NHÓM NGƯỜI CẦU NGUYỆN ĐẶT TAY

NHÓM NGƯỜI CẦU NGUYỆN ĐẶT TAY

Maria Nguyễn .

Tôi là một con chiên trung bình, tuy nhiên  tôi không thích những kiểu cách hành đạo quá lố, Thiên Chúa của tôi là vị Chúa trong cung thánh, uy nghi và cao cả. Thiên Chúa của tôi hiện diện trong các buổi lễ trang nghiêm, nghi lễ càng hoành tráng chừng nào càng tốt như cách suy nghĩ thông thường của các tín hữu công giáo. Do đó, tôi không thể nào chấp nhận được cách hành đạo của một vài người, họ hay cầu nguyện ở mọi nơi, thậm chí khi vào phòng restroom cũng có thể cầu nguyện, đang tắm trong tình trạng con người nguyên thủy,  không có một mảnh vải che thân  mà lại đi có cái  hành vi gọi là  cầu nguyện ! Cũng như bao nhiêu người khác tôi cho rằng đã có sự thái quá trong cách hành đạo như vậy.  Tôi cho rằng đó là những kiểu sốt sắng không phải lúc , không phải nơi.

Khi thấy trong Giáo Xứ, có những người thuộc Nhóm Thánh Linh cầu nguyện giơ tay, cầu nguyện bằng cách hát thì tôi thấy lạ kỳ làm sao . Nhất là có những người, cả ngày lẩn thẩn , lâm râm cầu nguyện mà quên đi cả bổn phận hàng ngày của mình là phải làm việc nuôi thân,  chăm sóc con cái, tôi cho đó là một sự thái quá. Đó là chưa kể, họ còn đặt tay cầu nguyện , trông kỳ lạ , không bình thường,

Số là, tôi có một  người Bạn trong Nhóm Thánh Linh, có lần anh đề nghị cùng cầu nguyện chung , tôi cắt ngang liền, “ Em không cần cầu nguyện… như vậy”. Lại một lần khác, anh đưa cái CD Nhạc Ca ngợi  để bỏ trong xe nghe lúc đi làm, tôi trả lời thẳng “ Em không có thói quen nghe nhạc Đạo trên xe”.

Tuy thế , tôi không phải là một người ác cảm với các việc  đạo đức, tôi sinh hoạt trong một nhóm nhỏ chia sẻ lời Chúa, cứ vào khoảng một tháng rưỡi, hai tháng vào đêm thứ bẩy  sau lễ  thì chúng tôi sinh hoạt một lần , chúng tôi họp nhau tại nhà của một thành viên , đọc Lời Chúa , liên hệ sự soi chiếu của Lời Chúa khi xưa vào trong cuộc sống gia đình với các vấn nạn, thời sự của hôm nay. Sau đó chúng tôi hát hai, ba bài cảm tạ và ca khen Chúa. Phần chia sẻ kinh nghiệm sống Lời Chúa khá là sinh động, Anh bạn Thánh Linh khi phụ giúp cho lớp học RCIA , ( Lớp Khai Tâm Kitô Giáo cho người lớn) đã nói về các kinh nghiệm của Anh Chị Em Tân Tòng theo Chúa, có những Anh Tân Tòng cầu nguyện rất đơn sơ mà được Chúa nhận lời, chẳng hạn như có một Anh thợ nề nọ khi lát gạch bồn hoa không được vì bồn đúc quá méo mó, sần sùi, anh quì xuống tại chỗ và giao nó cho Cha Trời: “ Cha tính sao đi, chứ con bí rồi đó” , rồi sau đó, đứng lên, Anh  bắt tay vào việc, Anh làm ro ro  mà không còn bị trở ngại gì nữa! Rồi đến một chị Tân Tòng bị  bịnh suy nhược thần kinh và nỗi sợ hãi vô cớ ám ảnh Chị đến độ muốn phát điên , phát dại, sau khi Chị cầu nguyện ăn năn và  xin Chúa ban bằng an thì bịnh tình thuyên giảm hết ngay trong đêm. Điều đánh động tôi nhất là gương hy sinh của Anh Chị Em Tân Tòng,  Họ không theo Chúa trong suông sẻ, trong sự dễ dàng như chúng tôi, họ theo Đạo Chúa , vốn là tôn giáo khác biệt ở ngay trong nhà,  hậu quả là có khi họ bị gia đình từ bỏ, phản đối và có trường hợp cá biệt của một chị nọ bị chồng lấy cớ “ không cùng tôn giáo “ và ly dị, rồi đuổi Chị ra khỏi nhà, anh ta  về Việt Nam cưới vợ nhí, chị còn bị các con cái về hùa với Chồng chị mà phớt lờ hoàn cảnh của Chị. Tất cả các bất hạnh cũng không đủ để Chị từ bỏ Chúa cùng với niềm bình an và vui tươi sâu thẳm của Chúa và Lời của Ngài gieo vào lòng Chị… Tôi quan tâm đến các câu chuyện này vì chồng tôi cũng là một Tân Tòng.

Trong các buổi chia sẻ Lời Chúa , mỗi người đã nói lên các khó khăn trong gia đình mình để cùng nhau xét mình sửa đổi và cầu nguyện cho nhau, tôi thì có các khó khăn với mẹ chồng , tôi cũng băn khoăn với thói hút thuốc lá làm nguy hại đến sức khỏe của chồng tôi. Chúng tôi xin Chúa giúp đỡ để tôi  biết yêu mến kính trọng mẹ chồng, Xin Chúa giúp chồng tôi bỏ hút thuốc lá

Trong các buổi nhóm như thế, sau phần chia sẻ của ăn tinh thần, chúng tôi cũng chia sẻ bữa ăn vật chất và vui vẻ trò chuyện đến thật khuya đêm thứ bẩy trước khi chia tay ra về. Theo ngày tháng, cùng với các buổi chia sẻ Lời Chúa ở trong nhóm nhỏ của tôi,  khi nghe Anh Thánh Linh này chia sẻ thì lòng tôi nóng cháy lên và tôi thích cầu nguyện, tâm sự với Chúa nhiều hơn, mỗi khi có dịp vui , buồn , khó khăn trong đời sống.

Tôi bắt đầu dâng cho Chúa các khó khăn của mình và trông cậy Chúa trong lòng biết ơn và vâng phục cho dù tôi ra trường đã năm năm, mà không tìm ra “job” làm đúng với bằng cấp mà tôi có, lương bổng khá thấp. Tôi cứ trông cậy rồi ra Chúa sẽ an bài cách tốt đẹp nhất cho đời mình nếu tôi chấp nhận và tin tưởng nơi Người,  giống như trường hợp của các Anh Chị Em Tân Tòng kể trên. Thậm chí, chọn một môn để học thêm sau đại học tôi cũng thăm dò và nhờ Chúa hướng dẫn, sau khi lần mò , tôi cho rằng Chúa muốn tôi đừng đổi nghề nhưng cứ tiếp tục theo học nghành cũ và lấy bằng CPA. Đây là bằng chuyên môn cho người làm nghề kế toán, khó thi đậu bằng này, tỉ lệ đậu ngay lần đầu chỉ có 50% .

Đến ngày thi lấy bằng CPA , sau khi đã cố gắng học và nỗ lực nhiều , tôi theo cách của Anh Thánh Linh khuyên, trước giờ thi tôi đặt tay trên bài thi và nhân danh tên cực quyền năng của Chúa Giê Su Kitô để cầu xin không những ơn khôn ngoan, minh mẫn và trí nhớ mà còn cầu xin  cho mọi sự tốt đẹp, suông sẻ cho tôi vốn là một con cái của Đức Chúa Trời.  Có lẽ , CPA là điều tốt cho tôi nên Chúa đã cho tôi đâu ngay trong lần đầu, rồi một tuần sau , Chúa cho tôi được có job mới , tôi được việc làm mới,  được  chọn  bởi ba hãng trong đó có một hãng chuyên về làm kế toán thuê cho các công ty. Chúa nhân từ cho tôi nhiều quá , từ chỗ khổ sở tìm job và phải làm job không đúng mức , nay Chúa cho tôi được cơ hội  chọn lựa đến 3 chỗ làm mới với mức lướng tăng lên gấp hơn hai lần so với lương cũ. Chúa của tôi thật là giầu có và độ lượng.

Điều xảy ra tiếp theo là , ngay trong ngày được tin tôi có bằng CPA, chồng tôi đã hứa bỏ thuốc lá và Chúa đã giúp Anh làm được điều này,  dù trước đó Anh đã có hứa làm mà chưa làm được. Anh đã bỏ thuốc lá được hơn tám tháng .

Chúa đã thay đổi tôi, Ngài làm cho tôi trở nên hiền hòa hơn và biết yêu quí , kinh trọng mẹ chồng hơn xưa nhiều , xin Chúa tiếp tục dậy dỗ cho tôi. Chúa cũng cho các con tôi ngoan ngoãn và học hành giỏi giang. Tôi còn một ước nguyện nữa dâng lên cho Chúa đó là lòng ước ao sau này sẽ có một cháu đi tu để chúng tôi có dịp bày tỏ lòng biết  ơn Chúa và làm sáng danh Ngài.

Không biết từ lúc nào , tôi đã lây thói quen cầu nguyện chung với nhau , tay trong tay. Một ngày nọ , tôi bị ho khúc khắc hoài , cơn ho kéo dài đã 4 tuần mà không trị dứt được, thấy tôi ho,  anh Bạn trong Nhóm Thánh Linh đã đề nghị cùng nắm tay cầu nguyện chung với một người bạn nữa, Cả ba chúng tôi nắm tay cao và dâng tâm tư lên Chúa, chúng tôi thưa với Chúa:

–          Lậy Chúa Giê Su yêu kính , con ca ngợi tình yêu kỳ diệu của Ngôi Lời Cứu độ. Con ca tụng tên cực thánh Giê Su mà trời , đất , âm phủ đều phải bái phục và nhất nhất tuân theo. Nhân danh Tên Cực Thánh của Chúa ta truyền cho bệnh ho phải tan biến, các bộ phận liên quan, cũng như lá phổi phải trở lại tình trạng lành mạnh, hoạt động bình thường làm tấn ích cho con cái Đức Chúa Trời.

Khi chúng tôi cầu nguyện xong thì  các cơn ho không còn thấy nữa , Chị bạn cùng cầu nguyện với  tôi cũng bị ho kéo dài đã 3 tuần về sau cho biết , Chúa kính yêu đã chữa cho chị khỏi ngay kể từ giờ khắc đó. Còn phần tôi, thì khỏi lúc đó , nhưng về khuya thì còn hơi  ho một chút . Đến sáng ngày hôm sau thì không còn ho nữa.

Từ ngày vào nhóm Chia sẻ, nhờ Ca Ngợi và Lời Chúa,  Tôi không những được  lợi ích về mặt tinh thần, tấn tới trong sự hiểu biết và yêu mến kính sợ Chúa mà còn được Chúa ban thêm cho về vật chất nữa. Cảm tạ Chúa đã mở mắt cho tôi thấy sức mạnh rất diệu kỳ của  Ca Ngợi và Lời Chúa.

Tôi biết sự thờ phượng mà Chúa yêu thích phải là sự thờ phượng trong tâm hồn của mình , dành tất cả ý chí, suy tư và tấm lòng cho Chúa chứ không phải nghi thức rình rang hay những gì chỉ có bề ngoài. Đời thờ phượng luôn cần phải tuân theo sự hướng dẫn chu đáo của chân lý thâm sâu vốn có trong Lời Chúa:

Nhưng giờ sẽ đến – và là ngay bây giờ – những kẻ thờ phượng đích thật sẽ thờ phượng Cha trong Thần khí và sự thật vì Cha chỉ muốn gặp thấy những kẻ thờ phượng Người như thế.” ( Gioan 4: 23)

Tôi không còn ác cảm với Nhóm Thánh Linh nữa , có lẽ một ngày nào đó tôi sẽ cùng tham gia ca ngợi Chúa trong một kỳ tĩnh tâm Thánh Linh. Nay tôi biết là Đức Thánh Cha cũng rất yêu mến các nhóm Thánh Linh và từng là tuyên úy của Thánh LInh ở nước của Ngài.

 

ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐÓN TIẾP CHÚA

ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐÓN TIẾP CHÚA

joseph angel

Ngày 17 tháng 12 vừa qua, ta đã đọc bài Phúc Âm nói về gia phả Đức Giêsu, trong đó Chúa Giêsu sinh bởi dòng dõi vua Đavít.  Hôm nay, Phúc Âm lại trình bày cho ta một gốc tích khác của Người: Chúa Giêsu sinh ra bởi Đức Maria do quyền năng của Chúa Thánh Thần.  Phải chăng thánh sử Matthêu mâu thuẫn khi đưa ra hai gốc tích khác nhau như thế?

