Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền

Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền

Xét rằng: Sự công nhận nhân phẩm của mọi người trên toàn thế giới và các quyền bình đẳng không thể tước đoạt của họ chính là nền tảng của tự do, công lý và hòa bình trên thế giới.

Xét rằng: Hành vi xem thường và chà đạp nhân quyền đã dẫn đến những hành động man rợ, xúc phạm đến lương tâm nhân loại. Việc tiến đến một thế giới trong đó tất cả mọi người được hưởng tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, không còn lo sợ hãi và nghèo khó, phải được tuyên xưng như là ước vọng cao nhất của con người.

Xét rằng: Nhân Quyền cần phải được bảo vệ bằng luật pháp, để con người không bị bắt buộc phải sử dụng đến biện pháp cuối cùng là vùng dậy chống lại độc tài và áp bức.

Xét rằng: Mối quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia cần được khuyến khích và mở rộng.

Xét rằng: Trong Hiến Chương, các dân tộc của cộng đồng Liên Hiệp Quốc đã lại một lần nữa xác định niềm tin vào những quyền căn bản của con người, vào nhân phẩm và giá trị con người, vào quyền bình đẳng nam nữ và cũng đã quyết định cổ vũ cho các tiến bộ xã hội và cải tiến mức nhân sinh trong bối cảnh ngày càng tự do hơn.

Xét rằng: Các quốc gia hội viên đã cam kết hợp tác với Liên Hiệp Quốc, nhằm cổ vũ việc tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do căn bản.

Xét rằng: Sự hiểu biết chung về nhân quyền và tự do là điều tối quan trọng để có thể thực hiện đầy đủ sự cam kết trên.

Do đó, Ðại Hội Ðồng Liên Hiệp Quốc long trọng công bố Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền này như là một khuôn mẫu chung cần đạt tới của mọi dân tộc và quốc gia, nhằm giúp cho mọi cá nhân và thành phần của xã hội luôn luôn theo sát tinh thần của Bản Tuyên Ngôn, dùng sự truyền đạt và giáo dục, để nỗ lực phát huy sự tôn trọng các quyền tự do này.

Mặt khác, bằng những phương thức tiến bộ trong phạm vi quốc gia cũng như quốc tế, phải bảo đảm sự thừa nhận và tuân hành Bản Tuyên Ngôn một cách có hiệu lực, trong các dân tộc của các nước thành viên, và ngay cả trong những người dân sống trên các phần đất thuộc quyền cai quản của các nước đó.

Ðiều 1:
Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và quyền. Mọi người đều được phú bẩm về lý trí và lương tâm và vì thế phải đối xử với nhau trên tinh thần bác ái.

Ðiều 2:
Mọi người đều được hưởng tất cả những quyền và tự do được công bố trong Bản Tuyên Ngôn này và không có một sự phân biệt nào, như chủng tộc, màu da, phái tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hay tất cả quan điểm khác, quốc tịch hay nguồn gốc xã hội, tài sản, nơi sinh, hay tất cả những hoàn cảnh khác. Hơn nữa, cũng không được có sự phân biệt nào đối với con người sống trên một quốc gia hay trên một lãnh thổ, căn cứ trên cơ chế chính trị, nền tảng luật pháp hay quy chế quốc tế của quốc gia hay lãnh thổ đó. Cho dù quốc gia hay lãnh thổ này độc lập hay dưới sự bảo hộ, không được tự trị hay ở trong tình trạng bị hạn chế về chủ quyền.

Ðiều 3:
Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân.

Ðiều 4:
Không ai bị cưỡng bức làm nô lệ hay tôi đòi. Chế độ nô lệ và buôn bán nô lệ dưới mọi hình thức đều bị nghiêm cấm.

Ðiều 5:
Không một người nào phải chịu cực hình, tra tấn, hay bất kỳ hình thức đối xử, hoặc trừng phạt bất nhân, hay có tính cách lăng nhục.

Ðiều 6:
Ở bất cứ nơi nào, mỗi người đều có quyền được công nhận tư cách con người của mình trước pháp luật.

Ðiều 7:
Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, và phải được bảo vệ một cách bình đẳng, không kỳ thị phân biệt. Tất cả đều được quyền bảo vệ ngang nhau, chống lại mọi kỳ thị vi phạm Bản Tuyên Ngôn này, cũng như chống lại mọi kích động dẫn đến kỳ thị như vậy.

Ðiều 8:
Mọi người đều có quyền được bảo vệ và bênh vực bởi các cơ quan tư pháp quốc gia có thẩm quyền về các hành vi vi phạm các quyền căn bản, do Hiến Pháp và Luật Pháp quy định.

Ðiều 9:
Không một ai bị bắt bớ, cầm tù hay lưu đày một cách độc đoán.

Ðiều 10:
Mọi người đều có bằng nhau quyền được phân xử công khai và công bằng, trước một tòa án độc lập và vô tư, để được phán quyết về các quyền lợi và nhiệm vụ của mình, hay về những tội phạm mà mình bị cáo buộc.

Ðiều 11:

  1. Khi truy tố trước pháp luật, mọi người được xem là vô tội, cho đến khi pháp luật chứng minh là có tội, trong một phiên tòa công khai và tòa án này phải cung ứng tất cả mọi bảo đảm cần thiết cho quyền biện hộ của đương sự.
  2. Không ai có thể bị kết án khi có những hành động hay sơ suất xảy ra vào lúc mà luật pháp của quốc gia hay quốc tế không qui định đó là một hành vi phạm pháp. Tương tự như vậy, không được áp đặt một hình phạt nào nặng hơn hình phạt được ấn định vào lúc hành vi phạm pháp xảy ra.

Ðiều 12:
Không một ai bị xâm phạm một cách độc đoán về đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, hay thư tín, cũng như bị xúc phạm danh dự hay tiếng tăm của mình. Mọi người đều có quyền được luật pháp bảo vệ, trước những xâm phạm và xúc phạm như vậy.

Ðiều 13:

  1. Mọi người có quyền tự do di chuyển và cư trú, trong phạm vi biên giới của quốc gia.
  2. Mọi người đều có quyền rời khỏi lãnh thổ bất kỳ nước nào, kể cả nước của mình, và quyền trở về xứ sở.

Ðiều 14:

  1. Trước sự ngược đãi, mọi người đều có quyền tị nạn và tìm sự dung thân tại các quốc gia khác.
  2. Quyền này không được kể đến, trong trường hợp bị truy nã thật sự vì các tội phạm không có tính chính trị, hay do những hành vi trái với những mục tiêu và nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc.

Ðiều 15:

  1. Mọi người đều có quyền có quốc tịch.
  2. Không một ai bị tước bỏ quốc tịch, hay bị từ chối quyền thay đổi quốc tịch, một cách độc đoán.

Ðiều 16:

  1. Nam và nữ trong tuổi trưởng thành có quyền kết hôn và lập gia đình, mà không bị hạn chế về lý do chủng tộc, quốc tịch hay tôn giáo. Nam nữ đều có quyền bình đẳng lúc kết hôn, trong đời sống vợ chồng và lúc ly hôn.
  2. Hôn nhân chỉ có thể tiến hành khi cả hai đều được tự do quyết định và đồng ý thật sự.
  3. Gia đình phải được xem là một đơn vị tự nhiên và căn bản của xã hội, và được quyền bảo vệ của xã hội và quốc gia.

Ðiều 17:

  1. Mọi người đều có quyền sở hữu tài sản cá nhân cũng như tập thể.
  2. Không ai có thể bị tước đoạt tài sản của mình một cách độc đoán.

Ðiều 18:
Mọi người đều có quyền về tự do tư tưởng, nhận thức và tôn giáo. Quyền này bao gồm cả quyền tự do thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng, cũng như quyền tự do biểu lộ tôn giáo hay tín ngưỡng của mình, với tư cách cá nhân hay tập thể, ở nơi công cộng hay nơi chốn riêng, bằng sự truyền dạy, thực hành, thờ phượng và áp dụng các nghi thức đạo giáo.

Ðiều 19:
Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ quan điểm. Quyền này bao gồm sự tự do quan điểm mà không bị xen vào quấy rầy và được tự do tìm kiếm, thu nhận và quảng bá tin tức và tư tưởng qua mọi phương tiện truyền thông bất kể biên giới.

Ðiều 20:

  1. Mọi người đều có quyền tự do hội họp và lập hội, một cách ôn hòa.
  2. Không một ai có thể bị cưỡng bách gia nhập vào một đoàn thể.

Ðiều 21:

  1. Mọi người đều có quyền tham gia vào việc điều hành xứ sở của mình, một cách trực tiếp hay qua các đại biểu được tuyển chọn một cách tự do.
  2. Mọi người đều có quyền đón nhận những dịch vụ công cộng của quốc gia một cách bình đẳng.
  3. Ý muốn của người dân phải là nền tảng của quyền lực chính quyền. Ý muốn này phải được thể hiện qua các cuộc bầu cử định kỳ và thực sự, bằng phiếu kín, qua phương thức phổ thông và bình đẳng đầu phiếu, hay các phương thức tương đương của bầu cử tự do.

Ðiều 22:
Vì là thành viên của xã hội, mỗi người đều có quyền an ninh xã hội, qua các cố gắng của quốc gia và hợp tác quốc tế, dựa theo phương cách tổ chức và tài nguyên của mỗi nước. Quyền này được đặt trên căn bản của sự thụ hưởng những quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa, cần thiết cho nhân phẩm và sự phát triển tự do của mỗi cá nhân.

Ðiều 23:

  1. Mọi người đều có quyền làm việc, quyền tự do chọn việc làm, quyền được hưởng các điều kiện làm việc chính đáng và thuận lợi đối với công việc, và quyền được bảo vệ chống thất nghiệp.
  2. Mọi người, không vì lý do kỳ thị nào, đều có quyền được hưởng lương bổng như nhau cho cùng một công việc.
  3. Mọi người làm việc đều được quyền hưởng thù lao một cách công bằng và thích hợp, khả dĩ bảo đảm cho bản thân và gia đình mình một cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm, cũng như được trợ giúp nếu cần, qua các phương thức bảo vệ xã hội khác.
  4. Mọi người đều có quyền thành lập và tham gia vào các nghiệp đoàn, để bảo vệ quyền lợi của mình.

Ðiều 24:
Mọi người đều có quyền nghỉ ngơi và giải trí, kể cả việc hạn chế hợp lý số giờ làm việc, và các ngày nghỉ định kỳ có trả lương.

Ðiều 25:

  1. Mọi người đều có quyền được hưởng một mức sống phù hợp với sức khỏe và sự no ấm cho bản thân và gia đình bao gồm: thực phẩm, quần áo, nhà ở, y tế và các dịch vụ xã hội cần thiết, quyền an sinh trong lúc thất nghiệp, đau ốm, tàn tật, góa bụa, tuổi già hay các tình huống thiếu thốn khác do các hoàn cảnh ngoài khả năng kiểm soát của mình.
  2. Các bà mẹ và trẻ con phải được hưởng sự chăm sóc và trợ giúp đặc biệt. Tất cả mọi trẻ con, sinh có hôn thú hay không, đều được xã hội bảo vệ một cách bình đẳng.

Ðiều 26:

  1. Mọi người đều có quyền được giáo dục. Giáo dục phải được miễn phí, ít nhất là ở bậc tiểu học và căn bản. Giáo dục tiểu học phải bắt buộc. Giáo dục kỹ thuật và chuyên nghiệp phải được mở rộng và giáo dục đại học phải được mở rộng bình đẳng cho mọi người, trên căn bản tài năng xứng đáng.
  2. Giáo dục phải được điều hướng để phát triển đầy đủ nhân cách, và củng cố sự tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do căn bản. Giáo dục phải nhằm cổ vũ sự cảm thông, lòng khoan dung, và tình hữu nghị giữa mọi quốc gia, mọi nhóm chủng tộc hoặc tôn giáo, và hỗ trợ việc phát triển các sinh hoạt của Liên Hiệp Quốc nhằm duy trì hòa bình.
  3. Cha mẹ có quyền ưu tiên chọn lựa phương cách giáo dục dành cho con cái mình.

