Chọn hạnh phúc đời sau

LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ
1-11-2012
Chọn hạnh phúc đời sau
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Công Đồng Vatican II dạy: «Mọi Kitô hữu, dù ở địa vị nào, bậc sống nào, đều được
Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn lành thánh thiện như Chúa Cha trọn lành, tùy theo
con đường của mỗi người» (GH 11§3).
Ở đời người ta vẫn cho rằng: hạnh phúc là giầu sang, là phú quý, có nhà cao cửa
rộng, có vợ đẹp con khôn, có quyền lực, có tiền để hưởng lạc mọi thú vui trần gian . . . Chính vì lẽ đó, người ta sẵn sàng làm mọi sự để đạt được những thứ ấy. Đôi khi họ bất chấp mọi thủ đoạn, họ dùng mọi phương tiện, mọi mưu kế để theo đuổi hạnh phúc trần gian. Có khi vì những hạnh phúc thông thường ấy, họ không ngần ngại hy sinh, gian nan, kể cả bỏ người thân để kiếm tìm. Thông thường họ vẫn nghĩ đó là chuyện nên làm và cần phải làm để tồn tại trong thế giới đầy thị phi này.

Thế nhưng, quan niệm của Chúa Giê-su về hạnh phúc hoàn toàn ngược lại với cách
suy nghĩ của thế gian. Hạnh phúc của Chúa Giê-su không phải nằm trong cái chúng
ta nắm lấy mà là ở trong cái chúng ta cho đi. Không phải ở trong điều chúng ta
tìm cách thoả mãn, hưởng thụ mà hệ tại ở việc chúng ta sống tự chủ bản năng,
sống thanh thoát với đam mê. Không phải ở trong việc chúng ta tìm sự nhàn rỗi
hay trốn tránh trách nhiệm mà quan yếu là dám đối diện với sự thật, để bảo vệ
cho sự thật, bảo vệ cho công lý, cho dù có vì đó mà tù đầy hay thiệt thòi . . .

Có lẽ, thế gian vẫn cho những ai sống điều này là điên rồ. Thế gian đến rồi đi. Hiện hữu rồi mất đi. Họ nghĩ rằng cuộc sống trần gian là để hưởng thụ nên tìm  mọi cách để hưởng thụ kẻo chết là hết như có người đã từng nói: “Vui xuân kẻo hết xuân đi, cái già sồng sộc nó thì theo sau”.  Họ lao vào cuộc đời tìm kiếm danh lợi thú để thoả mãn lòng tham của mình. Vâng, nếu chết là hết thì không cần ăn ngay ở lành, không cần làm việc lành phúc đức, không cần “trồng cây hạnh ở đời”. Chết là hết thì hãy cố gắng tranh thủ mà hưởng lạc kẻo uổng phí cuôc đời. Nhưng, thực ra chết không phải là hết. Ngoài sự sống trần gian này chúng ta còn có một sự sống hoàn hảo hơn. Nơi đó là trọn vẹn. Con người  không cần phải bon chen, không phải lo hưởng thụ vì đã tròn đầy hạnh phúc.

Chúa Giê-su khi đề ra các mối phúc, Ngài hướng con người tới hạnh phúc trường
tồn. Ngài dẫn dắt con người vượt qua hạnh phúc tạm để đạt được hạnh phúc vĩnh
cửu. Cuộc đời này người ta ví tựa như cuộc sống của bào thai, một cuộc sống tăm
tối trong bụng mẹ chỉ là cuộc sống tạm bợ ngắn ngủi trong 9 tháng 10 ngày. Cuộc
sống ấy không chỉ kéo dài tới đấy là hết, mà toàn bộ cuộc sống ấy là để chuẩn bị
cho một cuộc sống khác dài hơn gấp bội, có thể tới 90 năm. Cũng vậy, người kitô
hữu quan niệm rằng đằng sau cuộc sống ngắn ngủi này là cả một đời sống vĩnh cửu
dài vô tận. Vì thế, người kitô hữu – những kẻ theo Đức Giêsu – tuy sống trong
thế giới này nhưng tâm hồn vẫn hướng về một thế giới khác tốt đẹp hơn, rộng lớn
hơn, lâu dài hơn rất nhiều.

Hôm nay, mừng lễ các thánh nam nữ ở trên trời là lời khẳng định có đời sau của
niềm tin ky-tô hữu chúng ta. Các thánh là những người đã vượt qua niềm vui mau
qua để tiến vào niềm vui bất diệt. Các ngài đã sống một cuộc đời không chọn
vinh hoa phù vân nhưng chọn Chúa làm gia nghiệp. Các ngài đã sống một cuộc đời
tự chủ bản năng để không vì danh lợi thú mà bán rẻ lương tâm, mà đánh mất nhân
phẩm con người. Các ngài đã trung kiên làm chứng cho sự thật, và bảo vệ công lý
cho dù có thua thiệt đời này, nhưng các ngài đã chiếm trọn đời sau.

Xin chư vị các thánh cầu thay nguyện giúp cho mỗi người chúng ta biết sống theo
tin mừng, biết chọn lựa giá trị vĩnh cửu hơn là giá trị trần gian mau qua. Xin
nhờ lời bầu cử của các ngài xin Chúa ban cho chúng ta ơn khôn ngoan và lòng
dũng cảm để sống theo thánh ý Chúa. Amen

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Nguồn: Maria Thanh Mai gởi

NGUYÊN TẮC THỨ NHẤT CỦA HỌC THUYẾT XÃ HỘI CÔNG GIÁO: NHÂN VỊ VÀ NHÂN QUYỀN

NGUYÊN TẮC THỨ NHẤT CỦA HỌC THUYẾT XÃ HỘI CÔNG
GIÁO: NHÂN VỊ VÀ NHÂN QUYỀN

Lm. Ernest Nguyễn văn Hưởng

nguồn: Conggiaovietnam.net

1. Nhân vị và nhân phẩm theo cái nhìn chung của nhân loại

Người ta thường hiểu con người là con vật có lý trí. Và câu chuyện trong dân gian Việt nam cũng hiểu như thế (chuyện Con cọp và người nông phu). Khi muốn hạ giá người nào,
người Việt Nam chúng ta đưa về con vật: Ăn như heo…

Nhân vị:

Khi nói tới nhân vị chúng ta thường hiểu mỗi cá nhân của xã hội loài người là một nhân vị, là chủ thể của quyền lợi và nghĩa vụ. Nhân vị dành cho con người nên phải hiểu đó là cá nhân có ý thức và tự do. Vì thế mỗi cá nhân phải được đối xử bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, không phân biệt phái tính, chủng tộc, v.v…Nhân vị không biệt lập nhưng hướng về nhân vị khác, thông hiệp với nhân vị khác.

Nhân phẩm:

– Nhân phẩm là phẩm giá con người, là giá trị tinh thần của một cá nhân với tính cách là một con người.

(Trích từ bài TÔN TRỌNG NHÂN PHẨM trên mạng);

– Nhân phẩm chính là những giá trị phản ánh và tạo nên phẩm chất của từng cá nhân. Mỗi con người đều có những giá trị nhất định.

– Người có nhân phẩm là người có danh dự và sẽ được cộng đồng xã hội tôn trọng và đánh giá cao. Người tự đánh mất nhân phẩm, danh dự của mình sẽ là người bị cộng đồng coi thường và đánh giá thấp;

– Người biết tôn trọng nhân phẩm là người có lòng tự trọng, biết đấu tranh và có thái độ
không đồng tình với những hành vi xâm hại hoặc chà đạp lên nhân phẩm của người
khác và của bản thân.

2. Con người theo cuốn Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo

2.1 Con người được Thiên Chúa tạo dựng

Nhân vật chính của toàn bộ đời sống xã hội là chính con người. Con người nên và phải luôn luôn là chủ thể, là nền tảng và là mục tiêu của đời sống xã hội (số 106). GHXHCG triển khai nguyên tắc: Con người có phẩm giá bất khả xâm phạm (số 107). Con người có phẩm giá của một ngôi vị, có khả năng biết mình, làm chủ mình và tự nguyện hiệp thông với người khác (số 108).

Khởi đi từ điều mọi người công nhận, Giáo hội cho biết con người được kêu gọi để có tương quan với Thiên Chúa. “Thực vậy, con người không lầm lẫn khi họ nhận biết mình cao cả hơn vũ trụ vật chất, và không coi mình chỉ như một mảnh vụn của thiên nhiên, hay như một phần tử vô danh trong xã hội loài người. Bởi vì nhờ có nội giới, con người vượt trên mọi vật. Khi con người quay về với lòng mình tức là họ trở về với nội giới thâm sâu nầy, ở đó Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm hồn, đang chờ đợi họ, và cũng nơi đó chính con người tự định đoạt về vận mệnh riêng của mình dưới con mắt của Thiên Chúa” (GS 14).

Cũng trong Hiến chế “Vui mừng và Hy vọng” (GS) Giáo hội không trả lời câu hỏi Con
người là gì ? Theo kiểu cổ điển: “Con người là một hữu thể có trí khôn, gồm có xác và hồn”, nhưng Giáo Hội hướng về Kinh thánh: “Con người đã được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa” (GS 12), “có khả năng nhận biết và yêu mến Đấng Tạo Dựng mình, được Ngài đặt làm chủ mọi tạo vật trên trái đất để cai trị và xử dụng chúng mà ngợi khen Thiên Chúa”.

Cũng khởi đi từ Kinh thánh, Giáo hội khai triển chiều kích xã hội: “Nhưng Thiên Chúa đã
không tạo dựng nên con người cô độc: Bởi vì từ khởi thủy Ngài đã tạo dựng có nam và có nữ (St 1,2-7). Sự liên kết giữa họ đã tạo nên một thứ cộng đoàn đầu tiên giữa người với người. Thực vậy, tự bản tính thâm sâu của mình, con người là một hữu thể có xã hội tính và nếu không liên lạc với những người khác con người sẽ không thể sống và phát triển tài năng của mình” (GS 12).

Con người có bản tính xã hội vì con người không thỏa mãn khi sống với thảo mộc, và sự
xuất hiện của người nữ làm thỏa mãn nhu cầu đối thoại liên vị (số 110). Con người liên hệ với những người khác như những người được giao cho sự sống của người khác (số 112). Vì mang tính xã hội nên con người hưởng dùng của cải với trách nhiệm, chứ không được tự do khai thác cách tùy tiện và ích kỷ (số 113).

2.2 Vết thương của tội nguyên tổ

Tội nguyên tổ làm con người mất đi sự thánh thiện và công chính nguyên thủy (số 115), tạo một vết thương nằm nơi sâu xa nhất của con người. Hậu quả của tội là sự tha hóa (xa rời Thiên Chúa và với chính mình, với người khác và thế giới chung quanh) (số 116). Giáo lý về tội nguyên tổ cho biết tội mang tính phổ quát, có nền tảng rất quan trọng. Giáo lý đó mời gọi đừng ở lại trong tội, đừng xem nhẹ tội, cũng đừng đổ lỗi cho người khác. Tuy nhiên không được tách rời giáo lý về sự phổ quát của tội với ý thức về sự phổ quát của ơn cứu độ (số 120).

2.3 Con người được cứu độ

Người kitô hữu nhìn thấy vực sâu của tội nhưng luôn nhìn trong ánh sáng hy vọng do Đức Kitô mang lại (số 121). Nhờ Đức Kitô chúng ta được hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi
(số 122). Theo Tân ước toàn thể thụ tạo cùng với nhân loại đều chờ đợi Đấng Cứu Chuộc.

2.4 Con người đa dạng

“Giáo huấn Xã hội Công giáo tìm cách chỉ ra những khía cạnh khác nhau của mầu nhiệm con người: con người phải được tìm hiểu “trong sự thật toàn vẹn của mình, từ sự
hiện hữu của bản thân con người cho đến chiều hướng cộng đồng và xã hội
”,
với sự quan tâm đặc biệt sao cho giá trị của con người được mọi người sẵn sàng nhìn nhận” (số 126).

– Tính thống nhất của con người: Thống nhất hồn xác, cả hai bản tính kết hợp thành
bản tính con người.

– Con người bước ra khỏi mình để hướng về Đấng Vô biên và và để hướng đến người khác. Con người độc nhất không thể sao chép và không thể xâm phạm. Từ đó đưa tới việc tôn
trọng nhân phẩm: Không thể lấy con người làm bàn đạp để thực hiện dự án, mà trái lại dự án là để phục vụ con người.

– Con người tự do hướng về điều tốt là một trong những dấu hiệu chứng tỏ con người giống Thiên Chúa (số 135).

– Mọi người đều bình đẳng vì được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và giống Thiên Chúa, “Không có Do Thái hay Hy Lạp, không có nô lệ hay tự do, không có nam hay nữ, vì
tất cả anh em đều là một trong Đức Kitô Giêsu” (Gl 3,28; x. Rm 10,12; 1 Cr 12,13; Cl 3,11).

– Con người là hữu thể xã hội (xem bên trên).

3. Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền

3.1 Giáo hội với bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền

Giáo hội đánh giá cao bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, Giáo hội ghi nhận “giá
trị tích cực của bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền,
được Liên Hiệp Quốc chấp nhận ngày 10-12-1948, và được Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II coi như “một cột mốc thực sự trên con đường tiến bộ đạo đức của nhân loại”. Tôn trọng con người là tôn trọng quyền con người (Nhân quyền). Xác định và công bố các quyền của con người, là một trong những cố gắng quan trọng nhất nhằm đáp ứng cách hữu hiệu những đòi hỏi tất yếu của phẩm giá con người (số 152).

3.2  Vài nhận xét về bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền

Vài lưu ý về bản Tuyên ngôn :

–   Công nhận nhân phẩm của tất cả con người trong đại gia đình nhân loại và
những quyền bình đẳng không thể tước đoạt của họ là nền tảng của tự
do, công lý và hòa bình
trên thế giới.

–         Xem thường và chà đạp nhân quyền đã dẫn đến những hành động man rợ.

–         Nhân Quyền cần phải được bảo vệ bằng luật pháp.

–          Cácquốc gia hội viên đã cam kết hợp tác với Liên Hiệp Quốc, nhằm cổ vũ việc
tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do căn bản.

–      Dùng sự truyền đạt và giáo dục, để nỗ lực phát huy sự tôn trọng các quyền tự do này.

4. Học Thuyết Xã Hội về quyền con người

4.1 Nguồn gốc quyền con người

Thật ra, nguồn gốc các quyền con người nằm ngay trong chính phẩm giá của mỗi một con người.…(số 153). Những quyền này mang những đặc tính “phổ quát, bất khả xâm phạm, bất khả nhượng”.

Phẩm giá này đã được nhận thức và lĩnh hội trước tiên là nhờ lý trí. Nền tảng tự
nhiên của các quyền này càng trở nên vững chắc hơn khi, nhờ ánh sáng siêu nhiên, người ta nhìn nhận rằng phẩm giá của con người đã được Đức Giêsu Kitô đón nhận và cứu chuộc qua sự nhập thể, qua cái chết và sự sống lại của Người.

4.2 Bản liệt kê Quyền con người của Giáo hội

Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II lập một danh sách các quyền ấy trong Thông điệp entesimus Annus: “quyền được sống, một phần không thể thiếu trong quyền ấy là quyền của đứa trẻ được lớn lên trong bụng mẹ ngay từ khi thụ thai; quyền được sống trong một gia đình hợp nhất và trong một môi trường luân lý giúp phát triển nhân cách của đứa trẻ; quyền được phát huy trí thông minh, được tự do tìm kiếm và hiểu biết sự thật; quyền được chia sẻ công ăn việc làm để sử dụng các nguồn lực vật chất của trái
đất cách khôn ngoan, và quyền được lấy từ việc lao động những phương thế để trợ giúp bản thân và những người lệ thuộc vào mình;quyền được tự do lập gia đình, quyền có con và dạy dỗ con qua việc thực hiện hành vi tình dục một cách có trách nhiệm. Theo một nghĩa nào đó, nguồn gốc và tổng hợp các quyền này chính là quyền tự do tôn giáo, được hiểu như quyền được sống theo sự thật của đức tin và phù hợp với phẩm giá siêu việt của một con người” (Số 155).

