Từ Ukraina, Việt Nam sẽ học hỏi và cải cách những gì?

Từ Ukraina, Việt Nam sẽ học hỏi và cải cách những gì?

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2014-02-24

02242014-maclam.mp3

000_TS-Par7803470-600.jpg

Bà Catherine Ashton, đại diện ngoại giao châu Âu đang chụp hình tại khu tưởng niệm tạm thời những người thiệt mạng do biểu tình chống chính phủ tại Quảng trường Độc lập, Kiev hôm 24/2/2014

AFP photo

Khi giới cầm súng của Ukraina từ chối không tiếp tục bắn vào người dân theo lệnh của Tổng thống Viktor Yanukovych nữa thì cuộc cờ giữa dân chúng và chính phủ coi như kết thúc. Người luôn luôn chấp nhận những yêu cầu của Nga trước khi lắng nghe nguyện vọng của dân chúng đã phải rời bỏ dinh thự riêng cực kỳ xa hoa của mình để chạy trốn người dân. Viktor Yanukovych biết rõ nếu bị bắt sinh mạng của ông sẽ không ai bảo đảm, kể cả mẫu quốc Nga hay người bạn Putin.

Sự chọn lựa Nga, khước từ liên minh EU của Viktor Yanukovych đã dấy lên lòng căm phẫn của người dân Ukraina vốn luôn rất nhạy cảm với Nga, đất nước từng chôn vùi dân chúng Ukraina trong triểu đại Stalin qua cuộc tắm máu người dân nước này vào thập niên 30 đã làm cho dân chúng không còn sợ hãi họng súng của chính phủ.

Ba tháng kéo dài tranh đấu trong băng giá đã tôi luyện ý chí dân chúng cho thành quả hôm nay: độc tài phải ra đi nhường sân chơi lại cho những người yêu tự do dân chủ.

Những hứa hẹn về kinh tế của Nga không mê hoặc được dân chúng Ukraina vì họ biết rằng trong thế giới toàn cầu ngày nay đất nước này sẽ được vực dậy nếu có quyết tâm chuyển đổi nền kinh tế một cách khôn ngoan và Nga không phải là nước duy nhất có thể làm bạn với Ukraina khi bên cạnh nó một khối EU hùng mạnh sẵn sàng đưa tay nắm chặt người láng giềng đang tự cô lập mình bởi những món tiền mà tổng thống Viktor Yanukovych nhận được.

” Đúng là vấn đề Ukcraina với Việt Nam là khá giống nhau. Chính quyền đi thân với mẫu quốc chứ còn nhân dân thì người ta lại muốn tự do đi với phương tây thế cho nên hai bên mâu thuẫn, Việt Nam cũng đang y như thế.
– Tiến sĩ Hà Sĩ Phu “

Tiến sĩ Hà Sĩ Phu nhận xét biến cố này qua so sánh Ukraina với Việt Nam, một đất nước theo ông đang từ chối cơ hội tốt hơn để nhận về phần quà cho một thiểu số cầm quyền:

Đúng là vấn đề Ukcraina với Việt Nam là khá giống nhau. Chính quyền đi thân với mẫu quốc chứ còn nhân dân thì người ta lại muốn tự do đi với phương tây thế cho nên hai bên mâu thuẫn, Việt Nam cũng đang y như thế. Tóm lại mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam mà đại diện là những tầng lớp dân chủ, trí thức, giới trẻ và giới tiến bộ trong nhân dân với đảng. Nhân dân ở đây phải được hiểu là giới tiên tiến chứ số đông thì chỉ là con số chưa có định hướng.

Người ta bảo nhân dân là một dãy số 0 nhưng khi nó đứng sau một con số có nghĩa thì những số 0 ấy trở thành có nghĩa. Rõ ràng có mâu thuẫn giữa nhân dân và đảng. Cái quyết tâm giữ cho kỳ được cái độc tài, đặc quyền đặc lợi của Việt Nam nó còn mạnh hơn cả Ukraina nữa.

Blogger Mẹ Nấm cùng quan điểm với TS Hà Sĩ Phu khi chị cho rằng Việt Nam không hề cô độc sao phải tự lừa dối mình bằng chính sách ổn định chính trị, chị nói:

Việt Nam có rất nhiều sự lựa chọn chứ không phải chỉ có một con đường là ngả về phía Trung Quốc vì thật sự ngả về phía Trung Quốc không còn là lợi ích nhà nước hay quốc gia nữa mà là lợi ích và sự tồn vong của đảng cộng sản. Với cái thế cân bằng hiện nay mà Mỹ và các nước khác đã mở ra cho Việt Nam thì không thể dùng lý luận là nước yếu hay nhỏ đề mà thần phục Trung Quốc. Phải có thái độ dứt khoát và rõ ràng các vấn đề trên Biển Đông, biên giới hay vấn đề tiểu ngạch hay mậu dịch. Đừng sử dụng tiểu xảo với thế giới, cứ làm đàng hoàng thì Việt Nam chắc chắn sẽ có cửa đề thấy sự thay đổi.

Yều tố Trung Quốc đã và đang chia cắt chính quyền với người dân, tuy nhiên đối với nông dân thì mối quan ngại của họ vẫn là đất đai và hy vọng đó đã tiêu tan khi bản hiến pháp mới vẫn không thay đổi những lề luật cơ bản khi viết rằng “đất đai là sở hữu toàn dân do nhà nước quản lý”.

Ông Trần Văn Huỳnh, cha của người tù nhân lương tâm Trần Huỳnh Duy Thức cho rằng sai lầm quan trọng của nhà nước rất nhiều tuy nhiên làm yên dân trước tiên thì không gì tốt hơn là cải tổ luật đất đai, ông nói:

Rõ ràng là có những sai lầm trong vấn đề quản lý nhà nước và sửa đổi những sai lầm đó thì tôi thấy rằng đó là việc cần phải làm còn nếu không thì hậu quả thế nào thì không biết đò là quy luật. Hiện giờ trong nội bộ đảng cầm quyền ai cũng thấy điều đó. Tôi cho rằng nếu mà khắc phục những sai lầm đó thì sẽ tránh được tình trạng Ukraina. Phải thấy cái nào lớn hơn, cái nào liên quan đến lợi ích tối thượng của đất nước và dân tộc. Tôi cho rằng khi luật đất đai được thông qua thì sẽ có thể giảm tệ nạn tham nhũng mà chính tệ nạn đó là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ tất yếu không thể tránh khỏi.

Đừng xem thường tiếng nói người dân

000_Par7803599-250.jpg

Người dân Ukraine mang một cây thánh giá lớn tưởng niệm cho các nạn nhân của cuộc xung đột gần đây giữa người biểu tình và cảnh sát tại Kiev. Ảnh chụp hôm 24/2/2014. AFP photo

Blogger Mẹ Nấm người từng được hãng tin CNN phỏng vấn vì các hoạt động dân chủ, nhân quyền thì cho rằng bên cạnh yếu tố Trung Quốc việc nhà nước cần làm hiện nay là lắng nghe tiếng nói của người dân thông qua các cá nhân bất đồng chính kiến. Lắng nghe sẽ tránh được bài học của Tổng thống Viktor Yanukovych khi xem thường tiếng nói của người dân:

Tôi nghĩ việc đầu tiên dễ nhất mà nhà nước có thể làm đó là tránh việc chụp mũ và bắt những người bất đồng chính kiến vì những lý do khác nhau. Có sửa đổi hay không thì nó phải bắt nguồn từ sự lắng nghe. Cách dễ nhất có thể học được tù Ukraina đó là lắng nghe nguyện vọng của người dân.

Riêng luật sư Lê Thị Công Nhân qua kinh nghiệm đấu tranh của mình cho rằng báo chí tư nhân xuất hiện trong lúc này sẽ phần nào rút bớt những bức xúc trong dư luận quần chúng, LS cho biết:

Cộng sản Việt Nam hiện nay chắc chắn không thể cùng một lúc giải quyết được nhiều việc đúng như anh nói tại vì đảng quá bừa bộn và trên mọi lĩnh vực chúng ta đều thấy. Theo tôi nghĩ thì trước mắt phải thả bớt áp lực tinh thần người dân đã bị dồn nén suốt nhiều năm qua bằng cách thực hiện việc tự do ngôn luận mà cụ thể là cho Việt Nam có được nền báo chí tư nhân. Tuy chỉ là tinh thần thôi nhưng các diễn biến trong đời sống của đất nước nó sẽ bộc lộ hết bản chất thật.

Bên cạnh tự do ngôn luận thì kinh tế Việt Nam cũng phải được nhìn lại một cách khách quan đúng theo quy luật phát triển của một nền kinh tế lành mạnh. Theo LS Lê Thị Công Nhân muốn thế thì Việt Nam phải can đảm triệt bỏ các doanh nghiệp quốc doanh vốn đang giết chết dần nền kinh tế Việt Nam qua sự bòn rút, thâm lạm và đặt lợi ích nhóm cao hơn lợi ích quốc gia của các tống công ty, tập đoàn nhà nước

Khía cạnh thứ hai đó là buông tất cả những doanh nghiệp nhà nước dưới mọi hình thức dù là tổng công ty, hay là tập đoàn như là cái đài truyền hình Việt Nam chằng hạn. Buông tất cả những cái đó để cho giới tư nhân người ta làm mà ở Việt Nam người ta gọi là cổ phần hóa chính là tư nhân hóa tất cả lĩnh vực kinh tế mà hiện nay nhà nước sống chết nắm lấy một cách hết sức mù quáng.

” Có sửa đổi hay không thì nó phải bắt nguồn từ sự lắng nghe. Cách dễ nhất có thể học được tù Ukraina đó là lắng nghe nguyện vọng của người dân.
– Blogger Mẹ Nấm “

Doanh nghiệp nhà nước đã bóp chết nền kinh tế bởi vì đã giao cho doanh nghiệp nhà nước quá nhiều đặc quyền, đặc lợi trong khi hiệu quả kinh tế gần như là thấp kém thậm chí là âm trong rất nhiều doanh nghiệp nhà nước.

Sau khi Liên sô sụp đổ, Việt Nam đổi mới để tồn tại. Với cuộc cách mạng Mùa xuân Ả Rập Việt Nam siết chặt mạng lưới Internet, bắt giam blogger, nhà báo, dân oan, những người đấu tranh đòi dân chủ và nhân quyền.

Ukraina là lần thứ ba và người dân Việt Nam lại rất tin câu nói của ông bà để lại “nhất quá tam ba bận”.

Liệu bận thứ ba Việt Nam sẽ có quyết định như thế nào và người dân Việt Nam có xứng đáng để được lãnh đạo lắng nghe thực sự?

Tìm hiểu nguyên nhân sập cầu Lai Châu

Tìm hiểu nguyên nhân sập cầu Lai Châu

Thứ ba, 25 tháng 2, 2014

Mở bằng chương trình nghe nhìn khác

Công tác cứu chữa cho hàng chục nạn nhân vụ đứt cầu treo ở Tam Đường, Lai Châu, đang tiếp tục trong khi giới chức nói nguyên nhân là “quá tải trọng gây đứt cáp”.

Vụ đứt cáp cầu treo hôm 24/2 tại bản Chu Va 6 (xã Sơn Bình, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu) đã làm 8 người thiệt mạng, trong đó có 7 người chết ngay tại hiện trường.

Ngoài ra còn có hơn 30 người khác bị thương, nhiều người bị thương nặng.

Báo trong nước cho hay 25 bác sỹ từ Hà Nội đã được chuyển bằng trực thăng lên Lai Châu để giúp cấp cứu cho các nạn nhân.

Bộ trưởng Bộ Giao thông-Vận tải Đinh La Thăng đã nhanh chóng tới hiện trường vụ tai nạn vào sáng thứ Ba 25/2 để thị sát tình hình và thăm hỏi người dân địa phương.

Trong khi đó, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói tại một cuộc họp ở Hà Nội rằng “nguyên nhân sơ bộ ban đầu xác định cầu treo bị sập là do quá tải và cộng hưởng khi đoàn người đi bộ qua cầu”.

Tuy nhiên ông Phúc nói trong ngày 25/2, Bộ trưởng Đinh La Thăng sẽ làm việc với UBND tỉnh Lai Châu để làm rõ nguyên nhân.

Quá tải gây đứt cáp cũng là nguyên nhân mà giới chức Lai Châu kết luận.

Tai nạn do tham nhũng?

Mở bằng chương trình nghe nhìn khác

Trên các diễn đàn mạng xuất hiện một số clip video do người dân quay được cho thấy đoàn người đưa tang một quan chức Hội đồng Nhân dân xã Sơn Bình, huyện Tam Đường, đang tới giữa cầu thì dây cáp đứt.

Video chiếu hình ba người đầu hàng bê vòng hoa và nhiều người khác đi sau cho tới khi cầu đứt.

Chiếc cầu, được nói là dài hơn 50m, được đưa vào sử dụng từ tháng 12/2012.

Thương tích gây ra nặng nề vì hiện đang mùa khô, dưới cầu không có nước khiến nhiều người rớt xuống dưới bị chấn thương sọ não và nội tạng.

Trong khi đó, một chuyên gia hàng đầu về xây dựng ở Việt Nam, giáo sư Nguyễn Đình Cống, nói với BBC rằng cần phải nhìn sâu đằng sau giải thích nguyên nhân.

Theo GS Cống, nguyên nhân trực tiếp là đứt hoặc tuột dây cáp.

“Chất lượng kém trong thi công bắt nguồn từ tệ nạn tham nhũng đang tràn lan, nạn bớt xén tiền trong xây dựng dẫn đến chất lượng vật liệu và thi công đều không bảo đảm.”

GS Nguyễn Đình Cống

Tuy nhiên, ông cho rằng lỗi chính không phải vì quá tải. Chiếc cầu treo còn mới, tải trọng thiết kế đủ cho cả đoàn đưa tang.

“Ngay cả khi tải trọng vượt tải thiết kế thì dây cáp vẫn chưa thể đứt nếu được thiết kế và thi công với chất lượng bảo đảm vì hệ số an toàn của dây cáp được quy định rất cao.”

GS Nguyến Đình Cống cũng loại trừ khả năng cộng hưởng, mà ông nói đã từng xảy ra trên thế giới nhưng “phải là đội quân diễu hành đi rầm rập”.

Nguyên nhân thực sự của tai nạn này, theo ông, là chất lượng kém trong thi công.

“Và chất lượng kém trong thi công bắt nguồn từ tệ nạn tham nhũng đang tràn lan, nạn bớt xén tiền trong xây dựng dẫn đến chất lượng vật liệu và thi công đều không bảo đảm.”

“Xa hơn nữa là thể chế độc quyền.”

GS Cống đề xuất điều tra và truy trách nhiệm cá nhân cho những người chịu trách nhiệm công trình này.

Biết Sống

Biết Sống

Sống lâu và sống đẹp thì ai cũng thích, nhưng biết sống cho đẹp và có ý nghĩa để đời sau được hạnh phúc thì phải học tập và rèn luyện. Một người “biết sống”có lẽ cần theo những điều sau đây:

Giữ tâm bình thản, trước những biến động của cuộc sống.  Để được vậy, hãy cầu xin hằng ngày cho được sự bình an trong tâm hồn. – Đừng sân si giận hờn đối với những gì không xảy ra như ý mình. – Đừng say mê quá đáng những gì của mình và tham đắm những gì không phải của mình. – Đừng có ý hại người và vật.- Sống hết lòng và chân thật, mặc chuyện đời dối trá. – Sống tỉnh táo, không đua đòi, mặc chuyện đời chen lấn say mê.

