ĐÂY LÀ MỘT CÂU CHUYỆN CÓ THẬT XẢY RA VÀO NĂM 1892 TẠI ĐẠI HỌC STANFORD

ĐÂY LÀ MỘT CÂU CHUYỆN CÓ THẬT XẢY RA VÀO NĂM 1892 TẠI ĐẠI HỌC STANFORD

Có một cậu học sinh 18 tuổi đang gặp khó khăn trong việc trả tiền học. Cậu ta là một đứa trẻ mồ côi, và cậu ta không biết đi nơi đâu để kiếm ra tiền. Thế là anh chàng này bèn nảy ra một sáng kiến. Cậu ta cùng một người bạn khác quyết định tổ chức một buổi nhạc hội ngay trong khuôn viên trường để gây quỹ cho việc học.

Họ tìm đến người nghệ sĩ dương cầm đại tài Ignacy J Paderewski . Người quản lý của
Paderewski yêu cầu một khoản phí bảo đảm $2000 để cho ông ấy được biểu diễn.
Sau khi họ thoà thuận xong, hai người sinh viên ấy bắt tay ngay vào công việc chuẩn bị để cho buổi trình diễn được thành công.

Ngày trọng đại ấy cuối cùng đã đến. Paderewski cuối cùng cũng đã buổi diễn tại tanford. Thế nhưng không may là vé vẫn chưa được bán hết. Sau khi tổng kết số tiền bán vé lại, họ chỉ có được $1600. Quá thất vọng, họ đến chỗ của của Paderewski để trình bày hoàn cảnh của mình. Hai người sinh viên ấy đưa Paderewski toàn bộ số tiền bán vé, cùng với 1 check nợ $400, và hứa rằng họ sẽ trả số nợ ấy sớm nhất có thể.

“KHÔNG”, Paderewski nói. “Cái này không thể nào chấp nhận được.” Ông ta xé tờ check, trả lại $1,600 cho hai chàng thanh niên và nói : “Đây là 1600 đô, sau khi trừ hết tất cả các chi phí cho buổi biểu diễn thì còn bao nhiêu các cậu cứ giữ lấy cho việc học. Còn dư bao nhiêu thì hãy đưa cho tôi”. Hai cậu sinh viên ấy vô cùng bất ngờ, xúc động cảm ơn Paderewski..

Đây chỉ là một làm nhỏ, nhưng đã chứng minh được nhân cách tuyệt vời của
Paderewski.

Tại sao ông ấy có thể giúp hai người mà ông ấy thậm chí không hề quen biết. Chúng ta tất cả đều đã bắt gặp những tình huống như vậy trong cuộc sống của mình. Và hầu hết chúng ta đều nghĩ : “Nếu chúng ta giúp họ, chúng ta sẽ được gì ?”. Thế nhưng, những người vĩ đại họ lại nghĩ khác: “Giả sử chúng ta không giúp họ, điều gì sẽ xảy ra với những con người đang gặp khó khăn ấy?”. Họ không mong đợi sự đền đáp, Họ làm chỉ vì họ nghĩ đó là việc nên làm, vậy thôi.

Người nghệ sĩ dương cầm tốt bụng Paderewski hôm nào sau này trở thành Thủ Tướng
của Ba Lan. Ông ấy là một vị lãnh đạo tài năng. Thế nhưng không may chiến tranh thế giới nổ ra, và đất nước của ông bị tàn phá nặng nề. Có hơn một triệu rưỡi người Ba Lan đang bị chết đói, và bây giờ chính phủ của ông không còn tiền để có thể nuôi sống họ được nữa. Paderewski không biết đi đâu để tìm sự giúp đỡ. Ông ta bèn đến Cơ Quan Cứu Trợ Lương Thực Hoa Kỳ để nhờ sự trợ giúp.

Người đứng đầu cơ quan đó chính là Herbert Hoover, người sau này trở thành Tổng Thống Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Ông Hoover đồng ý giúp đỡ và nhanh chóng gửi hàng
tấn lương thực để cứu giúp những người Ba Lan đang bị đói khát ấy.

Thảm họa cuối cùng cũng đã được ngăn chặn. Thủ Tướng Paderewski lúc bấy giờ mới
cảm thấy nhẹ nhõm. Ông bèn quyết định đi sang Mỹ để tự mình cảm ơn ông Hoover
vì cử chí cao quý của ông ấy đã giúp đỡ người dân Ba Lan trong những lúc khó khăn. Thế nhưng khi Paderewski chuẩn bị nói câu cảm ơn thì ông Hoover vội cắt ngang và nói : “Ngài không cần phải cảm ơn tôi đâu, thưa ngài Thủ Tướng. Có lẽ ngài không còn nhớ, nhưng vài năm trước, ngài có giúp đỡ hai cậu sinh viên trẻ tuổi ở bên Mỹ được tiếp tục đi học, và tôi là một trong hai chàng sinh viên đó đấy ”

THẾ GIỚI NÀY ĐÚNG THẬT LÀ TUYỆT VỜI, KHI BẠN CHO ĐI THỨ GÌ, BẠN SẼ NHẬN LẠI ĐƯỢC NHỮNG ĐIỀU TƯƠNG TỰ.

 

Nhân nghĩa đạo đức nay còn đâu!

Nhân nghĩa đạo đức nay còn đâu!

Trần Việt Trình

Cách đây chỉ mới mấy hôm, việc một ông cụ già ngay sau khi vừa xuất viện bị các con “vứt” ra ngoài vỉa hè nằm phơi nắng, phơi mưa gần 1 ngày trời đang còn gây xôn xao và khiến cho dư luận hết sức phẫn nộ.

Sự việc xảy ra vào trưa ngày 7 tháng 9 vừa qua, cụ ông tên Ngô Vỹ Nhân (87 tuổi) sau khi bệnh viện cho về sau 2 tháng điều trị đã bị các con đưa tới trải chiếu đặt nằm trên vỉa
hè trước cửa ngôi nhà số 11, phố Núi Trúc, Hà Nội.

Ngôi nhà nói trên là của người con trai cả của ông đã qua đời cách đây 2 năm. Hiện tại, người con dâu cả, cháu nội gái và người vợ đã ly thân của ông đang sống trong căn nhà này. Tầng trệt của ngôi nhà được cho thuê làm tiệm bán quần áo.

Ông chủ quán nước đối diện với ngôi nhà kể lại sự việc như sau: “Khoảng 11 giờ trưa tôi thấy chiếc taxi chở ông cụ Nhân về đây. Con gái, con dâu, con rể cụ vừa đưa bố xuống xe đã trải chiếu ngay trên vỉa hè để bố nằm. Rồi thì lỉnh kỉnh quần áo, đồ đạc đi viện cũng bị vứt xung quanh ông cụ”.

Ông chủ quán nước thở dài: “Nhìn ông cụ chỉ còn da bọc xương, gắng gượng hút bát phở mà lòng đắng ngắt. Chúng tôi chỉ là hàng xóm sống xung quanh mà còn không cầm được nước mắt khi nhìn ông cụ nằm mê mệt trên vỉa hè. Con cái bất nhân quá”.

Ông kể tiếp: “Trời lúc nắng lúc mưa. Có lúc chỗ ông cụ nằm còn là vũng nước mà chúng nó vẫn mặc kệ. Anh con rể cầm được 2 cái ô ra che mưa cho bố vợ. Còn hai cô con gái chạy vào mái hiên gần đấy đứng trú. Thỉnh thoảng lại chạy ra ngó xem bố còn sống hay không”.

 

(Ảnh: Xa Lộ Tin Tức)

Đến quá 8 giờ tối mà sự việc vẫn chưa được  giải quyết, mặc dầu đã có chính quyền địa phương can thiệp, quá phẫn nộ về hành động ngược đãi cha của con cái của ông Nhân, ông chủ quán nước đã phải gay gắt mắng mỏ: “Không thể chấp nhận được lũ con mất nhân tính đó. Tôi sang nói với anh con rể có đưa cụ về nhà ngay không dân tình ở đây không tha cho các anh. Hàng xóm cũng làm ầm ĩ, ép anh này phải gọi taxi đưa bố về nhà ngay lập tức”. Người con rể của ông cụ gọi đến 5,7 chiếc taxi nhưng không tài xế nào chịu chở
vì sợ mang họa.

Chứng kiến cảnh đau lòng đó, nhiều người dân sống quanh khu vực đã phải phản đối, thậm chí còn to tiếng với các con của ông cụ, cuối cùng các con của ông đành phải đưa ông về nhà người con gái thứ hai.

Ông chủ quán nước kể rằng trong tình cảnh thương tâm đó, ông cụ chỉ im lặng, mắt nhắm chặt mà hai dòng nước mắt cứ ứa ra ràn rụa.

Sự việc đã làm cho những người dân sống quanh đó và người đi đường không khỏi ngỡ ngàng. Không rõ lý do gì các con của ông lại đối xử tệ bạc với cha của họ, nhưng rất nhiều người không dằn được lòng đã phải lên tiếng bất bình.

Được biết khi ông cụ được đưa tới đây, các con của ông, con rể và con dâu của ông đã to tiếng, thậm chí còn “thượng cẳng chân, hạ cẳng tay” với nhau. Sau khi hàng xóm can gián, cô con dâu chủ nhà đã khóa cửa lại quyết không cho đưa ông vào nhà. Đứa cháu nội gái của ông 20 tuổi thì lại ngồi giữ cửa. Bà vợ đã ly thân với ông ở trong nhà cũng không ra mặt.

 



Được biết do bất hòa nên từ đã vài chục năm nay, ông cụ và vợ đã sống ly thân với nhau. Hai người con trai phân công nhau trách nhiệm nuôi dưỡng bố mẹ già. Theo thỏa thuận thì người con trai cả nhận nuôi mẹ còn người con trai út nhận nuôi cha. Hiện tại, người con trai cả đã quá cố, người con dâu cả vẫn làm bổn phận phụng dưỡng mẹ chồng. Sự việc không có gì đáng nói nếu không có chuyện hai cô con gái của ông cụ mang cha mình đến đặt nằm trên vỉa hè trước của ngôi nhà của người anh trai và ép chị dâu cho cha vào nhà, nhận thêm trách nhiệm phụng dưỡng cha mình.

Nói tới đây ai cũng có thể đoán được sự việc chẳng qua là vì các con của ông muốn tranh chấp ngôi nhà mà bà chị chồng (vợ của anh mình đã mất), cháu gái (con của anh mình) và mẹ (đã ly thân với cha của minh) đang sở hữu.

Tưởng cũng nên biết, ông cụ có 4 người con, 2 trai và 2 gái. Cả 4 người con của cụ đều được cho ăn học đàng hoàng, đến nơi đến chốn, ai cũng thành đạt và giàu có. Ngoài người con trai cả đã mất, 3 người con còn lại đều thành đạt và hiện đang làm ở các cơ quan nhà nước. Người con gái lớn của ông từng là y tá trưởng ở bệnh viện Mắt Trung ương, chồng là giảng viên trường đại học Thủy Lợi. Hai người con còn lại thì người làm kế toán, người làm bảo hiểm, hiện đã làm tới chức Trưởng phòng trong Công ty bảo hiểm Prudential Việt Nam. Nói như vậy để thấy bầy con của ông là một lũ có tài mà không có đức. Nhẫn tâm đặt cha đẻ của mình nằm trên vũng nước vỉa hè, phơi mưa, phơi nắng hơn 10 tiếng đồng hồ là một hành động nhẫn tâm, đáng xấu hổ và phải bị lên án nặng nề!

Nói gì thì nói, ai đúng ai sai chưa biết, chỉ việc dùng chính sức khỏe, tính mạng của cha mình ra để hầu mong đạt một mục đích (đen tối) nào đó thì quả thật quá bất nhân, bất nghĩa, vô đạo đức, không thể nào chấp nhận được!

Có loại con nào nỡ đối xử với người đã sinh thành dưỡng dục mình như vậy không!? Bất hiếu! Một lũ con bất hiếu! Chỉ biết nghĩ cho bản thân mình còn cha mẹ già thì bỏ mặc, dám đem ra làm phương tiện trao đổi trong khi ông cụ sức đã già yếu không biết sống được bao lâu nữa. Không biết khi hành hạ cha đẻ của mình như vậy, mấy người con của cụ có thấy
chút ray rứt nào không? Cha đẻ mà còn dám vứt ra đường như vậy thì chuyện gì mà
họ không dám làm!?

Đó là tiếng chuông dóng lên cảnh báo sự suy đồi đạo đức nghiêm trọng đã và đang xảy ra trong xã hội Việt Nam.

