NIỀM TIN VÀO CHÚA PHỤC SINH

NIỀM TIN VÀO CHÚA PHỤC SINH

TGM Ngô Quang Kiệt

Chúa Kitô đã phục sinh.  Ðó là niềm vui của chúng ta.  Còn hơn thế nữa, đó là đức tin của chúng ta, đó là niềm hi vọng của chúng ta.  Niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh của chúng ta có cơ sở vững chắc ở những bằng chứng khác nhau.

Có bằng chứng tiêu cực của các lính canh mộ.  Khi an táng Chúa Giêsu, các thượng tế đã cẩn thận xin Philatô cho đóng cửa mộ bằng một phiến đá lớn rất nặng rồi cho niêm phong và cắt cử lính canh cẩn thận.  Nhưng khi Chúa sống lại, ánh sáng rực rỡ chiếu lên chói lòa, cửa mộ bật tung, lính canh hoảng sợ chạy trốn.  Sau đó lính canh đi loan tin rằng: Trong khi chúng tôi ngủ, các môn đệ đến lấy trộm xác Chúa.  Ai cũng biết đó là tin giả.  Vì các môn đệ còn đang rất sợ hãi, trốn chạy, làm sao dám lấy trộm xác.  Thánh Augustinô đã bài bác điều này khi nói: Lính canh ngủ hay thức.  Nếu họ thức thì làm sao họ để cho các môn đệ lấy trộm xác Chúa.  Nếu họ ngủ, làm sao họ biết là các môn đệ lấy trộm xác Chúa.

Có những bằng chứng tích cực của các môn đệ.  Sáng sớm, ba người đầu tiên đã đến mộ và không thấy xác Chúa.  Bà Mađalêna hốt hoảng cho rằng người ta đã lấy mất xác Chúa.  Phêrô vào trước nhưng chưa có ý kiến gì.  Gioan vào sau.  Ông đã thấy và đã tin.  Ông thấy gì?  Ông thấy khăn che đầu và khăn liệm xếp đặt gọn gàng trong mộ.  Là người môn đệ được Chúa yêu thương ông có một trực giác đặc biệt.  Hơn nữa ông đã biết rõ thói quen của Chúa.  Nhìn khăn liệm xếp đặt gọn gàng, ông nhận ra thói quen đó.  Tuy nhiên niềm tin ban đầu còn mơ hồ.  Niềm tin chỉ chắc chắn nhờ được củng cố bằng việc trực tiếp nhìn thấy Chúa.

Sau ngày phục sinh, Chúa hiện ra nhiều lần với nhiều người.  Hiện ra với các môn đệ trong căn phòng đóng kín.  Hiện ra với Tôma và cho ông xem các vết thương ở tay, chân và cạnh sườn.  Hiện ra với hai môn đệ đi đường Emmaus.  Hiện ra trên bờ biển và chỉ dẫn cho các môn đệ đánh một mẻ cá lạ lùng.  Nhưng có lẽ cuộc hiện ra có tác động mãnh liệt nhất là với Phaolô.  Thuở ấy Phaolô còn có tên là Saolê, một người Do Thái thù ghét Chúa Giêsu, hăng say đi tìm bắt những người tin Chúa.  Ở Damas, ông bị một làn ánh sáng chói lọi chiếu vào khiến mù mắt.  Con ngựa hất ông ngã lăn xuống đất.  Và có tiếng từ trời phán bảo: “Saolê, Saolê, tại sao ngươi tìm bắt ta”.  Hoảng sợ Saolê thưa: “Thưa ngài, ngài là ai”.  Tiếng từ trời trả lời: “Ta là Giêsu mà ngươi đang tìm bắt”.  Từ đó Saolê tin vào Chúa Kitô Phục sinh, trở thành Phaolô, một tông đồ nhiệt thành đi loan Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người.

Những kết quả của việc Chúa Phục sinh được thấy rõ ràng.  Trước hết là sự đột biến nơi các môn đệ. Ngày Chúa chịu chết, các ông là những người nhút nhát, trốn chạy, thậm chí còn phản bội, chối Chúa. Tại sao chỉ trong một thời gian ngắn, các ngài thay đổi một cách mãnh liệt.  Ðang nhút nhát, ẩn trốn bỗng hiên ngang xuất hiện ở chốn công khai.  Ðang phản bội, chối Chúa bỗng hăng hái ra đi làm chứng cho Chúa.  Ðang sợ hãi bỗng trở nên can đảm lạ thường.  Không những vui mừng được chịu đau khổ vì Chúa mà còn sẵn sàng chịu chết vì Chúa.  Chắc chắn các ngài đã được gặp Chúa nên con người các ngài đã biến đổi tận gốc rễ.  Chắc chắn các ngài đã gặp Chúa nên lời chứng của các ngài có sức thuyết phục.

Thật vậy, làm sao những người tín hữu đầu tiên tin vào lời chứng của các tông đồ đến nỗi sẵn sàng bỏ của cải làm của chung, sẵn sàng chịu sống chui rúc, trốn chạy cuộc bách hại của đế quốc La mã, sẵn sàng chịu chết vì đức tin của mình.  Làm sao Giáo hội có thể tồn tại 2,000 năm, qua biết bao nhiêu khó khăn thử thách do những người muốn tiêu diệt đạo gây nên.  Nếu Chúa không Phục sinh, không thể giải thích được những việc đó.

Chúa Phục sinh, đó là nền tảng của đức tin.  Ðó là sự vững chắc của Giáo hội.  Và đó là chính là niềm hi vọng lớn lao của chúng ta.  Chúa phục sinh biến đổi thân phận chúng ta.  Từ thân phận phải chết sẽ được sống lại với Chúa.  Từ thân phận tội lỗi được trở nên trong sạch.  Từ cát bụi phàm trần được trở lại làm con Chúa.  Từ định mệnh mong manh phù du được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trong nhà Cha trên trời.

Lễ Chúa Phục Sinh đem lại cho ta niềm vui lớn lao.  Vì thế mừng lễ Chúa Phục Sinh mời gọi ta biến đổi đời sống nên tươi mới cho xứng đáng với niềm tin, xứng đáng với phẩm giá của con người được Chúa yêu thương cứu chuộc.

Lạy Chúa Kitô Phục Sinh, xin cho con được sống lại thật về phần linh hồn. Amen!

TGM Ngô Quang Kiệt

From: langthangchieutim & Anh chị Thụ Mai gởi

NẺO ĐƯỜNG TÌM CHÚA PHỤC SINH

NẺO ĐƯỜNG TÌM CHÚA PHỤC SINH

Hôm nay Lễ Phục Sinh, bài Tin Mừng của Thánh sử Gioan, chỉ có 9 câu ngắn ngủi, nhưng gói ghém thật cô đọng hành trình đi tìm Chúa Phục Sinh của ba người: Bà Maria Mácđala, ông Phêrô và Gioan, Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến.

Nẻo đường của ông Phêrô

Ông Phêrô sau khi chối Chúa ba lần trước khi gà gáy, đã kịp thời ăn năn khóc lóc thảm thiết, ngay khi gặp cái nhìn đầy yêu thương trìu mến và thương xót của Chúa Giêsu (Lc 22, 61). Ông vẫn theo Chúa xa xa.  Vẫn nhận thức vai trò Đá Tảng mà Chúa Giêsu trao phó.  Vẫn hăng hái và nhiệt thành.  Nên nghe bà Mácđala báo tin ngôi mộ trống, bèn cùng ông Gioan, chạy đến ngay.

Sự mau mắn của ông biểu lộ lòng chân thành và tinh thần trách nhiệm cao độ.  Ông vẫn hăng hái hành động, như từng rút kiếm, tấn công quân dữ đến bắt Chúa Giêsu, nhưng lóng ngóng, chỉ dám chém đứt tai người đầy tớ của thượng tế. Đáng tiếc thay, ông Phêrô đã mất thói quen cầu nguyện, nên thay thế vào đó cách xử dụng hung bạo, làm mất cơ trí đi, và lòng nhiết thành của ông trở thành một thứ hăng say trái mùa (ĐGM Fulton Sheen).

Thậm chí, sau khi đã được Chúa Giêsu hiện ra an ủi, chúc bình an, thổi hơi, ban Đức Chúa Thánh Thần, ông vẫn chưa mấy biến chuyển.  Vẫn vô tư rủ bạn chài đi đánh cá.  Nhọc nhằn thâu đêm chẳng được gì, thì tảng sáng Chúa hiện đến, chỉ các ông thả lưới  bên phải mạn thuyền.  Tức thời trúng thật đậm.  Người Môn Đệ Được Chúa Thương Mến mới nhắc ông: “Chúa đó!” (Ga, 21, 7) Ông Phêrô chỉ biến đổi hoàn toàn, sau ngày lễ Ngũ Tuần, sau khi đã được tràn đầy hồng ân Đức Chúa Thánh Thần.

Hành trình tìm Chúa Phục Sinh thật gian nan với ông Phêrô, tuy ông cũng được thấy Chúa hiện ra, nhưng đúng hơn là Chúa chủ động tìm đến với ông, thay vì ngược lại.  Những tấm khăn liệm, băng vải, khăn che đầu đã che khuất tầm nhìn của ông, những hoạt động hăng say quá bận rộn bên ngoài, đã khuấy động tâm hồn ông, vốn rất ngay lành, đâm ra u mê, tăm tối.

Như thế, nếu tôi cũng chỉ nhiệt thành giữ đạo theo thói quen, chỉ hành động xuông như tập quán, kinh sách đọc rổn rảng, vô hồi kỳ trận, mà thiếu mất tâm tình cầu nguyện sốt sắng, mật thiết, và còn thiếu lòng ăn năn thống hối như Phêrô, thiếu ý chí và cố gắng nên tốt lành hơn.  Bởi vì những thứ trên chỉ là phương tiện giúp nên thánh, mà phải có ý chí sửa đổi thì ân sủng Chúa mới hoạt động, ân sủng Chúa chỉ sinh hoa trái, khi có sự hợp tác của linh hồn mà thôi.  Hơn nữa, tôi còn thiếu cả Thánh Thể, Của Ăn Đi Đàng, lẫn thiếu Lời Chúa dẫn dắt, làm sao tìm và gặp được Chúa Sống Lại trong tôi?

Nẻo đường của ông Gioan

Người Môn Đệ Được Chúa Thương Mến trái lại, trẻ trung, mạnh khỏe, nhanh nhẹn, chạy đến ngôi mộ trống trước ông Phêrô.  Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào (Ga 20, 5).   Ông Gioan được cho là chàng thanh niên đã bỏ chạy khi Chúa Giêsu bị bắt (Mc 14, 51).  Nhưng sau đó, vẫn can đảm theo Chúa vào dinh cựu thượng tế Khanan, rồi còn giúp đỡ ông Phêrô lọt vào bên trong (Ga 18, 16).  Cho đến khi Chúa Giêsu chịu đóng đinh, ông Gioan cũng đứng dưới chân thánh giá cùng với Đức Mẹ Maria, bà Maria vợ ông Cơlopat, và bà Maria Mácđala.

Tuy đến ngôi mộ trước, ông chỉ cúi xuống, nhìn thấy băng vải trong đó, không vào ngay, mà nhẫn nại chờ đợi đại huynh Phêrô đến.  Có nhiều cách giải thích sự chờ đợi này.  Có thể vì kính trọng quyền huynh thế phụ, không dám vô lễ qua mặt ông Phêrô, bậc đàn anh?  Có thể còn nghi ngại sợ hãi, nhát đảm, sợ bóng vía chăng?  Hoặc là sợ đụng chạm vào khăn liệm, băng vải lỗi phạm lề luật chăng?

Nhưng chắc chắn là ông Gioan đã theo cùng ông Phêrô vào mộ. “Thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu.  Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi…  Ông đã thấy và đã tin” (Ga 20, 7- 8).

Khi nhìn thấy băng vải và khăn che đầu xếp lại gọn ghẽ, tươm tất, đâu đó, cách xa nhau, ông Gioan có lẽ liên tưởng ngay đến thói ngăn nắp thứ tự thường nhật của Đức Giêsu, mà trước đây ông vẫn thường chứng kiến và đã quá quen thuộc.  Ông liền nhận ra dấu chỉ kín đáo đó và đã mạnh dạn tin tưởng Chúa Phục Sinh.

Tuy chưa được gặp Chúa sống lại, nhưng lòng trung thành, tâm hồn tỉnh thức, nhạy bén, đã giúp hành trình ông gặp Chúa Phục Sinh đạt kết quả mỹ mãn.  Ông đã gặp được Chúa ngay trong tâm hồn, mặc dù ông cũng chưa hiểu lời Kinh Thánh đã tiên báo mầu nhiệm này.

Ngày nay, Chúa vẫn ban phát rộng rãi những dấu chỉ, để nhận ra, và hiểu được Thánh Ý Chúa.  Nhưng tôi có biết mở mắt, mở tai, mở lòng ra dón nhận hay không?  Hay chỉ biết chạy theo dư luận, chạy theo những thông tin, những điềm báo kỳ dị, quái gở, ma thuật, có thể đe dọa, lấn át, khuynh đảo đức tin của tôi, vốn đang rất mong manh, yếu đuối?

