Olympia – Thế vận hội mùa Đông Sotschi 2014

Olympia – Thế vận hội mùa Đông Sotschi 2014


Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long

2/16/2014

Từ 07. – 23. Tháng Hai 2014 diễn ra Thể thao thế vận hội Olympia mùa Ðông ở Sotschi , bên nước Nga.

Các nước trên thế giới đựợc kêu mời gửi các người chơi thể thao chuyên nghiệp tham dự cuộc tranh tài. Thời gian lễ hội Olympia kéo dài hai tuần lễ.

Thể thao và đời sống cùng với niềm tin tôn giáo có liên quan với nhau không?

1. Olympia trong đời sống

Ngay từ thời thượng cổ năm vào khoảng 776 / 775 trước Chúa giáng sinh ( v. Chr.) đã có hội lễ thể thao Olympia kính thờ thần Zeus bên Hy lạp, như sử sách còn ghi chép để lại.

Những cuộc tranh tài lễ hội Olympia được tổ chức cứ bốn năm một lần cho tới thế kỷ thứ ba sau Chúa giáng sinh. Vào năm 394 n.Chr. hoàng đế Theodosius I. ra chiếu chỉ cấm hẳn những sinh hoạt lễ hội Olympia. Từ thời điểm đó không còn lễ hội thể thao Olympia nữa.

Ðến năm 1894 Pierre Baron de Coubertin, người Pháp, đã đưa ý kiến làm sống lại truyền thống thể thao Olympia. Thế vận hội Olympia mùa Hè lần đầu được tở chức ở thành phố Athena bên Hylạp năm 1896.

Từ năm 1924 có thêm lễ hội thể thao Olympia mùa Ðông, lần đầu tiên diễn ra ở Chamonix – vùng núi cao tuyết phủ quanh năm Mont Blanc bên Pháp

Các cuộc tranh tài thể thao Olympia được tổ chức cho hai loại thể thao mùa Ðông và mùa Hè khác nhau. Cách bốn năm lễ hội thể thao Olympia được tổ chức ở một địa điểm tùy theo ban tổ chức Olympia thế giới chọn quyết định.

Năm 2002 Olympia mùa Ðông ở Salt Lake city, năm 2006 Olympia mùa Ðông ở Turino, năm 2010 diễn ra ở Vancouver, năm 2014 ở Sotschi bên Nga

Olympia mùa Đông lần này diễn ra ở Sotschi bên Nga có 88 quốc gia trên thế giới cử đội thể thao đến tham dự những cuộc tranh tài trên các khu vực, các vùng núi đồi, cũng như sân vận động có tuyết bao phủ.

Ngay từ lúc bắt đầu trong thời gian lễ hội Olympia được tổ chức, không chỉ có các cuộc tranh tài thể thao, nhưng còn có những lễ hội khác như ca nhạc, như rước kiệu tôn kính thần thánh. Nên mọi hình thức chiến tranh gây hấn thù địch nhau phải ngừng nghỉ.

Hòa bình là mục tiêu Olympia muốn loan truyền xây dựng trong cuộc sống con người với nhau.

Các vận động viên thể thao tham dự các cuộc tranh tài không chỉ dành phần thắng lợi, nhưng họ còn phải có một đời sống biểu lộ niềm vui tươi trên khuôn mặt.

Lễ hội tranh tài thể thao Olympia được tổ chức để khuyến khích mọi người luyện tập cho thân thể được khỏe mạnh dẻo dai cường tráng.

Trong khi tranh tài thi đua sự chân thành, cao thượng là đức tính cao cả được đề cao.

Và qua các cuộc gặp gỡ tranh tài thể thao, ca hát trình diễn văn hóa, con người hiểu biết nhau hơn cùng xây dựng với nhau tình bằng hữu.

Ngày nay khi lễ hội thể thao Olympia được khai mạc, lá cờ mầu trắng Olympia được kéo lên trong suốt thời gian tranh tài Olympia. Trên là cờ Olympia có hình năm vòng tròn in hay thêu nằm sát cạnh đan chéo một phần góc lên nhau. Ðiều này nói lên sự liên kết cùng chung sống của con người khắp năm châu bốn bể trên thế giới.

Năm vòng tròn tượng trưng cho năm Châu lục: Úc châu, Á châu, Phi châu, Âu châu và Mỹ châu với năm mầu khác nhau: Xanh da trời, Vàng, Ðen, Xanh lá cây và Đỏ. Năm mầu này chỉ là tượng trưng cho đẹp thôi.

2. Ngọn lửa Olympia

Không chỉ lá cờ Olympia với năm vòng tròn tượng trưng cho năm châu lục được long trọng kéo lên trên sân vận động Olympia, nhưng ngọn lửa Olympia cũng được rước vào khai mạc và đốt cháy sáng trong suốt thời gian diễn ra lễ hội thể thao Olympia.

Lửa Olympia được lấy trực tiếp từ mặt trời, ở tại chính vận động trường Olympia ngày xưa đã diễn ra Olympia bên Hylap. Ðây là một vận động trường nhỏ ngày xưa thời thượng cổ xây có sân vận động, có nhiều ngôi đền thờ trong khuôn viên để tôn kính thần Zeus. Bây giờ khu vận động trường Olympia lịch sử chỉ còn lại những tàn tích đổ nát.

Và cứ gần tới lễ hội Olympia được tổ chức nơi đâu trên thế giới, lại có lễ lấy lửa Olympia. Ngọn lửa đó được gìn giữ rước vòng quanh các nước, các thành phố cho tới ngày khai mạc Olympia rước vào vận động trường nơi tổ chức Olympia.

Ðức thánh cha Benedicto XVI. đã làm phép chúc lành ngọn đuốc Olympia tại quảng trường Thánh Phero, lúc ngọn đuốc Olympia hôm 05.02.2006 được rước tới đó. Và ngài cũng đã có suy tư: “ Ngọn lửa này nhắc người tín hữu Chúa Kitô nhớ đến Ngôi Lời Thiên Chúa đã xuống trần gian làm người, cùng chung sống trong mọi hoàn cảnh con người. Vâng có cả thể thao nữa, và đồng thời Chúa Giêsu Kitô là ánh sáng soi chiếu trong trần gian. Chúa Giêsu con Thiên Chúa đã chấp nhận hóa thành người có thân xác, trừ tội lỗi ra. Ngài đã sống trải qua những chặng biến cố, kể cả thể thao của con người chúng ta dưới sự hướng dẫn soi sáng của Thiên Chúa. Ðể những gía trị của cá nhân cũng như tập thể trên mọi phương diện được thanh luyện và nâng cao.”

3. Olympia và đời sống đức tin

Lễ hội thể thao Olympia có những cuộc thi đua tranh tài các bộ môn thể thao. Người thắng cuộc được tưởng thưởng hạng nhất bằng Huy chương vàng, hạng nhì Huy chương bạc và hạng ba Huy chương đồng. Tranh tài thuộc về quy luật trong đời sống. Có thế cuộc sống mới phát triển, mới trăm hoa đua nở! Nhưng phải trong tinh thần cao thượng thể thao, tôn trọng sự chân thật.

Thành tích thi đua ở lễ hội thể thao Olympia được tóm tắt trong khẩu hiệi: Citius – Altius – Fortius – Nhanh hơn – Cao hơn và khoẻ mạnh dẻo dai hơn!

Thánh Phaolô viết nhắn nhủ: “ Anh em chẳng biết sao: trong cuộc chạy đua trên thao trường, tất cả mọi người đều chạy, nhưng chỉ có một người đoạt giải. Anh em hãy chạy thế nào để chiếm cho được phần thưởng không bao giờ hư nát.” (1cor 9,24-25).

Đức Thánh Cha Phanxico đã có lời chào mừng cùng cầu chúc lúc đọc kinh Truyền tin hôm 09.02.2014: „ Trong những ngày này Thế Vận Hội mùa đông cũng đang diễn ra tại Sochi bên Nga. Tôi muốn gửi lời chào tới các người tổ chức và tất cả các lực sĩ tham dự với lời cầu chúc nó là một lễ hội của thể thao và tình bạn.“

Tâm hồn lành mạnh trong một thân xác khỏe mạnh.

Olympia mùa Đông, 02.2014

Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long

Đời tu và hạnh phúc

Đời tu và hạnh phúc

Jos.Vinc. Ngọc Biển

2/15/2014

Là con người, từ cổ chí kim, từ Đông chí Tây…, đủ mọi lứa tuổi, mọi thành phần, ai ai cũng đều mong muốn mình được hạnh phúc hoặc sờ chạm thấy hạnh phúc dù chỉ một chút. Thánh Tôma Aquinô cũng đã nói: “Theo bản tính tự nhiên, tất cả mọi người đều khát mong hạnh phúc” . Chính vì thế, mà nhiều người chấp nhận đánh đổi rất nhiều để cầu mong được hạnh phúc. Ngày nay, cũng đã có nhiều người tìm ra cho mình những kỹ năng để nâng niu và nắm giữ được hạnh phúc lâu dài.

Tuy nhiên, điều họ mong muốn và tìm kiếm đó có đúng không hay chỉ là một sự mơ tưởng hoặc bị hiểu sai về hạnh phúc? Vậy hạnh phúc đích thực là gì và ở đâu?

1. Hạnh phúc là gì và ở đâu?

Thực sự câu trả lời rất khó để khẳng định đâu là hạnh phúc; ai là người được hạnh phúc, và dựa vào tiêu chuẩn nào để cho rằng mình hạnh phúc! Lại càng khó hơn khi mỗi người đều có một quan điểm hay một khái niệm để mặc định cho nó. Đôi khi dẫn đến tình trạng uốn nắn hạnh phúc theo chủ ý khách quan của mình.

Nhưng như đã nói, hạnh phúc được mỗi người hiểu một cách khác nhau, nên rất khó thống nhất. Các trường phái hay tôn giáo cũng có những quan niệm khác nhau khi bàn về hạnh phúc.

Trong từ điển tiếng Việt khi nói về hạnh phúc thì viết: “Có được nhiều sung sướng, toại nguyện” . Còn theo ngôn ngữ triết học thì: “Tình trạng sung sướng của con người khi khuynh hướng được hoàn toàn thỏa mãn, về lượng, về phẩm, về lâu dài theo đúng bậc thang (hay là trật tự) giá trị” . Hoặc theo Bách khoa Toàn thư thì: “Hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc của con người khi được thỏa mãn một nhu cầu nào đó mang tính trừu tượng. Hạnh phúc là một cảm xúc bậc cao, được cho rằng chỉ có ở loài người, nó mang tính nhân bản sâu sắc và thường chịu tác động của lý trí” .

Sự sung sướng, hay thỏa mãn có thể là cái gì đó nắm bắt được cách cụ thể như: tiền tài, danh lợi, sức khỏe, sắc đẹp, địa vị, uy thế, quyền lực, thành công, thỏa mãn ước muốn…, bởi vì người ta phỏng chiếu sự hạnh phúc dưới nhiều lăng kính chủ quan và có phần hiện sinh, nên đôi khi “thấy vậy mà không phải vậy”. Tôi theo góc độ và vị thế của tôi; anh theo chủ quan của anh. Mỗi người sẽ tùy thuộc vào quan điểm, hiểu biết và bậc sống của mình dựa trên nhu cầu về thể lý hay tâm linh để hình thành nên một quan niệm về hạnh phúc.

Nhưng nếu chỉ có thế thì quan niệm của con người về hạnh phúc thật lệnh lạc vì nó không bám rễ sâu trong tâm hồn, nơi nội căn của con người. Hạnh phúc như thế, thì phải chăng không phải là hạnh phúc thật, bởi vì nó mang nặng tính chủ quan, phiến diện, nên con người cứ nhọc công tìm kiếm, và lòng tham vô đáy của con người biết đâu cho vừa, nên cứ phải đi tìm hoài, tìm mãi… Người đời thường có câu: “Con dao và cái nĩa không làm cho người ta ngon miệng” (De Sirvy). Còn trong nhà tu thì có ngạn ngữ: “Áo dòng không phải chân tu, hoa thơm nhân đức đời tu mới thành” hay: “chiếc áo không làm nên thầy tu”.