Đạo đức ngày nay ở VN như vậy đó sao? Với cha mẹ mình mà còn đối xử tệ bạc như thế thì thử hỏi với xã hội, với tha nhân, người ta sẽ đối xử ra sao nữa? Công việc của họ đang làm, chức vụ của họ đang nắm trong xã hội, chỉ để chuộc lợi cho mình thôi sao?

Trên đường phố VN ngày nay, nhan nhản những cách hành xử vô tình, vô tâm và vô cảm. Chỉ cần lướt qua một vài tờ báo online, lướt qua một vài tin tức trên các trang web trong nước là ai cũng sẽ dễ dàng bắt gặp vô số những tin tức tệ hại về nạn vô cảm. Nó đang hoành hành và lây lan khắp nước.

Nhưng đó chỉ là chuyện giữa người với người, không quen biết nhau. Vô cảm đối với cả người đã sinh thành và dưỡng dục mình là một chuyện ghê gớm, không chấp nhận được và đáng bị nguyền rủa.

So sánh sự khác biệt của xã hội VN xưa và nay, vẫn biết rằng thời nào cũng có sự hiện diện của cái thiện và cái ác, người tốt và kẻ xấu, tuy nhiên nó khác nhau về mức độ và sự thể hiện ở từng thời điểm. Đúng. Vậy thì căn bịnh vô cảm này do đâu mà có?

Xét về mặt xã hội, xã hội VN bây giờ quá phức tạp, đầy rẫy lọc lừa và tranh ăn.

Xét về mặt đạo đức, xã hội VN hiện tại quá đỗi suy đồi, niềm tin khủng hoảng. Đặc biệt, đó là sự suy đồi về đạo đức, nhân phẩm của những thế hệ trẻ ngày nay, mà biểu hiện rõ nhất đó chính là thái độ thờ ơ, vô cảm đối với mọi sự vật, mọi sự việc diễn ra xung quanh. Thái độ này đang dần lan tỏa trong xã hội VN, không chỉ trong giới trẻ mà đã len lỏi vào khắp mọi giới, không chỉ địa phương hay vùng miền nào mà lây lan khắp nước.

Xét về mặt giáo dục, căn bệnh vô cảm này là sản phẩm của một nền giáo dục yếu kém, thất bại. Nền giáo dục của người CS giáo điều với lý thuyết khô khan và nặng nề, không chú trọng đến việc đào tạo  nên “nhân cách” mà chỉ chú trọng đến việc đào tạo ra “nhân lực”. Nó thể hiện qua các chính sách, pháp lệnh cũng như chương trình học nặng nề của nhà nước.
Các môn quan trọng góp phần hình thành nên “nhân cách” con người là Giáo dục công dân từ lâu đã trở thành những môn phụ không đáng quan tâm, thời lượng tiết học vô cùng ít ỏi và nội dung học thì quá nặng nề, giáo điều thì làm sao có thể đào tạo nên những nhân tố tốt được. Sự sai lầm của giáo dục đã kéo theo một thế hệ không hoàn chỉnh, một thế hệ không thể nào miễn nhiễm được với những căn bệnh như vô cảm.

Tựu trung, căn bệnh vô cảm là kết quả của một lối sống chụp giựt, bon chen và tranh giành ngày nay, ngày ngày ăn sâu vào tinh thần văn hóa của xã hội VN khi mà các giá trị sống, giá trị đạo đức tinh thần, lòng bao dung nhân ái, tình thương yêu đồng loại, và sự hy sinh đang dần bị thế chỗ bởi chủ nghĩa vật chất và lợi ích cá nhân … làm cho con người không còn cảm giác trước nỗi đau của đồng loại, của người thân.

Người Việt mình xưa nay có truyền thống vô cùng tốt đẹp là “thương người như thể thương thân”, ấy vậy mà ngày nay có những cách sống đang đạp đổ truyền thống tốt đẹp này. Chữ “nghĩa” trong xã hội VN dường như đang dần mất đi nên con người hiện chỉ biết sống vì mình, sống ích kỷ, không còn dám hy sinh và sống không có trách nhiệm với đồng loại. Ngày xưa con người sống trọng “nghĩa, luôn đề cao tinh thần trách nhiệm, sự hy sinh, sẵn
sàng xả thân vì cái thiện, cho gia đình, cho đồng loại và cho đất nước. Vì thế mà ở thời ông cha ta những giá trị căn bản của tình nghĩa gia đình, thầy trò, tình yêu quê hương đất nước luôn được đặt lên cái tôi cá nhân. Bức tranh xã hội đang có sự đảo lộn giá trị, cái ác lên ngôi, trong khi giá trị nhân bản đang bị chìm lấp. Ngày nay, đang có sự thay đổi lớn trong hệ thống giá trị sống của con người. Khi một xã hội, một đất nước mà những người sống trong đó vô cảm, không hợp quần, không tương thân tương trợ lẫn nhau, không giúp đỡ nhau thì tất yếu cái xã hội đó sẽ què quặt, đất nước đó sẽ sụp đổ và bị tiêu hủy.

Nước VN của tôi ngày nay là thế đó. Dân tình của nước VN của tôi ngày nay là thế đó. Đó là kết quả của gần 60 năm xây dựng đất nước xã hội được mang danh là xã hội xã hội chủ nghĩa của những người vô thần, vô trách nhiệm, vô tri và vô giác đã đưa người dân cả nước đến chỗ vô tình, vô tâm và vô cảm ngày nay.

12 tháng 9 năm 2012

Trần Việt Trình

 

Giỗ 100 năm Hàn Mặc Tử:Có Chở Trăng Về Kịp Tối Nay ?


Giỗ 100 năm Hàn Mặc Tử:Có Chở  Trăng Về Kịp Tối Nay ?

LM. Giuse Trương Đình Hiền

9/20/2012                             nguồn: Vietcatholic.net

(Bài chia sẻ trong thánh lễ kỷ niệm 100 năm sinh nhật thi sĩ Hàn Mặc Tử )
(22/11/1912 – 22/11/2012)
Kính thưa cộng đoàn Phụng Vụ,
Trong bầu khí ấm cúng, thân thương của Bàn Tiệc Thánh Thể hôm nay, thánh lễ
dành kỷ niệm 100 năm ngày sinh của thi sĩ Hàn Mặc Tử, một nhà thơ Công Giáo,
một vì sao chói lọi trên vòm trời thi ca Việt Nam thế kỷ 20, quả thật chúng
ta thấy gần gũi dường nào và ấm cũng biết bao:
– Ấm cúng với nhau, bên nhau trong niềm tin phục sinh – cõi vĩnh hằng và
trong đồng cảm văn hóa, văn hóa của thi ca mà người đón mời và nối kết hôm
nay – thi sĩ Hàn Mặc Tử, đang hiện diện cách vô hình.
– Gần gũi với cõi thiêng liêng, với Đấng Thiên Chúa yêu thương và toàn năng,
một sự gần gũi mà hình như chỉ có ngôn ngữ thi ca của Hàn Mặc Tử mới diễn đạt
cách tài tình và sống động:
Cả trời bỗng tiêu diêu như báu vỡ:

Nên tiếng vang thầm dội đến thâm tâm,
Mà ta ngỡ đấng tiên tri muôn thuở

Giữa đêm nay còn đứng giảng Phúc Âm. (Nguồn Thơm)
Hôm nay chúng ta tưởng niệm một người đã khuất nhưng trong một “bàn tiệc
của sự sống”; niềm tin đã nối kết kẻ sống và người đã ra đi trong niềm
hoan vui đoàn tụ và hy vọng phục sinh. Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn rất chí lý
khi diễn tả cảm nhận nầy trong ca khúc “Nối vòng tay lớn”:
“Người chết nối linh thiêng vào đời và nụ cười nở trên môi”. Tôi
tin chắc rằng, nếu thi sĩ Hàn Mặc Tử mà sống lại và hiện diện như chúng ta và
với chúng ta trong bối cảnh nầy, chắc anh đã có một bài thơ khác về cái chết,
về sự sống bên kia sẽ đầy hy vọng, tươi sáng hơn những bài thơ mà anh đã sáng
tác khi liên tưởng tới cái chết của chính mình, một sự hiện hữu của thế giới
bên kia mà anh cảm nhận quá ư cô đơn, đen tối, lạnh lùng:
Tôi vẫn còn đây hay ở đâu ?

Ai đem tôi bỏ dưới sông sâu ?
Sao bông phượng nở trong màu huyết ?
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu ? (Những Giọt Lệ)

Hoặc:
Rồi hồn ngắm tử thi hồn tan rã,

Bốc thành âm khí loãng nguyệt cầu xa.
Hồn mất xác, hồn sẽ cười nghiêng ngả,
Và kêu rêu thảm thiết khắp bao la. .. (Hồn lìa khỏi xác)

Hoặc:
Một mai kia ở bên khe nước ngọc

Với sao sương Anh nằm chết như trăng
Không tìm thấy nàng tiên mô đến khóc
Đến hôn Anh và rửa vết thương tâm (Duyên kỳ ngộ)