Ðiều 27:

  1. Mọi người đều có quyền tự do tham gia sinh hoạt văn hóa cộng đồng, thưởng thức các bộ môn nghệ thuật, và cùng chia sẻ các tiến bộ khoa học cũng như các lợi ích của khoa học.
  2. Mọi người đều có quyền được bảo vệ về tác quyền, trên bình diện tinh thần cũng như quyền lợi vật chất, đối với các tác phẩm khoa học, văn chương, hay nghệ thuật.

Ðiều 28:
Mọi người đều có quyền đòi hỏi được sống trong một trật tự xã hội và trật tự quốc tế, trong đó các quyền và các tự do được đề cập trong Bản Tuyên Ngôn này có thể được thể hiện đầy đủ.

Ðiều 29:

  1. Mọi người đều có bổn phận đối với cộng đồng nào mà chỉ trong đó mới có thể phát triển toàn vẹn và tự do nhân cách của mình.
  2. Trong việc hành xử nhân quyền và thụ hưởng tự do, mọi người chỉ phải chịu những hạn chế do luật định, và những hạn chế này chỉ nhằm mục tiêu bảo đảm sự thừa nhận và tôn trọng nhân quyền, và quyền tự do của những người khác, cũng như nhằm thỏa mãn những đòi hỏi chính đáng về luân lý, trật tự công cộng, và nền an sinh chung trong một xã hội dân chủ.
  3. Trong bất cứ trường hợp nào, nhân quyền và những quyền tự do này cũng không được hành xử trái với những mục tiêu và nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc.

Ðiều 30:
Không một điều nào trong Bản Tuyên Ngôn này được hiểu và hàm ý cho phép một nước, một nhóm hay một cá nhân nào được quyền có những việc làm hay hành động nhằm hủy diệt nhân quyền và tự do được thừa nhận trong bản Tuyên Ngôn này.

Liên Hiệp Quốc, ngày 10 tháng 12 năm 1948

Buôn người và cuộc chiến chống nạn nô dịch thời hiện đại

Buôn người và cuộc chiến chống nạn nô dịch thời hiện đại

Một thiếu nữ Bangladesh 14 tuổi hành nghề mại dâm ở thành phố Faridpur, miền trung Bangladesh.

Một thiếu nữ Bangladesh 14 tuổi hành nghề mại dâm ở thành phố Faridpur, miền trung Bangladesh.

 

Faiza Elmasry

07.12.2013

Nạn buôn người có mặt tại hầu hết các nơi trên thế giới – trẻ em, thiếu nữ, kể cả đàn ông – bị lừa và bị ép bán dâm, lao động cưỡng bức và những hình thức nô dịch khác, không thể trốn thoát được. Con số phỏng định mới nhất cho thấy có khoảng 100.000 trẻ em và người lớn bị buôn bán tại Mỹ mỗi năm. Tuy nhiên, nhiều nhà hoạt động khác nhau đang cùng nỗ lực chống lại nạn buôn người.

Cách đây 8 năm, cô Shamere McKenzie là một sinh viên đại học 21 tuổi có nhiều hoài bão ở New York. Nhưng cuối cùng cô sa vào con đường buôn bán tình dục. Cô cho biết:

“Việc này xảy ra khi tôi gặp một người đàn ông mà tôi tin là muốn hẹn hò với tôi. Tôi không bao giờ nghĩ hắn là một tay ma cô vì hắn rất khéo ăn nói, rất quyến rũ. Chúng tôi có những cuộc chuyện trò thú vị về chính trị, về những người làm cha mẹ đơn thân trong cộng đồng, về số lượng lớn những người đàn ông Mỹ gốc Phi bị tù. Do đó với những chuyện như thế, tôi không nghĩ hắn là một tên ma cô. Lúc đó tôi đang có nguy cơ sắp mất học bổng. Tôi cần 3000 đô la để đi học lại, và hắn ta nói, ‘Đừng lo gì cả, anh sẽ giúp em trở lại trường.’”

Tuy nhiên thay vì giúp cô, người này bắt cóc cô và bắt cô đi bán dâm.

“Tôi nghĩ một từ chính xác để định nghĩa bị bắt làm nô lệ là từ ‘tra tấn.’ Tra tấn theo mọi nghĩa của từ này mà bạn có thể tưởng tượng ra nó là gì. Người ta nhiều khi vẫn nghĩ đó là đánh đập, hãm hiếp, nhưng thực ra còn hơn thế nữa. Đối với một số người sống sót thì tra tấn là bị gí đầu lọc thuốc lá vào người. Đối với những người khác thì bị rạch đầu bằng dao rọc hộp giấy,” cô McKenzie nói.

Cô McKenzie bị buộc làm nô lệ trong 18 tháng và cô tìm đủ mọi cách để trốn thoát.

“Tuy nhiên mọi cách đều vô vọng. Tôi không có can đảm giết hắn ta. Tôi tìm cách trốn chạy vài lần nhưng không thành công. Tôi có nghĩ đến việc đầu độc thức ăn của hắn và đại loại như thế để thoát khỏi cảnh này. Tuy nhiên ngay lần đầu tiên tôi nói với hắn là tôi muốn rời đi thì hắn nói nếu tôi mà bỏ đi thì hắn sẽ giết tôi hay gia đình tôi.”

Cho đến khi cảnh sát ập vào bắt giữ tay buôn người này cô mới được giải thoát.

Cô McKenzie hiện đang làm việc với Tổ chức Chia sẻ Hy vọng Quốc tế, một tổ chức tranh đấu chống lại việc buôn bán tình dục và cứu những người bị kẹt trong mạng lưới của những đường dây này.

Bà Taryn Offenbacher, phát ngôn viên của tổ chức, nói họ có một chiến lược toàn diện để hoàn thành sứ mạng:

“Những nỗ lực ngăn ngừa của chúng tôi tất cả đều dựa trên huấn luyện và nhận thức. Trong nỗ lực phục hồi của chúng tôi, chúng tôi có 12 đối tác tại 5 quốc gia và chúng tôi hỗ trợ phục hồi dài hạn, cung cấp nơi tạm trú, chữa trị, thực phẩm và nơi trú ngụ, quần áo, những cơ hội giáo dục và huấn luyện. Các cơ quan tư pháp đối tác có khả năng xử lý thích đáng những tội phạm.”

Dù nạn buôn người có nhiều hình thức khác nhau trên khắp thế giới, bà Offenbacher nói lực đẩy đằng sau nạn buôn người vẫn không thay đổi: nhu cầu.

“Chúng ta biết không có nhu cầu thì sẽ không có nạn buôn người, sẽ không có nạn nhân. Nếu các quốc gia có thể dành ưu tiên cho việc ngăn chặn mức cầu, ban hành luật làm ngăn chặn những người mua và đưa ra những bản án và trừng phạt thích đáng để răn đe tội ác. Và nếu việc này được công nhận là tội ác thì chúng tôi tin rằng sẽ có ít người mua hơn và ít nạn nhân bị bóc lột hơn.”

Đó là thông điệp cô Shamere McKenzie trình bày như là tiếng nói của những nạn nhân bị buôn bán tình dục:

“Tôi nói chuyện với một số cử tọa, tôi nói chuyện tại trường đại học, tại nhà thờ, với những người làm chính sách. Khi tôi nói chuyện với những nam thanh niên, tôi nhấn mạnh việc làm ma cô chẳng có gì là hay ho. Tôi giải thích cho họ biết định nghĩa thực sự của ma cô là gì. Và đối với một số nam thanh niên này, khi họ nghe như vậy thì họ nói ‘những tên ma cô này xấu xa quá.’ Và đối với những thiếu nữ, tôi giải thích cho họ biết là họ dễ bị ma cô bắt như thế nào.”

Giờ gần 30 tuổi, cô McKenzie đang chuẩn bị quay lại trường đại học và theo học luật. Cô hy vọng sẽ truy tố những kẻ buôn người và giúp chấm dứt tệ nạn này.

 

Các nhà ngoại giao phương Tây kêu gọi Việt Nam tôn trọng nhân quyền

Các nhà ngoại giao phương Tây kêu gọi Việt Nam tôn trọng nhân quyền

Giới trẻ tham dự buổi sinh hoạt mừng ngày Quốc Tế Nhân Quyền và cầm các bong bóng màu xanh với hàng chữ 'Quyền con người của Chúng Ta phải được tôn trọng' (Ảnh: Danlambao)

Giới trẻ tham dự buổi sinh hoạt mừng ngày Quốc Tế Nhân Quyền và cầm các bong bóng màu xanh với hàng chữ ‘Quyền con người của Chúng Ta phải được tôn trọng’ (Ảnh: Danlambao)

 

VOA Tiếng Việt

10.12.2013

Các nhà ngoại giao hàng đầu của Mỹ, Đức và Anh tại Hà Nội đã lên tiếng thúc giục Việt Nam cải thiện thành tích nhân quyền và không hạn chế các quyền tự do của người dân.

Phát biểu của Đại sứ Mỹ David Shear, Đại sứ Đức Jutta Frasch và Phó Đại sứ Anh Lesley Craig đồng loạt được đưa ra nhân ngày Nhân quyền Quốc tế 10/12.

Ngày này kỷ niệm Bản Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền được Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 10/12/1948.

Trong thông cáo ra ngày 10/12, ông Shear nêu việc Hoa Kỳ và Việt Nam ‘tái khẳng định cam kết của hai nước về ủng hộ Tuyên ngôn Nhân quyền trong Quan hệ Đối tác Toàn diện Hoa Kỳ – Việt Nam  được Tổng thống Obama và Chủ tịch Trương Tấn Sang công bố hồi tháng Bảy’.

Ðại sứ Shear lặp lại một tuyên bố trước đây rằng Mỹ ‘ủng hộ một nước Việt Nam vững mạnh, thịnh vượng và độc lập mà cũng tôn trọng nhân quyền và pháp quyền’.

Ðại sứ Shear lặp lại một tuyên bố trước đây rằng Mỹ ‘ủng hộ một nước Việt Nam vững mạnh, thịnh vượng và độc lập mà cũng tôn trọng nhân quyền và pháp quyền’.

Ông Shear cũng lặp lại một tuyên bố trước đây rằng Mỹ ‘ủng hộ một nước Việt Nam vững mạnh, thịnh vượng và độc lập mà cũng tôn trọng nhân quyền và pháp quyền’.

Đại sứ Hoa Kỳ nói rằng đạt được tiến bộ rõ ràng về nhân quyền ‘có tầm quan trọng quyết định đối với mối quan hệ của chúng ta, có tác động đến mọi khía cạnh của chính sách đối ngoại’.

Ông cũng kêu gọi Việt Nam ‘trả tự do cho tất cả các tù nhân lương tâm, cho phép mọi người Việt Nam được bày tỏ ý kiến của bản thân, và bảo vệ tự do tôn giáo trên toàn quốc’.

Trong khi đó, cơ quan đại diện ngoại giao của Đức và Anh cũng ra chung một thông cáo, trong đó cho rằng ‘Việt Nam đã đạt được kết quả to lớn trong việc thực thi các quyền xã hội và kinh tế’.

Nhưng hai nhà ngoai giao của châu Âu cho rằng ở Việt Nam ‘có những người bị giam giữ vì họ công khai đưa ra chính kiến của mình’.

Thông cáo viết: “Việt Nam phải bảo đảm không hạn chế quyền tự do chính kiến, tự do báo chí và tự do hội họp và phải thả ngay tất cả những người bị giam giữ vì tội đã đưa ra những chính kiến của mình”.

Các nhà ngoại giao phương Tây cũng cho rằng việc Việt Nam vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc là cơ hội để Việt Nam chứng minh cam kết đối với Tuyên ngôn Thế giới về nhân quyền bằng lời nói và hành động.

Đại sứ Mỹ nói trong thông cáo: “Cùng là một thành viên trong Hội đồng, Hoa Kỳ sẽ tìm cách cộng tác với Việt Nam trong mọi cơ hội nhằm đạt được các tiêu chuẩn cao này”.