Ăn uống có tiết độ, nhai nhuyễn và nhất là đừng sử dụng những thực phẩm có hóa chất chiều theo cảm giác. – Suy niệm Lời Chúa trong thinh lặng mỗi ngày. –  Mỉm cuời nhiều lần trong ngày. dù có lúc nghĩ đến những vui buồn của quá khứ – Đừng nghe và nói những câu chuyện vô ích. – Hãy nỗ lực làm những gì mà mình nghĩ là đẹp lòng Chúa hơn. –

Đừng có những ý nghĩ so sánh…, vì sao?  Vì mọi chuyện ở đời này đều có nguyên nhân do Chúa sắp đặt.  So sánh khiến tâm hồn ta sinh ra mặc cảm hay đua đòi mệt mỏi.  Ta hãy nỗ lực thực hiện những cái đẹp trong khả năng Chúa ban để chúng trở thành hiện thực trong đời sống của ta, dưới nhiều hình thức sống động khác nhau. –  Đừng để ý đến chuyện xấu của người khác, vì lúc ấy điều xấu trong tâm mình có cơ hội khởi lên, làm cho tâm mình vẩn đục và nét mặt của mình mất đi vẻ thánh thiện tươi vui của một Kitô-hữu.

– Ta phải biết thực tập lắng nghe và học hỏi. Học hỏi từ cuộc sống và lắng nghe những biến đổi của những cảm thức trong tâm hồn, trong từng nhịp thở, để có khả năng biết rằng, những gì ta không muốn người khác làm cho mình, thì cũng không bao giờ làm cho người khác. – Đời người chỉ tồn tại trong từng hơi thở, nên ta phải sống đẹp, sống hết lòng và thảnh thơi trong từng hơi thở, để mỗi hơi thở đều có khả năng đưa ta đi đến đời sống cao thượng. Một đời người được xem là lãng phí, là vì họ lãng phí ngay trong từng hơi thở của chính họ. –  Phải biết nuôi dưỡng ý thức “sống cùng” và “sống với” mọi người, nếu không có ý thức này, ta sẽ bị cảm giác cô đơn đánh lừa và sẽ bị chết đói trong cảm giác ấy. – Ta đừng khởi tâm tranh giành với bất cứ ai, vì ở đời nầy không có ai là số một, và cũng chẳng có ai là quan trọng cả.

– Phải hiểu tính chất hay thay đổi của con người và vạn vật.  Không có ai là xấu hoặc tốt một cách quá đáng, vì mọi sự xấu tốt ở đời đều tự thay đổi khi có cơ duyên, và hãy vững tin rằng Chúa ban cho ta thiên thần bản mệnh để giúp ta không rơi vào cạm bẫy của ma quỷ. – Phải tự biết khả năng và giới hạn của mình trong lúc tiếp xử với mọi người và muôn vật, để khỏi rơi vào những lầm lỗi đáng tiếc, dẫn đến tâm ân hận. – Hãy đầu tư những gì tốt đẹp vào tâm thức… bằng Lời Chúa, bằng gương các thánh.  Một khi nguồn vốn ấy phát triển lớn mạnh trong đời sống của ta, thì chẳng một lợi nhuận nào trong xã hội có thể chiếm hữu lòng ta được.

Hãy nghĩ đến những gì tốt đẹp mỗi ngày khi mặt trời lên và lúc mặt trời khuất bóng. – Mỗi ngày nên dành một giờ để thực tập làm những việc khó làm, nhằm nuôi dưỡng những ý chí và nghị lực trong ta hầu có thể vượt qua những trở ngại “đi theo Chúa Giêsu”. –  Đừng tự phong thánh cho mình và cũng đừng để ai phong thánh mình, mà phải biết tạo điều kiện cho những hạt giống thánh thiện trong tâm hồn mình được biểu hiện ra trong hành động, trong đức tin và hãy giúp cho những hạt giống thánh nơi người khác cũng được sinh khởi. – Đừng nói nhiều về đạo đức hay bác ái, mà hãy sống bác ái và đạo đức ngay trong những hành động của chính mình đối với mọi người và muôn vật. –

Cuộc sống lâu dài và đẹp nhất là cuộc sống được nuôi dưỡng bởi tình yêu.. và giản dị một điều là chỉ có tình yêu mới đẹp lâu dài…

S.T.

“Tội nghiệp lắm, tâm hồn chưa biết khóc” & “Ta ra đi một chiều thắm,”

Suy tư tuần thứ 8 mùa thương niên năm nay, người đọc thấy có giòng chảy vẫn cứ bảo:

“Tội nghiệp lắm, tâm hồn chưa biết khóc, Đêm trùng trùng, ai sẽ đến trong mơ.”

Mơ hay khóc, thế rồi người lại hát:

“Ta ra đi một chiều thắm, vang lời ca buồn trong khóm đá. Nỗi u hoài, ngày tháng khôn nguôi.

Thì ra, tháng ngày của nhiều người ở trong đời, lại vẫn thấy có những thời những lúc khôn nguôi nỗi u buồn, rất trong mơ, dù chưa biết khóc. Thôi thì, bạn và tôi ta về với Nước Trời Hội thánh, sẽ lại thấy ở câu hát có lời vàng, rằng: “Tính quê lai láng dưới trời thu, khói xây thành chập chùng xa đưa.”

Thế mới biết, mọi sự đều tương đối, dù có u buồn hay khóc lóc. Chỉ mỗi tình thương yêu là tuyệt đối đem lại cho con người nhiều vui sướng, rất phúc hạnh.

Thế đó, là tình tự của hôm nay xin gửi đến người anh, người chị ở thánh hội, rất yêu thương.

Mai Tá

www.giadinhanphong.com

Suy tư Tin Mừng Chúa nhật thứ 8 thường niên năm A 02-3.2014

“Tội nghiệp lắm, tâm hồn chưa biết khóc”

“Đêm trừng trùng, ai sẽ đến trong mơ.”

(Dẫn từ thơ Lã Thế Phong)

Mt 6: 24-34

Nhà thơ vẫn cứ tội nghiệp cho tâm hồn chưa biết khóc. Nhà Đạo luôn thương tình khi nghe thấy lời khuyên: “Hãy sống như gà mẹ cất tiếng gọi đàn mà ấp ủ con, dưới cánh!”

Mỗi khi nghe ai khuyên những lời như thế, hẳn người nghe cũng sẽ bảo: điều đó còn tùy. Tuỳ tâm trạng mỗi người, mà xử thế! Trình thuật trích dẫn hôm nay, thoạt xem cũng tựa hồ lối phát biểu vô tâm/vô tính, nếu ta gửi nó đến những người đang sống cảnh cơ cực/bần hàn, khó xử. Tức, những người thiếu cả những vật phẩm rất cần cho cuộc sống, mà lại được khuyên: “Đừng lo! Hãy vui sống, cứ để Chúa lo.”

Vẫn biết rằng, Đức Chúa của ta đầy xót thương và tình thương của Ngài vô bờ vô bến. Nhưng, với những người bụng đang đói cồn đói cào vẫn theo chân Ngài để nghe giảng dạy và cung cấp thức ăn cho no bụng, mà lại nhận được những thế, cũng khó lòng. Biết rằng, trong cuộc sống, ta vẫn cầu và xin được ‘hằng ngày dùng đủ’, mà bụng vẫn đói. Vậy thì, thánh sử Mát-thêu hôm nay muốn nhấn mạnh điều gì khi ghi chép Lời Chúa vẫn nói: “Các ngươi đừng lo cho mạng sống: lấy gì ăn; cũng đừng lo cho thân xác: lấy gì mặc. Mạng sống ngươi chẳng trọng hơn của ăn, và thân xác ngươi chẳng trọng hơn áo mặc sao?” (Mt 6: 25) Ở đoạn khác, ta còn được dạy về hệ quả của lời Chúa khuyên, như: “Ta đói, các ngươi đã cho Ta (hoặc chẳng cho Ta ăn). Ta mình trần, các người cũng đã cho (hoặc chẳng cho ta mặc)….”

Thật ra, Bài Giảng Trên Núi vẫn là hiến chương Chúa viết ra cho xã hội. Chính Chúa đem đến cho ta trách nhiệm giùm giúp hết mọi người, ngõ hầu ta có thể dựng xây cuộc sống mới, ở đời. Một cuộc sống, biết quan tâm giùm giúp hết mọi người. Một cuộc sống, biết dựng xây Vương Quốc Nước Trời, ở trần gian. Nói rõ hơn, mọi người phải nhận trách nhiệm định ra đường hướng cho chức năng cùng hoạt động của mình, coi đó là trọng trách gửi đến cho mình, ngõ hầu giải quyết nhu cầu của người khác, như của mình. Hãy để hết tâm can vào chuyện này. Và đặt ưu tiên số một cho chính mình, là tạo dựng một xã hội được như thế. Tạo và dựng, Nước Trời ở trần gian, ở nơi đó, mọi người biết lo cho nhau. Giúp người và giúp nhau, suốt đời.

Xem như thế, hãy coi trình thuật này như một cảnh báo chống mọi tẩy não do doanh thương quảng cáo nghĩ ra để bắt mọi người tự chuốc lấy cho mình những ưu tư khó bỏ, rồi tự hỏi: không biết mình có gì để ăn không đây? Lấy gì để mặc bây giờ? Người đời, ở mọi thời, vẫn chẳng muốn nghe/muốn biết tiếng rên than từ người nghèo ở đây hay ở đó, về nơi ăn chốn ở. Về, giáo dục và y tế để sống cho ra người, mà hưởng thụ. Thế nhưng, được mấy ai trong ta tin rằng mình thực sự yên tâm dù được dạy bảo rằng: “Cha Trên Trời” vẫn biết rõ điều mình cần, Ngài sẽ nhanh chóng chu cấp những thứ đó, ngay lập tức? Nói cho cùng, cũng rất khó. Đã mấy ai hoàn toàn tin tưởng mà đặt mình vào bàn tay chăm sóc của người khác, đây?

Để trả lời, Hội thánh mau mắn gửi đến cho ta bài đọc 1 có lời khuyên hãy suy tư về chuyện tùy thuộc vào ơn trên như con cái tùy vào mẹ hiền, của mình. Đó còn là ảnh hình Đức Chúa như Đấng Bậc Mẹ Hiền hằng ưu tư ấp ủ đàn con, như sau: “Xion từng nói: ‘Đức Chúa đã bỏ tôi, Chúa Thượng của tôi đã quên tôi rồi!’ Có phụ nữ nào quên con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mà mình đã mang nặng đẻ đau, không? Dù bà có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ.” (Is 49: 14-15)

Thật sự, thì nơi Chúa vẫn dấy tràn tình thương yêu ấp ủ của mẹ hiền hơn cả các bà mẹ ở trần gian, nữa. Nhiều lần, tôi lẳng lặng quan sát các bà mẹ làm cử chỉ rất tự nhiên nhưng kín đáo, cứ cho con bú ngay cả vào giờ lễ, ở nhà thờ. Nhìn những cảnh như thế, thật khó có thể nghĩ rằng các bà mẹ như người mẹ hôm ấy, lại có thể quên con nhỏ của mình, mà bỏ bê. Nhìn cảnh mẹ thương con ấp ủ, rồi liên tưởng đến Tình Chúa thương yêu con người, tôi chắc một điều, là: Ngài thương yêu con cái Ngài còn hơn cả người mẹ trần gian thương con mình, nữa. Chẳng cần phải thủ giữ vai trò của các vị cổ võ cho phong trào phụ nữ rất bình quyền, để rồi mới đề nghị mọi người tiếp nhận hình ảnh thân thương của người mẹ hiền khi cho con bú mớm, để rồi đưa vào cuộc sống của chính mình những hình ảnh về tình thương của Đức Chúa, mà suy nghĩ. Suy và nghĩ, hầu nhận ra vai trò tích cực của các nữ phụ, trong cuộc đời. Làm như thế, vô hình chung ta phá bỏ hình ảnh thiển cận của những người cứ nghĩ Chúa như một nam nhân, thượng phụ râu tóc bạc phơ, ơ hờ.

Nói cho cùng, nếu ta được dựng nên, theo ảnh hình của Chúa, thì có lẽ ảnh hình về tình mẫu tử sẽ còn nói lên nhiều hơn nữa bản chất mà ta cần có và cần tỏ rõ, mỗi khi ta nói đến nhu cầu quan tâm giùm giúp, hết mọi người. Giả như ta tiếp nhận cho mình ảnh hình của Đức Chúa luôn nhấn mạnh đến tình mẫu tử mỗi khi đối xử với mỗi người và mọi người, hẳn là khi đó, ta sẽ không còn ưu tư lo lắng không biết có gì để ăn, lấy gì để mặc, cho thân xác mình nữa.

Và khi đó, ta sẽ ngạc nhiên một cách thích thú khi thấy Chúa mô tả tình Ngài xót thương thành thánh Giêrusalem và dân con sống ở đó, bằng những lời lẽ rất thiết tha, rằng: “Giêrusalem! Giêrusalem! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi! Đã bao lần Ta muốn tập họp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu.” (Lc 13: 34)

Xem như thế, có lẽ mọi người cũng nên làm như Chúa, biết cất tiếng kêu gọi mọi người như gà mẹ cất tiếng gọi đàn con đến với mình để được ấp ủ, dưới lớp cánh bù xù của mẹ!

Với tâm tình như thế, ta lại sẽ ngâm tiếp lời thơ còn ngâm dở, những thơ rằng:

“Tội nghiệp lắm, tâm hồn chưa biết khóc”

“Đêm trùng trùng, ai sẽ đến trong mơ.

Nhánh cây khô uốn mình trong khắc khoải,

còn như thương gió chiếc nặng u hoài.

Có đợi đâu ngày mưa thu trở lại,

Đưa mộng buồn vào vạn kiếp phôi phai.”

(Lã Thế Phong – Nỗi Lòng Đá Cuội)

Tâm hồn chưa biết khóc hoặc cây khô uốn mình trong khắc khoải, cũng vẫn là tâm tình nhà thơ hay nhà Đạo chưa biết được tình thương yêu của Đức Chúa, Đấng vẫn thương yêu mỗi người và mọi người dù người đó có u hoài, khắc khoải đưa “mộng buồn vào kiếp phôi phai”, nhiều nỗi lòng.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch

Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 8 Mùa thường niên Năm A 02-3-2014

“Ta ra đi một chiều thắm,”

Vang lời ca buồn trong khóm lá,
Nỗi u hoài, ngày tháng khôn nguôi.”

(Việt Lang – Tình Quê Hương)

(Mt 6: 5-6)

Rất nhiều lần, bạn bè đến với bần đạo hỏi một câu rất “xanh rờn” hoa lá có giòng nước, rằng:“Tại sao khi yêu cầu bầu bạn nguyện cùng Chúa cho anh điều gì đó, anh lại chỉ mong người ấy đọc mỗi kinh Sáng Danh chứ không phải Kinh Lạy Cha, hay Kính Mừng hoặc kinh nào khác, thế?”