4.3 Quyền lợi và nghĩa vụ

Liên kết hết sức chặt chẽ với đề tài quyền lợi là vấn đề nghĩa vụ của con người: “Trong xã hội loài người, quyền của người này là nghĩa vụ cho hết những người khác: Cụ thể là nghĩa vụ phải nhìn nhận và tôn trọng quyền ấy” (số 156).

4.4 Khoảng cách giữa chữ viết và tinh thần

Thực tế rất đáng buồn là các quyền ấy đã bị xâm phạm, với đủ loại chiến tranh và bạo lực, nhất là những cuộc diệt chủng và lưu đày tập thể, việc mở rộng gần như trên toàn thế giới những hình thức chưa từng thấy của sự nô lệ như buôn người, bắt trẻ em làm lính, bóc lột người lao động, buôn bán ma tuý trái phép, mãi dâm.

Có một khoảng cách giữa “chữ viết” và “tinh thần” của nhân quyền, vì người ta chỉ nhìn nhận các quyền này một cách hết sức hình thức (Số 158). Chính Giáo Hội cũng cảm thấy nhu cầu phải tôn trọng công lý và các quyền con người ngay trong hàng ngũ Giáo Hội (số 159).

5. Thay cho lời kết

Giáo hội bận tâm rao giảng tin mừng nên “Đẩy mạnh công lý và hoà bình, đưa ánh sáng và men Tin Mừng thâm nhập mọi lĩnh vực của xã hội con người, đó luôn luôn là mục tiêu Giáo Hội ra sức nhắm tới khi thi hành mệnh lệnh của Chúa”.

Giáo Hội dấn thân trong công tác mục vụ này theo hai hướng: bằng cách công bố những nền tảng Kitô giáo của nhân quyền và bằng cách tố giác những sự vi phạm các quyền này338. Dù sao, “công bố bao giờ cũng quan trọng hơn là tố giác, và không thể tố giác mà quên công bố, vì có như thế việc tố giác mới chắc chắn và có động cơ cao cả”w

(Trích tập san Giáo huấn Xã hội Công giáo số 2)

Lòng Chúa Thương Xót trong Kinh thánh

Lòng Chúa Thương Xót trong Kinh thánh

TRẦM THIÊN THU

 

LỜI NGỎ: Bài viết này dựa vào Tông thư “Thiên Chúa Giàu Lòng Thương Xót” [Rich in Mercy (Anh ngữ), Dives in Misericordia (La ngữ)] của Chân phước Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Đây là loại bài “cao cấp” nên rất khó lĩnh hội ngay, vì thế bạn cần đọc chậm và suy nghĩ nhiều theo linh hứng của Chúa Thánh Thần. Đừng đọc cả một lúc, mỗi lần đọc một ít. Chúc bạn được Chúa Thánh Thần linh hứng để hiểu đúng linh đạo này. Xin mời bạn!

 


Khi diễn tả Lòng Chúa Thương Xót (LCTX), các sách Cựu ước dùng 2 cách diễn tả đặc biệt,
mỗi câu đều có một sắc thái khác nhau về ngữ nghĩa.

Trước hết, thuật ngữ “hesed” ngụ ý một thái độ sâu sắc của “lòng tốt”. Khi điều này
được thiết lập giữa hai cá nhân, họ không chỉ muốn tốt cho nhau mà họ còn tin tưởng nhau bằng sự thầm hứa trong lòng, và trung thành với nhau. Vì “hesed” cũng có nghĩa về ân huệ hoặc yêu thương, điều này xảy ra đúng theo nền tảng của lòng trung thành. Sự thật là sự tận tụy được nói tới không chỉ là đặc tính luân lý mà còn hầu như là đặc tính pháp lý tạo sự khác biệt.

Cựu ước dùng từ “hesed” để nói về Thiên Chúa, điều này luôn xảy ra khi liên kết với
giao ước mà Thiên Chúa đã thiết lập với dân Israel. Đối với Thiên Chúa, giao ước này là tặng phẩm và ân huệ dành cho dân Israel. Do đó, Thiên Chúa đã hứa tôn trọng giao ước, “hesed” cũng cần một ý nghĩa hợp pháp phù hợp với giao ước.

Lời hứa theo pháp lý về phần Thiên Chúa bắt buộc dân Israel không được vi phạm giao
ước và phải tôn trọng các điều kiện của giao ước. Nhưng ở điểm này, “hesed” không là pháp lý, được mặc khải phương diện sâu xa hơn, cho thấy chính nó là gì ngay từ đầu, nghĩa là tình yêu đã được trao ban, tình yêu mạnh hơn sự phản trắc và ân sủng mạnh hơn tội lỗi.

Lòng tín trung này đối với con-gái-bất-trung-của-dân-tộc: “Ngay cả lũ chó rừng cũng biết chìa vú cho con bú, thế mà con gái dân tôi lại dữ dằn hung bạo như đà điểu chốn hoang địa khô cằn. Thiếu nữ dân tôi gian ác tầy trời vượt xa cả Xô-đôm tội lỗi; thành đó bị
đổ nhào trong nháy mắt, chẳng cần ai phải nhúng tay vào”
(Ac 4:3, 6). Tóm lại, đối với Chúa, đó là lòng tín trung đối với chính Ngài. Điều này trở thành hiển nhiên thường xuyên ở cả hai dạng “tận tụy” mà chúng ta gặp (ân sủng và tín trung), có thể được coi là trường hợp của phép thế đôi (hendiadys, cách dùng liên từ “và” giữa 2 từ ngữ), ví dụ: Xh 34:6; 2 Sm 2:6; 15:20; Tv 25 [24]:10; 40 [39]:11-12; 85 [84]:11; 138 [137]:2; Mi 7:20).

“Ngươi hãy nói với nhà Israen: Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Hỡi nhà Ítraen,
không phải vì các ngươi mà Ta hành động, mà vì danh thánh của Ta đã bị các ngươi xúc phạm giữa các dân các ngươi đã đi đến” (Ed 36:22). Do đó mà dân Israel, mặc dù nhiều tội lỗi vì vi phạm giao ước, không thể yêu cầu “hesed” của Thiên Chúa theo pháp lý, nhưng họ có thể và phải tiếp tục hy vọng và tin sẽ được điều đó, vì Thiên Chúa của giao ước thực sự “chịu trách nhiệm về tình yêu của Ngài”.

Thành quả của tình yêu này là ơn tha thứ và phục hồi ân sủng, tái lập giao ước nội
tại. Từ ngữ thứ hai theo thuật ngữ Cựu ước xác định Lòng Thương Xót là
“rahamim”.

Đây là sự khác biệt của “hesed”. Trong khi “sự tận tụy” làm nổi bật lòng tín trung
của “trách nhiệm đối với tình yêu của mình” (theo nghĩa nam tính), “rahamim”
theo chính nguyên ngữ đã bao hàm tình yêu của người mẹ (rehem = tử cung).

Từ hệ lụy nguồn gốc và sâu xa – thực sự là sự kết hợp – liên kết người mẹ với đứa con
làm nảy sinh mối quan hệ đặc biệt với đứa con, một tình yêu đặc biệt. Với tình yêu này, người ta có thể nói rằng đó là “hoàn toàn cho không”, vô điều kiện, và về phương diện này nó cấu thành sự cần thiết nội tại: Tình trạng cấp bách của con tim.

Như vậy, đó là sự biến đổi “nữ tính” của lòng tín trung nam tính đối với chính nó
được diễn tả bằng từ ngữ “hesed”. Đối với nền tảng tâm lý này, “rahamim” phát
sinh một loạt cảm xúc, kể cả lòng tốt và dịu dàng, kiên nhẫn và hiểu biết, nghĩa là sẵn sàng tha thứ.

Cựu ước quy cho Thiên Chúa các đặc tính này khi dùng thuật ngữ “rahamim” để nói về
Ngài. Chúng ta đọc thấy trong sách Isaia: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình,
hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ”
(Is 49:15).

Tình yêu này là lời cảm tạ tín thành đối với sức mạnh mầu nhiệm của tình mẫu tử,
được diễn tả trong Cựu ước bằng nhiều cách: Cứu thoát khỏi mọi nguy hiểm, nhất
là thoát khỏi kẻ thù; tha thứ tội lỗi – của từng người và của cả toàn dân Israel – cuối cùng là sẵn sàng làm trọn lời hứa và niềm cậy trông, mặc dù nhân loại bất trung, như chúng ta thấy trong sách Hôsê: “Ta sẽ chữa chúng khỏi tội bất trung, sẽ yêu thương chúng hết tình, vì cơn giận của Ta sẽ không còn đeo đuổi chúng” (Hs 14:5).

Theo cách nói của Cựu ước, chúng ta cũng thấy những cách diễn tả khác, ngụ ý nhiều
cách đối với ngữ cảnh cơ bản. Nhưng cả hai cách nói trên đều đáng lưu ý đặc biệt, cho thấy rõ phương diện theo thuyết hình người nguyên thủy (original anthropomorphic aspect): Khi diễn tả LCTX, các tác giả Kinh thánh dùng cách nói phù hợp với lương tâm và kinh nghiệm của những người đương thời.

Thuật ngữ Hy Lạp theo bản dịch “Bảy Mươi” (*) không cho thấy như bản cổ ngữ Do Thái:
Vì thế nó không đưa ra tất cả sự khác biệt về ngữ nghĩa riêng đối với văn bản gốc. Dù ở mức nào, Tân ước cũng dựa vào sự phong phú và độ sâu ghi dấu cổ

Theo cách này, chúng ta thừa hưởng từ Cựu ước – theo cách tổng hợp – không chỉ phong
phú về cách diễn tả được các sách đó dùng để xác định LCTX, mà còn về “tâm lý” của Thiên Chúa theo thuyết hình người: Hình ảnh về tình yêu khắc khoải của Ngài, khi tiếp xúc với điều ác, nhất là với tội lỗi của cá nhân và dân tộc, được biểu hiện là LTX.

Hình ảnh này được tạo nên không chỉ về ngữ cảnh tổng quát của động từ “hanan” mà còn
về ngữ cảnh của từ ngữ “hesed” và “rahamim”. Thuật ngữ “hanan” diễn tả một khái niệm rộng hơn, thực sự có nghĩa là cách biểu hiện của ân sủng, liên quan một bẩm chất kiên định (constant predisposition) là khoan hồng, nhân từ và thương xót.

Thêm vào các yếu tố ngữ nghĩa, khái niệm của Cựu ước về LCTX cũng được tạo nên từ
những gì bao hàm trong động từ “hamal”, theo nghĩa đen là “tha chết” (một kẻ thù chiến bại) nhưng cũng “tỏ lòng thương xót và trắc ẩn”, vì thế mà tha thứ và miễn trừ tội lỗi.

Còn có thuật ngữ “hus” diễn tả lòng thương xót và trắc ẩn, nhưng đặc biệt mang ý
nghĩa xúc động. Các thuật ngữ này xuất hiện ít hơn trong các văn bản Kinh thánh
khi diễn tả LCTX.

Ngoài ra, nên chú ý từ ngữ “emet” đã được nói tới. Nó có nghĩa ban đầu là “sự vững
chắc, sự an toàn” (theo Hy ngữ của bản Bảy Mươi là “chân lý”) và khi đó có nghĩa là “lòng thành tín”. Theo cách này, nó có vẻ liên kết với ngữ nghĩa riêng đối với thuật ngữ “hesed”. Ở cả 2 nơi, đó là trường hợp của “hesed”, nghĩa là lòng thành tín mà Thiên Chúa thể hiện tình yêu của Ngài đối với dân, trung thành với điều Ngài hứa là sẽ làm trọn trong tình mẫu tử của Mẹ Thiên Chúa (x. Lc 1:49-54), như Kinh thánh nói: “Chúa sẽ trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên và nhớ lại lời xưa giao ước” (Lc 1:72). Đây cũng là trường hợp của LCTX theo nghĩa của từ “hesed”, theo mức của những câu theo sau, những câu mà Dacaria nói về “LTX nhân hậu của Thiên Chúa”, diễn tả rõ ràng nghĩa thứ hai, nghĩa là “rahamim” (bản La ngữ: Viscera Misericordiae), đồng hóa LCTX với tình thương của người mẹ.

 

CỰU ƯỚC

Cựu ước hiểu LCTX bằng cách dùng nhiều thuật ngữ có ý nghĩa liên quan, khác nhau
bằng nội dung riêng, nhưng có thể nói được rằng chúng đều đồng quy từ những hướng khác nhau theo nghĩa cơ bản, diễn tả sự phong phú nổi bật và gần gũi với con người với các phương diện khác nhau.

Cựu ước khuyến khích mọi người chịu đựng nỗi bất hạnh, nhất là nỗi đau khổ do tội
lỗi – như dân Israel được Thiên Chúa hứa ban giao ước – để cầu xin LTX của Thiên Chúa, và làm cho những nỗi bất hạnh đó trở thành niềm hy vọng, nhắc nhở về LCTX trong những lúc thất bại và mất niềm tin.

Cựu ước cũng luôn dâng lời tạ ơn về LCTX, thể hiện trong đời sống của toàn dân và
mỗi cá nhân. Theo cách này, LCTX tương phản với sự công thẳng của Thiên Chúa theo nghĩa nào đó, và trong nhiều trường hợp được thể hiện không chỉ mạnh hơn mà còn sâu sắc hơn công lý. Cũng vậy, tình yêu tác động tới công lý, và cuối cùng thì công lý phục vụ tình yêu.

Cựu ước còn dạy rằng, dù công lý là một nhân đức đích thực nơi con người, và nơi
Thiên Chúa biểu hiện sự hoàn hảo trong suốt, do đó mà tình yêu “lớn hơn” công
lý – lớn hơn về ý nghĩa nguyên thủy và cơ bản.

Tính ưu việt và nổi trội của tình yêu có liên quan công lý – đây là dấu ấn của toàn bộ mặc khải – được mặc khải chính xác qua LTX. Điều này có vẻ minh nhiên đối với các tác giả thánh vịnh và các tiên tri mà công lý kết thúc theo nghĩa Ơn cứu độ được hoàn tất bởi chính Thiên Chúa và LCTX [Tv 40 (39):11; 98 (97):2; Is 45:21; Is 51:5 & 8; Is 56:1].

LCTX khác với công lý, nhưng không đối lập, nếu chúng ta nhận theo lịch sử con người
– như Cựu ước đã thể hiện chính xác – sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng Tạo hóa đã tự liên kết với thụ tạo của Ngài bằng một tình yêu đặc biệt.

Theo bản chất, tình yêu loại trừ thù hận và ý xấu đối với người mà Ngài đã trao tặng
phẩm là chính mình: “Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Ngài đã làm ra” (Kn 11:24). Những từ này cho thấy cơ bản thâm sâu của mối quan hệ giữa công lý và LTX nơi Thiên Chúa, trong mối quan hệ của Ngài với con người và thế giới.

Những lời đó cho chúng ta biết rằng chúng ta phải tìm kiếm nguồn gốc của việc trao
ban sự sống và các lý do thân thiết đối với mối quan hệ này bằng cách trở lại từ “sự bắt đầu”, trong chính mầu nhiệm sáng tạo. Những lời đó báo trước Giao ước cũ (Cựu ước), sự mặc khải viên mãn của Thiên Chúa, Đấng mệnh danh là “tình yêu” (1 Ga 4:15 & 16).