Mà quả thật, hôm nay, trên cõi vĩnh hằng, chắc chắn anh đã cảm nhận khác rồi.
Đặc biệt hôm nay, và trong suốt bao tháng năm qua, tưởng nhớ đến anh không
chỉ là “bông phượng nở trong màu huyết” để “Nhỏ xuống lòng tôi
những giọt châu”, hay để “nàng tiên mô đến khóc ” và hôn Anh
và rửa vết thương tâm”. ..mà như nhận xét của Kiều Văn:
“Hơn nửa thế kỷ qua, không thể đếm xuể những con người thuộc mọi tầng lớp,
mọi trình độ, đã nghiêng mình kính cẩn trước anh linh Hàn Mặc Tử, không thể
đong được những dòng lệ mà người đời đã nhỏ xuống khóc người thi sĩ tài hoa
bạc mệnh ấy”
(Trích trong bài khảo luận: “Hàn Mặc Tử Anh là ai
? của Hoàng Vũ Thuật)
Nhưng cho dù anh thế nào và nhiều người ở đây đã biết về anh ra sao, thì
trong ngày kỷ niệm 100 năm anh mở mắt chào đời, 100 năm anh được Thượng Đế
trao ban cuộc sống làm người và làm con Thiên Chúa, chúng ta cũng phải một
lần sơ lượt cuộc đời và sự nghiệp của anh, như nghĩa cử “đập cổ kính ra
tìm lấy bóng”, một cái bóng vĩ đại trên thi đàn Việt Nam và trong vườn
thơ Công Giáo.
Hàn Mạc Tử hay Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí. Sinh ngày 22.9.1912
tại làng Lệ Mỹ, tổng Võ Xá, huyện Phong Lộc (nay là Đồng Hới), tỉnh Quảng
Bình. Được rửa tội ngày 25.9.1912 tại nhà thờ Tam Tòa với tên thánh Phanxicô
Assisi và 21 năm sau – 1933 – chịu phép Thêm Sức tại nhà thờ Chính Tòa Qui
Nhơn với tên thánh là Phanxicô Xavie. Thân phụ và thân mẫu của thi sĩ là Vinh
Sơn Phaolô Nguyễn Văn Toản và Maria Nguyễn thị Duy.
Nhà thơ Hàn Mạc Tử là người con thứ tư trong một gia đình có 8 anh chị em:
anh trai là Nguyễn Bá Nhân, hai chị là Nguyễn Thị Như Nghĩa, Nguyễn Thị Như
Lễ và bốn em trai là Nguyễn Bá Tín, Nguyễn Bá Hiếu, Nguyễn Văn Hiền, Nguyễn
Văn Thảo. Vì là một nhà nho học, ông Nguyễn Văn Toản đã chọn Ngũ Thường
(Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí Tín) của Ðức Khổng Tử để đặt tên cho các con với ước
mong chúng sẽ bước theo vết chân của các bậc thánh hiền.
Do hoàn cảnh gia đình, thi sĩ phải di cư và sống nhiều nơi: Sa Kỳ Quảng Ngãi
(1924-1926), Qui Nhơn (1926-1928), Học Pellerin ở Huế (1928-1930), làm công
chức ở Qui Nhơn (1930-1933), sống và viết báo tại Sài Gòn (1934-1936), về lại
Qui Nhơn và tạm trú nhiều nơi khi trỗ bệnh hiểm nghèo (1937-1940). Ngày
20.09.1940 nhập trai phong Qui Hòa với số hiệu bệnh nhân 1134 để được các nữ
tu dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ chăm sóc.
Sau 52 ngày được các nữ tu, đặc biệt sơ Julienne và Mẹ Nhất Maria Juetta, tận
tình săn sóc, cùng một người bạn thân đồng bệnh đồng đạo người Huế, ông
Nguyễn Văn Xê, giúp đỡ, nhà thơ tài hoa bạc mệnh Hàn Mạc Tử đã nhẹ nhàng tắt
thở lúc 5 giờ 45 sáng ngày 11 tháng 11, 1940, hưởng dương 28 tuổi.
Sau đây là “gia tài văn hóa” của Hàn Mặc Tử:
– Lệ thanh thi tập Thơ
– Gái quê Thơ
– Nắng xuân Giai phẩm
– Đau thương Thơ
– Xuân như ý Thơ
– Thượng thanh khí Thơ
– Cẩm châu duyên Thơ
– Duyên kỳ ngộ Kịch
– Quần tiên hội Kịch
– Chơi giữa mùa trăng Thơ văn xuôi
Sau 72 năm từ khi thi sĩ qua đời (1940), đã có không biết bao nhiêu phê bình,
đánh giá, nghiên cứu, mổ xẻ. Nhà phê bình Trần Văn Lý trong tiểu luận văn học
tái bản năm 2006, đã xếp Hàn Mặc Tử là một trong 4 thi sĩ tiêu biểu đáng nhớ
nhất của thế kỷ 20.
Riêng trong lãnh vực niềm tin và thi ca nơi hàn Mặc Tử, linh mục Trần Quý
Thiện đã có những nhận xét chí lý:
“Hàn Mặc Tử, một thi nhân, một nhà thơ Công Giáo, một tâm hồn thuấn nhầm
Niềm Tin Công Giáo sâu sắc, được nuôi dưỡng bằng kinh nguyện, bằng đời sống
nội tâm phong phú thánh thiện, đã khám phá được những chiều kích mới lạ vượt
qua những niềm đau bất hạnh mà thi nhân đã trải qua. Càng đọc thi phẩm bất hủ
Ave Maria càng đưa chúng ta tới bến bờ huyền nhiệm trong thế giới vô hình.
Phải chăng qua đó, nhà thơ đã đi tiên phong trong sứ mệnh trình bày một nền
Thần học Á Châu dựa trên những suy tư và văn hóa lâu đời của Á Châu. Ðem tôn
giáo vào thơ, lấy nguồn cảm hứng thơ trong tôn giáo phải chăng Hàn Mạc Tử đã
đi đúng con đường mà sau này Tông Huấn Giáo Hội Á Châu đã trình bày. Ðây
chính là một vinh dự cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, vì có một người con đã
đóng góp và khai phá một con đường mới trong Văn Học Việt Nam”
.
Nhưng có lẽ để tóm kết những gì đặc biệt nhất, thâm sâu nhất, tuyệt vời nhất
về giá trị thi ca nơi Hàn Mặc Tử, cả đạo lẫn đời, nhiều người có thể tâm đắc
với nhận xét của thi sĩ Chế Lan Viên, người bạn và nhà thơ đồng thời với Hàn
Mặc Tử: “Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm thường,
mực thước kia biến tan đi và còn lại của cái thời kỳ này chút gì đáng kể, đó
là Hàn Mặc Tử”.
Kính thưa cộng đoàn,
Trong khung cảnh Phụng Vụ của thánh lễ tưởng niệm hôm nay, đặc biệt, qua gợi
ý của trích đoạn Tin Mừng Luca về “Dụ ngôn người gieo giống”, tôi chỉ xin
chia sẻ đôi điều về người thi sĩ mang danh “thi sĩ của đạo quân Thánh Gi
1. Hàn Mặc Tử: người đã đem hạt giống Lời Chúa, hạt giống đức tin nhập thể
vào đời bằng ngôn ngữ thi ca.
Để xác định ý nghĩa nầy chúng ta có thể đọc lại chính quan niệm của anh về
thơ:
“Đức Chúa trời tạo ra trăng, hoa, nhạc, hương là để cho người đời hưởng
thụ, nhưng người đời u mê phần nhiều không biết tận hưởng một cách say sưa,
và nhân đấy chiêm nghiệm lẽ mầu nhiệm, phép tắc của Đấng Chí tôn. Vì thế, trừ
hai loài trọng vọng là “ thiên thần” và “ loài người”, Đức Chúa Trời phải cho
ra đời một loài thứ ba nữa: “ loài thi sĩ”! Loài này là những bông hoa rất
quí và rất hiếm, sinh ra đời với một sứ mạng rất thiêng liêng: Phải biết tận
hưởng những công trình châu báu của Đức Chúa Trời đã gây nên, ca ngợi quyền
phép của Người, và trút vào linh hồn người ta những nguồn khoái lạc đê mê,
nhưng rất thơm tho tinh sạch…Cho nên tất cả thi sĩ trong đời phải qui tụ,
phải đi khơi mạch thơ ở Đức Chúa Trời. Thi sĩ không phải là một người thường.
Với một sứ mệnh của Trời thi sĩ phải biết đem cái tài năng ra ca ngợi Đấng
Chí Tôn, và làm cho người đời thấy rõ vẽ đẹp của thơ, để đua nhau nhìn nhận
và tận hưởng…”
(Thư gửi cho Trọng Miên: Quan niệm về Thơ).
Và phải chăng đó chính dòng chảy bất tận thiên thu của công trình “hội nhập
hạt giống Lời Chúa” mà ngay từ thuở hồng hoang Cựu ước, các tác giá Thánh
Kinh thể hiện với “Diễm Tình Ca”, với “Thánh Vịnh”, với những hình ảnh thơ
mộng nơi Isaia, tình tứ nơi Hô-sê hay huyền ảo, mầu nhiệm với Ê-giê-ki-en,
Đa-ni-en…
Chỉ một đôi câu trong bài thơ “Thánh Nữ Đồng Trinh”, thi sĩ Hàn Mặc Tử đã cho
chúng ta cái cảm nhận thật sống động về mầu nhiệm Nhập Thể-Giáng Sinh:
Hỡi Sứ Thần Thiên Chúa Gabriel,

Khi người xuống truyền tin cho Thánh Nữ,
Người có nghe xôn xao muôn tinh tú?
Người có nghe náo động cả muôn trờỉ
Người có nghe thơ mầu nhiệm ra đời…(

Thánh Nữ Đồng Trinh)
Và đó chính cuộc gặp gỡ, giao duyên của những con người đã từng có những cảm
nhận sâu xa về đức tin, về Lời Chúa để có thể “bật ra” những diễn cảm thâm
thúy, hay ho mà lịch sử Giáo Hội đã minh chứng qua các chứng nhân như Giáo
phụ Augustinô, các nhà thần bí như Têrêsa Avila, Gioan Thánh Giá…
Riêng Hội Thánh Việt Nam, trước Hàn Mặc Tử, cũng đã có bao nhiêu con người đã
vận dụng thơ văn để chuyển tải Lời Chúa, để truyền bá đức tin mà hôm nay
chúng ta xác nhận bằng ngôn ngữ của thời đại đó là những cuộc “hội nhập văn
hóa”.
2. Hàn Mặc Tử: Người đã biến cuộc đời thành mảnh đất tốt để hạt giống đức tin
sinh hoa kết trái phong phú.
Với chỉ 28 năm trong cuộc đời tại thế mà trong đó là lao đao lận đận trong bể
khổ bến mê, thất bại trong đường tình, đớn đau vì bệnh tật. Thế nhưng, Hàn
Mặc Tử không vì thế mà để cuộc đời mình chìm đắm trong thất vọng nảo nề, thui
chột trong đầu hàng bế tắc. Anh đã sống hết mình và đã biến mình thành một “hạt
giống chịu mục nát với thời gian”, một “mảnh đất tốt để trỗ sinh nhiều hoa
trái”. Anh đã nói:
“Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng
lệ, bằng hồn. Tôi đã phát triển hết cả cảm giác của Tình Yêu. Tôi đã vui,
buồn, giận hờn đến gần đứt cả Sự Sống”. (Lời tựa của tập Thơ Điên 1938)
Trong ý nghĩa đó, quả Hàn Mặc Tử đã gia nhập những thế hệ nhân chứng mà thi
sĩ đã tự nhận đó là “đạo quân Thánh giá”:
“Đây thi sĩ của đạo quân Thánh giá,

Nửa đêm nay vùng dậy để tung hô,
Để sớt cho cả xuân xuân thiên hạ
Hương mến yêu là lộc của lời thơ”.

(Nguồn Thơm)
Kính thưa quý vị, trong bàn Tiệc Thánh Thể hôm nay, trong niềm tin vào sự
Phục Sinh của Chúa Kitô, chúng ta tin rằng, Hàn Mặc Tử đang cùng chúng ta
tham dự bàn Tiệc Tạ Ơn nầy, đang cùng nhau dâng lời ca ngợi tạ ơn Chúa, tôn
vinh Đức Mẹ Đồng Trinh, lời tôn vinh ca ngợi vượt qua không gian và thời gian
mà ngày xưa chính thi sĩ đã từng cảm nhận:
Ngọc như ý vô tri còn biết cả

Huống chi tôi là Thánh thể kết tinh
Tôi ưa nhìn Bắc Đẩu rạng bình minh,
Chiếu cùng hết khắp ba ngàn thế giớị..
Sáng nhiều quá cho thanh âm vời vợi,
Thơm dường bao cho miệng lưỡi khong khen

. (Thánh Nữ Đồng Trinh)
Và có lẽ, nói về Hàn Mặc Tử sẽ không bao giờ ta nói hết, chia sẻ về người thi
sĩ mang tiếng “Điên” nầy sẽ không bao giờ cạn. Bởi chính anh ta cũng chỉ là
một nổi khát vọng vô bờ như hình ảnh con chim phượng hoàng bay cao, bay cao
lên mãi như lời thơ anh:
Phượng Trì! Phượng Trì!Phượng Trì! Phượng Trì!

Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu,
Hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu

.
Và như thế, để tưởng niệm 100 năm ngày sinh của Hàn Mặc Tử hôm nay, chúng ta
cũng chỉ như một khách sang sông mượn chiếc thuyền chở trăng về quá khứ cho
kịp tối nay:
Thuyền ai đậu bến Sông Trăng đó,

Có chở trăng về kịp tối nay?

(Đây thôn Vỹ Dạ)
Để nói với Hàn Mặc Tử rằng: Yên tâm đi thi sĩ, chúng tôi ở đây, bây giờ vẫn
dành cho anh một tình cảm đậm đà, đậm đà như tim anh đã từng rung lên khi về
thăm thôn Vỹ:
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,

Ai biết tình ai có đậm đà?

(Đây thôn Vỹ Dạ)
Và như thế, chúng ta đã sẵn sàng cùng với anh tiến dâng cuộc đời làm hy lễ.
Amen.
LM. Giuse Trương Đình Hiền

Thiên Chúa có kêu gọi bạn ?

 

Thiên Chúa có kêu gọi bạn ?

 

Tác giả JACK GRAHAM

Bạn có nhận ra Thiên Chúa đặc biệt kêu gọi bạn trong cuộc đời này? Ngài thực sự
kêu gọi bạn đấy!

Có thể bạn không cảm thấy Thiên Chúa hướng dẫn bạn trở nên một nhà truyền giáo
hoặc người giảng thuyết, nhưng bạn vẫn được kêu gọi. Đó là nhiệm vụ mà bạn
không được lẩn trốn!

Trong Kinh thánh, 5 lần Chúa Giêsu kêu gọi những người theo Ngài “đi” vào thế
gian và làm chứng về Ngài. Đó cũng là điều chính xác Ngài đang nói với chúng ta
ngày nay. Ngài kêu gọi bạn làm nhân chứng của Ngài. Và bạn có thể bắt đầu từ
ngay nơi bạn đang ở!

Chúng ta được Ngài kêu gọi, điều đó chắc chắn, không còn gì mà nghi ngờ. Bạn có
nghe thấy tiếng Ngài gọi? Bạn có chú ý lời mời gọi đó và vâng theo Thánh Ý
Ngài? Điều đó rất quan trọng để bạn thực hiện.

Bạn biết đó, Thiên Chúa đã đặt những người đặc biệt trên đường đời của bạn. Họ
cần biết những gì Thiên Chúa đã làm cho bạn. Họ cần nghe nói về phúc lành và
bình an của Thiên Chúa. Họ cần biết Thiên Chúa yêu thương họ, thương xót họ, và
họ cần biết Ngài có tương lai hy vọng dành cho họ.

Vậy hãy can đảm trong Đức Kitô! Hãy cầu nguyện cho những người có nhu cầu trong
cuộc đời họ. Hãy làm chứng về Hồng ân Cứu độ của Thiên Chúa. Đó là lời mời gọi
dành cho bạn, là nhiệm vụ mà Thiên Chúa đã tin tưởng trao cho bạn. Hãy hành
động ngay bây giờ, bạn nhé!

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Jesus.org)

Lễ Thánh Lm Anrê KIM, Phaolô CHONG, và các bạn tử đạo – 20/9/2012

Trách nhiệm làm Cha Mẹ

Trách nhiệm làm Cha Mẹ

Bạn có cảm thấy “mệt mỏi” với công việc đến nỗi khiến bạn cảm thấy “xa rời”” con cái? Và bạn có cảm thấy mình có lỗi với chúng? Xin đừng quá lo lắng!