Từ cái nhìn đó, mỗi người chúng ta hiểu được ngay rằng: những thứ bên ngoài thì không đem lại cho người ta hạnh phúc thật, còn những cái ở bên trong mới đem lại cho con người hạnh phúc.

Như vậy, hạnh phúc là một cái gì đó cao quý, thiêng liêng, là vô hằng mà ai cũng mong muốn đạt được. Nó là một trạng thái nội tâm sâu xa được khởi đi từ nội căn chứ không phải thứ hạnh phúc bề ngoài do ngoại tại tác động. Còn khi nói đến hạnh phúc trong đời tu, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã nói khi gặp gỡ các linh mục và tu sĩ tại Hoa Kỳ trong chuyến viếng thăm mục vụ năm 2008: “Giáo Hội không cần có nhiều linh mục, tu sĩ chỉ đề có nhiều, nhưng Giáo Hội cần có các linh mục, tu sĩ hạnh phúc vì được là linh mục tu sĩ”. Rồi trong năm Đức Tin vừa qua, Giáo Hội cũng mời gọi con cái của mình: “Tái khám phá hành trình Đức Tin để làm sáng lên niềm vui, lòng phấn khởi được gặp gỡ Đức Kitô”. Tiếp theo, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã quyết định chọn năm 2014 là năm: “Tân Phúc Âm Hóa Gia Đình”, qua đó các ngài mời gọi mọi thành phần dân Chúa sống tinh thần “Tân Phúc Âm Hóa Gia Đình để thông truyền Đức Tin”.

Tất cả những lời giáo huấn của các đấng chủ chăn trong Giáo Hội luôn mời gọi mỗi người hãy cảm nghiệm được: “Evangelii Gaudium – Niềm Vui Tin Mừng”. Khi cảm nghiệm được niềm vui và hạnh phúc vì có Chúa ở cùng và sống với, mỗi người chúng ta mới có thể loan báo và lưu truyền Đức Tin cho thế hệ tương lai.

Tuy nhiên, thành phần quan trọng trong sứ vụ này không ai khác là chính những người sống đời thánh hiến. Nhưng trước khi giúp cho người khác khám phá và tái khám phá niềm vui, hạnh phúc khi đi theo và gắn bó với Đức Kitô, thì chính những người được thánh hiến phải trở nên dấu chỉ về niềm hy vọng, hạnh phúc và niềm vui của mình cho người khác.

2. Đời tu và hạnh phúc

Có một câu chuyện kể rằng: “Một ông vua giàu có nọ không bao giờ cảm thấy thỏa mãn, bởi vì tất cả tài sản mà ông có đều do sự miễn cưỡng đóng góp của thần dân. Ông tự so sánh mình với những người hành khất: người hành khất nhận được tiền của do lòng thương của người khác, còn ông, ông nhận được tiền do sự cưỡng bách.

Ngày nọ, ông vua giàu có đã cải trang thành người hành khất để cảm nghiệm được những đồng tiền bố thí… Thế là mỗi ngày Chúa Nhật, ông biến mình thành một người ăn xin lê lết trước cửa giáo đường. Ông được nhiều người giúp đỡ ông và tỏ lòng thương mến. Tối về, ông tự nghĩ: ‘bây giờ ta mới thực sự là người giàu có nhất trên đời, bởi vì tiền của ta nhận được là do lòng thương xót của con người, chứ không do một sự cưỡng bách nào’.

Một thời gian sau đó, ông gom góp tặng hết những gì mình có cho người nghèo trong vùng rồi chảy đi nơi khác. Ông cảm thấy hạnh phúc vô cùng, bởi vì lần đầu tiên ông cảm nghiệm được niềm vui của sự ban tặng. Ông hiểu được rằng cho thì có phúc hơn là nhận lãnh… Lần này, ông thốt lên với tất cả xác tín: ‘Tôi là người hạnh phúc nhất trên trần gian này’”.

Đời tu cũng thế, hạnh phúc không phải là ở trong một nhà dòng to lớn có bề dày về truyền thống, hay có những cơ sở hạ tầng vĩ đại, hoặc một giáo xứ lớn, những nơi giáo dân luôn tôn trọng, nâng đỡ và tạo điều kiện thuận lợi là hạnh phúc. Không! Hạnh phúc đời tu không phải như thế! Hạnh phúc trong đời tu chính là gắn bó với Chúa liên lỉ trong đời sống hằng ngày.

Chỉ có sự gắn bó với Chúa, được biểu hiện qua đời sống cầu nguyện, chúng ta mới thấy được hạnh phúc nội tâm và niềm vui chia sẻ.

Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo nói: “Cầu nguyện Kitô giáo là mối tương quan giao ước giữa Thiên Chúa và con người trong Đức Kitô” (x. GLHTCG số 2564).

Như vậy, nhờ cầu nguyện, chúng ta được đi vào giao ước thánh của lòng ta với Thiên Chúa. Có cầu nguyện, ta mới khám phá ra hạnh phúc thật và hạnh phúc giả tạo: “Hãy sống thân tình với Thiên Chúa và xây dựng bình an, anh sẽ tìm lại được hạnh phúc” (G 22, 21).

3. Sống thân tình với Thiên Chúa

Khi chọn đời sống tu trì để hiến dâng cho Thiên Chúa và con người, thì đời tu của mỗi chúng ta là một cuộc giao ước thánh. Thông qua giao ước này, ta chọn Chúa làm Chủ đời ta, ta thuộc về Ngài, và Ngài thuộc về ta. Cuộc giao ước này là một cuộc giao ước tình yêu. Lời mời gọi của Đức Giêsu “hãy theo Thầy” và ta đáp trả, ấy là một cuộc tình được thiết lập, mà Đức Giêsu là người chủ động đi bước trước.

Đây là một lời mời gọi mang đầy tình mến mà Đức Giêsu dành cho những ai Ngài chọn. Khi chúng ta đáp lại lời mời gọi đó, là chính lúc ta được trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài. Thánh Phaolô đã nói thật thâm sâu: “ Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Ðức Kitô Giêsu, Chúa của tôi …” (Pl 3, 8).

Tông Huấn về đời sống thánh hiến khẳng định: “Khởi điểm của chương trình này là sự kiện phải rời bỏ tất cả để theo Đức Kitô” (ĐSTH số 93) và sống gắn bó với Ngài.

Sự gắn bó với Đức Kitô được hiểu như là sự sống còn. Chính Ngài cũng đã diễn tả tâm tình này khi đưa ra hai dụ ngôn người tá điền và anh lái buôn: “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy. Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy” (Mt 13,44 – 46).

Niềm vui và hạnh phúc của người môn đệ chính là xác tín thật chắc chắn về vị Thầy mà mình quyết định đi theo để được ở cùng và sống với Ngài. Vị Thầy đó chính là kho tàng, là viên ngọc quý. Nói cách khác, Ngài là lẽ sống, là lý tưởng, là thần tượng của chúng ta. Vì thế, không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô (x. Rm 8, 38). “Khi được Ngài, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô” (x. Pl 3,7-8). Trong Tin Mừng, chúng ta cũng thấy có câu chuyện chàng thanh niên giàu có được Đức Giêsu đem lòng yêu mến, quý trọng và mời gọi anh ta bước đi theo Ngài để được hạnh phúc: “ Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”. (22) Anh ta sa sầm nét mặt vì lời đó, và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải” (Mc 10,21-22). Tuy nhiên, anh đã không đáp lại lời mời gọi ấy và đã buồn rầu bỏ đi chỉ vì anh ta có nhiều của cải. Chúa của anh là đồng tiền. Chính đồng tiền đã chiếm địa vị độc tôn nơi anh ta.

Trong thực tế, giới nhà tu của chúng ta cũng vậy. Có rất nhiều người muốn theo Chúa, hiến thân để sống đời phục vụ… Nhưng oái oăm thay, họ lại không chịu những điều kiện đi đôi với ước muốn đó. Họ muốn cả hai và luôn trong tình trạng sẵn sàng “bắt cá hai tay”; hay “tu sĩ hàng hai”. Họ ngại khó, ngại hy sinh, và khó từ bỏ. Hoặc thay vì đi theo và chọn Chúa, thì lại chỉ lo làm việc của Chúa! Đến khi không có việc của Chúa hay không ưng ý với công việc được trao thì sinh ra buồn phiền, chán nản và bỏ đi như chàng thanh niên giàu có kia.

Chính vì thế, chúng ta không lạ gì khi thấy rất nhiều người tỏ vẻ bên ngoài thành công, mũ mão cân đai, họ nói cười oang oang, họ vỗ ngực xưng tên, họ được nhiều người trọng dụng… Nhưng thực chất, khi đối diện với lương tâm, họ là những người bi đát, thất vọng vì không có nguồn hạnh phúc thật là chính Chúa, mà chỉ có những thứ hạnh phúc rẻ tiền mà thôi.

Vậy muốn có một cuộc đời hạnh phúc thật, thì trước tiên, người sống đời thánh hiến phải yêu mến và siêng năng đời sống cầu nguyện.

4. Đời sống cầu nguyện nơi người thánh hiến

Nói đến nghề đi buôn, người ta nghĩ ngay đến chuyện buôn gì, có lời hay lỗ. Cũng vậy, khi nói đến đời tu, người ta nghĩ ngay đến đời sống cầu nguyện. Cầu nguyện được ví như hơi thở: ” Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái,nhưng thể xác lại yếu đuối” (Mt 26,41). Nếu không cầu nguyện, chúng ta còn có nguy cơ bị cám dỗ và xa dần Thiên Chúa nữa.

Cầu nguyện đối với người sống đời thánh hiến được khởi đi từ lúc bình minh đến khi chiều tà. Từ khi mặt trời ló rạng đến khi khuất núi ban chiều. Mẹ Têrêsa Calcutta đã cầu nguyện liên lỉ. Cầu nguyện trong mọi cảnh huống thường ngày. Tuy nhiên, mẹ không phải lúc nào cũng ở trong nhà thờ để cầu nguyện. Với mẹ, mọi nơi mọi lúc đều có thể cầu nguyện được. Chính vì thế, hễ những ai gặp được mẹ, từ người quyền cao chức trọng, đến thường dân. Từ người giàu đến người sống trong khu ổ chuột… ai ai cũng cảm thấy hạnh phúc và vui mừng khi gặp mẹ. Mẹ không có tiền bạc, không phải là một phụ nữ hấp dẫn, trẻ trung, không phải là người có địa vị trong xã hội… Nhưng mẹ hấp dẫn là vì mẹ có tình yêu. Tình yêu của mẹ là tình yêu hướng tha, được khởi đi từ sự cầu nguyện. Chính trong đời sống cầu nguyện mà mẹ cảm nghiệm thật hạnh phúc, đồng thời mẹ trao ban niềm vui và hạnh phúc đó cho mọi người.

Trong đời tu, nhiều khi chúng ta không cảm thấy hạnh phúc ngay trong những chiến thắng bề ngoài. Tại sao vậy? Thưa chỉ đơn giản là không có cầu nguyện. Hay lời cầu nguyện của chúng ta bị đóng khung ở bên trong nhà thờ; bị khóa chặt trong cuốn sách kinh mà không hề ăn nhập gì với cuộc sống cả. Những người như thế, họ như là “xác không hồn” và không sớm thì muộn, đời tu của họ sẽ sụp đổ tan tành ngay bởi sự nhàm chán trong công việc phụng vụ, phục vụ và nỗi cô đơn trong đời tu.

Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận trong tác phẩm Đường Hy Vọng có nói: “Thứ nhất cầu nguyện, thứ hai hy sinh, thứ ba mới đến hoạt động” (ĐHV 119).

Khi không có đời sống cầu nguyện trong cuộc đời của người tận hiến, chúng ta làm mọi chuyện chỉ là việc cưỡng ép, mà nếu làm như vậy, thì có lẽ máy móc tân tiến ngày nay làm hơn chúng ta nhiều.