Việc Việt Nam gia nhập Hội đồng này cho thấy ‘Việt Nam muốn nỗ lực hoạt động bảo đảm nhân quyền”.

Hôm 10/12, báo điện tử của chính phủ Việt Nam đã cho đăng bài viết của Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh với tựa đề, ‘Bảo vệ quyền con người, chính sách bắt nguồn từ khát vọng của nhân dân’, trong đó đề cập nhiều tới việc Việt Nam trúng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc.

Ông Minh viết rằng việc Việt Nam ứng cử vào Hội đồng này ‘xuất phát từ chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là bảo vệ, thúc đẩy các quyền con người và tích cực đóng góp vào hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này’.

Blogger Mẹ Nấm - Nguyễn Ngọc Như Quỳnh.

Blogger Mẹ Nấm – Nguyễn Ngọc Như Quỳnh.

Trả lời VOA Việt Ngữ tối 10/12, blogger Mẹ Nấm tức bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh nói rằng việc Việt Nam trở thành thành viên của Hội đồng Nhân quyền LHQ ‘có ý nghĩa rất lớn’.

“Nó sẽ buộc Việt Nam phải tuân thủ các luật chơi của quốc tế và các nguyên tắc mà các công ước quốc tế đã đề ra, dựa vào các công ước quốc tế để ban hành những nghị định, những luật đúng với luật pháp quốc tế. Điều này nó sẽ có lợi cho toàn bộ người dân Việt Nam. Nhưng mà mọi người biết rồi, Việt Nam luôn có luật chơi riêng. Việc Việt Nam vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc thì điều ý nghĩa nhất  là tất cả các nước mà đã bỏ phiếu bầu chọn cho Việt Nam trách nhiệm và nghĩa vụ phải theo dõi tình hình này”.

Bà Quỳnh từng tới các cơ quan ngoại giao nước ngoài ở Hà Nội để trao tuyên bố của Mạng lưới blogger Việt Nam.

Bà cũng là một trong các thành viên sáng lập Hội Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam mới ra mắt.

Blogger này cho rằng bà nghĩ tình hình nhân quyền ở Việt Nam là một ‘thảm họa’ sau vụ việc xảy ra với bà và một blogger khác hôm 10/12.

“Buổi sáng khi tôi đến Sài Gòn, tôi hy vọng sẽ có một ngày rất là bình thường và sau những gì vừa mới xảy ra thì tôi nghĩ tình hình nhân quyền ở Việt Nam nó là một thảm họa bởi vì khi tôi đến thăm blogger Nguyễn Hoàng Vi xong và chuẩn bị cho ra về và hai chị em đi bộ trên đường thì an ninh, mật vụ mặc thường phục đã nhào vào cướp giật con gấu bông đồ chơi trên tay của Hoàng Vi và sau đó đánh đập Hoàng Vi rất tàn nhẫn, thậm chí là cả tôi và con trai tôi cũng không thoát khỏi những cú đánh đó. Sau đó họ đẩy hai chị em tôi và một em nữa đang có thai vào nhà và khóa trái cửa lại”.

Theo bà Quỳnh, việc bà dự định tham gia buổi ra mắt mạng lưới blogger Việt Nam tại Sài Gòn có thể là lý do dẫn tới sự việc trên.

Một đoạn video đăng tải trên Facebook của bà Quỳnh cho thấy một đám người xô đẩy nhau và to tiếng trước một ngôi nhà, và các hình ảnh cũng cho thấy cửa sau đó bị khóa trái.

Những ngày qua xuất hiện thông tin về việc nhiều blogger bị an ninh xách nhiễu nhưng VOA Việt Ngữ không thể phỏng vấn những người thuộc lực lượng công quyền.

 

Bloggers bị đánh đập dã man tại Saigòn: một cái tát vào HĐ Nhân quyền LHQ

Bloggers bị đánh đập dã man tại Saigòn: một cái tát vào HĐ Nhân quyền LHQ

Gia Minh, biên tập viên RFA
2013-12-10

Clip video các bloggers bị đánh hội dồng

Clip video các bloggers bị đánh hội dồng

Screen capture

Nhóm các bloggers Mẹ Nấm ( Nguyễn Ngọc Như Quỳnh), An Đỗ Nguyễn ( Nguyễn Hoàng Vi) và Con đường Việt Nam ( Nguyễn Hoàng Dũng) chiều nay tại Sài Gòn bị hành hung một cách vô cớ.
Blogger Mẹ Nấm vào lúc 6 giờ chiều hôm nay khi đang có mặt tại nơi bị khóa cửa và sau khi bị sách nhiễu, chứng kiến cảnh hành hung cho biết như sau:
Gia Minh: Tình trạng của Như Quỳnh và Hoàng Vi ra sao?
Nguyễn Ngọc Như Quỳnh- Blogger Mẹ Nấm: Blogger Hoàng Vi bị đánh rất tàn bạo và Hoàng Dũng cũng bị đánh chảy máu.
Gia Minh: Các bạn đang ở đâu và ai đánh?
Nguyễn Ngọc Như Quỳnh- Blogger Mẹ Nấm: Chiều nay tôi đến thăm Hoàng Vi, rồi cô ấy đưa hai mẹ con tôi ra về. Trên đường ra về an ninh thường phục và phụ nữ rất đông nhào đến cướp giật con gấu bông trên tay Hoàng Vi; con gấu đó là của con trai tôi. Tôi la lên ‘ăn cướp’ và họ quây cả ba lại và họ đánh rất tàn bạo rồi họ đẩy cả ba trở lại vào nhà và khóa trái cửa lại. An ninh còn giằng con trai của tôi ra khỏi tay tôi. Khi mọi người nghe tin đến ở bên ngoài thì an ninh đánh Hoàng Dũng chảy máu mắt.
Gia Minh: Sự việc bắt đầu lúc mấy giờ và lúc này đang nói chuyện đây là 6 giờ 12 phút rồi?
Nguyễn Ngọc Như Quỳnh- Blogger Mẹ Nấm: Lúc khoảng 4:30, 5 giờ kém, cả ba người bị đánh, và cách đây khoảng 5 phút Hoàng Dũng quay lại cũng bị đánh tiếp.
Hôm nay có cuộc gặp của các bloggers tại Quận 3, chúng tôi thì đang ở 24 An Nhơn, Quân Gò Vấp, tức quán Cà phê của Hoàng Vi.
Gia Minh: Cả ba người có đến cuộc gặp mặt của các bloggers được không?

Blogger Hoàng Dũng bị đánh rách mí mắt, chảy máu mặt.

Blogger Hoàng Dũng bị đánh rách mí mắt, chảy máu mặt. Photos mangluoiblogger
Nguyễn Ngọc Như Quỳnh- Blogger Mẹ Nấm: Tôi không có dự định đến, vì con tôi đến giờ ăn chiều, tôi phải đi về. Tôi nghĩ an ninh cho rằng chúng tôi đến, nhưng thực tế Hoàng Vi đưa tôi ra đón taxi để về.
Gia Minh: Như Quỳnh nói Hoàng Vi và Hoàng Dũng bị đánh tiếp, vậy tình trạng hiện nay ba người thế nào?
Nguyễn Ngọc Như Quỳnh- Blogger Mẹ Nấm: Mọi người vẫn ở tại 24 An Nhơn, Quân Gò Vấp vì an ninh khóa trái cửa nhốt tất cả chúng tôi mà. Hoàng Dũng đến xem thế nào và đề nghị họ lập biên bản về chuyện khóa trái cửa nhà dân như thế; khi mở cửa ra thì xông vào đánh nhau.
Gia Minh: Đến lúc này tình trạng của cháu, của Như Quỳnh và Hoàng Vi ra sao rồi?
Nguyễn Ngọc Như Quỳnh- Blogger Mẹ Nấm: Vì tôi có con nhỏ nên chỉ ra can Hòang Vi. Lúc nãy tôi có dùng điện thoai quay cảnh xô xát thì một an ninh nhào vào cướp điện thoại của tôi. Tôi và Hoàng Vi giựt lại. Họ rất thô bạo cả nhóm an ninh nam nữ cố xô vào cướp cho bằng được điện thoại; nhưng tôi giựt lại được điện thoại.
Bây giờ an ninh đã mở cửa ra, mọi người đã đến và chắc tôi phải về.
Gia Minh: Trước khi ra về, Như Quỳnh có thể chia xẻ trước tình cảnh thế này?
Nguyễn Ngọc Như Quỳnh- Blogger Mẹ Nấm: Đây là lần đầu tiên tôi thấy sự thô bạo, mất thú tính như thế của an ninh. Tôi nghĩ đây là một cú tát đối với việc vào Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc.
Gia Minh: Theo các bạn sự hung hãn đó có lý do gì không?
Nguyễn Ngọc Như Quỳnh- Blogger Mẹ Nấm: Theo tôi nghĩ sự hung hãn đó của họ là nhằm ngăn cản không cho Hoàng Vi đi tham dự cuộc họp mặt của Mạng Lưới Bloggers thôi.
Gia Minh: Như thế họ xâm phạm điều gì?
Nguyễn Ngọc Như Quỳnh- Blogger Mẹ Nấm: Chúng tôi là những công dân không vi phạm pháp luật gì hết, chúng tôi có đủ quyền đi lại; họ giới hạn quyền đi lại của tôi.
Tôi không phát biểu gì nhiều hết, trường hợp như thế này là câu trả lời cho tình trạng vi phạm nhân quyền của Việt Nam. Còn vi phạm quyền gì thì theo tôi nghĩ khi bạn không làm gì vi phạm pháp luật mà họ giới hạn quyền tự do đi lại của bạn chứng tỏ bạn không phải là người tự do và bạn cũng chẳng có quyền gì hết.
Gia Minh: Trong những ngày qua những người quan tâm đến tình hình nhân quyền của Việt Nam đã có những sinh hoạt và đã bị ngăn cản phải không?
Nguyễn Ngọc Như Quỳnh- Blogger Mẹ Nấm: Vâng ạ.
Gia Minh: Cám ơn Như Quỳnh.

 

Nelson Mandela : Biểu tượng thế giới của hòa giải

Nelson Mandela : Biểu tượng thế giới của hòa giải

Một buổi cầu nguyện, tưởng niệm Nelson Mandela tại Ấn Độ, 06/12/2013.

Một buổi cầu nguyện, tưởng niệm Nelson Mandela tại Ấn Độ, 06/12/2013.

REUTERS/Babu

Tú Anh

RFI

« Tôi không phải là một vị thánh. Trừ phi bạn tin rằng thánh là một kẻ phạm tội đang tự sửa mình ». Tuy không là thánh, nhưng cố Tổng thống Nam Phi Nelson Mandela đã được toàn thế giới tôn vinh như một biểu tượng mà Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc đã thu gọn lại trong lời phát biểu :« một trong những nhân vật tiêu biểu nhất của thời đại chúng ta và của mọi thời đại ».

Từ lúc sinh thời, Nelson Mandela, danh tiếng của khôi nguyên Nobel Hòa bình 1993 đã lan ra ngoài lục địa châu Phi : giải phóng Nam Phi ra khỏi chế độ kỳ thị màu da và cùng lúc từ bỏ mọi hành động trả thù cộng đồng da trắng đã bỏ tù ông suốt 27 năm dài.

Dân tộc yêu mến và thế giới tôn vinh vì Nelson Mandela, từ hành động đến lời nói đều chứng tỏ ông là con người biết tha thứ. Trong cẩm nang chỉ đạo cuộc tranh đấu chống chế độ phân biệt đối xử mang lại dân chủ cho Nam Phi, ông viết : “tha thứ giải thoát tâm hồn và làm tan biến sợ hãi. Do vậy, tha thứ là vũ khí tối thượng“.

27 năm tù khổ sai, nhà tranh đấu mà dân bộ tộc của ông gọi là Madiba (cha già) không lấy oán trả oán. Ngay khi đắc cử Tổng thống, ông đã tiến hành xây dựng một chế độ đa sắc tộc trong đó cộng đồng da trắng vẫn có chỗ đứng, duy trì sức mạnh kinh tế, tài chính, không bị kỳ thị trả thù tước đoạt tài sản nhân danh cách mạng.