Nghe vậy, bần đạo không mấy sốt sắng trả lời/trả lãi, bằng cách tỏ-bày lập-trường này nọ nghe hoài kỳ quá. Nay, bần đạo dám xin thưa một lần nữa, rằng; bần đạo làm thế, là bởi trong các kinh kệ nhiều loại, kinh nào người đọc cũng chỉ “xin và xin”, thôi. Dù, chỉ xin cho đồng đạo hay ai khác cũng thế. Duy có kinh Sáng Danh được cất lên là để chúc tụng/ngợi khen Chúa, một đôi khi.

Hôm nay bần đạo bắt được ý của Đức Phanxicô nhà mình, khi ngài nói với đồng đạo vào buổi chia sẻ Lời Chúa ngày “N” hôm “H”, như sau:

“Các kinh ta dâng lên Chúa hoặc xin Chúa, không nhất thiết là để dành riêng cho các vị có ân-lộc đặc biệt, mà thôi!” Trên đây là lời Đức Giáo Hoàng Phanxicô từng nói với các đấng bậc và chúng dân tham-dự thánh-lễ hôm ấy, ngày 28/1/2014. Sau đó, ngài lại thêm: “Thật cũng dễ hiểu! Các kinh ta đọc cùng Chúa không phải để xin Ngài điều gì đó mà thôi, nhưng còn để cảm tạ Ngài nữa. Nên, thường thì các lời kinh chúc tụng Thiên-Chúa là Cha, Con và Thánh Thần, thường bộc phát trong giây lát không là những lời được ai đó soạn trước, trong quá khứ..”

Hôm ấy, Đức Giáo Hoàng tập trung bài chia sẻ vào bài đọc 1, trong đó có diễn tả cảnh vua Đavít từng cầu nguyện bằng cách múa nhảy trước mặt Chúa để Ngài đừng bỏ rơi ông. Và, Đức Phanxicô lại cũng nghĩ: có thể, những người nghe ngài giảng hôm ấy, hẳn sẽ phản ứng rất nhạy bén, rằng: “Thưa cha, điều đó chỉ xảy ra đối với các vị giỏi dang, nhiều ân-lộc, mà thôi chứ không phải của mọi người?!”

Đức Giáo Hoàng tiếp: “Không phải thế đâu! Lời kinh chúc tụng Chúa là lời cầu mà tất cả các tín-hữu đều làm chứ đâu riêng gì bậc giảng-dạy hoặc đấng-bậc nào khác đâu chứ. Anh chị em đều biết rõ: Thánh Vịnh là Sách gồm câu ca chúc tụng Chúa và đó cũng là lý do và ý-nghĩa của Kinh Vinh Danh và Tiền Tụng mọi người vẫn hát trong thánh lễ…” (xem Bản tin có tựa đề: “Francis: if you can cheer for a team, you can pray”, The Catholic Weekly 09/02/2014, tr. 6)

Nói như Đức Giáo Tông nhà mình ở vào thời buổi này, là nói như mọi người vào thời trước: “Hát, là nguyện cầu đến 2 lần.” Vậy thì, nay xin bạn và tôi, ta nghe thêm câu hát đã cất lên ở buổi nhạc “Hát Cho Nhau Nghe” năm thứ 8 tức, cuối năm 2013 ở Sydney, với chủ đề “Những Nẻo Đướng Quê Hương” có lời ca như sau:

“Ngàn dâu xanh ngát mấy nếp tranh xa mờ,

Tiếng sáo bay dập dìu đường về thôn xưa.

Tình quê lai láng dưới trời thu,

Khói xây thành chập chùng xa đưa.

Cành tơ liễu thấp thoáng bên hồ,

Mùa nhớ nhung dòng nước lững lờ.

Ta ra đi một chiều thắm

Vang lời ca buồn trong khóm lá

Nỗi u hoài ngày tháng khôn nguôi.”

(Việt Lang – bđd)

“U hoài (nhiều) ngày tháng”, “(rất) khôn nguôi”, có lẽ và cũng có thể là của nhiều người,  Chí ít là những vị chả nhớ gì chuyện kinh kệ mà chỉ nhớ lời ca, những là:

“Miền xa thương nhớ,

Tình quê hương thiết tha

Buồn lắng nhắn theo lời gió.

Mùa trăng êm tiếng tơ một trời còn vương.

Ôi buồn nhớ quê hương!”

(Việt Lang – bđd)

Lời ca/tiếng hát của người nghệ-sĩ ở đời, chí ít là những người rời xa khung cảnh hiền hoà của quê nhà êm ắng, vẫn như thế. Còn, các giáo sĩ hoặc đạo sĩ ở nhà thờ/nhà thánh thì sao?

Quả, đây là một trong những câu hỏi khá “hóc búa” gửi bạn và tôi; thôi thì, có hóc hay không hóc, và búa có nện đầu ta cho ra tư tưởng hay không, xin cứ để đó hạ hồi rồi sẽ tính. Nay mời bạn/mới tôi, ta tính chuyện nhà Đạo có đề tài như sau. Trước hết, nay tính đến ý-kiến/ý cò của vị nhân-sĩ cũng rất Đạo, từng bộc bạch như bên dưới:

“Trong một phỏng-vấn rất chớp nhoáng, đạo sĩ nọ có tên là Herpreet Grewal sinh hoạt rất đều đặn nơi trang mạng “The Clash Blog” đã tóm gọn nỗi “thôi thúc linh đạo” trong sách ông viết với để-tài nổi-cộm rằng: “Ở chương cuối, tôi đã cảm-tạ bạn đạo nào từng cùng tôi san sẻ hành-trình xuyên-suốt trong Đạo. Nhưng, có một điều khiến tôi nghĩ ngợi mãi là mình cũng nên nói thêm với mọi người, điều này là câu trích-dẫn từ thánh Tôma Akinô vẫn từng bảo: Ai muốn đạt hạnh-phúc mình tìm kiếm, cũng thấy được niềm vui trong sáng-tạo nhiều thứ nhưng chẳng có thứ nào mà người sáng tác/sáng-tạo tìm được nơi linh đạo hết.

Có người lại cứ săn tìm quyền lực, tiếng tăm hoặc thú vui xác thịt cùng tiền bạc hoặc thứ gì khác. Riêng tôi, tôi vốn có sơ sơ một chút quyền, nên cũng chẳng kiếm tìm thêm nữa mà làm gì, mấy thứ ấy. Phần tôi vẫn dõi theo cung-cách kiếm tiền, cùng vui thú này khác nhiều hơn những gì mình đáng được hưởng; vậy mà, những thứ đó có làm cho tôi sung sướng chi thêm đâu. Tôi lại cũng có đôi chút tiếng tăm và nhiều thứ khác, nhưng nay lại nghĩ tất cả đều ra vô-nghĩa, chẳng hay ho gì.

Bởi thế nên, cả 4 thứ trên nay có chung một mẫu-số, là: sự tự cao tự đại, ra chiều có tiếng tăm, vv…  tất cả chỉ là những cái đem đến cho “tôi, những tôi và mỗi tôi mà thôi”. Quả thật, giả như bạn và tôi, ta kiếm tìm: lòng thương xót, sự hiền-lành/tử tế, cùng các sinh-hoạt từ-thiện và tình thương-yêu, thì lại khác. Cái khác là ở chỗ: mình nên bỏ sức-lực ra để làm cho người khác được hạnh-phúc/sướng vui nhiều hơn, rồi thì cuối cùng, mình cũng sẽ thấy vui. Điều đó đã giảm bớt đi một số điều tôi từng cố tạo cho mình trong đời, tức: 250 ngàn lần hoặc lượt trị bệnh chân/khớp cho người khác bớt đau và chơi nhạc cho cả triệu người nghe, cốt để thực-hiện quyết tâm tôi có được. Thành thử, ngày hôm nay, vấn đề là ta cần phải làm nhiều hơn nữa những chuyện như thế cho mọi người. Với tôi, đó là bí kíp cuộc đời của con người.” (xem Bản tin trên The Catholic Weekly 09/02/2014 có đề-tựa: “Mercy, Charity the Secret” tr. 9)

Những điều trên, tưởng chừng nghe quen, nhưng thực tế lại ít thấy từ miệng lưỡi những con người thường tình ở trong đời, tuyệt nhiên không phải của đấng bậc giảng dạy trong Đạo. Người thường trên sân khấu nghệ-thuật lại vẫn tỏ-bày bằng lời ca tiếng hát, rất như sau:

“Lòng say mê dấn bước ra đi

Vì núi sông ca khúc nguyện thề.

Bên nương dâu đường xanh ngát

Ta về đây chiều mơ gió mát

Bóng chiều tà tràn thắm hương quê.”

(Việt Lang – bđd)

“Lòng say mê”, “thắm hương quê”, đôi lúc cũng được hiểu như lòng mê say, thắm tình người đi Đạo rất đức hạnh. “Lòng say mê” trong Đạo, đôi khi còn thấy ở nhiều người/nhiều vị cứ “xục xạo” những vùng “thắm hương quê” để tìm cho ra nơi nào có người báo cho biết: Đức Nữ Trinh Maria đã hiện hình theo cách nào đó để báo mộng hoặc cho biết lúc còn sống về việc gì đó, để rồi bà con kéo nhau đi xem cho biết.

Báo gì thì báo, không biết các vị ấy có báo cho mọi người biết một tin hoặc sự việc được Đức (thánh là) Cha Phanxicô vừa cảnh-báo, như tờ báo Đạo ờ Sydney từng đưa bài báo từ thủ-đô Vaticăng do nhà báo có tên là Carol Glatz viết như sau:

“Nhiều thị-kiến có nội-dung về chuyện Đức Mẹ hiện ra ở đâu đó, nếu hiểu theo tinh thần hoặc tình-tiết sai lạc, có thể tạo ra những ngộ-nhận khiến giáo-dân xa dần Lời Chúa từng căn-dặn. Đó là ý tưởng được Đức Giáo Hoàng Phanxicô từng cảnh-cáo nhiều người.

Tính tò mò/xục xạo tìm chuyện lạ hoặc phép lạ Mẹ hiện ra càng làm cho người dân đi Đạo xa rời tinh-thần Phúc Âm, xa rời Chúa Thánh Thần, cũng như niềm vui an bình và hy vọng, xa vời sự vinh-quang và nét diễm-kiều của Chúa. Đó là ý chủ lực được Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã giảng giải trong bài chia sẻ Lời Chúa vào thánh lễ tại nhà khách Vaticăng hôm 14/11/2013.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô còn dẫn giải: Chúa của ta vẫn dạy rằng: Vương quốc Nước Trời không đến với con người theo cách hấp dẫn những người hiếu-kỳ để tìm đến, giống như thế. Đức Phanxicô diễn-giải bài Tin Mừng thánh Luca đoạn 17 câu 20-25, trong đó có đoạn mô tả đám Pharisêu hỏi Chúa: Bao giờ thì Nước Thiên-Chúa đến? Ngài đáp lời họ và nói: Nước Thiên Chúa không đến như điều ta quan sát được. Và người ta sẽ không nói: “Ngài đang ở đây hay ở kia kìa!” , vì Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông.” ( Lc 17: 20) Và Ngài dạy các môn đệ của Ngài đừng nên chạy theo các dấu chỉ bề ngoài về ngày Chúa Quang Lâm lần tới…

Và Đức Giáo Hoàng Phanxicô giảng giải tiếp: “Tính hiếu-kỳ/xục xạo chỉ thúc-dẩy con người tìm xem Chúa/Mẹ đang hiện ra ở nơi nào hoặc khiến ai đó tự hào nói: tôi thấy Chúa/Mẹ hiện ra ở đây, ở đó, có nói với tôi điều này điều nọ. Chúa/Mẹ đâu phải là Giám đốc Bưu điện gửi thiệp mỗi ngày đi khắp nơi, đâu! Nước Chúa đang ở giữa chúng ta. Đừng bao giờ tìm điều lạ như các phép lạ, hiện tượng lạ, bởi vì thế giới này vẫn còn nhiều người hiếu-kỳ chỉ tìm biết những thứ đó. Tính hiếu-kỳ, làm ta xa rời tính khôn-ngoan, bởi họ chỉ thích những tin tức giựt gân, các tin nảy lửa để thoả mãn tính tò mò, tọc mạch của ngày thường. Đây là tinh thần đào thoát, đãng trí khiến ta xa rời Chúa, tinh-thần nói năng linh tinh, quá lời, tính tò mò/tọc mạch rất trần thế chỉ khiến ta phân vân, lẫn lộn thôi. (xem Bản tin trên The Catholic Weekly 24/11/2013: Francis warns on ‘visions’ of Mary, tr. 7)

Gì gì đi nữa, nói đi thì lại nói lại, tức là: nói những lời khích-lệ để cho vui, hoặc nói và kể những chuyện khá “phiếm” để bà con/cô bác nghe cho đỡ tủi. Tủi, nhưng không hổ vì từng nghe biết và từng thực hiện để xem sao. Truyện kể, là những chuyện để nghe cho vui. Nhưng trước khi kể, lại cũng xin mời bạn/mời tôi, ta nghe thêm lời ca/tiếng hát người nghệ-sĩ từng lấy hứng: sau:

“Lòng trai muôn thuở những bước chân giang hồ
Kiếp sống tung bụi mờ một chiều chia phôi.
Đường đi xa tắp tháng ngày trôi,
Nhớ nhung hoài nhạc sầu chơi vơi.
Này đây khóm lá,
Này đây bao nếp tranh mờ xóa những khi chiều xuống.
Này đây bao thiết tha êm đềm tình thương.
Ôi buồn nhớ quê hương!”

(Việt Lang – bđd)

Nghe nghệ sĩ hát “nhớ quê hương” rồi, bạn và tôi ta cứ tiến vào vườn truyện kể với cốt chuyện như sau:

“Chuyện đạo tôi nghe được là như sau:

Có thầy nọ sống đời tu hành rất mực thánh thiện. Không kể những lúc bắt buộc phải nhín chút thời gian dành cho các sinh hoạt cần thiết của đời thường, thầy luôn cố gắng thu xếp tối đa thời gian trong ngày để cầu nguyện, tụng kinh, ngồi thiền, v.v…

Đầu óc thầy hầu như không còn chỗ nào trống trải cho các tà niệm sái quấy có thể thừa cơ len lỏi vào. Sau nhiều năm dài tu hành tinh nghiêm, cẩn mật như thế, thầy thấy mãn nguyện trước sự tiến bộ tâm linh. Thế rồi khuya hôm nọ, sau khi xong cữ thiền giờ Tý, thầy đi ngủ và mơ thấy mình dự một buổi tiệc lớn gồm toàn những bậc đạo cao đức trọng. Trong lúc chủ tiệc chưa ra tiếp khách, mọi người lần lượt được rước tới bàn ăn rất to và dài. Ai cũng có chỗ ngồi trang trọng theo đúng thứ bậc vì chủ tiệc đã gắn sẵn trên mặt bàn những tấm thẻ nhỏ ghi họ tên từng thực khách. Thầy thấy mình được vinh dự xếp ngồi gần chủ tiệc, nhưng ở vị trí thứ nhì. Vị trí thứ nhất dành cho người bán tạp hóa ở khu phố không xa nơi thầy cư trú.