Việc giáo dưỡng con cái bắt buộc cha mẹ bận rộn đủ thứ, cả đời sống thường nhật và đời sống tình cảm, để rồi có lúc bạn cảm thấy mệt mỏi, rời rã, thậm chí bị thâm quầng đôi mắt!

Có thể cha mẹ là những “chuyên gia” trong việc cho ăn uống, cho mặc, dỗ dành, phân công,… Nhưng có lúc vẫn cảm thấy lúng túng khi xử lý các sai lỗi của con cái, dù chỉ là lỗi nhỏ. Nếu công tâm và rạch ròi, bạn phải công nhận điều đó!

Thật vậy, có người cảm thấy thiếu trách nhiệm làm cha mẹ đối với con cái (bằng một động thái nào đó). Quá nghiêm khắc hoặc quá nhu nhược cũng là một trạng thái “phi trách nhiệm”. Cũng là “phi giáo dục” nếu bạn dễ dãi cho chúng tiền bạc khi chúng xin mà không rõ lý do chính đáng.

Nuôi dạy con cái là một trọng trách, nhưng vô cùng thiêng liêng và cao quý, vì “nuôi con trai mà không dạy thì không bằng nuôi con lừa, nuôi con gái mà không dạy thì không bằng nuôi con heo” (Trinh Thị). Ngoài ra, “chúng ta không chỉ dạy con cái bằng những điều bảo ban mà còn bằng chính cách sống của chúng ta” (V. A. Xukhôlinxki).

Ngạn ngữ Đức có câu: “Một người cha có con thì dễ, nhưng để làm người cha thì thật khó”. Đúng vậy, đã là trọng trách thì phải khó, nhưng phải chu toàn, dù muốn hay không muốn. Nhiệm vụ ấy không chỉ hoàn thành cho xong mà phải hoàn thành một cách xuất sắc. Trách nhiệm không của riêng ai, mà là của cả cha mẹ và các thành viên khác trong gia đình. Đừng câu nệ mà đổ lỗi là “con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”, hoặc đổ lỗi lẫn nhau để “dày vò” nhau.
Cần phải “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”.

Nhiều phụ huynh quá giản dị hóa, lơ là bổn phận để rồi “không kịp hối”. Con cái còn “trẻ người, non dạ” và “ăn chưa no, lo chưa tới”, cha mẹ nên lưu ý chúng vì cạm bẫy lúc nào cũng bủa vây “như sư tử đang rình mồi để cắn xé”, mọi nơi và mọi lúc, cả tinh thần lẫn thể lý, nhất là trong xã hội ngày nay. Cần phân tích để con cái biết chính diện và phản diện kẻo chúng ngộ nhận. Thái quá thì bất cập, do đó cha mẹ không nên khư khư kiểm soát quá gắt gao như
người quản tù theo dõi tù nhân, nhưng cũng đừng bao giờ thả lỏng.

Hãy nói ít, và chỉ nói những điều cần thiết, đừng “lèm bèm” hoặc “nói dai như đỉa đói”. Đó là diệu kế giáo dục con cái để chúng nên người hữu dụng. Lời nói có thể làm “lung lay”, nhưng chính gương lành mới đủ sức “lôi kéo”. Khi cần nghiêm trị, cha mẹ cần tỏ thái độ cương nghị, răn dạy chúng bằng lòng yêu thương và nhân từ, đừng sửa phạt chúng
bằng lòng căm hận khiến chúng khiếp sợ mà phản tác dụng, thậm chí chúng không
còn cảm thấy kính trọng cha mẹ. Tuy nhiên, cha mẹ cũng không nên buông tuồng,
vì tiền nhân đã cảnh báo: “Bờn nhờn chó con liếm mặt”.

Trách nhiệm làm cha mẹ tuy cần thiết và khó khăn, nhưng không phải là không thể thực hiện. Đó còn là niềm hạnh phúc kỳ diệu của một tổ ấm mà không gì có thể sánh được. Sử Viễn so sánh: “Vui nhất không gì bằng đọc sách, cần nhất không gì bằng dạy con”. Đừng quá tham công tiếc việc, chạy theo đồng tiền, lo làm giàu mà chểnh mảng việc giáo dục con cái. Vừa cương vừa nhu, đồng thời cố gắng tạo sự cởi mở để làm “gạch nối” trong hệ lụy cha mẹ và con cái.

Sau khi khảo sát các gia đình ở 20 quốc gia, một học giả người Mỹ kết luận: “Con cái muốn cha mẹ không cãi nhau, luôn đối xử công bằng với con cái, không thất hứa hoặc nói dối, cha mẹ nhường nhịn nhau chứ không trách cứ nhau, biết quan tâm lẫn nhau và quan tâm con cái, vui vẻ với bạn bè của con cái, không cáu gắt, cho con cái tham gia ý kiến, được vui chơi, dám nhận khuyết điểm nếu cha mẹ có lỗi”.

Tuyệt đối cha mẹ không nên áp chế, điều gì cũng cho là con cái “cãi”. Đó là thiếu dân chủ và thiếu công bằng trong gia đình, vì “quá phê phán người khác là phủ nhận quyền tự do sống của người đó” (K Mamutri). Con cái cần những gương tốt hơn là lời chỉ trích. Tuy nhiên, đừng nuông chiều chúng. Tục ngữ Tày Nùng nói: “Yêu con thì yêu sau lưng, giận con nên giận trước mặt”. Cái “nhu” của người mẹ kết hợp với cái “cương” của người cha để hài hòa giáo dục: “Mẹ đánh một trăm không bằng cha ngăm một tiếng” (Tục ngữ Việt Nam).

Thật hạnh phúc cho những ai đã, đang và sẽ làm cha mẹ nếu luôn là niềm hãnh diện của con cái, là ngọn hải đăng luôn tỏa sáng dẫn đường, luôn chu toàn trọng trách, và như vậy mới luôn xứng đáng là “Núi Thái Sơn” và “Nước Trong Nguồn”.

TRẦM THIÊN THU

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Tổ ấm

Tổ ấm

Tác giả: TRẦM THIÊN THU

Gia đình là tế bào cơ bản để tạo nên xã hội, là loại hình cộng đồng nhỏ nhất, và được ưu ái gọi là “tổ ấm”.

Dù ở thời đại nào và dù là ai, mỗi người đều có nguồn gốc là gia đình. Trong một cuộc thăm dò mang tính quốc tế, người ta đặt tiêu chí gia đình lên hàng đầu là 75%, và 95% chọn gia đình là một trong những thứ quan trọng trong đời sống.

Có nhiều điểm làm nền tảng gia đình, nhưng chúng ta có thể coi các điểm than chốt dưới đây là “chìa khóa” để tạo lập gia đình và để mở cửa hạnh phúc gia đình:

1. ÂN CẦN. Nói năng cộc lốc, thiếu lễ độ hoặc cư xử thô lỗ sẽ gây mất thiện cảm, làm các thành viên gia đình cảm thấy thất vọng. Nên tỏ thái độ ân cần, cởi mở, òa đồng, thương yêu và chân thành. Những điều tưởng chừng nhỏ bé đó mà lại có tầm quan trọng đáng kể. Tác dụng lời “cảm ơn” hay “làm ơn…” rất mạnh. Là con, là cháu nên xưng mình là “con” với các bậc trên (bác, chú, cậu, mợ, cô, dì,…) để tỏ sự gần gũi, thân mật. Đại từ “cháu” nghe rất xa cách. Là vợ chồng nên xưng với nhau là “anh, em” và cũng nên “vâng, dạ” cho ngọt ngào. Đừng “quen quá hóa lờn”. Lòng yêu thương chân thành sẽ tự nhiên toát ra sự ân cần.

2. PHỤC THIỆN. Không cần thái quá hoặc câu nệ “nghi thức”. Một câu “xin lỗi” chứng tỏ sự phục thiện. Nhân vô thập toàn. Không ai lại không lầm lỡ. Bề dưới xin lỗi bề trên đã đành, bề trên cũng rất cần xin lỗi bề dưới. Cha mẹ và con cái, anh chị em, vợ chồng,… đều phải biết chân thành xin lỗi nhau mới “phải phép”, ít ra cũng là lịch sự tối thiểu. Hối hận và tha thứ là việc cần thiết, nhất là trong gia đình, vì hằng ngày ra vào gặp nhau và đồng bàn mỗi bữa ăn, không thể nhìn nhau bằng những “tia lửa”. Ca dao phân tích: “Khôn ngoan
đối đáp người ngoài, Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”
.

3. TRUNG THÀNH. Không được gay gắt, chì chiết, nói xấu nhau, nghi ngờ hoặc “dò
xét” nhau chi li. Hãy nhẹ nhàng sửa lỗi nhau, đừng bao giờ “vạch áo cho người xem lưng”. Có thể ganh đua nhưng không được ghanh tỵ. Chê trách người trong gia đình trước mặt người ngoài là tự chê trách mình. Tục ngữ nói: “Chị ngã, em nâng”, nhưng bênh vực nhau cũng phải bênh vực hợp lý theo lẽ phải chứ không thể “bao che”.

4. LỜI HỨA. Hứa và giữ lời hứa đều quan trọng như nhau. “Lời hứa” làm cho người ta háo hức chờ đợi và hy vọng. “Giữ lời hứa” làm cho người ta tin tưởng, khâm phục và hạnh phúc. Đừng bao giờ hứa nếu không thực hiện được, đừng hứa suông; cũng đừng nuốt lời hứa vì sẽ tự hạ giá mình. Đúng là “nói trước, bước không qua”. Hứa thì quá dễ, nhưng giữ lời hứa rất khó. Đừng khinh suất!

5. THA THỨ. Sự tha thứ khởi nguồn cho niềm tin tưởng và yêu thương vô điều kiện. Đó là một “phép mầu” tạo kết quả bất ngờ. Nó có thể tạo sự thay đổi ở người khác một cách mau chóng, nghĩa là bạn không phải lo tìm cách đối phó. Hãy kiên trì và nhịn nhục, hạnh phúc tuy đơn giản nhưng kỳ diệu vô cùng.

Để có một gia đình hạnh phúc, đúng nghĩa “tổ ấm” dễ chịu và thú vị nhất mà không ai bị “hụt hẫng” khi thấy sự chênh lệch giữa ảo tưởng và thực tế về gia đình hằng ngày, mỗi thành viên đều phải nỗ lực không ngừng, nhất là qua cách xử sự và lời nói dịu dàng. Đúng là “nói ngọt lọt tận xương”. Đồng thời cũng nên biết “vui với người vui, buồn với người buồn”. Quả thật, “hạnh phúc chỉ hoàn hảo khi nó được chia sẻ với người khác” (E. McKenzie).

Trong thư gởi giáo đoàn Êphêsô, Thánh Phaolô nhắn nhủ về đời sống gia đình: “Vì lòng kính sợ Đức Kitô, anh em hãy tùng phục lẫn nhau. Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa, vì chồng là đầu của vợ cũng như Đức Kitô là đầu của Hội Thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội Thánh, thân thể của Người. Và như Hội Thánh tùng phục Đức Kitô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy. Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh; như vậy, Người thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống, để trước mặt
Người, có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền. Cũng thế, chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình. Quả vậy, có ai ghét thân xác mình bao giờ; trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình, cũng như Đức Kitô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh, vì chúng ta là bộ phận trong thân thể của Người. Sách Thánh có lời chép rằng: Chính vì thế, người đàn  ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt.Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh. Vậy mỗi người trong anh em hãy yêu vợ như chính mình, còn vợ thì hãy kính sợ chồng”
(Ep 5:21-33).

Thánh Phaolô cũng nhắn nhủ riêng từng người: “Hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3:12-14).

TRẦM THIÊN THU

nguồn:Maria Thanh Mai gởi

DẤU CHÂN TRONG SA MẠC

DẤU CHÂN TRONG SA MẠC

 

Tác giả: M. Hoàng Thị Thùy Trang.

Ranh giới giữa sự sống và cái chết mỏng manh như trở bàn tay. Không ai là người có thể nắm giữ mạng sống. Cho dù giàu có, quyền cao chức trọng đến đâu, người ta cũng không thể nào thủ đắc được cuộc sống mình. Thế nhưng, thực tế trong cuộc sống, mọi người đều ra sức bảo tồn cuộc sống. Người khôn thì biết chọn lựa con đường khiến cho sự sống của mình được trường tồn hơn, kẻ dại thì tự hủy diệt chính mình.