Khác với Lênin và thánh Gandhi, ông Nelson Mandela không giới hạn mình trong cái gọi là ý thức hệ cách mạng. Từ thời tuổi trẻ, ông ham mê thể thao và từng là võ sĩ quyền Anh và có tiếng là thích chạy theo các bóng hồng xinh đẹp.

Tự do đối với Nelson Mandela là giá trị cao quý nhất nhất, cho nên khi còn là sinh viên luật đầy triển vọng, ông vẫn bất chấp hậu quả bị đuổi học, thẳng thừng đứng lên tranh đấu chống ban giám hiệu đại học Fort Hare. Tiếp theo đó, để phản đối gia đình buộc ông lấy vợ, Nelson Mandela bỏ nhà trốn về thủ đô Johannesburg nơi đang sôi sục không khí đấu tranh. Dần dần, Nelson Mandela cũng tốt nghiệp luật sư và bắt đầu có ý thức chính trị. Lòng hăng say tranh đấu đã làm Nelson Mandela xa dần người vợ đầu tiên để rơi vào vòng tay của cô nữ y tá trẻ tuổi, xinh đẹp và cũng là một trong những « phát ngôn viên » của giới trẻ nổi dậy.

Cùng với một nhóm thành viên trẻ trong đảng, Nelson Madela nhanh chóng nắm quyền lãnh đạo tổ chức ANC. Cuộc chiến mang lại dân chủ và công lý đã đưa ông vào giai đoạn gian lao nhất, nhiều lần bị bắt, có lần bị kết án tử hình và lần cuối cùng bị đày ra đảo cô lập suốt 26 năm.

Tổng giám mục Anh Giáo Desmond Tutu vinh danh là « biểu tượng thế giới của hòa giải », Nelson Mandela không bao giờ cho mình có vai trò « thiên định ». Ngược lại, ông rất « nhân bản » và xem tình người là cốt lõi của con người. Khôi nguyên Nobel văn học Nadine Gordimer, khi bình luận về người đồng hương của mình đã nói : 26 năm tù khổ đau không làm Nelson Mandela thốt lên lời kêu gọi trả thù, bởi vì ông xem nhân loại là gia đình.

Nelson Mandela tự dặn lòng mình : khi tôi bước ra cổng nhà tù, nhiệm vụ của tôi là giải phóng người bị áp bức lẫn người áp bức.

Đây không phải lời tuyên bố cường điệu của kẻ chiến thắng. Theo AFP, ông đã dành nhiều thời giờ trong nhà tù để học tiếng Afrikanner để tìm hiểu văn thơ của các tác giả nổi tiếng của người da trắng thống trị Nam Phi. Nhờ hiểu mà ông đi sâu vào tâm hồn và thương yêu cộng đồng đã áp bức dân tộc da đen và cuối cùng giải phóng được cả hai bên mở ra một thời đại hài hòa và vô tình được toàn thế giới yêu kính kể cả nhiều nhà độc tài cũng phải nương tựa oai linh đến tận Nam Phi nhân ngày tang lễ.

Khi được tự do vào năm 1990, Nelson Mandela đã thương lượng với chính quyền một giải pháp hòa bình tổ chức bầu cử tự do. Trong cuộc bầu cử năm 1994, ông đắc cử vẻ vang trong tinh thần hòa giải với kẻ thù.

 

Phản ứng việc ông Lê Hiếu Đằng bỏ Đảng

Phản ứng việc ông Lê Hiếu Đằng bỏ Đảng

Quốc Phương

BBC Việt ngữ

Thứ năm, 5 tháng 12, 2013

Ông Lê Hiếu Đằng

Ông Lê Hiếu Đăng tuyên bố ly khai Đảng Cộng sản vì đảng này đã ‘biến chất’, ‘tư lợi’

Diễn biến một quan chức lãnh đạo thuộc Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam có hơn 40 năm tuổi Đảng vừa tuyên bố chính thức ly khai với Đảng Cộng sản thu hút sự quan tâm trong dư luận.

Hôm 05/12/2013, ông Huỳnh Ngọc Chênh, cựu phóng viên của tờ Thanh Niên chào đón tin ông Lê Hiếu Đằng, Phó chủ nhiệm Hội đồng Tư vấn về Dân chủ và Pháp luật thuộc Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, ra khỏi Đảng và nói:

“Chuyện ra khỏi Đảng của ông rất cần thiết, nó tạo ra một tiếng vang, nhất là trong thời điểm này, khi mà Đảng vừa ra Hiến pháp bắt toàn dân phải đi theo và đặt toàn dân dưới quyền lãnh đạo tuyệt đối của Đảng,” ông Chênh lên tiếng từ Sài Gòn.

Theo blogger này, việc ông Đằng ra khỏi Đảng khác với nhiều trường hợp ly khai khác trước đây vì theo ông Chênh, ông Đằng từ bỏ đảng trên tư cách là một quan chức và người có nhiều năm đóng góp cho chế độ, nhưng đã quyết định từ bỏ các công danh, lợi lộc.

“Cho đến nay vẫn chưa có luật về thành lập và đăng ký các đảng, còn Đảng viên Đảng CSVN muốn rời khỏi đảng thì đó là quyền mà trong điều lệ Đảng CSVN cũng đã cho phép, cho nên cái điều ấy là điều bình thường. Còn việc họ có lập được đảng hay không thì đấy lại là một vấn đề khác”

TS Lê Đăng Doanh

Ông Huỳnh Ngọc Chênh nói: “Ông là người của Đảng, đang hưởng bao nhiêu quyền lợi thì ông lại tuyên bố bước ra khỏi Đảng, thì nó sẽ có những tác dụng lớn để Đảng xem lại đường lối của mình.”

Hôm thứ Tư, ông Lê Hiếu Đằng, nguyên Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc TPHCM, công bố trên mạng Internet một văn bản tuyên bố ông rời bỏ Đảng Cộng sản và cho biết nguyên nhân.

“Tôi tên Lê Hiếu Đằng là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, hơn 40 tuổi Đảng,” tuyên bố viết.

“Nay tôi tuyên bố công khai ra khỏi Đảng CSVN vì: ĐCSVN bây giờ không còn như trước (đấu tranh giải phóng dân tộc) mà đang suy thoái biến chất, thực chất chỉ là đảng của những tập đoàn lợi ích, trở thành lực cản cho sự phát triển đất nước, dân tộc, đi ngược lại lợi ích dân tộc, nhân dân.”

Tiếp nhận tin này, ông Nguyễn Trọng Vĩnh, cựu đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc, cho rằng đây là một quyết định mà ông Đằng đã dự kiến trước.

Vị tướng nói với BBC hôm thứ Năm từ Hà Nội: “Đấy chỉ là quyết định cá nhân của cụ ấy, chứ không có gì đặc biệt. Bởi vì cụ ấy đã tuyên bố lần trước là thành lập một đảng mới,

Mở bằng chương trình nghe nhìn khác

“Thì đây là ý của cụ ấy muốn ra đảng để thành lập một đảng mới, lúc trước cụ ấy đã có ý kiến như thế rồi, bây giờ người ta phản ứng cụ ấy, thì cụ ấy xin ra Đảng thôi.”

Cũng hôm thứ Năm, trả lời câu hỏi liệu đảng viên đảng cộng sản rời bỏ đảng này để ra ngoài thành lập đảng mới có bị coi là phạm pháp ở Việt Nam hay không, Tiến sỹ Lê Đăng Doanh, nguyên thành viên Ban Tư vấn của Thủ tướng Chính phủ nói:

“Cho đến nay vẫn chưa có luật về thành lập và đăng ký các đảng, còn Đảng viên Đảng CSVN muốn rời khỏi đảng thì đó là quyền mà trong điều lệ Đảng CSVN cũng đã cho phép, cho nên cái điều ấy là điều bình thường. Còn việc họ có lập được đảng hay không thì đấy lại là một vấn đề khác…

‘Chưa hề đăng ký’

Ông Lê Hiếu Đằng

Ông Lê Hiếu Đằng đề nghị chính quyền VN chấp nhận đa đảng, đa nguyên và kêu gọi lập chính đảng mới

Tuy nhiên, theo Tiến sỹ Doanh, chính Đảng Cộng sản đã được thành lập mà chưa hề đăng ký ở đâu cả.

Ông nhấn mạnh: “Việt nam chưa có luật về đảng và bản thân Đảng Cộng sản Việt Nam cũng không hề có đăng ký, và cũng chưa hề có một cái luật về Đảng Cộng sản Việt Nam.”

“Bình thường ở các nước, một đảng được lập ra thì sau đó phải đăng ký để hoạt động, và như ở nước Đức thì nếu Đảng đó có được trên 5% phiếu được bầu vào Quốc hội, thì sẽ được có những chế độ giúp đỡ về tài chính, rồi ủng hộ các hoạt động của họ trong khuôn khổ Nghị viện và ở ngoài xã hội.”

Cũng hôm 05/12, blogger Nguyễn Lân Thắng nói với BBC về việc ông Đằng ‘bỏ Đảng’. Ông đưa ra bình luận từ Hà Nội:

“Trước hết tôi xin chúc mừng ông Lê Hiếu Đằng đã trở về với nhân dân. Những việc của ông Lê Hiếu Đằng làm từ trước tới nay gây ra rất nhiều tranh cãi, và chính bản thân tôi tôi cũng chưa thể tin được ông khi mà ông vẫn còn đứng ở trong hàng ngũ của Đảng Cộng sản”

Blogger Nguyễn Lân Thắng

Theo blogger này diễn biến bỏ Đảng của cựu quan chức Mặt trận Tổ quốc là ‘một chuyện rất lớn’ và cũng ‘sẽ có ‘một tác động rất lớn về mặt xã hội’.

“Và (việc này) tác động chính đến những người Đảng viên vẫn đang còn nấn ná, vẫn đang còn chưa chịu dứt mình ra khỏi những danh vọng, những quyền lợi ở Đảng Cộng sản và tôi nghĩ đây sẽ là một bước ngoặt rất lớn để thay đổi xã hội Việt Nam.”

Ông Thắng giải thích thêm về nguyên nhân của sự lưỡng lự hay ‘nấn ná’ này: “Những người nấn ná chưa ra khỏi Đảng theo tôi không phải chỉ vì quyền lợi hay danh vọng… mà còn do sự sĩ diện nữa… tự thừa nhận sai lầm rất khó…”

Vẫn hôm thứ Năm, blogger Huỳnh Ngọc Chênh cho rằng đang có những dấu hiệu làm thay đổi bản chất của Đảng Cộng sản, ông nói:

“Số lượng có thể tăng lên, nhưng cái chất thay đổi và sự tồn tại của đảng này không phải là sự tồn tại của Đảng Cộng sản, mà nó là một đảng gì đó mà giới mới vào sẽ dần dần hướng vào hướng đó và sẽ đặt lại tên gì đó, nếu như họ còn tiếp tục tồn tại.”

Vào tháng Tám năm nay, ông Lê Hiếu Đằng đã bày tỏ quan điểm trong Bấm một bài viết được công bố rộng rãi trên mạng đề nghị Việt Nam chấp nhận chế độ đa nguyên đa đảng và kêu gọi thiết lập một chính đảng mới.

Quan điểm của ông nhận được sự quan tâm và ủng hộ của nhiều giới, trong đó là các nhà tranh đấu cho tự do, dân chủ, nhân quyền và vận động cho nhà nước pháp quyền cùng xã hội dân sự, tuy nhiên ông cũng đã gặp phải sự công kích mạnh mẽ từ truyền thông do Nhà nước quản lý, với một số ý kiến gọi quan điểm của ông là ‘chệch hướng’, ‘lệch lạc’ hay ‘tha hóa tư tưởng’.

CÓ THỰC CHÚA SẼ ĐẾN KHÔNG ?