Sáng hôm sau, thầy tìm tới tiệm tạp hóa, lựa một góc và nhẫn nại đứng quan sát rất lâu. Tiệm không lớn lắm nhưng lúc nào cũng có khách hàng vào ra nườm nượp. Chủ tiệm chẳng hở tay bán hàng, thu tiền, thối tiền… vẻ mặt lúc nào cũng tươi cười, nói năng hòa nhã… Tuyệt nhiên không thấy chủ tiệm có cử chỉ, động tác đặc biệt gì tỏ ra ông đang tĩnh tâm hay cầu nguyện. Nhân một lúc ngớt khách, thầy bước tới chào chủ tiệm và kể lại giấc mơ kỳ lạ. Chủ tiệm ôn tồn nói: “Tôi cần chiết dầu ăn từ cái thùng hai mươi lít ra hai mươi cái chai xếp sẵn ở góc kia. Xin thầy giúp một tay. Đừng để chai nào đầy quá hay vơi quá. Đừng làm sánh dầu ra ngoài chai nhớp nháp. Lát nữa sẽ tiếp tục câu chuyện của thầy.”

Thầy chiết dầu vừa xong thì đúng lúc chủ tiệm được ngơi tay bán hàng. Ông ta bước tới hỏi: “Nãy giờ cắm cúi lo chiết dầu ra chai, trong đầu thầy có giây phút nào nhớ nghĩ tới Trời tới Phật không?” Thầy bẽn lẽn: “Tôi làm không quen, ráng tập trung rót dầu vào từng chai theo đúng yêu cầu của ông, mệt toát mồ hôi. Do đó chẳng được phút giây nào rảnh trí mà nhớ nghĩ tới Phật Trời!” Chủ tiệm cười hiền: “Nếu thầy bận bịu buôn bán như tôi cả ngày, lu bu quanh năm suốt tháng, thì tâm thầy ắt xa Trời xa Phật mịt mù luôn! Tôi không có phước lớn để được rảnh rang chuyên lo tu hành như thầy. Tôi chỉ ráng tập thành thói quen cho tâm tôi lúc nào cũng nhớ Trời nhớ Phật. Khi bán hàng cho khách tôi nguyện không để ai phải phiền lòng vì bị cân non đong thiếu. Khi chiều chuộng khách hàng tôi nguyện không để ai mích lòng vì thấy tôi thiên vị. Gặp khách hàng xấu tính, tôi nói cười nhã nhặn, thầm nhắc nhở: Thánh Thần giả dạng thường dân tới thử thách mình đây. Tôi tu như vậy đó, thưa thầy”. Huệ Khải

Trích dẫn truyện kể như thế, dù có là chuyện nhà chùa hay chuyện của nhà Chúa, cũng thấy vui. Vui, là bởi bà con cũng như tôi/như bạn, là: ta vẫn nhận ra được đôi điều trên đời. Không chỉ mỗi lời căn-dặn/nhủ khuyên của đấng bậc nhà thờ thôi, mà là lời bộc-bạch ở khắp mọi nơi trong đời. Đó là ý-hướng “vào đời” để tìm Đạo, rất đích thực.

Đó, là gặp gỡ Đức Kitô cả nơi những người không cùng Đạo với mình. Đó, là tinh-thần “đại kết” trong tâm hồn, chứ không bằng mồm mép hay miệng lưỡi. Tự nhủ rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta nghe thêm Lời Vàng khi xưa Chúa từng dạy:

“Khi cầu nguyện,

anh em đừng lải nhải như dân ngoại;

họ nghĩ rằng:

cứ nói nhiều là được nhận lời.8

Đừng bắt chước họ,

vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì,

trước khi anh em cầu xin.”

(Mt 6: 5-6)

Tâm niệm Lời Chúa dặn, tưởng cũng nên hiên-ngang mà thực hiện. Thực-hiện việc nguyện-cầu không chỉ bằng kinh-kệ có sẵn cứ đọc lai rai, dài dài tính số lần đọc và số kinh. Tâm và niệm, để rồi quyết thực-hiện tinh-thần nguyện-cầu chứ không phải nội-dung của câu kinh đầy những xin. Tâm và niệm, có quyết-tâm để sẽ không có đấng nào khác, trách-móc hoặc chỉ bảo nhiều hơn Chúa.

Tâm niệm thế rồi, ta sẽ hiên ngang đầu cao mắt sáng “đi vào đời” để gặp Chúa nơi người đời, và trong đời người cũng rất “đời”.

Trần Ngọc Mười Hai

Đã và đang rắp ranh “Vào đời” như thế

để học hỏi mọi điều hay từ người đời.

Trong đời người.

KHÔNG CÒN AI LÀ KẺ THÙ

KHÔNG CÒN AI LÀ KẺ THÙ

AM. TRẦN BÌNH AN

Zenkai là một thanh niên, con của một hiệp sĩ Samurai. Anh được tuyển vào phục dịch cho một viên chức cao cấp trong triều đình. Không mấy chốc, Zenkai đem lòng say mê người vợ của chủ mình. Anh lập mưu giết người chủ và đem người đàn bà trốn sang một vùng đất lạ. Anh tưởng có thể ăn đời ở kiếp với người đàn bà. Nhưng không mấy chốc, người đàn bà đã để lộ nguyên hình của một con người ích kỷ, đê tiện. Zenkai đành bỏ người đàn bà và ra đi đến một vùng đất khác, ở đó anh sống qua ngày bằng nghề hành khất.

Trong cảnh bần cùng khốn khổ, Zenkai đã bắt đầu hồi tâm để nhớ lại những hành động tội lỗi của mình. Anh quyết định làm một việc thiện để đền bù cho quá khứ nhơ nhớp của mình.

Anh đi về một vùng núi hiểm trở, nơi mà nhiều người đã bỏ mình vì khí hậu khắc nghiệt cũng như vì công việc nặng nhọc. Zenkai đem hết sức lực của mình để khai phá một con đường xuyên qua vùng núi ấy. Ban ngày đi khất thực, ban đêm đào đường xuyên qua núi. Zenkai cặm cụi làm công việc ấy ròng rã trong 30 năm trời. Hai năm trước khi Zenkai hoàn thành công trình của mình, thì người con của viên chức triều đình mà anh đã sát hại trước kia, bỗng tìm ra tung tích của anh. Người thanh niên thề sẽ giết Zenkai để trả thù cho cha mình. Biết trước mình không thoát khỏi án phạt vì tội ác mình đã gây ra mấy chục năm trước, Zenkai phủ phục dưới chân người thanh niên và van xin:

“Tôi xin sẵn sàng chịu chết. Nhưng cậu hãy cho phép tôi được hoàn thành công việc tôi đang làm dở. Khi mọi sự đã hoàn tất, cậu hãy giết tôi.” Người thanh niên ở lại để chờ cho đến ngày trả được mối thù cho cha. Nhưng trong khi chờ đợi, không biết làm gì, người thanh niên đành phải bắt tay vào việc đào đường với Zenkai mà vẫn nuôi chí báo thù cha. Nhưng chỉ sau một năm cùng làm việc với kẻ đã giết cha mình, người thanh niên cảm thấy mọi ý muốn báo thù đều tan biến trong anh. Thay vào đó, anh lại thấy dậy lên trong lòng sự cảm phục và thương mến đối với sự nhẫn nhục, chịu đựng của Zenkai. Con đường đã được hoàn thành trước dự định. Giờ đây dân chúng có thể qua lại vùng núi hiểm trở một cách dễ dàng.

Giữ đúng lời hứa, Zenkai đến phủ phục trước mặt người thanh niên để chấp nhận sự trừng phạt. Nhưng người thanh niên vừa đỡ Zenkai dậy vừa nói trong tiếng khóc: “Làm sao tôi có thể chém đầu được thầy của tôi ?” ( Lẽ Sống ).

Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, qua ngòi bút của Thánh Mátthêu, Đức Giêsu khuyên nhủ những đức tính cần thiết đề thực thi luật mến Chúa yêu người. Đó là nhẫn, xả và ái.

Nhẫn

Chữ nhẫn trong hán tự gồm chữ đao, con dao, bên trên chữ tâm, trái tim. Hàm ý gặp chuyện xấu, mà chẳng chịu nhẫn nhịn, thì tránh sao được đớn đau, như dao đâm thấu tim. Có nhẫn nhịn thì mới chuyển hóa nguy thành an, bại thành thắng, dữ thành lành.

Trong suốt ba năm rao giảng, Đức Giêsu luôn nhẫn nhục trước những xúc phạm thô bạo, khiêu khích, chống đối, oán ghét, thù địch từ quý thầy tư tế, quý luật sĩ, quý Biệt phái, quý Sađốc phái, vì Người vốn là “Thiên Chúa từ bi nhân hậu, chậm bất bình và rất mực khoan dung” ( Tv 85 ). Người chính là tấm gương nhẫn nhịn sáng chói. Đỉnh điểm là trong cuộc tử nạn đau đớn ê chề, Người không hề phản ứng trước những lời nói, cử chỉ lăng nhục, phỉ báng, xỉ vả, chế giễu, khinh bỉ, cũng như những lời vu oan cáo vạ những tội tày đình, đáng bị tử hình.

“Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài” ( Mt 5, 39 – 40 ).

Xả

Nhẫn, chính là thể hiện bản lĩnh của con người. Nhưng để có thể nhẫn nại, nhẫn nhịn, nhẫn nhục, tiên vàn cần phải xả kỷ vị tha, xả đi mọi tự ái, vị kỷ, xả thân, bỏ đi chính cá nhân mình, với những cám dỗ kiêu căng, tự đắc, tự phụ, hãnh tiến. Từ bỏ mình đi, mới có thể chấp nhận, đón chào tha nhân, mới có thể tôn trọng, quý mến người khác. Có coi nhẹ mình, mới chân thành kính trên, nhường dưới, làm tôi mọi, phục vụ, Ôsin của mọi người.

Bao lâu còn coi mình là đinh của tập thể, của cộng đoàn, Giáo Xứ, thì tầm thường hóa, vùi dập kẻ khác, coi thiên hạ chỉ đơn thuần là phương tiện tiến thân cho mình, muốn muôn người phải ca khen, tôn vinh mình mãi.

Xả kỷ còn có nghĩa phá chấp ngã như bên Phật Giáo quan niệm, không coi mình là gì hết, để có có thể vị tha, sống cho người, chết cho người. Hy sinh, dấn thân phục vụ tha nhân, mới có thể nhẫn nại, nhẫn nhịn, nhẫn nhục.

“Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta” ( Lc 9, 23 ). Nhờ thế, mới có thể sẵn sàng phục vụ tha nhân, làm vui lòng tha nhân, nhường nhịn, nâng đỡ, ân cần trợ giúp, đáp ứng yêu cầu khẩn thiết cấp bách. Chẳng hề kêu ca, phàn nàn vất vả mệt nhọc.

Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin, thì anh hãy cho; ai muốn vay mượn, thì anh đừng ngoảnh mặt đi” ( Mt 5, 41 – 42 ).

Ái

Nếu chỉ dừng lại chữ nhẫn thì mới chỉ là thành nhân, hay đúng hơn là kẻ sỹ, quân tử tàu, tự giải thoát khỏi vòng tục lụy, an phận trong vỏ ốc riêng tư. Nếu còn thêm xả kỷ vị tha, nhân ái, thì mới xứng làm môn đệ của Đức Giêsu. Bỏ đi tất cả cái mình có, bỏ đi cả danh giá, thể diện, để bao dung, tha thứ, thương yêu kẻ thù, vì lòng mến Chúa yêu người, mới là người Kitô hữu chính hiệu. Thiếu lòng nhân ái, thiếu Đức Mến, thì chưa thể nào thành môn đệ chân truyền của Đức Giêsu.

“Còn Thầy, Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những người ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” ( Mt 5, 44 – 45 ).

Nếu con hiểu biết hạnh phúc được làm con Chúa, thì những điều sỉ nhục không thấm gì con và những lời hoan hô cũng chẳng thêm gì cho con” ( Đường Hy Vọng, số 506 ).

Lạy Chúa Giêsu, Người đã cam chịu nhẫn nhục, bao dung từ bi, tha thứ nhân hậu, xin dạy chúng con thấm nhuần, thấu đáo Lời Chúa, ghi lòng tạc dạ, để có thể thành tâm thi hành luật Tình Yêu.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã âm thầm chịu đựng bao lời dèm pha, đố kỵ, ganh ghét, thù hằn, khi đồng hành cùng Đức Giêsu bôn ba rao giảng, xin dạy chúng con biết nhẫn nhịn, xả kỷ vị tha và nhân ái, yêu thương chan hòa mọi người. Không còn ai là kẻ thù. Amen.

AM. TRẦN BÌNH AN

 

“GIÓ SẼ MỪNG VÌ TÓC EM BAY…”

“GIÓ SẼ MỪNG VÌ TÓC EM BAY…”

Lm. VĨNH SANG, DCCT

Ephata 599

Một lần nữa tôi có dịp theo chân một đoàn từ thiện đến Tây Nguyên. Tìm được địa điểm để có thể tiếp cận được đồng bào nghèo không phải dễ, những phẩm vật mang theo muốn trao đến trọn vẹn cho đồng bào nghèo càng không dễ chút nào. Chẳng biết cái cơ chế nào, cái luật lệ nào, cái thủ tục nào cứ phải phần trăm cho “các cấp, các ban ngành đoàn thể”, chẳng hiểu cái truyền thống hào hùng nào, cái đạo đức cách mạng nào biến những kẻ mang của cải chia sẻ cho người nghèo phải biết ơn “các cấp, các ban ngành đoàn thể” vì họ bố thí cho chúng ta cái quyền… làm từ thiện ! Nhưng thôi, tất cả cái gian lao đó, tôi đã thấy, nó không làm chùn chân những anh chị em Giáo Dân quảng đại, từ bi và nhân ái.

Tôi học được nơi họ – những người thiện nguyện – rất nhiều, sự hy sinh, can đảm, kiên nhẫn và khôn khèo. Họ không nề hà gian khổ, không kìm nén cảm xúc và không thu vén cho họ, không tìm danh lợi. Chẳng ai, chẳng nơi nào lưu dấu tên họ, chẳng ai biết họ là ai. Sau những chuyến xe gập ghềnh gian lao, những công việc nặng học vất vả, những buổi thăm viếng bị vắt kiệt sức, trở lại phố thị, vệ sinh gột rửa bụi bặm, họ trở nên thoải mái khi trút sạch những gì không có nơi đô thị trừ một cái, họ vẫn còn mang theo vào bữa ăn tối những giọt nước mắt hào sảng dành cho những thân phận nghèo hèn, kém may mắn, mà họ đã gặp nơi các buôn làng, họ đã khóc thật nhẹ nhàng, thật thoải mái khi cùng nhau nhắc lại những cuộc gặp gỡ vừa qua.