Có nhiều cách khiến cho con người tự làm hại mình. Tựu trung cũng chỉ là lối sống ích kỉ,
hưởng thụ. Người chỉ biết ăn uống cho thỏa thuê khát vọng nhục dục, thì tự dẫn mình đến sự hủy hoại thân xác, làm mồi ngon cho những căn bệnh tai hại xâm nhập. Đó là cái chết về thân xác. Chưa kể đến cái chết tâm hồn. Những cái chết của lòng tham lam, ích kỉ, ghen tuông và thù hận, đã khiến cho con người sát hại, chiếm giết lẫn nhau.

Vậy thì, đâu là con đường duy nhất để có được sự sống đời đời? Thưa đó chính là con đường khổ giá. Đức Kytô, Ngài đã phải trải qua nhiều đau khổ, mới đến được vinh quang. Vậy thì chúng ta, là những đồ đệ của Ngài, chúng ta cũng không thể đi con đường nào khác ngoài con đường thập tự. Đó là con đường của tự hủy, yêu mến và hy sinh. Chỉ những ai quên bản thân, quên chính mình mới có thể bước đi trên con đường ấy được.

Đường thập giá là gì? Đó chính là con đường từ bỏ. Từ bỏ bản thân và vác khổ giá của chính mình chứ không phải của người khác. Đức Giêsu đã khẳng định như vậy: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mc 8,34)

Thập tự ở đâu? Thập giá là ở chỗ nào? Phải chăng hệ tại  chính bản thân? Bởi nó trái ngược với ý muốn, sở thích, tham vọng của tôi, cho nên nó trở thành thập giá. Thập giá bản thân thì nặng hơn thánh giá của tha nhân. Đức Giêsu, đã gánh trên vai mình cả thập giá và thánh giá nhân loại. Mọi lỗi lầm của con người, Ngài đã đón nhận vào hết thân thể để đưa lên cây thập tự làm của lễ hòa giải nhân loại với Thiên Chúa. Cho nên, bổn phận của chúng ta là
phải bước đi theo Ngài, vác lấy thập giá bản thân và gánh đỡ thánh giá tha nhân, để tất cả đều được cứu độ. Chỉ khi nào, thế giới biết chung vai gánh đỡ thánh giá của nhau, lúc ấy mới hy vọng có thái bình, thịnh vượng.

Nói vậy, Đức Kytô là ai? Ngài là ai để phải gánh lấy thập tự nhân loại. Ngài đã làm gì nên tội để phải gánh vác lỗi lầm thế gian?

Thưa, Ngài chính là Đấng của yêu thương. Ngài chính là đường của sự sống. Chỉ có một con đường duy nhất mang lại sự sống vĩnh cửu đó là con đường Kytô. Là con đường yêu thương và tận diệt. Là con đường khổ giá và vinh quang. Tất cả chúng ta, ai cũng có thể bước đi trên con đường ấy và đạt được hạnh phúc bất diệt, không còn đau khổ và phải chết, chỉ cần chúng ta biết từ bỏ… không còn biết mình là ai….!

Lạy Chúa, nhu cầu tự tôn bản thân thiết yếu như nhu cầu ăn mặc, bởi không ai có thể ghét chính bản thân mình. Con người sinh ra, đã được phú bẩm bản năng bảo tồn sự sống. Vậy mà Ngài lại dạy chúng con muốn theo Ngài, muốn sống vĩnh cửu thì phải từ bỏ chính mình. Bỏ Ngài, chúng con còn biết theo ai? Bởi chỉ mình Thiên Chúa là cội nguồn sự sống, là chốn phải tựa nương. Bỏ Ngài, chúng con biết chọn con đường nào để được hạnh phúc chứ? Xin giúp con, đã nhất quyết thì một lòng, kiên trung bước đi đến cùng. Dẫu thế gian là nước mắt, trái ngang và khổ đau…như một hoang mạc hoang vu, thì hệ tại ngay chính
nơi ấy đã có bước chân Ngài in dấu. Con không tự quyền chọn lựa nơi để sinh ra, nhưng con có tự do để chọn lựa chốn phải đi về. Xin cho con, chỉ cần can đảm, vững vàng đặt lên dấu chân Ngài, là có thể bước đến chân trời hạnh phúc.

M. Hoàng Thị Thùy Trang.

Nguồn:Maria Thanh Mai gởi

 

Chuyện ngược đời

Chuyện ngược đời

(Lễ Suy tôn Thánh Giá, năm B)

 

Tác giả: Trầm Thiên Thu

 

 

 

Thánh Phaolô có một ước muốn làm “nổi da gà” và “rợn tóc gáy”, hoàn toàn không giống ai: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6:14). Hãnh diện về thập giá? Hãnh diện vì gặp đau khổ? Hãnh diện vì bị nhục nhã? Thật là chuyện ngược đời!

Cố giám mục Lambert de la Motte (16/1/1624-15/1/1679), vị thừa sai người Pháp,
cũng đã có ý tưởng “không giống ai” nên mới sáng lập Dòng Mến Thánh Giá. Chắc
hẳn ngài phải cảm nghiệm sâu sắc về Cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô nên mới dám có
“sở thích” kiểu đó!

Thập giá là biểu tượng của sự đau khổ hoặc bất hạnh, vì đó là hình phạt tồi tệ
và ghê gớm nhất thời đó, như ngày nay là án tử hình. Cuộc sống thường nhật cũng
chẳng ai “mê” đau khổ, mà cố tránh như tránh quái vật hoặc ma quỷ vậy. Thế mà
những người thực sự yêu mến Đức Kitô lại “khoái” đau khổ. Quá ngược đời! Với
người không có niềm tin vào Đức Kitô, thậm chí có thể ngay cả một số người nhận
mình là người Kitô giáo, không thể hiểu được ý nghĩa của thập giá. Họ cho đó là
dại dột, là ngu xuẩn, là điên rồ, là… “bó tay chấm com”.

Trách nhiệm và bổn phận là “gánh nặng” hằng ngày mà ai cũng có, mỗi người mỗi
kiểu và mỗi mức độ khác nhau. Thánh Phaolô tâm sự: “Đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cr 9:16). Rao giảng Tin Mừng là một trách nhiệm, kính mến Chúa và yêu thương tha nhân là bổn phận khác – nhưng vẫn song song. Chẳng có trách nhiệm và bổn phận nào dễ dàng, vì thế mà luôn phải cố gắng. Mệt lắm! Thánh Phaolô cho biết phải “tự ý làm việc ấy thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công; còn nếu không tự ý thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó” (1 Cr 9:17). Làm vì bị bắt buộc, vì miễn cưỡng, thì cũng tốt, nhưng tự nguyện bao giờ cũng tốt hơn. Cái khó đối với chúng ta là Thiên Chúa cho chúng ta hoàn toàn tự do hành động.

Vậy đâu là phần thưởng? Thánh nhân trả lời: “Đó là khi rao giảng Tin Mừng, tôi
rao giảng không công, chẳng hưởng quyền lợi Tin Mừng dành cho tôi. Phải, tôi là
một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi
người, hầu chinh phục thêm được nhiều người” (1 Cr 9:18-19). Hoàn toàn tự
nguyện. Thánh nhân kể: “Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục
những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được
một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông
chia phần phúc của Tin Mừng” (1 Cr 9:22-23).

Cũng như “trong cuộc chạy đua trên thao trường, tất cả mọi người đều chạy,
nhưng chỉ có một người đoạt giải”, vì thế mà ai cũng phải cố gắng hết sức để
“chiếm cho được phần thưởng”. Không chỉ vậy, trước đó còn “phải kiêng kỵ đủ
điều”. Nghề nào cũng khó, ngành nào cũng mệt, muốn “chuyên nghiệp” về lĩnh vực
nào thì phải khổ luyện không ngừng. Người viết lách mà không viết thì bị “xuống
tay”, các văn nghệ sĩ không khổ luyện hằng ngày thì chẳng làm được trò trống
gì, các vận động viên không cố gắng khổ luyện thì đừng mong tranh tài,… Đơn
giản như học sinh đi học mà không chăm chỉ luyện tập thì không thể hoàn thiện
bản thân và không mong gì tươi sáng và đầy trách nhiệm như tục ngữ Việt Nam:
“Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời”.

Nhưng tất cả mọi hoạt động đó chỉ là để đoạt “phần thưởng chóng hư”. Còn chúng
ta, những người Kitô giáo, có một mục đích cao hơn, đó là “phần thưởng không
bao giờ hư nát”, là phúc trường sinh trên Thiên quốc. Không đạt được “phần
thưởng” Nước Trời là chúng ta phụ Tình Chúa, làm lãng phí giá Máu Cứu Độ của
Đức Kitô, là coi thường Lòng Chúa Thương Xót. Thánh Phaolô nói: “Vậy tôi đây
cũng chạy như thế, chứ không chạy mà không xác tín; tôi đấm như thế, chứ không
phải đấm vào không khí. Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau
khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại” (1 Cr 9:26-27). Chúng ta
cũng phải quyết tâm vậy!

Chính Chúa Giêsu đã từng bảo chúng ta phải “từ bỏ mình” và “vác thập giá mình
hằng ngày” (Mt 10:37-38; Mc 8:34; Lc 14:26-27), phải “qua cửa hẹp” (Mt 7:13),
phải ăn chay, phải hãm mình,… Toàn những điều “làm khổ mình” thôi. Khó lắm!
Chúa không “chơi khăm” chúng ta mà chỉ muốn chúng ta “nên người”. Chứ Ngài “hô
biến” một cái là chúng ta vào Thiên đàng cả đám ngay, nhưng Chúa muốn chúng ta
tự thân cố gắng để có thể hiểu được ý nghĩa sâu xa và giá trị của sự đau khổ,
đồng thời mới xứng đáng nhận phần thưởng. Có ăn lạt mới biết thương mèo. Có khổ
mới biết thương người khác.

Khổ luyện mình hằng ngày mới là thật lòng theo Chúa, chứ không thể ung dung tự
tại. Có chờ sung rụng thì cũng phải nhặt lấy, bỏ vô miệng, chứ chẳng bao giờ có
trái sung nào có thể rơi trúng ngay miệng mình – mà có trúng ngay miệng cũng
vẫn phải nhai, nuốt, và tiêu hóa. Việc đơn giản thế mà vẫn… mệt!

Có gian nan mới thành nhân, có đau khổ mới nên khôn, có thất bại mới biết cố
gắng vươn lên: “Thất bại là mẹ thành công” (Tục ngữ Việt Nam). Đức Phật được
người ta kính trọng vì ông đã cảm được nỗi đau khổ qua Tứ Diệu Đế. Các vĩ nhân
đều là những người đã từng nếm mùi gian khổ, các chính khách được thế giới tôn
vinh đều là những người đã kiên trì “nằm gai nếm mật”. Thật vậy, chẳng nếm mùi
gian khổ thì khó nên bậc siêu quần!

Nhưng phàm nhân chúng ta quá yếu đuối, ưa nhàn rỗi chứ không muốn “động chân,
động tay”. Kinh Phật nói: “Con người là nô lệ vì chưa hủy diệt được ý tưởng về
bản ngã trong nội tâm”. Đời là bể khổ. Có lúc chính chúng ta tự làm khổ mình.
Đời càng khổ thì chúng ta càng cần Chúa: “Mảnh hồn này khát khao mòn mỏi mong
tới được khuôn viên đền vàng. Cả tấm thân con cùng là tấc dạ những hướng lên
Chúa Trời hằng sống mà hớn hở reo mừng” (Tv 84:3). Ngài là Chúa Tể càn khôn, là
Đức Vua, là Thiên Chúa chúng ta tôn thờ, “ngay chim sẻ còn tìm được mái ấm,
cánh nhạn kia cũng làm tổ đặt con bên bàn thờ của Chúa” (Tv 84:4), thế chúng ta
lại không đáng hơn chim sẻ ư?

Phúc thay người ở trong thánh điện và luôn được hát mừng Ngài. Nhưng muốn vậy
thì phải khổ luyện, phải dám “ngược đời” như Chúa Giêsu. Nói dễ, làm khó. Ráng
mãi vẫn chưa được. Phàm nhân khốn nạn vậy đó. Hứa nhiều mà chẳng giữ bao nhiêu.
Trăm voi không được bát nước xáo! Do đó chúng ta phải không ngừng kêu van: “Lạy
Chúa là Chúa Tể càn khôn, xin đoái nghe lời con cầu nguyện. Xin lắng tai, lạy
Chúa nhà Gia-cóp. Lạy Chúa là khiên mộc chở che, xin thương xem nhìn đến gương
mặt đấng Ngài đã xức dầu” (Tv 84:9-10). Nước Trời cực kỳ quý báu, không thể ví
với bất kỳ thứ gì. Thật vậy, “một ngày tại khuôn viên thánh điện quý hơn cả
ngàn ngày” (Tv 84:11a). Người đời cũng nói: “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại
ngoại” (một ngày ở tù dài đằng đẵng như ngàn năm), nói lên sự hạnh phúc của
cuộc sống tự do. Còn tác giả Thánh vịnh so sánh: “Thà con ở cổng đền Thiên Chúa
vẫn còn hơn sống trong trại ác nhân!” (Tv 84:11b).