Nếu chúng ta không có đời sống cầu nguyện, thì chúng ta mất đi nguồn sự sống, nguồn bình an, và như thế, chính bản thân ta đâu có đủ tư cách nói rằng tôi làm việc này hay việc khác vì Chúa đâu! “Cầu nguyện là nền tảng của đời sống thiêng liêng. Lúc cầu nguyện con nối liền, kết hợp với Thiên Chúa. Bóng điện sáng nhờ nối liền với máy phát điện (ĐHV 120). Những người không có đời sống cầu nguyện, thì dù họ có làm được phép lạ cũng đừng tin. Cuộc đời của họ sẽ sụp đổ nhanh chóng vì họ xây nhà trên cát (x. Lc 6, 49).

Có rất nhiều anh chị em chúng ta nói: tôi cầu nguyện rất nhiều, tôi dành cho Chúa rất nhiều thời giờ, nhưng sống với anh chị em trong cộng đoàn thì chẳng ra gì cả. Người đời thường nói: “Khoảng cách xa nhất trong cuộc sống chính là từ miệng đến bàn tay”.

Như vậy, cầu nguyện phải là một trạng thái thanh thoát và bình an. Cầu nguyện không phải là chuyện làm cho xong để rồi giờ cầu nguyện được ví như giờ lên lớp hay trả bài. Không phải thế, cầu nguyện là lòng với lòng, ta với Chúa trong tình Cha – con. Vì thế, đừng lý luận cao siêu, đừng bóp trán nặn óc để thưa lên với Chúa những lời sáo rỗng từ chương, nhưng thực chất chẳng có gì.

Mặt khác, cầu nguyện còn giúp cho mỗi chúng ta trở về với lòng mình cách chân thực để biết mình và biết Chúa. Nhận ra con người yếu đuối của mình, và nhận ra Thiên Chúa là đáng tuyệt mỹ. Khi nhận ra mình như thế thì điều đầu tiên cần có là tâm hồn sám hối và sung sướng vì được Chúa thương yêu. Khi họ cầu nguyện, họ được vì như: “Người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bảo táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá ” (Mt 7, 24-25).

Những người sống đời cầu nguyện thâm sâu, thì họ sẽ suy nghĩ, nhìn, nói, hành động theo ý muốn và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Khi kết hiệp với Chúa, họ không ngừng sám hối và cũng không ngớt được thúc đẩy mở rộng lòng bao dung, tình thương đến với người khác. Pierre Van Brieman đã nói: “Cầu nguyện là mở tâm hồn, mở trái tim và đôi bàn tay trước mặt Thiên Chúa. Tôi còn bám víu vào nhiều thứ trong đời sống của tôi và quyết nắm chặt lấy chúng trong tay: của cải vật chất, tinh thần, công việc, địa vị của tôi, bạn bè, nguyên tắc của tôi… Nếu tôi mở tay ra, những ‘của cải’ trên vẫn còn đó, có lẽ không một vật nào rơi bớt đi, nhưng ít nhất đôi bàn tay tôi đã mở. Thái độ đó là thái độ của người cầu nguyện”.

Người sống đời tận hiến chỉ hạnh phúc khi gắn bó với Nguồn cội, với Đấng đã, đang và sẽ ban cho mình tất cả.

Nói cho cùng, chúng ta hạnh phúc vì đã mở ra, mở ra với Thiên Chúa và mở ra với tha nhân.

Như một lời kết luận, xin mượn câu chuyện của mẹ Têrêsa Calcutta với một ký giả, khi ông này có buổi tiếp xúc với mẹ.

Câu chuyện được bắt đầu với lời hỏi của anh ta:

Sáng nay mẹ làm gì?

Cầu nguyện.

Bắt đầu từ mấy giờ?

4 giờ rưỡi.

Và sau khi cầu nguyện?

– Chúng tôi tôi tiếp tục cố gắng cầu nguyện qua công việc bằng cách làm những công việc đó với Chúa Giêsu, vì Chúa Giêsu và cho Chúa Giêsu. Điều này giúp chúng tôi đặt cả trái tim và tâm hồn mình vào công việc đang làm. Những người đang hấp hối, những người đang co quắp, những người bệnh tâm thần, những người bị bỏ rơi, những người không được yêu thương. Họ là Chúa Giêsu cải trang….

Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy đời sống cầu nguyện của chúng ta rất quan trọng. Khi cầu nguyện, chúng ta tin nhận Thiên Chúa là chủ đời ta cũng như vận mệnh của đời ta. Chúng ta sẽ làm mọi chuyện vì quy Kitô. Lấy Chúa Kitô làm trung tâm của ơn gọi và sứ vụ. Lúc đó chúng ta sẽ hạnh phúc vì có Chúa ở cùng chứ không bị lệ thuộc vào những công việc của Chúa hay những thứ bề ngoài.

TIN NÀO MANG LẠI NIỀM VUI ?

TIN NÀO MANG LẠI NIỀM VUI ?

Lm. VĨNH SANG, DCCT

Như thói quen mọi năm, năm nay tôi đi Cần Giờ để đón Giao Thừa Giáp Ngọ. Ra khỏi Sàigòn, vượt thoát cái không gian náo động làm tôi cảm nhận được sự thoải mái, cho dù chiều 30 Tết, Sàigòn đã vắng vẻ nhiều, xe cộ đi lại dễ dàng và đường phố thoáng đãng hơn. Nói ra khỏi Sàigòn có vẻ khó nghe, vì Cần Giờ vẫn là một huyện của Sàigòn cơ mà, nhưng trong thực tế, Cần Giờ vẫn là một vùng xa xăm dù trung tâm Cần Giờ chỉ cách trung tâm Sàigòn trên dưới 40 cây số.

Xa xăm vì nếp sống và mức sống rất khác nhau: một bên là thành phố ồn ào, hàng quán tấp nập kẻ ra người vào, những ngôi nhà cao ngất trời, đèn xanh đèn đỏ nhấp nháy quảng cáo khắp nơi; một bên là những rừng đước mênh mông, những con kênh chằng chịt, những nhà tranh vách đất hoặc phên lá, những ruộng muối trắng bệch trơ màu xơ xác.

Thật ra những năm gần đây, nhất là khi con đường rộng thênh thang được mở ra, người ta đã thấy lác đác vài căn biệt thự kiên cố xuất hiện, cổng cao rào kín với vườn cây ăn trái như xác nhận “đẳng cấp” của gia chủ giữa vùng nghèo khó mạt cùng. Mặt khác, cái sang trọng của Saigon đang lan rộng ra theo nhiều chiều, theo hướng Cần Giờ nó đang liếm dần ra biển, phần nào khựng lại ở bên này bến phà Bình Khánh. Con sông Sàigòn bỗng dưng chỗ này rộng phình ra, con phà qua lại làm người ta có cảm giác hơi hướm của thế kỷ 19 vẫn còn vương vấn đâu đây, thuở chúng đã viết nên những chuyện tình lãng mạn vùng sông nước.

Tôi “rời” Sàigòn qua những con phố đìu hiu… Ngang khu trung tâm, tôi chứng kiến những vạt hoa ế ẩm của chiều 30 trên các vệ đường, trên những mảng công viên, người bán đượm đầy vẻ lo âu trên gương mặt, quần áo xốc xếch, những vạt hoa cứ vậy như thấm đẫm nỗi buồn của người “đưa đò” cho nó. Tình hình buôn bán khá ế ẩm, không biết tôi có cảm nhận sai lầm không nhỉ ?

Đêm Giao Thừa tôi ở cộng đoàn Cần Giờ, ngồi ăn cơm chiều nói chuyện với nhau, tôi đã trở thành mồi ngon cho loài muỗi đói, nó xông ra từ những bụi đước, lao thẳng đến, ghim vào da thịt như những chiếc phi cơ chiến đầu cảm tử lao vào mục tiêu. Cảnh giác với đôi chân thì chúng lại tìm cách xuyên qua cả quần áo, chỗ nào cũng thấy bị nó tấn công. Anh em ở vùng khó khăn, tắm bằng nước nhiễm phèn, da thịt ai cũng bóng lưỡn, dày cộm và đã quen mùi gian khổ, còn mình “dân thành phố” ăn trắng mặc trơn, anh em bảo da có mùi thơm, chịu sao nổi với gian lao khổ ải ?

Đêm Giao Thừa người ta bắn pháo bông ở trung tâm xã Cần Thạnh, dân chúng quanh vùng chạy ra xem thích thú, từng ngọn pháo bông bay lên nổ tung trên không trung, tỏa ra muôn vàn ánh sáng kỳ diệu lung linh sắc màu. Cuộc bắn pháo bông chào mừng năm mới diễn ra chừng 20 phút, sau đó mọi sự lại chìm vào thinh lặng của biển và của ruộng nương.

Sáng Mồng Một anh chị em tín hữu kéo đến đầy Nhà Thờ, tràn cả ra ngoài sân, cha sở ngạc nhiên vì có nhiều “kẻ lạ mặt” đi dự lễ, hỏi ra mới biết con cháu từ xa về ăn Tết với gia đình. Không khí vui tươi náo nhiệt nơi Nhà Thờ kéo dài khoảng hơn 1 giờ đồng hồ, tôi hỏi cha sở: “Sau đó thì sao ?” Ngài nói: “Ai về nhà ấy, bắt đầu những… sòng bạc và những chiếu nhậu”. Hết ! Tết ở đây là vậy !

Chiều Mồng Hai mới có Lễ, làm lễ sáng… chẳng ma nào đi ! Tôi, cha sở và một cha nữa, bóc tấm bánh chưng ra ăn, cha sở lấy chai xì dầu xịt xịt vài cái vào chén của mình như thói quen ngày trước trên bàn cơm khi ngài còn sống chung với chúng tôi ở Tu Viện Sàigòn. Ngài nổi tiếng là ăn cơm tốn… xì dầu ! Bữa sáng Mồng Một Tết của chúng tôi ở vùng truyền giáo, một huyện thuộc Sàigòn, cách trung tâm Sàigòn hơn kém 40 cây số, nối với Sàigòn bằng một con đường ngang 26 mét, rộng thênh thang…

Trên đường trở về thành phố, tôi đi ngang qua các ruộng muối, các vuông tôm, lác đác người diêm dân ra thăm ruộng, co ro trong tấm áo mỏng tang, chiếc quần cộc và cái nón lá. Buổi sáng sớm, 7g30 ngày Mồng Một Tết, họ đón Tết như những ngày lao động bình thường, vẫn là ruộng, vẫn là muối, có một chị đàn bà nhấp nhô đạp guồng nuôi tôm quần quật cả ngày chắc vẫn không… đủ ăn.

Không biết từ bao giờ cái Tết bỗng mất bầu khí vui tươi, trong lành và đậm đà tình tự, chỉ còn là cơ hội của một số người trục lợi ( chắc tôi không quá bi quan và cũng không vơ đũa cả nắm đâu ! ), ngay tại sát nách thành phố này mà còn có những cảnh đời như vậy nói gì đến những vùng sâu vùng xa hơn nữa ? Ngay tại đường huyết mạch Cần Giờ – Sàigòn mà còn thế thì những vùng sâu bên trong dân chúng sống thế nào ?

Một xã hội như vậy đó, Chúa bảo chúng ta dấn thân để rao giảng Tin Mừng, tin nào sẽ làm cho những người nghèo được mừng ? Một câu hỏi đầu năm cho chúng ta, thật nhức nhối !

Lm. VĨNH SANG, DCCT, Minh Niên Giáp Ngọ

Tác giả: Lm. Vĩnh Sang, DCCT (Ephata 597)

Nhiều kêu gọi tưởng niệm 35 năm cuộc chiến chống Trung Quốc

Nhiều kêu gọi tưởng niệm 35 năm cuộc chiến chống Trung Quốc

Nghĩa trang các liệt sĩ trong chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979 bên ngoài thủ đô Hà Nội.

Nghĩa trang các liệt sĩ trong chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979 bên ngoài thủ đô Hà Nội.

Trà Mi-VOA

14.02.2014

Các nhóm dân sự độc lập trong và ngoài nước kêu gọi tưởng niệm 35 năm cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung ngày 17/2/1979.