Thánh sử Matthêu không mâu thuẫn, nhưng khi trình bày cho ta hai gốc tích khác nhau của Chúa Giêsu, thánh sử có một dụng ý thần học.  Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nên việc thụ thai phải do quyền năng của Chúa Thánh Thần.  Nhưng Chúa Giêsu cũng là người nên phải sinh ra bởi một con người. Thiên Chúa ban Con Một cho loài người.  Đức Maria đã đại diện loài người lãnh nhận.  Nhưng quyền năng Chúa Thánh Thần tác động trên Đức Maria chỉ diễn ra trong riêng tư, âm thầm.  Chính thánh Giuse đưa Chúa Giêsu ra công khai khi nhận Ngài vào dòng tộc Đavít.  Qua trung gian của thánh Giuse, Chúa Giêsu đã chính thức gia nhập gia đình nhân loại, trong một đất nước, trong một dân tộc, trong một dòng họ.  Tên tuổi của Người được ghi trong lịch sử của dân tộc, của dòng họ, của gia đình. Vận mệnh của Người gắn chặt với dân tộc, dòng họ, gia đình ấy.  Người thực là Emmanuel, là “Thiên Chúa ở với chúng ta”.

Nhờ đâu mà thánh Giuse và Đức Maria được diễm phúc là những người đầu tiên, đại diện nhân loại tiếp đón Đấng Cứu Thế.  Qua bài Phúc Âm Truyền Tin và bài Phúc Âm hôm nay, ta thấy thánh Giuse và Đức Maria có những đặc điểm sau đây.

1) Các Ngài có tâm hồn khiêm nhường sâu xa.

Đức Maria là một thiếu nữ có tâm hồn khiêm nhường.  Từ nhiều thế kỷ qua, lời sấm về Đấng Cứu Thế vẫn được truyền tụng trong dân Do Thái.  Thiếu nữ nào cũng mong được làm mẹ Đấng Cứu Thế.  Đó là một hạnh phúc, một vinh dự không chỉ cho cá nhân mà còn cho cả gia đình, cho dòng họ, cho đất nước.  Vậy mà khi nghe thiên thần loan báo tin làm mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria chỉ khiêm tốn thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền.” Khi bà Êlisabeth ca tụng Ngài, Đức Maria đã đáp lại: “Vì Chúa đã đoái thương phận tôi tớ thấp hèn.  Người nâng cao những người bé nhỏ.” Đức Maria nhận ra sự thật là: Nếu Ngài được ơn Chúa ban thì không phải vì công trạng của mình, nhưng do lòng từ bi thương xót của Chúa.  Vì khiêm tốn, nên Đức Maria âm thầm ghi nhớ tất cả mọi việc Chúa làm, mọi lời Chúa phán.  Ghi nhớ để suy gẫm trong lòng.  Càng suy gẫm lại càng thêm khiêm nhường.  Càng khiêm nhường lại càng kín đáo.

Thánh Giuse cũng có tâm hồn khiêm nhường không kém.  Đọc Phúc Âm, ta có cảm tưởng là thánh Giuse luôn tự rút lui vào trong bóng tối.  Ngài luôn sống âm thầm khiêm tốn trong công việc tầm thường của thợ thuyền.  Sự khiêm tốn ấy đặc biệt thể hiện trong bài Phúc Âm hôm nay.  Khi biết tin Đức Mẹ đang mang thai Đấng Cứu Thế, thánh Giuse đã âm thầm bỏ đi.  Ngài không dám tự cho mình cái vinh dự được làm cha Đấng Cứu Thế.  Ngài không dám chiếm hữu quyền làm cha của Thiên Chúa. Ngài không dám mạo nhận công việc của Chúa Thánh Linh.  Ngài là người công chính vì khiêm tốn sống đúng thân phận của mình.  Ngài là người công chính vì trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa.

2) Các Ngài mau mắn vâng lời Thiên Chúa.

Các Ngài có chương trình cho đời sống.  Chương trình ấy được suy nghĩ kỹ lưỡng vì được thực hành nghiêm chỉnh.  Đức Maria khấn giữ mình đồng trinh.  Thánh Giuse muốn sống âm thầm trong bóng tối.  Nhưng khi nghe biết thánh ý Thiên Chúa các Ngài đã mau mắn xin vâng, bỏ dở chương trình riêng tư, chuyển hướng cuộc đời để thi hành thánh ý Thiên Chúa.  Đức Maria đã thưa “xin vâng” bất chấp những đau khổ, khó khăn đang chờ đón.  Thánh Giuse đã mau mắn vâng lời dù thánh ý Thiên Chúa chỉ mơ hồ giữa bóng đêm dày đặc, trong một giấc mộng lãng đãng mơ hồ.

Vì Chúa, các Ngài đã từ bỏ ý riêng mình.  Vì Chúa, các Ngài đã thay đổi toàn bộ đời sống.  Thay đổi quyết liệt.  Từ bỏ dứt khoát.  Vâng lời mau mắn.

Thái độ của các Ngài rất gần với thái độ của Chúa Giêsu.  Chúa Giêsu xuống trần trong một thái độ tự hạ mình thẳm sâu.  Dù là Thiên Chúa, Người đã không đòi cho mình quyền được ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã tự hạ làm một người bé nhỏ nghèo hèn.  Người luôn vâng lời Đức Chúa Cha, vâng lời cho đến chết trên thập giá.

Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu.  Giống nhau thì tìm đến nhau.  Chúa Giêsu xuống trần trong một thái độ khiêm hạ và vâng phục thánh ý Chúa Cha đã tìm được nơi cư trú tâm đắc nơi Đức Maria và thánh Giuse, hai tâm hồn khiêm nhường và tuyệt đối vâng lời.

Lạy Chúa Giêsu bé nhỏ, bây giờ thì con đã hiểu biết phải dọn một máng cỏ như thế nào cho Chúa. Chúa muốn con khoét một hang sâu khiêm nhường trong lòng con, trải trên đó những sợi cỏ vâng lời mau mắn.  Như thế con sẽ được hạnh phúc đón tiếp Chúa, Đấng rất khiêm nhường và rất vâng lời. Amen!

TGM Ngô Quang Kiệt

Đức cha JEAN CASSAIGNE (1895 – 1973)

Chân dung linh mục Việt Nam: Đức cha Jean Cassaigne

Đức cha JEAN CASSAIGNE (1895 – 1973)

Vị tông đồ truyền giáo cho anh chị em dân tộc Kơho

và sáng lập Trại phong Di Linh

Ông tổ của công cuộc truyền giáo cho người dân tộc

Trong bản tường trình năm 1920, Đức cha Victor Quinton Giám mục Giáo phận Sài Gòn đã nói đến ý định truyền giáo cho người dân tộc trên cao nguyên Djiring – Langbiang. Nhưng công cuộc truyền giáo này chỉ thực sự bắt đầu khi Đức cha Dumortier đặt cha Jean Cassaigne, một linh mục thuộc Hội Thừa sai Paris đến Di Linh năm 1927. Đức cha Dumortier viết trong bản tường trình năm 1927 như sau:

“Chúa Quan Phòng đã sắp đặt cho tôi một vị tông đồ như ý để khởi sự công cuộc truyền giáo cho người dân tộc. Tôi thấy cha Cassaigne được chuẩn bị tốt để chịu được gian khổ thiếu thốn. Vừa khi biết chương trình truyền giáo của tôi, cha Cassaigne đã tình nguyện và bày tỏ niềm vui khôn tả khi nghe tôi công bố việc bổ nhiệm ngài vào công cuộc này”.

Thứ tư ngày 20-10-1926, cha Cassaigne lên đường đến thí điểm truyền giáo Di Linh. Ngài đi từ Sài Gòn đến Phan Thiết, rồi từ Ma Lâm lên cao nguyên Di Linh. Nhưng gặp mưa bão càn quét vùng cao nguyên làm con đường từ Ma Lâm lên Di Linh hư hại nặng cho nên ngài phải trở về Sài Gòn.

Cho đến ngày 24-1-1927, cha Cassaigne mới có thể từ Đà Lạt chính thức đến nhận thí điểm truyền giáo Di Linh. Toà Giám mục Sài Gòn đã chuẩn bị cho ngài một căn nhà mua lại của ông Ngô Châu Liên để làm cơ sở lập thí điểm truyền giáo.

Ngay trong buổi chiều đầu tiên đến vùng đất Di Linh, cha Cassaigne đã nhìn thấy những người dân tộc lặng lẽ nghi ngại đi ngang qua nhà ngài. Ngài đã nhìn thấy những anh chị em dân tộc được trao phó cho ngài, cả một cánh đồng truyền giáo rộng lớn đang chờ đợi ngài. Để có thể gặp gỡ những người dân tộc rụt rè nhút nhát trước những người xa lạ, cha Cassaigne khởi sự bằng cách học nói tiếng của họ, một ngôn ngữ quá mới mẻ và không có chữ viết. Cha Cassaigne đã phải mày mò ký tự từng chữ trong ngôn ngữ của họ. Công việc này đã cuốn hút vị thừa sai trẻ đầy nhiệt huyết. Vì thế, vào tháng 12-1929 cha Cassaigne đã xuất bản Từ điển Pháp – Kơho – Việt, đây là cuốn từ điển đầu tiên hình thành chữ viết cho ngôn ngữ Kơho, một công trình rất đáng trân trọng vì góp phần giữ gìn bản sắc dân tộc và phát triển cho người dân tộc Kơho.

Tháng 12-1937 cha Cassaigne xuất bản cuốn: Phong tục tập quán người dân tộc Kơho, đây cũng là một công trình đầu tiên nghiên cứu về người Kơho, một công trình giúp cho cha Cassaigne có thể hiểu và gặp gỡ được với những người dân tộc và từ đó nói về Chúa cho họ. Năm 1938 cha cho xuất bản tập Giáo lý cho người Kơho.

Chính nhờ việc hiểu được ngôn ngữ và phong tục tập quán Kơho, cha Cassaigne đã thực sự trở thành người khai phá, trở thành Ông tổ của công cuộc truyền giáo cho người dân tộc, và cha đã thành công trong việc đem Ơn Cứu Độ đến cho rất nhiều người dân tộc thuộc các buôn làng trong miền Cao nguyên Di Linh – Langbiang.

Hoa trái của công cuộc truyền giáo là vào chiều ngày áp lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm, 7-12-1927, cha Cassaigne đã rửa tội cho bà Ka Trut, một bệnh nhân phong cùi thường xuyên nhận sự giúp đỡ của cha. Bà Maria Ka Trut qua đời ngày 20-12-1927 và được an táng ngày 22-12-1927 tại nghĩa trang của người dân tộc Di Linh.

Tin Mừng của Chúa đã được người dân tộc đón nhận vì họ cảm nghiệm được tình yêu Chúa qua những hành vi bác ái yêu thương của cha Cassaigne. Họ đã thực sự nhận ra cha Cassaigne yêu thương họ qua việc ngài yêu thương đón nhận và nuôi dưỡng những anh chị em phong cùi của họ, những con người bất hạnh vì gia đình và buôn làng sợ hãi bị lây nhiễm đã xua đuổi họ vào trong những khu rừng vắng để họ chết dần chết mòn trong nỗi đau thể xác và tinh thần.

Ngày 17-2-1929, cha Cassaigne đã quy tụ những người bệnh nhân phong cùi và thành lập Trại Phong Di Linh. Ngài đã xây dựng Trại Phong thành một gia đình ấm cúng che chở những bệnh nhân phong cùi bất hạnh để cho cuộc đời của họ được yên ủi sớm tối có nhau.

Giám mục phong cùi của người phong cùi

Nhưng cuộc sống của cha Cassaigne sắp thay đổi một cách bất ngờ. Ngày 20-2-1941, ngài nhận được một bức điện tín khiến ngài buồn bã. Thật là bất thường khi nhìn thấy ngài trong trạng thái này, đến nỗi người ta phải dò hỏi ngài! “Họ đã tấn công dồn dập bắt tôi làm giám mục”, ngài càu nhàu trả lời. Quả thật, Đức Giám mục Sài Gòn vừa qua đời năm vừa rồi và Tòa Thánh trong thời kỳ khó khăn này, tìm một người để kế vị và đã chọn vị linh mục của người phong cùi. Vị thừa sai phải rời bỏ Di Linh. Sự chia ly rất đau lòng cho cả hai phía: anh em Thượng và nhất là những bệnh nhân phong cùi mất người cha của họ; vị linh mục phải xa con cái ngài. Dù vậy vị thừa sai không do dự vâng lời Tòa Thánh với đức tin và lòng can trường. “Tôi là kẻ từng mơ thành một thừa sai tầm thường. Tôi, kẻ đã coi sự nghèo khó của mình là niềm hãnh diện và niềm vui, lại trở thành một hoàng tử của Giáo Hội. Nhưng, dù người ta sẽ thay y phục và chỗ ở của tôi, song chẳng ai thay được con người chất phác nơi tôi”. Khẩu hiệu “Bác Ái và Yêu Thương” do ngài chọn đã nói lên điều đó rất nhiều.