Thiên Chúa là vầng thái dương, là thuẫn đỡ, là khiên che, và tặng ban ân huệ
với vinh quang. Thế nên “ai sống đời trọn hảo, Người chẳng nỡ từ chối ơn lành”
(Tv 84:12). Đó không là “dụ dỗ” hoặc “mồi chài” mà chắc chắn như vậy: “Trước
khi trời đất qua đi, một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho
đến khi mọi sự được hoàn thành” (Mt 5:18).

Vào một ngày đẹp trời, Đức Giêsu tỉ tê tâm sự với các môn đệ thế này: “Mù mà
lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố?” (Lc 6:39). Rồi Ngài
nói thêm: “Học trò không hơn thầy, có học hết chữ cũng chỉ bằng thầy mà thôi”
(Lc 6:40).

Chúa Giêsu rất bình dân, Ngài thực tế mà có duyên, nghiêm chỉnh mà cũng có “máu” hài hước. Ngài đặt vấn đề: “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại có thể nói với người
anh em: ‘Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra’, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình?” (Lc 6:41-42a). Lúc vui thì vui hết mình, mà lúc làm việc thì đâu ra đó. Cười cười mà “chết người” chứ chẳng chơi. Đừng thấy Chúa “nói nhẹ” mà tưởng Ngài “cho qua phà” rồi cả gan “được đằng chân, lân đằng đầu”!

Chúa Giêsu nói thẳng: “Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!” (Lc 6:41-42b). Lại chuyện đạo đức giả. Thế gian nhiều loại người này, dù mức độ khác nhau, nên Chúa Giêsu rất ghét loại người “miệng nam mô mà bụng một bồ dao găm”.

Không sống giả nhân giả nghĩa, sống trong sạch và cương trực, đó cũng là “vác thập giá mình” mà theo bước Chúa Giêsu lên Can-vê. Lên đó không phải để ngắm trời, ngắm đất, hoặc hóng gió mát rồi ngâm thơ và ca hát, hoặc lên đó đốt lửa trại, mà lên đó để “chết”. Chết thật chứ không chết giả!

Nhưng rồi mọi đau khổ sẽ biến thành vinh quang, và người chết sẽ sống lại để được trường sinh. Trên cả tuyệt vời!

Lạy Chúa, xin giúp chúng con đủ can đảm mà sống “ngược đời” như Con Chúa đã tiên phong nêu gương, biết yêu mến Thánh Giá mà dám chết cho tội mình và chết vì chân lý. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

 

Thầy thuốc của Lòng Chúa Thương Xót

Thầy thuốc của Lòng Chúa Thương Xót

Một bác sĩ trẻ tài năng nhưng khiêm nhường, sống rất nhân bản, sống yêu thương và phục vụ tha nhân theo tinh thần của Đức Kitô. Anh đúng là một nhà truyền giáo dù không được Giáo hội chính thức sai đi, là một tâm hồn vĩ đại, và là một thầy thuốc của lòng thương xót. Đó là một ơn gọi.

Xin trân trọng giới thiệu “tấm gương  sáng” của bác sĩ trẻ Công giáo này để cùng học hỏi…

 

BS Thomas Heyne được nhận Giải thưởng uy tín năm 2012 là Giải Ho Din
của ĐH Y dược Tây nam Texas.

Đức tin Công giáo của anh ảnh hưởng gia đình, và nhiệm vụ tới các nước thuộc Thế giới thứ ba đã khiến anh muốn phục vụ “những người nghèo nhất trong những người nghèo” theo tinh thần của Chân phước Mẹ Teresa Calcutta. BS trẻ Thomas Heyne 28 tuổi, bang Dallas, tốt nghiệp đã ĐH Dallas khoa Lịch sử và Sinh học, có bằng thạc sĩ thần học của ĐH Oxford ở Anh, và hoàn tất chương trình Fulbright Fellowship về nghiên cứu tôn giáo.

Trước khi tới Boston làm việc tại Bệnh viện Đa khoa Massachusetts, chuyên khoa nhi, anh đã trả lời phỏng vấn của NCRegister về mối quan tâm tới nhân đạo trong lĩnh vực y khoa.

Xin anh cho biết về gia đình và việc thụ hưởng nền giáo dục Công giáo.

Tôi là con thứ 6 trong 8 anh chị em: Em gái kế tôi là nữ tu đã vĩnh khấn. Chị tôi tốt nghiệp ĐH Công giáo Hoa Kỳ, có gia đình và là luật sư bảo vệ các nạn nhân bị lạm dụng tình dục. Cha tôi là BS Roy Heyne, chuyên khoa nhi, mẹ tôi là BS Elizabeth Heyne và là nhà tư vấn tâm lý. Cha mẹ tôi quan tâm các trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, đã thành lập Trung tâm Phát triển Trẻ em Sinh thiếu tháng để chăm sóc các gia đình của các em này. Cha mẹ tôi thực sự hít thở không khí Tin Mừng. Cha mẹ đưa chúng tôi đi lễ hằng ngày tại tu viện Xitô và lần chuỗi Mân Côi chung hằng đêm trước khi đi ngủ. Công việc của cha mẹ tôi làm vì người nghèo (và vì chúng tôi) là tấm gương sáng ghi sâu trong lòng chúng tôi.

Điều gì thúc đẩy sự quan tâm của anh về ngành y và đặc biệt là nhu cầu cần thiết về y tế của người nghèo?

Chắc chắn tôi ảnh hưởng giáo dục. Có 5 thế hệ gia đình tôi làm y bác sĩ và y tá, có thể ngành y đã mã hóa gen của chúng tôi. Hồi nhỏ, Matthêu 25:31-46 nói về cuộc phán xét, Chúa Giêsu nhắc tới việc phục vụ “những người bé mọn nhất là phục vụ chính Ngài”, Thánh Phanxicô Assisi và Chân phước Mẹ Teresa Calcutta đã sống như vậy và cuộc đời các ngài đã
in đậm trong tôi. Theo tôi, chúng ta phải hợp lý hóa các giáo huấn của Đức Kitô về sự nghèo khó. Tôi càng đi nhiều, càng nhận thấy nhiều người sống trong những điều kiện hầu như không được nghe đến ở Hoa Kỳ. Ý tưởng phục vụ “những người nghèo nhất” có vẻ vừa hợp lý vừa tốt lành.

Công tác y tế của anh ở Mexico, Haiti, Ấn Độ, các nước Phi châu và Mỹ châu Latin đã ảnh hưởng anh thế nào?

Từ viễn cảnh y tế, tôi học thêm các lĩnh vực y học mà tôi không biết: Người ta không gặp nhiều bệnh sốt rét, bệnh leishmaniasis (do ký sinh leishmania gây ra), bệnh sởi, bệnh thấp tim (rheumatic heart disease), chứng kwashiorkor (suy dinh dưỡng thể phù),… ở Hoa
Kỳ. Từ viễn cảnh nhân đạo, tôi thấy những con người sống với phẩm giá và niềm tin giữa những điều kiện sống đau khổ. Tôi khâm phục sự đại lượng và cao quý của họ.

Ngay cả khi chúng ta nhận phần thưởng này hay phần thưởng nọ, ngay cả trong những ngày chúng ta hạnh phúc nhất, chúng ta cũng chỉ có thể nói: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17:10). Nếu gặp hoàn cảnh tương tự, có bao nhiêu người làm được hơn? Tôi nghĩ tới một em bé sắp chết đói mà tôi gặp ở Uganda, nhiều người bị mất chân hoặc mất tay ở Haiti, hoặc một phụ nữ bị bệnh lao xương nặng ở Ấn Độ. Những người này có thể đã làm được những điều vĩ đại hơn nếu họ có cơ hội tốt như chúng ta.

Từ viễn cảnh tâm linh, tôi đã đến những nước hầu như không nghe nói tới Phúc Âm hoặc các nước Công giáo vẫn có nhiều người hầu như không biết gì về đức tin. Sau khi học các trường Công giáo, tôi và một bác sĩ Tin Lành cùng đi công tác, tôi bắt đầu phản ánh sâu sắc về giáo huấn Công giáo đối với sự ủy thác nhiệm vụ.

Qua sự hấp thụ giáo dục, anh đã được một số giải thưởng và rất tích cực đưa ra các sáng kiến. Điều gì thúc đẩy anh thành lập Huynh đoàn Thánh Basiliô Cả tại ĐH Tây Nam Texas?

Huynh đoàn Thánh Basiliô là một hội “lạ” trong trường y dược. Tôi cảm hứng từ một thành viên trong khoa đề nghị rằng chiến lược ở trường thuốc không nên chỉ là sinh tồn mà còn là tiến bộ (nỗ lực làm thánh, phát triển đức tin và giúp đỡ người khác cũng làm như vậy).
Trường y dược là cơ hội minh chứng đối với người khác, giúp họ đến gần đức tin và đến gần tình yêu vô biên của Thiên Chúa.

Thánh Basiliô Cả là giám mục GP Caesarea, thế kỷ IV, là người mở bệnh viện công đầu tiên cho người nghèo (gọi là Basiliad). Chọn ngài là Thánh bảo trợ, chúng tôi muốn nhấn mạnh sự ảnh hưởng tích cực mà Công giáo đối với y tế, nhất là đối với người nghèo.

Thành công của nhóm không là gì, chỉ  có 200 người (cả Công giáo và không Công giáo) trong vòng 2 năm thành lập nhóm. Những người đến với những buổi nói chuyện buổi trưa của chúng tôi vì chất lượng giới thiệu, thường do các bác sĩ địa phương đảm trách hoặc các phát ngôn viên được hoan nghênh như Peter Kreeft. Qua những buổi nói chuyện này, cũng như việc phục vụ và tâm linh, chúng tôi cố gằng loan truyền tình yêu của Thiên Chúa, của
Giáo hội và lòng nhân đạo.

Anh có dự định riêng cho tương lai?

Tôi nói được tiếng Tây Ban Nha và tôi thích văn hóa Latin, cho nên tôi nghĩ tới việc hành động ở một trong các nước nghèo đói của Mỹ châu Latin, có thể mở một bệnh viện Công giáo hoặc hỗ trợ một tổ chức Công giáo phi chính phủ nào đó. Dĩ nhiên, tôi muốn một chiều kích tâm linh đối với công việc của tôi. Tôi cũng nghĩ tới việc giúp mở một trường học,
giúp một giáo phận hoặc một tổ chức tôn giáo về các chương trình giáo dục.

Các khó khăn về y tế ở Hoa Kỳ thì sao?

Bạn không cần là một thầy thuốc cũng có thể nhận ra rằng hệ thống y tế ở Hoa Kỳ có những vấn đề quan trọng. Nhưng, thành thật mà nói, nhu cầu y tế và các vấn đề của các nơi như Uganda hoặc Haiti làm còi cọc các mối quan tâm của chúng ta.

Một vấn đề khác là vấn đề đạo đức hoặc chính trị đối với cuộc sống. Đặc biệt vào lúc này, chúng ta phải tiếp tục cầu nguyện cho việc giải quyết tích cực về nhiều vấn đề đang được giải quyết tại các tòa án. Chúng ta được mời gọi yêu thương và và bảo vệ con người, kể cả các thai nhi, những người già, nhữn người nghèo và những người nhập cư.

Đối với tôi, các vấn đề trong HHS [Health and Human Services – lệnh y tế và con người] là nghiêm trọng. Ngay khi còn là sinh viêt y khoa, tôi đã cố gắng tìm cách hoàn tất phần việc liên quan sản phụ khoa mà không vi phạm lương tâm (một số thầy thuốc cho rằng thuốc phá thai hầu như là thuốc chữa bệnh). Khó để là một người Công giáo tích cực trong
cộng đồng y dược ngày này. Đó là lý do khác mà chúng tôi thành lập Huynh đoàn Thánh Basiliô Cả, nhằm “củng cố các bác sĩ tương lai đang bị áp lực đè nặng trên đe dưới búa”.

Chân phước Mẹ Teresa Calcutta đã ảnh hưởng ơn gọi y tế của anh thế nào?