Nẻo đường của bà Maria Mácđala

Bà Maria Mácđala đã được Chúa Giêsu giải thoát khỏi bảy quỷ dữ (Lc 8, 3).  Sau đó bà theo Chúa Giêsu và dùng tiền của giúp Ngài, cũng như các môn đệ đi truyền giáo.  Bà đã âm thầm, can đảm đi theo Chúa suốt cuộc khổ nạn.  Bà cũng hiện diện dưới chân Thánh Giá cùng với Mẹ Maria và bà Maria, vợ ông Cơlopat, cùng ông Gioan, để chia sẻ nỗi đau khổ tận cùng Chúa Giêsu (Ga 19, 25).  Bà Mácđala cũng tham dự mai táng Chúa Giêsu trong huyệt mộ (Lc 24, 55).

Vào ngày thứ nhất trong tuần, khi trời còn tối, bà đã vội chạy ra mộ Đức Giêsu để xức dầu thơm trên thi thể Ngài.  Nhưng phát hiện ngôi mộ trống, tảng đá chắn mộ đã lăn ra.  Bà hốt hoảng, tức tốc về báo tin ngay cho các môn đệ, ông Phêrô và Gioan.

Thoạt tiên, tưởng chừng tảng đá chặn ngôi mộ đã cản trở bà Mácđala tìm thấy Chúa Phục Sinh.  Nhưng không, bà đã kiên trì đi trở lại ngôi mộ trống lần nữa để nhớ nhung, tiếc thương và than thở khóc lóc. Bà đã cầu nguyện theo cách riêng cũa bà, biểu lộ công khai lòng yêu mến Chúa tột cùng.  Thậm chí bà cũng chẳng để ý hai thiên sứ đột nhiên xuất hiện.  Bà quay lại thấy Chúa Phục Sinh, lại tưởng người làm vườn.  Nhưng khi nghe Chúa thân thương gọi: “Maria!” bà liền nhận ra ngay Chúa Giêsu đã sống lại (Ga 20, 16).

Bà Mácđala được Chúa ủy thác loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các Tông đồ, để các ông đi rao truyền khắp thế gian “Hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là của Cha của anh em. Lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20, 17).

Bà Mácđala đắm mình vào cầu nguyện, tâm tình với Chúa Giêsu, không còn bận tâm đến môi trường chung quanh, không chia lòng chia trí, dù các thiên thần tận tình hỏi han.  Chính nhờ sự chuyên tâm và khát khao Chúa tột độ, bà là người đầu tiên so với các tông đồ, được diễm phúc thấy Chúa Giêsu Phục Sinh vinh hiển. Nẻo đường tìm Chúa Phục Sinh của bà Macđala rất thực tiễn, viên mãn và hiệu quả nhất, so với hai nẻo đường vòng vo kia.

Người hy vọng là người cầu nguyện.  Đối tượng của lời cầu nguyện cũng là đối tượng của niềm hy vọng.  Người hy vọng là cộng tác viên của Thiên Chúa.  Ngài tìm họ đề hoàn tất việc tạo dựng và cứu chuộc của Ngài (Đường Hy Vọng, 964).

Lạy Chúa, xin dạy con biết tìm kiếm Chúa mọi nơi, mọi lúc, qua những lời cầu nguyện chân thành, để con được sống lại với Ngài.  Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã đồng hành cùng Chúa Giêsu trong mầu nhiệm khổ nạn, xin Mẹ dẫn dắt, chỉ bảo và cầu bầu cho con, cảm nhận được Chúa Sống Lại trong tâm hồn, để con được cứu rỗi, đồng thời trở nên Chứng Nhân, phục vụ mọi người. Amen.

AM Trần Bình An

langthangchieutim & Anh chị Thụ Mai gởi

 

 

Nếu Việt Nam Cộng Hòa chiến thắng?

Nếu Việt Nam Cộng Hòa chiến thắng?

LS Nguyễn Văn Đài

Gửi tới BBC từ Hà Nội

Thứ hai, 29 tháng 4, 2013

Người vui, người buồn trong dịp 30/4

Mỗi dịp 30-4 hàng năm, tôi lại nhận được câu hỏi của những người đồng bào Việt Nam ở hải ngoại là “anh nghĩ và có cảm xúc gì khi sắp tới ngày 30-4?”. Tôi lại có dịp kể cho họ nghe về suy nghĩ và cảm xúc của mình.

Từ nhỏ cho đến năm mười chín tuổi, mỗi dịp 30-4 tôi thực sự vui mừng và tự hào bởi đó là ngày chiến thắng và thống nhất của đất nước. Việt Nam đã chiến thắng cường quốc số một thế giới về quân sự và kinh tế.

Cuối năm 1989, tôi có cơ hội được sang CHDC Đức (cũ) và được chứng kiến người dân Đông Đức lật đổ chế độ cộng sản để thống nhất với chế độ tư bản, dân chủ ở Tây Đức. Tôi lại có dịp may mắn được sang Tây Berlin để xem cuộc sống sung túc và tự do của chế độ tư bản, dân chủ. Và tôi hiểu tại sao người dân Đông Đức đã không cam chịu sống dưới sự cai trị độc đoán, phi lý, lạc hậu của chế độ cộng sản.

Cùng thời điểm đó, tất cả người dân các nước Đông Âu đã vùng lên đập tan sự cai trị của các chế độ cộng sản. Và họ đã xây dựng lại từ đầu chế độ tư bản, dân chủ. Cho đến nay, tất cả các nước Đông Âu, người dân đều có cuộc sống sung túc và hạnh phúc trong một chế độ chính trị tự do và dân chủ mà không có sự cai trị của chế độ cộng sản.

Hoài nghi, nuối tiếc

Cuối năm 1990, tôi trở lại Việt Nam, kể từ đó cứ mỗi dịp 30-4, tôi không còn cảm xúc vui mừng, mà thay vào đó là sự hoài nghi và nuối tiếc.

“Nếu ngày 30-4-1975, bên chiến thắng là Việt Nam Cộng Hòa thì giờ đây trong khu vực châu Á, Việt Nam có thể chỉ thua duy nhất Nhật Bản về kinh tế, còn chắc chắn sẽ ngang bằng hoặc hơn Hàn Quốc về cả kinh tế và quân sự.”

Năm 2001 và 2003, tôi có dịp được sang thăm Hàn Quốc và thấy đó là một quốc gia hùng mạnh về kinh tế và quân sự. Ở đó không bao giờ có sự hiện diện và tồn tại của đảng cộng sản. Trong khi đó, Bắc Triều Tiên dưới sự cai trị độc đoán và tàn bạo của chế độ cộng sản. Mỗi năm có cả trăm ngàn người chết đói mặc dù họ đã nhận được sự giúp đỡ to lớn từ Hàn Quốc và cộng đồng quốc tế. Tôi cảm thấy buồn và nối tiếc cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa.

Nhìn lại Việt Nam chúng ta, sau ngày 30-4-1975, trong chế độ quan liêu bao cấp, ngăn sông cấm chợ, nhân dân phải chịu đói khổ, lầm than. Khi tiến hành công cuộc đổi mới, kinh tế có phát triển, đời sống người dân khấm khá hơn, đủ ăn, đủ mặc, có được phương tiện sinh hoạt và đi lại hiện đại. Nhưng tham nhũng đã trở thành quốc nạn, thành giặc nội xâm của dân tộc. Sự suy thoái đạo đức và lối sống diễn ra một cách toàn diện, trên mọi phương diện của đời sống xã hội từ giáo dục, y tế, ngành tư pháp, cơ quan hành chính,… và trên mọi cấp độ từ trung ương đến địa phương.

Nhiều người trong chúng ta đã từng chứng kiến cảnh doanh nghiệp, quan chức chính quyền, các lực lượng vũ trang và xã hội đen hợp sức với nhau để cưỡng chế người nông dân lấy đi tư liệu sản xuất quan trọng nhất của họ là ruộng đất. Biết bao người dân vô tội khi bước vào đồn công an thì khỏe mạnh, nhưng chỉ ít giờ sau, họ chỉ còn là một cái xác không hồn. Và còn biết bao nhiêu những người dũng cảm đứng lên đấu tranh đòi quyền tự do, dân chủ đã bị sách nhiễu, đánh đập, và bị cầm tù. Thật sự đau lòng và xót xa.

Giờ đây, mọi người lại hỏi tôi “anh nghĩ và có cảm xúc như thế nào về ngày 30-4?”

Tôi trả lời: Một chế độ dân chủ và văn minh đã thua một chế độ độc đảng toàn trị và lạc hậu. Cái ác đã chiến thắng. Còn cảm xúc thì buồn và nuối tiếc cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa, bởi tôi và rất nhiều người đều cho rằng nếu ngày 30-4-1975, bên chiến thắng là Việt Nam Cộng Hòa thì giờ đây trong khu vực châu Á, Việt Nam có thể chỉ thua duy nhất Nhật Bản về kinh tế, còn chắc chắn sẽ ngang bằng hoặc hơn Hàn Quốc về cả kinh tế và quân sự.

Tản mạn về sách

Tản mạn về sách

Chuacuuthe.com

VRNs ( 21.04.2014) – Sài Gòn-  Sáng nay (20/04/2014) cầm cuốn báo Tuổi Trẻ Cuối Tuần trên tay, ngay trang bìa có mô hình biễu diễn về thống kê đọc sách, mô hình hình chóp nón, đỉnh là Việt nam với tỷ lệ đọc sách bình quân 1 người đọc 0,8 cuốn /1 năm, kế đến là Malaysia > 10, Mỹ 12 và cuối cùng là Pháp 15 cuốn/năm. Số liệu này được chú thích là theo số liệu của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (trang 3).Nếu đây là tỷ lệ chính xác thì thật đáng buồn, đáng xấu hổ và đáng lo ngại, mà có lẽ chính xác thật.

Tôi thường di chuyển đó đây nên có dịp quan sát, khách nước ngoài (người phương Tây, và cả người Hàn, người Nhật) trong những lúc di chuyển, trên máy bay, xe hỏa hay tàu thuyền, khi ngồi đợi ở các nhà ga, hoặc khi trong các quán cà phê, nói chung những chỗ nào tương đối ổn định đếu thấy họ đọc sách, người lớn tuổi cũng như thanh niên, ngược lại, người Việt và người Tàu thì không, thường thì người Việt tụ tập nói chuyện ồn ào, ăn vặt hoặc … ngủ ! Rất hiếm thấy người Việt đọc sách ở những nơi công cộng như vừa kể.

Tôi sinh sống ở thành phố Saigon này gần 60 năm (ngoại trừ một vài năm xa thành phố) nên có dịp theo dõi và chứng kiến những biến cố lịch sử của đất nước cũng như thành phố.

Trước năm 75, hệ thống thư viện hầu như có mặt ở tất cả các trường học, kể cả trường tiểu học (cấp 1 bây giờ), năm tiểu học tôi học trường tiểu học Trần Quý Cáp cạnh hồ Con Rùa, ngay ngã tư Trần Quý Cáp (Võ Văn Tần bây giờ) và Pasteur, dọc đường Pasteur gần trường Đại học Kiến Trúc có một thư viện nhỏ rất êm đềm và thinh lặng, tuổi thơ của tôi đã say mê hằng giờ trong đó khi đi học sớm hoặc chờ cha đến đón. Gần xóm nhà tôi có mấy hiệu cho thuê sách, đủ mọi loại sách, giá thế chân rất rẻ và giá thuê sách cũng rất rẻ, những cuốn sách bìa được đóng lại bằng giấy bao xi măng, tên cuốn sách được nắn nót bằng bút lông to bản, ngoài bìa giấy xi măng là một bao nilon để bảo vệ cuốn  sách, bìa trong ghi chi chít ngày và giờ các khách  hàng đã thuê sách đọc. Đủ mọi loại sách, thượng vàng hạ cám, nhưng chủ hiệu cho thuê sách thường nhìn mặt mà cho thuê, trẻ con đừng mong thuê được những cuốn sách tiểu thuyết kiểu bà Tùng Long hay Nghiêm Lệ Quân.

Tôi thường có mặt ở nhà sách Khai Trí vì được đọc sách miễn phí, chỉ một điều phiền là phải đứng mỏi chân, Nhà sách Đức Mẹ ở Kỳ Đồng thì thật tuyệt, tuyệt vì không khí mát rượi lại được xem các sách báo Công giáo. Mỗi chiểu thứ bảy, sau khi dự chầu ở Đền tôi đều vào lân la trong nhà sách, để nghe nhạc, để đọc sách, để ngắm tranh ảnh, để mua báo Đức Mẹ và báo Tuổi Hoa. Đôi khi cũng tạt vào nhà sách Đa Minh, nhà sách Hiện Tại là những nhà sách báo đạo ở thành phố này.