Ngày 24-6-1941, ngay từ 7 giờ sáng, chuông các nhà thờ Sài Gòn đồng loạt đổ vang, báo tin lễ tấn phong Đức cha Cassaigne. Nghi lễ diễn ra ở Nhà Thờ Chính Tòa. Đám đông ken dày: có những bạn bè đến từ khắp nơi… và những anh em Thượng đi thành đoàn đại diện. Các anh em Thượng bận y phục ngày lễ; họ làm khách tham dự thấy vui thích, mặc dù nhiều người An Nam tỏ ra khó chịu trước cảnh tượng ấy. Nghi lễ phụng vụ dài, quá dài đối với anh em Thượng. Họ liền rời chỗ để đi tham quan tháp chuông. Khi ra khỏi Nhà Thờ Chính Tòa và bị đám đông xô lấn khiến họ hoảng sợ, họ liền trèo lên cây cao để nhìn đám rước. Đức cha Cassaigne mỉm cười khi nhìn thấy họ.

Tân Giám mục bắt tay vào công việc. Đó là một con người đơn sơ. Lối vào Tòa Giám mục rộng mở tự do và bất cứ ai cũng có thể gõ cửa văn phòng của ngài. Các nhân chứng ngày nay vẫn còn nhớ lại đã thấy ngài đi xe đạp hoặc xe Vespa thăm các khu nghèo ở Sài Gòn. Ngài rong ruổi khắp địa phận rộng lớn của ngài.

Ngày 19-12-1954, vào dịp kỷ niệm thụ phong linh mục của ngài, Đức cha Cassaigne dâng Thánh Lễ Tạ Ơn. Nhưng trong khi cử hành Thánh Lễ, ngài thấy trên mặt da mình, chỗ phía trên cổ tay một chút, có một vết đỏ hồng màu rượu. Khi Thánh Lễ kết thúc, ngài lấy một cái kim châm vào chỗ ấy: hoàn toàn không cảm thấy đau! Ngài hiểu đó là bệnh phong cùi. “Linh mục dâng hiến tế Thánh Thể, cũng phải trở thành hy vật”, sau này ngài sẽ viết như thế. Công việc vất vả sáu tháng vừa qua đã làm cho các bộ phận cơ thể ngài vốn mệt mỏi, lại bị suy yếu, đến nỗi bệnh phong cùi nằm phục từ lâu, nay phát tác.

Đức cha Cassaigne giữ bí mật tin này, chỉ cho các bề trên của ngài biết. Thuốc điều trị do các bác sĩ cho, đã làm ngài suy kiệt. Sẽ phải mau chấm dứt thôi! Vết hồng lan rộng gấp đôi. Ngày 5-3-1955, ngài viết cho cha bề trên Hội Thừa sai Paris: “Tôi xin cha cho phép tôi nộp đơn từ chức sang Tòa Thánh và rút lui về Trại Phong Di Linh, bên cạnh những con cái mà tôi yêu thương nhất và Chúa quyền uy, với lòng nhân ái vô biên, đã cho tôi được nên giống như họ”.

Lời cầu xin của ngài được chấp thuận và Tòa Thánh bổ nhiệm một giám mục kế vị ngài, Đức cha Simon-Hòa Nguyễn Văn Hiền, được tấn phong trong Nhà Thờ Chính Tòa của ngài, ngày 30-11-1955. Ngày 2-12-1955, Đức cha Cassaigne trở về Di Linh.

Từ đây, Đức cha dành trọn cuộc đời còn lại để sống giữa những người con cái để âm thầm yêu thương và phục vụ Trại Phong Di Linh. Tháng 2-1973 Đức cha bị ngã gẫy xương bên đùi phải, và chính vì vết thương này mà ngài phải trải qua gần 8 tháng liệt giường. Bên giường bệnh, Đức cha nói với người nữ tu chăm sóc ngài và một số bệnh nhân thay phiên trực: “Suốt 47 năm dài (1926–1973), cha đã sống giữa các con, đã sống tại Việt Nam này và đã dâng hiến tất cả cho các con. Giờ đây cha không còn tiếc gì về sự dâng hiến toàn diện ấy. Việt Nam chính là quê hương thứ hai của cha, bởi vì Chúa muốn như vậy. Khi về với Chúa, cha vẫn ở với các con, các con đừng lo…”

Thứ bảy ngày 20-10-1973, Đức cha bắt đầu trở bệnh nặng với những cơn đau khiến phải phải thốt lên: “Tôi đau đớn lắm, tôi đau đớn quá”. Mười ngày trôi qua, vào lúc 10g00 đêm ngày 30-10-1973, Đức cha lãnh nhận bí tích Xức dầu lần cuối do cha sở họ Di Linh và rạng sáng hôm sau Đức cha đã được Chúa gọi về hồi 1g25. Đức cha được an táng bên nhà nguyện Trại Phong ngày 5-11-1973.

Chứng từ

Cha Phanxicô Darricau, một linh mục MEP, đã viết về sự kiện Đức cha Cassaigne trở lại Trại Phong Di Linh như sau: “Ngài đã về và đã được đón tiếp trọng hậu, tôn kính. Nhưng nhà chưa xây ngay được nên ngài đã đến ở chung với tôi tại Ka-la, cách Trại Phong hai cây số. Nhà xứ của tôi nhỏ, không cung cấp nổi cho ngài một căn phòng riêng. Ngài cũng không muốn lấy phòng của một đồng nghiệp. Chúng tôi lấy tấm màn ngăn phòng ăn làm đôi, một bên là giường nhỏ của ngài, một bên là cái bàn ăn. … Suốt trong sáu tháng, chúng tôi có niềm vui được sống chung với nhau. Sau đó ngài tới sống tại căn nhà dành riêng cho ngài ở Trại Phong. Nhưng trưa nào ngài cũng về Ka-la dùng bữa với tôi, khẩu phần có khá hơn trong trại. … Bao nhiêu sức lực còn lại ngài dành để phục vụ Trại Phong. Sức ngài giảm nhiều so với trước kia, do những đau đớn của căn bệnh…”

Cha Christian Grison, người quản nhiệm cuối cùng của Trung tâm Thượng Di Linh (từ 1965 đến 1975), người đã gần gũi với Đức cha Cassaigne trong mười năm cuối cùng của ngài tại Trại Phong Di Linh, đã viết về Vị Tông đồ người phong cùi như sau: “Tôi được phúc sống mười năm gần Đức cha Cassaigne, vì thời gian đó tôi phụ trách xứ đạo Thượng tại Di Linh. Tôi đã chứng kiến tình cảm ưu ái mà ngài khơi dậy khi ngài trở nên nhỏ bé với những kẻ nhỏ bé, trở nên phong cùi với những người phong cùi. Sự mến phục người ta dành cho ngài đó, không bao giờ ngài sử dụng vì lợi ích riêng của mình; tất cả được hướng về sự cứu trợ cho người phong cùi. Mối quan tâm duy nhất của ngài, tôi có thể nói là nỗi ám ảnh đối với ngài cho đến khi ngài chết, đó là tìm nguồn tài trợ cho Trại Phong…”

Ngày 26-7-2007, bà Maria Nguyễn Thị Lệ, sinh năm 1938 tại Bắc Ninh đã đến viếng mộ Đức cha và để lại chứng từ: “Tôi sinh sống tại khu phố III (ấp Tân Xuân) thị trấn Di Linh từ năm 1975 đến 1983. Tôi bị bệnh thấp khớp và đặc biệt là bị đau buốt dây thần kinh tọa. Một bác sĩ cho biết bệnh tôi rất khó chữa, nhưng tôi cũng kiên trì chịu đựng và chỉ uống một số thuốc đau nhức thông thường nên chỉ giảm đau chốc lát, vì nghèo không có tiền đi bệnh viện. Năm 1983 tôi bị những cơn đau dữ dội, lết đi không nổi, đau đớn đến độ chán nản thất vọng vì bệnh tật, đau khổ vì hoàn cảnh nghèo khổ cơ cực, bữa no bữa đói… Dầu vậy, tôi không bỏ Chúa, cố gắng bước đi chậm chạp, đau buốt với một bàn chân bị sưng tấy nặng nề. Khoảng tháng 6 năm 1983, sau giờ chầu Thánh Thể ban chiều, tôi đến trước tượng Đức cha Cassaigne ở cuối nhà thờ vừa khóc vừa than vì sự đau đớn, nghèo nàn của mình và tôi thưa với Đức cha: Cha ơi, thương con, kẻo con chết vì con đau đớn quá, con nghèo khổ chẳng có tiền chữa bệnh, con chỉ muốn chết cho yên, con xin Đức cha cầu xin Chúa và Đức Mẹ cất bệnh đau đớn cho con, nếu đẹp lòng Chúa và Đức Mẹ; còn nếu không, thì xin Đức cha thêm sức cho con để con chịu đựng cơn bệnh này cho nên. Từ từ, ngày qua ngày, con cảm thấy sự đau buốt giảm dần, và sau một thời gian con khỏi bệnh hẳn, đi đứng bình thường. Cuối năm 1983 con bỏ Di Linh về Đắc Nông với gia đình người con để làm ăn, cho đến nay là được 24 năm con lành bệnh. Con xin tạ ơn Chúa, tạ ơn Đức cha Cassaigne. Con, Maria Nguyễn Thị Lệ”.

Một chứng từ khác do bác sĩ K’Đỉu chia sẻ bên phần mộ Đức cha Cassaigne trong đêm canh thức dịp lễ Giỗ năm 2007: “Dân gian thường nói: Không có mợ, chợ cũng đông! Nhưng với Trại Phong chúng con nói chung và bản thân con nói riêng, trải qua kinh nghiệm của cuộc sống, con đã nhận ra rằng: nếu không có sự hiện diện của Đức cha Jean Cassaigne thì có lẽ không có Trại Phong Di Linh và chắc chắn cũng không có con trên cuộc đời này. Nhưng nhờ tình yêu thương của Đức cha, ba mẹ con đã can đảm sống với căn bệnh đáng sợ mà còn được hạnh phúc vì được làm con Chúa.

Khi Đức cha ra đi về với Chúa, thì con mới được 5 tuổi, với thời gian đó và tuổi thơ, con chưa biết Đức cha được bao nhiêu. Nhưng càng ngày qua các biến cố của cuộc đời, con đã nhận ra từng bước bàn tay yêu thương quan phòng của Chúa dìu dắt chúng con, như lời Đức cha đã hứa: Trên thiên đàng, cha sẽ biết được nhiều, biết rõ hơn về nhu cầu của chúng con; cha sẽ cầu nguyện đắc lực và nhiều hơn gấp bội cho chúng con.

Với ngọn đèn rực sáng đức tin và tình bác ái mà Đức cha đã thắp sáng bằng sự dâng hiến tất cả cho Chúa và cho chúng con, và với lời cầu bầu của Đức cha bên cạnh Chúa mà con đã nhận được biết bao hồng ân trong cuộc sống: được dạy dỗ nuôi nấng, được yêu thương chăm sóc, và được học hành như bao người khác, có thể nói còn hơn nhiều người khác nữa. Nhờ tình thương và hồng ân của Đức cha, nhờ những người đã tiếp nối vòng tay yêu thương của Đức cha và nhờ những ân nhân xa gần mà ngày hôm nay, có thể nói được, là con đã thành đạt trong cuộc sống, có chỗ đứng trong xã hội: con đã là bác sĩ chuyên khoa ngoại, điều vượt ra ngoài mơ ước của con.

Đây là cảm nghiệm của riêng con, xin được chia sẻ như một chứng từ về tình yêu thương mà Đức cha cố dành cho chúng con”.

GP Đà Lạt

xem thêm: VỊ GIÁM MỤC CỦA NGƯỜI PHONG CÙI

ĐỨC CHA JEAN CASSAIGNE : “ÔNG CỐ” GIÁM MỤC CÙI

Cha Của Những Người Cùi Di Linh

Cha Của Những Người Cùi Di Linh

Lòng nhân ái và gương hy sinh của Đức Cha Jean Cassaigne chăm sóc những bệnh nhân bị phong cùi tại Trại Cùi Di Linh, Việt Nam.

“Có đau mới hiểu người đau và biết thương họ nhiều hơn”.

Khi Giám Mục Jean Cassaigne từ trần tại Di Linh, Trung Tưóng Dương Văn Minh và Trung Tướng Nguyễn Khánh , đương kim Quốc Trưởng và Thủ Tướng VNCH  dự lễ cầu hồn Đức Cha tại Vương Cung Thánh Đường Saigon và truy tặng Đệ Ngủ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương cho vị Đức Cha đáng kính này.