Những buôn làng tôi đã đi qua, thật nghèo, cái nghèo cùng kiệt không tả hết, những mái nhà hiu quạnh, rách nát, những con heo tộc bụng gần sát đất rong chơi tìm kiếm thức ăn cùng với những đứa trẻ mặt mày lem luốc ngơ ngác, những cái váy khô cứng xếp lớp như những miềng nhựa quấn quanh người, những cái đầu tóc không thể nào bay cho dù gió đại ngàn có cuồn cuộn kéo ngang, nó bện vào nhau, vàng cháy, khẳng khiu như những nhánh rễ cây đan quyện trên mặt đất. Những mái đầu ấy nếu được tắm gội, được chải chuốt, được đặt lên đó một nhánh hoa rừng, nếu những vòng tay đen cáu được sạch sẽ, được mang sách vở đến trường, được những miếng bánh mì lót lòng buỗi sáng, nếu những bàn chân trần có được đôi dép, tung tăng những bước chân chim với bạn bè, xếp hàng ngay ngắn trước thầy cô, hẳn số phận họ được thay đổi…

Những căn nhà bằng gỗ tồi tàn không còn nguyên vẹn, dáng kiểu nghiêng nghiêng như những triền dốc của núi đồi, hợp thành một bức tranh lạ kỳ, màu đen mốc thếch như những vạt đồi xa xa còn trơ lại đất cát sau những đám cháy nhuộm đen những gốc cây trơ trọi. Cái nghèo không thể xiết !

Chúng tôi mang đến một số phần quà như đã được nhóm tiền trạm báo trước, không ngờ số người đến nhận lại vượt quá con số dự trù. Tìm hiểu mới biết số người tăng thêm đến từ các buôn làng khác. Dân thành phố mình quen tính toán, thi nhau đưa ra giải pháp, bớt mỗi phần bao nhiêu ký để có thêm số phần cho đủ, nhưg người dân tộc tính khác, họ bảo: “Đổ chung đi, rồi cứ chia đều, thế là tốt, cùng là đồng bọn mà !” Chân chất và thật thà đến ngạc nhiên. Chúng tôi học được nhiều bài học từ núi rừng, hồn nhiên và trong sáng như thế đó…

Về lại thành phố, lòng tôi vẫn còn vương vấn, chuyến đi chớp nhoáng, thật nhanh và rút gọn, không biết lần sau có đến được vùng này nữa không, tai tôi vẫn còn ray rứt lời dặn của người môi giới: “Phát quà thôi, không được nói gì về tôn giáo”. Và một lời khác nữa của già làng: “Cán bộ dặn là không theo đạo để được là xã anh hùng !” Chúng tôi có nói gì về đạo đâu nhỉ, chỉ xin chia sẻ trong tình nghĩa làm người với nhau mà cũng khó dễ sao !?!

Bao giờ thì… “gió sẽ mừng vì tóc em bay ?”

Lm. VĨNH SANG, DCCT, 23.2.2014

 

Con Hạc Trắng

Con Hạc Trắng

Nguồn: Ephata 599

White Stork-Mindaugas Urbonas-1.jpg

Bạn có bao giờ ngắm kỹ một con hạc trắng chưa? Nó trông thật mảnh mai; chân dài, người mỏng, trong một bộ lông trắng muốt. Trông nó thanh cao như một người luống tuổi mà vẫn giữ được phong cách ung dung… Con hạc được coi là một con vật sống lâu cho nên người ta gọi tuổi của các cụ là tuổi hạc.

Tết năm nào gia đình tôi cũng lên Đà Lạt nghỉ ngơi tại nhà 1 người anh bà con. Ðằng sau nhà anh tôi có một con đường mòn dẫn tới một công viên. Con đường mòn vào cuối Xuân chớm Hạ thật là đẹp. suối róc rách chảy, cây cỏ xanh mướt, những bông hoa núi nở trắng xóa. Chúng tôi mỗi buổi sáng dắt theo con chó đi bộ, vừa đi vừa trò chuyện.

Tôi bất giác hỏi:
– Sao con người không giống cây cỏ, vào mùa đông héo, úa, rụng, đến xuân, hạ lại hồi sinh nhỉ?
Anh tôi cười, nói:
– Cứ giữ mãi được Xuân, Hạ trong lòng mình là tốt rồi.

Chúng ta những người ở lứa tuổi đang bước vào tuổi già hay đã già. Tinh thần và thể xác không còn như hai mươi năm, mười năm về trước hay thậm chí như mới năm ngoái nữa.

Thông thường bất cứ người mang quốc tịch nào, sinh sống ở phần đất hay hoàn cảnh nào thì khi về già hay ngồi gậm nhấm lại quá khứ. Ở tuổi già, không có phương tiện di chuyển, bị trở ngại trong giao tiếp đã làm một số người sống một cuộc sống tẻ nhạt, từ tẻ nhạt đưa tới trầm cảm, khép kín.
Từ đó sinh ra bao nhiêu bệnh, và khi có bệnh, sự chạy chữa xem chừng không có hiệu quả lắm cho những người này.

Bác Sĩ Ornish, tác giả cuốn sách Love & Survival, nói rõ: Tách lìa tình thân gia đình và bạn bè là đầu mối cho mọi thứ bệnh từ ung thư, bệnh tim đến ung nhọt và nhiễm độc. Tình thương và tinh thần lạc quan là gốc rễ làm cho chúng ta bệnh hay khỏe.

Ba mươi năm trước mà nghe ai nói cô đơn sinh ra các chứng bệnh thì người ta sẽ chỉ cười nhẹ.. Nhưng bây giờ điều này đã được nhiều bác sĩ công nhận là đúng.

Những buổi tĩnh tâm chung, có cầu nguyện, có tịnh niệm (tùy theo tôn giáo của mỗi người) chia sẻ những buồn vui, lo lắng của mình cùng người khác cũng giúp khai thông được những tắc nghẽn của tim mạch như là ăn những thức ăn rau, đậu lành mạnh vậy.

Nếu không nói ra được những gì dồn nén bên trong thì chính là tự mình làm khổ mình. Khi nói ra, hay viết ra được những khổ tâm của mình thì hệ thống đề kháng được tăng cường, ít phải uống thuốc.

Theo Bác Sĩ Ornish, khi bị căng thẳng cơ thể sẽ tiết ra một hóa chất làm cho mọi sinh hoạt ứ đọng, ăn không ngon, đầu không suy nghĩ, mạch máu trì trệ, mất sức đề kháng, dễ cảm cúm.

Như vậy sự cô đơn cũng là chất độc như cholesterol trong những thức ăn dầu mỡ, mà chỉ có sống lạc quan mới cứu rỗi được.

Nếu bạn không mở tâm ra cho người khác thì bác sĩ bắt buộc phải mở tim bạn ra thôi!!!

Tuổi như thế nào thì gọi là già? Chúng ta biết khi một người qua đời ở tuổi 60 thì được gọi là ‘hưởng thọ’.   Vậy sau tuổi 60 mỗi ngày ta sống là một “bonus”, phần thưởng của Trời cho.

Chúng ta nên sống thế nào với những ngày ‘phần thưởng’ này. Lấy thí dụ một người lớn tuổi, sống cô đơn, biệt lập, không đi ra ngoài, không giao thiệp với bạn hữu, thế nào cũng đi đến chỗ tự than thân trách phận, bất an, lo âu, ủ dột và tuyệt vọng. Từ đó bắt nguồn của bao nhiêu căn bệnh.

Trong “Những lời Phật Dạy” có câu:

Sai lầm lớn nhất của đời người là đánh mất mình.
Phá sản lớn nhất của đời người là tuyệt vọng…

Chắc trong chúng ta không ai muốn rơi vào hoàn cảnh này. Gặp gỡ bè bạn thường xuyên trong những sinh hoạt thể thao là điều tốt lành nhất cho thể lý.
Ði tập thể thao như nhẩy nhẹ theo nhạc, tắm hơi, bơi lội, tennis v.v… đã giúp cho người lớn tuổi giữ được thăng bằng, ít ngã, và nếu có bệnh, uống thuốc sẽ công hiệu hơn, mau lành hơn.

Gặp bạn, nói được ra những điều phiền muộn cho nhau nghe, ngồi tĩnh tâm, đến nhà thờ, chùa cầu nguyện giúp được làm chậm lại sự phát triển của bệnh.

Bác Sĩ Jeff Levin giáo sư đại học North Carolina khám phá ra từ hàng trăm bệnh nhân, nếu người nào thường xuyên đến nhà nguyện họ có áp suất máu thấp hơn những người không đến nhà nguyện, ông bỏ ra hàng đêm và nhiều cuối tuần để theo dõi, tìm hiểu những kết quả cụ thể của ” Tín ngưỡng và sức khỏe “!

Cuốn sách ông phát hành gần đây nhất có tên là God, Faith and Health. Trong đó ông cho biết những người có tín ngưỡng khỏe mạnh hơn, lành bệnh chóng hơn, ít bị nhồi máu cơ tim, gặp sự thăng trầm trong đời sống họ biết cách đối diện, họ luôn luôn lạc quan.

Lạc quan là một cẩm nang mà chúng ta nên luôn luôn mang theo bên mình. Ðừng bao giờ nói, hay nghĩ là “Tôi già rồi, tôi không giúp ích được cho ai nữa”  hoặc  “Tôi vụng về, ít học, chẳng làm gì được” .

Tôi xin kể câu chuyện Hai con ngựa của thầy phó tế George A.Haloulakos.

Cạnh nhà tôi có một cánh đồng cỏ, hàng ngày có một cặp ngựa, con nọ lớn hơn con kia một chút thong thả ăn cỏ ở đấy. Nhìn từ xa chúng là đôi ngựa bình thường giống những con ngựa khác. Tuy nhiên nếu bạn đến gần, bạn sẽ khám phá ra là có một con mù.

Trên đường trở về chuồng mỗi chiều, con ngựa nhỏ chốc chốc lại ngoái cổ lại nhìn bạn, muốn biết chắc bạn mù của nó vẫn đi theo tiếng chuông của nó để lại đằng sau..

Chủ nhân của nó chắc thương nó không nỡ bỏ đi, mà còn cho nó một chỗ ở an toàn. Chính điều này đã thành một câu chuyện tuyệt vời.
Ðứng bên chúng, bạn chợt nghe có tiếng chuông rung, phát ra từ cái đai nhỏ vòng quanh cổ con ngựa nhỏ hơn, chắc là một con cái. Tiếng chuông báo cho con bạn mù của nó, biết là nó đang ở đâu mà bước theo. Quan sát kỹ một chút bạn sẽ thấy cái cách con ngựa sáng chăm sóc con ngựa mù, bạn nó, chu đáo như thế nào. Con ngựa mù lắng nghe tiếng leng keng mà theo bạn, nó bước chậm rãi và tin rằng bạn nó không để nó bị lạc.

Cũng giống như chủ nhân của đôi ngựa có lòng nhân từ, Thượng đế không bao giờ vứt bỏ bạn vì bạn kiếm khuyết, hoạn nạn hay gặp khó khăn. Người luôn luôn đem đến cho chúng ta những người bạn khi chúng ta cần được giúp đỡ. Ðôi khi chúng ta là con ngựa mù, được dẫn dắt bởi tiếng chuông mầu nhiệm mà Thượng đế đã nhờ ai đó rung lên cho chúng ta. Những khi khác chúng ta là con ngựa dẫn đường, giúp kẻ khác nhìn thấy.

Bạn hiền là như vậy. Không phải lúc nào ta cũng nhìn thấy họ, nhưng họ thì luôn hiện diện đâu đó. Hãy lắng nghe tiếng chuông của nhau.
Hãy tử tế hết sức mình, bởi vì có một người mà bạn gặp trên đời, biết đâu cũng đang ở trong một hoàn cảnh khó khăn nào đó họ phải phấn đấu để vượt qua. Không gì hơn là tuổi già nương dựa vào nhau trong tình bạn. Luôn luôn nghĩ bao giờ mình cũng có cái cho đi mà người khác dùng được.

Tính hài hước, làm cho người khác cười cùng với mình cũng là những liều thuốc bổ.

Thi sĩ Maya Angelou vào sinh nhật thứ 77, trong chương trình phỏng vấn của Oprah, hỏi về sự thay đổi vóc dáng của tuổi già, bà nói:

” Vô số chuyện xẩy tới từng ngày… Cứ nhìn vào bộ ngực của tôi xem. Có vẻ như hai chị em nó đang tranh đua xem đứa nào chạy xuống eo trước “. Khán giả nghe bà, cười chẩy cả nước mắt.

Những vấn đề chính ảnh hưởng đến sức khỏe của bạn (qua tinh thần) là:

+Sự cảm thông giữa cha mẹ và con cái, giữa ông bà với các cháu.
+Tinh thần chấp nhận và lạc quan.
+Nghĩ đến những điều vui nhỏ mỗi ngày.
+Tham gia những sinh hoạt nào phù hợp với sức khỏe.
+Làm việc thiện nguyện
.

Sinh, bệnh, lão, tử. Con đường đó ai cũng phải đi qua. Nhưng đi như thế nào thì hầu như 80% chính mình là người lựa chọn.

+Nhóm bạn: Ðọc sách, kể chuyện, đánh cờ, chơi bài (không phải ăn thua).
+Tham gia các lớp thể dục: Như Yoga, ngồi thiền, khí công v.v…Và ngay cả chỉ đi bộ với nhau 30 phút mỗi ngày cũng giúp cho tinh thần sảng khoái, sức khỏe tốt hơn là ở nhà nằm quay mặt vào tường.

Hãy thỉnh thoảng đọc lên thành tiếng câu ngạn ngữ này: ‘Một nét mặt vui vẻ mang hạnh phúc đến cho trái tim và một tin vui mang sức khỏe cho xương cốt.’

Chúc tất cả anh chị em luôn cảm thấy vui khoẻ và trọn vẹn an lành trong tâm hồn

Khuyết Danh

LÒNG BAO DUNG

LÒNG BAO DUNG

Tác giả: Lm. Inhaxio Trần Ngà

Tin Mừng Mat-thêu (5, 38-48)

Trả thù, báo oán là cách ứng xử man rợ, thiếu đạo đức.

Luật trả thù báo oán kiểu “mắt đền mắt, răng đền răng” là thứ luật đã lỗi thời, không còn thích hợp nữa, thế mà ngày nay không ít người vẫn muốn cư xử với nhau theo thứ luật rừng man rợ nầy. Nhiều người vẫn chủ trương: Ai móc mắt tôi, tôi móc mắt người đó. Ai đánh gảy răng tôi, tôi đánh gảy răng người đó…

Trước hết, đây là cách ứng xử thông thường của loài cầm thú, như gà chọi chẳng hạn: Con nầy đá qua, con kia mổ lại, đấu đá nhau cho đến khi cả hai đều gục xuống, kiệt sức, mình mẩy đầy máu me!

Đây cũng là phản ứng tự nhiên của những con trâu điên, của những con chó dại: Trâu nầy húc qua, trâu kia báng lại cho đến khi cả hai không còn hơi sức.

Những cách ứng xử như trên thật là man rợ, rừng rú, chỉ thích hợp cho một số loài động vật hung hãn. Là người, chúng ta không thể sống theo bản năng hạ cấp mang đầy thú tính như vậy.

Nhiều cuộc xung đột trên thế giới được giải quyết theo kiểu “mắt đổi mắt răng đền răng”, tức giải quyết bằng chiến tranh, trả thù, báo oán và đã đưa đến hậu quả vô cùng bi đát. Lịch sử chiến tranh giữa các dân tộc qua bao thời đã cho thấy điều đó.

Bao dung tha thứ cho kẻ thù là thượng sách.