Nối kết với mầu nhiệm sáng thế là mầu nhiệm của sự chọn lựa, theo cách đặc biệt mà
hình thành lịch sử con người có người cha tâm linh là Abraham nhờ đức tin. Do
đó, qua dân tộc này mà các hành trình xuyên suốt lịch sử Cựu ước và Tân ước, mầu nhiệm của sự chọn lựa nói đến mỗi người trong đại gia đình nhân loại.

“Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng xót thương” (Gr 31:3).“Núi có dời có đổi, đồi có chuyển có lay, tình nghĩa của Ta đối với ngươi vẫn không thay đổi, giao ước hoà bình của Ta cũng chẳng chuyển lay, Đức Chúa là Đấng thương xót ngươi phán như vậy” (Is 54:10). Sự thật này, đã từng được công bố với dân Israel, liên quan viễn cảnh của toàn lịch sử con người, cả viễn cảnh thời gian và thế mạt (Gn 4:2, 11; Tv 145 (144):9; Hc 18:8-14; Kn 11:23-12:1).

Đức Kitô mặc khải Chúa Cha trong cùng viễn cảnh và theo nền tảng đã được chuẩn bị,
như nhiều trang Cựu ước mô tả. Cuối mặc khải này, vào đêm trước khi chịu chết, Chúa Giêsu nói với tông đồ Philipphê lời đáng ghi nhớ này: “Thầy ở với anh em bấy lâu, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”(Ga 14:9).

TÂN ƯỚC

Ngay đầu Tân ước, hai tiếng nói vang lên trong Phúc âm thánh Luca phù hợp việc liên
quan LCTX – một sự hài hòa vang dội cả truyền thống Cựu ước. Đức Maria vào nhà
ông Dacaria, tán tụng Chúa bằng cả linh hồn vì LXT của Chúa, điều mà “từ đời nọ
đến đời kia” được trao ban cho những ai kính yêu Ngài.

Sau đó, khi Đức Mẹ nhớ lại sự tuyển chọn dân Israel, Đức Mẹ đã tuyên xưng LCTX mà
Ngài đã chọn Đức Mẹ là người được mọi thời khen là “đầy ơn phúc” (x. Lc 1:49-54). Khi Gioan Tẩy giả chào đời, ông Dacaria ca tụng Thiên Chúa của Israel và tôn vinh Ngài vì đã tỏ LTX như đã hứa với các tổ phụ và vì đã nhớ giao ước thánh của Ngài (x. Lc 1:72). Đây cũng là trường hợp của LCTX theo nghĩa của từ “hesed”, điều mà ông Dacaria nói về “lòng nhân hậu của Thiên Chúa”, được diễn tả rõ theo nghĩa thứ hai, nghĩa là “rahamim” (La ngữ là viscera misericordiae), xác định LCTX như tình mẫu tử.

Trong giáo huấn của chính Chúa Giêsu, hình ảnh này kế thừa từ Cựu ước trở nên đơn
giản hơn và sâu xa hơn. Đây có thể là điều hiển nhiên nhất trong dụ ngôn về đứa con hoang đàng (x. Lc 15:14-32). Dù từ ngữ “lòng thương xót” không xuất hiện, nhưng vẫn diễn tả rõ ràng bản chất của LCTX.

Đó là mầu nhiệm của LCTX, một kịch bản thâm thúy thể hiện Tình Cha đối với đứa con
hoang đàng và tội lỗi. Người con đó không chỉ được hồi phục quyền làm con mà còn được tiếp tục thừa kế gia sản của người cha dù đã ăn chơi phung phí hết phần gia sản riêng. Ăn năn và trở về, nhận lỗi và xin lỗi, tất cả lại trở về nguyên trạng của người con. Tình Chúa quá bao la và kỳ diệu!

“Khi tiêu xài hết mọi thứ”, người con “bị túng quẫn”, nhất là “nạn đói xảy ra trong
vùng đó” đến nỗi người con “thèm ăn cám heo” mà cũng không được ăn, thế là người con phải quyết định về nhà cha:“Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà mình ở đây lại chết đói!” (Lc 15:17). Việc trở về của người con có thể chỉ là vạn bất đắc dĩ, nhưng ít nhiều gì anh cũng nhận thấy mình bất xứng và chỉ dám xin cha coi mình như tôi tớ: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy” (Lc 15:18-19). Thế nhưng anh không thể tin những gì anh thấy: Người cha ra ôm anh vào lòng, làm tiệc mừng, cho mang đồ mới và giày mới. Dụ ngôn này đã “chạm” đến giao-ước-tình-yêu, “chạm” đến mọi tình trạng mất ân sủng và mọi tội lỗi.

Theo nhận thức, người con này lý luận để khả dĩ thấy rằng mình đã hoàn toàn bất
xứng, không còn mối quan hệ mật thiết của tình phụ tử. Do đó mà người con quyết
định đứng dậy và trở về với cha. Dám trở về là can đảm, vì dù sao cũng đã bẽ mặt và nhục nhã, nhưng không mặc cảm tội lỗi. Người con hoang đàng nhận thấy mình không có quyền đòi hỏi gì nữa, không đáng là con, may lắm cũng chỉ mong được làm người giúp việc trong nhà cha mình thôi. Người con đã nhận thức đầy đủ về tình trạng bất xứng của mình và “đáng đời” thế nào theo công lý. “Quyết định dứt khoát trở về” là động thái rất quan yếu. Lúc đó, con người phải giằng co âm thầm rất mãnh liệt. Đó chính là động thái trưởng thành trong đức tin – tin vào LCTX và tin mình được thứ tha.

Trong dụ ngôn “người con hoang đàng”, thuật ngữ “công bình” không được dùng, và trong
nguyên bản cũng không dùng từ “lòng thương xót”. Mối quan hệ giữa công bình và yêu thương được biểu hiện như LCTX, đồng thời được khắc sâu bằng tính chính xác trong nội dung của dụ ngôn.

Rõ ràng hơn là tình yêu được biến đổi thành LCTX khi cần có quy luật chính xác của
sự công bình. Người con hoang đàng không còn xứng đáng sau khi ăn chơi sa đọa,
trắng tay khi trở về với cha, nhưng được cha tha bổng, và dần dần người con được vun đắp về vật chất và tinh thần, dù có thể không bao giờ được đầy đủ như xưa. Tình phụ tử được khôi phục là nhờ tính cao thượng và tình thương của người cha.

Mối quan hệ như vậy không bao giờ có thể bị thay đổi hoặc bị phá hủy bằng bất cứ
động thái nào. Người con hoang đàng biết vậy và biết mình phải làm gì để chuộc
lỗi lầm, đó là lúc người ta biết rõ mình để có thể sống khiêm nhường hơn.

Hình ảnh người con hoang đàng giúp chúng ta nhận biết LCTX là gì và như thế nào.
Chắc chắn đây là mặc khải về Thiên Chúa Cha, giúp chúng ta tái phát hiện cách
nhìn của Cựu ước về LCTX luôn mới, vừa đơn giản vừa sâu xa.

Người cha của đứa con hoang đàng luôn trung thành với cương vị làm cha, trung thành
với tình yêu bao la mà ông luôn dành cho con mình. Do đó mà người cha luôn chờ đợi và sẵn sàng tha thứ nếu đứa con biết trở về. Tình yêu ấy là LTX, kỳ lạ đến nỗi không ai khả dĩ hiểu hết. Người cha ấy đã tha thứ thì không còn phân biệt gì so với đứa con vẫn ngoan ngoãn ở với mình. Người con ngoan ngoãn đã so đo nhưng người cha đã phân tích rõ ràng để huynh đệ vẫn hiếu thuận với nhau.

Người cha trung tín với chính mình – một đặc điểm mà Cựu ước dùng thuật ngữ “hesed” –
ngay khi diễn tả bằng cách thể hiện tình phụ tử. Thật vậy, chúng ta đọc thấy rằng khi người cha thấy đứa con hoang đàng trở về, ông đã chạnh lòng trắc ẩn, chạnh LTX, chạy ra đón nó, ôm nó trước khi nó ôm mình, rồi hôn nó (Lc 15:20). Chắc chắn ông làm điều này vì yêu thương con sâu sắc lắm, và điều này cũng bày tỏ lòng đại lượng dành cho con, lòng đại lượng đó đã khiến người con lớn phải tức giận. Lời người cha nói với người con lớn giản dị mà thâm sâu: “Chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy” (Lc 15:32).

Trong Phúc âm của thánh sử Luca có dụ ngôn Con Chiên Lạc (x. Lc 15:4-7) và dụ ngôn
Đồng Bạc Bị Mất (x. Lc 15:8-9). Mỗi lần đều có mức nhấn mạnh tương tự về niềm vui có trong trường hợp của đứa con hoang đàng (x. Lc 15:11-32). Lòng thành tín của người cha hoàn toàn được tập trung vào tính nhân bản đối với đứa con hư hỏng, về nhân phẩm của đứa con.

Điều này giải thích mọi niềm vui nỗi mừng lúc đứa con trở về nhà. Do đó người ta có
thể nói rằng tình thương dành cho đứa con là tình yêu xuất phát từ chính bản chất tình phụ tử, theo cách thức bắt buộc người cha quan tâm đến nhân phẩm của đứa con. Mối quan tâm này là thước đo tình yêu thương của người cha, tình yêu thương mà thánh Phaolô diễn tả: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất được. Ơn nói tiên tri ư? Cũng chỉ nhất thời. Nói các tiếng lạ chăng? Có ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết ư? Rồi cũng chẳng còn” (1 Cr 13:4-8).

Lòng Thương Xót – như Đức Kitô đã bày tỏ trong dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu (hoặc dụ
ngôn Đứa Con Hoang Đàng) – có dạng nội tại của tình yêu trong Tân ước gọi là “agape”. Tình yêu thương này có thể đạt tới mọi đứa con hoang đàng, tới mọi nỗi khổ đau của con người, tới cả nỗi khốn khổ luân lý và tội lỗi.

Khi điều này xảy ra, con người là khách thể của LTX mà không hề cảm thấy bị hạ
nhục, mà cảm thấy lại được tìm thấy và “được phục hồi giá trị”. Người cha bày tỏ niềm vui mừng đối với đứa con vừa “được tìm thấy” và như “chết sống lại”.

Niềm vui này thể hiện cái tốt nguyên trạng, dù đứa con hoang đàng cũng không thể
ngăn cản tình cha thương con. Niềm vui đó còn thể hiện cái tốt lại được tìm thấy, khi đứa con trở về thú nhận tội lỗi. Điều xảy ra giữa mối quan hệ phụ tử trong dụ ngôn của Chúa Giêsu không được đánh giá “từ bên ngoài”. Định kiến của chúng ta về LTX đa số là hậu quả của việc chúng ta đánh giá theo bề ngoài.

Thi thoảng điều này xảy ra bằng cách theo phương pháp đánh giá mà chúng ta thấy
trong LTX vượt trên mọi mối quan hệ bất bình đẳng giữa người trao LTX và người nhận LTX. Do đó, chúng ta vội vã “chiết khấu” LTX mà “thu nhỏ” người nhận, cho nên chúng ta xúc phạm nhân phẩm người khác.

Dụ ngôn Đứa Con Hoang Đàng cho thấy thực tế khác hẳn: Mối quan hệ của LTX dựa trên
kinh nghiệm chung của cái tốt là con người, kinh nghiệm chung của phẩm chất đúng nơi con người. Kinh nghiệm chung này làm cho đứa con hoang đàng bắt đầu tự nhận thấy mình và hành động của mình bằng sự thật trọn vẹn (đó là khiêm nhường). Mặt khác, vì chính lý do này mà đứa con trở thành cái tốt riêng của người cha: Người cha thấy rõ cái tốt đạt được nhờ mầu nhiệm của chân lý và yêu thương để người cha có vẻ quên mọi tội lỗi mà đứa con đã phạm.

Hoán cải là cách diễn tả cụ thể nhất về tác dụng của tình yêu và sự hiện hữu của LTX
trong thế giới loài người. Dụ ngôn Đứa Con Hoang Đàng diễn tả theo cách đơn giản nhưng sâu sắc trong thực tế cải tà quy chánh.

Ý nghĩa riêng và đúng của LTX không chỉ bao gồm trong cách nhìn, mà còn xuyên
suốt và đầy lòng trắc ẩn: LTX được diễn tả về phương diện đúng và riêng khi LTX
phục hồi để đánh giá, thúc đẩy và thu hút những điều tốt từ mọi dạng của điều xấu hiện hữu trong thế giới và trong con người. Hãy hiểu theo cách này, LTX cấu thành nền tảng của sứ vụ cứu độ và sức mạnh trong sứ vụ của Đức Kitô.

Các tông đồ và các môn đệ của Ngài đã hiểu và thực hành LTX như cách của Ngài. LTX
không bao giờ ngừng mặc khải, bằng tâm khảm và trong hành động, như bằng chứng
hùng hồn về tình yêu: “Đừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác” (x. Rm 12:21). Khuôn mặt đích thực của LTX phải được mặc khải theo cách mới. Mặc dù có nhiều định kiến, LTX vẫn thực sự rất cần thiết trong thời đại chúng ta.

LCTX được mặc khải trên Thánh giá và trong sự Phục sinh

Sứ vụ của Đức Kitô và hoạt động của Ngài giữa nhân loại kết thúc bằng cái chết trên
Thập giá và sự Phục sinh. Chúng ta phải thẩm thấu sự kiện cuối cùng này, nhất là theo ngôn ngữ của Công đồng Vatican II xác định là Mầu nhiệm Vượt qua (Mysterium Paschale) – nếu chúng ta muốn diễn tả sâu sắc sự thật về LTX, như được mặc khải trong lịch sử cứu độ.

Ở mức cân nhắc này, chúng ta phải tiếp cận Tông thư Redemptor Hominis (Gioan Phaolô
II, 1978). Thật vậy, thực tế của ơn cứu độ, theo chiều kích con người, đã mặc khải những điều chưa từng nghe biết – về sự cao cả của con người, như Bài Exsultet (công bố trong đêm Vọng Phục Sinh) mô tả: “Tội hồng phúc đã ban cho chúng ta Đấng cứu chuộc rất cao sang”, ngay lúc chiều kích cứu độ của Thiên Chúa làm cho chúng ta có thể hồi sinh theo
cách kinh nghiệm nhất và lịch sử nhất, để tiết lộ chiều sâu của tình yêu không không chùn bước trước sự hy sinh khác thường của Chúa Con, để thỏa mãn lòng trung thành của Chúa Cha đối với loài người, tạo dựng chúng ta theo hình ảnh Ngài và chọn chúng ta từ khởi nguyên, nơi Chúa Con, đối với ân sủng và vinh quang.

Các sự kiện của ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, thậm chí trước đó, trong lời cầu nguyện
tại Ghết-si-ma-ni, giới thiệu sự thay đổi nền tảng của toàn bộ sự mặc khải về tình yêu và LTX trong sứ vụ của Đức Kitô. Ngài “thi ân giáng phúc, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế” (Cv 10:38), đồng thời “chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 9:35), chính Ngài thực hiện LTX và kêu gọi LTX, khi Ngài bị bắt, bị đối xử tệ, bị kết án, bị đánh đòn, đội vòng gai, bị đóng đinh vào Thập giá và chết trong đau đớn vô cùng (x. Mc 15:37; Ga 19:30).