GIÁM MỤC JEAN CASSAIGNE
MỘT NGƯỜI PHÁP MANG TRÁI TIM VIỆT

Năm 1914, chiến tranh Pháp-Đức bùng nổ, Jean phải đầu quân tham chiến, đến năm 1918 được thưởng huy chương Anh Dũng Bội Tinh và từ chối mọi đề nghị hôn nhân. Năm 1920, Jean từ bỏ mọi vướng mắc thế sự, dâng hiến cuộc đời tại Chủng Viện Thừa Sai Hải Ngoại Paris ( Missionnaires Étrangères de Paris – MEP ) để nối gót các Thừa Sai đã ra đi vì Chúa. Năm 1925, ông thụ phong Linh Mục. Năm 1926, khi có tên trên danh sách 8 vị Thừa Sai được cử đi các nước Viễn Đông: Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản, Lào, Linh Mục Cassaigne đã chọn Việt Nam, đất nước thân yêu của Giám Mục Đắc Lộ ( Alexandre de Rhodes ) để dừng chân.
Theo tài liệu của bác sĩ Gerard Chapuis, một người Pháp gốc Việt ngày 5.5.1926, tàu cập bến Sàigòn, cha Cassaigne được dưa về Cái Mơn học tiếng Việt, chọn tên tiếng Việt là Gioan Sanh. Sau đó, ông được Giám Mục Địa Phận Sàigòn Dumortier cử đến vùng rừng núi Di Linh, noi có nhiều người K’Ho. Lúc này bệnh phong đang hoành hành nơi đây. Một lần, cha Gioan đi tìm thăm bệnh nhân, gặp rất nhiều người bệnh nặng, thân xác héo tàn; từ đó ông quyết tâm dựng một mái nhà để chăm sóc những người bất hạnh này. Ông kêu gọi các bệnh nhân từ trong rừng đến đây cùng chung sống. Với sự hỗ trợ của nhiều người quen, ông mở được một nhà phát thuốc, băng bó, chữa trị cho các bệnh nhân. Lần ấy, ông cũng bị bệnh sốt rét rừng hành hạ, phải về Pháp chữa trị trong 9 tháng.

Ngày trở lại Di Linh, công việc ngày càng nhiều, làng phong thêm con cháu, ông kêu gọi các Nữ Tu Nữ Tử Bác Ái Vinh Sơn giúp ông chia sẻ số phận bạc bẽo của các bệnh nhân phong và ba Nữ Tu đã hết lòng cùng ông chăm sóc bệnh nhân. Ông thường khuyên các Nữ Tu trẻ mới tiếp xúc với bệnh nhân “Họ quá đau khổ, đừng làm hay có cử chỉ gì khiến họ đau khổ hay buồn tủi thêm. Họ là những người đáng quý, đáng thương và tha thứ, phải băng bó cả hai vết thương cùng một lúc, thể xác và tinh thần”.

Ông kể lại rằng, ngày đầu mới băng vết thương cho người cùi, vì chưa quen nên ông đã suýt ói mửa. Ông đã chạy vội vào lùm cây bên cạnh, nói là đi đại tiện. Ói xong lau mặt, ông trở ra tiếp tục băng bó. Làm như vậy để cho người cùi bớt tủi hổ vì thấy mình dơ bẩn. Ông rất mực thương yêu bệnh nhân, người giàu có hay nghèo đều đối xử như nhau, không quở mắng hay nặng lời với bất cứ bệnh nhân nào.
Một hôm vào dịp Tết, có hai anh say rượu đánh nhau, ông đến can, nhưng bị một anh xô té. Ông đứng dậy, cười tươi vỗ vai anh ta không chút giận hờn. Sợ rằng các Nữ Tu biết sẽ quở trách anh ta, ông đã giữ kín chuyện này. Sau này, có người kể lại cho một Nữ Tu. Sơ đã hỏi ông và ông trả lời: “Đâu có gì đáng trách với người bệnh hoạn tật nguyền. Con đừng để ý nữa. Cha muốn vậy. Tội cho cả cha lẫn họ.”
Lần khác, một bệnh nhân bị một Nữ Tu quở trách nặng lời vì đã phạm lỗi. Cha Cassaigne nghe thấy, liền lên tiếng trách sơ trước mặt bệnh nhân. Sau đó ông đi tìm xin lỗi sơ và nói: “Hôm qua cha trách con, cốt ý để cho bệnh nhân đừng tủi, mặc dầu con đã làm phải. Cha đến xin con đừng buồn. Chúng ta không thể làm Chúa Giêsu buồn thì cũng đừng làm cho người cùi buồn. Vì họ là con Chúa, là hình ảnh Chúa Cứu Thế đau khổ trên thập giá”.

Ba Nữ Tu người Việt tận tụy, trở thành cánh tay đắc lực giúp ông điều hành làng phong là các sơ Céleste Joséphine và Angélique. Cha Cassaigne hay nói với các Nữ Tu: “Cha là người Pháp, nhưng có trái tim Việt Nam”.

Ngày 24.12.1945, cha Cassaigne đột ngột được tin Tòa Thánh Roma bổ nhiệm ông làm Giám Mục Giáo Phận Sàigòn nên đành phải từ biệt những con người bệnh tật và mảnh đất ông yêu thương nhất. Thế rồi, như một định mệnh, ngày 26.3.1943. Ông đọc phiếu kết quả xét nghiệm xác nhận ông bị nhiễm vi trùng Hansen ( bệnh phong ). Ông cười nói: “Đây là quà mừng lễ quan thầy của tôi”. Ông nói với những người đang lo lắng ở xung quanh: “Không phải bị mà là được về Di Linh với đoàn con ! Có đau mới hiểu người đau và biết thương họ nhiều hơn”.
Sau khi gửi thư cho Đức Khâm Sứ Tòa Thánh tại Việt Nam và Tổng Quyền Hội Thừa Sai Paris xin từ chức trở về Di Linh, đến năm 1954, cha Cassaigne được toại nguyện “hồi hương” về Di Linh. Năm 1970, các bệnh cũ của ông trở nặng, sốt rét, cột sống bị gặm nhấm và đau dạ dày. Cuối tháng 10 năm 1971, xương dùi của ông bị gãy và ông không rời khỏi giường được nữa. Nhiều người muốn đưa ông về Pháp chữa trị, nhưng ông đã từ chối: “Tôi là người Pháp nhưng trái tim tôi là của người Việt Nam. Tôi muốn sống trong đau khổ và chết nơi đây. Việt Nam là quê hương của tôi”. Cha Cassaigne qua đời vào ngày 30 tháng 10 năm 1973. Ông được an táng cạnh Nhà Thờ, gần tháp chuông, giữa đàn con đáng thương của mình, đúng theo nguyện vọng sâu xa của ông.

Trong quyển sách “Lạc Quan Trên Miền Thượng” viết về cha Cassaigne, cha Giuse Phùng Thanh Quang đã kể lại chi tiết cuộc đời và công việc phục vụ của ông. Trong phần kết, cha Giuse đã viết: “Những ai được may mắn sống gần gũi với Đức Cha đều thường được dịp nghe Ngài nói: “Đời tôi chỉ có 3 ước nguyện: Tôi ao ước được đau khổ vì Chúa và vì người anh em – Tôi ao ước được đau khổ như vậy lâu dài, suốt đời và được vững lòng chịu đựng – Tôi ao ước được an nghỉ giữa bầy con cái phong cùi của tôi”.

Bác sĩ Gérard Chapuis cho biết thêm: từ năm 1972, ở cuối Nhà Thờ Đức Mẹ Fatima Bình Triệu, Người ta thấy có bức tượng một Giám Mục tay trái cầm Thánh Giá, tay phải ôm ngang vai một người cùi, dưới chân trái có một em bé khỏe mạnh, cả 3 đầu ngước mắt lên trời cao. Dưới bệ tượng có ghi: Đức Cha Gioan Cassaigne. Ngày nay, bức tượng không còn nữa, nhưng trên bức tường ngoài hiên của Nhà Thờ, có gắn nhiều bảng ghi: “Tạ ơn Đức Giám Mục Gioan Sanh”. Điều đó chứng tỏ Gioan Cassaigne Sanh vẫn còn sống mãi trong lòng người Việt.
Nếu một hòn đảo xa xôi ngàn trùng như Molokai đã hãnh diện vì có cha Damien Tông Đồ Người Hủi thì Giáo Dân nước Việt lại càng hãnh diện hơn vì có một Đức Cha Gioan Sanh phong cùi, tôi tớ của người hủi.

Trên thực tế, từ ngày 11.4.1929, làng phong được chính thức công nhận và được trợ cấp. Ngay từ những ngày đầu, số người bị bệnh phong tập trưng đã lên đến 21 người. Đến thàng 4 năm 1931, làng có một nhà nguyện nhỏ làm nơi cầu nguyện và Thánh Lễ đầu tiên được cử hành ngày 15.3.1936. Sang năm sau, làng được dời lên đồi (chỗ hiện nay) có kỹ sư người Pháp vẽ kiểu cho cả Nhà Thờ và tháp chuông. Ngày 22.5.1952, nhằm lễ Thăng Thiên, khánh thành làng phong mới, ngày càng nhiều, làng phong thêm con cháu, ông kêu gọi các Nữ Tu Nữ Tử Bác Ái Vinh Sơn giúp ông chia sẻ số phận bạc bẽo của các bệnh nhân phong và ba Nữ Tu đã hết lòng cùng ông chăm sóc bệnh nhân. Ông thường khuyên các Nữ Tu trẻ mới tiếp xúc với bệnh nhân “Họ quá đau khổ, đừng làm hay có cử chỉ gì khiến họ đau khổ hay buồn tủi thêm. Họ là những người đáng quý, đáng thương và tha thứ, phải băng bó cả hai vết thương cùng một lúc, thể xác và tinh thần”.

Trần trung Sáng
Kiến Thức Ngày Nay

CHÚA ĐÃ SINH RA

CHÚA ĐÃ SINH RA

Lm. Vĩnh Sang, dcct.

Ngày lễ mừng Chúa Giáng Sinh đã gần kề, khắp nơi trang hoàng hoa đèn rực rỡ, phố phường vui nhộn, các nhà thờ tưng bừng với những lễ hội, những chương trình mừng lễ Giáng Sinh, các hội đoàn công giáo nhộn nhịp với các chương trình sinh hoạt và vui chơi. Đó là hình ảnh ở các thành phố lớn, nơi có nhiều phương tiện và tài chánh để thực hiện. Còn các vùng thôn quê và vùng sâu vùng xa thì sao ?

Năm trước (2012), tôi lên vùng cao nguyên phía tây đất nước, chia sẻ mục vụ với anh em tôi vào dịp Giáng Sinh. 12g00 trưa 24/12, ba anh em linh mục chúng tôi có bữa cơm trưa với một vài em dân tộc sống chung nhà, thực đơn là đĩa rau rừng luộc, chấm với nước mắm từ 1 cái đầu con cá kho đi kho lại một tuần rồi. Nghỉ trưa xong, một em người dân tôc đưa tôi lên đường lúc 16g00, bắt đầu hành trình dâng lễ đêm cho 3 điểm, rồi sẽ đi ngược trở lại dâng lễ sáng cũng ba điểm đó.

Ba điểm dâng lễ, một điểm có ngôi nhà nguyện nhỏ bằng tôn vách gỗ, một điểm là sân nhà một gia đình có đạo, sân không mái, một điểm ở giữa môt khu đất trống trong làng, không điểm nào có nhà vệ sinh, không điểm nào có tòa giải tội. Đứng ở gốc cây giải tội, rồi tế nhị đi tìm gốc cây khác để đi vệ sinh! Kể từ bữa cơm 12g00 ngày 24/12, sáng hôm sau 25/12 trở về đến Trung tâm lúc 9g00, bếp hoang lạnh vì các anh em kia đi dâng lễ ở các điểm khác xa hơn vẫn chưa về.

Chúng ta chỉ biết một vùng nhỏ, những vùng khác thì sao ? Không khác tí nào, có khi còn nghèo hơn, khó khăn hơn. Là người Kitô hữu chúng ta sẽ nghĩ gì trước sư chênh lệch lớn lao ấy, chúng ta có yên ổn để lên tiếng quảng bá về một máng cỏ trong thơ văn, trong nhạc kịch, trong ánh đèn muôn màu muôn sắc ? Ngày lễ Giáng Sinh năm nay Đức Giáo Hoàng Phanxico sẽ đi đâu, thăm ai, và dâng lễ ở đâu? Tuần Thánh vừa rồi ngài vào nhà tù thăm tù nhân trẻ, rửa chân cho tù nhân trẻ, thậm chí hôn những bàn chân đó một cách cung kính. Ngay trong Giáo Hội chúng ta không được phép để sự giàu nghèo phân cách chúng ta quá đáng như vậy. Câu chuyện người giàu có và ông Lazaro nghèo khổ vẫn là một câu chuyên nhắc nhớ chúng ta về một sự công bằng Chúa mong muốn. Giàu có không là cái tội, tội ở chỗ sống giàu có mà quên người nghèo khó bên mình. Chúa là Đấng nhân từ vô cùng nhưng Chúa cũng là Đấng công bằng vô cùng.

Sẽ là bài thánh ca tuyệt hảo, sẽ là một bài giảng sâu sắc, sẽ là một hang đá ấm cúng, sẽ là một cộng đoàn Kitô hữu đầy ánh sáng, sẽ là một chứng từ mặn muối nồng men khi chúng ta, kẻ đang sinh sống ở những thành phố giàu có dư đầy phương tiện, tìm đến chia sẻ với những nơi nghèo khổ, lạnh lẽo những ngày mùa đông rét mướt. Hãy bớt đi những ánh đèn giăng giăng đầy phố, để gởi đến những căn lều tối tăm tồi tàn một vài anh lửa đêm đông. Hãy bớt đi những đĩa đồ ăn thừa bứa, để gởi đến những mâm cơm chỉ có ngô (bắp) muối với rau rừng. Tôi đã có dịp gặp các anh chị em “dân oan” ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng – Hà Nội, mời anh em một bữa cơm có thịt, họ đã bị khó chịu ngay sau đó vì không quen ăn thịt, mấy ngày sau họ chỉ xin ăn cơm với muối vì đã quen như vậy, có cơm là quí rồi vì quanh năm chỉ có ngô (bắp) mà thôi.