Tôi có một người bạn, chị ấy là một nghệ sĩ Violon, ngôi nhà nhỏ chị ở cùng với bà mẹ trong con hẻm nhỏ đường Yên Đổ (Lý Chính Thắng bây giờ), ngôi nhà có những cái cửa sổ lật màu đỏ gụ, bên trong ngôi nhà ấy là một tủ sách lớn, phần lớn là sách ngoại quốc, sách dịch và sách của nhóm Tự lực Văn đoàn. Những cuốn sách được chị nâng niu bao bọc bằng một loại giấy bóng kiếng mờ mờ đục đục, mong manh, khiến người cầm đọc phải thật thận trọng, nhẹ nhàng, yêu quý. Ngày ấy tôi đọc được trong tủ sách của chị cuốn Hoa Vông Vang của Đỗ Tốn, lâu nay tôi cố ý tìm nhưng chưa thấy in lại. Bây giờ nghe nói ở Hoa Ký, chị không thường xuyên đàn nữa nhưng lại cầm bút.

Ngày xưa tôi được xếp vào loại học giỏi, tháng nào cũng có Bảng Danh Dự, năm nào cũng được phần thưởng cuối năm, phần thưởng của học sinh lúc bấy giờ là sách, đặc biệt nhất là các cuốn tự điển, bọn nhà nghèo chúng tôi mà học khá thì chẳng thua kém chúng bạn về phương diện sách, mặc dầu không có tiền để mua. Có năm tôi đươc học một cô giáo rất đẹp, bọn con trai chúng tôi học mà cứ trầm trồ ngắm và khen cô đẹp, theo sự nhận xét non trẻ của chúng tôi lúc bấy giờ thì hình như nhiều thầy giáo trẻ cũng theo đuổi cô nữa. Mỗi tháng cô đều có phần thưởng cho học sinh nhất lớp về môn Anh văn của cô, phần thưởng chỉ là 1 cuốn sách bằng tiếng Anh, nhưng rất vinh dự vì có chữ đề tặng của cô, trong tháng đó, người học sinh có phần thưởng sẽ phải đứng lên giữa lớp nói về nội dung cuốn sách đã được cô tặng. Sau năm 75, nghe nói cô đã gởi xác cùng với cả gia đình giữa lòng đại dương có tên là Thái Bình.

Chúng tôi có kinh nghiệm về việc đọc sách rất sống động, là những kỷ niệm không thể xóa nhòa trong tâm trí tôi. Mỗi ngày sau bữa cơm chiều, việc dọn dẹp được thực hiện thật nhanh chóng, cả nhà tập họp ở phòng chung theo lệnh của bố tôi, mỗi ngày cả nhà được nghe một đoạn trong các cuốn tiểu thuyết của nhóm Tự lực Văn đoàn, khi đọc xong đoạn bố tôi chỉ định, kế đến là phần nhận xét và phê bình, hoặc bố tôi phân tích nhận định, hoặc ông đặt câu hỏi và bắt con cái trả lời, nhờ thế chúng tôi biết rất nhiều về nhóm Tự lực Văn đoàn, khi vào lớp học, chúng tôi luôn dành đươc điểm cao môn thuyết trình lớp Đệ Ngũ. Ngày ấy tôi để ý thấy bố “nịnh” mẹ rất rõ, ông cho đọc đi đọc lại cuốn “Tôi là mẹ” của Lê Văn Trương, một cuốn tiểu thuyết đề cao tâm hồn hy sinh quảng đại của người mẹ. Một điểm khác, có lẽ do nhà tôi có nhiều anh trai lớn, hình như ông có ý chuẩn bị tâm lý cho cả nhà, nhất là mẹ tôi nên cũng hay cho đọc đi đọc lại cuốn “Nửa chừng xuân”, “Gánh hàng hoa”,”Anh phải sống” và “Đoạn tuyêt”.

Biến cố 1975 ập đến cho miền nam, cùng với tài sản trong nhà theo nhau ra ngõ, sách cũng xếp hàng lần lượt ra đi, một chợ sách cũ thật lớn ở ngay khu Sinco, đường Calmet, gần đường Trần Hưng Đạo, đây là địa chỉ tôi hay dừng lại sau những cuốc đạp chiếc xich lô mệt mỏi để mưu sinh, ở đó muôn vàn sách các loại được tuồn ra, sách quý rất nhiều, rất nhiều cặp mặt nâng niu tần ngần tiếc rẻ, ở đó chúng tôi gặp sách, ở đó chúng tôi cũng gặp nhau, những trí thức miền nam thất chí, nhìn nhau bằng con mắt thương cảm, rã rời, tất cả cùng đói nên chẳng biết nói với nhau câu gì, chia sẻ với nhau cái gì nữa.

Xã hội thay đổi quá nhanh chóng, nhất là thay đổi hoàn toàn sau biến cố 1975,  không gian nhà trường thay đổi, bầu khí gia đình cũng thay đổi, kết quả cho đến hôm nay, tỷ lệ đọc sách của người Việt rơi tự do một cách thảm hại, không đọc sách đồng nghĩa với ngu dốt, dân tộc chúng ta sẽ đi về đâu, đất nước chúng ta sẽ đi về đâu, khi dân số tăng mà tri thức không tăng, thậm chí lùi ? Sẽ là một mớ người hỗn độn kém cỏi quay ra cấu xé lẫn nhau, phá hết của cải cha ông để lại, bán hết tài sản của gia đình rồi đem thân làm nô lệ ?

Đã có những cố gắng để người dân tiếp cận được sách nhiều hơn, đã có những cá nhân, những tổ chức dân sự cố gắng đem sách về nông thôn. Về phía Giáo Hội, một vài nhóm có tổ chức gởi các tủ sách nhà đạo về các vùng sâu vùng xa, trong những chuyến về các vùng ấy, tôi đã thấy một vài nơi tổ chức tủ sách cho thiếu niên nhi đồng, một trong những hoạt động công khai là tủ sách Giêrado của Nhà sách Đức Mẹ ở Kỳ Đồng, hàng trăm tủ sách đã được gởi đi từ chương trình này, nhưng hình như chưa đủ để kích cái tỷ lệ nhục nhã kia lên đến con số tròn 1/năm. Cần phải có một sự thay đổi vĩ mô của xã hội. Bao giờ ?

Đình Trung

20/4/2014

 

Dân chủ, bắt đầu từ mỗi cá nhân

Dân chủ, bắt đầu từ mỗi cá nhân
Friday, April 18, 2014 5

Song Chi/Người Việt

Trong những tính xấu khác nhau của người Việt mà dạo gần đây cũng thường bị dư luận mổ xẻ, có một tính xấu hay nhược điểm có thể gây cản trở nhiều cho công cuộc đấu tranh đòi lại tự do, dân chủ cho đất nước và dân tộc. Ðó là sự thiếu khoan dung, độ lượng, thói đố kỵ, hoặc là một dạng thiếu dân chủ trong tư duy, quan điểm của chính chúng ta.

Nói chế độ này, nhà nước này thiếu khoan dung, độ lượng thì đã rõ. Nếu biết nhìn xa, nghĩ rộng, có lẽ đảng và nhà nước cộng sản đã không hành xử như vậy từ sau khi thống nhất được đất nước cho đến tận bây giờ.

Vợ chồng Tiến Sĩ Cù Huy Hà Vũ khi đến thăm văn phòng hãng luật WilmerHale ngày 16 tháng 4, 2014, sau khi đến Hoa Kỳ. (Hình: BPSOS)

Khi là “phe thắng cuộc,” họ đã thi hành hàng loạt chính sách sai lầm, trái nhân tâm như bỏ tù hàng trăm ngàn, hàng triệu dân quân cán chính của chế độ Việt Nam Cộng Hòa dưới danh nghĩa đi “học tập cải tạo,” trong đó có nhiều người bị tù hàng chục năm, có những người phải vĩnh viễn gửi xác lại trại cải tạo.

Cướp nhà, đày ải hàng triệu gia đình người dân tại các thành phố lớn miền Nam phải đi kinh tế mới, tiến hành cải tạo tư sản, cải tạo công thương nghiệp…khiến kinh tế miền Nam sụp đổ nhanh chóng, cả nước trở thành đói nghèo như nhau. Rồi những chính sách tiêu diệt văn hóa, phân biệt về lý lịch, nạn đấu tố, phê bình…khiến hàng triệu người, chủ yếu từ miền Nam phải liều mình bỏ nước ra đi để tìm tự do.

Suốt gần bốn thập niên, sự thiếu khoan dung độ lượng đó vẫn tiếp tục thể hiện trong mọi chính sách đường lối của nhà cầm quyền, từ những dịp lễ lạc ăn mừng các ngày lễ cách mạng, ăn mừng chiến thắng được tổ chức tưng bừng hàng năm. Từ những bài học trong sách giáo khoa cho tới ngôn ngữ trên báo chí, truyền thông và trên cửa miệng quan chức cán bộ các cấp khi viết, nói về cuộc chiến và “phe thua cuộc.”

Một nghĩa trang quân đội Việt Nam Cộng Hòa ở Biên Hòa bị bỏ hoang phế bao nhiêu năm, gần đây mới cho phép thân nhân người đã chết được vào chăm sóc sửa sang đôi chút các mộ phần, cho đến những gia đình có con em tử trận vì cầm súng cho chế độ miền Nam, những thương phế binh lặng lẽ sống trong nghèo khó, hờn tủi.

Và mãi đến gần đây dưới sức ép của người dân, nhà cầm quyền mới bắt đầu cho phép nhắc đến trận hải chiến Hoàng Sa nhưng vẫn chưa thật sự công nhận những người lính Việt Nam Cộng Hòa ngã xuống trong trận hải chiến này là liệt sĩ v.v…

Sự hẹp hòi đó còn thể hiện rất rõ trong những chính sách đối với tù nhân chính trị. Từ tù chính trị có liên quan đến Việt Nam Cộng Hòa trước đây cho đến các thế hệ tù chính trị, người bất đồng chính kiến, dân oan, nạn nhân của các vụ đàn áp tôn giáo…được gọi chung là tù nhân lương tâm sau này, luôn luôn bị đối xử tàn tệ hơn tù hình sự gấp nhiều lần và hiếm khi nào được đặc xá, thả trước thời hạn.

Chỉ lâu lâu, trước sức ép của dư luận trong và ngoài nước, hoặc vì lý do muốn đổi chác về kinh tế hay quyền lợi gì đó với Hoa Kỳ và phương Tây, nhà cầm quyền mới thả nhỏ giọt vài người. Như gần đây nhất với các tù nhân chính trị Nguyễn Hữu Cầu, Ðinh Ðăng Ðịnh, Cù Huy Hà Vũ, Vi Ðức Hồi, Nguyễn Tiến Trung.

Sự chậm chạp trong việc cải thiện nhân quyền, thay đổi quan điểm trong nhiều vấn đề là một bằng chứng nữa về sự thiếu khoan dung của nhà cầm quyền. Chưa kể việc làm lơ không sửa sai, thậm chí một lời xin lỗi cũng không có cho dù đã hàng chục năm, đối với những nạn nhân trong các vụ án cải cách ruộng đất, nhân văn Giai phẩm, thảm sát Tết Mậu Thân 1968 v.v…

Nhà cầm quyền thiển cận như vậy nhưng còn người dân thì sao?

Ðiều đáng buồn là sau bao nhiêu năm sống trong một chế độ tồi tệ, kém văn minh, chúng ta cũng bị ảnh hưởng nhiều mà không tự ý thức được. Sự hoài nghi, thiếu lòng tin vào những điều tử tế, cái thiện, cái đẹp. Sự đố kỵ, thấy ai hơn mình là không chịu được. Sự thiếu khoan dung trong quan điểm, cách nhìn. Tóm lại là chưa được dân chủ.

Trong ngày thường, tại cơ quan, đi đến nơi này chỗ kia chúng ta đều có thể chứng kiến vô số những ví dụ về điều đó.

Ngay trong những người đang đấu tranh chống lại cái chế độ không có tự do dân chủ, chà đạp nhân quyền này, cũng vẫn có những biểu hiện của sự thiếu dân chủ trong suy nghĩ và hành động.

Từ trong các cộng đồng chống cộng của người Việt ở nước ngoài lâu nay với rất nhiều phe nhóm, đảng phái, nghi kỵ nhau, sẵn sàng chửi bới, chụp mũ nhau là “thân cộng” nhưng rất khó ngồi lại với nhau, tạo thành một thế lực vững mạnh, yểm trợ đồng bào trong nước.

Ðối với những người đã từng thuộc về “phe thắng cuộc,” từng là cán bộ đảng viên hay sinh ra và lớn lên ở miền Bắc XHCN nhưng nhận thức được vấn đề và lên tiếng chống lại chế độ, như nhà văn Vũ Thư Hiên, nhà báo Bùi Tín, nhà văn Dương Thu Hương…cũng bị người thuộc “phe thua cuộc” nghi kỵ suốt. Còn đối với những người từ trong nước đi ra theo diện tỵ nạn chính trị thời gian gần đây, cũng không phải dễ mà tiếp tục sống và tranh đấu trong lòng cộng đồng.

