước hay không khi mà chính Lê Duẩn nói rằng: “Ta đánh Mỹ là đánh cả cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc”.

Vậy có gì là vinh quang, khi đảng đã tự nguyện trở thành người lính đánh thuê cho các ohe phái cộng sản khác nhau trên thế giới?

Nhận diện sự vinh quang, tài tình

Đi từ miền Bắc về miền Trung Tết này, không ai không thấy được một điều nổi bật: Không khí đón tết, mừng xuân năm nay quả thật trầm lắng và u uất. Hàng loạt các doanh nghiệp báo tử. Nơi nơi, câu cửa miệng của mọi người dân là làm ăn khó khăn, nạn thất nghiệp trầm trọng, nặng nề. Đời sống kinh tế của đất nước được thể hiện trên gương mặt hốt hoảng, ngơ ngác của những người tiêu dùng. Giá cả tăng chóng mặt, bất chấp đời sống người dân ra sao.

Suốt dọc chiều dài đất nước, điều người dân cầm chắc là sẽ tăng lên đều đều nhịp bước hoặc phi mã bất chấp quy luật và ý muốn, đó không phải là chất lượng cuộc sống người dân, mà đó là giá cả, là tai nạn, là trộm cướp… Đồng hành với chính sách cướp đoạt đất đai, một số lượng dân oan cứ tăng không ngừng và ngày càng đông đúc.

Một cái Tết đến không nằm trong sự háo hức, mong đợi của người dân Việt Nam. Nó chỉ nằm trong những miệng lưỡi ngợi ca đầy tính chất mị dân ồn ào, trống rỗng.

Tất cả những điều đó, đã dội những gáo nước lạnh ngắt và bẩn thỉu vào sự “sáng suốt và tài tình”.

Thế nhưng, dường như để trêu ngươi mọi người dân cho đến lúc nhận đủ sự chán chường của họ, những khẩu hiệu vẫn cứ nhan nhản khắp mọi nẻo đường trong những ngày đón xuân.

Tôn giáo tự hoại, Đảng xuống cấp!

Người ta cho rằng: Chủ Nghĩa Mác – Lenin cũng là một thứ tôn giáo, ở đó có đầy đủ Giáo lý, Giáo sỹ, Giáo phẩm và các tín hữu… Mặc dù trên cơ sở lý thuyết, thứ tôn giáo này không tin vào thần thánh, tâm linh, thứ mà nó đưa lên vừa là tôn thờ, vừa là phương tiện đó là Bạo lực và dối trá. Các cơ sở Đảng cộng sản, cũng chính là các cơ sở tôn giáo của giáo phái do Mác – Lênin sáng lập này.

Điều khác biệt các giáo phái và các tôn giáo khác là thứ tôn giáo này được lan truyền bằng súng đạn và máu. Mục đích là tiêu diệt hoàn toàn các giáo phái, các tín ngưỡng khác để cả hành tinh chỉ duy nhất một tôn giáo Mác – Lenin. Đó là con đường nhuốm đầy máu nhân loại mỗi nơi nó đi qua. Tín đồ của thứ tôn giáo này, là những tín đồ bắt buộc, họ không được có một lựa chọn nào khác ngoài sự phục tùng thứ tôn giáo này.

Thế nhưng, thay vì tồn tại hàng ngàn năm như các tôn giáo chân chính khác, thứ tôn giáo của máu và súng này đã nhanh chóng lụi tàn trên thế giới. Kể từ khi hình thành cho đến ngày sụp đổ ngay tại nơi sinh ra nó chỉ hơn 70 năm. Trên thế giới, chỉ còn lại vài ba chiếc vòi bạch tuộc của nó tự biến dạng để tồn tại một cách lỳ lợm mà nói theo cách của “Đảng ta” – một bộ phận của thứ tôn giáo này – là “vận dụng sáng tạo vào hoành cảnh thực tế”.

Cũng theo quy luật đào thải đó, “Đảng ta” dần dần bộc lộ những điểm yếu chết người mà không thể nào khắc phục: Độc trị dẫn đến độc tài và xã hội tha hóa dẫn đến suy vong.