CÓ  THỰC CHÚA SẼ ĐẾN KHÔNG ?

Phan Sinh Trần

Đã bao lần mùa Vọng , mùa Noel đến rồi đi, sau  ngày lễ, ngày kỷ niệm thì rồi mọi sự  lại trôi vào lãng quên.

Có khi, Bạn tự hỏi rằng, tôi có thấy sự an vui nào của Chúa tồn tại mãi đâu? Buồn thay, có khi ngay trong ngày Noel, tôi không thấy Chúa An lành viếng thăm mà chỉ có tin buồn, ngày Noel lại là lúc có bão tuyết hoặc lốc xoáy lớn, như năm 2012 ở NewYork, Maine, Alabama … Mỹ,  làm chết 6 người. Tệ hơn nữa, đã có một Tsunami vào ngày Giáng sinh năm 2004 làm mất đi 150 ngàn người ở khu vực Phi Châu và Nam Á. Ở những nơi này, Chúa có đến trong ngày lễ Giáng Sinh không?

Thực ra thì câu hỏi cần đặt ngược lại là: “ Chúng ta có biết đón Em bé Giê Su nguồn gốc của an bình trong ngày Giáng Sinh không?”  Nếu chúng ta có Chúa thì Thiên Nhiên, Ma quỉ, Ác nhân có làm gì hại được hồn ta không?  Nếu có Chúa thì các tai ương có làm ta nao núng không ?

Trong bài tin mừng Chúa Nhật thứ hai mùa Vọng, Tiên Tri Ysaia minh định:

  • · Điều đặc biệt của Nước Thiên Chúa là Bình An Tuyệt đối và An ninh tuyệt đối “ Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá” Khi đó, mọi động thái chiến tranh, vũ lực, bạo lực hoàn toàn tan biến, vào thời điểm khi mà gươm đao,  được tiên tri Ysaia  tiên báo, sẽ bị đúc thành liềm hái.
  • · Khi được Chúa tể trị thì vạn vật sẽ được đổi mới, biến đổi từ hung dữ thành hiền từ , từ hư hoại thành bất tử (Roma 8: 21b) .
  • · Điều đặc biệt của Nước Chúa là ở đó Danh Chúa được tôn kính và có sự hiểu biết về Chúa cách tỏ tường.

Trong một thế giới rối loạn và tai ương, ta càng cần có Chúa để lòng luôn an tĩnh trước mọi thách đố, sóng gió, bão bùng. Vào sống trong Nước Thiên Chúa rất khó mà rất dễ để đạt được , chỉ cần làm theo Lời Chúa rồi Chúa sẽ ban Thần khí giúp ta có được bảo đảm cho một đời sống tốt lành, bằng an, luôn vui tươi trong tâm hồn. Làm sao để “sống” trong Nước Trời do Chúa cai trị, ta cần thực thi lời khuyên của thánh Gioan Tiền hô :

  1. 1. Sám hối. “Hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần bên .”
  2. 2. Hãy sửa mình để đón Chúa đến. “ Hãy dọn đường Chúa. Hãy bạt lối người đi”…
  3. Đón Chúa Giê Su và để cho Chúa tẩy rửa tâm hồn trong Chúa Thánh Thần và lửa.

“ Ngài sẽ thanh tẩy các ngươi trong Thánh Thần và lửa ” (Mattheu 3:1-11)

  • Rửa trong Chúa Thánh Thần thì sẽ nên tạo thành mới ngay từ bây giờ ở đời này.
  • · Và nhận lửa yêu thương, sốt mến từ bây giờ ở đời này.

Xin đan cử một điển hình của việc áp dụng sám hổi, dọn đường và được rửa trong Chúa Thánh Thần của Chị Huỳnh Nh.

Chị Nh , trước đây làm thư ký ở Hạ Nghị Viện Việt Nam Cộng Hòa, đến ngày 30 tháng 4 , 1975 cả gia đình người Anh của Chị Nh bị tan nát và ly tán, Chị phải đem các cháu đi về quê, đi mót lúa nuôi các cháu, chị đói khổ đến mức chỉ còn cân nặng có 36 ký lô. Khi đó, chị van vái : Ông Trời, nếu có thật thì một là cho chị chết cho đỡ khổ, hai là giúp cho Chị kiếm đủ gạo nuôi cháu qua cơn đói năm 1978. Sau đó ít lâu Chị liều chết nhiều lần mang các cháu đi vượt biên, cực khổ. Khi qua đến Mỹ Chị lại tiếp tục làm thợ hớt tóc nuôi các cháu ăn học cho đến thành nghề. Thế mà, khi đã đủ lông cánh thì các cháu lại cậy tài và tham tiền, chúng đuổi Chị ra khỏi nhà, căn nhà mà chính Chị đã tần tảo và mua cho chúng ở. Lòng tan nát, chị gần như bị quị vì kiệt sức, lòng buồn bã, oán hận làm chị bị đủ mọi bệnh: nghẹn thở , tim nhồi máu, phù, đau bao tử, liệt chân … Điều may là , ngày nọ Chị có được cơ hội tìm hiểu về Chúa , học hỏi Lời Chúa và tin Chúa , nghe theo Lời thánh Gioan “dọn đường cho Chúa “, Chị tha thứ cho các cháu của mình, vừa khi Chị quyết định không chấp, không trách, không than thở nữa thì tình yêu và bằng an của Chúa bao phủ Chị, làm cho chị thôi không mất ngủ, bệnh tật biến mất dần, Chị tiếp tục làm ăn ở tuổi 65, hơn thế nữa , sức mạnh  hòa giải của Chúa,  tự nhiên làm cho các cháu dần hối hận, và chúng mời Chị Nh quay về mái nhà xưa. Chuyện xẩy ra đã 6 năm, nay thì Chị 71 tuổi , bằng an và vui tươi hang hái, Chị vẫn làm chứng hung hồn về sức mạnh của Lời Chúa cho khách hàng trong tiệm hớt tóc của Chị trên đường Bellaire, Houston, Texas. Chị không chỉ làm chứng cho Chúa bằng chuyện đời mình mà còn làm chứng về sức mạnh Đức Tin khi ta dựa vào Lời Chúa hứa qua việc cầu nguyện cho bệnh nhân khách hàng. Đủ mọi người được chị cầu nguyện đã khỏi bệnh: Anh Mỹ Đen ung thư ruột thời kỳ cuối, Bà Mễ bị ung thư phổi đã di căn lên não, Ông đàu bếp nhà hàng bị tai biến mạch máu não , co rút cả 10 ngón tay, Bác thư ký bị thấp khớp mãn tính làm teo cơ …rất nhiều người được chữa lành ngay trong một thời gian ngắn vài ngày hoặc khỏi tức khắc và hầu hết bệnh nhân đã tin vào tình yêu quyền năng của Chúa. Chị kết luận, nếu mình dọn đường cho Chúa thì Chúa sẽ đến, Chúa sẽ mau chóng đáp trả lòng mong ước của mình một khi mình dám làm theo Lời mời của Chúa trong Tin Mừng .

Bạn đã có sức mạnh của Lời Chúa trong đời mình chưa, nếu chưa thì tôi và Bạn cùng cảm nghiệm điều đó ngay trong mùa Vọng này, có hai điều để làm, một là  ta đi làm hòa và xin lỗi từng người mà mình đã làm mất lòng để xem bình an vô tận của Chúa có đổ đầy tâm hồn mình không ? hai là ta gạt bỏ tất cả các đam mê hằng làm giặc trong lòng mình dù đó là về sắc dục, tiền tài, danh tiếng hay bất cứ sự mê hoặc nào khác, để xem Tình yêu của Chúa Hài Đồng có làm nóng cháy tim mình không . Đó là cách ứng nghiệm từ xa xưa cho mọi người muốn gặp gỡ Chúa và vào nước Chúa. Đó là cách mà thánh Gioan kêu gọi “ hãy dọn đường cho Chúa đến”

Quyền năng, Sức mạnh vô cùng phong phú và mãnh liệt  của Lời Chúa chỉ có thể thi thố ra khi chúng mình thực thi một cách sẵn lòng sau khi cương quyết chọn lựa , không chút nghi ngại. Sự tự do của con người , quan trọng là ở đây, khi mà ta quyết chọn lựa đi theo Tin Mừng bằng cách thực hành Lời Chúa khuyên dạy để có được mãnh lực thay đổi trong thế giới riêng tư của mình và hơn nữa ra thế giới chung quanh ta. Khi đó , Tsunami, Động đất cũng không làm ta lo sợ nữa.

Hiến pháp 2013 làm đảng viên cao cấp nhận ra bản chất của đảng CSVN

Hiến pháp 2013 làm đảng viên cao cấp nhận ra bản chất của đảng CSVN

VRNs (05.12.2013) – Sài Gòn – Hôm qua, tại Sài Gòn, ông Lê Hiếu Đằng đã ra Tuyên bố bỏ đảng CSVN. Ông viết:

“Tôi tên LÊ HIẾU ĐẰNG là ĐẢNG VIÊN ĐẢNG CỘNG SẢN VN, hơn 40 tuổi đảng. Nay tôi tuyên bố 1công khai ra khỏi đảng CSVN vì:

ĐCSVN bây giờ không còn như trước (đấu tranh giải phóng dân tộc) mà đang suy thoái biến chất, thực chất chỉ là đảng của những tập đoàn lợi ích, trở thành lực cản cho sự phát triển đất nước, dân tộc, đi ngược lại lợi ích dân tộc, nhân dân.

Tôi xin xác định đây là quyết định của tôi.

Ngày 04.12.2013

Lê hiếu Đằng”

Hình chụp bản viết tay này đăng lại t72 trang blog Xã hội dân sự

Hình chụp bản viết tay này đăng lại t72 trang blog Xã hội dân sự

Ông Lê Hiếu Đằng là luật gia, Phó chủ nhiệm Hội đồng Tư vấn về Dân chủ và Pháp luật thuộc Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nguyên là phó Tổng Thư Ký Ủy ban Trung Ương Liên Minh các lực lượng Dân tộc, dân chủ và Hòa bình Việt Nam, Nguyên Tổng thư kí Uỷ Ban nhân dân Cách mạng khu Sài Gòn Gia Định, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam ở TP HCM. Ông là một trong các “lãnh tụ” sinh viên trước đây trong phong trào đấu tranh tại Sài Gòn và các đô thị Miền Nam trước 1975, thành viên Ban chấp hành Tổng hội sinh viên Sài Gòn và ĐH Luật Khoa.

Đánh giá về xã hội và chính trị VN trước khi tuyên bố ra khỏi đảng CSVN, ông Lê Hiếu Đằng đã từng viết trong bài Suy nghĩ trong những ngày nằm bệnh …: “Có thời gian từ 1975 đến 1983 tôi là giảng viên Triết học và Chủ nghĩa xã hội khoa học ở Trường Đảng Nguyễn Văn Cừ thuộc Khu ủy Sài Gòn-Gia Định. Về phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lê nin mà tôi hiểu được có một điều cơ bản là cơ sở hạ tầng (bao gồm cơ sở xã hội, cơ sở kinh tế, v.v.) như thế nào thì phản ảnh lên thượng tầng kiến trúc như thế đó. Sau một thời gian dài Đảng và nhà nước Việt Nam nhận chìm các tầng lớp nhân dân Việt Nam từ Bắc chí Nam dưới chế độ quản lý kinh tế bao cấp, đi ngược lại tất cả qui luật tự nhiên, cop-pi mô hình kinh tế của Liên bang Xô viết và Trung Quốc cộng sản 100%. Dân chúng đói kém rên xiết. Các đợt cải tạo tư sản X1, X2 đã làm tan nát biết bao gia đình, làm dòng người vượt biên ngày càng nhiều và biết bao gia đình phải chết tức tưởi trên biển”.