Lúc đó Ngài xứng đáng nhận LTX từ những người mà Ngài đã làm tốt cho họ, nhưng Ngài
đã không nhận được. Ngay cả những người thân tín nhất cũng không thể bảo vệ Ngài khỏi kẻ ác. Ở giai đoạn cuối cùng của sứ vụ, các lời tiên tri, nhất là của tiên tri Isaia nói về Người Tôi Tớ Đau Khổ, hoàn toàn ứng nghiệm nơi Đức Kitô: “Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành”(Is 53:5).

Đức Kitô, là người chịu đau khổ trong Vườn Cây Dầu và trên đồi Can-vê, đã thưa với
Chúa Cha rằng Ngài đã thể hiện tình yêu của Chúa Cha cho mọi người. Nhưng Ngài cũng không được thoát khỏi đau khổ và cái chết trên Thập giá: “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên
công chính trong Người”
(2 Cr 5:21).

Thánh Phaolô viết về chiều kích thực tế của ơn cứu độ. Chính ơn cứu độ này là mặc
khải tính thánh thiêng của Thiên Chúa, Đấng hoàn thiện, đầy đủ công lý và yêu
thương, vì công lý dựa trên yêu thương.

Trong cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Kitô, Chúa Cha không tha chính Con mình, nhưng
“vì chúng ta mà tự nhận thân phận như tội nhân”, công lý được diễn tả, Đức Kitô chịu đau khổ và chấp nhận Thập giá vì tội lỗi nhân loại. Điều này cấu thành “sự dồi dào” của công lý, vì tội lỗi của loài người “được đền bù” nhờ sự hy sinh của Thiên-Chúa-Làm-Người.

Công lý này là “tiêu chuẩn của Thiên Chúa”, hoàn toàn nhiệm xuất từ tình yêu của
Chúa Cha và Chúa Con, và sinh hoa kết trái trong tình yêu. Vì thế, công lý của Chúa mặc khải trên Thánh giá của Đức Kitô là “chiều kích cùa Thiên Chúa” vì nhiệm xuất từ tình yêu và được hoàn tất trong tình yêu, sinh ra hoa trái ơn cứu độ. Ơn cứu độ liên quan sự mặc khải về LTX viên mãn.

Chiều kích ơn cứu độ được đặt trong hiệu quả không chỉ bằng cách đem lại công lý để
chịu đựng tội lỗi, mà còn phục hồi tình yêu nơi con người, vì chính con người đã từng viên mãn sự sống và sự thánh thiện đến từ Thiên Chúa. Theo cách này, ơn cứu độ liên quan sự mặc khải về LTX một cách viên mãn.

Mầu nhiệm Vượt qua là tột đỉnh của sự mặc khải này và hiệu của cùa LTX, có thể biện
hộ cho con người, phục hồi công lý theo nghĩa của mệnh lệnh cứu độ mà Thiên Chúa đã muốn từ khi tạo dựng nhân loại. Cuộc khổ nạn của Đức Kitô nói theo cách đặc biệt đối với con người, không chỉ với người có niềm tin.

Những người không có niềm tin cũng có thể khám phá nơi Ngài về mối liên kết với số
phận con người, cũng như sự hài hòa trọn vẹn của sự dấn thân vô vị lợi vì con người, vì chân lý và vì yêu thương. Nhưng chiều kích của Mầu nhiệm Vượt qua còn thâm thúy hơn. Thập giá trên đồi Can-vê, nơi mà Đức Kitô đã đối thoại lần cuối với Chúa Cha, nổi bật lên từ chính trái tim yêu thương của con người, vốn được tạo thành giống hình ảnh Thiên Chúa, đã được làm thành tặng phẩm theo kế hoạch đời đời của Thiên Chúa.

Như Đức Kitô đã mặc khải, Thiên Chúa không chỉ thân thiện với thế giới với tư cách
Tạo hóa và nguồn hiện hữu, mà Ngài còn là Cha: Ngài liên kết với con người, và Ngài mời gọi họ hiện hữu trong thế giới vô hình, bằng mối liên kết thân mật hơn. Đó là tình yêu không chỉ tạo điều tốt mà còn cho tham dự vào chính sự sống của Thiên Chúa: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Vì Ngài yêu thương và muốn trao ban chính Ngài. Và Ngài cũng mời gọi chúng ta chia sẻ chân lý và tình yêu nơi Thiên Chúa.

Tín điều Công đồng Nicê-Constantinopolitan xác nhận: “Ánh sáng bởi Ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật”. Thập giá là bằng chứng tuyệt vời về giao ước của Thiên Chúa đối với nhân loại – mỗi con người đều là giao ước này. Thập giá là giao ước mới đã được thiết lập trên đồi Can-vê, không hạn chế với một người nào.

Thập giá của Đức Kitô nói gì với chúng ta? Thập giá lại cho chúng ta một sứ điệp
quan trọng: “Đức Kitô phục sinh”.

Những người thấy ngôi mộ trống trở thành nhân chứng về Đức Kitô phục sinh. Nhưng ngay
trong vinh quang Thiên Chúa, Thập giá vẫn còn. Thập giá đó vẫn nói và không ngừng nói về Thiên Chúa Cha, Đấng tuyệt đối trung tín với tình yêu đời đời của Ngài đối với con người: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16).

LTX là tình yêu tuyệt đối. Tin vào tình yêu này là tin vào LCTX. Tin vào Chúa Con bị đóng đinh là “thấy Chúa Cha” (x. Ga 14:9), nghĩa là tin tình yêu đó hiện hữu trong thế giới và tình yêu này mạnh hơn mọi điều ác nơi mọi người, nơi nhân loại, hoặc cả thế gian. LCTX là chiều kích tuyệt đối của tình yêu.

Tình yêu mạnh hơn tử thần và mạnh hơn tội lỗi

Thập giá của Đức Kitô trên đồi Can-vê cũng là nhân chứng đối với sức mạnh của sự ác
chống lại Con Thiên Chúa, chống lại một người con trong những người con của nhân loại, con người đó có bản chất vô tội, chống lại những người sinh ra trong thế gian chưa bị hoen ố vì sự bất tuân phục của Adam và ảnh hưởng Tội nguyên tổ. Và ở đây, chính nơi Đức Kitô, công lý được thực hiện đối với tội lỗi bằng giá máu hy sinh của Ngài, bằng cách “vâng lời cho đến chết trên Thập giá” (Pl 2:8).

“Ngài chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Ngài thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Ngài” (2 Cr 5:21). Công lý cũng được đem tới để liên quan cái chết, mà từ đầu lịch sử nhân loại đã bị nối kết với tội lỗi. SỰ chết đã được công lý thực hiện bằng giá của cái chết của Con Người không hề có tội và chiến thắng bằng cái chết: “Tử thần đã bị chôn vùi. Đây giờ chiến thắng! Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi? Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi? Tử thần có độc là vì tội lỗi, mà tội lỗi có mạnh cũng tại có Lề Luật. Nhưng tạ ơn Thiên Chúa, vì Ngài đã cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (x. 1 Cr 15:54-57).

Chúa Con, Đấng đồng bản thể với Chúa Cha, đã hoàn lại công lý cho Thiên Chúa bằng
chính Thập giá, đồng thời mặc khải LTX, đó là tình yêu trái ngược với những gì cấu thành nguồn gốc điều ác trong lịch sử nhân loại: chống lại tội lỗi và sự chết.

Thập giá là sự hạ mình sâu thẳm nhất của Thiên Chúa đối với loài người và những số
phận bất hạnh của loài người – nhất là những lúc khó khăn và đau khổ. Thập giá như là “cách tiếp xúc” của tình yêu vĩnh hằng đối với những vết thương của loài người; đó là sự hoàn tất trọn vẹn của chương trình cứu độ nhân loại mà Đức Kitô đã bày tỏ tại Đền Thờ ở Nadarét (x. Lc 4:18-21) và đã được ngôn sứ Gioan Tẩy giả lặp lại (x. Lc 7:20-23).

Theo cách nói của tiên tri Isaia (x. Is 35:5; 61:1-3), chương trình này cốt ở việc mặc khải về LCTX đối với người nghèo, người đau khổ, tội nhân, người mù, người bị đàn áp và bị bóc lột. Trong Mầu nhiệm Vượt qua, các giới hạn của “sự dữ đa chiều” mà nhân loại “ăn chia” đã bị vượt qua: Thật vậy, Thập giá của Đức Kitô làm chúng ta hiểu căn nguyên sâu xa của sự dữ, đã bị gắn sâu trong tội lỗi và sự chết; vì thế Thập giá trở nên dấu hiệu tận thế (eschatological sign).

Chỉ trong sự hoàn tất cuối cùng và sự canh tân cuối cùng của thế giới mà tình yêu
sẽ chiến thắng, trong những người Chúa chọn, hoa trái chín muồi của vương quốc
sự sống và vinh quang bất tử. Việc thiết lập sự hoàn tất cuối cùng này có nơi Thập giá của Đức Kitô và trong cái chết của Ngài.

“Chúa Giêsu đã sống lại vào ngày thứ ba” (x. 1 Cr 15:4), điều đó cấu thành dấu hiệu
cuối cùng của sứ vụ cứu độ, dấu hiệu hoàn tất toàn bộ mặc khải về LCTX trong thế-gian-bị-cái ác-chế-ngự. Đồng thời cấu thành dấu hiệu tiên báo “trời mới và đất mới” (Kh 21:1), lúc “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21:4).

Trong sự hoàn tất cuối cùng, LCTX sẽ được mặc khải là tình yêu, trong khi trên thế
gian, trong lịch sử nhân loại, cùng với lịch sử của tội lỗi và sự chết, tình yêu phải được mặc khải là LCTX và cũng phải được hiên thực hóa là LCTX. Chương trình cứu độ của Đức Kitô, chương trình của LTX, trở thành chương trình của Dân Ngài, chương trình của Giáo hội.

Ngay tại trung tâm của chương trình đó luôn có Thập giá, vì chính nơi Thập giá mà sự
mặc khải LCTX đạt tới đỉnh cao. Khi “những cái cũ bị tẩy sạch” (x. Kh 21:4), Thập giá vẫn còn được dẫn chứng những từ ngữ trong sách Khải huyền của Thánh Gioan: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3:20).

Theo cách đặc biệt, Thiên Chúa cũng mặc khải LTX khi Ngài mời gọi nhân loại “thương
xót” Con Một Ngài là Đấng-bị-đóng-đinh. Đức-Kitô-bị-đóng-đinh chính là Ngôi-Lời-không-qua-đi: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu” (Mt 24:35), và Ngài là người “đứng trước cửa và gõ vào cửa lòng của mỗi người” (x. Kh 3:20), không hạn chế tự do nhưng tìm cách rút ra từ chính lòng yêu chuộng tự do, đó không chỉ là hành động đoàn kết với Con-Người-chịu-đau-khổ (Đức Kitô), mà còn là dạng LTX được mỗi người trong chúng ta thể hiện với Con của Chúa Cha hằng hữu.

Trong toàn bộ chương trình cứu độ của Đức Kitô, trong toàn bộ mặc khải về LTX qua Thập giá, phẩm giá con người có thể được tôn trọng hơn và được đề cao hơn, vì đạt được LTX. Đức Kitô đã xác định: “Các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25:40).

Trong Bài Giảng Trên Núi, Chúa Giêsu nói đến một trong Bát Phúc (Tám mối phúc thật): “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5:7). Điều đó cấu thành một bản tổng hợp của toàn bộ Tân ước, toàn bộ “sự trao đổi tuyệt vời” (admirable commercium) bao gồm trong đó. Sự trao đổi này là luật của kế hoạch
cứu độ, luật này vừa đơn giản, vừa mạnh mẽ, vừa dễ dàng.

Thể hiện ngay từ đầu những gì mà “trái tim con người” có thể thương xót, những từ
ngữ này không từ Bài Giảng Trên Núi mặc khải viễn cảnh mầu nhiệm thẳm sâu của
Thiên Chúa: Tính đồng nhất bí ẩn của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần,
trong đó tình yêu bao gồm công lý, đặt trong LTX, mặc khải sự hoàn hảo của công
lý.

Mầu nhiệm Vượt qua là Đức Kitô ở đỉnh cao của sự mặc khải về mầu nhiệm bí ẩn của
Thiên Chúa. Đó là những lời được nói đã hoàn toàn nên trọn: “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga 14:9). Thật vậy, Đức Kitô là Đấng mà Chúa Cha “cũng không tha” (Rm 8:32) vì nhân loại, Đấng phải chịu khổ hình Thập giá đã không được nhân loại thương xót, Đấng đã mặc khải tình yêu viên mãn trong sự phục sinh của Ngài mà Chúa Cha đã dành cho Ngài, nơi Ngài, và cho nhân loại: “Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ
sống”
(Mc 12:27).

Trong sự phục sinh, Đức Kitô đã mặc khải Thiên Chúa của LTX, vì Ngài đã chấp nhận
Thập giá là đường tới phục sinh. Vì thế, khi chúng ta nhớ tới Thập giá, cuộc Khổ nạn và Sự chết của Đức Kitô, đức tin và đức cậy của chúng ta tập trung vào Đấng Phục Sinh: “Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!”.
Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được
thấy Chúa”
(Ga 20:19-20). Rồi Ngài nói với họ: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha, anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20:22-23).

Ở đây Chúa Con có kinh nghiệm về LTX đã được thể hiện với Ngài, nghĩa là tình yêu của
Chúa Cha mạnh hơn Tử thần. Đức Kitô cũng vậy, vào lúc cuối của sứ vụ cứu độ, Ngài đã mặc khải chính Ngài là Nguồn Thương Xót vô tận, về chính tình yêu ấy, trong viễn cảnh lịch sử cứu độ nơi Giáo hội, được xác nhận là lớn hơn mọi tội lỗi của nhân loại.

Đức Kitô Vượt Qua là hiện thân cuối cùng của LTX, dấu hiệu sống động trong lịch sử
nhân loại cho đến tận thế. Trong tinh thần đó, phụng vụ mùa Phục sinh đặt trên môi miệng chúng ta những lời của Thánh vịnh: “Tình thương Chúa, đời đời con ca tụng, qua muôn ngàn thế hệ miệng con rao giảng lòng thành tín của Ngài” [Tv 89 (88):2].

Lạy Chúa Giêsu, chúng con tín thác nơi Ngài!

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ TheDivineMercy.org)


(*) Septuagint, quen gọi là Bản Bảy Mươi. Bản Kinh thánh phổ thông (Vulgate) chủ yếu là công của thánh Giêrônimô, và được ĐGH Damasus I ủy nhiệm năm 382. Lúc đó, bản này là tiêu chuẩn trong Giáo hội, nhưng đến thế kỷ XVI có vài trăm bản được in, với nhiều thay đổi. Công đồng Trentô tuyên bố rằng Bản Kinh thánh phổ thôn là xác thực khi đọc công khai, tranh luận, giảng thuyết và bình luận, và truyền lệnh xem xét kỹ lưỡng. Nghĩa là bản phổ thông này là bản Kinh thánh chính thức của Giáo hội. Bản này cũng được Công đồng Vatican I và Vatican II sử dụng.

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Chuỗi Mân Côi cứu sống người lính

Chuỗi Mân Côi cứu sống người lính

Thiên Chúa có ở với chúng ta trong từng giây phút của cuộc sống? Tôi thích những câu chuyện như dưới đây, tôi xác định là Thiên Chúa luôn ở với chúng ta.

Glenn Hockton, 19 tuổi, về nhà sau 17 tháng làm nghĩa vụ Coldstream Guards tại tỉnh Helmand. Anh đang đi tuần tra thì tràng hạt rơi ra khỏi cổ. Mẹ anh, bà Sheri Jones, kể: “Nó cảm thấy như có ai đập vào lưng. Nó cúi xuống nhặt tràng hạt xem có bị đứt không. Khi cúi xuống nó mới biết mình đang ở trên trái mìn địa lôi”.