Người ta đã biến ngày lễ Giáng Sinh trở thành ngày hội vui chơi của xã hội, người có lòng tin phải biết dừng lại để không bị cuốn vào làn sóng tục hóa như vậy. Sự thánh thiêng của Mầu Nhiệm Con Chúa làm người bị loại mất, còn lại chỉ là sự xa hoa, hào nhoáng của thế gian. Máng cỏ là máng cỏ thật chứ không phải là biệt thự giàu sang, Thiên Chúa làm người thật và làm người trong cảnh khó nghèo, chia cái nghèo với nhân loại. Chúng ta phải làm sao để thông truyền Tin Mừng một cách trung thực.

Lm. Vĩnh Sang, dcct.

20/12/2013

Tâm thơ Mùa Giáng Sinh 2013 và Năm Mới 2014

Tâm thơ Mùa Giáng Sinh 2013 và Năm Mới 2014

Kính chúc quý Độc giả và Thân Hữu Website  “Kẻ Đi Tìm”

tràn đầy Hồng Ân Thiên Chúa, Năm Mới nhiều Sức Khoẻ và luôn Bình An.

Cách đây khoảng hai tuần Linh mục Trần Thiên Ân giảng tĩnh tâm tại Giáo Xứ

Đức Kitô Ngôi Lời Nhập Thể đã có nói ” Mỗi sáng khi chúng ta thức dậy, thấy đôi chân mình còn bước xuống giường được. Chính đó là Hồng Ân vì biết mình vẫn còn sống.”

Xin gởi đến các bạn hai câu thơ cũ ai cũng biết, nhưng cũng xin được  gởi lại một lần nữa  gọi là chia sẻ tâm tình Khen ngợi, Chúc tụng và Tạ Ơn Thiên Chúa:

” Tạ Ơn Trời mỗi sáng mai thức dậy,

Cho Con còn ngày nữa để yêu thương.”

” Vì Tất Cả Là Hồng Ân”

BBT

 

Giáo Hoàng kêu gọi chấm dứt tình trạng vô gia cư trên thế giới

Giáo Hoàng kêu gọi chấm dứt tình trạng vô gia cư trên thế giới
Giáo Hoàng Phanxicô khi đến Quãng trường Thánh Phêrô, ngày 04/09/2013

Giáo Hoàng Phanxicô khi đến Quãng trường Thánh Phêrô, ngày 04/09/2013

Reuters

Trọng Thành

RFI

Hôm nay 22/12/2013, theo AFP, bốn ngày trước lễ Giáng sinh Noel, Giáo Hoàng Phanxicô kêu gọi chính quyền các quốc gia trên toàn thế giới và các cơ quan dịch vụ xã hội « nỗ lực tối đa để mỗi gia đình có được một nơi ở ».

Trước hàng chục ngàn tín đồ Công giáo tập hợp tại quảng trường thánh Phêrô (Roma), trong một cuộc nói chuyện ngắn từ một cửa sổ của Cung Giáo Hoàng, người đứng đầu Vatican bất ngờ có những câu nói ngoài bài diễn văn chính thức : « Tôi nhìn thấy đằng kia, có dòng chữ lớn (trên một biểu ngữ) : Những người nghèo không còn có thể chờ đợi được nữa !… ». Những lời nói của Giáo Hoàng được công chúng hoan hô nhiệt liệt.

Vị Giáo Hoàng người Achentina nhấn mạnh thực trạng hiện nay : « Có bao nhiêu gia đình không có nơi ở ! Hoặc là họ chưa bao giờ có, hoặc họ bị mất nhà vì bao nhiêu lý do khác nhau. Gia đình và nơi ở luôn đi cùng nhau ! Rất khó để gây dựng một gia đình khi không có chốn nương thân ». Ông kêu gọi các chính quyền và các cơ quan dịch vụ xã hội hết sức nỗ lực để « mọi gia đình đều có một mái nhà ».

Giáo Hoàng Phanxicô nổi tiếng là người rất chú ý đến các vấn đề xã hội. Vào cuối cuộc nói chuyện, Giáo Hoàng hướng đến một nhóm gồm khoảng hàng chục người Ý tập hợp tại quảng trường thánh Phêrô để phản đối chính sách thắt lưng buộc bụng. Ông kêu gọi họ tránh bạo động và tham gia « đóng góp tích cực » bằng con đường « đối thoại và bảo vệ các quyền lợi hợp pháp ». Những người biểu tình bao gồm nhiều thành phần rất khác nhau, từ nhà buôn, nông dân, đến những người lao động bấp bênh hay sinh viên…, đã tập hợp tại Roma để bày tỏ thái độ chống chính sách kinh tế khắc khổ của Thủ tướng Enrico Lette. Tuy nhiên, họ đã không thành công trong việc huy động đông đảo người tham gia.

Cuối cuộc nói chuyện ngắn nói trên, Giáo Hoàng Phanxicô chúc tất cả « một kỳ Noel hy vọng, công bình và bác ái ».

 

Dọn đường cho bản án Trương Duy Nhất

Dọn đường cho bản án Trương Duy Nhất

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2013-12-20

tdn-2-305.jpg

Blogger Truơng Duy Nhất, ảnh chụp trước đây.

Courtesy TDN Facebook

 

Hai tờ báo Công An Nhân Dân và Petrotimes cho đăng cùng lúc bài viết phân tích kết luận của cơ quan điều tra về các tội trạng của Trương Duy Nhất. Nếu đọc cả hai bài thì sẽ thấy rất rõ cả hai tờ báo đều nhận được thông tin từ một nguồn duy nhất đó là cơ quan điều tra của Bộ công an.

Những tội trạng mà cơ quan điều tra đưa ra để cáo buộc Trương Duy Nhất có thể gói gọn lại bốn điều: thứ nhất phê phán chính phủ, thứ hai thông tin sai lệch về hiện trạng kinh tế, xã hội của Việt Nam, thứ ba bác bỏ tính chất vinh quang của ngày 30 tháng 4, thứ tư đưa ra cái nhìn bi quan một chiều về hiện tình đất nước.

Những tội danh không thuyết phục

Bốn điều mà cơ quan điều tra đưa ra có lẽ chưa thể kết luận trước tòa án vì thiếu chứng cứ buộc tội. Phê phán chính phủ là một cái quyền của người dân miễn là hành động phê phán ấy dựa trên những sự thật chứng minh được. Hiến pháp không có điều khoản nào cấm sự phê phán ấy và vì vậy tòa án dựa vào chương điều nào để kết tội bị cáo?

“Khi ăn nhậu chúng tôi nói với nhau: thằng đó là đảng viên nhưng mà nó tốt! Tại sao chúng ta để quần chúng coi đảng viên là người xấu và người nào là người tốt thì đó là thực tế cá biệt?
-Ô. Nguyễn Văn Đực”

Về thông tin sai lệch hiện trạng kinh tế, xã hội Việt Nam xét trên bình diện pháp lý không cơ quan nào có quyền bắt giữ ông Trương Duy Nhất khi chưa có thông số kỹ thuật đáng tin cậy chứng minh ngược lại điều ông Nhất viết. Nếu cơ quan điều tra chỉ dựa vào số liệu của nhà nước cung cấp thì ông Nhất hoàn toàn có quyền đem các dữ liệu khác từ những định chế kinh tế, tài chánh của nước ngoài để chứng minh ngược lại, do đó giam giữ ông Nhất với tội danh này hoàn toàn là một hành động bất hợp pháp của chính phủ.

Chính quyền cũng không thể bắt giữ ông Trương Duy Nhất về quan điểm xem ngày 30 tháng 4 là ngày Quốc hận vì ngày chiến thắng này đã chia rẽ dân tộc nặng nề. Nếu giam giữ, cáo buộc hay kết án ông về quan điểm ấy thì có lẽ chính Thủ tướng Võ Văn Kiệt mới là người đáng bị xem xét hơn blogger Trương Duy Nhất. Khi Thủ tướng Kiệt nói câu “có triệu người vui thì cũng có triệu người buồn” trong ngày 30 tháng 4 thì chính vị thủ tướng này đã thừa nhận sự hận thù trong chính ngày ấy không nên tồn tại nữa. Trương Duy Nhất chỉ có thể bị kết án vì đã lập lại một câu nói nổi tiếng của ông Kiệt mà không xin giấy phép, thế thôi.

tdn-250.jpg

Bài viết phân tích kết luận của cơ quan điều tra về các tội trạng của Trương Duy Nhất trên báo Petrotimes hôm 15/12/2013. Screen capture.

Về cáo buộc ông Nhất đã có cái nhìn bi quan, một chiều hiện tình đất nước thì cơ quan điều tra đã đi quá xa khi tự tiện lập ra một tội danh hoàn toàn không có trong hiến pháp Việt Nam.

Trương Duy Nhất là một blogger, bài viết của ông có tính cách riêng tư, nếu nó được cộng đồng mạng chuyển tải hay chia sẻ nằm ngoài khả năng của ông. Hơn nữa công dân trong một nước nếu có than phiền, trách móc hoàn cảnh của xã hội họ đang sống thì cũng là chuyện bình thường vì từ những nhận xét ấy một chính quyền tốt sẽ có cơ hội điều chỉnh chính sách của mình cho phù hợp những yêu cầu của người dân.

Trong nhiều trường hợp, chính sự ca tụng, tô hồng những điều không có thật trong xã hội là viên thuôc độc bọc đường đối với những chế độ cộng sản trên thế giới từ những thập niên qua.

Ngôn ngữ dân gian trở thành trọng tội?

Riêng điều mà cơ quan điều tra kết tội ông đã dùng từ “Ông Thị trưởng” để ám chỉ một Trung ương Ủy viên cũng như câu nói đã trở thành truyển khẩu của dân gian: “thằng này đảng viên đấy nhưng hắn tốt, tốt lắm” thì có lẽ không tòa án nào có thể thụ lý tội danh châm biếm được.

Trong một cuộc họp doanh nhân với Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tại thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 7 vừa qua ông Nguyễn Văn Đực, Giám đốc công ty Bất động sản Đất Lành đã nói câu này:

“Ở ngoài dư luận người ta có câu chuyện vui rằng. Khi ăn nhậu chúng tôi nói với nhau: thằng đó là đảng viên nhưng mà nó tốt! Tại sao chúng ta để quần chúng coi đảng viên là người xấu và người nào là người tốt thì đó là thực tế cá biệt?”

“Cái điều 258 nó rất là mơ hồ, nó đã vi phạm, dẫm đạp lên điều 19 của Công ước quốc tế về Nhân quyền. Họ muốn dằn tiếng nói của phong trào tiếng nói tự do dân chủ trong nước.
-Ô. Trương Minh Đức”

Ông Đực chẳng những không bị bắt mà còn được tiếng là đã giúp cho Chủ Tịch nước biết thêm những gì mà dân chúng đang suy nghĩ về tư cách của đảng viên ngày nay.

Tất cả những lý lẽ cáo buộc vừa trình bày được gói gọn trong điều luật 258 để kết án nhà báo, blogger Trương Duy Nhất.

Nhà báo Trương Minh Đức, từng làm việc cho báo Tiền Phong, Pháp Luật và cũng là nạn nhân của điều 258 chia sẻ:

“Tôi cũng là nạn nhân của điều 258 trước đây, với bản án 5 năm tôi cũng chia sẻ với trường hợp của anh Trương Duy Nhất. Cùng một thời bị bắt với Trương Duy Nhất cũng có Phạm Viết Đào rồi Đinh Nhật Huy. Cái điều 258 nó rất là mơ hồ, nó đã vi phạm, dẫm đạp lên điều 19 của Công ước quốc tế về Nhân quyền. Họ muốn dằn tiếng nói của phong trào tiếng nói tự do dân chủ trong nước ở thời điểm đó. Nghị định 72 cấm đoán Internet, họ đưa vài người ra họ bắt dằn mặt tiếng nói dân chủ cũng như một cảnh báo.

Nói về tác nghiệp, báo chí khi đưa tin thì có tin đúng mà đôi khi cũng có tin sai lệch cũng có mình phải thừa nhận như vậy. Nhưng đối với những thông tin sai lệch thì nó phải có một tòa án để xét xử. Phải có bị cáo và phải có người bị hại thì mới gọi là họ vi phạm. Còn như khi mà họ xử tôi cũng vậy trong điều 258 thì tôi hỏi họ tôi là bị cáo còn ai la người bị hại thì họ không đưa ra được bằng chứng người bị hại là ai, rất là vô hình. Cái điều 258 chỉ đề bịt miệng tiếng nói của người làm báo thôi.”