Qua trích đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su đề xuất một giải pháp tối ưu cho mọi tranh chấp xung đột giữa người với người, đó là: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” và “Đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa” (Mt 5, 39.44)

Trước lời dạy nầy, những người nông nổi cho là nhu nhược, là hèn nhát, là yếu đuối; chỉ những ai khôn ngoan sâu sắc mới nhận thấy đây là giải pháp tối ưu để giải quyết mọi xung đột và đem lại an hòa.

Khi người ta quai búa tạ vào tảng đá cứng, đá sẽ dùng sự cứng rắn của mình để kháng cự lại búa, hậu quả là đá sẽ nứt vỡ ra, bị nghiền tán ra. Đá bị thất bại hoàn toàn!

Nhưng khi người ta quai búa giáng mạnh xuống hồ nước, nước sẽ dùng sự mềm mại của mình để vô hiệu hoá sức mạnh của búa. Nước không hề hấn gì nhưng búa thì sẽ bị chìm lĩm xuống tận đáy hồ. Thế là nước thắng lợi vẻ vang!

Khi gặp bão táp cuồng phong, những cây cổ thụ cao lớn cứng cáp dùng sự cứng rắn mạnh mẽ của mình để kháng cự lại bão tố. Hậu quả là chúng bị gãy cành, trốc gốc. Trong khi đó, những rặng tre, những cây lau sậy không hề kháng cự lại bão tố, nhưng dùng sự mềm dẻo của mình để uốn theo chiều gió nên chúng được an toàn.

Hiểu được quy luật đó nên Lão tử đã dạy môn sinh từ mấy ngàn năm trước: “Nhu thắng cương, nhược thắng cường.” Vị sư tổ của môn phái Judo cũng đã dựa vào quy luật nầy để sáng lập nên môn phái Judo (nhu đạo), một môn võ thuật lấy mềm dẻo để chiến thắng tính hung bạo cứng rắn.

Tha thứ đem lại bình an cho tâm hồn.

Khi oán ghét, giận hờn, căm thù người khác, ta cảm thấy tâm hồn mình như một mặt hồ đang yên bình bỗng nhiên nổi sóng. Ta cảm thấy bực bội, cay cú và như muốn phát khùng. Ta cảm thấy mình đã đánh mất sự bình an trong tâm hồn: ăn không ngon, ngủ không yên, huyết áp lên cao, bệnh tật phát sinh và tất nhiên, nếu cứ lặp lại tình trạng nầy nhiều lần thì ta bị tổn thọ.

Trong khi đó, người bị ta giận ghét thì vẫn sống hồn nhiên, vẫn vui đùa, vẫn thanh thản hạnh phúc như không có gì xảy ra. Nỗi căm hờn giận ghét của ta dành cho y không làm y đau khổ, mà chỉ làm cho ta đau khổ thôi.

Như thế, khi ta nuôi lòng giận ghét căm hờn người khác, là ta tự phạt mình, tự hành hạ mình, tự làm khổ mình, tự gieo thêm bệnh tật cho mình, tự cắt ngắn tuổi thọ của mình. Làm thế thì chẳng phải là điên rồ, dại dột lắm sao!

Thế thì ta hãy thôi đày đoạ và tự làm khổ mình, hãy trả lại bình an cho tâm hồn mình, trả lại hạnh phúc cho cuộc đời ta bằng cách tha thứ, xoá bỏ và quên đi lầm lỗi của người khác. Chỉ bằng cách nầy, ta mới tìm lại được bình an cho tâm hồn, tìm được hạnh phúc cho cuộc sống.

Lạy Chúa Giê-su,

Hình ảnh đẹp nhất trên đời là hình ảnh của Chúa năm xưa trên đồi Can-vê, dù đang bị đám đông bạo ngược phỉ báng, hành hạ, đóng đinh vào thập giá mà Chúa vẫn tha thiết cầu xin Thiên Chúa Cha thứ tha cho bao kẻ xúc phạm đến Ngài.

Xin ban cho chúng con có đủ yêu thương, có đủ bao dung và thông cảm để sẵn sàng tha thứ cho những người xúc phạm đến chúng con, để yêu thương và cầu nguyện cho họ như Chúa đã nêu gương.

Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà

Tin Mừng Chúa Nhật 6 thường niên : Mát-thêu 5, 38-48

38 “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng.39 Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa.40 Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài.41 Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm.42 Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi.

43 “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù.44 Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. 45 Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính.46 Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao?47 Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao?48 Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.

Tác giả: Lm. Inhaxio Trần Ngà

NỖI NIỀM SÂU KÍN CỦA GIÊSU

NỖI NIỀM SÂU KÍN CỦA GIÊSU

Các bạn trẻ thân mến,

Giêsu cũng là con người như chúng ta, cũng biết buồn, biết vui.  Có lúc Ngài cảm thấy hạnh phúc vì niềm an ủi thiêng liêng trào dâng, nhưng cũng có khi Ngài buồn phiền khi gặp phải những chống đối, ghét ghen.  Sứ mạng mà Giêsu đang gánh vác, Giêsu biết là nó sẽ dẫn Ngài đến cây thập giá thật sự trên đồi cao với những đòn roi, vu khống, sỉ nhục và đau đớn.  Dù ý thức rất rõ đó là con đường mà mình phải đi và nhiều lần chính Giêsu cũng đòi buộc các môn đệ phải đi con đường ấy, nhưng cứ nghĩ đến cái chết thảm khốc như một tên tử tội trên đồi, Giêsu vẫn cảm thấy có chút gì tiếc nuối, lo lo.  Mỗi lần như thế, Giêsu muốn tìm đến những người bạn thân của mình để chia sẻ nỗi niềm, mong sao với sự thấu hiểu và sẻ chia của họ, Giêsu có thể phần nào đó vượt qua được cảm giác lo lắng này mà hăng hái hơn gánh lấy trọng trách.  Thế nhưng, mỗi lần chia sẻ cho các môn đệ, vốn là những người bạn thân gắn bó suốt bao nhiêu năm qua, là mỗi lần Giêsu lại nhận lấy những hờ hững và vô tâm của họ.

Khi Ngài nói với họ là mình sẽ bị bắt, bị đánh đập, bị giết chết nhưng rồi sẽ sống lại, họ chẳng hiểu gì nhưng cũng chẳng dám hỏi lại, chỉ lo tranh cãi nhau xem ai là người lớn nhất trong nhóm.  Sau khi Phêrô thay mặt các tông đồ tuyên xưng căn tính Mêsia của Đức Giêsu, Ngài cũng mặc khải cho họ biết về tương lai của mình.  Phêrô vội vàng ngăn cản và không muốn chuyện ấy xảy ra.  Lần khác, ngay sau khi Ngài chia sẻ, hai anh em Giacôbê va Gioan đã bí mật gặp riêng Ngài để xin được ngồi bên hữu bên tả Ngài trong nước của Ngài.  Dường như trong mặt họ, điều quan trọng không phải là tâm tư của Giêsu nhưng là những lợi ích mà họ sẽ có được.  Con đường cứu độ mang đầy dấu vết thập giá của Giêsu, họ vẫn chưa thấu tỏ.  Bao mơ mộng về tột bậc vinh quang và chức tước đã chiếm hết chỗ trong tâm trí của họ, khiến họ không còn tâm tư để nghe những bộc bạch và những nỗi niềm rất riêng của thầy mình.

Đã rất nhiều lần, Giêsu nghẹn ngào tỏ bày mong ước và nỗi lòng sâu kín của mình nhưng chẳng ai hiểu cả.  Ngài ước được ấp ủ mọi người dưới cánh tay như gà mẹ ấp ủ con dưới cánh.  Ngài mong sao ngọn lửa Ngài mang xuống cho trần gian có ngày được bừng cháy lên.  Ngài nói như một người tràn trề tâm tư khi thổ lộ là Ngài phải uống chén đắng Cha trao.  Là một con người, Giêsu cũng có lúc cô đơn, cũng có khi cần người an ủi, sẻ chia.  Ấy vậy là mà chẳng ai thấu hiểu, chẳng ai nhận ra, trái lại còn làm cho nỗi sầu riêng của Ngài thêm cay đắng.

Các bạn trẻ thân mến,

Trong mắt chúng ta, Giêsu là một con người rất mạnh mẽ vì Ngài đã một mình đương đầu với hết tất cả những khó khăn. Tuy nhiên, chúng ta quên đi một điều là Giêsu cũng là con người như chúng ta. Cũng có lúc Giêsu vui vì có nhiều người nghe mình rao giảng, vì người dân được no nê, hạnh phúc, vì các bệnh nhân được lành.  Nhưng cũng có lúc Giêsu buồn vì chẳng ai hiểu mình, vì lòng người sao cứng cỏi kém tin, vì ai ai cũng bon chen tranh giành chức tước.  Chẳng ai trong chúng ta lại không bồi hồi và sợ hãi khi biết rằng chỉ ít ngày nữa thôi, mình không còn được sống nữa.  Cũng như chúng ta, Giêsu ước ao mình được sống và vui hưởng những niềm vui, hơn là bị những đòn roi tra tấn, bị những lời sỉ vả chát chúa bủa vào tai, bị những mũi đinh nhọn đóng sâu vào xương thịt, bị treo trên thập giá, trần truồng, tủi hổ.

Mỗi khi chúng ta gặp chuyện buồn, ta thường tìm đến bạn bè, hy vọng được san sẻ chút lo lâu.  Còn khi Giêsu có nỗi lòng, ta dường như chẳng mảy may để ý đến.  Ta bận nhiều chuyện quá!  Bận tính toán cho sự nghiệp của mình, bận gặp người này người kia, bận vui chơi với đám bạn trong những trò trụy lạc, bận suy nghĩ để tìm ra những thủ đoạn trả thù.  Ta bỏ rơi Giêsu một mình với nỗi niềm riêng. Ta đến với Giêsu có chăng cũng chỉ là để xin được cái này cái nọ, xin được ngồi bên hữu bên tả, xin Ngài ban cho ta điều này điều khác, còn những mong chờ, khao khát mà Giêsu dành cho chúng ta, ta bỏ lơ như chưa hề biết.  Nỗi cô đơn mà Giêsu chịu vốn đã đủ để dày vò Ngài, nay lại còn phải nhận lấy sự vô tâm của chúng ta, khiến cho nỗi đau ấy thêm phần chua cay, nhức nhối.  Vô tâm nối tiếp vô tâm, ta theo Chúa cốt chỉ để tìm lợi cho chính ta, chứ ta chưa bao giờ cố gắng để hiểu Chúa.

Hãy một lần cố gắng hiểu được những tâm tư của Giêsu như tên trộm lành, các bạn sẽ hưởng được lời hứa của Ngài: anh sẽ được ở trên Thiên Đàng với tôi.  Đừng để Giêsu một mình với nỗi cô đơn và tâm sự buồn, các bạn nhé!

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

From: langthangchieutim & Anh chi Thụ Mai

Ai xin sẽ được” (Mt 7,7)

Ai xin sẽ được” (Mt 7,7)

chuacuuthe.com

VRNs (22.02.2014) – Boston – Trong Kinh Hãy Nhớ, chúng ta vẫn thường đọc: “Lạy Thánh Nữ Đồng Trinh Maria là Mẹ rất nhân từ, xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ, xin bầu chữa cứu giúp mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhận lời…”

Có thật không đấy ?

Khi viết những dòng chữ này, tôi biết mình đang đi vào bẫy mìn… tín ngưỡng. Rất dễ bị kết án lộng ngôn loạn trí, đặc biệt là từ một người bạn của tôi, cổ điển như một cây phong cầm cũ trong Nhà Thờ họ lẻ, thường xuyên sưu tầm phép lạ bất kể lớn hay nhỏ, dù đáng tin hay chăng ? Tuy bụng chứa một bầu phép lạ vỗ bồm bộp, nhưng hễ có chầu nhậu nào bao giờ anh cũng có mặt đúng giờ, chăm chỉ không khác chu toàn giới răn thứ tư của Hội Thánh: “Giữ ngày Chúa Nhật”. Thời đại “A-còng” này mà truyền giáo cho giới trẻ chỉ bằng toàn phép lạ thì tôi xin… “bó-tay-chấm-com”. Tôn Giáo xây dựng trên phép lạ được lớp trẻ đón nhận cũng giống loại truyện võ lâm kiếm hiệp Kim Dung. Thượng Đế duy nhất chỉ có một, nhưng hiện hữu trùng lớp vô lượng các tôn giáo khác nhau, tăng phái nào cũng bầy tỏ biết bao phép lạ nhãn tiền, Thánh Mẫu hiển linh… Biết tìm đâu chánh đạo nương náu tâm linh ?

Thành thật tâm sự, tôi chỉ muốn làm một người bình thường, không muốn ngông nghêng chơi nổi lựa đề tài nhạy cảm lấy tiếng ngu. Thực tế đời thường chứng thật cho thấy kẻ xin thì nhiều nhưng ngửa tay đón nhận quá ít. Nếu bạn kể một trường hợp ai đó cầu xin được nhận lời, tôi có thể trương ra hàng trăm người nhăn nhó khốn khó trở về tay không.

Thời Đức Quốc Xã, hàng triệu người Do Thái trần như nhộng tiến vào phòng hơi ngạt, miệng hát Thánh Vịnh: “Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng sợ gì… Ngài dẫn tôi qua những cánh đồng xanh… Dù bước đi trong thung lũng tối, tôi không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng tôi…” Họ cầu nguyện Thượng Đế để được cứu sống, đáp trả lời nguyện cầu rất tha thiết trước giờ tử sinh: tất cả những người đó đã đi vào cõi chết không bao giờ trở lại.

Ngày những công dân Việt yêu nước đấu tranh cho tự do dân chủ bị kết án ngồi tù, biết bao ngọn nến được thắp lên, nào ai đếm hết những giọt nước mắt tuôn tràn trong lời kinh tiếng hát vang thức tỉnh hồn thiêng sông núi, hiện nay họ đang ở đâu ? Đã về chưa ? Tôi không bao giờ quên được họ. Lưỡi lê – nòng súng mạnh hơn những lời cầu nguyện: quê hương tôi vẫn còn đang quằn quại dưới ách ngoại xâm kềm kẹp rất êm dịu từ từ nuốt trửng của người anh em 16 chữ vàng.

Bảo hiểm an toàn, giàu có no ấm của ma đạo xem ra hiển linh và hiệu quả hơn… chính đạo !?! Chú tôi đi học tập cải tạo, bị khám thấy có tràng hạt dấu trong chỗ nằm, quản giáo tống chú vào biệt giam cắt khẩu phần. Sau một tuần, chú còn bị đem ra đấu tố, bắt diễn lại hoạt cảnh Ngôn Sứ Êlia và các giáo sĩ thần Baal trên núi Carmelô để làm gương. Chú tôi và một vài trại viên “học tập tốt” dàn thành hai hàng đối mặt nhau trước toàn trại. Phía bên kia kêu cầu danh Bác và Đảng: thức ăn ngon liền được mang đến. Chú tôi cổ đeo tràng hạt, cũng kêu cầu nhưng không thần thánh nào đáp lại, nằm bẹp xó nhà bụng o o đầy bọt khí réo gọi trong cơn đói khốn cùng.