Glenn phải đứng lặng ở đó suốt 45 phút trong khi các đồng nghiệp có thể đến cứu giúp anh. Bà Sheri Jones, ở Tye Green, Essex, nói rằng bà run cả người khi con trai bà gọi điện kể cho bà nghe về chuyện của con bà.

Mẹ của Glenn đã đưa cho anh chuỗi tràng hạt để bảo vệ anh trước khi anh đi làm nghĩa vụ quân sự. Sự kiện đáng chú ý hơn là ông của Glenn ghi nhận về chuỗi Mân Côi:

Ông cố Joseph Truman cũng đã tin chuỗi Mân Côi đã cứu sống ông trong Thế chiến II khi bom nổ giết chết 6 người trong trung đội của ông. Ông ở trung đội hỏa mai và sau đó bị bắt cho đến khi kết thúc chiến tranh, ông và các tù nhân khác bị bắt phải bỏ quân đội liên minh tiến bộ.

Bà Jones, 41,  nhớ lại: “Nó đang đi ngang qua cánh đồng với 6 người lính cùng trung
đội. Nó cúi xuống nhặt lên cái gì đó và nó là người duy nhất còn sống sót sau khi bom phát nổ. Nó đã cúi nhặt chưỗi Mân Côi”.

Tôi không biết gia đình này có giữ đạo Công giáo hay không. Và dĩ nhiên có sự nguy hiểm ở chỗ của chuỗi Mân Côi khi hình như có gì đó như “sự may mắn” cho những người nghe về
cách những người này được cứu sống.

Nhưng tôi nghĩ về câu chuyện này khi có tiếng gọi làm tôi thức giấc, chắc chắn lên quan gia đình tôi – nhưng cũng liên quan cả chúng ta nữa. Đó là tiếng gọi để tôi nhận ra sức mạnh
của Đức Mẹ và chuỗi Mân Côi cứu chữa chúng tôi. Không chỉ bằng cách bảo vệ cơ thể chúng tôi không bị mìn mà còn cho chúng tôi áo giáp thiêng liêng mà chúng tôi cần trong lúc đảm trách thế giới hiện đại.

Bạn đã đọc 15 lời hứa của Đức Maria đối với những người trung thành lần chuỗi Mân Côi chưa? Nếu đã đọc trước đây thì sau đó có đọc nữa? Đó là những điều gây cảm hứng. Nếu bạn là người bắt đầu và không biết bắt đầu từ đâu thì hãy lần chuỗi Mân Côi với 15 mầu
nhiệm – Vui, Thương, Mừng, và nay có thêm 5 Sự Sáng.

Lạy Đức Mẹ Mân Côi, xin cầu cho chúng con!

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ National Catholic Register)

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Bí quyết thay đổi thế giới

Bí quyết thay đổi thế giới

Đăng bởi pleikly lúc 2:43 Sáng 24/10/12

nguồn: chuacuuthe.com

VRNs (24.10.2012)
– IgnitumToday – Mùa Thu là mùa tôi thích nhất trong năm. Tôi thích sự sảng khoái hít thở không khí, màu sắc, và sự ấm áp của mùa thu hoạch. Nhưng năm nay, mùa mà tôi thích nhất lại trùng với mùa bầu cử trong swing. Tôi nghĩ nhiều người có thể có cảm giác hơi bị áp đảo vì tính phức tạp của vấn đề trong thế giới chúng ta. Làm sao chúng ta có thể thay đổi được điều gì không? Tôi có cảm giác rất tự do, rất đơn giản khi nghĩ lại ngày xưa. Bạn và tôi có thể thay đổi thế giới, đơn giản bằng cách thay đổi từ những điều nhỏ.

Không ai không khát khao mà lại có thể cứu thế giới đau thương của chúng ta. Tuy
nhiên, theo thực tế, mỗi chúng ta đều tin rằng có thể. Có những vấn đề thực sự đơn giản. Có những người ảnh hưởng nhiều (dù muốn hay không). Dù thế giới chúng ta lớn hay nhỏ, nó vẫn là “thế giới” mà bạn có trách nhiệm làm thay đổi.

Thế giới như một bức tranh phức tạp, mỗi chúng ta là một miếng ghép nhỏ. Thay vì
chú ý vào những vấn đề lớn và tìm những cách “đúng” để giải quyết vấn đề, chúng
ta hãy áp dụng mấy cách đơn giản sau đây để làm thay đổi những “miếng ghép” mà
Thiên Chúa tin tưởng giao cho chúng ta:

1.
Cầu nguyện. Cầu nguyện càng nhiều càng tốt. Có quá nhiều các hoạt động gây thất vọng trong xã hội chúng ta, dù đó chỉ là thất vọng về tư tưởng và lời nói. Trước khi làm gì, chúng ta hãy thành tâm cầu nguyện. Mọi hành động của chúng ta phải được khởi đầu và hoàn tất trong Thiên Chúa, như lời kinh Sáng Soi: “Cúi xin Chúa sáng soi cho chúng con được biết việc phải làm, cùng khi làm, xin Chúa cho mỗi kinh, mỗi việc chúng con từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa. Amen”.

2.
Yêu thương người lân cận. Tôi không có ý nói là vợ chồng, con cái, cha mẹ, bạn thân mà bạn quan tâm, mà là người không thích bạn, hoặc người chưa quen biết,… Theo kinh nghiệm của tôi, rất khó để yêu thương những người chúng ta gặp hằng ngày. Hãy yêu thương họ từ những việc nhỏ thôi. Hãy yêu mến Chúa bằng cách làm những việc nhỏ với tình yêu thương dành cho người lân cận. Có thể chúng ta không cảm thấy sự thay đổi rõ ràng, nhưng điều này rất quan trọng trong việc thay đổi góc đời nhỏ bé của bạn.

3.
Thể hiện Lòng Chúa Thương Xót. Điều này có thể thực hiện qua các tổ chức đạo
hoặc đời, hoặc do chính bạn làm. Hãy cầu nguyện cho biết Ý Chúa và vâng nghe
Ngài. Nếu bạn không nghe được Tiếng Chúa, hãy chọn việc tốt nào đó mà hành
động!

4.
Phát triển tài năng. Có thể đây là điều bất ngờ, nhưng tôi cho là quan trọng.Là Kitô hữu, chúng ta là những “máng chuyển” để Thiên Chúa hành động. Đồng thời mỗi chúng ta đều duy nhất và được chúc lành với cá tính và năng khiếu riêng để chúng ta là chính chúng ta. Tôi thích nghĩ về mỗi chúng ta là tấm kính màu. Ánh sáng chiếu qua tấm kính đó là Đức Kitô, nhưng nhìn nó hơi khác tùy vào tấm kính được Ánh Sáng Đức Kitô chiếu qua. Tôi tin rằng Thiên Chúa chủ ý hành động như vậy. Có thể bạn đã biết năng khiếu của bạn là gì, hoặc có thể bạn phải tự khám phá. Dù sao, khi bạn xác định được năng khiếu của mình rồi, hãy cầu nguyện xem bạn phải dùng cách nào để giúp đỡ tha nhân. Có thể chỉ đơn giản như đem lại niềm vui cho gia đình và bạn bè bằng khiếu khôi hài của bạn. Có thể bạn làm cho cuộc đời người khác dễ sống hơn bằng cách nghĩ tốt về người khác. Dù họ là ai, hãy dành thời gian chia sẻ với họ. Đó là đại lượng!

Thế giới sẽ thay đổi, nếu mỗi chúng ta biết cố gắng thay đổi tích cực.

KELLY SHIRCLIFF WILLIAMS

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ IgnitumToday.com)

TÂM HỒN TÔI CẢI THIỆN DẦN NHỜ KINH THÁNH VÀ GIÁO HUẤN XÃ HỘI CÔNG GIÁO

TÂM HỒN TÔI CẢI THIỆN DẦN NHỜ KINH THÁNH VÀ GIÁO HUẤN XÃ HỘI CÔNG GIÁO

THU MINH                                                 nguồn: conggiaovietnam.net

Bạn sẽ trách tôi : “Cải thiện nhờ đọc Kinh Thánh chớ đâu phải nhờ Giáo Huấn”? “Kinh Thánh quí hơn vàng, Giáo Huấn quí như bạc”. Bạn còn bảo “Các cha xứ có bao giờ khuyên giáo dân học GHXHCG đâu ? Cha chỉ khuyên ta đọc Lời Chúa “.

Ba năm trước, tôi không biết thân thưa với bạn về ơn ích khi học GHXH. Nay đã có thể một chút thân thưa, nhờ ba năm đi học GHXHCG:

Tối nào tôi cũng đọc Lời Chúa, nhưng trong Kinh Thánh không có những từ ngữ đương thời như “toàn cầu hóa tình liên đới; tội xã hội; trục ác; bổ trợ; nhân quyền; chủ nghĩa duy tương đối; chủ nghĩa cộng sản; phát triển toàn diện; nhân bản liên đới; văn minh tình thương…”

Ở cơ quan, chúng tôi nói với nhau về Trung Quốc, Hoàng Sa Trường Sa, bóng ma chiến tranh, kinh tế suy sụp, ô nhiễm môi trường, tham nhũng
hối lộ…

Truyền thông nói với tôi về lao động, gia đình, quốc tế, kinh tế, pháp luật, và còn mời mọc tôi xem phim khiêu dâm !

Về nhà thì nghe nói về dạy con, về giá cả thị trường, về những lo toan trước tình hình giáo dục VN…

Kinh Thánh cho tôi những nguyên tắc đạo đức và những giá trị lớn lao muôn đời như yêu thương, công bình, sự thật…Kinh Thánh nhắc tôi phải bám chặt vào Chúa, nay mai xong đời thì mời về cõi Phúc. Kinh Thánh không cho tôi những chi tiết cụ thể về cách ứng xử với người khác, với xã hội, với vũ trụ vạn vật. Kinh Thánh “đẩy” tôi phải sống Tin Mừng cụ thể, tôi phải rút ra những bài học luân lý áp dụng vào hoàn cảnh vùng miền, lục địa và thế giới
hiện thời.

Thí dụ: Tôi có nên vào đảng Cộng Sản? Kinh Thánh không nói rõ đâu. Tôi phải vận dụng lý trí, lương tâm, tình cảm, trí khôn, ý chí…để đi tới chọn lựa đảng hay không.

Thần học luân lý (trong đó có GHXHCG) sẽ bàn bạc với tôi về lương tâm, bổn phận, trách nhiệm, phá thai, dối trá, tham lam, sex, bạo lực, bất công áp bức độc tài…

GHXHCG còn thúc đẩy tôi: Không những phải chống điều xấu “từ nội tâm” của riêng mình, mà phải giúp người khác, giúp xã hội được phát triển toàn diện, được sống trong tình thương yêu. GHXH dạy tôi sống những nguyên tắc và giá trị giúp tiến tới nền văn minh tình thương.

Nếu như từ tấm bé mà tai tôi đã được nghe Lời Chúa, nghe những bài học về môi trường, pháp luật, kinh tế, xã hội, gia đình, quốc tế, mục vụ…thì có thể tâm linh tôi sẽ tiến triển khác bây giờ ? ( Đương nhiên phải tùy vào tuổi tác và tâm lý mà dạy cho Kitô hữu các trình độ GHXHCG khác nhau )

Nay tâm hồn tôi đã cải thiện dăm điều :

1. Kinh Thánh là của ăn tâm hồn, giúp tôi yêu Chúa, yêu người, yêu đời, yêu Hội Thánh, chống ma quỉ bằng cầu nguyện liên lỉ. Nay mai tôi về quê hương trên Trời, nơi có Ba Ngôi Thiên Chúa, các thánh.

2. Kinh Thánh và GHXHCG giúp tôi biết cư xử cho đúng theo ý Chúa khi tôi đi làm, khi tôi trông thấy, trải nghiệm những vấn đề của con
người.

3. Nhờ học GHXHCG, tôi quí mến vô cùng các Đức Giáo Hoàng, các chuyên viên Hội Thánh, Công đồng Vatican II…Các vị ấy vừa yêu Chúa vừa yêu người. Vừa suy tư vừa hành động thiết tha xây dựng nền nhân bản toàn diện liên đới. Họ làm tốt đời sống cầu nguyện, đời sống cá nhân, đời sống cộng đồng.

4. Tôi đã, đang và tiếp tục “rủ rê” thêm vài người nữa vào lớp Kinh Thánh, lớp GHXHCG với “ngông tưởng” rằng, chúng tôi mà được” huấn luyện cho ra trò” thì Hội Thánh và xã hội được “hưởng nhờ” chút ít ? (Chúng tôi sẽ là thợ vườn nho cho Chúa. Thợ có chất lượng cao). Kinh Thánh và GHXHCG là “Trung Tâm Huấn Luyện” mà?w

(Trích tập san Giáo huấn Xã hội Công giáo tập 1)

Tác giả: THU MINH

Trái tim nhân hậu

Trái tim nhân hậu

Chân phước Mẹ Têrêsa Calcutta cả đời đấu tranh cho giá trị nhân phẩm của những con người nghèo khổ nhất, đã nêu gương luân lý làm cầu nối các khoảng cách về văn hóa, giai cấp và tôn giáo. Một con người có vóc dáng nhỏ bé nhưng lại có trái tim “cực đại” và đầy lòng nhân ái. Bà nói: “Ngay cả những người giàu cũng khao khát tình yêu, muốn được quan tâm, muốn có ai đó thuộc về mình”.

Cha mẹ của bà là người Albani. Bà sinh ngày 26-8-1910 tại Shkup (nay là Skopje), thuộc Cộng hòa Nam Tư (Macedonia), trước đó là Yugoslavia, với tên “cúng cơm” là Agnes Gonxha Bojaxhiu. Bà là con út trong 3 người con. Lúc bà 7 tuổi, cha của bà bị giết,
nên bà quan tâm chính trị. Tuổi thiếu niên, bà là thành viên của nhóm bạn trẻ trong giáo xứ, gọi là nhóm Tương tế Tôn giáo (Sodality), dưới sự hướng dẫn của một linh mục Dòng Tên, bà cảm thấy quan tâm việc truyền giáo. Lúc 17 tuổi, bà gia nhập Dòng Nữ tử Loreto ở Ai-len, một dòng chuyên về giáo dục, rồi bà được gởi tới Bengal năm 1929 để vào nhà tập. Bà chỉ lõm bõm tiếng Anh nhưng vẫn khấn lần đầu, với tên dòng là Têrêsa (chọn theo tên của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu).

Đến năm 1950, nữ tu Têrêsa lập Dòng Truyền giáo Bác ái (Dòng Thừa sai Bác ái, Missionaries of Charity). Bà nhận Giải Nobel Hòa bình năm 1979 và nhận Giải Bharat Ratna (भारत रत्न, nghĩa là “Viên ngọc Ấn Độ”, giải thưởng cao nhất của Ấn Độ dành cho người dân) năm 1980. Trước đó, năm 1962, bà đã được chính phủ Ấn trao giải Padma Shri. Trong những thập niên kế tiếp bà được trao tặng các giải thưởng lớn như Giải Jawaharlal Nehru về Hiểu biết Quốc tế năm 1972.

Trong thời kỳ Ấn Độ bị người Anh đô hộ (British Raj), trường Loreto nhận rất ít người Ấn, đa số là người Hindu Bengal, con gái các gia đình có thế lực ở Calcutta, nhưng đa số
giáo viên vẫn là các nữ tu gốc Ai-len. Nữ tu Têrêsa không thuộc Dòng Nữ tử Loreto nữa nhưng thi thoảng bà vẫn về thăm. Bà dạy ở các trường nữ khác trong 3  năm trước khi (như bà nói) “theo Chúa đến với người nghèo khổ”. Theo các nữ sinh nói, sự gián đoạn đó không hoàn toàn thân thiện, ít là phần các nữ tu Dòng Loreto.