Cuộc chiến xâm lược của Trung Quốc trên toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam đã gây ra những tổn thất nặng nề cho Việt Nam. Cho tới nay vẫn chưa có số liệu thống nhất về số thương vong từ phía Việt Nam và Hà Nội cũng chưa chính thức tưởng niệm sự kiện lịch sử nhuốm đầy xương máu này.

Đánh dấu 35 năm cuộc chiến bảo vệ chủ quyền dân tộc, hơn 70 nhân sĩ-trí thức trong nước bao gồm những vị có tên tuổi như Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Công Giàu, Huỳnh Kim Báu…ngày 12/2 công bố Lời Kêu gọi trên các trạng mạng xã hội, lên án hành động xâm lược của Trung Quốc và yêu cầu chính phủ Việt Nam phải tôn vinh những người đã hy sinh vì đất nước.

Những người ký tên trong Lời Kêu gọi nói cuộc tấn công của Trung Quốc là ‘tội ác’ và là một ‘điều sỉ nhục, hèn hạ’, đồng thời cũng bày tỏ phẫn nộ về việc nhà cầm quyền Việt Nam ‘nín nhịn không cho phép công bố sự thật về cuộc chiến tranh xâm lược bẩn thỉu và dã man này.’

Chúng tôi kêu gọi các cơ quan chức năng, công an, an ninh hiểu được thiện ý rằng các hoạt động của chúng tôi là để bảo vệ Tổ quốc, thức tỉnh nhân dân đấu tranh xây dựng xã hội tự do-dân chủ.

Anh Nguyễn Lân Thắng, thành viên của NO-U Hà Nội.

Các nhân sĩ-trí thức Việt Nam nói sẽ ‘hèn hạ không kém nếu không dám công khai và quyết liệt vạch trần tội ác xâm lược của kẻ thù, càng phi đạo lý hơn nữa khi thỏa hiệp với luận điệu xảo trá về cái gọi là giữ gìn đại cục, chui đầu vào thòng lọng của mười sáu chữ lừa bịp để tự trói tay, trói chân mình, quay lại đàn áp nhân dân biểu tỏ lòng yêu nước, lên án giặc ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.’

Nhóm nhân sĩ trí thức đề nghị nhà nước Việt Nam chính thức tổ chức lễ tưởng niệm cuộc chiến tranh biên giới 1979 bằng nhiều hình thức, trả lại vị trí xứng đáng cho những anh hùng-liệt sĩ đã hy sinh, và lấy ngày 17/2 hằng năm làm ngày kỷ niệm ‘cuộc chiến tranh chống quân xâm lược Trung Quốc như cách ông cha từng làm với Giỗ Trận Đống Đa kỷ niệm chiến thắng đánh tan 20 vạn quân xâm lược nhà Thanh thế kỷ XVIII.’

Cùng lúc đó, nhóm hoạt động phản đối bản đồ đường lưỡi bò của Trung Quốc ở Biển Đông với tên gọi ‘NO-U Hà Nội’ ra thông báo kêu gọi mọi người đến tham gia Lễ Kỷ niệm Ngày Biên giới Việt Nam để tri ân những liệt sĩ hy sinh bảo vệ đất nước trước ngoại xâm Trung Quốc.

 

Người biểu tình giương biểu ngữ tưởng niệm 40 năm Hoàng Sa bị Trung Quốc cưỡng chiếm tại vườn hoa Lý Thái Tổ, Hà Nội, ngày 19 tháng 1, 2014.

Người biểu tình giương biểu ngữ tưởng niệm 40 năm Hoàng Sa bị Trung Quốc cưỡng chiếm tại vườn hoa Lý Thái Tổ, Hà Nội, ngày 19 tháng 1, 2014.

Lễ Kỷ niệm dự kiến diễn ra lúc 9 giờ sáng chủ nhật, 16/2, tại Tượng đài Lý Thái Tổ, Hồ Gươm, Hà Nội.

Anh Nguyễn Lân Thắng, một thành viên tích cực của NO-U Hà Nội, cho biết thêm chi tiết:

“NO-U Hà Nội chúng tôi tổ chức sự kiện này để dâng hương, dâng hoa, đọc những lời tri ân đối với các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống cho Tổ quốc. Tùy theo tình hình, chúng tôi sẽ có nhiều hoạt động khác, còn chờ xem thái độ của chính quyền và sự ngăn trở của họ ra sao.”

Buổi tưởng niệm tương tự đúng ngày này năm ngoái ở Hà Nội đã gặp phải sự sách nhiễu của chính quyền địa phương. Anh Thắng nói những sự cản trở như vậy không hề làm cho việc tổ chức sự kiện này thất bại, vì:

“Chúng tôi không nghĩ rằng việc tổ chức trọn vẹn buổi lễ là thành công vì tất cả các hoạt động của chúng tôi là nhằm tưởng niệm các liệt sĩ và kêu gọi sự quan tâm của tất cả quần chúng nhân dân đến các vấn đề của đất nước. Đồng thời, chúng tôi cũng kêu gọi các cơ quan chức năng, công an, an ninh hiểu được thiện ý rằng các hoạt động của chúng tôi là để bảo vệ Tổ quốc, thức tỉnh nhân dân đấu tranh xây dựng xã hội tự do-dân chủ.”

NO-U Hà Nội kêu gọi chính quyền và các lực lượng an ninh của nhà nước bảo đảm an toàn cho buổi lễ, không tổ chức hát hò, vui chơi thể thao và thi công trong khu vực quanh Hồ Gươm cũng như không gây khó dễ cho những người tham gia Lễ Kỷ niệm này.

Anh Nguyễn Lân Thắng tiếp lời:

“Nếu như họ có bất kỳ động thái nào ngăn trở người tham gia lễ tưởng niệm, ném mắm tôm, cắt đá, hay dùng loa phá rối sẽ là thông điệp gửi cho thế giới về thái độ của chính quyền Việt Nam đối với nhân dân, đối với xương máu của bao nhiêu đồng bào chiến sĩ đã bỏ mình vì Tổ quốc như thế nào.”

Cùng lúc đó, cộng đồng người Việt tại Philippines cũng ra thông báo kêu gọi đồng hương đang sinh sống, học tập, và làm việc ở Manila tham gia buổi tưởng niệm 35 năm cuộc chiến tranh biên giới 1979 được tổ chức trước đại sứ quán Trung Quốc.

” Nếu họ có bất kỳ động thái nào ngăn trở người tham gia lễ tưởng niệm…sẽ là thông điệp gửi cho thế giới về thái độ của chính quyền Việt Nam đối với nhân dân, đối với xương máu của bao nhiêu đồng bào chiến sĩ đã bỏ mình vì Tổ quốc như thế nào.

Anh Nguyễn Lân Thắng.”

Ban tổ chức cho biết các sinh hoạt tưởng niệm từ 11 giờ trưa đến 1 giờ chiều ngày 17/2 sẽ bao gồm thắp nến, cầu nguyện, hát quốc ca, kêu gọi gìn giữ hòa bình, và lên án tội ác chiến tranh.

Cuối năm ngoái, báo chí nhà nước dẫn lời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng loan báo chính phủ Việt Nam sẽ kỷ niệm sự kiện 40 năm cuộc hải chiến Việt-Trung ở Hoàng Sa (19/1/1974) và 35 năm cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung ở phía Bắc (17/2/1979).

Tờ Thanh Niên trích phát biểu của ông Dũng tại buổi làm việc với Hội Khoa học Lịch sử rằng: ‘Phải kỷ niệm. Nhưng kỷ niệm thế nào để ổn định’, ‘chứ không phải Bộ Chính trị không quan tâm’.

Bản tin này sau đó đã bị gỡ xuống và hầu như tất cả báo chí trong nước đều ngưng đưa tin về cuộc hải chiến Hoàng Sa 1974 một hôm trước ngày tưởng niệm 19/1.

Chương trình tưởng niệm, thắp nến tri ân ‘Hướng về Hoàng Sa’ dự kiến diễn ra tại Công viên Biển Đông (Đà Nẵng) cũng bị hủy vào giờ chót với lời cáo lỗi của ông Đặng Công Ngữ, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện Hoàng Sa, rằng ‘do công tác chuẩn bị chưa được chu đáo’.

TQ đánh VN vì muốn làm ăn với Mỹ’

TQ đánh VN vì muốn làm ăn với Mỹ’

Thứ bảy, 15 tháng 2, 2014

Ông Đặng Tiểu Bình và ông Jimmy Carter trong một buổi lễ vào tháng 01/1979

Nhân tròn 35 năm cuộc chiến Biên giới Việt – Trung năm 1979, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, cựu đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc (1974-1987) nhìn lại sự kiện từ góc độ một nhà ngoại giao khi đó đang có mặt ở Bắc Kinh.

Trong cuộc phỏng vấn ngày 15/2, ông cho biết chi tiết những gì đã xảy ra với Tòa đại sứ Việt Nam và các nhân viên vào thời điểm xảy ra cuộc chiến hôm 17/2/1979.

“Lúc bấy giờ thì mọi hoạt động ngoại giao đều bị đình chỉ, dù chưa tuyên bố cắt quan hệ ngoại giao,” ông nói.

“Khi đó sứ quán chúng tôi bị họ vây, cán bộ đi ra ngoài thì bị theo dõi.”

Mở bằng chương trình nghe nhìn khác

“Nhiều khi họ gây trở ngại, nói xe chúng tôi là đi trái pháp luật, nhưng thật ra thì không phải là trái pháp luật mà là họ cố ý làm chậm trễ việc tôi đi tiếp xúc với các đoàn ngoại giao khác.”

Tuyên truyền cho chiến tranh

Ông cho biết trước khi cuộc chiến xảy ra, Việt Nam và Trung Quốc đã có mâu thuẫn xung quanh vấn đề người Hoa và phía Trung Quốc đã tuyên truyền là “Việt Nam xua đuổi người Hoa”.

“Họ nói họ phải đưa hai tàu vào TP.HCM và Hải Phòng để đón cái gọi là ‘nạn kiều’ của họ,” ông nói.

“Khi Campuchia đánh phía Tây Nam Việt Nam, chúng tôi đánh lại, thì họ tuyên truyền là chúng tôi xâm lược Campuchia.”

Tuy nhiên ông Vĩnh cũng nói khi đó, báo chí Trung Quốc không hề đả động đến hành động diệt chủng của chính quyền Khmer Đỏ.

“Lúc bấy giờ mấy sư đoàn của Pol Pot là do Trung Quốc trang bị. Họ trang bị cho đồng minh của họ để xúi Pol Pot đưa quân đánh phía Tây Nam Việt Nam”.

Ông Vĩnh cũng nói nội bộ lãnh đạo Việt Nam lúc đó đã nhất trí hoàn toàn về việc tiến công qua biên giới Campuchia.

‘Không chuẩn bị’

“Chúng tôi không có chủ trương gây chiến tranh, sự thật thì họ xâm lược chúng tôi thì chúng tôi phải đánh, họ rút lui rồi thì thôi, chúng tôi cũng chẳng thấy phải đuổi theo để tiêu diệt thêm quân Trung Quốc làm gì”

Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh

Thiếu tướng Vĩnh cho hay “khi biết được Trung Quốc đang làm một số đường dẫn ra biên giới thì tôi hiểu là họ đang có ý đồ muốn tạo thành một gọng kìm từ phía Bắc với đồng minh Campuchia của họ ở phía Nam.”

“Thế nhưng tôi không biết chính xác khi nào là họ sẽ đánh.”

Ông cũng cho biết phía Việt Nam “thực sự đã không chuẩn bị gì” cho cuộc tấn công của Trung Quốc.

Trả lời câu hỏi của BBC về sự hỗ trợ của Liên Xô thời bấy giờ đối với Việt Nam trong chiến tranh biên giới với Trung Quốc, ông Vĩnh cho biết:

“Mặc dù trước đó đồng chí Lê Duẩn có ký một hiệp ước tương trợ với Liên Xô rồi, nhưng khi Trung Quốc đánh thì không có sự tương trợ nào từ Liên Xô cả.”

“Khi đó chủ lực của chúng tôi chủ yếu ở phía Nam, phía Bắc thì chỉ có hai sư đoàn địa phương ghép lại để đánh lại với 60 vạn quân Trung Quốc thôi.”