Sau đó, cũng ở bài viết này, ông Lê Hiếu Đằng đã phân tích sự bất ổn và phi lý của một thể chế chính trị độc đảng đang làm đất nước càng ngày càng tệ hại hơn, từ đó, ông kêu gọi một số đảng viên CSVN, mà theo ông là có tâm huyết với dân tộc cùng nhau lập một đảng mới: “Vậy tại sao chúng ta hàng trăm đảng viên không tuyên bố tập thể ra khỏi Đảng và thành lập một Đảng mới, chẳng hạn như Đảng Dân chủ xã hội, những Đảng đã có trên thực tế trước đây cho đến khi bị ĐCS bức tử phải tự giải tán? Tại sao tình hình đã chín mùi mà chúng ta không dám làm điều này vì chủ trương không đa nguyên đa đảng chỉ là chủ trương của Đảng chứ chưa có một văn bản pháp lý nào cấm điều này? Mà nguyên tắc pháp lý là điều gì luật pháp không cấm chúng ta đều có quyền làm. Đó là quyền công dân chính đáng của chúng ta. Không thể rụt rè, cân nhắc gì nữa. Đây là một yếu tố sẽ làm cho xã hội công dân, xã hội dân sự mạnh lên, không có thế lực nào ngăn cản được. Đây là cách chúng ta phá vỡ một mảng yếu nhất của một nhà nước độc tài toàn trị hiện nay”.

Sau khi bài viết này được công bố, tức thời xuất hiện ba dòng suy nghĩ chính: một là ông Lê Hiếu Đằng là con chim mồi, để nhử những ai muốn “nổi loạn” lòi ra cho công an bắt; hai là những người hồ hởi tỏ ra ủng hộ, với suy nghĩ đảng mới đã được chuẩn bị công phu, và đây là lúc nó bắt đầu hoạt động; bà là để đợi xem. Số này đông hơn cả.

Những người hiểu rõ bản chất và bối cảnh của đảng CSVN hiện nay biết rõ, các lãnh đạo CSVN hiện nay không dám làm phép thử, vì sự giương oai nếu có ở đâu đó tại Việt Nam trong thời gian qua là sự huy động toàn lực lượng, chứ không phải tự nơi cũng đủ sức làm sự kiện lớn để đe dọa dân chúng như diễn tập ở Nghệ An lúc đang diễn ra Hội nghị TW 8 vừa qua, hay tại Hà Nội, trước lúc đảng CSVN ép QH thông qua HP 2013. Nên giả thuyết chim mồi không đủ sức đứng. Nhưng cũng thực tế, những gì ông Lê Hiếu Đằng suy nghĩ và viết ra chỉ là những suy nghĩ ban đầu của ông chứ chưa hề có một tổ chức đảng nào đã chuẩn bị sẵn sàng. VRNs được biết, ngay sau đó, có những người đã tự nguyện góp sức một tay cho ông thì ông đã tỏ ra mệt và không đủ sức làm việc lớn đó.

Hôm qua, với Tuyên bố rời khỏi đảng CSVN, nhưng người theo dòng suy nghĩ thứ ba có thêm thông tin để tiếp tục “đợi xem”.

Sự việc ông Lê Hiếu Đàng ra Tuyên bố ngay sau khi QH thông qua bản HP 2013 hôm 28.11 vừa qua vừa lạc hậu, vừa bảo thủ độc tôn, vừa xa lạ với lợi ích quốc gia dân tộc, có thể chính là giọt nước tràn ly, thúc đẩy ông Lê Hiếu Đằng phải nói ra về đảng mà ông đã theo suốt 40 năm: “ĐCSVN bây giờ không còn như trước (đấu tranh giải phóng dân tộc) mà đang suy thoái biến chất, thực chất chỉ là đảng của những tập đoàn lợi ích, trở thành lực cản cho sự phát triển đất nước, dân tộc, đi ngược lại lợi ích dân tộc, nhân dân”.

PV. VRNs

 

SỰ SỐNG LẠI CỦA CHÚNG TA

SỰ SỐNG LẠI CỦA CHÚNG TA

(BÀI GIÁO LÝ 24 VỀ KINH TIN KÍNH CỦA ĐTC PHANXICÔ)

 

Tác giả: GLV. Phạm Xuân Khôi (chuyển ngữ)

“Chúng ta tin rằng Chúa Giêsu đã sống lại, Chúa Giêsu vẫn còn sống lúc này…. Và nếu Chúa Giêsu vẫn còn sống, anh chị em có nghĩ rằng Người sẽ để mặc cho chúng ta chết mà không cho sống lại không?”

Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý ĐTC Phanxicô ban hành ngày 4 tháng 12 năm 2013 trong buổi Triều Yết Chung được tổ chức tại Quảng Trường Thánh Phêrô.  Hôm nay ngài tiếp tục chu kỳ Giáo Lý về kinh Tin Kính nói về Sự Sống Lại của Chúng Ta.

* * *

Anh chị em thân mến, chào anh chị em!

Hôm nay một lần nữa tôi trở lại với lời xác quyết “Tôi tin xác loài người (ngày sau) sống lại.” Đây là một chân lý không đơn giản, và không mấy hiển nhiên, bởi vì, đời sống của chúng ta bị chìm đắm trong thế giới này, nên không dễ mà hiểu được những thực tại của tương lai.  Nhưng Tin Mừng soi sáng chúng ta: sự sống lại của chúng ta gắn liền với việc Phục Sinh của Chúa Giêsu, Người đã sống lại từ cõi chết và là bằng chứng rằng có việc kẻ chết sống lại.  Vì vậy, tôi muốn trình bày một số khía cạnh liên quan đến sự liên hệ giữa việc Phục Sinh của Đức Kitô và sự sống lại của chúng ta.  Người đã sống lại, Người đã sống lại và chúng ta cũng sẽ sống lại.

Trước hết, chính Thánh Kinh chứa đựng một con đường đi đến đức tin trọn vẹn về sự sống lại của kẻ chết.  Điều này được diễn tả như là đức tin vào Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa của toàn thể con người – linh hồn và thân xác – và như là đức tin vào Thiên Chúa giải thoát, Thiên Chúa trung thành cùa giao ước với dân Ngài.  Ngôn sứ Edêkiel, trong một thị kiến, nhìn ngắm những ngôi mộ của những người bị lưu đầy được mở ra và những bộ xương khô sống lại nhờ việc thông ban sự sống của một thần khí ban sự sống.  Thị kiến này bày tỏ hy vọng vào “sự sống lại của dân Israel” trong tương lai, có nghĩa là vào sự tái sinh của một dân đã bị đánh bại và hạ nhục (x. Ed 37:1-14).

Chúa Giêsu, trong Tân Ước, hoàn tất mạc khải này, và liên kết đức tin vào sự sống lại với chính Người khi nói: “Thầy là sự sống và sự sống lại” (Ga 11:25).  Thực ra, Chính Chúa Giêsu sẽ làm cho những ai tin vào Người được sống lại trong ngày sau hết.  Chúa Giêsu đến giữa chúng ta, đã làm người giống như chúng ta trong mọi sự ngoại trừ tội lỗi; và bằng cách này, Người đã đem chúng ta đi với Người khi trở vể với Chúa Cha.  Người, Ngôi Lời Nhập Thể, đã chết cho chúng ta và đã sống lại, ban cho các môn đệ Chúa Thánh Thần như là một bảo chứng của sự hiệp thông trọn vẹn trong Nước vinh quang của Người mà chúng ta đang tỉnh thức chờ đợi.  Sự mong đợi này là nguồn gốc và lý do của niềm hy vọng của chúng ta, một hy vọng, nếu được vun xới và bảo vệ – niềm hy vọng của chúng ta, nếu chúng ta vun xới và bảo vệ nó – nó sẽ trở thành ánh sáng để chiếu soi lịch sử cá nhân của chúng ta và lịch sử của cộng đồng.  Chúng ta hãy luôn luôn nhớ rằng: chúng ta là những môn đệ của Đấng đã đến, đến mỗi ngày và sẽ đến trong ngày sau hết.  Nếu chúng ta có thể biết rõ về thực tại này, chúng ta sẽ ít bị mệt mỏi vì đời sống hàng ngày, ít bị giam hãm trong phù du và sẵn sàng bước đi với một quả tim đầy lòng thương xót trên con đường cứu độ.

Một khía cạnh khác: sống lại nghĩa là gì? Sự sống lại của tất cả chúng ta sẽ xảy ra trong ngày sau hết, vào ngày tận thế, do sự toàn năng của Thiên Chúa, Đấng ban sự sống lại cho thân xác chúng ta, làm cho hồn xác tất cả hợp lại với nhau nhờ quyền năng Phục Sinh của Chúa Giêsu.  Đây là giải thích cơ bản: bởi vì Chúa Giêsu đã sống lại, thì chúng ta cũng sẽ sống lại; chúng ta hy vọng vào sự sống lại vì Người đã mở cánh cửa cho sự sống lại này cho chúng ta.  Và sự biến đổi này, sự biến hình này của thân xác chúng ta được chuẩn bị trong cuộc đời này bằng một mối liên hệ với Chúa Giêsu trong các Bí Tích, đặc biệt là Bí Tích Thánh Thể.  Chúng ta biết rằng trong cuộc sống này, chúng ta được nuôi dưỡng bằng Mình và Máu của Người, thì chúng ta sẽ sống lại như Người, với Người và qua Người như Chúa Giêsu đã sống lại với thân xác của Người, nhưng không trở về với một cuộc sống trần gian, vì vậy chúng ta sẽ sống lại với thân xác chúng ta, là thân xác được biến đổi thành thân xác vinh quang.  Nhưng đây không phải là một lời nói dối!  Điều này đúng.  Chúng ta tin rằng Chúa Giêsu đã sống lại, Chúa Giêsu vẫn còn sống lúc này.  Nhưng anh chị em có tin rằng Chúa Giêsu vẫn còn sống không?  Và nếu Chúa Giêsu vẫn còn sống, anh chị em có nghĩ rằng Người sẽ để mặc cho chúng ta chết mà không cho sống lại không?  Không! Người đang chờ chúng ta, và vì Người đã sống lại, quyền năng Phục Sinh của Người sẽ làm cho tất cả chúng ta sống lại.

Một yếu tố cuối cùng: trong cuộc đời này, chúng ta có trong mình một sự thông phần vào việc Phục Sinh của Đức Kitô.  Nếu thật sự là Chúa Giêsu sẽ cho chúng ta sống lại trong ngày tận thế, thì cũng thật sự rằng, theo một bình diện nào đó, chúng ta đang sống lại với Người.  Sự sống đời đời đã bắt đầu lúc này, nó bắt đầu trong suốt cuộc đời, đó là hướng về thời điểm của sự sống lại cuối cùng.  Và thực ra, chúng ta đã sống lại, qua Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được kết hợp trong cái chết và sự Phục Sinh của Đức Kitô và thông phần vào sự sống mới, chính là sự sống của Người.  Cho nên, trong khi chờ đợi ngày sau hết, chúng ta có nơi chính mình một hạt giống của sự sống lại, như bảo chứng về sự sống lại trọn vẹn mà chúng ta sẽ nhận như gia nghiệp.  Cũng vì lý do này mà thân xác của mỗi người chúng ta là tiếng vang của cõi vĩnh hằng, và phải luôn luôn được tôn trọng; và đặc biệt là sự sống của những người đau khổ phải được tôn trọng và yêu thương, ngõ hầu họ cảm thấy được sự gần gũi của Nước Thiên Chúa, là tình trạng của sự sống đời đời mà chúng ta đi đến.  Suy nghĩ này cho chúng ta hy vọng: chúng ta đang hành trình hướng về sự sống lại.  Thấy Chúa Giêsu, gặp Chúa Giêsu: đây là niềm vui của chúng ta!  Tất cả chúng ta sẽ cùng nhau – không ở đây nơi quảng trường, nhưng cách khác – hân hoan với Chúa Giêsu.  Đây là cùng đích của chúng ta!

Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ

http://giaoly.org/vn

ĐỨC MARIA SỐNG TÂM TÌNH MÙA VỌNG

ĐỨC MARIA SỐNG TÂM TÌNH MÙA VỌNG

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

Một ngày đẹp trời kia, ở cái vườn nọ có cái tên là Ê-đen có hai vợ chồng đang sống trong an bình hạnh phúc bỗng dưng hóa trần truồng …

Không gian, thời gian, con người và sự kiện đó nhiều người biết đến qua câu chuyện ghi lại trong sách Sáng Thế.