Hình ảnh nữ tu Têrêsa nhỏ bé, với tấm khăn choàng sari (trang phục của phụ nữ Ấn) xõa xuống vai và lưng, bước đi trên đường đá đỏ, trông thật giản dị và khiêm nhường. Bà luôn có một hoặc hai nữ tu choàng sari đi theo. Bà là con người kỳ lạ của thế kỷ XX. Có thể bà “khác người” vì chúng ta không thấy nữ tu nào choàng sari như vậy. Nhưng đó là thói quen của nữ tu Têrêsa vùng Calcutta, bà “quên” mình là người Albani để hòa nhập và hoàn toàn nên giống các phụ nữ Ấn.

Chính phủ đã “ầm ĩ”chống truyền giáo nhưng chưa bao giờ làm khó các nữ tu truyền giáo.

Đầu thập niên 1950, các học sinh không có đạo ở Nhà Loreto đã nghi ngờ ý định của Mẹ Têrêsa trong việc giúp đỡ các trẻ em đường phố hoặc trẻ mồ côi. Bà đang cứu vớt chúng để
“dụ” đưa chúng vào đạo Công giáo? Cứ hai tuần một lần, Mẹ Têrêsa nói chuyện để vận động phụ nữ không phá thai và bảo vệ sự sống. Dự định của Mẹ Têrêsa là chăm sóc những người bệnh ở thời kỳ cuối, những người đến Đền Kalighat để được chết gần “thánh địa”. Mẹ Têrêsa không mong kéo dài sự sống cho họ, nhưng buồn về tình trạng nhơ uế và cô độc của họ trong thời gian cuối đời. Mẹ Têrêsa quan ngại về tỷ lệ tử vong và ám ảnh về cách chết của họ, ngược với quan niệm của người Hindu về sự tái sinh và sự chết là được giải thoát khỏi maya.

Mẹ Têrêsa lập một trại phong (Leprosarium) ở ngoại ô Calcutta, trên khu đất do chính phủ cấp. Bà là người lý tưởng hóa hơn là người lập dị. Người phong cùi bị coi thường không chỉ
ở Calcutta mà ở khắp Ấn Độ, đến vài xu lẻ cũng không ai muốn bố thí cho họ. Ai cũng sợ bị lây nhiễm. Từ đó, người ta cũng có ánh mắt không thiện cảm với Mẹ Têrêsa.

Từ năm 1970, Mẹ Têrêsa trở nên một nhân vật nổi tiếng thế giới với các hoạt động nhân đạo cứu giúp người nghèo và những người sống trong hoàn cảnh tuyệt vọng, một phần cũng
nhờ cuốn sách và bộ phim tư liệu tựa đề “Something Beautiful for God” (Điều tốt đẹp dành cho Chúa) của Malcome Muggeridge.

Bà không chỉ là nhà truyền giáo, mà còn là một “lương y” tận tình chăm sóc người phong cùi. Cách dấn thân của bà đã thay đổi người dân Calcutta, chính các nữ tu Dòng Loreto
cũng trở lại tìm bà.

Dân Calcutta rất quý mến Mẹ Têrêsa. Các chị em ở trường nữ Loreto hồi thập niên 1970 đều trở nên các bà vợ tốt, có địa vị trong xã hội và tình nguyện hoạt động xã hội theo ý định
của Mẹ Têrêsa, nhất là vì trại phong. Những năm sau, Mẹ Têrêsa rất tin tưởng những phụ nữ tốt nghiệp trường Loreto.

Số phận những người vận động luân lý dễ bị tổn thương vì các thay đổi của thói đạo đức giả hoặc tùy tiện của các chiến dịch. Những kẻ gièm pha đã kết tội Mẹ Têrêsa là phóng đại
cảnh nghèo khổ của dân Calcutta. Mẹ Têrêsa luôn phải phải đấu tranh, dù vẫn bị người ta chỉ trích nhưng hoạt động của bà không suy giảm. Thậm chí bà còn thành công và cảm hóa chính những người đã nghi ngờ hoặc những người ghen ghét bà. Chính Mẹ Têrêsa đã thay đổi nhiều trái tim, đó là phép lạ thực sự vĩ đại.

Mẹ Têrêsa nói: “Ở Tây phương có sự cô đơn, điều mà tôi gọi là bệnh-phong-của-Tây-phương. Bằng nhiều cách, nó còn tệ hơn người nghèo của chúng tôi tại Calcutta. Tôi không bao giờ từ chối một đứa trẻ nào, không bao giờ, dù chỉ một”.

Năm 1950, cũng là năm Mẹ Têrêsa lập Dòng Truyền giáo Bác ái, ĐGH Piô XII đã phê chuẩn dòng này. Mẹ Têrêsa cũng đã từng có những lần sang thăm Việt Nam.

Vì tuổi cao sức yếu, Mẹ Têrêsa qua đời ngày 5-9-1997, sau hơn nửa thế kỷ phục vụ những người cùng đinh trong xã hội trong đức ái của Chúa Giêsu. Mẹ Têrêsa được ĐGH Gioan Phaolô II tôn phong chân phước ngày 19-10-2003.

Lạy Chân phước Têrêsa, xin ban cho chúng con trái tim nhân hậu như Mẹ để chúng con yêu thương mọi người, nhất là những người nghèo khổ, những người bị ruồng bỏ, những người bị ngược đãi,… Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ
của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

BUỒN

BUỒN

thanh_nien_giau

Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay tường thuật về hai cái buồn: một cái buồn của Đức Giêsu và một cái buồn của anh nhà giàu.  Đức Giêsu buồn vì người Ngài yêu mến đã từ chối lời mời gọi của Ngài, buồn vì người mà Chúa yêu thương lại gắn bó với tiền bạc nhiều hơn là gắn bó với Chúa, đã chọn của cải vật chất hơn là chọn Chúa.  Anh nhà giàu buồn vì có sự rạn nứt nơi bản thân.  Anh đã đi tìm gặp Chúa, đã thao thức tìm kiếm “một cuộc sống vĩnh cửu đời đời”, nhưng anh đã bị tiền bạc vật chất trói buộc; anh đã từ chối lời mời gọi của Chúa, đã cúi mặt bước đi với đầy phiền muộn.

Thầy Giêsu đòi anh từ bỏ tiền bạc của cải, điều mà anh đã thu góp và gắn bó trong bao nhiêu năm, điều mà anh yêu mến nhất và muốn giữ lại nhiều nhất. Tiền bạc là chỗ dựa của đời anh, anh sẵn sàng làm mọi điều Thầy đòi hỏi, trừ việc từ bỏ chỗ dựa này.

Không biết anh có nhìn thấy “con người thật” của mình không? Có thấy mình đang bị của cải trói buộc? Có thấy mình đang làm nô lệ cho tiền bạc vật chất? Tiếc thay anh không đủ quyết tâm và nỗ lực để ra khỏi sự trói buộc này, anh cũng không có đủ can đảm để cởi bỏ sự nô lệ với tiền bạc vật chất, dù anh vẫn khát khao sự sống vĩnh cửu đời đời.

Cái buồn của anh, đôi khi cũng là của bạn và tôi hôm nay. Ai trong chúng ta cũng từng bị giằng co giữa ước mơ lý tưởng và níu kéo ràng buộc của tiền bạc vật chất. Của cải vật chất có sức hấp dẫn mãnh liệt. Ta làm chủ nó hôm nay, nhưng nếu không cương quyết và sáng suốt,
ngày mai nó sẽ làm chủ ta và trở thành xương thành thịt của ta, mà ta không thể thể dứt bỏ.

Không chắc anh nhà giàu có bị luận phạt hay không, nhưng chắc chắn anh ta khó có được cuộc sống hạnh phúc. Hạnh phúc chỉ đến với người dám sống và làm theo lời mời gọi của Chúa.

Vào thời Đức Giêsu, giàu có được coi là một phúc lành. Vậy mà Ngài lại coi giàu có là một cản trở nguy hiểm.  “Người giàu có khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” (Mc.10:23). Nếu ta biết bỏ tất cả những gì cản trở để đến với Chúa, ta sẽ đạt được chính Chúa.  Được Chúa là được tất cả. Có Chúa là có tất cả. Vì Chúa là hạnh phúc viên mãn.  Được Chúa rồi ta sẽ không còn khao khát gì khác nữa.

Chính vì thế, khi thánh Phêrô hỏi Chúa: “Chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Chúa, chúng
con sẽ được gì?
” (Mc.10:28). Chúa đã trả lời: “Ai bỏ mọi sự mà theo Ta, sẽ được gấp trăm, và được sự sống vĩnh cửu.
(Mc.10:30).

Lắm tiền nhiều của sẽ làm con người có ảo tưởng là mình giỏi, mình thành công, mình cao sang quan trọng…Nó làm con người trở nên kiêu căng, khép kín trước Thiên Chúa, không cần Thiên Chúa, và hay nhẫn tâm chà đạp lên quyền lợi phúc lộc của người anh em. Tệ nạn tham nhũng hối lộ và cường quyền áp bức ở Châu Á ngày nay là một thí dụ về sự nguy hiểm
của tiền bạc.

Theo Đức Giêsu, đôi khi ta phải chấp nhận tay trắng, chịu bấp bênh thua thiệt. Nhưng đừng quên theo Ngài cũng là trở nên giàu có.  Không phải sự giàu có do ích kỷ giữ lại, nhưng là sự giàu có do mở ra và trao tặng.  Không phải sự giàu có do tìm kiếm chiếm đoạt, nhưng là sự giàu có đến như một quà tặng biếu không.

Người khôn ngoan thì phải biết nhìn xa trông rộng.  Biết bỏ những mối lợi trước mắt để tìm kiếm những giá trị vĩnh cửu.  Như thế yêu mến Chúa là chìa khóa của sự khôn ngoan. Chọn Chúa là chọn giá trị tuyệt đối, vĩnh cửu không gì có thể so sánh được.

Theo Đức Giêsu, ta sẽ được lại cả những điều đã mất. Và cái được quan trọng nhất là được chính Đức Giêsu (Pl.3:8).

***

Lạy Chúa! Xin cho con đừng quay lưng trước lời mời gọi của Chúa, đừng ngoảnh mặt để tránh cái nhìn yêu thương Chúa dành cho con.

Xin dạy con biết yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Vì Chúa là hạnh phúc và là cùng đích của đời con. Amen.

(Tổng hợp từ R. Veritas)

nguồn: Nguyễn Kim Bằng gởi

Con hạc trắng

Con hạc trắng
Bạn có bao giờ ngắm kỹ một con hạc trắng chưa? Nó trông thật mảnh mai; chân dài, người mỏng, trong một bộ lông trắng muốt. Trông nó thanh cao như một người luống tuổi mà vẫn giữ được phong cách ung dung… Con hạc được coi là một con vật sống lâu cho nên người ta gọi tuổi của các cụ là tuổi hạc.
Tết năm nào gia đình tôi cũng lên Đà Lạt nghỉ ngơi tại nhà 1 người anh bà con. Ðằng sau nhà anh tôi có một con đường mòn dẫn tới một công viên. Con đường mòn vào cuối Xuân chớm Hạ thật là đẹp. suối róc rách chảy, cây cỏ xanh mướt, những bông hoa núi nở trắng xóa. Chúng tôi mỗi buổi sáng dắt theo con chó đi bộ, vừa đi vừa trò chuyện.
Tôi bất giác hỏi:
– Sao con người không giống cây cỏ, vào mùa đông héo, úa, rụng, đến xuân, hạ lại hồi sinh nhỉ?
Anh tôi cười, nói:
– Cứ giữ mãi được Xuân, Hạ trong lòng mình là tốt rồi.
Chúng ta những người ở  lứa tuổi đang bước vào tuổi già hay đã già. Tinh thần và thể xác không còn như hai mươi năm, mười năm về trước hay thậm chí như mới năm ngoái nữa.
Thông thường bất cứ người mang quốc tịch nào, sinh sống ở phần đất hay hoàn cảnh nào thì khi về già hay ngồi gậm nhấm lại quá khứ. Ở tuổi già, không có phương tiện di chuyển, bị trở ngại trong giao tiếp đã làm một số người sống một cuộc sống tẻ nhạt, từ tẻ nhạt đưa tới trầm cảm, khép kín.
Từ đó sinh ra bao nhiêu bệnh, và khi có bệnh, sự chạy chữa xem chừng không có hiệu quả lắm cho những người này.
Bác Sĩ Ornish, tác giả cuốn sách Love & Survival, nói rõ: Tách lìa tình thân gia đình và bạn bè là đầu mối cho mọi thứ bệnh từ ung thư, bệnh tim đến ung nhọt và nhiễm độc.
Tình thương và tinh thần lạc quan là gốc rễ làm cho chúng ta bệnh hay khỏe.
Ba mươi năm trước mà nghe ai nói cô đơn sinh ra các chứng bệnh thì người ta sẽ chỉ cười nhẹ.. Nhưng bây giờ điều này đã được nhiều bác sĩ công nhận là đúng.
Những buổi tĩnh tâm chung, có cầu nguyện, có tịnh niệm (tùy theo tôn giáo của mỗi người) chia sẻ những buồn vui, lo lắng của mình cùng người khác cũng giúp khai thông được những tắc nghẽn của tim mạch như là ăn những thức ăn rau, đậu lành mạnh vậy.
Nếu không nói ra được những gì dồn nén bên trong thì chính là tự mình làm khổ mình. Khi nói ra, hay viết ra được những khổ tâm của mình thì hệ thống đề kháng được tăng cường, ít phải uống thuốc.
Theo Bác Sĩ Ornish, khi bị căng thẳng cơ thể sẽ tiết ra một hóa chất làm cho mọi sinh hoạt ứ đọng, ăn không ngon, đầu không suy nghĩ, mạch máu trì trệ,mất sức đề kháng, dễ cảm cúm.
Như vậy sự cô đơn cũng là chất độc như cholesterol trong những thức ăn dầu mỡ, mà chỉ có sống lạc quan mới cứu rỗi được.
Nếu bạn không mở tâm ra cho người khác thì bác sĩ bắt buộc phải mở tim bạn ra
thôi!!!
Tuổi như thế nào thì gọi là già, chúng ta biết khi một người qua đời ở tuổi 60 thì được gọi là
‘hưởng thọ’.   Vậy sau tuổi 60 mỗi ngày ta sống là một “bonus”, phần thưởng của Trời cho.
Chúng ta nên sống thế nào với những ngày ‘phần thưởng’ này. Lấy thí dụ một người lớn tuổi, sống cô đơn, biệt lập, không đi ra ngoài, không giao thiệp với bạn hữu, thế nào cũng đi đến chỗ tự than thân trách phận, bất an, lo âu, ủ dột và tuyệt vọng. Từ đó bắt nguồn của bao nhiêu căn bệnh.
Trong Những lời Phật dạy có câu:

Sai lầm lớn nhất của đời người là đánh mất mình.