Gần đây khi Tiến Sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ cùng vợ quyết định sang Mỹ ngay sau khi được nhà cầm quyền phóng thích khỏi nhà tù, nhiều người cũng đã chỉ trích, lên án, hoặc nhẹ hơn, tỏ ra thất vọng trước quyết định của ông Vũ. Và cho rằng rồi ông Vũ cũng sẽ chìm lỉm, tắt lặng khi sống ở nước ngoài, con đường đấu tranh chính trị coi như chấm dứt.

Những sự phê phán, chỉ trích, thậm chí quy kết ông Vũ đấu tranh cuối cùng chỉ để tìm đường sống ở nước ngoài cho sung sướng hơn, chứng tỏ một số người trong chúng ta không dân chủ trước quyết định của người khác.

Không ai có quyền bắt người khác phải là anh hùng, phải hy sinh cả đời. Cuộc đấu tranh giành lại tự do dân chủ, quyền làm người cho dân tộc Việt Nam là một con đường rất dài, trên hành trình đó có người có thể chỉ đi được một quãng đường, có người dừng lại, có người thay thế, bước tiếp, cũng là điều bình thường.

Hay chuyện những người cứ cho là thuộc phe tiến bộ ở cả trong và ngoài nước, nhưng đôi khi vẫn hành xử chẳng khác nào bọn công an, an ninh, bồi bút, dư luận viên và nhà cầm quyền nói chung.

Nhà cầm quyền dùng đủ mọi chiêu trò để phân tán lực lượng, gây chia rẽ, hạ thấp những người lên tiếng bằng cách chụp mũ họ là dân chủ cuội, nhận tiền của bên ngoài để chống phá hoặc ỡm ờ tung tin một số là người của an ninh cài vào; bôi nhọ, vu khống đời tư họ một cách hèn hạ bỉ ổi…Thì có những lúc chúng ta cũng lại chụp cho nhau những cái mũ là tay sai của an ninh, hay đảng viên của đảng này đảng kia, hoặc chỉ trích, bới móc đời tư của nhau.

Tự do dân chủ trước hết phải bắt đầu từ trong những suy nghĩ, nếp sống, quan điểm hàng ngày, trước mọi vấn đề của xã hội, từ những vấn đề tưởng như chả liên quan gì đến đấu tranh đòi tự do dân chủ, như quyền được ăn mặc, suy nghĩ, sống, yêu và chết khác người, miễn không phạm pháp và không hại tới ai.

Phải thấy rằng những suy nghĩ, hành xử dân chủ, rộng lượng, nhân bản đó không thể ngày một ngày hai mà có, đối với cả một cộng đồng, một dân tộc.

Trong các xã hội tự do, dân chủ và phát triển, người ta sống và thở với cái môi trường đó suốt cả cuộc đời nên trở thành tự giác. Người ta tôn trọng sự khác biệt, sự tự do của người khác, với một tinh thần hết sức dân chủ, hành xử văn mình, suy nghĩ nhân bản.

Còn người Việt Nam chúng ta, thiệt thòi vì chưa kịp là một nước dân chủ, văn minh ngày nào thì đã phải chịu cái nạn của một chế độ tệ hại do Ðảng Cộng Sản cầm quyền suốt bao nhiêu năm, nên không thể không ảnh hưởng. Ðó là chưa nói đến việc chỉ có người Việt sống với nhau trong một đất nước chưa chắc đã tốt như một quốc gia có người nhập cư đến từ nhiều nước, khác nhau về ngôn ngữ, tôn giáo, văn hóa, phong tục tập quán…Như vậy con người dễ chấp nhận những sự khác biệt hơn, dễ rộng lòng hơn.

Dù sao, nếu không bắt đầu từ việc xây dựng một ý thức, quan điểm, tư tưởng, cách nhìn cách nghĩ cách sống dân chủ trong mỗi cá nhân, thì khoan hãy tính đến việc xây dựng một quốc gia dân chủ sau này, khi cộng sản sụp đổ.

 

Rao truyền ơn Phục Sinh

Rao truyền ơn Phục Sinh

ĐGM Ngô Quang Kiệt

Thanhlinh.net

RAO TRUYỀN ƠN PHỤC SINH

Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Sau, ngày Chúa chịu chết, các môn đệ rơi vào một tình trạng thê thảm: buồn rầu, sợ hãi, chán nản, thất vọng.

Còn đâu niềm vui khi được ở bên người Thầy yêu dấu. Còn đâu an ủi khi thấy những người đói khát được ăn no, người bệnh tật được chữa lành, kẻ tội lỗi được tha thứ, người chết được sống lại. Còn đâu niềm hy vọng tràn trề khi chứng kiến ma quỷ bị xua đuổi.

Tất cả đã chìm vào quá khứ. Giờ đây sự ác đã chiến thắng, sự dữ đã thống trị. Cả một bầu trời tang tóc phủ trùm trên những người tin Chúa. Tâm hồn các ngài như đã chết. Niềm tin yêu hy vọng của các ngài như cùng bị chôn táng trong mộ với người Thầy yêu quý.

Giữa lúc ấy, Chúa sống lại khải hoàn. Chúa Giêsu Phục Sinh đã khiến cuộc đời các ngài thay đổi tận gốc rễ. Khi tảng đá lấp cửa mộ tung ra cũng là lúc tâm hồn các ngài thoát khỏi màn đêm vây phủ. Khi gặp được Chúa Phục Sinh, tâm hồn các ngài bừng lên sức sống mới. Máu chảy rần rần. Tim đập rộn ràng. Mắt sáng. Miệng tươi.

Các ngài như người đã chết nay sống lại. Chúa Giêsu đã Phục Sinh tâm hồn các ngài. Sự sống mới của Chúa đã tràn vào các ngài. Ơn Phục Sinh đã được ban cho các ngài. Sự sợ hãi đã trở thành mạnh dạn. Sự yếu đuối đã trở nên mạnh mẽ. Sự thất vọng đã biến thành hy vọng. Nỗi sầu khổ đã biến thành niềm vui.

Cảm nghiệm ơn Phục Sinh rồi, các môn đệ không còn có thể ngồi yên trong căn phòng đóng kín cửa nữa. Các ngài mở tung cửa, hăng hái ra đi đem Tin Mừng Phục Sinh chia sẻ cho mọi người. Các ngài muốn vực dậy những mảnh đời đang chết dần mòn. Các ngài muốn phục hồi những tâm hồn đang héo úa. Các ngài muốn thế giới biến đổi trong một đời sống mới, tươi vui, hạnh phúc, dồi dào hơn.

Hôm nay Chúa muốn cho tất cả mọi người chúng ta, noi gương các Thánh Tông đồ, tiếp nối công việc của Chúa, đem ơn Phục Sinh đến với mọi người.

Có những người đang chết dần mòn vì không đủ cơm ăn áo mặc. Có những cuộc đời tàn lụi đi vì bệnh hoạn tật nguyền. Có những tấm thân gầy mòn vì lao lực vất vả. Có những cuộc đời trẻ thơ bị giam kín trong tăm tối thất học, nghèo nàn. Tất cả đang đợi chờ được Phục Sinh.

Có những tâm hồn đang ủ rũ vì buồn phiền. Có những mạch máu như ngừng chảy vì đau khổ. Có những trái tim đang tan nát vì bị phản bội. Có những cuộc đời cay đắng vì thất bại. Có những tương lai bị chôn kín trong những nấm mồ đen tối không lối thoát. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.

Nhất là có những tâm hồn đang lún sâu trong vũng lầy tội lỗi. Có những linh hồn đang tự huỷ hoại trong đam mê tiền bạc, quyền lợi, danh vọng. Có những niềm tin héo úa vì lạc hướng. Có những đời sống đang rỉ máu vì chia rẽ bất hoà. Có những cuộc đời đang chao đảo vì gặp khó khăn thử thách. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.

Đem Tin Mừng Phục Sinh đó là giúp cuộc đời anh em thoát khỏi những bế tắc, giúp cho linh hồn anh em được sống cao thượng và khôi phục niềm tin yêu của anh em vào Thiên Chúa, vào con người và vào cuộc đời.

Tuy nhiên, để có thể đem Tin Mừng Phục Sinh đến với mọi người, bản thân ta cần được Phục Sinh trước.

Trong chính bản thân ta cũng đang chất chứa những mầm mống chết chóc đó là những tội lỗi, đam mê, dục vọng. Trong chính bản thân ta cũng đang ấp ủ những lực lượng tàn phá đó là thói kiêu căng, ích kỷ, chia rẽ, bất hoà, tham lam, bất công. Trong chính bản thân ta đức tin đang héo úa, lòng mến đang nguội lạnh, niềm hy vọng đang lụi tàn.

Để đón nhận được ơn Phục Sinh và để ơn Phục Sinh có thể thấm vào mọi ngõ ngách trong tâm hồn, ta phải cộng tác với Chúa, tẩy trừ mọi lực lượng sự chết ra khỏi tâm hồn ta. Cuộc chiến đấu sẽ khốc liệt vì ta phải chiến đấu với chính bản thân mình. Nhưng với ơn Chúa Phục Sinh trợ giúp, chắc chắn ta sẽ toàn thắng.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1.    Bạn có nhận thấy những lực lượng sự chết đang ở trong lòng người bạn không? Bạn có muốn loại trừ chúng không?

2.    Bạn có thấy ơn Phục Sinh là cần thiết không?

3.    Bạn có sẵn sàng đem ơn Phục Sinh cho mọi người không?

4.    Tuần này, bạn sẽ sống mầu nhiệm Chúa Phục Sinh thế nào?

Ranh giới Tử – Sinh

Ranh giới Tử – Sinh

TRẦM THIÊN THU

Chuacuuthe.com

14042000

VRNs (20.04.2014) – Sài Gòn – Cái gì cũng có ranh giới, biên độ, biên giới. Nhưng có một loại ranh giới “độc đáo” nhất, vừa đáng quan ngại vừa đáng quan tâm, đó là Ranh Giới TỬ – SINH, ranh giới giữa Sự Chết và Sự Sống. Rất mong manh, chỉ là một làn hơi thở!

Chẳng ai muốn nói tới sự chết, người ta coi đó là chuyện xui xẻo. Các môn đệ đã buồn, thậm chí Phêrô còn ngăn cản Thầy Giêsu, khi nghe Ngài nói về việc đi chịu chết. Không chỉ một lần mà đã vài lần Đức Giêsu Kitô tỏ cho các môn đệ biết rằng Ngài phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, họ lại nộp Ngài cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá rồi bị giết chết, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại (Mt 16:21; Mt 17:23; Mt 20:19).

Các thượng tế và những người Pha-ri-sêu kéo nhau đến ông Phi-la-tô, họ gọi Đức Giêsu là “tên bịp bợm”, họ xin ông Phi-la-tô cho lính canh mộ kỹ càng cho đến ngày thứ ba vì họ sợ có người đến lấy trộm xác rồi phao tin Ngài sống lại. Và họ đã niêm phong tảng đá và cắt lính canh mồ (Mt 24:62-66). Thế nhưng cũng chỉ là dã tràng xe cát, hoàn toàn vô ích mà thôi!

Mấy tên lính canh đã bật ngửa khi Đức Giêsu sống lại, ấy thế mà họ vẫn cứng lòng. Họ sợ sự việc này đến tai quan tổng trấn nên đã chạy chọt và dàn xếp với quan để mấy tên lính canh được vô sự. Chính mấy tên lính canh đã nhận tiền hối lộ và làm theo lời họ là phao tin đồn nhảm, cho rằng thi hài Đức Kitô bị đánh cắp, và câu chuyện này vẫn được phổ biến giữa người Do-thái cho đến ngày nay (Mt 28:14-15). Thật là kinh khủng quá!

Nhưng sự thật vẫn mãi là sự thật. Chúa Giêsu sống lại hay chết vĩnh viễn thì thế giới đã biết rõ. Không cần tranh cãi với những kẻ vô thần cứng lòng tin, lòng chai dạ đá, xơ cứng hơn gan bị ung thư. Thánh Phaolô đã lý giải: “Nếu Đức Kitô không sống lại, niềm tin của chúng ta chỉ vô ích, vì đó là niềm tin hoang đường, hão huyền, vô căn cứ, và chúng ta vẫn sống trong tội lỗi” (1 Cr 15:17). Thật hạnh phúc khi đức tin của chúng ta không mơ hồ, không hão huyền, không uổng phí, vì Đức Chúa “không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống” (Lc 20:38).