Tuy nhiên, ông cũng khẳng định “phía chúng tôi thì cũng không có bất mãn nào” đối với Liên Xô.

“Lúc bấy giờ chỉ có bộ đội biên giới chúng tôi đánh lại với Trung Quốc, nhưng Trung Quốc lại gặp bất lợi về chiến trường vì địa hình rừng núi, tiếp tế cũng khó, hành quân cũng khó. Nên họ thương vong rất nhiều.”

Vì sao không truy kích?

Tù binh Trung Quốc trong cuộc chiến năm 1979

Trả lời câu hỏi của BBC về việc Việt Nam quyết định không truy kích sau khi quân Trung Quốc rút lui vào tháng Ba năm 1979, ông Vĩnh nói:

“Bởi vì chúng tôi không có chủ trương gây chiến tranh, sự thật thì họ xâm lược chúng tôi thì chúng tôi phải đánh, họ rút lui rồi thì thôi, chúng tôi cũng chẳng thấy phải đuổi theo để tiêu diệt thêm quân Trung Quốc làm gì.”

“Miễn là họ phải rút lui khỏi biên giới chúng tôi là được.”

Ông Vĩnh cũng cho rằng cuộc chiến biên giới năm 1979 là do Trung Quốc muốn tạo thiện chí với Mỹ.

“Một là họ đánh Việt Nam là để đỡ đòn cho đồng minh Pol Pot ở Campuchia,” ông nói.

“Một mặt khác, họ đánh với chúng tôi để gửi đi thông điệp là không phải vì cùng là cộng sản mà Việt Nam và Trung Quốc lại thân nhau.”

“Họ muốn đánh chúng tôi vì họ muốn làm ăn với Mỹ.”

Valentine và Mùa Xuân

Valentine và Mùa Xuân


Lm Giuse Nguyễn Hữu An

1. Thánh Valentinô

Ngày 14 tháng 2, Giáo Hội mừng lễ Thánh Valentinô.

Người ta nghĩ rằng Thánh Valentine là linh mục ở Rôma và là một y sĩ. Trung thành với đức tin, ngài được phúc tử đạo vào ngày 14 tháng 2. Chúng ta không biết gì nhiều về ngài, nhưng ngay vào khoảng năm 350, một nhà thờ đã được xây cất nơi ngài tử đạo.

Truyền thuyết nói rằng ngài là một linh mục thánh thiện đã cùng với Thánh Marius giúp đỡ các vị tử đạo trong thời Claudius II. Ngài bị bắt, và bị điệu đến tổng trấn Rôma xét xử. Sau khi dụ dỗ mọi cách nhưng đều vô hiệu, quan tổng trấn đã ra lệnh cho lính dùng gậy đánh đập ngài, sau đó đưa đi chém đầu vào ngày 14 tháng 2, khoảng năm 269. Người ta nói rằng Ðức Giáo Hoàng Julius I đã cho xây một nhà thờ gần Ponte Mole để kính nhớ ngài.

Nhiều giả thuyết khác nhau về nguồn gốc việc cử hành ngày Valentine. Một số cho rằng người Rôma có một tập tục vào giữa tháng 2, trong ngày ấy các con trai tô điểm tên các cô con gái để tỏ lòng tôn kính nữ thần dâm dục là Februata Juno. Các tu sĩ thời ấy muốn dẹp bỏ tập tục này nên đã thay thế bằng tên các thánh tỉ như Thánh Valentine. Một số khác cho rằng thói quen gửi thiệp Valentine vào ngày 14 tháng 2, là vì người tin rằng các con chim bắt đầu sống thành cặp vào ngày này, là ngày Thánh Valentine bị chém đầu. Dường như chắc chắn hơn cả là vào năm 1477, người Anh thường liên kết các đôi uyên ương với ngày lễ Thánh Valentine, vì vào ngày này “mọi chim đực đi tìm chim mái.”. Tục lệ này trở thành thói quen cho các đôi trai gái viết thư tình cho nhau vào ngày Valentine. Ngày nay, các cánh thiệp, quà cáp và thư từ trao cho nhau là một phần của việc cử hành ngày Valentine.(x.nguotinhuu.com)

Ngày 14 tháng 2 hàng năm đã trở thành ngày truyền thống để trao đổi thư tình và Thánh Valentinô đã trở thành quan thầy của những cặp uyên ương. ( Macmillan Profiles: Festivals and Holidays, 1999, p. 363)

2. Tình yêu và mùa xuân

Nhân ngày Valentine, nghe ca khúc “Anh cho em mùa Xuân”, nhạc réo rắt gợi bao cảm xúc về tình yêu hồn nhiên trong sáng.

Nhạc sĩ Nguyễn Hiền phổ nhạc từ bài thơ “Nụ hoa vàng ngày xuân” của thi sĩ Kim Tuấn.

“Anh cho em mùa Xuân. Mùa xuân này tất cả.
Lộc non vừa trẩy lá. Thơ còn thương cõi đời.
Con chim mừng ríu rít.Vui khói chiều chơi vơi.
Đất mẹ gầy có lúa.Đồng ta xanh mấy mùa.
Con trâu từ đồng cỏ.Khua mõ về rộn khua.
Ngoài đê diều thẳng cánh.Trong xóm vang chuông chùa.
Chiều in vào bóng núi.Câu hát hò vẳng đưa.
Tóc mẹ già mây bạc.Trăng chờ trong liếp dừa.
Con sông dài mấy nhánh.Cát trắng bờ quê xưa…”.

Kim Tuấn sinh năm 1940 tại Huế.Trải qua thời thơ ấu ở Phan Thiết rồi vào Sài Gòn vừa đi làm vừa đi học, làm thơ từ đầu thập niên 1960 và là thi sĩ có thơ được phổ nhạc nhiều nhất trước 1975 với 17 bài.

Về bài thơ “Nụ hoa vàng ngày xuân”, Kim Tuấn cho biết: Tôi làm bài thơ này để nhớ về quê mẹ: Hà Tĩnh, vùng đất sỏi đá nhiều hơn cơm gạo với mơ ước “Đất mẹ gầy có lúa”, có lúa chứ không phải cỏ lúa như nhiều người vẫn hát nhầm (cỏ lúa thì phải nhổ đi chứ ai lại mơ ước có thêm!). Bài thơ này tôi sáng tác vào đầu thập niên 1960, sau đó in trong tập “Ngàn Thương” (chung với Định Giang) và được nhạc sĩ Nguyễn Hiền phổ thành ca khúc. Đã có nhiều ca sĩ thể hiện bài hát này nhưng tôi thích giọng ca của Hà Thanh hơn cả và điều làm tôi ray rứt là cho tới nay vẫn chưa nói được với nữ ca sĩ này một lời cám ơn…

Nhạc sĩ Nguyễn Hiền kể lại trường hợp ông đã phổ bài thơ “Nụ hoa vàng ngày xuân”của Kim Tuấn. Đó là ngày mùng 5 Tết 1962, tôi đi làm trong một không gian vẫn còn hơi hướm tết. Đến sở, trên bàn làm việc của tôi có một tập thơ còn thơm mùi giấy mới. Đó là tập 40 bài thơ của các nhà thơ Vương Đức Lệ, Định Giang, Kim Tuấn và một người nữa tôi không nhớ tên. Tôi lần giở đọc qua từng bài và bắt gặp bài thơ “Nụ hoa vàng ngày xuân”.

Đó là một bài thơ ngũ ngôn đầy ắp hình tượng và rất giàu cảm xúc. Vậy là chỉ trong buổi sáng hôm đó tôi phổ nhạc xong bài thơ. Điều buồn cười là tôi lấy luôn 3 câu thơ đầu tiên phổ thành 1 câu nhạc (Anh cho em mùa xuân, nụ hoa vàng mới nở, chiều đông nào nhung nhớ…) thấy rất “ngọt” nên cứ thế mà phát triển bài thơ thành ca khúc. Tôi lấy câu thơ đầu tiên để đặt tên cho ca khúc này. Sáng hôm sau có một nhà thơ còn rất trẻ xưng tên là Kim Tuấn đến gặp tôi, hỏi: “Có gửi cho nhạc sĩ một tập thơ, không biết đã nhận chưa?”. Tôi trả lời: “Nhận được rồi và riêng bài thơ ‘Nụ hoa vàng ngày xuân’ của Kim Tuấn thì tôi đã phổ thành ca khúc”.

Kim Tuấn rất ngạc nhiên và sau khi nghe tôi hát thì anh rất vui. Từ đó, tôi và Kim Tuấn đã có một mối quan hệ, mối duyên văn nghệ rất tốt đẹp…

Nhà thơ Kim Tuấn mất năm 2003, còn nhạc sĩ Nguyễn Hiền mất năm 2005. Hai người bạn thơ nhạc đã rủ nhau vào cõi vĩnh hằng nhưng bài thơ bài nhạc họ gởi lại trần gian vẫn còn mãi. (x.dotchuoinon.com)

Mỗi độ xuân về, giai điệu rộn ràng tươi vui của bài hát “Anh cho em mùa xuân” lại vang vọng trên khắp mọi nẻo đường quê hương.

Anh cho em mùa xuân, đường hoa vào phố nhỏ, nhạc chan hòa đây đó. Tình yêu non nước này, bài thơ còn xao xuyến, rung nắng vàng ban mai…

Tình yêu cũng giống như mùa xuân. Những cảm xúc tình yêu khi xuân đến không giống như con tim yêu lãng mạn của mùa thu, không kiếm tìm sự ấm áp như mùa đông, cũng chẳng giống như suối nguồn tưới mát tâm hồn trong những ngày nắng cháy da của mùa hạ. Tình yêu trong mùa xuân là nỗi khát khao cháy bỏng, là sự trào dâng những xúc cảm mãnh liệt, nồng nàn, rộn rã…

Ngày Valentine như một kỷ niệm để nhắc nhở mọi người về Tình yêu. Một chàng trai thương mến một cô gái nhưng không dám tỏ tình, nhân ngày Valentine đã dùng một tấm thiệp hay một món quà để bày tỏ tình cảm. Một cặp tình nhân, nhân dịp Valentine để biểu lộ tình yêu đằm thắm hơn. Một đôi vợ chồng già, tình yêu đã phai nhạt với tháng ngày, nhân ngày Valentine, một bó hoa, một cử chỉ đặc biệt sẽ làm sống lại mối tình lâu ngày ngủ yên. Con cái bày tỏ tình yêu hiếu thảo với cha mẹ nhân ngày Valentine. Thật hạnh phúc khi nhận được một đóa hồng nhân ngày Valentine. Tình yêu sẽ bừng sáng, tươi mát trở lại hơn xưa rất nhiều.

Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời người bắt đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của đời người. Mùa xuân là mùa của sự sống niềm vui và hy vọng.Yêu nhau là mùa xuân đang về, cưới nhau là khởi đầu mùa xuân, một năm mới của đời sống vợ chồng. Thật hạnh phúc cho những ai đang yêu và được yêu, những rung động của tình yêu sẽ hòa chung với sắc xuân ấm áp, linh thiêng và tươi mới…!

Làm sao để vợ chồng mãi là mùa xuân của nhau?

*  1)  Thứ nhất là phải biết nghe nhau.Lắng nghe bằng tất cả sự tôn trọng.

*  2)Thứ hai là phải biết nói với nhau. Nói với nhau bằng ngôn ngữ tình yêu.

*  3) Thứ ba phải biết dí dỏm, trào lộng. Hài hước sẽ làm cho bầu không khí gia đình nhẹ nhàng vui tươi.

*  4)  Thứ bốn phải biết cầu nguyện với nhau và cho nhau.Cầu nguyện cho nhau, và cầu nguyện cùng nhau. Có hình ảnh nào đẹp hơn hình ảnh gia đình cùng cầu nguyện, cùng nghe lời Chúa.