Tôi may mắn được làm việc với các nữ tu Dòng Truyền giáo Bác ái (Missionary of Charity) ở nhiều nước, tấm khăn sari trắng với đường viền xanh luôn khiến tôi vui. Mẹ tôi đã đưa Mẹ Teresa tới Dallas để mở cơ sở của Dòng Truyền giáo Bác ái. Mẹ Teresa sống cơ bản, giản dị
và chính thống về Phúc Âm – cầu nguyện tập trung vào Thánh Thể, trực tiếp phục vụ những người nghèo và những người bị bỏ rơi, nhân đức tôi luyện trong sự nghèo khó, khiết tịnh và bác ái. Cách sống đó nói mạnh với thế giới hậu hiện đại. Mẹ Teresa luôn vui vẻ, tươi cười, đó là châm ngôn sống cho mọi người: “Hãy mỉm cười về mọi thứ, hãy dâng tất cả cho Chúa bằng một nụ cười vui vẻ”.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ NCRegister.com)

Maria Thanh Mai gởi

 

Ba cuộc đời – ba cách chết

Ba cuộc đời – ba cách chết

Lm.Jos Tạ duy Tuyền

 

Trên đồi Golgotha cách đây hơn hai ngàn năm, có 3 tử tội trên thập giá. Ba con người đều chết trên thập giá với ba thái độ khác nhau. Đó chính là Thầy Giê-su ở giữa. Một người bên hữu được gọi là trộm lành. Một người bên tả truyền thống vẫn gọi là trộm dữ. Tại sao cùng một hoàn cảnh mà cách thức đón nhận lại khác nhau? Đâu là điểm khác biệt giữa ba con người?

Trước hết đó là Thầy Giê-su, một con người đã tự nguyện vác thập giá để cứu độ chúng sinh. Ngài chấp nhận đi vào cái chết không phải do tội của mình mà vì tội của nhân gian.
Ngài đã chết để thí mạng vì bạn hữu. Cả cuộc đời của Ngài đã sống vì người khác. Ngài đã sống một cuộc đời để yêu thương và yêu thương cho đến cùng. Ngài đã đi đến tận cùng của yêu thương là thí mạng mình vì bạn hữu. Cái chết của Ngài là bằng chứng cho tình yêu. Đau khổ Ngài chịu cũng vì yêu thương nên Ngài không than vãn, không uất hận vì đời đen bạc. Không nguyền rủa cuộc đời vì những gánh nặng đang đè trên vai. Vì yêu đối với ngài không chỉ là tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, mà còn dám chết cho người mình yêu được sống và sống dồi dào. Thế nên, đau khổ đối với Ngài là niềm vui. Và ngài đã đi vào cái chết trong thanh thản vì đã hoàn thành sứ mạng đời mình: “yêu thương và phục vụ” cho
người mình yêu. Ngài không hối tiếc về cuộc sống đã qua. Ngài không hối hận vì việc mình đã làm. Ngài rất vui vì đã đi trọn con đường của tình yêu. Ngài đã trút hơi thở cuối cùng trong an bình khi Ngài nói cùng nhân loại “mọi sự đã hoàn tất” và nói cùng Chúa Cha “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn trong tay Cha”.

Người thứ hai là anh trộm lành. Anh là một tội nhân. Anh đón nhận hình phạt và cái chết vì chính tội của mình. Nhưng anh là một con người biết phải trái. Anh biết việc mình làm là đáng tội, là đáng phải chịu hình phạt. Cuộc đời anh chưa làm điều gì tốt cho tha nhân. Anh đã sống một cuộc đời chỉ làm hại người khác. Thế nên, anh đã nói với Chúa: “Tôi đã bị như thế này là xứng đáng với tội của tôi”. Anh đón nhận thập giá để đền bù những lầm lỗi đã qua. Anh chấp nhận cái chết nhục nhã như là hình phạt đích đáng vì tội của mình. Anh đã tìm được bình an trong giờ phút cuối cùng của đời người. Anh cũng biết rằng anh không xứng đáng chung phần hạnh phúc thiên đàng với Thầy Giê-su, anh chỉ mơ ước Thầy Giê-su nhớ tới anh khi Thầy về thiên đàng. Đối với anh thập giá là cơ hội để anh để anh đền bù lầm lỗi. Thập giá là nhịp cầu đưa anh vào thiên đàng. Thế nên, anh đón nhận thập giá với lời xin vâng theo mệnh trời. Anh không oán trời, oán đất. Anh đi vào cái chết với tâm hồn thanh thản vì anh đã đền bù những lầm lỗi của quá khứ cuộc đời.

Người thứ ba là anh trộm dữ. Anh lao vào cuộc đời như con thú đang tìm mồi. Cuộc đời anh chỉ tìm hưởng thụ cho bản thân. Vì ham muốn danh lợi thú anh đã sẵn sàng hạ thấp nhân phẩm mình và chà đạp phẩm giá của tha nhân. Anh đang có nhiều toan tính để hưởng thụ. Thế nên, anh không chấp nhận thập giá đến với anh. Anh không chấp nhận kết thúc cuộc đời bằng cái chết bi thảm trên thập giá. Anh đòi quyền sống. Sống để hưởng thụ. Anh nổi loạn vì đời anh còn quá trẻ, còn quá nhiều tham vọng nên anh không thể chấp nhận cái chết
đến với mình. Thế nhưng, anh vẫn phải chịu hình phạt vì tội của mình. Công lý đòi buộc anh phải thi hành, dầu anh không muốn. Thập giá làm cho anh đau khổ. Cái chết làm cho anh  nổi loạn. Anh nguyền rủa trời, nguyền rủa đất và xúc phạm cả đến Thầy Giê-su, một con người đang phải chịu cái chết vì đã liên đới với anh. Anh đã chết trong sự hoảng loạn và khổ đau.

Mỗi người chúng ta đang sống một cuộc đời cho chính mình. Mỗi người chúng ta đang đón nhận thập giá với thái độ khác nhau. Có người chấp nhận thập giá để đền tội. Có người chấp nhận thập giá vì lòng yêu mến tha nhân. Và cũng có người đang từ chối thập gía trong cuộc đời.  Hạnh phúc hay đau khổ tuỳ thuộc vào việc chọn lựa sống của chúng ta. Nhưng dù con người có muốn hay không? Thập giá vẫn hiện diện. Thập giá của bổn phận. Thập giá của hy sinh từ bỏ những tham lam bất chính, những ham muốn tội lỗi, những ích kỷ tầm thường.
Đón nhận thập giá sẽ mang lại cho ta tâm hồn bình an vì đã sống đúng với bổn phận làm người. Đón nhận thập giá còn là cơ hội để ta đền bù những thiếu sót trong cuộc sống của mình và của tha nhân. Đón nhận thập giá còn là cơ hội để ta tiến tới vinh quang phục sinh với Chúa trên thiên đàng.

Nguyện xin Chúa là Đấng đã vui lòng đón nhận thập giá vì chúng ta, nâng đỡ và giúp chúng ta vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa. Xin giúp chúng ta biết sống một cuộc đời hy sinh cao thượng để chúng ta không hối hận vì quá khứ, nhưng luôn bình an vì đã sống chu toàn bổn phận của mình với lòng mến Chúa, yêu người. Amen

 

Lm.Jos Tạ duy Tuyền

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

 

EPHATA

EPHATA

 

Tác giả: Lm. Vĩnh Sang, DCCT

nguồn:Conggiaovietnam.net

Trong tuần qua, có một ngày tôi được tin cha già Chân Tín sẽ rời bệnh viện về lại Nhà Dòng, ngóng cả ngày không thấy ngài về, tối xuống, khi
đã đến giờ chuẩn bị Kinh Tối, cô cháu ngài báo điện thoại: “Thưa cha, cha già sắp về”, tôi quyết định bỏ đọc kinh chung để đón ngài. 10g khuya ngài mới về đến nhà, ông cụ vẫn vui vẻ như thường lệ, mặt bị ứ nước do truyền dịch và thận bị suy nên xem ra có vẻ mập hơn. Cụ mừng rỡ hỏi thăm mọi người, trả lời cụ vài câu rồi tôi hỏi cụ: “Cụ có hỏi thăm gì về đất nước không ?” Cụ bật cười rồi lại nhanh tay lau nước mắt.

Có lần chúng tôi vào thăm cụ trong bệnh viện, cụ cũng hỏi thăm mọi người rồi cụ hỏi chúng tôi: “Tình hình đất nước ra sao rồi ?” Khi đó cụ đang rất mệt, anh em mới nói với cụ: “Cụ cứ bình an nghỉ, chuyện đất nước để người khác lo”. Một người khác đùa vào: “Cụ gần về với Chúa rồi mà còn lo chuyện đất nước !” Mọi người cười vui vẻ, cụ cũng vẫn hiền hòa đùa vui với anh em và cười vui vẻ, lúc đó, mắt cụ cũng ngấn lệ.

Hôm nay cụ xuất viện về trễ, quá trễ, nên tôi đùa với cụ:
“Nhà thương nào mà làm giấy xuất viện cho cụ vào 8 giờ tối ? Chắc cụ đi chơi
đâu rồi bây giờ mới về phải không ?” Chợt nhớ ra điều gì cụ bảo mấy đứa cháu
lấy hình cho tôi xem, hình vừa mới chụp còn trong máy, vừa chuyển hình mấy đứa
cháu tranh nhau kể cho chúng tôi nghe. Câu chuyện ly kỳ và độc đáo.

Trong những ngày ở bệnh viện, cụ được con cháu đẩy xe đi chơi buổi chiều để dạo mát, một ngày cụ khám phá ra trong góc khuất của bệnh viện Chợ Rẫy một hang đá Đức Mẹ Lộ Đức bị bỏ hoang, nhiều năm qua không ai biết đến, những chữ viết trên bia đá chứng tỏ hang đá này được lập năm 1963, mục đích để các bệnh nhân cầu nguyện, hàng chữ “Đức Mẹ phù hộ các bệnh nhân” nói lên điều đó.

Cụ tìm cách liên lạc với những người có trách nhiệm trong bệnh viện, yêu cầu để cụ phục hồi lại hang đá, được chấp thuận, cụ bảo con cháu lau chùi dọn dẹp hang đá, đem tượng Đức Mẹ đi sơn lại, bắt điện làm đèn cháy sáng cho hang, cố gắng làm xong mọi việc. Ngày cụ được xuất viện, cụ đã nán lại chờ cho công việc mọi mặt xong xuôi, thánh hiến lại hang đá, tổ chức cầu nguyện trước hang… Tất cả chu tất khi trời đã khuya, khi đó cụ mới về, đó là lý do cụ xuất viện trễ.

Chúa dùng ông cụ thật lạ lùng. Năm 1990 cụ bị đưa đi quản thúc ba năm ở huyện Duyên Hải ( Cần Giờ ). Duyên Hải là một huyện nghèo, tuy thuộc thành phố giàu sang nhất nước, nhưng Duyên Hải vô cùng xơ xác đìu hiu, tuyệt đại đa số dân nghèo ở sâu ở xa trong các rừng bần, rừng đước, sông rạch chằng chịt, việc học không được quan tâm, y tế còn lạc hậu, nhà toàn bằng tranh bằng nứa, nền đất, muỗi mòng gieo rắc mầm bệnh khắp nơi. Các
nhà giáo, các nhân viên y tế… Nói chung nhân viên mọi ngành nghề đều ngán ngẩm tránh né, Nhà Nước phải ra chính sách tăng lương, kèm phụ cấp và chỉ sau vài năm hứa sẽ cho quay trở về đất liền thì mới có người chịu ra nhiệm sở.

Kể từ khi phát kiến nuôi tôm, bộ mặt huyện này có phần thay đổi nhất là khi con đường nối huyện với thành phố Sàigòn được hình thành, một số gia đình bán đất cho các nhà đầu tư nuôi tôm, có tiền nên một số nhà gạch được xây cất, lượng xe hai bánh gắn máy của huyện cũng tăng lên. Nhưng rồi khi chuyện nuôi tôm tràn lan không quy hoạch, không được hỗ trợ đúng nghĩa, đầu ra đầu vào không ổn định nên thất bại thảm hại, đất đai ngổn ngang, người nghèo mất hết đất nên vẻ tiêu điều héo hắt lại y như hồi xưa…

Khi cụ Chân Tín về, ngày ấy dân Duyên Hải còn nghèo lắm, có hai gia đình được nghe Lời Chúa khi người cha trong nhà đi tù cải tạo, đến khi đoàn tụ rồi, họ lang thang tìm đến Nhà Thờ, may mắn được gặp cụ, cụ chăm sóc phần hồn, dạy Giáo Lý và ban Bí Tích Thánh Tẩy cho hai gia đình đầu tiên theo đạo ở xã An Thới Đông, một xã hoàn toàn không có người theo Đạo.