Trình thuật St 22:1-18 nói đến “ranh giới tử – sinh”, đó là việc ông Áp-ra-ham vâng lời Chúa mà hiến tế con mình làm lễ toàn thiêu trên một ngọn núi theo lệnh Ngài truyền. Không chần chừ, không so đo, không tính toán, ông dậy sớm, thắng lừa, đem theo hai đầy tớ và con trai I-xa-ác, ông bổ củi dùng để đốt lễ toàn thiêu, rồi lên đường đi tới nơi Thiên Chúa bảo. Sang ngày thứ ba, ông Áp-ra-ham ngước mắt lên, thấy nơi đó ở đàng xa, ông bảo đầy tớ ở lại với con lừa, rồi đưa con trai đi, ông bảo rồi sẽ trở lại với họ.

I-xa-ác không thấy chiên để làm lễ toàn thiêu nên hỏi cha, ông Áp-ra-ham bảo chiên làm lễ toàn thiêu sẽ được chính Thiên Chúa lo liệu. Hai cha con cùng đi tới nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Áp-ra-ham dựng bàn thờ tại đó, xếp củi lên, rồi trói I-xa-ác con ông lại và đặt lên đống củi trên bàn thờ. Có điều lạ là I-xa-ác cũng ngoan ngoãn theo lệnh mà không hề phản đối, niềm tin của người con cũng lớn không kém niềm tin của người cha.

Khi ông Áp-ra-ham đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình thì sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông: “Áp-ra-ham! Áp-ra-ham!”. Ông thưa: “Dạ, con đây!”. Sứ thần nói: “Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!”. Ông Áp-ra-ham ngước mắt lên nhìn thì thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Ông bắt con cừu ấy mà dâng làm lễ toàn thiêu thay cho con mình. Đúng là Thiên Chúa sẽ lo liệu như ông đã nói, và ông đặt tên cho nơi đó là “Đức Chúa sẽ liệu”. Từ đó có câu: “Trên núi Đức Chúa sẽ liệu”.

Sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông Áp-ra-ham một lần nữa và nói: “Đây là sấm ngôn của Đức Chúa, Ta lấy chính danh Ta mà thề: bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Dòng dõi ngươi sẽ chiếm được thành trì của địch. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta”.

Đức tin của ông Áp-ra-ham lớn quá: Sẵn sàng ra đi đến miền đất Chúa chỉ cho và không ngại hiến tế chính con yêu dấu của mình!

Ông tin vì ông biết địa cầu đầy ân sủng của Thiên Chúa. Ở đâu có Chúa là có bình an, có hạnh phúc. Đúng như tác giả Thánh Vịnh đã tin tưởng khi xác nhận: “Lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất. Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời, một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú. Chúa dồn đại dương về một chỗ, Người đem biển cả trữ vào kho” (Tv 33:4-7).

Quả thật, “hạnh phúc thay quốc gia được Chúa làm Chúa Tể, hạnh phúc thay dân nào Người chọn làm gia nghiệp, và từ trời cao nhìn xuống, Chúa thấy hết mọi người” (Tv 33:12-13). Thiên-Chúa-của-người-sống là kho báu mà mọi người mơ ước và cầu mong: “Tâm hồn chúng tôi đợi trông Chúa, bởi Người luôn che chở phù trì. Vâng, có Người, chúng tôi mừng rỡ, vì hằng tin tưởng ở Thánh Danh. Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài” (Tv 33:20-22).

Ranh giới tử – sinh mong manh nhưng lại là một hành trình dài, là cuộc xuất hành đầy gian nan, và là cuộc vượt qua cam go.

Ngày xưa, Đức Chúa phán với ông Mô-sê: “Có gì mà phải kêu cứu Ta? Hãy bảo con cái Ít-ra-en cứ nhổ trại. Phần ngươi, cầm gậy lên, giơ tay trên mặt biển, rẽ nước ra cho có lối đi khô ráo ngay giữa lòng biển, để con cái Ít-ra-en đi vào. Còn Ta, Ta sẽ làm cho lòng người Ai-cập ra chai đá. Chúng sẽ tiến vào theo sau các ngươi. Bấy giờ Ta sẽ được vẻ vang hiển hách khi đánh bại Pha-ra-ô cùng toàn thể quân lực, chiến xa và kỵ binh của vua ấy. Người Ai-cập sẽ biết rằng chính Ta là Đức Chúa, khi Ta được vẻ vang hiển hách vì đã đánh bại Pha-ra-ô cùng chiến xa và kỵ binh của vua ấy” (Xh 14:15-18).

Thiên sứ của Thiên Chúa đang đi trước hàng ngũ Ít-ra-en, cột mây bỏ phía trước mà đứng về phía sau, chen vào giữa hàng ngũ Ai-cập và hàng ngũ Ít-ra-en. Bên kia, mây toả mịt mù, bên này, mây lại sáng soi đêm tối, khiến cho hai bên suốt đêm không xáp lại gần nhau được. Ông Mô-sê giơ tay trên mặt biển, Đức Chúa cho một cơn gió đông thổi mạnh suốt đêm, dồn biển lại, khiến biển hoá thành đất khô cạn. Nước biển rẽ ra, và con cái Ít-ra-en đi vào giữa lòng biển khô cạn, nước sừng sững như tường thành hai bên. Dân Ít-ra-en đi qua, còn quân Ai-cập thất bại ê chề. Đó là cuộc giải phóng thần kỳ. Ít-ra-en thấy Đức Chúa đã ra tay hùng mạnh đánh quân Ai-cập nên kính sợ Đức Chúa, tin vào Đức Chúa, tin vào ông Mô-sê.

Bấy giờ ông Mô-sê cùng với con cái Ít-ra-en hát mừng Đức Chúa: “Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi. Người là Chúa tôi thờ, xin dâng lời vinh chúc, Người là Chúa tổ tiên, xin mừng câu tán tụng. Lạy Chúa, tay hữu Ngài đã biểu dương sức mạnh, đã nghiền nát địch quân. Người cho dân tiến vào định cư họ trên núi gia nghiệp của Người. Lạy Chúa, chính nơi đây Người chọn làm chỗ ở, đây cũng là đền thánh tự tay Người lập nên. Chúa là vua hiển trị đến muôn thuở muôn đời” (Xh 15:1-6, 17-18).

Nước rất mềm yếu nhưng cũng rất mạnh mẽ. Nước rửa sạch ô uế, nước gội mát muôn vật, làm cho mọi vật hồi sinh. Nước rất cần thiết trong sinh hoạt thường nhật. Thiếu nước thì người ta mau chết hơn là thiếu đồ ăn. Nước là biểu hiện của sự sống. Nước rất kỳ diệu!

Nước tự nhiên mà còn kỳ diệu đến thế huống chi nước tâm linh. Thánh Phaolô nói: “Anh em không biết rằng khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6:3-4).

Về ranh giới tử – sinh, Thánh Phaolô nói: “Vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Người đã chết, chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại. Chúng ta biết rằng: con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa. Quả thế, ai đã chết thì thoát khỏi quyền của tội lỗi” (Rm 6:5-7). Thật kỳ diệu với vòng tử – sinh như vậy!

“Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta” (Rm 6:8). Niềm tin rất chính xác, không luống công vô ích. Thánh Phaolô nói: “Một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người. Người đã chết, là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu” (Rm 6:9-11).

Được thừa kế niềm tin đó, tác giả Thánh Vịnh mời gọi mọi người: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118:1-2). Tại sao? Lý do rất rạch ròi: “Tay hữu Chúa đã ra oai thần lực, tay hữu Chúa giơ cao, tay hữu Chúa đã ra oai thần lực. Tôi không phải chết, nhưng tôi sẽ sống, để loan báo những công việc Chúa làm” (Tv 118:16-17).

Đức Kitô chính là “tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường” (Tv 118:22). Ngài đã bị giết chết nhục nhã, người ta tưởng vậy là chấm dứt lịch sử, thế nhưng Ngài đã lật ngược thế trận, Ngài đã chiến thắng tử thần và đã phục sinh vinh quang. Đó chính là công trình của Chúa, công trình vô cùng kỳ diệu trước con mắt phàm nhân chúng ta.

Trình thuật Mt 28:1-10 nói về khoảnh khắc lịch sử độc nhất vô nhị trên thế gian này, lời kể ngắn gọn nhưng vẫn đầy đủ.

Sau ngày sa-bát, vừa tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác cũng tên là Ma-ri-a cùng đi viếng mộ. Thình lình đất rung chuyển dữ dội: Thiên thần Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên, diện mạo người như ánh chớp và y phục trắng như tuyết. Thấy vậy, tụi lính canh khiếp sợ và run rẩy đến nỗi chết ngất đi. Ấy thế mà họ vẫn cứng lòng tin còn hơn sáp nguội!

Thiên thần bảo các phụ nữ “đừng sợ!”, và cho biết rằn Đức Kitô đã sống lại như Ngài đã nói trước. Các bà đến mà xem chỗ Ngài đã nằm, rồi mau mắn về báo tin mừng và bảo các tông đồ đến Ga-li-lê để được diện kiến Thầy Giêsu. Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo Tin Mừng Phục Sinh.

Có hai điều chúng ta cần học tập từ các phụ nữ này: Mau mắn loan báo Tin Mừng và làm chứng về Chúa Giêsu Phục Sinh.

Các phụ nữ này đang trên đường đi, Đức Giêsu đón gặp họ và nói: “Chào chị em!”. Các bà khoái chí hết sức nên đua nhau tiến lại gần Ngài, ôm lấy chân Ngài và bái lạy Ngài. Bấy giờ, Đức Giêsu nói với họ: “Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó” (Mt 28:10). Các phụ nữ đó là những người đầu tiên được diện kiến Đấng Phục Sinh và trở thành các nhân chứng sống đầu tiên về Chúa Giêsu Phục Sinh.

Chúng ta phải ghi nhớ và thực hành hai chữ quan trọng trong cuộc sống: ĐỪNG SỢ! Đó là mệnh lệnh đòi hỏi phải có lòng can đảm thực sự, không dễ thực hiện. vì thế mà ai cũng phải cố gắng không ngừng. Cũng như ranh giới tử – sinh, biên độ cũng rất mong manh giữa sự can đảm và sự hèn nhát. Do đó mà lúc nào chúng ta cũng phải tự nhủ như niệm thần chú: ĐỪNG SỢ!

Lạy Thiên Chúa vĩnh sinh, xin thêm đức tin và lòng can đảm cho chúng con, xin giúp chúng con mau mắn và can đảm làm chứng về sự thật, làm chứng về Tin Mừng Phục Sinh trong suốt cuộc sống của chúng con, mọi nơi và mọi lúc. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

 

VỀ HƯU

VỀ HƯU

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

“Tôi nghỉ hưu trong việc làm chứ không về hưu trong cuộc sống”
VÔ DANH

Việt Nam Tự Điển định nghĩa hưu trí là hồi hưu hay về hưu, thôi việc khi đúng hạn hay đúng tuổi theo quy chế và mỗi tháng hay mỗi ba tháng được lãnh một phần lương để dưỡng già.
Tự điển American Heritage định nghĩa hưu trí (Retire) là rời khỏi nghề nghiệp hay đời sống công cộng để sống nhàn rỗi (leisure) với lợi tức, tiền tiết kiệm hay tiền hưu của mình.
Định nghĩa gọn, ngắn nhưng có nhiều điều cần được giải thích rõ ràng hơn, trước khi quyết định rời bỏ công việc. Vì nghỉ việc, về hưu là điều mà người công, tư chức nào cũng phải nghĩ đến ít nhất một lần trong cuộc đời.