Hãy tặng nhau Tình Yêu Valentine để luôn có mùa xuân hạnh phúc. Tình Yêu Valentine là Tình yêu Vị Tha Agapê. Đặc tính của tình yêu là dịu dàng như dòng nước, êm mát nhún nhường. Tình yêu có vẻ mềm yếu hơn tất cả nhưng lại mạnh hơn tất cả. Bởi vì không phải đá hay lửa thắng được nước mà là nước chảy đá mòn. Không gì có thể thắng nổi tình yêu vì Thiên Chúa là tình yêu. Vì thế mọi dòng sông vẫn tiếp tục chảy ra biển cả. Tình yêu Thiên Chúa vẫn chan hoà muôn người.

Tình yêu dạy cho con người niềm hạnh phúc lớn nhất cao cả nhất và đẹp nhất là biết trao ban, hiến dâng, cho đi, quãng đại, bao dung. Đó là đỉnh cao tình yêu Kitô giáo: Yêu là hy sinh cho người mình yêu. Yêu là tìm hạnh phúc cho người mình yêu.

GIẢNG DẬY BẰNG GƯƠNG MẪU

Có lẽ nhiều người không biết đến tên Juan Romero, nhưng hàng triệu người còn nhớ tấm hình của anh được xuất hiện trên hàng ngàn tờ tuần san, nhật báo và các đoạn phim ngắn trên toàn thế giới.
Juan Romero là một chú bồi phòng 17 tuổi trong y phục trắng quỳ trên sàn nhà, tay đỡ lấy đầu của TNS Robert Kennedy ngay sau khi ông bị ám sát vào năm 1968.
Trong lòng bàn tay của TNS Kennedy người ta thấy có chuỗi Mai Khôi. Đó là xâu chuỗi mà Juan đã lấy trong túi và đặt vào tay thượng nghị sĩ khi anh quỳ bên cạnh ông.
Ba mươi năm sau, nhân ngày giỗ TNS Kennedy vào năm 1998, cả hai tuần báo TimesNewsweek đều in lại tấm hình này và kể lại câu chuyện của anh Juan.
Buổi tối hôm trước, Juan thu dọn các khay thực phẩm còn sót lại từ đêm qua vì anh được vinh dự phục vụ căn phòng mà TNS Kennedy ở trong khách sạn.
Khi Juan bước vào phòng, TNS Kennedy bắt tay anh một cách thân mật. Sau này Juan kể lại, “Lúc ấy tôi không còn cảm thấy mình là một chú bồi phòng… Tôi cũng không thấy mình chỉ là một thiếu niên 17 tuổi. Tôi thấy mình là một con người.” Juan rất ngưỡng mộ TNS Kennedy đến độ anh ghim tấm hình của thượng nghị sĩ ngay bên cạnh tượng thánh giá ở trên tường. Juan ngưỡng mộ TNS Kennedy vì ông là một người Công Giáo, một người lưu tâm đến gia đình, và là người đã khen ngợi các người Mễ chăm chỉ làm việc.
Làm thế nào Juan lại ở bên cạnh TNS Kennedy khi ông ta bị bắn?
Khi Juan được biết sau cuộc vận động tranh cử tổng thống ở mặt tiền khách sạn chấm dứt, TNS Kennedy và bà vợ Ethel cùng với các thân hữu và các vệ sĩ sẽ đi ra khỏi khách sạn bằng lối nhà bếp.
Với hy vọng sẽ được bắt tay vị anh hùng một lần nữa, Juan đứng đợi trên đường đến nhà bếp. Khi TNS Kennedy đi ngang qua, Juan đã bắt tay ông một lần nữa. Ngay khi đó, Juan cảm thấy một luồng khí nóng sát ngay cạnh đầu. Đó là từ cây súng đã giết chết TNS Kennedy.
Ngày hôm sau, tấm hình anh Juan quỳ trên sàn, tay đỡ lấy đầu TNS Kennedy xuất hiện trong các đoạn phim và có thể nói trên mọi tờ báo lớn ở trong nước.
Độc giả ở khắp nơi đều xúc động trước hình ảnh này. Các thông tín viên săn đuổi anh Juan và viết bài phỏng vấn. Ngay cả có người đề nghị cấp học bổng đại học cho anh để đổi lấy câu chuyện độc đáo cho riêng mình.
Nhưng Juan từ chối. Anh nói rằng, cha anh từng bảo với anh rằng thật chẳng vinh dự gì khi được lợi ích từ sự đau khổ của người khác. Do đó Juan từ bỏ cơ hội để được nổi tiếng và quyết định noi gương vị anh hùng của mình bằng sự chăm chỉ làm việc, vinh danh Thiên Chúa, và lo lắng cho gia đình.
Ngày nay, Juan có bốn người con và bốn đứa cháu. Ông làm việc trong một công ty làm lề đường, lái xe tải và rải nhựa đường.
Ông và gia đình sẵn sàng chia sẻ căn nhà của họ cho những người di dân từ Mễ Tây Cơ, là những người cần sự giúp đỡ ban đầu.
Điều này đưa chúng ta trở về với bài Phúc Âm hôm nay và lời hứa của Chúa Giêsu: Ai giữ và dậy người khác tuân giữ các giới răn của Ta, họ sẽ nên cao trọng trong Nước Thiên Chúa.
Juan Romero đã giữ các giới răn và, qua đời sống gương mẫu, ông đã cũng đã dậy người khác làm như vậy.
Trước khi minh hoạ cách ông thi hành điều này, chúng ta cần biết về TNS Kennedy. Cũng giống như mọi người chúng ta, ông cũng có ưu và khuyết điểm trong đời sống.
Một trong những ưu điểm của thượng nghị sĩ Kennedy là ông có thể khích lệ và linh hứng giới trẻ thuộc mọi thành phần.
Thí dụ, trước khi ông bị ám sát, TNS Kennedy đã đến nói chuyện với các học sinh trung học ở trung tâm Pine Ridge Reservation ở South Dakota. Sau cuộc thăm viếng này, một thiếu nữ da đỏ cho biết: Ông đã làm chúng tôi cảm thấy hãnh diện về dòng giống chúng tôi, chứ không phải xấu hổ. Trong ánh nhìn xa xăm của các học sinh chung quanh tôi, một số đứa nhìn ông thấy kính sợ, đứa khác thấy hy vọng, đứa khác thấy đức tin… Chúng tôi biết rằng ông để ý đến chúng tôi.
Đó là ưu điểm của TNS Kennedy mà nó đã linh hứng ông Juan.
Chúng ta hãy thử nhìn xem làm thế nào qua gương mẫu đời sống, bây giờ đến lượt ông Juan linh hứng người khác.
Một trong những nguồn linh hứng người khác là tượng thánh giá và tấm ảnh của TNS Kennedy treo trên tường phòng ngủ của Juan.
Có bao nhiêu người Công Giáo ngày nay treo tượng thánh giá ở trong phòng để nhớ đến những gì Chúa Giêsu đã làm cho họ?
Tôi biết có lẽ sẽ nhiều người nói rằng, “Ba mươi năm trước thì người Công Giáo còn làm như vậy, chứ ngày nay thì có ai?”
Một năm trước đây, tôi cũng nói như vậy, nhưng một ngày kia, có một người cha cô độc đến với tôi và nói, “Thưa cha, con có câu chuyện muốn chia sẻ với cha. Tuần qua con đến thăm thằng con trai. Như cha biết, nó được học bổng đầy đủ của một trường đại học nổi tiếng ngoài đời ở miền đông. Con cũng hãnh diện là nó được bầu làm chủ tịch của lớp. Nhưng điều làm con thực sự xúc động, và hãnh diện hơn nữa về nó là khi con bước vào phòng của nó. Ở trên tường ngay trên đầu giường là một tượng thánh giá. Cạnh đó là tấm hình của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II mà nó đã cắt từ tờ báo.
Khi người cha kể cho tôi nghe câu chuyện này, tôi nghĩ ngay đến tấm gương của Juan Romero. Nhưng chúng ta hãy đi sang các tấm gương khác.
Nhiều người tín hữu Kitô ngày nay mang tràng hạt trong túi áo, cũng giống như ông Juan. Nhưng có bao nhiêu người sáng suốt đủ để đặt xâu chuỗi ấy vào tay của một người đang hấp hối vì đó là lúc họ cần đến nhất?
Có bao nhiêu tín hữu Kitô dám từ bỏ những cơ hội để được nổi tiếng và có tiền, như ông Juan đã làm, chỉ vì họ không muốn lợi dụng sự đau khổ của người khác?
Sau cùng, có bao nhiêu tín hữu Kitô dám chia sẻ mái nhà của mình cho những người di dân là những người cần được giúp đỡ ngay tự ban đầu, như ông Juan đang thi hành ngày hôm nay? Tôi nghĩ điều đó rõ ràng cho thấy cách ông Juan dậy người khác bằng gương mẫu của mình.
Chúng ta hãy kết thúc với những lời của một thi sĩ. Bài thơ vô danh này giải thích cách chúng ta áp dụng những điểm này vào đời sống của mình.
Tất cả sẽ vô hiệu khi giảng dậy về chân lý, cho những đôi tai của các thiếu niên… Lời lẽ hay ho sẽ đánh bóng cho lời bạn khuyên bảo, nhưng thanh thiếu niên sẽ học hỏi từ cách bạn sống.

Lm Mark Link, SJ

Việt Nam có đưa Trung Quốc ra tòa?

Việt Nam có đưa Trung Quốc ra tòa?

Thứ năm, 13 tháng 2, 2014

 

Trung Quốc ngày càng hung hăng trên Biển Đông

Hãng tin Anh Reuters vừa đăng tải bài viết của ký giả Greg Torode nói về khả năng một ‘cuộc chiến pháp lý’ giữa các nước Asean với Trung Quốc trong lĩnh vực chủ quyền ở Biển Đông.

Mới đây, Tổng thống Philippines Benigno Aquino đã gây chú ý khi ông so sánh chính sách của Trung Quốc tại Biển Đông với Đức Quốc xã thời trước Thế chiến II và kêu gọi quốc tế trợ giúp cho các nỗ lực đối chọi lại tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh mà Manila đang đưa ra.

Philippines đã mang tranh chấp chủ quyền biển với Trung Quốc ra tòa trọng tài quốc tế để phán xử theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển và theo các luật sư, tòa án có thể cho phép các nước khác cùng tham gia.

Trung Quốc cho tới nay vẫn khước từ tham gia vụ kiện và đã cảnh báo Việt Nam không nên ủng hộ Philippines.

Tuy nhiên, phóng viên Reuters nói Hà Nội vẫn đang cân nhắc và chưa đưa ra quyết định cuối cùng nào.

Bà Bonnie Glaser, chuyên gia từ Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và các vấn đề quốc tế tại Washington, được dẫn lời nói: “Nếu như có nhiều quốc gia, trong đó có các thành viên Asean, cùng lên tiếng ủng hộ việc áp dụng luật pháp quốc tế để giải quyết tranh chấp thì Bắc Kinh có thể sẽ thấy rằng họ không thể bác bỏ phán quyết của tòa quốc tế, ngay cả khi phán quyết đó nói đường chín đoạn của Trung Quốc là bất hợp pháp”.

Đức quốc xã

“Nếu như có nhiều quốc gia, trong đó có các thành viên Asean, cùng lên tiếng ủng hộ việc áp dụng luật pháp quốc tế để giải quyết tranh chấp thì Bắc Kinh có thể sẽ thấy rằng họ không thể bác bỏ phán quyết của tòa quốc tế, ngay cả khi phán quyết đó nói đường chín đoạn của Trung Quốc là bất hợp pháp.”

Bonnie Glaser, chuyên gia Trung tâm CSIS , Washington DC “

Các nước tranh chấp chủ quyền trực tiếp ở Biển Đông, ngoài Trung Quốc và Philippines, còn có Việt Nam, Malaysia và Đài Loan.

Trong phỏng vấn với báo New York Times hồi tuần trước, Tổng thống Aquino đã so sánh tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc với Đức Quốc xã năm 1938.

Ông cũng kêu gọi các nước không tiếp tục nhượng bộ trước các yêu sách mà ông ví như Anh và Pháp nhượng vùng Sudetenland với mục đích ngăn ngừa Thế chiến II nhưng bất thành.