Rò rỉ thông tin từ nội bộ?

Trước đây ít lâu nhà báo Phạm Chí Dũng từng công tác trong bộ máy an ninh suốt 16 năm cũng đã nếm trải điều 258 một thời gian nhưng nhìn vụ án Trương Duy Nhất với cái nhìn khác. Phạm Chí Dũng cho rằng Trương Duy Nhất bị bắt vì đã đưa thông tin nhạy cảm về đại hội đảng với vấn đề nhân sự.

Blogger Huỳnh Ngọc Chênh, cây viết của tờ Thanh Niên trong nhiều năm chia sẻ quan điểm này:

“Trước đây anh Phạm Chí Dũng có viết một bài nói rằng anh Trương Duy Nhất bị bắt xuất phát từ những nguồn tin, tức là anh Nhất đã nắm được những thông tin mà ở vị trí của anh ấy không thể nắm được phải do ai đó ở cấp rất cao rò rỉ thông tin. Tôi nghĩ rằng nhận xét đó của anh Phạm Chí Dũng là rất đúng. Hồi Hội nghị Trung ương đảng thì anh Nhất đưa ra nhiều thông tin rất là cập nhật, rất mau và cũng rất chính xác về chuyện bầu cử thay người vào Bộ chính trị. Tôi nghĩ có thể xuất phát từ chuyện đó người ta muốn biết ai cung cấp thông tin cho anh, theo suy nghĩ của tôi thì đó là lý do chính còn những điều nêu ra trong kết luận điều tra vừa rồi tôi thấy không có điểm nào thuyết phục được để mà cáo buộc ràng ảnh có tội được hết. Dĩ nhiên luật pháp Việt Nam mình dựa vào điều 258 thì rất chung chung và nó có thể bắt được mọi người vì vậy nếu đem điều 258 ra thì có thể cáo buộc anh Nhất tội này tội khác được.

Nghi vấn Trương Duy Nhất bị bắt vì đã rò rỉ nguồn tin tối mật dù sao cũng chỉ là nghi vấn vì nếu muốn kết án ông thì tội “tiết lộ bí mật nhà nước” đã có sẵn tại sao lại không áp dụng? Hay là Bộ chính trị sợ bứt dây động rừng có thể nổ ra hàng chục vụ Trương Duy Nhất khác?

Trước đây trong một lần phỏng vấn với người blogger nổi tiếng này chúng tôi được ông cho biết khi phải bỏ nghề làm báo để viết blog:

“Tất nhiên là có nhiều cái trăn trở chứ nhưng mà khi tôi quyết định có thể nói nhiều người không tin đâu. Tôi chuẩn bị điều này lâu lắm rồi vì vậy tôi rất nhẹ người chứ không có gì nặng nề lắm đâu. Quan điểm của tôi là thế này, tôi là người sinh ra với nghề cầm bút, nghề viết nên tôi muốn mình phải viết được điều gì cần phải viết.

Tôi có mấy chục năm làm báo rồi, có tới sáu thẻ nhà báo rồi. Tất nhiên khi nghỉ một cái nghề mà mình máu thịt với mình như thế thì cũng băn khoăn nhưng nặng nề thì không, bởi vì tôi chuẩn bị kỹ cho nó rồi. Tôi đã làm cho báo Công An Quảng Nam Đà Nẵng 8 năm. Tôi đi làm báo từ năm 1987 đến 31 tháng 12 năm 1994. Năm 1995 báo Đại Đoàn Kết mời tôi về làm phái viên thường trú tại miền Trung, từ đó đến nay chỉ hai tờ thôi.

Nhà báo, blogger Trương Duy Nhất dĩ nhiên biết sự nguy hiểm của mình phải gặp vì vậy sự chuẩn bị chu đáo nhất của ông trong trại giam là câu khẳng định trước nhân viên điều tra: không nhận bất cứ cáo buộc nào, có nghĩa là không chấp nhận một thỏa hiệp để mong được giảm án, tuy ông biết làm như vậy là chấp nhận mang thêm số ngày ngồi trong tù của ông trong thời gian tới.

 

Ý NGHĨA VIỆC GIÁNG SINH CỦA CHÚA GIÊSU

Ý NGHĨA VIỆC GIÁNG SINH CỦA CHÚA GIÊSU

(BÀI GIÁO LÝ CỦA ĐTC PHANXICÔ)

Tác giả: GLV. Phạm Xuân Khôi (chuyển ngữ)

“Thiên Chúa, qua Chúa Giêsu, đã liên hệ với loài người đến nỗi trở thành một người trong chúng ta, điều đó có nghĩa là bất cứ điều gì chúng ta làm cho anh chị em mình là chúng ta làm cho Ngưởi.”

Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý ĐTC Phanxicô ban hành ngày 18 tháng 12 năm 2013 trong buổi Triều Yết Chung được tổ chức tại Quảng Trường Thánh Phêrô.  Hôm nay nói về ý nghĩa của việc Chúa Giáng Sinh.

* * *

Anh chị em thân mến, chào anh chị em,

Cuộc gặp gỡ này diễn ra trong bầu không khí tinh thần của Mùa Vọng, được nên mãnh liệt hơn vì ở trong Tuần Cửu Nhật Giáng Sinh, chúng ta đang sống những ngày dẫn chúng ta đến Đại Lễ Giáng Sinh.  Vì vậy, hôm nay tôi muốn cùng anh chị em suy niệm về việc giáng sinh của Chúa Giêsu, ngày lễ của đức tin và đức cậy, là điều vượt quá sự bất ổn và bi quan.  Và đây là lý do cho niềm hy vọng của chúng ta: Thiên Chúa ở cùng chúng ta và Thiên Chúa vẫn còn tin tưởng chúng ta!  Nhưng chúng ta hãy suy nghĩ kỹ về điều này:  Thiên Chúa ở với chúng ta và Thiên Chúa vẫn tin tưởng chúng ta.  Thiên Chúa Cha này rất đại lượng!  Ngài đến để ở với loài người, lựa chọn Trái Đất như nơi cư ngụ của mình để được với loài người và để con người tìm thấy Ngài ở nơi mà họ sống những ngày tháng của mình trong niềm vui hay nỗi buồn.  Vì vậy, trần gian không còn chỉ là một “thung lũng nước mắt”, nhưng là nơi mà Thiên Chúa đã cắm lều, là nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa và loài người, là nơi của sự đoàn kết của Thiên Chúa với loài người.

Thiên Chúa muốn chia sẻ thân phận con người của chúng ta đến mức trở nên một với chúng ta trong con người của Chúa Giêsu, Đấng là Thiên Chúa thật và người thật.  Nhưng có một điều khác còn đáng ngạc nhiên hơn.  Sự hiện diện của Thiên Chúa giữa nhân loại đã không được thực hiện trong một thế giới lý tưởng, an bình, nhưng trong thế giới thật này, được đánh dấu bằng rất nhiều điều tốt và xấu, được đánh dấu bằng những chia rẽ, sự dữ, nghèo đói, áp bức và chiến tranh.  Người đã chọn để sống trong thực trạng của lịch sử của chúng ta, với tất cả gánh nặng của những giới hạn và những thảm trạng của nó.  Khi làm như thế Người đã chứng minh khuynh hướng thương xót vô hạn và đầy tình thương dành cho con người.  Người là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Chúa Giêsu là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.  Anh chị em có tin điều này không?  Chúng ta hãy tuyên xưng điều này: Chúa Giêsu là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta! Chúa Giêsu là Thiên Chúa luôn luôn ở với chúng ta và mãi mãi ở cùng chúng ta trong sự đau khổ và lo buồn của lịch sử.  Việc ra đời của Chúa Giêsu là một sự tỏ lộ rằng Thiên Chúa là tự mình “đứng về phía” loài người một lần mà thôi là đủ để cứu chúng ta, để nâng chúng ta lên từ bụi đất của những khốn khổ, những khó khăn và những tội lỗi của chúng ta.

Từ đó có “món quà” vĩ đại là Hài Nhi ở Bethlehem:  Người đem đến cho chúng ta năng lực tinh thần, một năng lực giúp chúng ta không bị chìm trong những công việc khổ cực của mình, trong tuyệt vọng của mình, trong những nỗi buồn của mình, bởi vì đó là một năng lực sưởi ấm và biến đổi tâm hồn.  Thực ra, việc ra đời của Chúa Giêsu mang đến cho chúng ta Tin Mừng là chúng ta được Thiên Chúa yêu thương vô cùng và cách riêng, và không những Thiên Chúa chỉ làm cho chúng ta biết tình yêu này,  mà Người còn ban nó và thông truyền nó cho chúng ta!

Từ việc vui mừng chiêm ngắm mầu nhiệm Con Thiên Chúa sinh ra cho chúng ta, chúng ta có thể lấy rút ra hai điều để suy nghĩ.

Điều thứ nhất là nếu trong ngày Lễ Giáng sinh, Thiên Chúa không tỏ mình ra là một Đấng ở trên cao và thống trị vũ trụ, nhưng là một Đấng tự hạ mình, ngự xuống đất, nhỏ bé và nghèo nàn, điều đó có nghĩa là để được giống như Người, chúng ta không được đặt mình ở trên người khác, nhưng thay vì thế thì chúng ta phải cúi xuống, hiến thân phục vụ, làm cho chúng ta thành nhỏ bé với những người bé nhỏ và nghèo khó với những người khó nghèo.  Nhưng thật là xấu khi anh chị em nhìn thấy một Kitô hữu không muốn cúi mình xuống, không muốn phục vụ.  Một Kitô hữu lúc nào cũng phô trương khắp nơi, là điều buồn nôn: người ấy không phải là một Kitô hữu, mà là kẻ ngoại đạo.  Một Kitô hữu phục vụ, tự hạ mình xuống.  Chúng ta hãy làm việc để chắc chắn rằng anh chị em của chúng ta không bao giờ cảm thấy cô đơn!

Hậu quả thứ hai: nếu Thiên Chúa, qua Chúa Giêsu, đã liên hệ với loài người đến nỗi trở thành một người trong chúng ta, điều đó có nghĩa là bất cứ điều gì chúng ta làm cho anh chị em mình là chúng ta làm cho Ngưởi.  Chính Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng ai đã nuôi nấng, chào đón, thăm viếng, yêu thương một trong những người bé nhỏ nhất và nghèo khổ nhất giữa loài người, thì đã làm điều ấy cho Con Thiên Chúa.

Chúng ta hãy phó mình cho sự chuyển cầu từ mẫu của Đức Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ chúng ta để Mẹ giúp chúng ta trong Giáng sinh Thánh này, giờ đây đã gần, ngõ hầu nhận ra trên gương mặt của những người lân cận của chúng ta, đặc biệt là những người yếu đuối nhất và thiệt thòi nhất, hình ảnh của Con Thiên Chúa làm người.

Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ

http://giaoly.org/vn

ĐTC: Giáng Sinh là lễ của sự tin tưởng và niềm hy vọng

ĐTC: Giáng Sinh là lễ của sự tin tưởng và niềm hy vọng


Linh Tiến Khải

12/18/2013

Giáng Sinh là lễ của sự tin tưởng và niềm hy vọng. Nó cử hành biến cố Chúa Giêsu xuống thế làm người để sống với chúng ta trong lịch sử loài người, với tất cả gánh nặng các hạn hẹp và thảm cảnh của nó.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với các tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi gặp gỡ chung tại quảng trường Thánh Phêrô sáng thứ tư 18-12-2013.

Vì buổi tiếp kiến diễn ra trong bầu khí thiêng liêng của mùa Vọng trở thành sâu đậm hơn nhờ tuần cửu nhật nên Đức Thánh Cha đã suy tư về ý nghĩa của lễ Giáng Sinh. Ngài nói:

Hôm nay tôi muốn cùng anh chị em suy tư về lễ Giáng Sinh của Chúa Giêsu, ngày lễ của sự tin tưởng và niềm hy vọng, vượt thắng sự bất ổn và bi quan. Và lý do niềm hy vọng của chúng ta là điều này: Thiên Chúa ở với chúng ta và vẫn còn tin tưởng nơi chúng ta! Anh chị em hãy nghĩ tới điều này: Thiên Chúa ở với chúng ta và vẫn còn tin tưởng nơi chúng ta! Thiên Chúa Cha thật là quảng đại.

Thiên Chúa đến ở với loài người, lựa chọn trái đất như nơi ở của mình để cùng sống với con người và để làm cho mình được tìm thấy tại nơi con người trải qua các ngày của mình trong niềm vui và trong khổ đau. Vì thế trái đất không chỉ còn là ”thung lũng nước mắt” nữa, mà là nơi chính Thiên Chúa đã cắm lều của Ngài, là nơi Thiên Chúa gặp gỡ con người và liên đới với con người.