1- Cảm nghĩ về sự nghỉ hưu
Có ý kiến cho rằng nghỉ hưu là cần thiết và là phần thưởng sau nhiều năm làm việc khó nhọc.
Có người cho rằng đây là một cuộc nghỉ hè bất tận và không gián đoạn. Ta tự do quyết định và kiểm soát cách sử dụng thời giờ trong ngày. Ngủ dậy giờ nào cũng được. Không còn sáng thứ hai đầu tuần uể oải chẳng muốn đi làm.
Sáng ra, uống ly cà phê, vào giường nằm đọc tờ báo từ trang nhất tới trang cuối. La cà ở các trung tâm thương mại vào lúc vắng người. Đi du lịch, thăm viếng bạn bè gần xa. Làm những việc mà trước đây muốn làm nhưng không có thời giờ.
Đồng thời cũng để vui hưởng cuộc đời khi còn sức khỏe, kẻo mai mốt chống gậy run rẩy đi chơi hoặc phải nhờ vợ con xốc nách dìu đi thăm danh lam thắng cảnh thì cũng chẳng vui gì.
Cũng có ý kiến dè dặt, cho rằng “điên à, về hưu thì chỉ chết sớm”.
Với những vị này, thời gian nghỉ hưu sẽ kéo dài vô vị và tẻ nhạt. Trước đây, đến sở đều đặn mỗi ngày, dù trong lòng vui hay buồn, thời gian nó qua mau. Bây giờ dư ra mỗi tuần hơn 60 giờ, làm gì cho hết. Không nhẽ hết rửa xe rồi lại lau nhà. Coi chừng kẻo lại mắc chứng buồn phiền, đau ốm.
Thống kê cho hay số người không làm việc, không có sinh hoạt gì, tự tử bốn lần cao hơn ở các nhóm khác, vì trầm cảm, căng thẳng thần kinh do quá nhàn rỗi gây ra.
Nghỉ hưu mà không có sinh hoạt, chương trình thì nào có khác gì người thất nghiệp, và đã được xếp loại vào một trong chín nguyên nhân gây căng thẳng tâm thần trong đời sống. Nhất là đối với người đã giữ chức vụ cao, quan trọng thì khi về hưu cảm thấy như mình rơi vào khoảng không: mất uy quyền, địa vị trong xã hội, không còn là một thành phần của guồng máy lãnh đạo, bị lãng quên. Nếu không có một chương trình sống thì những người này dễ rơi vào tình trạng rối loạn tình cảm, rất trầm trọng ngay trong năm vừa mới về hưu và là môi trường màu mỡ cho bệnh tật tới thăm.
Ý kiến khác lại cho rằng về hưu là một quan niệm không thực tế, hoang tưởng, ít người thực hiện được. Một trong những lý do chính là khi hoàn toàn nghỉ việc ở tuổi 65, khoảng 80% dân hưu sẽ bị thiếu hụt về tài chính. Trung bình, ta cần 70-80% lợi tức lúc đi làm để đủ chi dùng khi về hưu và sống thêm 15 hay 20 năm nữa.
Họ cũng cho là công thức: thanh thiếu niên đi học để có kiến thức, trung niên đi làm, lập gia đình, nuôi con; già về hưu hưởng nhàn, cần được xét lại. Nó không giúp cho kinh tế quốc gia, là nguy cơ làm ngắn tuổi thọ, và làm thất thoát tài năng kinh nghiệm.
Khi một người tiếp tục đi làm thì sẽ có thêm tiền đóng vào quỹ hưu bổng, thay vì rút ra; sẽ tăng lợi tức ở tổng số người cao tuổi; số người nhận an sinh xã hội và hưu bổng sẽ giảm đi.
Về mặt tâm lý, người cao tuổi đi làm cảm thấy hãnh diện là còn hữu dụng cho xã hội. Về tuổi thọ, thì dân vùng Capcase được tiếng là thọ lâu, họ không hoàn toàn nghỉ việc, trừ khi bị bất lực thể chất.
Thống kê cho biết, người có nghề chuyên môn ít về hưu nhất, tiếp đến lớp lao động trí thức, thợ có tay nghề, rồi lớp lao động chân tay, không nghề chuyên môn.
Những năm gần đây, khuynh hướng của nhiều người là về hưu đợt một, đợt hai rồi vĩnh viễn.
Sẽ có người nghỉ từ việc căn bản đã đeo đuổi gần suốt cuộc đời, để chuyển sang một công việc khác: việc trước đây muốn làm mà không có thì giờ, việc mới học do tiến bộ của kỹ thuật, khoa học. Họ có thể làm bán thời gian, làm việc tại nhà, làm theo giờ uyển chuyển, làm theo lối khế ước lãnh tiền theo dịch vụ, làm chung dịch vụ với người khác.
Cũng có người nghỉ phép định kỳ ở công việc chính để đi du lịch, học hỏi kiến thức mới, dung hòa được giữa làm việc và giải trí, nhàn rỗi.

2- Những sửa soạn trước khi về hưu
Khi đã quyết định về hưu thì phải sửa soạn cho chu đáo, nếu không hưu sẽ trở thành một nếp sống với nhiều căng thẳng vì ta sẽ chuyển từ giai đoạn năng động, có trật tự, đầy đủ vật chất, sang thời kỳ ngược lại: Nhiều thời gian nhàn rỗi, lợi tức giảm, liên lạc ít, trách nhiệm trong xã hội xuống dưới mức trung bình.
Theo ý kiến chung, có 4 vấn đề ta cần cân nhắc kỹ càng: Ổn định tài chính, duy trì sức khỏe, đặt mục tiêu cuộc sống và sắp xếp nơi ở.
Xin lần lượt tìm hiểu từng tiết mục qua kinh nghiệm của các nhà chuyên môn.
a-Ổn định tài chính.
Đây là điểm then chốt vì tài chính có thăng bằng thì mọi sắp xếp khác mới hanh thông. Phải có một kế hoạch cho nhu cầu vật chất của giai đoạn về già, không cần cao lắm, nhưng khi thiếu, nó sẽ là một thảm họa cho đời sống tâm thần, thể xác, đồng thời sẽ gây ra nhiều xáo trộn trong gia đình.

b-Duy trì sức khỏe.
Ngoại trừ khi mới sinh ra, ta trông cậy ở cha mẹ trong vấn đề duy trì sức khỏe và đời sống, dịch vụ này là việc ta phải tự thực hiện trong suốt cuộc đời, nhất là khi về già.
Hãy đừng để cho mình trở nên một gánh nặng cho người thân yêu vì sự đau ốm của mình.
Không phung phí sức khỏe, ăn uống cân bằng dinh dưỡng, tập luyện cơ thể, giữ vững triết lý sống, tránh những thói quen gây hại, quan tâm đến vấn đề y tế.
c-Mục tiêu đời sống.
Khi về hưu, ta sẽ có 60 giờ trống mỗi tuần, nên cần thiết lập một chương trình với mục đích, ý nghĩa cho khoảng trống đó.
Có những mục giải trí, những việc làm tình nguyện, những sinh hoạt cộng đồng.
Có những khóa học ngắn hạn với nhiều chương trình hợp với tuổi già.
Tiêu dùng thời gian trống đó một cách hợp lý, không phí phạm. Thích nghi với thì giờ của người bạn đời. Vui hưởng tuổi già với con cháu.
d-Sắp xếp nơi ở.
Khi tính đến việc về hưu là vợ chồng đã phải suy nghĩ coi xem ở lại căn nhà hiện tại hoặc dọn đi nơi khác, mà dọn thì dọn đi đâu?

Khi xưa, tam tứ đại đồng đường, con cháu không cùng nhà cũng cùng tỉnh, vui buồn có nhau.
Nay vì công việc, sinh kế, con cái mỗi đứa một nơi, thế là bố mẹ chỉ lăm le là khi về hưu, ta sẽ dọn về ở gần chúng nó. Tình cảm người mình đối với gia đình, ruột thịt sao mà sâu đậm.
Nhưng trước khi dừng lại ở quyết định này, ta cũng nên nghĩ là liệu sống chung có thích hợp với lối sống của vợ chồng mình không; mình giúp chúng baby sitting bầy cháu nhưng cách mình nuôi có trái ngược với cách mà chúng được học qua sách vở, nhà trường?
Hơn nữa, các con còn trẻ, ngộ nhỡ vài năm nữa, vì công ăn việc làm, chúng di chuyển đi nới khác, thì mình sẽ ra sao?

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

www.bsnguyenyduc.com
http://www.youtube.com/user/Drnguyenyduc/videos

Chuyện Sâu & Trùng Ở Bến Tre

Chuyện Sâu & Trùng Ở Bến Tre

RFA

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

“Phát biểu gì cũng được, trừ tham nhũng.”

Đại Biểu Quốc Hội Lê Như Tiến

Bằng giờ này tháng 4, mấy năm về trước, nhà văn Nguyễn Ngọc Tư (“một mình, đất lạ, đường xa”) đã lên đến tận Hà Giang. Trong blog saurieng, bà có viết đôi dòng chữ ngắn về chuyến đi “ấn tượng khủng khiếp” này:

”Người ta nói, đi qua một khu chợ sẽ biết đời sống của cư dân ở đó. Mình tin điều đó. Và nhìn món hàng bày trước mặt những người phụ nữ vùng cao, mình hình dung được nồi cơm, căn bếp, cuộc đời… “

Những sản phẩm mà Nguyễn Ngọc Tư ghi nhận qua ống kính – ở chợ Hà Giang – chỉ là nụm nịu một hai nải chuối, lèo tèo mấy mớ rau xanh, ủn ỉn vài ba rọ lợn, hay đôi ba bó củi co ro …

Ảnh: Nguyễn Ngọc Tư

Ngó mà thương muốn đứt ruột luôn!

Để có thể ra “hình dung được nồi cơm, căn bếp, cuộc đời…” của cư dân ở một địa phương, nhà báo Văn Quang lại có một sáng kiến khác. Ông đưa chúng ta đi xem dinh thự của những vị quan đầu tỉnh:

Hà Giang luôn được coi là một tỉnh nghèo vùng núi rừng ở VN với hơn quá nửa là những gia đình thuộc “diện nghèo”. Nhưng đối nghịch lại tình cảnh này lại là sự hiện hữu của những ngôi nhà sàn “khủng”, phần lớn làm bằng gỗ “tứ thiết” của các lãnh đạo tỉnh.

Nhà của chủ tịch UBND Hà Giang Đàm Văn Bông

– Ngôi nhà “khủng” bắt mắt và có tiếng nhất hiện nay ở Hà Giang, đầu tiên phải nhắc đến nhà của Chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang Đàm Văn Bông. Hiện ngôi nhà sàn này đang “hùng cứ” tại thôn Cao Bành, xã Phương Thiện (TP. Hà Giang). Đây là nơi ông Bông vẫn thường xuyên đi về trong ngày. Vật liệu làm ngôi nhà này hầu hết là gỗ trai, gỗ nghiến, một trong những gỗ nằm trong nhóm 2B nghiêm cấm khai thác, vận chuyển và được bảo tồn nghiêm ngặt theo quy định của Chính phủ.

– Sang gần bằng nhà chủ tịch UBND tỉnh Đàm Văn Bông là ngôi nhà của phó bí thư thường trực, chủ tịch Hội đồng Nhân dân tỉnh Vương Mí Vàng.

Nằm trên đường đi 4 huyện nghèo, thuộc diện 30a là Đồng Văn, Quản Bạ, Yên Minh, Mèo Vạc, ngôi nhà “tọa” tại địa bàn Tổ 8, phường Quang Trung, Thành phố Hà Giang. Theo người dân, muốn có ngôi nhà này phải có vài chục tỷ, chưa kể các trang thiết bị đi cùng. Ngôi nhà này độc đắc bởi nó chỉ làm bằng… một loại gỗ: Gỗ nghiến!

– Ngoài 2 ngôi nhà sàn nổi tiếng của 2 quan chức này, ngôi nhà sàn của ông giám đốc Sở Nội vụ Hà Giang Hoàng Đức Tiến tại xã Vĩnh Phúc (Bắc Quang) cũng nổi danh và được nhiều người biết đến.

Ngôi nhà này “độc” vì nó được làm hoàn toàn bằng gỗ trai. Một thứ gỗ hiện nay đang cạn kiệt ở tỉnh Hà Giang, nó chỉ còn ở khu vực xã Đức Xuân, huyện Bắc Quang. Theo cánh thợ, để có ngôi nhà như thế này ước chừng cũng phải “vứt xuống” vài tỷ đồng… Chỉ ở một tỉnh xa xôi “hẻo lánh” mà nhà quan đã bề thế như vậy thì các nơi khác, các thành phố khác còn “loạn” đến đâu!

Rảnh, nên tui ghé luôn qua một thành phố khác – ở dưới miền xuôi: Bến Tre. Địa danh này, hơn mười năm trước, cũng đã khiến dư luận người Việt (ngoài nước)  “nóng” lên chỉ vì đôi dòng chữ ghi thêm dưới một bài thơ của nhà sư Nhất Hạnh – in trên trang quảng cáo của báo New York Times, số phát hành hôm 24 tháng 9 năm 2001:

“I wrote this poem during the Vietnam war after I heard about the bombing of Ben Tre city. The city of 300,000 was destroyed because seven guerrillas shot several rounds of unsuccessful anti-aircraft gunfire and then left. My pain was profound.” (“Tôi viết bài thơ này trong thời gian chiến tranh Việt Nam sau khi nghe Bến Tre bị bỏ bom. Thành phố 300,000 người đã bị hủy diệt vì bẩy du kích quân bắn vài tràng súng phòng không vu vơ rồi bỏ đi. Nỗi đau của tôi sâu lắng.”)

Sơ sót, lỗi lầm nơi con số 300,000 chắc (chắn) là  do cái cậu đánh máy chứ ai. Dù vậy, Nhất Hạnh vẫn cứ bị dư luận lùm xùm trách cứ (“oan ức”) về chuyện vọng ngôn hay vọng ngữ.

Cơn bão dư luận ấy đã qua từ lâu. Bến Tre, một trong những nơi được mệnh danh là thành đồng tổ quốc, đâu có dễ gì bị suy suyển hay sứt mẻ bởi bom đạn Mỹ. Tuy thế, phần đất này đang có nguy cơ bị “hủy diệt” bởi chính những kẻ đã bỏ chạy (sau khi bắn vài tràng súng, không trúng đâu vô đâu) hồi năm 1968.