Hoa Kỳ có lẽ là một trong các quốc gia lên tiếng đầu tiên ủng hộ Philippines tìm kiếm giải pháp hòa bình thông qua luật biển cho tranh chấp.

Được biết chủ đề tranh chấp Biển Đông có thể sẽ được đặt lên bàn nghị sự trong chuyến thăm của Ngoại trưởng John Kerry tới Bắc Kinh tuần này.

Trong khi đó, theo Reuters, Trung Quốc vẫn tiếp tục các động thái ngày càng mạnh bạo tại Biển Đông.

Điều đáng chú ý là phản ứng của các nước liên quan.

Báo chí nhà nước Trung Quốc đưa tin đoàn tàu tuần tra gồm hai tàu khu trục và một tàu đổ bộ hạng lớn đã tới gần bãi James Shoal – cách bang Sarawak của Malaysia có 80 km.

Tuy nhiên không rõ vì sao người đứng đầu hải quân Malaysia lại bác bỏ tin này, trong khi Tân Hoa Xã vẫn tường thuật chi tiết hải trình của các tàu Trung Quốc, rằng chúng đã qua các eo biển chiến lược của Indonesia là Lombok và Makassar để ra Ấn Độ Dương.

Truyền thông Trung Quốc còn cho hay nước này đã đưa tàu tuần tra dân sự tải trọng 5.000 tấn tới quần đảo Hoàng Sa mà Việt Nam cũng tuyên bố chủ quyền.

Tính toán của Việt Nam

Trong khi thông thường giới chức Hà Nội chỉ đưa ra các phản đối có tính khuôn mẫu, giới quan sát cho rằng ở đằng sau Việt Nam đã có những hành động nghe ngóng và tham khảo ý kiến của giới chuyên gia luật quốc tế khiến Trung Quốc phải lên tiếng cảnh báo nước này không nên tham gia vụ kiện của Philippines.

Carl Thayer, chuyên gia về Biển Đông tại Học viện Quốc phòng Australia tại Canberra, nói ông được giới chức Việt Nam cho biết đích thân Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị đã mang cảnh báo này tới cho quan chức Việt Nam trong chuyến đi Hà Nội tháng 9/2013.

Theo ông Thayer, Việt Nam đang cố cưỡng lại áp lực để giữ quyền có thể có hành động bảo vệ lợi ích quốc gia của mình.

Cựu phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị khi được hỏi về áp lực từ phía Trung Quốc đã không trả lời thẳng nhưng nói Hà Nội “theo dõi chặt các bước đi về luật pháp của Philippines”.

Đối với câu hỏi liệu Việt Nam có quyết định tham gia vụ kiện hay không, ông Nghị cũng chỉ trả lời rằng Việt Nam sẽ “sử dụng tất cả các biện pháp cần thiết và hòa bình để bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia”.

Hiện tại đội ngũ gồm 5 luật sư Mỹ và Anh của Philippines đang chuẩn bị hoàn tất hồ sơ đệ tòa trước thời hạn 30/3 nhằm chứng minh đường yêu sách chín đoạn, còn gọi là đường ‘lưỡi bò’ của Trung Quốc, là bất hợp pháp theo Luật biển LHQ.

Luật sư trưởng của Philippines trong vụ này, Paul Reichler, thuộc công ty luật Foley Hoag đặt ở Washington DC, nói tòa trọng tài quốc tế có các điều khoản cho phép các nước khác xin tham gia.

Ông nói với Reuters tuy hiện chưa có nước nào ngỏ ý nhưng họ “còn nhiều thời gian để làm việc này”.

Liệu Việt Nam có quyết định tham gia hay không, chắc phải theo thời gian mới có lời giải đáp

Cuộc chiến 1979 và báo chí 35 năm trước

Cuộc chiến 1979 và báo chí 35 năm trước

Thứ sáu, 14 tháng 2, 2014

Tranh cổ động chống TQ được treo trên khắp các con đường tại VN năm 1979.

Nhân dịp kỷ niệm 35 năm chiến tranh biên giới Việt-Trung, ông Nguyễn Công Khế, Cựu Tổng Biên tập Báo Thanh Niên kể lại với BBC cách truyền thông Việt Nam của 35 năm trước đưa tin về cuộc chiến ngắn ngủi nhưng khốc liệt này.

BBC: Khi cuộc chiến nổ ra năm 1979 thì ông đang công tác ở đâu, và báo chí lúc đó đưa tin về cuộc chiến như thế nào, thưa ông?

Nhà báo Nguyễn Công Khế: Lúc đó tôi làm phóng viên của báo Phụ nữ Việt Nam. Tôi nhớ lúc đó ông Hoàng Tùng là Bí thư Trung ương Đảng phụ trách về tư tưởng, đã viết một bài xã luận rất mạnh trên báo Nhân Dân, nếu tôi nhớ không nhầm thì có tựa là “Đánh sập thói hung hăng của quân Trung Quốc xâm lược.”

Hồi Trung Quốc đánh Việt Nam thì phải nói là cả nước rất đồng lòng.

Tôi nhớ khi đó Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam và các đài khác đều phát bài của Phan Nhân mà bây giờ hát lại vẫn rất hay, có đoạn là “Bọn bành trướng Trung Quốc hãy cút ra khỏi Việt Nam ngay”.

Tôi nghĩ rằng chuyện Trung Quốc đánh sáu tỉnh biên giới phía Bắc và tàn sát người Việt Nam thì toàn dân đều ghi nhớ. Và đó là một cuộc chiến đấu rất anh dũng của người Việt Nam trước thế lực bành trướng phương Bắc.

BBC: Ngoài những bài xã luận thì những bài tường thuật về tình hình chiến trường có được đăng tải thường xuyên không, thưa ông?

Nhà báo Nguyễn Công Khế: Lúc đó đăng tải thường xuyên chứ.

Mở bằng chương trình nghe nhìn khác

Khi đó ông Võ Văn Kiệt đã nhân danh là Bí thư thành ủy để đứng trước rất nhiều cuộc mít tinh trước Nhà hát lớn thành phố và lên án Trung Quốc rất mạnh mẽ.

Từ Bộ Chính trị của Việt Nam đến Trung ương và toàn dân rất quyết tâm để bảo vệ biên giới phía Bắc.

Các tầng lớp nhân dân, từ lao động, xe ôm đến các tầng lớp trí thức đều biểu hiện quyết tâm rất cao.

BBC: Ông có thể thuật lại quan sát của ông về sự thay đổi trong cách đưa tin cũng như chủ trương về cách đưa tin xung quanh sự kiện chiến tranh biên giới năm 1979 trước và sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ?

Nhà báo Nguyễn Công Khế: Tôi nghĩ thế này. Các nước đều phải cẩn trọng trong việc xử sự với nhau để bảo vệ đối sách ngoại giao của mình.

Thế nhưng anh kỷ niệm chiến tranh với người Mỹ thì rất lớn, mà máu của người Việt Nam đổ ra trong các cuộc chiến tranh, thì máu nào cũng là máu, đâu phải nước lã.

Tôi đã từng trao đổi với những vị lãnh đạo lớn ở Việt Nam. Tôi nói vì sao chiến thắng Điện Biên Phủ chúng ta làm rất lớn, rồi chiến tranh với người Mỹ cũng kỷ niệm rất lớn, trong khi cuộc chiến tranh năm 1979 để bảo vệ Tổ quốc, cuộc chiến ghê gớm như thế, cuộc chiến mà chúng ta bị tàn sát, hy sinh nhiều như thế, lại không kỷ niệm.

Người lãnh đạo đó mới nói với tôi rằng cái đó cũng phải kỷ niệm chứ, đó cũng là một cuộc chiến của người Việt Nam chống ngoại xâm, chúng ta kỷ niệm chiến thắng quân Nguyên-Mông, chiến thắng của Quang Trung Nguyễn Huệ, đó là vấn đề bình thường, không có gì phải bàn tán.

Đối sách ngoại giao của Việt Nam đối với một nước khác, với Mỹ, Thái Lan hay Campuchia cũng vậy. Ngoại giao là của nhà nước, còn báo chí là kênh riêng.

Những việc vì lợi ích quốc gia như việc kỷ niệm chiến tranh biên giới năm 1979 là việc rất đáng làm, không có gì phải ngần ngại cả. Tôi nghĩ nếu anh cấm thì rất vô lý, lúc đó thì giới trẻ và nhân dân nghĩ về anh thế nào?

Nguyễn Công Khế, cựu Tổng biên tập báo Thanh Niên

‘Trong các cuộc chiến tranh, thì máu nào cũng là máu, đâu phải nước lã’ – Nguyễn Công Khế

BBC: Thế nhưng những loạt bài về chiến tranh biên giới năm 1979 trên PetroTimes hoặc báo Một Thế giới đều bị gỡ, thưa ông?

Nhà báo Nguyễn Công Khế: Có hai trường hợp, có thể người ta ngại ảnh hưởng tới quan hệ với Trung Quốc nên người ta bảo rút. Nhưng tôi nghĩ khả năng đó thấp thôi.

Các tổng biên tập báo trong nước người ta cũng tự kiểm duyệt, khi người ta đăng lên rồi người ta cũng vì sợ hay ngại cái gì đó mà tự rút thì cũng có.

Chính ông Nguyễn Thế Kỷ là Phó Ban Tuyên giáo Trung ương mà đã nói là không có lệnh cấm đó, thì tôi cũng tin một phần nào đó là không có chuyện đó.

BBC: Nếu Việt Nam có tự do báo chí thì phải chăng là lãnh đạo Việt Nam sẽ đỡ phải khó xử mỗi lần kỷ niệm các cuộc chiến, bởi những gì xuất hiện trên mặt báo không thể hiện quan điểm ngoại giao của nhà nước?

Nhà báo Nguyễn Công Khế: Nếu giả sử tôi là người lãnh đạo hoặc tôi có quyền gì đó, thì việc báo chí, báo chí cứ làm, việc Bộ Ngoại giao, Bộ Ngoại giao làm.

Trung Quốc một mặt thì nói là hữu hảo, 16 chữ vàng, nhưng một số báo của Trung Quốc như Hoàn cầu Thời báo cũng nói về Việt Nam rất không đúng và tệ hại.

Khi chúng ta hỏi họ thì họ nói là trung ương không chủ trương mà là các báo tự làm. Trung Quốc luôn luôn đối xử như vậy đấy.

Dư Âm Năm Cũ

Dư Âm Năm Cũ

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Nhiều việc nhỏ góp lại sẽ thành việc lớn. Xưa nay vẫn thế, có cách nào khác được.

Giáp Văn Dương

Tháng 9 năm 1975, Lý Chánh Trung được mời tham dự Hội Nghị Hiệp Thương Thống Nhất. Chuyến đi này đã được ghi lại, với rất nhiều hào hứng:

“Ra Bắc, gặp một cô lái đò, cô hỏi: có phải là giáo sư Lý Chánh Trung không? Đúng là tôi. ‘Trước 1975, cháu có đọc nhiều bài viết của chú, cháu thích lắm…’

“Lý Chánh Trung tấm tắc đưa ra nhận xét: Trình độ văn hóa ngoài Bắc cao. Chiến tranh như thế mà một cô lái đò cũng tìm đọc Lý Chánh Trung ở trong Nam…” (Miền Đất Lạnh – Nguyễn văn Lục, ĐCV).

Trước Lý Chánh Trung, Trần Vàng Sao cũng đã (lỡ) bước chân ra Bắc nhưng nhà thơ của chúng ta, xem ra, không được hào hứng như nhà giáo. Nhật ký của ông, có đôi dòng, khiến người đọc phải … buồn nôn:

Nếu không có tài đánh giặc thì miền Bắc chỉ là một vũng nước bùn lộn cứt.”

Mươi, mười lăm năm sau, sau khi chuyện “giặc dã” đã qua, cái “vũng nước bùn miền Bắc” (ngó bộ) vẫn còn trộn lộn nhiều thứ không được thanh nhã gì cho lắm:

“Lời ăn tiếng nói lễ độ cũng khó gặp, chứ đừng nói gì đến văn vẻ… Một cô gái có thể nói oang oang giữa chợ:

– Nó rủ tao đi nhưng tao đ… đi.