Thiên Chúa đã muốn chia sẻ điều kiện làm người của chúng ta đến độ trở thành một với chúng ta trong con người của Đức Giêsu, là người thật và là Thiên Chúa thật. Nhưng còn có điều gì đó gây ngạc nhiên hơn nữa. Sự hiện diện của Thiên Chúa giữa loài người đã không được thực hiện trong một thế giới lý tưởng, tình tứ, nhưng trong thế giới thực sự này, bị ghi dấu bởi các chia rẽ, gian ác, nghèo túng, các chuyên quyền và chiến tranh. Ngài đã lựa chọn ở trong lịch sử của chúng ta như nó là, với tất cả gánh nặng của các hạn hẹp và các thảm cảnh của nó. Khi làm như thế Ngài đã chứng minh cho thấy một cách không thể vượt hơn được khuynh hướng xót thương và tràn đầy tình yêu của Ngài đối với con người. Ngài là Thiên Chúa ở với chúng ta; Đức Giêsu là Thiên Chúa ở với chúng ta. Anh chị em có tin điều này không? Tín hữu trả lời ”Có”. Chúng ta hãy cùng nhau tuyên xưng điều này: Đức Giêsu là Thiên Chúa ờ cùng chúng ta. Tất cả mọi người lập lại. Một lần nữa. Đó tốt lắm xin cám ơn anh chị em. Chúa Giêsu là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, từ luôn luôn và sẽ mãi mãi ở với chúng ta trong khổ đau và khốn khó của của lịch sử.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha định nghĩa lễ Giáng Sinh như sau:

Lễ Giáng Sinh của Chúa Giêsu biểu lộ cho thấy Thiên Chúa đã đứng về phía con người một lần cho tất cả, để cứu vớt chúng ta, để nâng chúng ta dậy từ bụi đất của các nỗi bần cùng, khó khăn và tội lỗi của chúng ta. Từ đó phát xuất ra món quà vĩ đại của Hài Nhi Bếtlehem: một năng lực tinh thần giúp chúng ta không chìm sâu trong các mệt nhọc, thất vọng, buồn sầu của chúng ta; bởi vì nó là một năng lực sưởi ấm và biến đổi con tim. Thật thế việc sinh ra của Chúa Giêsu đem đến cho chúng ta một tin vui: đó là chúng ta được Thiên Chúa yêu thương vô cùng và một cách đặc biệt, và tình yêu này Ngài không chỉ làm cho chúng ta nhận biết, mà còn ban tặng và thông truyền nó cho chúng ta nữa!

Từ việc tươi vui chiêm ngưỡng mầu nhiệm của Con Thiên Chúa sinh ra vì chúng ta, chúng ta có thể rút tỉa ra hai điều.

Thứ nhất đó là nếu trong lễ Giáng Sinh Thiên Chúa không tự mạc khải như một người ở trên cao và thống trị vũ trụ, nhưng như Đấng tự hạ mình xuống trên trái đất bé nhỏ và nghèo nàn này, thì điều này có nghĩa là để giống như Ngài chúng ta không được ở bên trên các người khác, nhưng trái lại phải hạ mình xuống, để phục vụ, để trở nên bé nhỏ với những người bé nhỏ và nghèo với người nghèo. Thật là một điều xấu, khi thấy một Kitô hữu không muốn hạ mình xuống, không muốn phục vụ, một Kitô hữu vênh váo khắp nơi: thật là xấu có phải không? Người đó không phải là tín hữu Kitô, mà là một người ngoại giáo. Kitô hữu thì hạ mình và phục vụ. Chúng ta hãy làm sao để các anh chị em này không bao giờ cảm thấy cô đơn! Sự hiện diện liên đới của chúng ta bên cạnh họ không chỉ diễn tả bằng lời nói nhưng bằng sự hùng hồn của các cử chỉ cho thấy Thiên Chúa gần gũi tất cả mọi người.

Đề cập tới khía cạnh thứ hai Đức Thánh Cha nói:

Nếu qua Chúa Giêsu Thiên Chúa đã liên lụy với con người cho tới nỗi trở thành như một người trong chúng ta, thì có nghĩa là bất cứ gì chúng ta sẽ làm cho một người anh chị em, là chúng ta làm cho Chúa. Chính Chúa Giêsu đã nhắc cho chúng ta nhớ điều đó: ai cho ăn, lắng nghe, thăm viếng, yêu thương một trong những người bé nhỏ và nghèo nàn nhất là đã làm cho chính Con Thiên Chúa. Trái lại, ai khước từ, quên lãng, không biết tới một trong các người bé nhỏ và nghèo nàn nhất là đã bỏ quên và khước từ chính Thiên Chúa (x. Mt 25,35-46). Như thánh Gioan đã viết: ”Thật ra ai không yêu thương người anh em mà mình trông thấy, thì không thể yêu thương Thiên Chúa mà mình không trông thấy” (1 Ga 4,20).

Chúng ta hãy phó thác cho sự cầu bầu hiền mẫu của Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ chúng ta, để Mẹ giúp chúng ta trong lễ Giáng Sinh thánh gần kề này, nhận biết nơi gương mặt của tha nhân, đặc biệt của những người yếu đuối và bị gạt bỏ ngoài lề nhất, hình ảnh của Con Thiên Chúa làm người. Xin Mẹ Maria nâng đỡ chúng ta trong quyết tâm trao ban cho tất cả mọi người tình yêu thương, lòng tốt và sự quảng đại của chúng ta. Trong cách thế này chúng ta sẽ phản ánh và kéo dài ánh sáng của Chúa Giêsu, Đấng từ hang đá Bếtlêhem tiếp tục tỏa lan trong các con tim, bằng cách hiến tặng niềm vui và hòa bình, mà chúng ta ngưỡng vọng từ tận thẳm sâu con người chúng ta.

Sáng thứ tư 18-12-2013 đã có vài ca đoàn và ban nhạc ”Viva la Gente” của phong trào Tổ Ấm hát thánh ca Giáng Sinh và trình tấu chào mừng Đức Thánh Cha cũng như tạo bầu khí tươi vui cho buổi tiếp kiến.

Chào các tín hữu Đức Thánh Cha chúc mọi người những ngày hành hương sốt sắng, lễ Giáng Sinh và Năm mới tươi vui an lành và thịnh vượng.

Chào các tín hữu Ba Lan hiện diện tại quảng trường cũng như bên Ba lan và khắp nơi trên thế giới Đức Thánh Cha xin mọi người hãy nghĩ tới các người nghèo, người đói, người cô đơn, người vô gia cư, bị gạt bỏ ngoài lề xã hội, cũng như các nạn nhân của chiến tranh, đặc biệt là các trẻ em.

Ngài cũng đã chào nhiều người đau yếu ngồi trên xe lăn, ôm hôn vuốt ve và an ủi họ. Đức Thánh Cha khích lệ người trẻ tiến tới với mầu nhiệm Giáng Sinh với cùng các tâm tình đức tin và sự khiêm nhường của Mẹ Maria. Ngài cầu mong cho các anh chị em đau yếu kín múc được niềm vui và sự bình an mà Chúa Giêsu đem đến cho nhân loại. Đức Thánh Cha nhắn nhủ các cặp vợ chồng mới cưới chiêm ngưỡng Thánh Gia Nagiarét và noi gương các nhân đức của Thánh Gia.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với kinh Lậy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Bài học của một linh mục trẻ

Bài học của một linh mục trẻ

chuacuuthe.com

VRNs ( 19.12.2013) – Sài Gòn- Có một câu nói rất ý nghĩa : « Việc học không bao giờ được coi là đủ, vì nó như dòng nước trên nguồn chảy mãi ra biển khơi….  Muốn học thì phải có trường, và không ngôi trường nào đầy đủ, sinh động, chân chính và cay đắng hơn ngôi trường này: Trường Đời… ». Ở góc độ truyền giáo, một cha giáo của tôi khẳng định : « Luôn có những bài học đắt giá dành cho những nhà truyền giáo từ chính những con người họ tiếp cận. Hay nói cách khác, nhà truyền giáo được sự tác động trở lại, hay được truyền giáo trở lại, từ chính những người mà họ phục vụ. » Tôi rất tâm đắc với những nhận định này vì đó là thực tế mà tôi cảm nhận.

Nếu luôn có đó một sự tác động hỗ tương trong mọi tương quan, thì với tư cách là người linh mục, tôi đón nhận quá nhiều bài học phục vụ từ chính những người dân tại giáo xứ. Tôi không muốn nêu tên cụ thể những con người được nói đến ở đây, bởi lẽ, trong mắt tôi, họ đã quá nổi tiếng trong lĩnh vực của họ.

* * *

Người đầu tiên dạy cho tôi sự hy sinh phục vụ là một cụ ông vóc người nhỏ nhắn, khuôn mặt hiền lành phúc hậu, ít nói hay cười và làm rất nhiều, mà lại làm toàn chuyện « độc ». Con cái cụ đã lập gia đình hết, trong nhà chỉ còn hai ông bà già, thành ra cụ có nhiều thời gian cho việc phục vụ của mình. Không giữ bất kỳ chức vụ gì trong giáo xứ nhưng cái cụ làm được cho giáo xứ thì, với tôi, quá nhiều. Điều quý giá ở nơi cụ là những việc cụ làm thường âm thầm ít người biết đến, và một khi đã quyết thì làm cho đến cùng, không nản chí, không buông xuôi. Mỗi khi có những công trình xây dựng nhà tình thương hay giúp đỡ một gia đình nghèo nào đó (cả người kinh và người dân tộc), cụ nhiệt thành không những bỏ công của của cá nhân mà còn khuyến khích con cái hy sinh giúp sức. Thậm chí có trường hợp gia đình nghèo neo đơn cần có chỗ trú thân, chính cụ lên kế hoạch vận động con cái cháu chắt của cụ. Cụ còn đi thuyết phục tôi và mọi người tham gia để gia đình đó có được cái nhà tươm tất. Tôi may mắn được gặp và cộng tác với cụ, đặc biệt trong việc xây dựng nhà tình thương cho bà con sắc tộc Êđê. Có một vài công trình chính cụ nhận phần xây cất. Quá tuyệt vời !

Sự chín chắn, từng trải của tuổi già, tấm lòng đại lượng của một kitô hữu, lòng nhiệt huyết cùng với sự khiêm tốn của một giáo dân như cụ quả thật đã có sức ảnh hưởng lớn trên tôi.

* * *

Nếu ai đến Châu Sơn mà muốn trải nghiệm cái nghèo về đủ mọi phương diện, hãy đến với những người mà tôi sắp kể đây. Và tôi nghĩ, một khi đã chứng kiến, tôi không tin là có một ai đó còn dám than thân trách phận với Chúa rằng sao để cho con nghèo, bởi đơn giản, không còn ai nghèo hơn những người này.

Những người tôi nói đến là một người mẹ chịu nhiều đau khổ để nuôi nấng người con gái hơn nửa thế kỷ bệnh tật nằm một chỗ trên giường bệnh. Suốt hơn năm mươi ba năm cứ âm thầm, cặm cụi như thế. Thời điểm tôi ở đó, người mẹ không còn đi lễ được vì sức yếu, nên tôi vẫn thường đến cho cụ rước lễ. Có những lúc bà cụ tâm sự : « Cha à, bây giờ con cứ mong cho nó chết trước con, chứ nếu con chết trước, không biết nó sẽ sống thế nào nữa. » Nhiều lúc cho cụ rước lễ, vào trong nhà mùi xú uế bốc lên nồng nặc, chịu không thấu. Người con gái thì vẫn nằm đó, hồn nhiên vô tư, cười cười nói nói mà không biết mình nói gì. Hai mảnh đời, hai thân phận cứ quấn chặt vào nhau mà sống. Một người thì ý thức được cái nghèo tận cùng của phận người, cái khắc nghiệt của cơm áo gạo tiền, cái quay quắt của bệnh tật, và vì thế, sống trong sự dày vò của nỗi khổ tâm. Còn người kia thì vô tư không chút mảy may nghĩ đến cái bất hạnh nhất có thể xảy đến : một ngày kia người mẹ có thể mất đi. Bởi không ai có thể (hay dám) hình dung cô sẽ thế nào khi không có mẹ.[1] Dù vẫn có những người xung quanh như con cái, dâu rể lo lắng đấy, rồi thỉnh thoảng cũng có những hội đoàn, nhóm này nhóm kia thương tình ghé thăm giúp đỡ chút quà mọn. Nhưng tất cả chỉ là sự trợ giúp tương đối nào đó thôi, làm sao cất khỏi họ gánh nặng của thân phận khắc nghiệt ? Đó thực sự là người nghèo về mọi phương diện, nghèo nhất, nghèo cùng cực ! Nhìn về quá khứ là hơn năm mươi ba năm chôn chân một chỗ, cái ăn cái mặc cứ phải cậy nhờ vào người khác mà không thể tự lo cho mình. Quá khứ là sống chung với bệnh tật, với mùi xú uế mà không có cách nào để thoát ra. Còn hiện tại ? Thưa là nụ cười ngây ngô hồn nhiên của người con gái hơn năm mươi ba tuổi đầu, suốt ngày không thoát ra khỏi được cái giường của riêng mình. Hiện tại là khuôn mặt đầy nếp nhăn với cặp mắt u buồn của người mẹ già, là sự cam chịu đầy tức tưởi trước nghịch cảnh. Thế còn tương lai? Tôi nhớ lại câu nói đau đớn của cụ già, xem ra nghịch lý, nhưng là một nghịch lý hoàn toàn logich với tâm hồn của người mẹ : « … Con muốn nó chết trước con … ».