Cứ như vậy cho đến khi mãn hạn quản thúc năm 1993, cụ cứ lang thang len lỏi trong “hang cùng ngỏ hẻm” với dân Duyên Hải, dạy Giáo Lý, thăm viếng từng gia đình nghèo, bao nhiêu ngăn trở cụ cương quyết và hiên ngang vượt qua… An Thới Đông đã trở thành một Giáo Họ, khoảng hơn 500 người theo đạo, đã có Nhà Thờ khang trang và một cộng đoàn anh em chúng tôi bây giờ đang tiếp nối công việc của cụ ở đó.

Nghe kể lại rằng có những lần người ta ngăn cấm không cho cụ dạy Giáo Lý ở các gia đình, cụ cứ đến dạy, Công An xông vào, cụ cất sách kinh, bảo đang ngồi chơi thăm bà con, có luật nào cấm đi thăm nhau nhỉ ? Công An đi  rồi, cụ mở sách ra dạy tiếp, cả gia đình sau một ngày lao động về bên ánh đèn dầu chăm chỉ học, ngoài sân đất, đầu hè, hàng xóm tò mò sang ngồi nghe, nghe đôi ba lần rồi mê, xin cụ sang nhà dạy cho gia đình họ, cứ thế đất An Thới Đông được nghe Tin Mừng.

Một lần khác cụ làm Lễ ngay tại gia đình, Công An cấm, kết tội “hoạt động tôn giáo ngoài phạm vị Nhà Thờ”, cụ cứ làm, biết Công An sẽ đến, cụ cho dọn sẵn bát đĩa và đồ ăn gần đấy rồi cụ dâng Lễ, khi chó sủa báo hiệu họ đến, cụ cất chén Lễ và sách Lễ, ngồi nhậu khề khà với dân, “người anh em” chẳng làm gì được cụ !

Bài đọc thứ nhất Chúa Nhật 23 Quanh năm B hôm nay trích trong sách Ngôn Sứ Isaia kêu gọi chúng ta đừng sợ vì có Chúa, nếu cụ Chân Tín sợ thì làm sao ngày nay có Nhà Thờ, có Giáo Họ An Thới Đông hơn 500 người theo Đạo ? Không chỉ An Thới Đông nhưng sẽ còn nhiều Giáo Điểm nữa. Nếu cụ ngày ấy sợ, hễ “họ” cứ ho một cái là rụt lại, không xác tín được sứ mạng của mình, không ý thức được quyền năng của mình được Thiên Chúa trao phó, cũng không dám đòi những quyền sống tối  thiểu của mình, không dám lên tiếng cho Sự
Thật thì cả đời cứ đi trong tăm tối thôi.

Vâng, nếu ngày ấy chúng tôi ngăn cản cụ đừng làm thế, e rằng sẽ bị gây phiền nhiễu ảnh hưởng đến hoạt động chung của mọi anh em trong Dòng thì bây giờ và ngày sau sẽ ra sao ? Liệu chúng tôi có mãi tiếp tục hãnh diện về một thứ bình an giả tạo, khiếp nhược và hèn hạ không ? Lương tâm của chúng tôi có mãi yên ổn để hãnh diện kể công về một “mối tình tốt
đẹp giữa chúng tôi và Nhà Nước” không ?

Lao mình vào giữa rừng sâu, vượt qua ngăn trở sông rạch, cụ Chân Tín tìm đến với người nghèo, người bị bỏ rơi hơn cả. Thay vì chè chèn giao du với các đại gia, đi lại với người có quyền thế, cụ tìm đến gặp gỡ người nghèo.

Bài đọc hai của Chúa Nhật hôm nay trích trong thư của Thánh Giacôbê, nghe mà thấm thía, Thánh Giacôbê buộc chúng ta phải chọn lựa cách ứng xử trước mặt Thiên Chúa. Có hai người, một giàu có sang trọng bước vào, vòng vàng đầy tay, áo quần lộng lẫy, lại một nghèo hèn ăn mặc tồi tàn cũng tìm đến, cách chúng ta tiếp đón sẽ ra sao ?

Khối lần ta khúm núm trước người giàu, khối lần ta nghe lời tư vấn khuyến dụ của người quyền thế, khối lần ta để người có tiền quyết định cả những điều thánh thiêng theo hướng và quan điểm của họ, cho dù hướng ấy, quan điểm ấy nghịch hẳn với Tin Mừng. Đã có kẻ bỏ hẳn việc chia sẻ tiệc mừng với một cộng đoàn Giáo Xứ để đi dự tiệc của người giàu, đã có kẻ cho cả lớp Giáo Lý hàng trăm người “leo cây” ngồi chờ để đi vui với kẻ có tiền, kẻ đã tài
trợ cho mình…

Thánh Giacôbê buộc ta phải trả lời trước Chúa: “Đừng nghe xuông mà lừa dối chính mình”.

Ephata ! Mở rộng tai ra để nghe Lời của Chúa. Ephata ! Mở miệng tôi ra để cao rao Lời của Chúa. Đừng bưng tai bịt mắt, đừng nhát đảm sợ hãi mà không nói Sự Thật. Sự Thật nguồn cội là chính Chúa Giêsu.

Lm. VĨNH SANG, DCCT, Chúa nhật 9.9.2012 (Ephata 526)

Từ bi với mình…

Từ bi với mình…

BS Đỗ Hồng Ngọc

Hình như ta chẳng bao giờ thực sống trong hiện tại cả! Lúc còn trẻ, ta mơ ước tương
lai, sống cho tương lai. Nghĩ rằng phải đạt cái này cái nọ, có đựơc cái kia cái khác mới là sống. Khi có tuổi, khi đã có được cái này cái nọ,  cái kia cái khác thì ta lại sống cho quá khứ! Nhỏ mong cho mau lớn, lớn mong cho nhỏ lại. Quả là lý thú! Tóm lại, ta chẳng biết quý những phút giây hiện tại.  Từ ngày “thế giới phẳng”,  ta còn sống với đời sống ảo. Ta ngồi đây với bạn nhưng trò chuyện với một người nào khác, cười đùa, nhăn nhó, giận dữ, âu yếm
với một người nào khác ở nơi xa. Khi bắt lại câu chuyện thì nhiều khi đã lỡ nhịp! Hiểu ra những điều tầm thường đó, tôi biết qúy thời gian hơn,  quý phút giây hiện tại, ở đây và bây giờ hơn.

Nhờ vậy mà không có thì giờ cho già nữa! Hiện tại thì không có già, không có trẻ, không có quá khứ, vị lai. Dĩ nhiên, không phải là trốn chạy già mà hiểu nó, chấp nhận nó, thưởng thức nó. Khi biết “enjoy” nó thì quả có nhiều điều thú vị để phát hiện, để khám phá. Một người 60, tiếc mãi tuổi 45 của mình thì khi 75, họ sẽ tiếc mãi tuổi  60, rồi khi 80, họ sẽ càng tiếc 75! Vậy sao ta đang ở cái tuổi tuyệt vời nhất của mình lại không yêu thích nó đi, sao  cứ
phải… nguyền rủa, bất mãn với nó. Có phải tội nghiệp nó không? Ta đang ở cái tuổi nào thì nhất định tuổi đó phải là tuổi đẹp nhất rồi, không thể có tuổi nào đẹp hơn nữa!

Ta cũng có thể gạt gẫm mình chút đỉnh như đi giải phẫu thẩm mỹ chẳng hạn. Xóa chỗ này, bơm chỗ nọ, lóc chỗ kia. Nhưng nhức mỏi vẫn cứ nhức mỏi, loãng xương vẫn cứ loãng xương, tim mạch vẫn cứ tim mạch… Cơ thể ta cứ tiến triển theo một “lộ trình” đã được vạch sẵn của nó, không cần biết có ta! Mà hình như,  càng nguyền rủa, càng bất mãn với nó, nó càng làm dữ. Trái lại nếu biết thương yêu nó, chiều chuộng nó một chút, biết cách cho nó ăn, cho nó nghỉ, biết cách làm cho xương nó cứng cáp, làm cho mạch máu  nó thông thoáng, làm cho các khớp nó trơn tru thì nó cũng sẽ tử tế với ta hơn. Anh chàng Alexis Zorba nói: “Cũng phải chăm nom đến thân thể nữa chứ, hãy thương nó một chút. Cho nó ăn
với. Cho nó nghỉ với.  Đó là con lừa kéo xe của ta, nếu không cho nó ăn, nó nghỉ, nó sẽ bỏ rơi mình ngang xương giữa đường cho mà coi” (Nikos Kazantzaki). Từ ngày  biết thương “con lừa” của mình hơn, tử tế với nó hơn, thì có vẻ tôi… cũng khác tôi xưa. Tôi biết cho con lừa của mình ăn khi đói, không ép nó ăn lúc đang no, không cần phải cười cười nói nói trong lúc ăn. Món gì khoái khẩu thì ăn, chay mặn gì cũng tốt. Cá khô, mắm ruốc gì cũng được, miễn là đừng nhiều muối quá! Một người cô tôi “ăn không được”, ăn “không biết
ngon” vậy mà vẫn béo phì, đi không nổi, là bởi vì các con thương bà quá, mua toàn sữa Mỹ mắc tiền cho uống! Sữa giàu năng lượng, nhiều chất béo bổ quá, làm sao còn có thể ăn ngon, làm sao không béo phì cho được? Giá nghèo một chút thì hay hơn! Cá kho quẹt, rau muống mà tốt, miễn bà ăn thấy ngon, thấy sướng! Tôi cũng biết cho con lừa của mình ngủ hơn. Ngủ đẫy giấc, đủ giấc. Ngủ đủ giấc là cơ hội tốt nhất cho các tế bào não phục hồi, như sạc pin vậy. Sạc không đủ mà đòi pin ngon lành sao được! Bảy trăm năm trước, Trần Nhân Tông viết: cơ tắc xan  hề khốn tắc miên! Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền! trong bài Cư trần lạc đạo, ở đời mà vui đạo! Ông là vị vua nhà Trần sớm nhường ngôi cho con, lên tu ở núi
Yên tử, Tổ sư thiền phái Trúc Lâm. Tu hành như vậy mà khi quân Nguyên xâm lấn
nứơc ta, ông liền xuống núi, ra tay dẹp giặc, xong, phủi tay lên núi tu tiếp!

Mỗi người có đồng hồ sinh học của riêng mình, không ai giống ai, như vân tay vậy, cho nên không cần bắt chước, chỉ cần lắng nghe mình. Phương pháp này, phương pháp nọ của người này người kia bày vẽ chẳng qua cũng chỉ để tham khảo, nắm lấy nguyên tắc chung thôi, rồi áp dụng vào hoàn cảnh riêng cụ  thể của mình, tính cách mình, sinh lý mình. Phương pháp nào có sự ép buộc cứng ngắc quá thì phải cảnh giác!

Cũng nhớ rằng tới tuổi nào đó tai cũng sẽ bắt đầu kém nhạy, mắt bắt đầu kém tinh, đầu óc bắt đầu kém sắc sảo.  Tai kém nhạy để bớt nghe những điều chướng tai. Mắt kém tinh để bớt thấy những điều gai mắt. Đầu óc cứ sắc sảo hoài ai chịu cho nổi! Tuy vậy, tai kém mà muốn nghe gì thì nghe, không thì đóng lại; mắt kém mà muốn thấy gì thì thấy, không thì khép lại. Thế là “căn” hết tiếp xúc được với “trần”.  Tự dưng không tu hành gì cả mà cũng như tu, cũng thực tập ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm!

Rồi một hôm đẹp trời nào đó ta còn có thể phát hiện mắt mình chẳng những nhìn kém mà còn thấy những ngôi sao lấm chấm, những lốm đốm hoa trên bầu trời trong xanh vời vợi kia. Nếu không phải do một thứ bệnh mắt nào đó thì đây hẳn là hiện tượng thoái hóa của tuổi già, nói nôm na là xài lâu quá, hết thời hạn bảo hành. Cái mà người xưa gọi là “hoa đốm hư không” chính là nó. Tưởng hoa đốm của trời, ai dè trong mắt mình! Chính cái “tưởng” của ta nhiều khi làm hại ta. Biết vậy ta bớt mất thì giờ cho những cuộc tranh  tụng, bớt tiêu hao năng lượng vào những chuyện hơn thua. Dĩ nhiên có những chuyện phải ra ngô ra khoai nhưng cái cách cũng đã khác, cái nhìn đã khác, biết tôn trọng ý kiến người khác, biết
chấp nhận và nhìn lại mình.

Khi 20 tuổi người ta băn khoăn lo lắng không biết người khác nghĩ gì về mình. Đến 40 thì ai nghĩ gì mặc họ. Đến 60 mới biết chả  có ai nghĩ gì về mình cả!

Tóm lại, chấp nhận mình là mình và từ bi với mình một chút vậy!

 

BS Đỗ Hồng Ngọc

nguồn: Huỳnh Thanh Trúc gởi