Thiên Chúa là vị Thiên Chúa tuyệt hảo. Thiên Chúa tạo dựng trời đất, muôn vật muôn loài và Ngài đã tạo dựng nên con người giống hình ảnh của Ngài. Hơn thế nữa, nét đẹp của tấm lòng Thiên Chúa đó là :

Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy,

ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên,

cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo,

đặt muôn loài muôn sự dưới chân:

Nào chiên bò đủ loại,

nào thú vật ngoài đồng,

nào chim trời cá biển,

mọi loài ngang dọc khắp trùng dương. (Tv 8, 6-9)

Nhưng, hỡi ôi, hai ông bà nguyên tổ đã không đủ tỉnh thức đủ để nhận ra tình thương bao la của Thiên Chúa. Hai ông bà đã khước từ, đã đánh đổ tình thương đó. Và, ngay lúc ông bà phạm tội, tình yêu Thiên Chúa vẫn dẫy tràn trên cuộc đời của hai ông bà. Ta bắt gặp tình thương đó ở sách Sáng Thế, chương 3, 14.15 : Đức Chúa là Thiên Chúa phán với con rắn: “Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú. Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó.”

Dòng giống được Thiên Chúa tuyển chọn, yêu thương đó sẽ là dân riêng của Ngài và sẽ chiến thắng con rắn dữ xưa, chiến thắng kẻ thù mưu ma chước quỷ xưa trong vườn Địa Đàng. Dòng giống Thiên Chúa tuyển chọn ấy có tên là Israel.

Qua dòng chảy lịch sử cứu độ, ta thấy Israel là một dân sống bằng hy vọng bởi vì họ đã ra đời, đã dựng nước, đã sống dựa trên một lời hứa của Thiên Chúa làm nền tảng. Lời hứa mà Thiên Chúa đã hứa với tổ phụ Abraham được nhiều lần lặp lại bằng cách này hay cách khác với các con cháu của ông : “Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân tộc hùng mạnh, sẽ ban cho ngươi một miền đất phì nhiêu làm quê hương, Ta sẽ chúc phúc cho ngươi và con cháu ngươi, và qua ngươi, Ta chúc phúc cho các dân tộc khác. Ta sẽ là Chúa của các ngươi và các ngươi sẽ là dân riêng của Ta”.

Lời hứa mà Thiên Chúa hứa với Abraham đã được long trọng lặp lại nhiều thế kỷ sau với vua Đavít qua miệng Ngôn sứ Nathan. Ngôn sứ nói rằng Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện từ dòng dõi nhà vua một người con; người con này sẽ là vị Cứu Tinh, Người sẽ tái lập vương quốc Đavít và sẽ trị vì mãi mãi.

Trải qua biết bao nhiêu thăng trầm của cuộc đời, lịch sử của dân tộc Israel cũng vậy. Ta thấy có những thời Israel cực thịnh nhưng cũng có những lúc cực suy và có những lúc rơi vào hoàn cảnh bi đát gần như tuyệt vọng. Trong nỗi thất vọng nhưng có một niềm hy vọng vẫn lóe lên trong cuộc đời của họ. Niềm hy vọng của Israel như là sợi chỉ đỏ chạy xuyên suốt qua dòng lịch sử. Họ luôn luôn quay về với Lời Hứa của Chúa để tìm lẽ sống cho mình, nhất là những khi cùng đường tuyệt vọng. Và Chúa luôn luôn tỏ ra rất trung thành với lời hứa, có điều là lắm khi đường lối của Người theo rất lạ lùng, khó hiểu.

Sống dưới ách nô lệ của Ai Cập, dân Do Thái vẫn ngóng trông, vẫn mong đợi ngày giải phóng suốt mấy trăm năm. Thế rồi Thiên Chúa đã sai Môsê đến làm vị cứu tinh của họ.

Vừa bước chân ra khỏi Ai Cập, dân Do Thái lại ngóng chờ được vào chỗ định cư, nơi có sữa và mật chảy thành suối như lời hứa.

Niềm hy vọng của dân Do Thái không dừng lại ở đất hứa. Khi vừa đặt chân đến đất hứa rồi, họ vẫn chưa hết chờ mong vì vẫn chưa được như lòng sở nguyện. Sau những thế kỷ lập quốc khá hùng mạnh, đến lúc họ lại bị nước mất nhà tan và bị bắt đi lưu đầy ở Babylon, năm 586 trước công nguyên. Nơi chốn lưu đày họ lại mong lại chờ, và Chúa  đã sai vua Kyrô nuớc Ba Tư đưa họ về quê cha đất tổ và tái thiết lại Đền Thờ. Đền thờ cuối cùng bị phá huỷ là vào năm 70 thời tướng Lamã Titus. Dân Israel lại rơi vào ách thống trị của đế quốc Rôma. Và họ lại chờ mong một vị cứu tinh mới.

Nhìn lại niềm hy vọng của Do Thái, ta thấy niềm hy vọng của họ chỉ gói ghém, chỉ hạn hẹp, chỉ được giới hạn ở cái nhìn của phàm tục, của vật chất, của hư danh dẫu rằng quá nhiều lần cũng như quá nhiều ngôn sứ nhiều lần dạy họ phải mở rộng cái nhìn vật chất hẹp hòi đó. Các ngôn sứ đã hướng họ nhìn và trông mong Đấng Cứu Độ trần gian chứ không phải đấng đến để làm cho họ được vinh quang với cái vẻ bên ngoài.

Thiên Chúa cũng đã thử thách dân Do Thái nhiều lần và nhiều cách. Có lúc niềm tin vào Đấng Cứu Độ trần gian bừng lên mạnh mẹ nhưng rồi cũng có những người chán nản thất tín bất trung. Nhiều đại họa đến với dân và làm cho dân nản chí nản lòng.

Trong số những người Do Thái chờ đợi trong niềm tin, hy vọng trong niềm cậy trông đó nổi lên khuôn mặt hết sức dễ thương đó chính là Đức Trinh Nữ Maria.

Maria (Miryam), một tên rất phổ biến, giống như tên Mai, Lan, Cúc, Trúc trong giới phụ nữ Việt Nam ta. Giả như Maria sinh ra ở Việt Nam, Maria sẽ mang một cái tên hết sức gần gụi Trần Thị …, Đặng Thị … Đơn giản là như thế. Về quê quán, Đức Maria là người làng Nazareth (Lc 1, 26), một làng rất tầm thường như về sau ông Nathanael một môn đệ Đức Giêsu đã nhận xét: “Từ Nazareth làm sao có cái gì hay được?” (Ga 1, 46).

Mẹ đã đến thế gian, Mẹ đã đi vào trần gian, Mẹ được sinh hạ bởi tình yêu, bởi huyết nhục của GioaKim và Anna.

Cũng như bao nhiêu người nữ khác nói riêng và như bao nhiêu người Do Thái, Mẹ Maria cũng trông chờ Đấng Cứu Độ trần gian đến. Giản đơn, qua lịch sử, ta thấy Đức Trinh Nữ Maria là ai: là một thiếu nữ Do thái, hết lòng mong đợi ơn cứu chuộc dân tộc của mình. Ngày ngày, Maria lên Đền Thờ cầu nguyện và nghe Lời Chúa. Maria đã sống niềm hy vọng vào Đấng Cứu Độ trần gian từ độ còn xuân. Maria luôn luôn nghiền ngẫm Thánh Kinh để rồi Maria nhớ lại lời Chúa đã dùng ngôn sứ Nathan mà thề hứa với vua Đavít xưa.

Và rồi, cũng bỗng đến ngày kia, giờ kia, không phải là cái giờ đại họa đến cho con người khi ông bà nguyên tổ phạm tội mà đến cái giờ con người được hưởng hồng phúc, được hưởng ơn cứu độ. Giờ ấy chính là giờ sứ thần truyền tin cho Maria.

Hoàn toàn bất ngờ, hoàn toàn không hiểu, hoàn toàn ngạc nhiên. Chẳng bao giờ Maria nghĩ đến lời ngôn sứ ngày xưa lại rơi vào cuộc đời của mình. Chuyện “không thể” được đầu tiên là làm sao mình có thể sinh con được vì đã quyết “không biết đến chuyện vợ chồng” để sống trọn vẹn cho một mình Thiên Chúa mà thôi?

Thế nhưng, bình tĩnh để nghe sứ thần giải thích rằng “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”, Maria đã khiêm nhường thưa lại: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38).

Niềm hy vọng của Maria được nung nấu, được nuôi dưỡng trong tâm tình tỉnh thức, chờ đợi và đặc biệt nhất đó là hoàn toàn khiêm hạ để đón Ơn Cứu Độ trần gian đến trong đời của Mẹ. Nếu như Mẹ không tỉnh thức, không suy niệm lời Chúa, không hoàn toàn bỏ ngõ đời mình cho Thiên Chúa, cho Thánh Ý Thiên Chúa thì Đấng Cứu Độ trần gian sẽ không đến với Mẹ.

Với tâm tình đó, Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người trong lòng Đức Trinh Nữ. Và thế là Đức Maria khiêm nhường đã trở thành thánh mẫu của Thiên Chúa.

Ta bắt gặp Đức Maria đã sống hết sức mạnh mẽ niềm hy vọng chờ mong ơn cứu độ của dân tộc mình. Hơn thế nữa, Mẹ đã trở thành dụng cụ đặc biệt Chúa dùng để thực hiện ý định cứu độ vì Mẹ là một tâm hồn nghèo khó, khiêm nhường, tuyệt đối tin tưởng và gắn bó trọn vẹn vào Thiên Chúa.

Sống Mùa Vọng, Giáo Hội đặt chúng ta lại trong thái độ khao khát chờ mong Chúa đến cứu độ chúng ta.

Ta chờ ai, mong ai, đón ai đến trong cuộc đời của ta ?

Bài học của dân Do Thái ngày xưa dẫu là xưa nhưng vẫn là bài học còn rất mới và rất tốt cho mỗi người chúng ta. Đôi khi, ta cũng lầm đường lạc lối là hy vọng, chờ mong, đạt được những cái gì hạn hẹp trong cái đợi, cái mong của vật chất, của hạ giới chứ không về thượng giới, về Ơn Cứu Độ.

Nếu chúng ta cứ lầm lũi chờ đợi vật chất, danh vọng, quyền lực, lợi lộc trần gian ta sẽ đánh mất cái cảm thức của chờ đợi Đấng Cứu Thế. Và với tâm tình đó, ta sẽ không khiêm hạ đủ như Mẹ Maria để đón Đấng Cứu Độ trần gian vào đời mình như bao nhiêu người đã đánh mất Ơn Cứu Độ.

Ta hãy thức tỉnh và đặc biệt hơn cả là hãy noi gương Đức Maria: ý thức mình là kẻ nghèo khó khiêm nhu, sống phó thác vào Chúa. Và cũng cần lắm là noi gương của Mẹ sẵn sàng để cho Chúa sử dụng vào công cuộc cứu độ của Người đang thực hiện cho bản thân chúng ta và cho toàn thế giới.

Anmai, CSsR

VỌNG MÙA HỒNG ÂN

VỌNG MÙA HỒNG ÂN

Lịch phụng vụ một lần nữa dẫn đưa chúng ta trở lại cuộc hành trình vào thuở ban đầu, khi mà mọi người đang mong chờ Vị Cứu Tinh.  Hành trình bắt đầu đồng nghĩa với hành trình nhìn lại chính mình. Lắm khi ta tự hỏi sao cứ phải bắt đầu khi mà ta đã đi quá xa so với điểm bắt đầu ấy?  Phải, vì ta đã đi quá xa nên bây giờ cần nhìn lại và trở về để tìm lại đường hướng thuở ban đầu và để biết ta đang đi đúng hay sai.  Thành thử ra, có thể nói rằng mùa vọng là mùa của hồng ân.