Đứng trước hai người phụ nữ ấy, bỗng thấy mình quá đầy đủ, quá sung sướng. Tôi cảm thấy những khó khăn trở ngại mà mình gặp phải thật ra đâu là gì so với những gì mà hai người phụ nữ ấy đang gánh lấy. Đứng trước họ, chợt nhận ra mình đã quá hoang phí về mọi thứ được ban : tiền bạc, thời gian, cơ hội, tương quan con người …. Phải duyệt xét cuộc sống để sống tốt hơn trong sự khó nghèo, phải trân trọng với tất cả những gì được ban để sống cho xứng đáng. Cuộc đời của hai người phụ nữ nghèo ấy thực sự đã để lại cho tôi quá nhiều bài học !

* * *

Bài học thứ ba tôi học được là tính tự lập và vượt khó từ một cô bé. Qua đến nước Pháp, bài học này trở nên quý giá vô cùng khi mà tôi phải tự xoay xở hết mọi chuyện trong cuộc sống của mình. Có lẽ phải mở ngoặc để giải thích một chút. Ở Việt Nam, người giáo dân thương mến các cha và sẵn sàng giúp đỡ cho các « đấng ». Nhiều người sẵn sàng đi mua máy móc, vật dụng, quần áo … cho các ngài. Nhiều người giáo dân có chuyên môn trong lĩnh vực của mình như tin học, điện gia dụng, giấy tờ hành chính … sẵn sàng giúp các cha miễn phí (vì giúp các đấng ai nỡ lòng lấy tiền). Đến một lúc, cha chỉ biết việc đạo, còn đụng đến việc đời thì cha hơi lúng túng. Qua đến Pháp, tất cả đều phải tự lập, phải tự xoay sở tất tần tật. Cũng phải mất một thời gian làm quen với chuyện đó. Nhưng may mắn đã có một chút kinh nghiệm nhờ học được từ môi trường Châu Sơn nên không bị điêu đứng.

Ngày đầu tiên tôi gặp cô bé mà tôi học hỏi ấy là trong buổi phát quà cho các em học sinh giỏi của giáo xứ trong dịp đầu năm học. Cô gái ấy bị khuyết tật nặng toàn thân dẫn đến tình trạng từ cách đi đứng đến nói năng diễn tả rất khó khăn. Theo như tôi được biết, ngoài bố mẹ của cô bé thì những người khác phải rất khó khăn mới có thể hiểu được điều cô bé nói. Nhưng như người ta thường nói, Thượng Đế rất công bằng, người lấy của người ta cái này thì sẽ ban lại cho cái khác để cuộc sống được quân bình. Cô bé khuyết tật ấy rất thông minh sáng dạ và viết lách thuộc hàng xuất sắc. Học giáo lý luôn luôn có bằng khen và phần thưởng. Nghe đâu cô bé có lúc cũng đã đoạt giải học sinh giỏi văn của thành phố Buôn Ma Thuột. Nhưng có một điều đặc biệt hơn, cô bé luôn tìm cách để sống tự lập, cố gắng giới hạn ở mức thấp nhất sự làm phiền người khác. Nghe mẹ cô kể : bé luôn luôn tự mình lo việc vệ sinh cá nhân, súc miệng đánh răng, di chuyển trong nhà … và nhiều việc khác. Chỉ những khi đi xa như đến trường học hay đến nhà thờ, thì mới phải để bố chở đi.

Cách đây bốn năm, bất hạnh ập đến khi người thân yêu gần gũi nhất của cô bé là ông bố đột ngột qua đời ở tuổi còn rất trẻ. Chỗ dựa lớn nhất bỗng dưng bị cái chết cướp đi. Hụt hẫng và trống rỗng ! Đau khổ và cay đắng ! Chúa lại thinh lặng đến mức lạnh lùng trong biến cố đau thương. Mọi người nghẹn ngào nhìn cô bé khóc đến nỗi không còn sức mà khóc, không còn nước mắt mà tuôn. Gánh nặng cuộc đời trở nên trĩu nặng hơn trên đôi vai gầy.

Nhưng nỗi đau như con thú dữ đã không đủ sức quật ngã con người đầy nghị lực ấy. Cô gượng dậy trên sự mất mát, can đảm đối diện với bất hạnh và từng bước chế ngự nó. Nghe đâu vài tháng sau khi bố mất, cô bé quyết xin mẹ vào Sài Gòn theo học một khoá tin học và chụp ảnh. Rồi từ từ cũng thành nghề. Lâu lâu hỏi thăm tin tức lại thấy tình hình cô bé sáng sủa hơn. Cô đã có thể phụ mẹ bán xăng, bàng hàng tạp hoá, có lúc cũng mở nghề làm thiệp đám cưới. Có người thương giúp cho cái máy photocopy, cũng mở dịch vụ photo giấy tờ cho học sinh của ngôi trường gần đó. Một ngày kia tôi đến thăm cô và gia đình. Thật bất ngờ, cô còn làm thêm cả nghề chụp ảnh thẻ lấy ngay. Tôi thắc mắc làm sao chụp ảnh với đôi tay lúc nào cũng run lẩy bẩy thế. Cô cười : « Cha cứ thử. Con chụp cho cha. » Rồi cô chụp thật. Không những làm được, mà còn làm rất đẹp là đàng khác. Thật là đáng khâm phục !

Cô bé không đầu hàng số phận. Luôn luôn có ở đó ý chí vươn lên, tìm kiếm mọi cơ hội và nắm bắt nó. Đúng hơn cô tìm cách tạo cơ hội cho mình. Cái cô đạt được về phương diện vật chất, qua các công việc cô làm, có lẽ không là gì so với những người khác, nhưng giá trị cuộc đời cô thì thật là đáng để học hỏi : đó là một hình mẫu về ý chí tự lập và tinh thần vượt khó, vượt qua số phận để vươn lên và tồn tại. Cuộc đời cô thực sự là một bài học đắt giá cho tôi.

*************

Những người thầy của tôi trong « trường học Châu Sơn » là những con người bình dị như thế đấy. Dĩ nhiên còn rất nhiều những con người khác nữa mà vì giới hạn bài viết tôi không thể kể ra. Những bài học ấy tôi vẫn cứ phải nghiền ngẫm và áp dụng từng ngày. Tạ Ơn Chúa.

JB. Hồ Quang Lâm, dcct

Chúng ta phẫn nộ để làm gì?

Chúng ta phẫn nộ để làm gì?

Mẹ Nấm (Danlambao)Chúng ta phẫn nộ khi thấy trẻ con bị đánh, người dân bị án oan 10 năm vì bức cung, người lao động nghèo bị bóp cổ, tham nhũng tràn lan trong xã hội… Và chúng ta phẫn nộ trong im lặng bởi nó chưa đụng chạm đến cuộc sống của chúng ta bằng mắt thường. Và mọi thứ cứ lặng lẽ trôi qua như một ấm nước sôi sùng sục rồi trở nguội, không có gì thay đổi. Vậy thì chúng ta phẫn nộ để làm gì?…

Khắp các mặt báo tràn ngập thông tin về việc hai cô bảo mẫu ở Thủ Đức (Sài Gòn) bạo hành trẻ mầm non.

Các phóng viên báo Tuổi Trẻ đã kiên trì theo dõi khá lâu để có một đoạn phóng sự khiến dư luận phẫn nộ.

Trên mạng xã hội hàng loạt status và comment đòi phải trừng trị hai bảo mẫu kia thật nghiêm minh.

Phản ứng thường thấy của những người lớn khi trẻ con bị bạo hành đó là đòi đánh đập, xé xác, bắt những con người dã man kia phải hứng chịu những hình phạt như họ đã làm với con trẻ.

Phản ứng khác hơn một chút có người đưa ra giải pháp khác là nên đưa con đến các nhà trẻ tốt hơn, tin tưởng hơn với giá cao hơn.

Vấn đề chúng ta cần bình tĩnh xem xét nghiêm túc rằng đây không phải là lần đầu tiên vấn nạn trẻ mầm non bị bạo hành nhức nhối trên mặt báo.

Đã có bao nhiêu lần bạo hành xảy ra, đã bao nhiêu lần trẻ con bị ngược đãi?

Hành vi sử dụng bạo lực để nuôi dạy trẻ của mẹ con bà Quản Thị Kim Hoa đã bị phóng viên Đài Phát thanh – Truyền hình Đồng Nai ghi hình và phát sóng vào ngày 15/1/2008, gây bức xúc dư luận cả nước. Kết quả mức án 18 tháng tù giam có làm giảm đi nạn bạo hành trẻ mầm non không?

Xin thưa là không.

Mới nhất là ngày 16/11/2013, cháu bé 18 tháng tuổi Đỗ Ngọc Long đã bị bảo mẫu Hồ Ngọc Nhờ xách ngược lên doạ khi cháu không chịu ăn và làm té xuống sàn, sau đó lại bị đạp liên tiếp vào bụng dẫn đến tử vong.

Chúng ta phẫn nộ, chúng ta sục sôi khi đọc tin nhưng chúng ta ngồi im để sự phẫn nộ ấy trôi qua như một tiếng chặc lưỡi.

Chưa bao giờ chúng ta – những người lớn, những người đã, đang và sẽ làm cha làm mẹ nghĩ đến việc lên tiếng để yêu cầu phải có thay đổi từ hệ thống giáo dục – nguồn gốc chính dẫn đến tình trạng rối ren và ảnh hưởng đến tương lai của con cái chúng ta.

Xem xét kỹ lại các tình huống đã xảy ra những vụ bạo hành thương tâm, đa phần là ở các nhà trẻ tư, nơi có nhiều công nhân nghèo xa quê sinh sống.

Chúng ta – những người lớn, chưa một lần nghiêm túc nghĩ đến việc lên tiếng để bảo vệ quyền lợi của thế hệ tương lai.

Năm 2008, báo Sài Gòn Tiếp Thị có đăng bài “Khi sữa mẹ còn chảy ròng ròng trên ngực áo” (1) của nhà báo Trung Hồ. Và đến nay lời đề nghị “Thưa ông bộ trưởng bộ Giáo dục và Đào tạo, xin hãy ra ngay một lệnh buộc các trường mầm non nhận ngay các cháu kể từ bốn tháng tuổi, khó khăn nếu có sẽ cùng tìm ra cách giải quyết” của nhà báo này đã rơi vào quên lãng.

Đã có lúc nào chúng ta, những người lớn nghĩ rằng mình sẽ phải lên tiếng để yêu cầu các cơ quan chức năng phải nghiêm túc giải quyết vấn đề nhận giữ trẻ ngay khi các bà mẹ kết thúc giai đoạn nghỉ thai sản quay lại làm việc chưa?

Chúng ta phẫn nộ vì sự tàn ác của các bảo mẫu nhưng có lúc nào chúng ta thật sự quan tâm đến việc các khu công nghiệp có công nhân nghèo xa quê phải có các nhà trẻ được đăng ký và giám sát chặt chẽ bởi hệ thống công quyền chưa?

Có nhiều cha mẹ quan tâm đến chất lượng và sự quản lý đào tạo ở các nhà trẻ của các cơ sở tôn giáo nhưng ít biết rằng các cơ sở này rất khó khăn khi muốn cấp phép hoạt động bình thường như bao cơ sở khác. Và chúng ta sẽ phải làm gì nếu muốn lựa chọn những trường học như thế này cho con cái chúng ta?

Chúng ta phẫn nộ để làm gì? Cần bao nhiêu lần chúng ta phẫn nộ nữa để chấm dứt tình trạng bạo hành trẻ mầm non?

Chính chúng ta – những người lớn cũng có lỗi vì không bảo vệ được trẻ em khỏi sự bạo hành này.

Chúng ta phẫn nộ mỗi ngày khi có sự việc xảy ra, nhưng lại chấp nhận sống chung với nguyên nhân gây ra sự phẫn nộ ấy chỉ vì nó chưa đụng chạm đến con em mình. Đó là một hình thức dạy dỗ con em chúng ta trở nên ích kỷ với cuộc sống xung quanh.

Chúng ta phẫn nộ khi thấy trẻ con bị đánh, người dân bị án oan 10 năm vì bức cung, người lao động nghèo bị bóp cổ, tham nhũng tràn lan trong xã hội… Và chúng ta phẫn nộ trong im lặng bởi nó chưa đụng chạm đến cuộc sống của chúng ta bằng mắt thường.

Và mọi thứ cứ lặng lẽ trôi qua như một ấm nước sôi sùng sục rồi trở nguội, không có gì thay đổi. Vậy thì chúng ta phẫn nộ để làm gì?

Đã đến lúc đừng để sự phẫn nộ của chúng ta dần trở nên một phản ứng bình thường và vô cảm nếu chúng ta muốn mọi thứ thay đổi thật sự.

Mẹ Nấm

danlambaovn.blogspot.com