Trong xã hội Cộng Sản vô thần, rõ ràng có Đức Tin là một thiệt thòi rất lớn. Tôi có hai người bạn có đạo cùng thi vào Đại Học, một khai trong lý lịch: vô thần, một khai: Công Giáo. Chị “vô thần” trúng tuyển, trước đây thuộc một Dòng nữ, sau 1975 bố mẹ mang bàn thờ Đức Mẹ ra đầu ngõ đập biểu diễn, được cất nhắc vào Đoàn, Đảng, gia đình phú quý hiển vang, hiện tại là Hiệu Trưởng trường cấp II Phổ Thông Cơ Sở, anh ruột là Chủ Tịch một quận lớn thuộc Sàigòn, bố làm Chủ Tịch phường nay đã hạ cánh an toàn. Anh bạn Công Giáo của tôi dù học giỏi vẫn rớt, cuộc đời từ đó đi xuống không có điểm dừng, vợ con ly tán. Thượng Đế vẫn… im lặng không can thiệp !

Vài bậc đạo đức cắt nghĩa: “Xin không được là vì xin không thích hợp, không đúng lúc, không tha thiết đủ độ, Chúa có lý do để không nhận lời, phải khiêm tốn khi xin, cần bền đỗ như bà góa trong Kinh Thánh… cứ đứng gõ và gõ mãi cho đến khi chủ nhà bực tức phải cho để bà đi khuất mắt… đôi khi phải mất nhiều năm, nhiều thế hệ thay nhau, nối tiếp nhau gõ cửa…”

Hóa ra không chỉ đơn thuần “cứ xin thì sẽ được” mà còn phải có điều kiện.

Tôi chẳng hiểu thế nào là đúng, là sai, là tha thiết, bền đỗ cho đủ… Đói xin cơm ăn, nguy hiểm mạng sống xin được cứu thoát… Xu thế nhu cầu, phản xạ tự nhiên con người đòi hỏi như thế, sao lại bảo là xin không đúng loại, không đúng mức ? Thời còn chiến tranh, nhiều anh lính cầu nguyện trước khi lao vùng lửa đạn… Khi vượt biên, nhiều phụ nữ Việt bị đám hải tặc Thái hãm hiếp, cổ họ đeo tràng hạt, miệng run rẩy cầu kinh: họ vẫn bị làm nhục ! Có lời cầu nào tha thiết bằng tiếng kêu họ lúc này ? Mệt quá Chúa ơi ! Con đang đói, con đang bị hại… biết khi nào thì đúng lúc, lý do gì để được Chúa nhận lời ?

Bạn thân mến,

Có một ai đó nói rằng: “Bất cứ một lực nào ép xuống, tung vào một đối tuợng, một điểm, lập tức sẽ tạo ra một lực phản chiều tương tự”. Tôi thích hình ảnh dễ hiễu hơn: nếu ta ném trái banh tennis vào tuờng, nó sẽ dội lại. Ném quá mạnh có khi nó đập vào mặt người ném, tránh không kịp. Đã một thời tôi có những trăn trở duy lý như vừa viết ở trên, chính những suy nghĩ ấy dội ngược lại, đã tạo cho đời tôi những gập ghềnh bất an. Tôi đã ngã xuống, dại khờ lạc lối, đã mất Đức Tin…

Cho đến ngày một biến cố xảy đến trong đời tôi:

Tháng 10 năm 2003, cả gia đình tôi đi hành hương Lộ Đức ( Lourdes ) với mục đích để cầu nguyện cho đứa con trai bị bệnh. Lộ Đức là một vùng quê nghèo, bé nhỏ thuộc tỉnh Hautes-Pyrénées miền Tây-Nam nước Pháp, sát ranh giới phía Bắc Tây Ban Nha. Tôi đáp xe tốc hành TGV ( Train à Grande Vitesse ) từ Paris đến Lộ Đức. Chiếc xe lửa dài dẫn tôi rời bỏ thủ đô ồn ào náo nhiệt, len lỏi từ những hẻm núi, thung lũng thăm thẳm đến những đồng bằng miền quê thanh bình. Suốt đoạn đường dài hơn 800 cây số, thời gian 6 giờ, tôi luôn ghé mắt nhìn qua khung cửa sổ để thấy những cánh đồng nho trải dài không bờ bến, nông dân hiền lành, đàn bò gặm cỏ thung lũng đồng xanh…

Tâm hồn tôi hân hoan vì biết mình đang tìm về chốn xưa Mẹ đã hiện ra 18 lần với Bernadette, cô bé 14 tuổi chăn chiên, chưa bao giờ đến trường, gia đình nghèo gồm 6 người tạm trú ở một nơi trước kia làm nhà tù. Lộ Đức thanh bình thánh thiện, tôi hạnh phúc cầu nguyện mỗi đêm cho đến khi không còn bóng người đến cầu nguyện, tâm tư mê mẩn phiêu linh ngắm nhìn Mẹ từ hang đá Massabiell môi lay động dịu dàng xác định Tín Điều Vatican II: “QUE SOY ERA IMMACULADA COUNCEPTIOU” ( “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội” ). Tôi tin Đức Mẹ đã hiện ra ở chốn này khi hàng đêm đi theo đoàn rước kiệu kính Mẹ với hàng ngàn chiếc xe lăn không biết từ đâu kéo đến. Phải về tận đây mới cảm nhận hết tấm lòng con người đối với Mẹ. Phải về đây mới hiểu tình yêu của mẹ đối với nhân loại.

Khi trở lại Paris rồi đến Brussels ( Bỉ ), đứa con tôi vẫn không thuyên giảm, nhưng vào lúc chiều tối trước khi trở lại Hoa Kỳ sáng hôm sau, đứa bé đột ngột biến chứng chưa từng có: mắt trợn ngược, co giật liên hồi, sau đó tim ngừng đập. Lần đầu tiên trực tiếp đối diện với thần chết tôi thấy mình quá nhỏ bé và bất lực, tất cả chỉ là không: danh vọng, tài sản, bằng cấp… Một con số không rất to tôi chưa bao giờ chạm mặt. Ngồi trong xe cứu thương với đứa con chắc mẩm đã chết tôi xin nguyện đổi tất cả mọi thứ đang có để con tôi được sống. Sau ba ngày sống trong lo lắng, cuối cùng khi bác sĩ loan báo cháu đã được cứu sống cũng là lúc tôi trở thành một con người mới, Đức Tin của tôi phục hồi toàn diện.

Trở lại Boston, trước ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, người Mẹ tha thiết mến yêu, tôi dâng lời nguyện duy nhất: “Mong ước sau cuộc sống này sẽ gặp lại Chúa Giêsu và Mẹ Maria, sẵn lòng chịu bất cứ điều gì”.

Bạn biết không: lời cầu nguyện của tôi đã được nhận lời.

Làm sao biết được ? Trong đời tôi luôn xảy ra những việc trái ngược điều mình mong ước. Mong nắng nhận mưa, mong về đúng giờ lại gặp kẹt xe… triền miên thất nghiệp, các hãng tôi đã làm đều thay phiên nhau đóng cửa dù lịch sử đã có hàng trăm năm trước. Đang làm văn phòng ký quyết định các bản vẽ, đến bây giờ job assembler cũng không vững, lúc nào cũng chỉ tạm thời.

Hãng hiện nay tôi đang làm khi ký nhận mướn, người phỏng vấn bảo: “Anh bảo ba hãng trước nơi anh làm đều đã đóng cửa, nay tôi mướn anh xem hãng này có như vậy hay không…”

Quả nhiên, hãng này cũng đang chuẩn bị bán lại cho người khác. Họ may mắn có được người như tôi, nhiều kinh nghiệm lau chùi dọn dẹp trước khi… sang tay cho chủ mới.

Anh tôi từ ngày đến Mỹ không đi học, cười bảo: “Chú đi học bằng cấp nhiều mà bây giờ lương còn kém tôi !” Tôi không buồn vì cuộc đời tôi đã có định hướng Đức Tin.

Một lần ông chủ hãng gọi tôi đến bảo hôm nay sẽ là ngày cuối cùng của tôi ở trong hãng. Tôi cảm tạ ơn Chúa. Người con trai của ông chủ đứng gần đó thấy lạ hỏi: “Tại sao lại cảm ơn Chúa ?” – “Tôi cũng không biết nữa, có thể là nếu ở lại thêm sẽ có tai nạn xảy đến cho tôi chăng ?!?”

Lời cầu nguyện bây giờ của tôi chỉ còn là tạ ơn Chúa và Mẹ Maria trong tất cả các biến cố xẩy đến. Dù bệnh tật hay thất nghiệp hay điều gì chăng nữa tôi đều tạ ơn vì xác quyết rằng đó là những gì tốt đẹp nhất các Ngài lựa chọn phù hợp với khả năng chịu đựng của tôi.

Em gái tôi rất tin ở Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp và thường hay xin được ơn như ý nhắc tôi đến xin việc với Đức Mẹ. Tôi chỉ cười thầm vì nghĩ rằng: mình vẫn hay hát Thánh Vịnh: “Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng còn thiếu thốn gì…” nay lại xin điều này thứ nọ hóa ra chỉ hát chơi cho vui sao ? Nếu người ta biết cách dùng trí khôn để khéo léo trong lời xin, thì những trẻ câm không thể nói, thiểu năng, mất trí… biết đường nào mà xin nhỉ ? Tôi nghĩ với những người khuyết tật dù không biết xin điều gì, Thiên Chúa và Đức Mẹ sẽ thu xếp ban cho mọi thứ cần thiết mà cả trí khôn loài người cộng lại cũng không xin được.

Tôi có cảm nghiệm điều Chúa và Đức Mẹ đáp trả lời cầu xin rất khác với những gì ta mong được đón nhận. Con người giống như một đứa trẻ chỉ biết hài lòng với viên kẹo tầm thường mà vứt đi hạt kim cương rất quý báu. Đối với thế gian, hàng triệu người Do Thái hát Thánh Vịnh đi vào cõi chết nhưng có biết đâu với sự Phục Sinh của Đức Giêsu, sự chết chính là cánh cửa tuyệt hảo để bước vào cõi trường sinh.

Nếu như bạn đau khổ vẫn chưa hài lòng với câu hỏi: “Tại sao tôi xin mà không được ?”, tôi không biết trả lời ra sao ngoài việc mời bạn nhìn lên Thánh Giá và hỏi: Tại sao một Thượng Đế quyền năng tốt lành như thế mà lại phải chết trong đau khổ ? Tại sao chính Đấng đã phán “Hãy xin thì sẽ được” đã phải thốt lên trong tuyệt vọng: “Cha ơi ! Sau nỡ bỏ con ?”

Bạn mến, nếu muốn giọt nước mắt bạn không bị khô đi, hãy đặt nó vào biển cả. Nếu muốn bớt đi sự đau khổ, hãy nhìn lên Thánh Giá và tạ ơn: “Sao Ngài lại chịu đau khổ thay cho con ?”

NGƯỜI TÔI TỚ VÔ DỤNG, Boston

 

Những Già Đô Mới

Những Già Đô Mới

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Nói tóm lại, và nói một cách ví von: Già Đô là một Nguyễn Mạnh Tường của giới công nhân nhưng trung vận (cũng như hậu vận) đen đủi hơn nhiều. Tuy không chết rục trong tù nhưng Già Đô cũng sống không nổi trong lòng cách mạng.

“Văn mình vợ người” là chuyện đúng với tất cả mọi người, trừ Vũ Thư Hiên. Mỗi lần có dịp gặp ông, tôi đều nghe tác giả này hăng hái bàn về tác phẩm và nhân vật của … một nhà văn khác:

– Dứt khoát là phải làm một cuốn phim về cuộc đời của Già Đô thôi.

– Dạ vâng!

Tôi cứ “vâng, dạ” đều đều (và nhẹ hều) như vậy vì đã nghe ông lập đi lập lại câu nói trên dễ cũng đã hơn chục lần rồi. Già Đô là một nhân vật trong Chuyện Kể Năm Hai Ngàn của Bùi Ngọc Tấn:

Già là một lính thợ Pháp quốc trong đại chiến thế giới thứ hai. Từ Pháp già đã tới Algérie, Maroc (cái lý lịch ấy thật tai vạ cho già). Già đã là thợ đốt lò dưới con tàu Commerce Maritimes thuộc hãng Đầu Ngựa. Hải Phòng – Marseille là hành trình những năm tuổi trẻ của già. Làm được hai năm già thôi việc. Chỉ vì già không chịu được những lời mắng nhiếc của chủ …

Già bỏ tàu lên thành phố Marseille. Vào quán rượu quen. Uống. Uống nhiều. Và không trở về tàu nữa. Lang thang ở Marseille cho đến đồng frăng cuối cùng, già tìm được việc làm trong một xưởng sửa chữa xe có động cơ. Từ xe gắn máy, các loại ô-tô tới xe nâng, cần cẩu. Tại đây già bị động viên vào một đơn vị cơ giới. Già sang Maroc, Algérie, vẫn làm nhiệm vụ sửa xe.

Đại chiến thế giới thứ hai kết thúc. Già trở về Marseille. Trở về xưởng cũ. Lấy vợ. Cô Jeannette bán hoa quả ở gần bến cảng lớn bổng lên khiến già ngỡ ngàng, xao xuyến. Hai vợ chồng vay vốn mở một tiệm rượu nhỏ. Khách là những người phu pooc-tê, những thuỷ thủ, những người thợ nhan nhản ở thành phố Marseille.

Rồi già biết quê nhà đã được độc lập. Niềm sung sướng lớn lao và nỗi nhớ quê hương, nỗi sầu biệt xứ bỗng cồn cào trong lòng không chịu nổi. Càng không chịu nổi khi biết tin hiệp nghị Genève đã ký kết. Một nửa đất nước được độc lập. Lại thêm thôi thúc vì chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh đạo đất nước là người từng lâu năm ở Pháp, cũng từng là một mạch-lô.

Già về nước. Khi đó bà Jeannette đã sinh cho già một cô con gái xinh đẹp, có nước da trắng của bà, có mái tóc và đôi mắt đen của già Đô. Mặc bà vợ khóc can ngăn, già nhất định về nước. Rồi già sẽ sang đón bà về. Độc lập rồi, xây dựng sẽ rất nhanh. Đất nước sẽ phát triển rất nhanh. Dân tộc ta thông minh, cần cù, chiu khó lại được bao nước giúp đỡ. Đất nước đang cần những bàn tay như già…” (Bùi Ngọc Tấn. Chuyện Kể Năm 2000, tập II. CLB Tuổi Xanh, Westminster, CA: 2000).

Nói tóm lại, và nói một cách ví von: Già Đô là một Nguyễn Mạnh Tường của giới công nhân nhưng trung vận (cũng như hậu vận) đen đủi hơn nhiều. Tuy không chết rục trong tù nhưng Già Đô cũng sống không nổi trong lòng Cách Mạng, vẫn theo như lời của Bùi Ngọc Tấn:

Khoảng một tháng sau, già Đô trở lại nhà hắn. ở nhà hắn đi ra như thế nào, già trở lại cũng y như vậy. Một Vitali cô đơn, bị bọc, rách rưới, mang xách, nặng mùi. Có một điều khác: Tàn tạ hơn, mệt mỏi hơn, nhưng ẩn một tia hy vọng vì đã tìm ra lối thoát.