Phá sản lớn nhất của đời người là tuyệt vọng…

Chắc trong chúng ta không ai muốn rơi vào hoàn cảnh này. Gặp gỡ bè bạn thường xuyên trong những sinh hoạt thể thao là điều tốt lành nhất cho thể lý.
Ði tập thể thao như nhẩy nhẹ theo nhạc, tắm hơi, bơi lội, tennis v.v… đã giúp cho người lớn tuổi giữ được thăng bằng, ít ngã, và nếu có bệnh, uống thuốc sẽ công hiệu hơn, mau lành hơn.
Gặp bạn, nói được ra những điều phiền muộn cho nhau nghe, ngồi tĩnh tâm, đến nhà thờ, chùa cầu nguyện giúp được làm chậm lại sự phát triển của bệnh.
Bác Sĩ Jeff Levin giáo sư đại học North Carolina khám phá ra từ hàng trăm bệnh nhân, nếu người nào thường xuyên đến nhà nguyện họ có áp suất máu thấp hơn những người không đến nhà nguyện, ông bỏ ra hàng đêm và nhiều cuối tuần để theo dõi, tìm hiểu những kết quả cụ thể của ” Tín ngưỡng và sức khỏe “!
Cuốn sách ông phát hành gần đây nhất có tên là God, Faith and Health. Trong đó ông cho biết những người tín ngưỡng khỏe mạnh hơn, lành bệnh chóng hơn, ít bị nhồi máu cơ tim, gặp sự thăng trầm trong đời sống họ biết cách đối diện, họ luôn luôn lạc quan.
Lạc quan là một cẩm nang mà chúng ta nên luôn luôn mang theo bên mình. Ðừng bao giờ nói, hay nghĩ là ” Tôi già rồi, tôi không giúp ích được cho ai nữa ”  hoặc  ” Tôi vụng về, ít học, chẳng làm gì được ” .
Tôi xin kể câu chuyện Hai con ngựa của thầy phó tế George A.Haloulakos.
Cạnh nhà tôi có một cánh đồng cỏ, hàng ngày có một cặp ngựa, con nọ lớn hơn con kia một chút thong thả ăn cỏ ở đấy. Nhìn từ xa chúng là đôi ngựa bình thường giống những con ngựa khác. Tuy nhiên nếu bạn đến gần, bạn sẽ khám phá ra là có một con mù.
Trên đường trở về chuồng mỗi chiều, con ngựa nhỏ chốc chốc lại ngoái cổ lại nhìn bạn, muốn biết chắc bạn mù của nó vẫn đi theo tiếng chuông của nó để lại đằng sau..
Chủ nhân của nó chắc thương nó không nỡ bỏ đi, mà còn cho nó một chỗ ở an toàn. Chính điều này đã thành một câu chuyện tuyệt vời.
Ðứng bên chúng, bạn chợt nghe có tiếng chuông rung, phát ra từ cái đai nhỏ vòng quanh cổ con ngựa nhỏ hơn, chắc là một con cái. Tiếng chuông báo cho con bạn mù của nó, biết là nó đang ở đâu mà bước theo. Quan sát kỹ một chút bạn sẽ thấy cái cách con ngựa sáng chăm sóc con ngựa mù, bạn nó, chu đáo như thế nào. Con ngựa mù lắng nghe tiếng leng keng mà theo bạn, nó bước chậm rãi và tin rằng bạn nó không để nó bị lạc.
Cũng giống như chủ nhân của đôi ngựa có lòng nhân từ, Thượng đế không bao giờ vứt bỏ bạn vì bạn kiếm khuyết, hoạn nạn hay gặp khó khăn. Người luôn luôn đem đến cho chúng ta những người bạn khi chúng ta cần được giúp đỡ.Ðôi khi chúng ta là con ngựa mù, được dẫn dắt bởi tiếng chuông mầu nhiệm mà Thượng đế đã nhờ ai đó rung lên cho chúng ta. Những khi khác chúng ta là con ngựa dẫn đường, giúp kẻ khác nhìn thấy.
Bạn hiền là như vậy. Không phải lúc nào ta cũng nhìn thấy họ, nhưng họ thì luôn hiện diện đâu đó. Hãy lắng nghe tiếng chuông của nhau.
Hãy tử tế hết sức mình, bởi vì có một người mà bạn gặp trên đời, biết đâu cũng đang ở trong một hoàn cảnh khó khăn nào đó họ phải phấn đấu để vượt qua. Không gì hơn là tuổi già nương dựa vào nhau trong tình bạn. Luôn luôn nghĩ bao giờ mình cũng có cái cho đi mà người khác dùng được.
Tính hài hước, làm cho người khác cười cùng với mình cũng là những liều thuốc bổ.
Thi sĩ Maya Angelou vào sinh nhật thứ 77, trong chương trình phỏng vấn của Oprah, hỏi về sự thay đổi vóc dáng của tuổi già, bà nói:
” Vô số chuyện xẩy tới từng ngày… Cứ nhìn vào bộ ngực của tôi xem. Có vẻ như hai chị em nó đang tranh đua xem đứa nào chạy xuống eo trước ” . Khán giả nghe bà, cười chẩy cả nước mắt.
Những vấn đề chính ảnh hưởng đến sức khỏe của bạn (qua tinh thần) là:
+Sự cảm thông giữa cha mẹ và con cái, giữa ông bà với các cháu.
+Tinh thần chấp nhận và lạc quan.
+Nghĩ đến những điều vui nhỏ mỗi ngày.
+Tham gia những sinh hoạt nào phù hợp với sức khỏe.
+Làm việc thiện nguyện.
Sinh, bệnh, lão, tử. Con đường đó ai cũng phải đi qua. Nhưng đi như thế nào thì hầu như 80% chính mình là người lựa chọn.
+Nhóm bạn: Ðọc sách, kể chuyện,
đánh cờ, chơi bài (không phải ăn thua).
+Tham gia các lớp thể dục: Như Yoga, ngồi thiền, khí công v.v…Và ngay cả chỉ đi bộ với nhau 30 phút mỗi ngày cũng giúp cho tinh thần sảng khoái, sức khỏe tốt hơn là ở nhà nằm quay mặt vào tường.
Hãy thỉnh thoảng đọc lên thành tiếng câu ngạn ngữ này: ‘Một nét mặt vui vẻ mang hạnh phúc đến cho trái tim và một tin vui mang sức khỏe cho xương cốt.’
Chúc tất cả anh chị em luôn cảm thấy vui khoẻ và trọn vẹn an lành trong tâm hồn !
nguồn: Anh chị Thụ Mai gởi

TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU VÀ LÒNG XÓT THƯƠNG

TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU VÀ LÒNG XÓT THƯƠNG

Lm. Giuse Trần Đình Long

Dòng Thánh Thể

 

 

Lễ an táng chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu, một nữ tu Dòng Kín từ giã cõi đời lúc vừa tròn 24 cái xuân xanh, được cử hành tại nghĩa trang thành phố Lisieux ngày 4/10/1897. Đó là một
đám táng rất đơn sơ, lèo tèo vài vị giáo sĩ, một nhóm bà con bạn hữu và mấy chị Dòng Kín bậc hai. Tất cả chỉ có thế ! Cuộc sống của chị đơn sơ tầm thường quá, tới nỗi có chị đã nói : “Không biết mai đây Têrêsa chết đi, chúng ta sẽ viết tiểu sử giới thiệu ra sao đây ?”. Con đường nên thánh của chị giản dị quá. Nụ cười của chị hồn nhiên qua. Lời nói của chị tình cảm quá, tới nỗi khi cuốn sách “Một Tâm Hồn” được gởi tới những vị có uy tín trong Giáo Hội, một vị đã đọc với một vẻ hoài nghi lạnh nhạt : “Chà, Thánh đâu như hoa lề đường, sao mà dễ thế ! Chuyện gì phải qua rồi cũng sẽ qua !”.

Nhưng các vị đó đã lầm. Bông hoa lề đường đó đã tỏa hương thơm ngào ngạt khắp thế giới. Ngọn gió Thánh Linh thổi nhè nhẹ nhưng đã làm rung chuyển thế kỷ 20. Thánh nữ là sứ
điệp của Thiên Chúa, là lời sống động của Thiên Chúa. Chị đã khám phá ra một con đường nên Thánh mới lạ, rất ngắn, rất dễ, ai cũng có thể đi để tới Thiên Chúa.

Tuyên dương đời sống của thánh nữ, giáo hội ca ngợi giáo thuyết của chị và đã công nhận con đường thơ ấu thiêng liêng rất phù hợp với tinh thần Phúc Âm. Đường thơ ấu thiêng liêng là một bí quyết nên thánh cho mọi tín hữu khắp hoàn cầu. Nếu đường thiêng liêng này được phổ biến, chúng ta sẽ thấy việc canh tân xã hội và giáo hội được thực hiện. Thiên Chúa đã muốn làm tăng giá trị cho Têrêsa bằng một hồng ân khôn ngoan rất đặc biệt. Đức Piô XII đã mạnh bạo đặt sứ mệnh quan trọng của thánh nữ ngang với sứ mệnh của các vị tiến sĩ trong Giáo Hội.

Thánh nữ thành Lisieux đã tìm ra một con đường rất thẳng, rất ngắn, rất mới lạ, lại đơn giản dễ dàng. Đức Piô XI khẳng định : “Chị Dòng Kín khiêm nhượng đã đem cho thế giới một sứ điệp mới. Đường thơ ấu thiêng liêng đã mở ra trong giáo hội một giai đoạn mới, khiến việc nên thánh trở nên dễ dàng với mọi người.”

Tình yêu là tâm điểm, là nguyên tắc, là tận cùng của con đường thơ ấu thiêng liêng. Têrêsa nói : “Với TÌNH YÊU không những tôi CHẠY mà còn BAY”.Châm ngôn sống của thánh nữ là TÌNH YÊU. Yêu Chúa, yêu người với tất cả tấm lòng khiêm cung nhỏ bé như trẻ thơ tin
yêu phó thác vào cha mẹ.

Tinh thần Têrêsa quy tụ phần tinh túy nhất của Tin Mừng. Chúng ta thuộc về một gia đình siêu nhiên liên kết thành huyền thể Chúa Kitô và lan tràn vô biên. Chúng ta có Thiên
Chúa là Cha, Đức Trinh Nữ Maria là mẹ, và tất cả các thánh trên trời dưới đất là anh chị em trong Chúa Kitô.

Têrêsa không có những việc hãm xác kỳ lạ. Mẹ Agnès làm chứng : Tôi thấy Têrêsa càng về cuối đời, càng cố sống hãm mình cách hoàn toàn đơn sơ và mực độ. Chị thường nói với tôi rằng : “Ma quỷ hay đánh lừa những linh hồn quảng đại nhưng thiếu khôn ngoan bằng cách
thúc đẩy họ vào những hy sinh thái quá, vừa làm hại sức khỏe, vừa khiến họ không thể chu toàn bổn phận được, đồng thời lại muốn lấy đó làm tự mãn.Chỉ với những việc làm hèn mọn vô tên tuổi, nhưng lại trung thành lãnh nhận, linh hồn sẽ đạt tới đức yêu mến tinh tuyền là sự bỏ mình hoàn toàn cách mau chóng hơn.”

Giáo hội bảo đảm chắc chắn rằng lối khổ hạnh mới mẻ gồm những việc nhỏ mọn này là con đường nên thánh đích thực không kém đường lối khổ hạnh phi thường.

Cách cầu nguyện của Têrêsa rất đơn giản : “Tôi ở như đứa trẻ không biết chữ. Tôi cứ đơn sơ thật thà trần tình với Chúa những điều tôi muốn nói và bao giờ tôi cũng được Chúa
cảm thông.”

Têrêsa không có những hoạt động hiển hách : “Các chị đừng tưởng phải làm những việc lớn lao mới nên trọn lành được. Chúa Giêsu không cần đến những công trình hiển hách, hay những tư tưởng quảng bác của chúng ta. Nếu Ngài muốn những quan niệm cao siêu, Ngài
đã chẳng có các Thiên Thần thông biết trổi vượt các bậc kỳ tài trần gian ư ? Vậy Chúa không đến trần gian để tìm kẻ thần thông hay các bậc thiên tài, nhưng để yêu dấu sự đơn sơ chân thành.”

Chân lý sáng ngời nhất trong quan niệm của Têrêsa về thế gian cũng như trong cái nhìn Kitô giáo về vũ trụ là :TÌNH CHA của Thiên Chúa đối với chúng ta.

Sở dĩ tín điệp Têrêsa có sức mạnh chinh phục là vì nó biết tìm lại chân lý căn bản của Kitô
giáo. Êm dịu biết bao khi gọi Thiên Chúa là Cha và trở nên con của Ngài. Thánh nữ chỉ nhìn thấy sự dịu hiền vô tận và lòng nhân từ thương xót của Cha trên trời chiếu giãi trong ánh sáng của Thánh Linh, đơn sơ, nhưng sâu sắc.

Quả thật tình yêu là căn nguyên mọi hoạt động của Thiên Chúa trên các vật thụ tạo. Têrêsa dễ nhận ra rằng :Lòng thương xótlà nguyên nhân công việc cứu chuộc của Chúa Kitô
và tất cả chương trình quan phòng của Thiên Chúa.

“Không phải vì đã được gìn giữ khỏi phạm tội trọng mà tôi phó thác yêu mến tiến về Chúa. Cả khi tôi cảm thấy lương tâm bị đè nặng bởi những tội có thể phạm, tôi cũng dám nức lòng phó thác, và với tâm hồn thống hối tôi gieo mình vào vòng tay cứu chuộc… Tôi biết rằng chỉ trong nháy mắt, mọi xúc phạm sẽ tiêu tan như giọt lệ rơi trong than hồng.”

Không bao giờ Têrêsa tỏ vẻ buồn bực khó chịu đối với những chị em đến làm phiền mình. Trong giờ giải trí chị đem hứng thú cho mọi người. Cuối đời chị, lúc bệnh nặng, một hôm Têrêsa viết nhật ký ở ngoài vườn, mấy chị em quấy rầy chị luôn. Mỗi lần, thay vì bực bội hay là xin chị em để mình thư thái, Têrêsa êm đềm đặt bút xuống và gấp tập lại với nụ cười tươi nở trên môi. Chị tự nhủ : “Em đang viết về đức bác ái huynh đệ thì đây là lúc thực hành… Thực hành bác ái huynh đệ bao nhiêu là yêu Chúa bấy nhiêu.”

Bác ái chân chính là biết chịu đựng lỗi lầm của bạn hữu, không ngạc nhiên khi thấy họ yếu
đuối.

Thánh Têrêsa đã khám phá một chân lý mới trong Tin Mừng, mà chính Chúa Giêsu đã nhấn mạnh rất nhiều là : “Trung thành trong điều rất nhỏ mọn”. Bổn phận dù hèn kém, dù tầm thường đến đâu cũng hợp với nền luân lý hoàn hảo nhất.

Sự thánh thiện trước hết là biết thánh hóa đời sống hàng ngày. Phải có một lòng trung thành tuyệt đối và tươi vui với bổn phận trong khung cảnh rất giản dị của đời sống
tầm thường, nơi mà Chúa nhân hậu đã đặt ta vào dưới sự thúc đẩy bền bỉ và mạnh
mẽ của TÌNH YÊU.

Trong cuộc sống âm thầm nơi tu viện, chính khi thực hành những phận sự hèn mọn nhất, tương tự như công việc tầm thường hàng ngày của ta, mà chị Têrêsa Hài Đồng đã trở nên vị
đại thánh đáng kính mến.

Têrêsa sống như trẻ thơ. Trẻ nhỏ đã ý thức được sự yếu hèn của mình, nó cảm thấy mình nghèo khổ thiếu thốn mọi sự và hoàn toàn lệ thuộc : “Ở như trẻ nhỏ tức là biết sự hư vô
của mình, chờ mong mọi sự nơi Chúa từ bi như trẻ con chờ mong cha mình, tức là không lo lắng gì, không tìm kiếm gì…Ta càng khiêm nhường nhận biết mình yếu đuối và khốn nạn, Thiên Chúa từ nhân càng ghé mình đến ta để đổ ơn thánh cho ta dồi dào hơn…Nơi những linh hồn thật khiêm nhường, tình yêu không có gì cản trở, ngay cả những lỗi lầm cũng giúp họ nâng mình gần Chúa hơn.”