Bất cứ ai biết nhìn lại mình thì sẽ cảm được mùa hồng ân này.  Nhìn lại để thấy mình rõ hơn.  Nhìn lại để biết mình đang ở đâu trong cuộc đời này.  Nhìn lại để xem thử cuộc sống của mình có thật sự khao khát Chúa không?  Nhìn lại để thấy cuộc đời mình cần Vị Vua Cứu Thế đến cỡ nào.  Quả thật, cuộc đời ta tựa hồ như con thuyền trôi nổi trên đại dương trần thế.  Lắm khi nó đi ngang qua vùng trời bình yên của đại dương.  Nhưng cũng lắm khi con thuyền ấy bị bão táp, phong ba… Sau mỗi lần như thế, con thuyền hư hao, cần được sửa chữa để tiếp tục hành trình cuộc đời.  Vì thế, mùa vọng mời gọi con thuyền đời ta nên nghỉ ngơi và tự duyệt xét lại chính mình và thấy được những sai sót, những lỗ hổng của con thuyền nhằm có đủ sức bước đi trong một năm Phụng Vụ mới.

Mùa hồng ân càng có ý nghĩa khi ta không chỉ biết nhìn lại mà còn hành động.  Biết được những chỗ hư hao của con thuyền là một chuyện, nhưng ta có muốn sửa nó không lại là chuyện khác.  Thánh Gioan Tẩy Giả mời gọi chúng ta hãy sửa lối cho thẳng để Người đi (Mt 3,3).  “Sửa lối” là động từ diễn tả hành động, nghĩa là không phải chỉ ngồi đó tự đấm ngực, khóc lóc, kêu than, mà hãy tự đứng dậy, đảm đương những sai sót của mình và khắc phục nó.  Thuyền đời của mỗi người cần được sửa chữa cụ thể, rõ ràng thì mới có thể có đủ nghị lực, lòng can đảm và sẵn sàng đối mặt với bão táp ở tương lai.

Mùa hồng ân còn mời gọi mọi người hãy để Chúa làm trung tâm đời mình.  Tư thế của một người mong chờ Chúa đến là tư thế của hy vọng, của sự giải thoát.  Người sống trong niềm mong chờ luôn khắc khoải mau đến thời điểm mong chờ.  Lúc đó, mọi mong chờ sẽ vỡ òa trong cõi lòng sâu thẳm nơi lòng người hy vọng.  Thế nên, người chờ mong Chúa đến cũng luôn sống trong niềm hy vọng ấy và trong bất cứ mọi hành động của đời thường đều hướng về Chúa.

Xin hãy để Vị Cứu Tinh làm cầu nối giữa ta với Chúa Cha trong những giờ phút nhìn lại mình.  Xin hãy để Đấng Thiên Sai dẫn ta đến hành động đích thực trong việc sửa sai.  Xin hãy mang Chúa về lại trong đời sống của mỗi người chúng ta.

Quốc Đạt, S.J.

From: langthangchieutim & Anh chị Thụ Mai gởi

CÁI CHẾT CỦA CHÚNG TA

CÁI CHẾT CỦA CHÚNG TA

( BÀI GIÁO LÝ 23 VỀ KINH TIN KÍNH CỦA ĐTC PHANXICÔ)

Tác giả: GLV. Phạm Xuân Khôi (chuyển ngữ)

“Nếu chúng ta mở cửa đời sống và con tim của chúng ta cho anh chị em mình, thì ngay cả cái chết  của chúng ta cũng sẽ trở thành một cánh cửa giới thiệu chúng ta vào Thiên Đàng.”

Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý ĐTC Phanxicô ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2013 trong buổi Triều Yết Chung được tổ chức tại Quảng Trường Thánh Phêrô.  Hôm nay ngài tiếp tục chu kỳ Giáo Lý về kinh Tin Kính nói về Cái Chết của Chúng Ta và chúng ta phải chuẩn bị thế nào.

* * *

Anh chị em thân mến,

Chào anh chị em và chúc mừng vì anh chị em vì can đảm ở quảng trường này trong sự lạnh lẽo.  Tôi khen ngợi anh chị em rất nhiều.

Tôi muốn kết thúc loạt bài giáo lý về “Kinh Tin Kính”, được ban hành trong Năm Đức Tin, bế mạc Chúa Nhật tuần trước.  Trong bài giáo lý này và những bài giáo lý tiếp theo tôi muốn nói về chủ đề sự sống lại của thân xác, theo hai khía cạnh như được trình bày trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, tức là sự chết và sống lại của chúng ta trong Đức Chúa Giêsu Kitô.  Hôm nay tôi sẽ suy niệm về khía cạnh thứ nhất, “sự chết trong Đức Kitô.”

1. Thường trong chúng ta, có một cách nhìn sai lầm về cái chết.  Tất cả chúng ta đều quan tâm đến cái chết, và nó chất vấn chúng ta một cách sâu xa, đặc biệt là khi nó chạm đến gần chúng ta, hoặc khi nó chạm đến những trẻ em, những người không thể tự vệ, một cách mà đối với chúng ta là “xấu xa”.  Tôi luôn luôn tự hỏi: tại sao trẻ em phải chịu đau khổ?  Tại sao trẻ em phải chết?  Nếu cái chết được hiểu là chấm dứt tất cả mọi sự, thì nó thật đáng sợ, khủng khiếp, và biến thành một đe mối dọa phá vỡ mọi mơ ước, mọi quan điểm, mọi liên hệ và làm gián đoạn mọi con đường.  Điều này xảy ra khi chúng ta coi cuộc sống của như như một khoảng thời gian bị giới hạn giữa hai thái cực: sinh và tử, khi chúng ta không tin vào một chân trời vượt trên cuộc sống hiện tại; và khi chúng ta sống như thể không có Thiên Chúa.  Quan niệm này về cái chết là điều điển hình của tư tưởng vô thần, là tư tưởng giải thích cuộc đời như việc chúng ta hiện diện trên thế gian là một sự tình cờ, và đang đi về phía hư vô.  Nhưng cũng có một chủ nghĩa vô thần thực tiễn, đó là một lối sống chỉ vì tư lợi và chỉ sống cho những điều trần tục.  Nếu chúng ta để cho cái nhìn sai lầm về cái chết này bắt giữ, chúng ta sẽ không có sự lựa chọn nào khác hơn là che giấu cái chết, chối từ nó, hoặc tầm thường hoá nó, ngõ hầu nó không làm cho chúng ta sợ hãi.

2. Tuy nhiên, trước giải pháp sai lầm này, “quả tim” con ngưởi – lòng ước ao sự vô tận của nó, mà mỗi ngưởi chúng ta đều có, lòng khao khát cõi vỉnh hằng của nó, cũng ở trong mỗi ngưởi chúng ta – nổi loạn.  Như thế, ý nghĩa Kitô giáo của cái chết là gì?  Nếu chúng ta nhìn vào những giây phút đau đớn nhất của cuộc đời mình, khi chúng ta bị mất một người thân yêu – cha mẹ, một người anh em, một người chị em, vợ, chồng, một đứa con, một người bạn – chúng ta nhận ra rằng, ngay cả trong thảm trạng của sự mất mát, ngay cả khi bị tan nát bởi việc bị chia cách, một xác tín nảy sinh trong trái tim rằng tất cả mọi sự không thể nào là hết, rằng những điều tốt đã được cho đi và nhận được không phải là vô ích. Có một trực giác mãnh liệt trong chúng ta bảo chúng ta rằng cuộc sống của chúng ta không kết thúc với cái chết.

Việc khao khát sự sống này đã tìm thấy câu trả lời thực tế và đáng tin cậy của nó trong sự Sống Lại của Chúa Giêsu Kitô.  Sự Sống Lại của Chúa Giêsu không những chỉ cung cấp cho chúng ta sự chắc chắn về đời sống sau khi chết, mà còn soi sáng những mầu nhiệm về cái chết của mỗi người chúng ta.  Nếu chúng ta sống kết hợp với Chúa Giêsu, trung thành với Người, chúng ta sẽ có thể đối diện với việc đi qua của cái chết với niềm hy vọng và sự thanh nhàn.  Thật vậy, Hội Thánh cầu nguyện: “Nếu sự chắc chắn rằng mình phải chết làm anh chị em buồn phiền, thì anh chị em được an ủi bởi lời hứa về trường sinh”.  Đây là một lời cầu nguyện rất đẹp của Hội Thánh!  Một người có khuynh hướng chết theo cách mà người ấy sống.  Nếu cuộc đời của tôi là một cuộc hành trình với Chúa, một con đường tín thác vào lòng thương xót vô hạn của Người, tôi sẽ được chuẩn bị để chấp nhận giây phút cuối cùng của cuộc đời dưới thế như sự phó thác dứt khoát và tin tưởng vào đôi bàn tay đón chào, trong khi chờ đợi để chiêm ngưỡng Thánh Nhan Người tận mặt.  Đây là điều đẹp nhất có thể xảy ra cho chúng ta: chiêm ngưỡng tận mặt Thánh Nhan xinh đẹp của Chúa, để nhìn thấy Người như Người là, xinh đẹp, đầy ánh sáng, tràn đầy tình yêu, đầy dịu dàng.  Chúng ta đi đến cùng đích này: nhìn thấy Chúa.

3. Trong bối cảnh này, chúng ta có thể hiểu được lời mời gọi của Chúa Giêsu là luôn luôn sẵn sàng, tỉnh thức, vì biết rằng cuộc đời dưới thế này được ban cho chúng ta để chuẩn bị cho đời sau, là đời sống với Cha trên trời.  Và vì thế, có một cách chắc chắn: chuẩn bị tốt cho cái chết, bằng cách gần gũi Chúa Giêsu.  Đó là sự an toàn:  Tôi chuẩn bị mình cho cái chết bằng cách ở gần Chúa Giêsu.  Anh chị em đang gần Chúa Giêsu như thế nào?  Bằng cầu nguyện, các Bí Tích và cũng qua việc thực thi bác ái.  Chúng ta hãy nhớ rằng Người hiện diện trong những người yếu đuối và thiếu thốn nhất.  Chính Người đã đồng hóa Mình với họ, trong dụ ngôn thời danh về Phán Xét Chung, khi Người nói: “Vì Ta đói, các con đã cho Ta ăn, Ta khát, các con đã cho Ta uống, là một người lạ, các con đã tiếp đón Ta, trần truồng, các con đã cho Ta mặc, đau ốm, và các con đến thăm Ta, ở tù, các con đã đến với Ta…. Tất cả những gì các con đã làm cho một trong những anh em này của Ta, là các con đã làm cho Ta” (Mt 25:35-36,40 ).  Vì vậy, một cách an toàn là để phục hồi ý nghĩa của việc bác ái Kitô giáo và chia sẻ huynh đệ là chăm sóc những vết thương về thể chất và tinh thần của những người lân cận của chúng ta.  Sự đoàn kết trong việc cảm thông đau khổ và truyền hy vọng là tiền đề và điều kiện để thừa kế Vương Quốc được chuẩn bị cho chúng ta.  Những người thực hành lòng thương xót không sợ chết. Hãy suy nghĩ về điều này: những người thực hành lòng thương xót không sợ chết!  Anh chị em có đồng ý không?  Chúng ta cùng nhau lập lại câu này để không quên nó được không?  Những người thực hành lòng thương xót không sợ chết. Và tại sao họ lại không sợ chết?  Tại vì họ nhìn vào nó trong những vết thương của anh chị em, và khắc phục nó với tình yêu của Đức Chúa Giêsu Kitô.

Nếu chúng ta mở cửa đời sống và con tim của chúng ta cho anh chị em mình, thì ngay cả cái chết  của chúng ta cũng sẽ trở thành một cánh cửa giới thiệu chúng ta vào Thiên Đàng, quê hương hồng phúc của chúng ta, nơi mà chúng ta đang hướng về, với lòng khao khát được sống muôn đời với Cha chúng ta, với Chúa Giêsu, Đức Mẹ Maria và các Thánh.

Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ

http://giaoly.org/vn