Hà Nội, ngày 31/1/2014

J.B Nguyễn Hữu Vinh

 

Đối thoại trong chương trình cứu độ

Đối thoại trong chương trình cứu độ

chuacuuthe.com

images (2)

VRNs (30.01.2014) – Sài Gòn-

Nhân loại có kinh nghiệm về một cuộc “đối thoại” với loài ranh ma xảo quyệt, một cuộc nói chuyện không chỉ vô ích nhưng còn mang theo hệ lụy cả nhân loại phải chết, chỉ vì một phía nói chuyện không tôn trọng sự thật và đầy mưu mô xảo quyệt (Stk.3, 1–7). Trong bóng tối của sự chết đè nặng trên nhân loại, Thiên Chúa thực hiện chương trình cứu độ để giải thoát con người ra khỏi sự chết muôn đời.

Nếu “người đàn bà” năm xưa đã ngây thơ, chân thật và thiếu khôn ngoan thì Thiên Chúa lại tuyển lựa được một “người đàn bà” khác là “Tòa khôn ngoan“ của nhân loại, Bà đã đối thoại với Thiên Chúa để chấp nhận cho Thiên Chúa thực hiện chương trình cứu độ nhân loại qua sự dâng hiến chính cuộc đời của Bà.

“Bà Elisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáprien đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc nhà Ðavít. Trinh nữ ấy tên là Maria.

Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Ðấng đầy ân sủng, Ðức Chúa ở cùng bà. Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì.

Sứ thần liền nói: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Ðức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Ðavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.”

Bà Maria thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”

Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Ðấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa.  Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.

Bấy giờ bà Maria nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Rồi sứ thần từ biệt ra đi.”

(Lc. 1, 26 – 38)

Cuộc đối thoại giữa Đức Maria và Sứ thần của Thiên Chúa đã diễn ra trong tình trạng thật tuyệt mỹ, kết quả của cuộc đối thoại là chương trình cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện, mang lại ơn cứu thoát cho cả nhân loại.

Chúng ta nhận thấy: Cả hai, phía Thiên Chúa và phía Đức Maria,

–      Cả hai đếu có sự thật, sự thật về thân phận con người và sự thật về tình thương và quyền năng của Thiên Chúa. Đức Maria không ngần ngại bộc bạch về giới hạn của con người, Thiên Chúa không ngần ngại đoan quyết về quyền năng và tình thương của Ngài.

–         Cả hai đều tôn trọng sự thật và tôn trọng tư do lẫn nhau. Thiên Chúa ngỏ lời và Đức Maria hoàn toàn tự do quyết định.

–         Trong đối thoại, cả hai đều nói sự thật, không một chút lọc lừa, không gian manh xảo quyệt, không sắp đặt gài bẫy, không đầy đưa phỉnh phờ.

Trong đối thoại cả hai đều hướng về sự thiện, đều nhắm đến sự tốt lành và hạnh phúc cho nhân loại, “vì các linh hồn”.

–         Trong đối thoại cả hai đều rất khiêm tốn, Thiên Chúa thật khiêm tốn nhẹ nhàng ngỏ lời, Đức Maria thật khiêm tốn bày tỏ, và cuối cùng để Chúa thực hiện theo ý Chúa.

Năm mới mở ra một giai đoạn mới, chúng ta sẽ vẫn tiếp tục đối thoại với con người, đối thoại với người nghèo, đối thoại với xã hội, đối thoại với các tôn giáo bạn, đối thoại các nên văn hóa mới, … Sẽ không có kết quả của sự loan truyền đức tin nếu không có cung cách đối thoại như cuôc đối thoại của Đức Maria với Sứ thần của Thiên Chúa. Người Kitô hữu cần phải tỉnh táo. Kinh Thánh ngoài gía trị là chính lời của Thiên Chúa, Kinh Thánh còn là một bản đúc kết kinh nghiệm của nhân loại về lịch sử của nhân loại. Nhân loại đã có kinh nghiệm, bài học về kinh nghiệm không phải là bài học tầm thường, người khôn ngoan hãy trân trọng học hỏi.

Lm. Vĩnh Sang, dcct.

30 Tết (30/01/2014)