Già hỏi hắn: “Cụ có giấy bút không? “Và nhanh nhẹn đỡ lấy những thứ đó từ tay hắn. Già đeo kính.Cái kỉnh lão mắt tròn tròn cổ lỗ hồi đầu thế kỷ, một mắt lại vỡ rạn hẳn là quá nhẹ với già, nên già phải ngửa đầu ra phía sau mà nhìn vào tờ giấy. Già viết rất khó khăn. Bé Dương lại sán đến để chạm tay vào chòm râu rễ tre, cuồn cuộn của già, nhưng già khẽ khàng bảo nó:

– Đi chơi, để bác làm nhé.

Nó đi ra chỗ bố. Thì đành đứng đó nhìn chòm râu già vậy.

Bỗng già buông bút, nhìn hắn:

– Hay là cụ viết giúp tôi.

Hắn vui vẻ nhận lời. Già đọc:

– Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Độc lập – Tự do – Hạnh phúc.

Kính gửi Sở Công an.

-À, gượm đã. Hay là kính gửi Ban giám thị trại VQ nhỉ?

– Nhưng mà nội dung đơn là gì cơ?

– Tôi xin trở lại trong ấy.

Hắn choáng người, đặt bút xuống, nhìn già chăm chăm.

– Tôi suy nghĩ kỹ rồi, cụ ạ. Ở trong ấy tốt hơn.

Già chớp chớp mắt:

– Đời tôi là không gia đình. Ở đâu cũng vậy thôi.

Hắn hiểu. Cuộc sống trong tù đối với già dễ chịu hơn rất nhiều. Nhưng phải chết ở trong ấy. Già không sợ nữa sao?

– Ở ngoài này tôi không chịu đựng nổi nữa rồi.

Hắn cảm thấy già có lý: Với già sống ở ngoài đời đáng sợ hơn chết ở trong tù nhiều lắm.

– Thế thì phải làm đơn gửi Sở Công an. Trại người ta không nhận đâu. Phải là từ Sở đưa lên. Trại đã xuất kho mình rồi, ai người ta nhập kho mình nữa.

– Ý tứ thế. Cụ viết giúp tôi.

Hắn viết. Già ngồi im lặng. Hắn bảo già:

– Cụ nghe tôi đọc lại nhé.

Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Độc lập – Tự do – Hạnh phúc.

Đơn xin vào lại trại cải tạo…

Già nghe, gật gù… “Được. Được”. “Già ký vào đây”. Già ký. Ký xong vẻ mặt già bỗng thay đổi. Từ hy vọng chuyển sang lo lắng. Không biết người ta có nhận đơn không? Già bảo hắn, giọng bi quan:

– Làm đơn thì làm, chứ chưa chắc đã ăn thua gì đâu, cụ ạ.

Đó là lần cuối cùng già lại nhà hắn. Việc nộp đơn xin vào trại của già không được chấp nhận…

Sau đó:

“Già đi bới rác. Già lê la ở các cửa hàng mậu dịch, khách sạn. Dồn dịch những bát phở, vét đĩa, nhặt những mẫu bánh mì thừa… Rồi đến một ngày già không đi được nữa. Già thấy mình đang phiêu diêu…

Già chọn cho mình chỗ nằm để phiêu diêu: Một ngôi đình đổ nát và bị bỏ quên… Ngôi đình hoàn toàn hoang phế. Không một dấu vết thờ phượng. .. Thực là một chỗ nằm yên tĩnh lý tưởng để phiêu diêu. Chẳng ai quấy rầy già. Phiêu diêu là một cảm giác sung sướng lạ lùng. Chẳng nhớ được một điều gì, chỉ thấy mình đang tan đi và đang bay…

Đó là mùa xuân năm 1975, cũng đang mùa mưa dầm, hắn đã ra tù được hai năm, đã được gặp ông Trần và quân ta ta sắp đánh Buôn Mê Thuột mở đầu công cuộc giải phóng toàn thể miền Nam, thu giang sơn về một mối.” (sđd 224-226).

Lần cuối tôi có dịp nói chuyện với nhà văn Vũ Thư Hiên, cũng vào mùa xuân –  đầu xuân năm 2013. Gần bốn mươi năm đã qua nhưng cái quyết định “dứt khoát là phải làm một cuốn phim về cuộc đời Già Đô” thì vẫn còn nằm trong … dự tính:

– Dè sẻn lắm cũng phải có ngót nghét trăm triệu đô thì mới thực hiện một cuốn phim hoành tráng. Đã không làm thì thôi mà làm thì phải đâu ra đó mới được.

– Dạ, vâng.

Tôi tán thành với ít nhiều dè dặt. Sự dè dặt mà tiếc thay tôi đã không có được trong những lúc trà dư tửu hậu (khi rượu vào lời ra) vào những năm về trước. Trước đó, tôi hào phóng và quả cảm hơn nhiều:

– Hơn trăm triệu Mỹ Kim cũng không thành vấn đề. Hễ cứ trúng số, dù  mấy trăm chăng nữa, em cũng đưa anh tất.

– Đám cưới của Già Đô với bà Jeanette, cũng như lúc gia đình chia tay tất nhiên phải quay ngay tại Marseille cơ. Dựng lại nguyên cảnh cái bến cảng này, hồi giữa thế kỷ trước, tốn kém lắm – hiểu chưa?

– Dạ hiểu.

Tôi không thuộc loại người chậm hiểu hay bội hứa chỉ có điều đáng tiếc (khiến ai cũng phải phàn nàn) là tôi chả trúng số bao giờ. Cuốn phim Già Đô, vì thế, vẫn cứ còn phải nằm chờ nhưng thời gian thì đâu có chịu đợi ai. Ở Việt Nam đã xuất hiện những Già Đô mới, cũng rất đậm nét bi hài, và có “nguy cơ” làm mờ nhạt nhân vật Già Đô của Bùi Ngọc Tấn – theo như tường thuật của biên tập viên Mặc Lâm:

Vào thời khắc gần đón giao thừa năm Giáp Ngọ, công an bao vây nhà bà Bùi Thị Minh Hằng đe dọa chủ nhà không được chứa chấp hai người tù vừa được trả tự do là hai anh em Huỳnh Anh Tú và Huỳnh Minh Trí.”

Hai hôm sau, ký giả Trương Minh Đức cho biết thêm:

Hơn 20 công an đã ập vào nhà tôi (Trương Minh Đức) tại đường N3 khu phố 04 thị trấn Mỹ Phước 1, huyện Bến Cát Tỉnh Bình Dương kiểm tra hộ khẩu vào lúc 0 giờ 55 phút, rạng sáng ngày mồng 03 tết (02/01/2014) trong lúc kiểm tra có hai anh Huỳnh Anh Tú và Huỳnh anh Trí vừa ghé qua thăm gia đình tôi vào lúc 21 giờ, vì đêm quá tối nên hai anh đã nghĩ lại qua đêm.”

Nhửng mẩu tin trên dễ khiến độc giả của Chuyện Kể Năm 2000 thốt nhớ đến tình cảnh của Già Đô, khi mới ra tù, lúc đang sống chui rúc và lén lút tại căn nhà (20 mét vuông) của người bạn cùng tù Bùi Ngọc Tấn:

Khi hắn chợp được một lúc mà hắn tưởng như đã lâu lắm rồi, có tiếng đập cửa và tiếng gọi to như ra lệnh:

– Mở cửa nhé! Kiểm tra hộ khẩu đây.

Đó là điều hắn vẫn chờ đợi. Và hắn đã chuẩn bị sẵn câu trả lời. Hắn bật điện, mở cửa…

– Ai kia?

Cái nhìn hướng vào lùm chăn ở góc nhà, góc trong cùng cạnh chỗ thằng Hiệp. Cái chăn lùng nhùng cọ quậy và một người ngồi nhỏm dậy. Già Đô râu dài, tóc xoã, dăn deo, sợ sệt, mắt nheo nheo vì chói ánh đèn.

Người ta nhìn vào hắn. Ngọc cũng đã ngồi dậy. Nàng cố chỉnh đốn y phục, vuốt tóc tai cho đỡ bù xù, bước ra:.

Dạ thưa các anh, đây là bạn nhà tôi ạ.

– Có đăng ký tạm trú không?

….

– Dạ, chưa ạ.

– Bác khách có giấy tờ gì không?

Già Đô hất hẳn chiếc chăn bông ra. Già tìm trong đống bùng nhùng chăn màn, áo, túi, lấy ra một tờ giấy. Đó là tờ lệnh tha… (sđd, trang  219-220).

Nhà nước hôm nay hung hãn hơn xưa thấy rõ. Tuy thế, chuyện săn lùng và đe doạ  người dân (xem chừng) không còn dễ dàng như trước nữa.

Bà Bùi Minh Hằng, và ông Trương Minh Đức – ngó bộ – đều không hiền lành như ông bà Bùi Ngọc Tấn ngày nào. Họ không ngại “ăn thua đủ” với lực lượng công an để bảo vệ hai người bạn tù vừa mới được tha: Huỳnh Anh Tú và Huỳnh Anh Trí.

Hai nhân vật này, rõ ràng, cũng không dễ “nuốt” như Già Đô xưa cũ. Thay vì làm đơn xin trở lại tù, ngày 13 tháng 2 năm 2014, họ đã cùng nhiều nhân vật khác (của Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị & Tôn Giáo Việt Nam)đứng tên dưới một Kháng Thư phản đối “việc Công An Đồng Tháp vi phạm pháp luật khi bắt giam người tùy tiện, vi phạm công ước chống tra tấn của Liên Hiệp Quốc mà Việt Nam vừa tham gia ký kết.”

 

Bỉ nhất thời dã. Thử nhất thời dã. Hồi đó là một thời. Bây giờ là một thời (đã) khác.Cái thời mà Đảng và Nhà Nước có thể giết chết Già Đô, hay chôn sống Nguyễn Mạnh Tường bằng sổ gạo và tem phiếu – vĩnh viễn – đã qua rồi.

Thời của những Già Đô Mới hứa hẹn nhiều biến động hơn và, nếu làm thành phim, chắc chắn (sẽ) hấp dẫn hơn.

 

SỐNG CHỮ NHẪN

SỐNG CHỮ NHẪN

Tích xưa kể rằng: Hàn Tín thời Hán Cao Tổ, thuở hàn vi phải đi câu cá đổi gạo mà ăn.  Thế mà có những lúc không đủ ăn.  Có bà thợ giặt cảm thương đã mời Hàn Tín đến dùng cơm tại nhà.  Hàn Tín đi đâu cũng mang thanh gươm kè kè bên mình.

Một hôm, có tên đồ tể Ác Thiểu muốn hạ nhục Hàn Tín, chận đường thách:

Chú thường mang gươm, chả biết để làm gì!  Bây giờ tôi không cho chú đi.  Chú có gan thì sẵn thanh gươm đó hãy chém tôi đi, bằng không thì phải lòn trôn tôi mà đi.

Hàn Tín chẳng chút do dự, lòn trôn tên hạ tiện đó mà đi, vì tự nhủ: “Giết thằng này thì được rồi, nhưng mà lấy mạng mình đổi mạng nó, thì không đáng tí nào!”

Sau Hàn Tín nhờ có công giúp Hán Cao Tổ dựng nước mà được phong làm Vua Tam Tể.  Lúc bấy giờ, Hàn Tín bèn mời bà thợ giặt đến biếu nghìn lạng vàng để tạ ơn.  Rồi không những không thèm trả thù tên đồ tể mất dạy xưa, lại phong cho hắn chức Trung Huý.  Ác Thiểu rất ngạc nhiên, khúm núm nói: “Lúc trước tôi ngu lậu thô bỉ, đã dại dột xúc phạm đến oai nghiêm ngài, nay tội ấy được tha chết là may, còn dám mong đâu ban chức tước?

Hàn Tín ôn tồn bảo: “Ta chẳng phải là kẻ tiểu nhân hay cố chấp, đem lòng thù hận.  Hành động của ngươi ngày xưa tuy quá đáng, nhưng cũng là bài học luyện chí cho ta.  Vậy nhà ngươi chớ tị hiềm mà hãy nhận chức ta ban”.

***********************************

Lối báo đền ân oán của Hàn Tín thật là hay.  Đối với người ân thì ban thưởng, song đối với người oán cũng vẫn ban thưởng chớ không trả thù.  Thật là một người quân tử.

Là người con của Chúa, Chúa dạy chúng ta hãy làm hoà trước để khỏi xảy ra điều tai hại hơn.  Đây là một lời khuyên quan trọng: chẳng những không được làm hại ai hay có ý mưu hại ai, mà còn phải đi trước một bước mà làm hoà.  Nói rõ hơn, trước một điều bất công, vô tình hay hữu ý, thiên hạ gây cho ta: như xỉ nhục, xỉ vả, chê cười, nói hành, vu vạ, cáo gian…  Tất nhiên lòng tự ái chúng ta bị va chạm, không thể nhịn được, lòng chúng ta như muốn trả đũa ngay.  Đó là tính tự nhiên của con người.  Nhưng Chúa muốn chúng ta sống khác hơn, sống cao thượng hơn.  Chúa muốn chúng ta tha thứ và làm hoà.  Tha thứ và làm hoà là điều kiện phải có để đến với Chúa.  Không thể đến với Chúa mà lòng còn ngổn ngang những tức giận, ghen tương, đố kỵ.  Nhân vô thập toàn, ai cũng có những lầm lỗi, ai ai cũng cần được tha thứ, thế nên cũng cần phải biết tha thứ cho nhau.  Người ta vẫn thường nói để sống với Chúa cần có đức tin để mình tin tưởng, phó thác cậy trông vào Chúa giữa những phong ba của dòng đời, và để sống với tha nhân, cần phải có lòng độ lượng, để mình sống bao dung và tha thứ cho người khác.

Nếu chúng ta không có lòng độ lượng có lẽ mình sẽ chẳng sống được với ai, và cũng chẳng ai sống được với mình.  Đây cũng là điều mà Chúa mời gọi chúng ta phải công chính hơn những người biệt phái trong tình yêu tha thứ.  Không chỉ yêu kẻ yêu mình mà còn yêu cả kẻ ghét mình.  Không chỉ quý mến kẻ thi ân cho mình mà còn làm ơn cho kẻ làm hại chính mình.  Bởi vì, oán báo oán thì oán chập chùng.  Chúa mời gọi chúng ta hãy tha thứ cho kẻ thù, hãy làm hoà cùng kẻ thù và hãy cầu nguyện cho kẻ thù.  Chính Chúa đã sống tình yêu đó trên thập tự giá, nơi đó người ta đã tuôn đổ sự tàn ác trên thân thể Ngài, thế mà Ngài vẫn xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm.  Tình thương Chúa không dừng lại ở việc tha thứ mà còn thi ân cho mọi người, kẻ lành cũng như người dữ.  Kẻ thờ phượng Chúa cũng như kẻ chống đối lại Chúa.

Ước gì mỗi người chúng ta hãy sống tình thương bao dung đó cho anh em của mình.  Hãy quên đi những xúc phạm của nhau.  Hãy làm hòa để thêm bạn bớt thù.  Hãy tha thứ để tìm được sự bình an tâm hồn cho bản thân và cho những người chung quanh.  Xin Chúa là Đấng hằng thương xót và tha thứ, xin giúp chúng ta biết tha thứ lỗi lầm của anh em, như Chúa đã tha thứ cho chúng ta. Amen!

Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

From: langthangchieutim & Anh chị Thụ Mai gởi