Gần năm mươi năm đã qua, những cô cậu bé du kích dũng sĩ diệt Mỹ của tỉnh Bến Tre nay đều đã trở nên những vị cán bộ lão thành cách mạng. Họ đang cùng con cháu nắm giữ hầu hết những chức vụ, cũng như nguồn lợi béo bở ở tỉnh lỵ này. Theo như cách nói ví von của ông Trương Tấn Sang thì họ đã trở thành những “bầy sâu,” đang ngày đêm (ngoem ngoém) đục khoét và làm ruỗng mục “Chủ Nghĩa Mac Xít Lê Nin Nít Bách Chiến Bách Thắng Vô địch Muôn Năm.”

Năm 2007, phó chủ tịch UBND Bến Tre, bà Nguyễn Thị Thanh Hà cho biết tỉnh đã thanh tra 108 cuộc, phát hiện sai phạm về tài chính 4,46 tỉ đồng, tăng gấp đôi so với năm 2005. Dù số tiền được “phát hiện” chỉ là phần nổi của một tảng băng sơn nhưng cứ theo cái đà tăng “gấp đôi” hàng năm như thế nên đến nay, năm 2014, Bến Tre lại làm dư luận “nóng” lên lần nữa – sau khi “những dinh thự ngất ngưởng, bề thế, nguy nga” của ông Trần Văn Truyền (cựu Bí Thư tỉnh ủy Bến Tre, cựu Tổng Thanh Tra Chính phủ Việt Nam) được phơi bầy trên mặt báo Người Cao Tuổi.

Dinh thự của ông Trần Văn Truyền. Ảnh: Người Cao Tuổi

Ông Trần Văn Truyền, tất nhiên, không phải là quan chức duy nhất bị tai tiếng như vậy ở vùng đất này, vẫn theo như thông tin cơ quan ngôn luận vừa nêu:

Kì này, mời bạn đọc đến thăm “Vườn hoa phố Thường vụ” nằm ngay Khu Trung tâm Thương mại (TTTM) thành phố Bến Tre của hàng chục “quan tri phủ” hầu hết là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bến Tre. Nhiều năm nay người dân địa phương và cán bộ lão thành, cán bộ nghỉ hưu ở đây bức xúc về quá nhiều dinh thự của “Tập đoàn quan tỉnh” tại khu vực chợ TTTM của thành phố chiếm đất, làm nhà lầu mặt tiền thông thoáng làm của riêng rồi cho thuê hoặc đem bán giá cao thu lợi lớn.

Đi đầu “phong trào” này là ông Huỳnh Văn Be (Ba Phương Hùng), cựu Ủy viên Trung ương Đảng, cựu Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre. Gia đình ông đã có “dinh thự” tọa lạc trong khu đất vườn rộng hàng chục nghìn mét vuông nằm cạnh con sông gió lộng tứ bề. Hằng ngày, ông tự lái xe hơi đi ăn sáng, uống cà-phê, dạo mát…

Ông Trần Công Ngữ (Bảy Hoàng), cựu Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre đã có nhà và đất ở rộng rãi, nhưng cũng được “bán rẻ” một căn nhà lầu hai mặt tiền nằm ngay ngã tư đường Chi Lăng – Nguyễn Du thuộc phường 2, kế bên TTTM. Do không có nhu cầu ở nên ông Hoàng đã bán thu lợi 7 tỉ đồng. Các trường hợp còn lại như ông Trần Văn Cồn, cựu Phó Bí thư Tỉnh ủy; ông Phan Văn Láng, cựu Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy; ông Nguyễn Thái Xây (Chín Tâm), cựu Chủ tịch UBND tỉnh; ông Lê Văn Sang (Tư Sang), cựu Giám đốc Công an tỉnh; ông Nguyễn Văn Tuấn, hiện là Phó Chủ tịch UBND tỉnh; ông Hồ Quốc Việt, Giám đốc Công an tỉnh đều là những thành viên được làm giàu theo gương ông Huỳnh Văn Be. Hàng chục căn nhà lầu nằm ở vị trí đắc địa mặt tiền đường, xoay quanh khu TTTM thành phố Bến Tre được “bán rẻ” cho “Tập đoàn quan tỉnh” này…

Cùng lúc, trên báo Công An Thành Phố Hồ Chí Minh (phảt hành hôm 30 tháng 3 năm 2014) người ta đọc được lời kêu gọi “những nhà hảo tâm xa gần giúp đỡ” để làm một con đường nho nhỏ – cũng ở Bến Tre:

Do điều kiện ngân sách eo hẹp nên đến nay chính quyền địa phương vẫn chưa thể đáp ứng được mong muốn của người dân. “Chúng tôi hi vọng các nhà hảo tâm xa gần chung tay giúp đỡ kinh phí xây dựng tuyến lộ Bờ Gồng để bà con không còn phải lặn lội vất vả mỗi ngày, nhất là những lúc mưa gió trở trời!” Ông Trần Văn Chận – Chủ tịch UBND xã An Hiệp chia sẻ.

Sự kiện những quan chức Việt Nam thản nhiên, sống trên nỗi khốn cùng (“phải lặn lội vất vả mỗi ngày”) của bà con – thực ra – không chỉ giới hạn ở Hà Giang hay ở bến Tre, và cũng chả phải là chuyện mới mẻ gì ráo trọi. Hơn hai mươi năm trước tác giả Thái Như đã nói đến hiện tượng “Sư tử thân trung trùng thực sư tử nhục: Chỉ có loài sâu trong thân con sư tử mới ăn được thịt của con sư tử!”

Cựu đại tá Nguyễn Đăng Quang lại vừa nhắc lại điều này, trên blog của tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện:

“Trong vòng 25 năm qua, bọn sâu bọ tham nhũng ngày một đông, ngày mỗi mạnh và đã trở thành bầy đàn! Nó như căn bệnh ung thư đã di căn tới nhiều bộ phận của cơ thể con sư tử. Nếu Đảng không quyết tâm chữa trị, không dũng cảm cắt bỏ những bộ phận cơ thể đã thối muỗng thì quốc nạn tham nhũng này, đến một lúc nào đó sẽ có kết cục như nhà báo Thái Như đã cảnh báo 23 năm về trước:’Đương nhiên điều không tránh khỏi là con sư tử đó nó sẽ ngã quỵ một khi những con sâu trong cơ thể ngày một nhiều và lớn mạnh!’ Vâng, nếu Đảng không quyết tâm diệt trừ tận gốc (giết sạch) bọn sâu bọ tham nhũng của Đảng thì chính bọn này, một ngày nào đó không xa – có thể là cuối năm nay,có thể là sang năm hoặc sang năm sau nữa(2016)- sẽ là thủ phạm “giết sống” Đảng Cộng sản Viêt Nam!

Tôi thấy tình thế đã rất cấp bách! Thời gian không còn nhiều. Rất mong Đảng hãy dũng cảm, thực tâm và kiên quyết cứu vãn tình thế trước khi nó trở nên quá muộn!”

Khác với đại tá  Nguyễn Đăng Quang, tôi e rằng tình thế đã muộn màng rồi. Vấn đề chỉ còn là chuẩn bị sao để mồ yên mả đẹp mà thôi. Sau hai phần ba thế kỷ phạm hết tội ác này sang tội ác khác, gây oán hận cho muôn dân trăm họ, chuyện “an táng” đảng Cộng Sản trong tương lai gần (rõ ràng)  không phải là việc dễ dàng chi. Với truyền thống lấy nhân nghĩa chống bạo tàn của dân tộc Việt, chỉ mong sao mọi người đều đồng thuận với nhau là oán thù – nghĩ cho cùng –  chỉ nên cởi, chứ không nên buộc.

 

Ai đã thắng trong cuộc chiến Việt Nam?

Ai đã thắng trong cuộc chiến Việt Nam?

Michel Chossudovsky

Ngọc Thu dịch

30-4: Ai đã thắng trong cuộc chiến Việt Nam?

Bạn có biết: Việt Nam đã từng trả nợ chiến tranh cho Mỹ? Việt Nam đã trả các khoản vay của chính quyền Sài Gòn thời chiến tranh, để đổi lấy các khoản vay mới của Mỹ và phương Tây và đó cũng là điều kiện để Mỹ gỡ bỏ lệnh cấm vận và bình thường hóa quan hệ ngoại giao với VN.

Đó là cái giá mà chính phủ CSVN, hay nói đúng hơn là người dân VN đã phải trả, do chính phủ CSVN không chịu bình thường hóa quan hệ với Mỹ ngay sau khi chiến tranh kết thúc, cứ khăng khăng đòi bồi thường chiến phí 3,25 tỉ Mỹ kim. Tiền bồi thường của Mỹ ở đâu không thấy, chỉ thấy sau đó phía VN phải bỏ tiền ra bồi thường chiến phí.

Thắng trong chiến tranh, nhưng chỉ 20 năm sau chính phủ CSVN đã phải đầu hàng Mỹ về kinh tế.

Đây là bài viết của GS Michel Chossudovsky về những thỏa thuận bí mật giữa chính phủ CSVN với các tổ chức tài chính quốc tế trước năm 1995.

Ngọc Thu

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, chiến tranh Việt Nam đã kết thúc bằng lực lượng cộng sản chiếm giữ Sài Gòn và sự đầu hàng của tướng Dương Văn Minh và nội các của ông ấy trong Dinh Tổng thống. Khi đội quân của Quân đội Nhân dân Việt Nam tiến vào Sài Gòn, các nhân viên Hoa Kỳ và lính thủy quân lục chiến Mỹ cuối cùng đã vội vã sơ tán từ nóc tòa nhà Đại Sứ quán Mỹ. Hai mươi năm sau, một câu hỏi cơ bản vẫn chưa có lời giải đáp: Ai đã thắng trong cuộc chiến tranh Việt Nam?

Việt Nam chưa bao giờ nhận được khoản tiền bồi thường nào cho chiến tranh từ Mỹ về các tổn thất nhân mạng rất lớn và sự tàn phá [của chiến tranh], nhưng một thỏa thuận đã đạt được ở Paris vào năm 1993, yêu cầu Hà Nội nhận các khoản nợ của chính quyền Sài Gòn, một chính quyền không còn tồn tại nữa của Tướng Thiệu. Bản thoả thuận này có nhiều chỗ tương đương với việc bắt buộc Việt Nam bồi thường cho Washington các phí tổn chiến tranh.

Ngoài ra, việc áp dụng sâu rộng cải cách kinh tế vĩ mô dưới sự giám sát của các định chế Bretton Woods cũng là một điều kiện cho việc dỡ bỏ lệnh cấm vận của Mỹ. Những cải cách thị trường tự do này hiện đã định đoạt học thuyết chính thức của Đảng Cộng sản.

Qua việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Washington vào năm 1994, việc nhắc đến vai trò tàn bạo của Mỹ trong chiến tranh đang ngày càng được xem như không đúng lúc và không thích hợp. Không ngạc nhiên, Hà Nội đã quyết định dịu giọng trong lễ kỷ niệm Sài Gòn đầu hàng để không phải xúc phạm đến kẻ thù trong chiến tranh trước đây của họ. Lãnh đạo Đảng Cộng sản gần đây đã nhấn mạnh “vai trò lịch sử” của Hoa Kỳ trong việc “giải phóng” Việt Nam từ chế độ Vichy (Pháp) và sự chiếm đóng của Nhật Bản suốt Đệ Nhị Thế chiến.

Vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, trong bản Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, các đặc vụ Mỹ của Cục Tình báo Chiến lược (OSS: tiền thân của CIA ngày nay) đã có mặt bên cạnh Hồ Chí Minh. Trong khi Washington đã cung cấp vũ khí và hỗ trợ tài chính cho phong trào kháng chiến Việt Minh, chiến lược này phần lớn được thiết kế để làm suy yếu Nhật Bản trong giai đoạn cuối của Đệ Nhị Thế chiến, mà không có cam kết gửi lực lượng bộ binh Mỹ tới với số lượng lớn.

Ngược lại với bầu không khí dịu giọng và hạn chế trong kỷ niệm đánh dấu chiến tranh Việt Nam kết thúc, lễ kỷ niệm 50 năm ngày độc lập được cử hành long trọng, với một loạt các nghi lễ và các hoạt động chính thức bắt đầu từ tháng 9 và kéo dài đến Tết âm lịch.

Việt Nam bồi thường chiến tranh

Trước khi “bình thường hóa” quan hệ với Washington, Hà Nội đã bị buộc phải trả các khoản nợ xấu phát sinh của chế độ Sài Gòn do Mỹ hậu thuẫn. Tại hội nghị các nhà tài trợ tổ chức ở Paris hồi tháng 11 năm 1993, các khoản vay và số tiền viện trợ tổng cộng gần 2 tỷ Mỹ kim đã được cam kết để hỗ trợ cho cải cách thị trường tự do ở Việt Nam.

Tuy nhiên, ngay sau khi hội nghị, một cuộc họp bí mật đã được tổ chức dưới sự bảo trợ của Câu lạc bộ Paris (Paris Club).

Tại cuộc họp này, có sự góp mặt của đại diện các chính phủ phương Tây. Về phía Việt Nam, TS Nguyễn Xuân Oánh, cố vấn kinh tế cho Thủ tướng, đã đóng vai trò quan trọng trong các cuộc đàm phán.