Không bao giờ chị Têrêsa Hài Đồng xin cho mình một chút an vui. Chị chấp nhận tất cả từ tay Chúa với một niềm tin yêu phó thác : “Bây giờ tôi không ước ao điều gì nữa nếu điều
đó không làm cho tôi mến Chúa Giêsu đến điên rồ. Chính tình yêu lôi cuốn tôi…Tôi không biết xin gì nữa ngoài việc chu toàn ý Chúa… Chỉ có một điều tôi ao ước, đó là Ý CHÚA…Tôi đã phó thác dù sống hay chết.”

Phó thác đích thực là chỉ tìm ý Chúa. Thánh nữ đã thú nhận phải mất lâu ngày mới đạt tới bậc phó thác đó : “Tôi phải qua nhiều thác ghềnh trước khi đến dòng sông bình an, trước khi đến quả ngon ngọt của việc phó thác hoàn toàn, và của tình yêu hoàn hảo.”

Sau này Mẹ Agnès đã thú nhận rằng : “Không bao giờ tôi có thể đoán được rằng một ngày kia có thể có vấn đề phong thánh cho một chị dòng sống như mọi người thường. Và người ta
thấy chị nhà bếp phân vân không biết nhà dòng sẽ có thể lấy gì mà kê lên bảng thông cáo khi chị Têrêsa qua đời, vì họ chỉ đoán chị là một nữ tu tốt lành.”

Để đạt tới tuyệt đỉnh thánh thiện, không cần làm phép lạ hay ngất trí, không cần phải hoàn tất những công việc phi thường, nhưng chỉ cần mỗi ngày biết chấp nhận bổn phận Chúa
đã ủy thác và hoàn tất với tâm tình yêu mến là đủ. Cách nên Thánh theo Têrêsa là một nếp sống thường ngày hết sức đơn sơ mà được thánh hóa bởi tình yêu.

Chúa muốn dẫn chúng ta tới tột đỉnh thánh thiện, chỉ cần bỏ mình để vâng theo những kế hoạch do lòng nhân từ và thương yêu của Chúa với tâm tình hiếu thảo, cậy trông như
một trẻ thơ. Việc nên thánh ở tại tâm hồn đơn sơ khiêm nhường, ý thức sự yếu hèn của mình mà bạo dạn phó thác cho lòng nhân từ và thương xót của Chúa.

Việc giáo hội phê nhận đường thơ ấu thiêng liêng của chị thánh Têrêsa mời gọi ta mở rộng quan niệm về việc nên thánh. Thánh nhân không chỉ là một người bằng khổ hạnh ăn chay
hãm mình hay đánh tội đến chảy máu, làm cho mọi người phải kinh ngạc. Nhưng thánh
nhân còn là người khiêm tốn, đơn sơ, thuận theo ý Chúa, tín thác hoàn toàn vào lòng thương xót của Chúa, âm thầm chu toàn bổn phận rất nhỏ nhặt hằng ngày của mình trước những con mắt hằn học và khinh khi của người đời.

Đây là lúc để cùng Mẹ Maria, cùng hai thánh nữ Têrêsa và Faustina, chúng ta trở về với con đường nên thánh trong tin yêu phó thác vào lòng thương xót của Chúa. Hãy làm mọi việc, dù là những việc nhỏ nhặt tầm thường nhất, trong tình yêu, theo cách Con Một Chúa đã làm. Vì sứ điệp của Têrêsa trước hết là sứ điệp của TÌNH YÊU: “Ơn gọi của con là trở nên tình yêu.Trong trái tim giáo hội, Mẹ yêu dấu, con sẽ là tình yêu. Như thế con sẽ là tất cả!”

“Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa”

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

TỪ BÈ TAM ĐIỂM ĐẾN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

TỪ BÈ TAM ĐIỂM ĐẾN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

Ngày 26-11-1929, sau trận chiến nội tâm ”tàn-khốc”, ông Einar Berrum quyết định gởi thư đến trụ sở hội tam điểm tại Na-Uy, xin rút tên ra khỏi hội.

Thư gửi đi, ông tức khắc tìm được niềm an bình hạnh phúc khôn tả! Cùng ngày đó, ông đến gặp Cha Sở nhà thờ chính tòa Công Giáo Oslo, thủ đô Na-Uy, xin gia nhập Giáo Hội Công Giáo .. Bốn năm sau, ông lấy giấy ghi lại cuộc trở về với Giáo Hội Công Giáo.

Con đường dẫn tôi đến với Giáo Hội là con đường bình thường. Có lẽ không bao giờ tôi viết lại, nếu không có người xin tôi viết. Và khi chấp nhận lời yêu cầu, cùng lúc tôi muốn bày tỏ lòng yêu mến và ghi ơn Giáo Hội Công Giáo, Mẹ chúng ta.

Tôi sinh năm 1872 tại Osolo và được may mắn lớn lên trong gia đình Kitô. Thân phụ tôi là tín hữu tin lành mộ đạo.

Sau khi mãn bậc tiểu học, tôi được cha mẹ gửi sang Anh quốc, bắt đầu bậc trung học đệ nhất cấp tại trường Thánh Olave ở thành phố York.

Đây là trường học tin lành. Dĩ nhiên người ta nói với chúng tôi về ông tổ tin lành Luther và trình bày cho chúng tôi biết tất cả thành kiến xấu về Giáo Hội Công Giáo và Vị Giáo Hoàng của Giáo Hội này! Chính trong bầu khí bài xích Giáo Hội Công Giáo mà tôi đi vào thế giới của tôn giáo và của văn chương khoa học.

Tôi không bao giờ quên Chúa Nhật đầu tiên tại thành phố York. Hôm ấy tôi bước vào nhà thờ mang tên Thánh Olave, vị thánh người Na-Uy. Đó là nhà thờ Anh giáo. Ban đầu tôi cứ ngỡ mình đang ở trong nhà thờ Công Giáo, vì lúc ấy, tôi chưa thạo tiếng Anh cho lắm..

Lần đầu tiên trong đời, tôi học biết quỳ gối. Và những nghi lễ trang trọng cùng với thánh ca có nhạc cụ đi kèm, nghe thật du dương và thật sốt sắng. Buổi phụng vụ Chúa Nhật ghi vào lòng tôi một ấn tượng tốt đẹp. Từ đó, tôi có thói quen đến nhà thờ này vào mỗi Chúa Nhật để tham dự các nghi lễ phụng vụ.. Sau này, khi trở lại Oslo, tôi cũng thường đến tham dự các buổi cử hành phụng vụ tại nhà thờ Anh giáo. Tôi đến đây không phải vì tâm tình mộ đạo cho bằng bị lôi cuốn bởi nét đẹp của các buổi cử hành. Thế thôi.

Sau khi mãn bậc trung học đệ nhất cấp tại Anh quốc, tôi trở về Na-Uy học tiếp. Đến năm 1908 – tôi 36 tuổi – xảy ra biến cố làm thay đổi cuộc đời. Thân phụ tôi giữ chức vụ cao trong hội tam điểm. Ông muốn các con trai ông phải ghi tên vào hội này. Ngày 24-4-1908, anh em tôi chính thức ghi tên gia nhập hội tam điểm.

Năm 1918, tôi thành hôn với thanh nữ Đan-Mạch sống tại thủ đô Copenhagen. Hiền thê tôi là tín hữu tin lành đạo đức và là phụ nữ trí thức. Nàng say mê văn chương và thích nghe bài giảng hay. Khi thành hôn với tôi, nàng về sinh sống tại tỉnh nhỏ ở Na-Uy. Chỉ có điều duy nhất nàng cảm thấy nhung nhớ, đó là những bài giảng hay trong các nhà thờ tin lành ở thủ đô Copenhagen.

Một Chúa Nhật mùa chay năm 1928, khi trở về nhà, nàng hớn hở nói với tôi nàng vừa tìm ra vị giảng thuyết thật hay, tại nhà thờ Công Giáo thánh nữ Brigitte. Tôi tỏ dấu tức giận và hờn dỗi, vì thấy vợ tự ý đi tìm nhà thờ Công Giáo, với vị giảng thuyết Công Giáo. Dầu vậy, từ đó, chúng tôi đều đặn đến nghe giảng tại nhà thờ này .. Tuy nhiên, hạnh phúc lứa đôi bắt đầu lung lay. Đôi khi chúng tôi còn cãi vả to tiếng với nhau nữa. Trong khi đó, vợ tôi mỗi ngày một đến gần Giáo Hội Công Giáo.

Ngày 2-12-1928, Chúa Nhật Mùa Vọng, sau khi bất bình với nhau về nhiều sự, vợ tôi vẫn cố gắng thuyết phục tôi đi lễ nơi nhà thờ Các Linh Mục dòng Đaminh tại Oslo. Tôi miễn cưỡng nghe lời vợ. Đến nơi, tôi chọn ngồi vào hàng ghế sau cùng. Nhưng thay vì cảm thấy khó chịu, tôi lại cảm thấy lòng thanh thản lạ thường. Vị Linh Mục chủ lễ và giảng hôm đó là
người Pháp. Vậy mà ngài nói rành tiếng Na-Uy, không thể chê được. Thêm vào đó, bài giảng thật hay. Tôi xúc động thật sự.

Năm sau, ngày 4-10-1929, vợ tôi chính thức gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Cuộc chiến nội tâm của tôi còn kéo dài đến ngày 26-11 cùng năm. Sau đó tôi quyết định ra khỏi hội tam điểm và xin gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Từ đó tôi tận hưởng niềm an bình hạnh phúc thật sự.

(”Stella Maris”, Octobre/1993, trang 30-31).


Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Maria Thanh Mai gởi

ĐGH Gioan XXIII sau 50 năm Công đồng Vatican II

ĐGH Gioan XXIII sau 50 năm Công đồng Vatican II
Tác giả: Trầm Thiên Thu
Nửa thế kỷ qua, từ sau khi Chân phước GH Gioan XXIII triệu tập Công đồng Vatican II (1962-1965), Giáo hội Công giáo đã được canh tân. Người triệu tập Công đồng Vatican II là một “ông già vui vẻ”, được mệnh danh là “Giáo hoàng Tốt lành” (Good Pope). Ngài đã được Chân phước GH Gioan Phaolô II tôn phong chân phước năm 2000. Liệu vị “Giáo hoàng Tốt lành” có được tôn phong hiển thánh? Có nên như vậy?
Chiều ngày 3-6-1963, ĐGH Gioan XXIII đã đi vào cõi vĩnh hằng sau 4 năm rưỡi làm giáo hoàng. Văn phòng báo chí Tòa Thánh chỉ nói ngắn gọn: “Ngài không còn chịu đau khổ nữa”.
Ngay lập tức, có một phong trào nổii lên do một số người thân cận với ngài muốn ngài được phong thánh, như các vị thánh trong những thế kỷ đầu của Giáo hội. Khóa họp thứ nhất của Công đồng Vatican II kế thúc vào tháng 12-1962, ĐGH Gioan XXIII đã công bố Tông thư Pacem in Terris (Hòa bình trên Thế gian) vào tháng 4-1963 tạo bước ngoặt của đời ngài.
Ngài được lòng nhiều người trên thế giới, những người hiểu biết mức độ quan trọng của lịch sử đối với triều đại giáo hoàng ngắn ngủi và dự án Công đồng Vatican II của ngài.
Được biết, vào lúc ĐHY Leo Suenens (Bỉ), thân cận với ĐGH Gioan XXIII, và có tiếng nói uy tín trong Công đồng Vatican II, ủng hộ việc mau chóng phong hiển thánh cho Chân phước Gioan XXIII. ĐHY Suenens nói rằng người ta cần những con người đương thời mới làm khuôn mẫu cho việc phong thánh để gợi hứng cho họ trong đời sống tâm linh.
Một lời đề nghị được lan truyền trong các giám mục, thúc đẩy tiến hành nhanh, nhưng các vị lãnh đạo theo truyền thống và Bộ phong thánh đã thắng. Người kế vị ĐGH Gioan XXIII là ĐGH Phaolô VI đã tuyên bố năm 1965 rằng hai án phong thánh cùng được mở: ĐGH Piô XII và ĐGH Gioan XXIII. Hai cuộc điều tra được tiến hành, và một vị được phong chân phước năm 2000 là ĐGH Gioan XXIII, ngày xưa gọi là á thánh, bước cuối cùng là hiển thánh.
Ngoài Thánh Phêrô, mới chỉ có 80 trong 264 giáo hoàng được chính thức tôn kính trên bàn thờ. Trong 400 năm qua, Giáo hội vẫn nghiệm ngặt trong việc chính thức mở án phong thánh, điều tra và xác nhận phép lạ. Vì thế, dù thế nào thì cơ hội cho bất kỳ vị giáo hoàng nào được tôn phong hiển thánh cũng rất ít.
Tuy nhiên, ĐGH Gioan XXIII lại khác. Khi hài cốt ngài được chuyển từ hầm mộ  giáo hoàng (papal crypt) bên dưới Đền thờ Thánh Phêrô và cải táng bên dưới Bàn thồ Thánh Jerome ở lầu chính của Đền thờ vào năm 2001, khoản 40.000 người đã tham dự nghi thức cải táng này.
Khi mở quan tài, thi hài ĐGH Gioan XXIII vẫn nguyên vẹn, không hề hư nát (remarkably uncorrupted). Sau gần một ngày, người ta thấy được khuôn mặt của ĐGH Gioan XXIII. ĐHY Virgilio Noe, người giám sát và chịu trách nhiệm vụ này, đã diễn tả khuôn mặt của ĐGH Gioan XXIII vẫn “nguyên vẹn và thanh thản” (intact and serene). Ngài nói rằng các nhân chứng hiện diện khi mở nắp quan tài đã ngạc nhiên và vui mừng khôn tả. Thế giới chỉ mong chờ một phép lạ được xác định là của Chân phước Gioan XXIII là đủ thủ tục.
Rất có thể ngài sẽ được tôn phong hiển thánh vào năm 2013, sau 50 năm ngài qua
đời. Tại sao? Công đồng Vatican II của ĐGH Gioan XXIII đúng là một phép lạ!
Người Công giáo tin rằng, nhờ Chúa Thánh Thần, Công đồng Vatican II đã cứu Giáo
hội Công giáo khỏi tình trạng xơ cứng và suy sụp. Người ta vẫn nói rằng, cứ khoảng 300 năm tới 500 năm, Giáo hội lại cần tái tự kiểm tra và kiểm tra vị trí của mình trên thế giới. Đó là điều đã xảy ra tại Công đồng Nicê (Nicaea) hồi thế kỷ thứ 4 và Công đồng Trentô (Trent) hồi thế kỷ 16 – và đặc biệt là Công đồng Vatican II trong thế kỷ 20.
ĐGH Gioan XXIII tìm cách canh tân Giáo hội, ngài vẫn luôn luôn sống bác ái và
khiêm nhường, qua những tháng ngày đen tối nhất của lịch sử thế giới, khi còn là một linh mục trẻ và một binh sĩ, khi là nhà ngoại giao của Giáo hội, nhất là khi trở thành người kế vị Thánh Phêrô. Chứng cớ đời sống nội tâm của ngài được  ghi rõ trong “Journal of a Soul” (Tờ báo của một Linh hồn), một kiệt tác tôn giáo và phản ánh rõ nét mà ngày nay nên đọc nhiều.
ĐGH Gioan XIII thực sự là một vị thánh, đã và đang được nhiều người yêu mến trên khắp thế giới. Họ không cần sự chấp nhận chính thức của Tòa Thánh xác nhận những gì đã được ghi tạc vào tâm hồn họ.
TRẦM THIÊN THU
(Chuyển ngữ từ ReligionNews.com)

Khai mạc “Năm Đức Tin”, 11-10-2012