Tiến sĩ Oánh, một cựu quan chức của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), đã giữ chức Bộ trưởng Bộ Tài chính và sau đó là Quyền Thủ tướng trong chính quyền quân sự của Tướng Dương Văn Minh, mà Mỹ đưa vào hồi năm 1963 sau vụ ám sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm và em trai. Tiến sĩ Oánh, trong khi giữ vai trò trung gian, chính thức thay mặt chính quyền cộng sản, dù sao cũng đã đáp ứng được nhu cầu của các chủ nợ phương Tây.

Các thỏa thuận đã được ký kết với IMF (đã được công bố) phần lớn chỉ là tượng trưng. Số lượng không đáng kể: Hà Nội buộc phải trả cho IMF 140 triệu đô (thuộc sở hữu của chính quyền Sài Gòn) như một điều kiện để nối lại các khoản vay mới. Nhật Bản và Pháp, những chủ nhân thuộc địa cũ của Việt Nam giai đoạn Vichy, hình thành cái gọi là “Những người bạn của Việt Nam” để cho Hà Nội vay số tiền cần thiết để hoàn trả cho IMF.

Tuy nhiên, sự sắp xếp gia hạn các khoản nợ song phương (của chế độ Sài Gòn) không bao giờ được tiết lộ. Nhưng cuối cùng thì thỏa thuận bí mật này (đạt được dưới sự bảo trợ của Câu lạc bộ Paris) là công cụ quyết định để Washington dỡ bỏ lệnh cấm vận và bình thường hóa các quan hệ ngoại giao. Việc sắp xếp này cũng là yếu tố quyết định trong việc tháo khoán các khoản vay đã được cam kết tại hội nghị các nhà tài trợ năm 1993, do đó Việt Nam bị đặt dưới sự ủy thác của các chủ nợ Nhật Bản và phương Tây. Như vậy, chỉ 20 năm sau chiến tranh, Việt Nam đã đầu hàng về mặt kinh tế.

Bằng cách công nhận hoàn toàn tính hợp pháp của các khoản nợ, Hà Nội đã đồng ý hoàn trả các khoản vay đã hỗ trợ nỗ lực chiến tranh của Mỹ. Hơn nữa, chính phủ của ông Võ Văn Kiệt cũng đã chấp nhận thực hiện đầy đủ các điều kiện thông thường (giảm giá, tự do hóa thương mại, tư nhân hóa, v.v.) của một chương trình điều chỉnh cơ cấu do IMF tài trợ. Những cải cách kinh tế này ra mắt vào giữa thập niên 1980 với các định chế Bretton Woods, trong hậu quả chiến tranh tàn khốc, đã khởi đầu một giai đoạn mới về sự tàn phá kinh tế và xã hội: lạm phát đã dẫn đến phá giá liên tục, bắt đầu từ năm 1973 dưới chế độ Sài Gòn, năm theo sau sự rút lui của quân đội Hoa Kỳ. Ngày nay, một lần nữa Việt Nam tràn ngập các ghi chú bằng đô la Mỹ, đã thay thế phần lớn tiền đồng Việt Nam. Với giá cả tăng cao, thu nhập thực tế đã giảm xuống tới mức thấp nhất.

Lần lượt những cải cách đã ồ ạt giảm năng lực sản xuất. Hơn 5.000 trong số 12.300 doanh nghiệp nhà nước đã bị đóng cửa hoặc được chỉ đạo phá sản. Các hợp tác xã tín dụng đã bị loại bỏ, tất cả các khoản tín dụng dài hạn và trung hạn cho ngành công nghiệp và nông nghiệp đã bị đóng băng. Chỉ tín dụng ngắn hạn là có sẵn, với lãi suất 35%/ năm (năm 1994). Ngoài ra, thỏa thuận IMF đã cấm nhà nước cung cấp hỗ trợ ngân sách, hoặc cho nền kinh tế nhà nước hoặc cho một khu vực tư nhân mới chớm nở.

Chương trình nghị sự về những cải cách đã bị che giấu này bao gồm nền tảng công nghiệp mất ổn định ở Việt Nam. Các ngành sản xuất công nghiệp nặng, dầu khí, tài nguyên thiên nhiên và khai thác khoáng sản, xi măng, sắt thép sẽ được tổ chức lại và được thực hiện dựa trên số vốn nước ngoài. Tài sản nhà nước có giá trị nhất sẽ được chuyển giao để củng cố và duy trì cơ sở công nghiệp, hoặc để phát triển một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa thuộc sở hữu và kiểm soát bởi dân chúng.

Trong quá trình tái cơ cấu kinh tế, hơn một triệu công nhân và hơn 20.000 công nhân viên chức (trong đó đa số là nhân viên y tế và giáo viên) đã bị sa thải. Lần lượt, nạn đói địa phương đã nổ ra, ảnh hưởng đến ít nhất một phần tư dân số cả nước. Những sự đói khát này không giới hạn ở các khu vực thiếu lương thực. Ở Đồng bằng Sông Cửu Long, vựa lúa của Việt Nam, 25% số dân trưởng thành tiêu thụ chưa tới 1.800 calories mỗi ngày. Ở các thành phố, sự mất giá của tiền đồng cùng với việc loại bỏ trợ cấp và kiểm soát giá cả đã dẫn đến giá gạo và các nhu yếu phẩm khác tăng vọt.

Những cải cách này đã dẫn đến việc cắt giảm mạnh mẽ các chương trình xã hội. Với việc áp dụng học phí, ba phần tư trong số một triệu trẻ em bỏ học khỏi hệ thống trường công trong vài năm (từ 1987-1990). Các trạm y tế và bệnh viện sụp đổ, sự hồi sinh của một số bệnh truyền nhiễm như sốt rét, lao phổi và tiêu chảy được Bộ Y tế và các nhà tài trợ nhận ra. Một nghiên cứu của Tổ chức Y tế Thế giới xác nhận rằng, số người tử vong do bệnh sốt rét tăng gấp ba lần trong bốn năm đầu của thời kỳ cải cách, cùng với sự suy sụp của việc chăm sóc sức khỏe và giá cả các loại thuốc chống sốt rét tăng vọt. Chính phủ (dưới sự hướng dẫn của các nhà tài trợ quốc tế) cũng đã ngưng hỗ trợ ngân sách để cung cấp các thiết bị y tế và bảo trì, dẫn đến tình trạng tê liệt toàn bộ hệ thống y tế công cộng. Tiền lương thật sự của nhân viên y tế và điều kiện làm việc đã giảm đáng kể: tiền lương hàng tháng của các bác sĩ y tế tại một bệnh viện huyện thấp tới mức $15 một tháng.

Mặc dù Mỹ đã bị đánh bại trên chiến trường, nhưng hai thập niên sau đó Việt Nam dường như đã đầu hàng kẻ thù chiến tranh trước đây của mình về mặt kinh tế.

Không có những quả bom viên bằng thép hay màu cam, không có bom napalm, không có hóa chất độc hại: một giai đoạn mới của sự hủy diệt kinh tế và xã hội đã diễn ra. Những thành tựu của cuộc đấu tranh trong quá khứ và nguyện vọng của một quốc gia toàn vẹn chưa hoàn thành và đã bị xóa gần như với một nét bút (chữ ký).

Điều kiện nợ và điều chỉnh cơ cấu dưới sự ủy thác của các chủ nợ quốc tế tạo ra do hậu quả của chiến tranh Việt Nam, một công cụ thuộc địa bất bạo động chính thức và hiệu quả như nhau và sự bần cùng hóa ảnh hưởng đến sinh kế của hàng triệu người.

——

Tác giả: Michel Chossudovsky là giáo sư kinh tế tại Đại học Ottawa và là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Toàn cầu hóa.

Bài viết trên đã được viết năm 1995, đầu tiên được đăng tải vào ngày 30 tháng 4 năm 1995, trong bối cảnh kỷ niệm 20 năm “Giải phóng Sài Gòn”.

Một bài phân tích sâu hơn dựa trên những nghiên cứu thực tế được tiến hành ở Việt Nam, tập trung vào những cải cách tân tự do của Hà Nội, sau đó đã được đăng trong cuốn sách của Michel Chossudovsky, The Globalization of Poverty, ấn bản đầu tiên năm 1997, ấn bản thứ hai vào năm 2003.

Nguồn bản gốc: http://www.globalresearch.ca/who-won-the-vietnam-war/172

Nguồn bản dịch: https://www.facebook.com/BasamVN/posts/619964634763977

Thống kê sơ về người treo cổ trong trụ sở công an.

Thống kê sơ về người treo cổ trong trụ sở công an.

Người Buôn Gió

Xứ sở lạ đời, dân thích chọn đồn công an để tự tử?

Chỉ cần một sinh viên Bouazizi phải đi bán rau, bị phạt và hành hung nên đã tự thiêu mà toàn dân Tunisia phẫn nộ, biểu tình khiến cho Tổng thống Ben Ali phải chạy biệt xứ. Mạng một con người thiêng liêng như vậy đấy (xin nhấn mạnh là Bouazizi tự thiêu chứ không bị đánh chết).

Lại so thời thực dân phong kiến, chỉ vì để cấp dười đánh chết người mà ông quan trong triều Nguyễn Sinh Sắc bị cách tuột hết chức tước và phải biệt xứ vào nơi tận cùng đất nước! Trong khi ở một xứ “hạnh phúc thứ nhì thế giới”, “dân chủ gấp vạn lần”, “luôn lấy con người là trung tâm, là mục đích” mà hàng chục trường hợp công dân bị chết ngay trong tay “thanh kiếm và lá chắn”, trong tay những người được nhân dân nuôi và vũ trang đến tận răng để bảo vệ nhân dân, thì cái giá đáng lý phải trả là gì? Nếu cả 13-14 ông Tổng thống phải chạy biệt xứ thì chắc chắn vẫn chưa tương xứng.

Vậy mà hệ thống không mảy may suy suyển, những chiếc ghế vua quan ở đây chỉ càng thêm lì, thêm chắc, kẻ giết người không bị trừng trị thích đáng, trừng trị qua loa thì khác chi khuyến khích giết người? Mà khuyến khích thật khi còn dự kiến cho phép công an bắn chết ngay kẻ nào chống người thi hành công vụ! Thế nào là chống? Công vụ sai thì có được chống không? Dân có quyền tự vệ không? Chết rồi thì còn đâu mà cãi.

Với mười ba trường hợp thống kê “sơ sơ” dưới đây, là con người ai cũng phải giật mình, giật mình về cái khoảng cách giữa tuyên ngôn và thực tế đối lập nhau như thiên đàng và địa ngục. Biết đâu sẽ chẳng đến lượt mình, nhỡ lơ đãng mà phạm luật giao thông thôi chẳng hạn… Luật chống tra tấn chỉ trên giấy thôi sao? Mười ba nhân mạng chết tức tưởi trong tay công quyền liệu đã đủ làm mười ba tiếng nổ để rút ngắn bớt cái khoảng cách kinh hoàng giữa lời nói và việc làm chưa, hay cần nhiều thêm?

Hà Sĩ Phu

Và đây câu trả lời…

Điểm danh 1 số vụ án xảy ra sau khi bị giải lên đồn công an

2014.04.14 Đỗ Văn Bình – Đà Nẵng – treo cổ

2014.03.18 Bùi Thi Hương – Bình Phước – treo cổ

2014.03.18 Nguyễn Minh Dũng – trọng thương

2013.12.24 Đỗ Duy Việt – Thanh Hóa – treo cổ

2013.12.20 anh Đinh Ngọc H – Bình Duơng – treo cổ

2013.10.10 Trần Thị Hải Yến – Phú Yên – treo cổ

2013.08.19 Lê Hoàng Triệu Khang (15 tuổi) – Lâm Đồng – treo cổ

2013.01.02 Trần Văn Tân – Hải Dương – treo cổ

2012.09.14 Hồ Long Giang – Long Khánh – treo cổ

2012.05.13 Ngô Thanh Kiều – Phú Yên – bị đánh chết

2012.03.19 Lê Quang Trọng – Hà Tĩnh – treo cổ

2012.02.15 Nguyễn Công Nhựt – Bình Dương – treo cổ

2011.03.15 Đặng Ngọc Trung – Bình Phước – treo cổ

….

Đây chỉ là thống kê sơ bộ, chưa phải đầy đủ, nhưng cũng đủ làm giật mình bất cứ ai. Hãy nhớ đến câu nói của người tù oan 10 năm Nguyễn Thanh Chấn: “lúc đó tôi sợ họ đánh chết” – “tôi không chịu nổi nữa” – nếu nhìn vào số những nạn nhân TREO CỔ trong nhà tạm giam kia thì phải rùng mình mà công nhận ông Chấn đã quyết định đúng, nếu ông treo cổ chết rồi thì cần gì phải đau đầu với vụ án oan 10 năm của ngày hôm nay.

N. B. G.