– Sáng nay mẹ mày qua xin lửa bố tao, bố tao đ… cho…”

“Một cái gì đó đã phá vỡ lòng tin của con người rằng xã hội luôn luôn cố gắng đem lại sự tốt đẹp cho mình, và chính mình phải có bổn phận phải gìn giữ các công trình xã hội để mình và mọi người cùng hưởng. Người ta thẳng tay cắt dây điện để bán lấy chút tiền, có thể đốt hết một kho hàng hoá để phi tang cho một vật ăn cắp không đáng là bao… con người đối xử với xã hội thô bạo như vậy chỉ vì xã hội đã đối xử với họ tệ quá. (Phạm Xuân Đài. Hà Nội Trong Mắt Tôi. Thế Kỷ: Hoa Kỳ 1994, 32-33).

Và đến hôm nay, sau gần bốn mươi năm đất nước thống nhất (Nam/Bắc hoà lời ca)  thì niềm tin đã hoàn toàn “cạn kiệt” – ở cả hai miền – theo như nguyên văn cách nói của tiến sĩ Giáp Văn Dương:

Một trong những vấn đề lớn nhất mà xã hội này phải đương đầu là sự mất niềm tin trầm trọng. Niềm tin giữa người dân và chính quyền, giữa người dân và doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với nhau, tóm lại giữa người và người, và đặc biệt là niềm tin vào bản thân mình…

Trong số những người tôi quen biết mỗi người chọn một cách phản ứng khác nhau. Nhiều người chọn sự cam chịu. Nhiều người lảng tránh, lảng tránh thực tại, lảng tránh nhìn vào mắt đối diện.

Nhiều người giết thời gian trên bàn nhậu. Có tiền thì nhậu sang, ít tiền thì bình dân. Thanh niên ít tiền hơn thì giết thời gian trong các quán trà đá vỉa hè.

Người không thích nhậu, hoặc không đủ sức để nhậu hoặc không có tiền để nhậu thì vùi mình vào các trang lá cải, mỗi ngày ngốn hàng chục bài tin tức, na ná như nhau vô thưởng vô phạt. Sau đó bức xúc một hồi, càm ràm hoặc nặng hơn là chửi đổng vài câu rồi lại vùi đầu đọc tiếp.

Nhiều người bức xúc quá có phản ứng mạnh. Nhưng như con cá nằm trên lưới, càng giẫy giụa càng đau đớn. Nên sau mỗi hồi mệt mỏi cũng đến lúc nằm im “makeno”….

Tôi e rằng Giáp Văn Dương đã viết những dòng chữ thượng dẫn vào lúc ông đang buồn tình và giận người hay hận đời (đen bạc) chi đó, chớ “makeno” không phải là một quan niệm sống của tất cả mọi người dân Việt. Hãy nghe đôi lời chúc tụng rất “ấm áp,” vào dịp cuối năm – của của một ông nghè khác – tiến sĩ Trần Đăng Tuấn:

“Chỉ ít giờ nữa là bước vào năm Giáp Ngọ. Xin gửi lời chúc một năm ấm áp và nhiều niềm vui tới Đại Gia đình Cơm Có Thịt.

Xin gửi tới bác gái tuổi đã cao ở phương Nam, cứ khi nào cần là lại hóm hỉnh “Có bà con đây!” với những đồng tiền ủng hộ từ lương hưu.

Gửi tới bạn không ghi rõ tên, tháng nào cũng vậy, đều đặn gửi 50 ngàn đồng cho các bé vùng cao. Gửi tới những cô bé, cậu bé giúp các bạn từ tiền nuôi lợn tiết kiệm, tiền thưởng học giỏi… Gửi tới bạn nhắn tin: “Bây giờ em vừa mất việc, em sẽ không gửi đều được như trước. Có việc làm mới là em sẽ lại gửi đều đặn hàng tháng cho các em”. Gửi tới những người ghi tên và không ghi tên, có nhiều ủng hộ nhiều, có ít ủng hộ ít trong suốt năm qua.

Gửi tới các bạn Đại sứ Cơm Có Thịt ở những nơi xa xôi.

Gửi đến bao Tình Nguyện Viên đã lao động vất vả để mang lại nụ cưới của các bé nghèo vùng cao…

Gửi đến bao thày cô giáo vùng cao – nhờ có các thày cô mà mỗi lớp học như bếp lửa hồng nơi giá rét. Gửi đến các bé vùng cao mà chúng ta rất yêu thương.

Gửi đến tất cả lời chúc tốt đẹp nhất nhân mùa xuân mới đang đến…”

Bạn cũng có thể tình cờ đọc được những dòng chữ “ấm áp” khác – mộc mạc hơn nhiều – dán ở một góc đường nào đó, giữa phố phường Hà Nội:

Năm hết tết đến, khi mọi người đang quây quần bên nhau,cùng đi chơi, cùng ngắm pháo hoa và đón giao thừa bên gia đình thì đâu đó quanh ta vẫn còn những mảnh đời bất hạnh. Họ vẫn hàng ngày phải lang thang trên khắp các đường phố Hà Nội để mưu sinh, kiếm sống hàng ngày, để đến khi đêm về vẫn là những vỉa hè, những ghế đá, atm quen thuộc.

Giao thừa năm nay vẫn còn không ít những vô gia cư phải đón tết tại Hà Nội. Nhằm giúp đỡ và sẻ chia những khó khăn, tôi tổ chức đêm nhạc thiện nguyện với mong muốn có chút quà nhỏ gửi tới các cô chú,các bác vô gia cư trong đêm giao thừa .
Giá vé : 30.000 ( free 1 đồ uống )
Khách mời : Wind band
Thứ 2 ngày 20.01.2014 tại Q cafe số 32 Nguyễn Xiển.
Bắt đầu lúc 19h30.
Kết thúc : 22h30 .
Số tiền thu được sẽ dùng để mua bánh kẹo và làm lì xì.
Dự kiến :Lì xì : 40×50 = 2.000.000
bánh kẹo : 40×20 = 800.000
Các bạn đăng ký đi phát quà đêm giao thừa vui lòng SMS : 0963.98.91.98
Chúc các bạn năm mới an khang, thịnh vượng
.

Affice: Đêm nhạc từ thiện  ” Ấm lòng Hà Nội Phố 2 “

Những ngày cuối năm, khi đi lang thang trên net, tôi cũng gặp vô số những bạn trẻ đang “len lỏi nhiều tuyến đường, con hẻm để gửi tặng quà cho những cụ già, người lang thang trong đêm lạnh Sài Gòn.”

Ảnh: news.zing.vn

Và có lẽ món quà “ý nhị” nhất, trong những ngày cuối năm, đã được gửi qua “chiến dịch trao niềm vui – nhận nụ cười” của các thành viên của Câu Lạc Bộ Sư Tử Trẻ:

“Họ đã tặng hơn 800 bông hoa hồng, khoảng 200 chai nước cho những người nghèo, người bán hàng rong. Và món quà họ nhận lại là những nụ cười thật tươi, những ánh mắt cảm động của người dân. Niềm vui đó không chỉ hiện diện ở người được nhận hoa mà còn lan tỏa xung quanh, bất kỳ nơi nào mà các thành viên trong CLB trao tặng. Tất cả các thành viên đều mong muốn, sẽ mang lại niềm vui cho những người phụ nữ quanh năm mua gánh, bán bưng, họ hiếm khi nào nhận được một bông hoa.”

“Họ hiếm khi nào nhận được một bông hoa.” Ảnh và chú thích của tiin.vn

Nếu những “đốm lửa nhỏ nhoi” này (vẫn theo như nguyên văn cách dùng chữ của tiến sĩ Giáp Văn Dương) vẫn chưa làm bạn yên tâm thì xin thêm đọc thêm đôi ba dòng nữa, nóng bỏng hơn nhiều, qua FB:

“Chúng tôi đại diện cho Hội Bầu bí Tương thân, Diễn đàn Xã hội Dân sự và Phong trào Con đường Việt Nam đến thăm và tặng quà Tết tới một số gia đình tù nhân, cựu tù nhân chính trị khu vực phía Nam. Qua hoạt động này, nhóm Hội muốn gửi gắm tới gia đình lời động viên, chia sẻ và mong rằng người thân của các anh chị còn đang ở trong kia hãy ấm lòng lên một chút, ở nơi đây hay ở những nơi rất xa, chúng tôi – nhóm Hội và bạn bè của nhóm Hội – vẫn nhớ về họ, mong họ giữ gìn sức khỏe, sớm trở về với gia đình, bạn bè.”

Từ phương xa, dù sắp bước vào tuổi bát tuần, nhà báo Bùi Tín bỗng vui như tuổi thơ:

“Tết này cả một loạt tổ chức xã hội dân sự họat động sôi nổi, trong số đó có Hội anh em Dân chủ, Hiệp hội Dân Oan Việt Nam, Hội Ái hữu Tù Chính trị, Mạng lưới Blogger Việt Nam, Hội Bầu Bí tương thân, Những người bạn của Hoàng Sa – Trường Sa, Nhịp cầu Hoàng Sa, các đội bóng No-U… Trong lúc đó cả một phái đoàn khá hùng hậu và tiêu biểu tìm cách lọt được lưới công an sang tận châu Mỹ và châu Âu, vào Quốc hội Hoa Kỳ và sẽ sang Thụy Sỹ làm việc với cơ quan Nhân quyền Liên Hiệp  Quốc, gặp các nhà báo Việt Nam và quốc tế, đúng vào lúc việc VN vào khối kinh tế  Xuyên Thái Bình Dương TPP đang được thương lượng trong phiên cuối, và cũng đúng vào lúc VN sắp bị sát hạch định kỳ về  “hạnh kiểm nhân quyền” (UPR – Universal Periodic Review) vào ngày 5/2/2014 tới tại Genève, Thụy Sỹ…”

Riêng tôi, dù mỗi năm một tuổi, dư âm rộn ràng của những ngày cuối năm qua khiến tôi cảm thấy mình rất yên tâm để già đi (thêm) tuổi nữa.

Sinh viên học hầu đồng ngay giữa thủ đô

Sinh viên học hầu đồng ngay giữa thủ đô

nguồn: infonet.vn

Để cho sinh viên ngành văn hoá có cái nhìn đa diện về nghi lễ hầu đồng, trường Đại học Văn hoá Hà Nội đã đưa nội dung liên quan đến hầu đồng vào trong chương trình giảng dạy.

 

Một buổi hầu đồng

Phóng viên đã có buổi trao đổi với Thạc sỹ Nguyễn Thị Thanh Mai – Khoa Văn hoá học (ĐH Văn hoá Hà Nội) về vấn đề này.

Theo Thạc sỹ Nguyễn Thị Thanh Mai, hiện nay, có 3 tín ngưỡng tiêu biểu nhất, đó là thờ cúng tổ tiên – đây là đại diện cho giá trị về cội nguồn; thờ cúng Thành hoàng – đại diện cho tính gắn kết cộng đồng và thờ Mẫu là tín ngưỡng tiêu biểu, đề cao người phụ nữ. Đặc biệt đây là tín ngưỡng có sự hồi sinh rất lớn, được rất nhiều người quan tâm và hiện đang được diễn ra rất sôi nổi.

Trong quá trình giảng dạy, riêng nội dung liên quan đến thờ Mẫu được rất nhiều sinh viên quan tâm, tỏ ra háo hức khi được học môn học này, đặt biệt là nghi lễ lên đồng. Các bạn sinh viên rất muốn nghe nội dung này bởi lên đồng là nghi lễ rất đặc trưng của thờ Mẫu, trong khi đó ở những nơi các em sinh viên sinh sống (nhất là đa phần ở miền Bắc) nên rất nhiều các em biết về nghi lễ lên đồng, đã từng xem nhiều buổi lễ lên đồng, tuy nhiên, không phải em nào cũng hiểu hết về nghi lễ lên đồng, hầu đồng, không hiểu vì sao nó lại như thế.

Bên cạnh đó, các phương tiện thông tin đại chúng hiện nay nói về nghi lễ hầu đồng khá nhiều nên khi giảng đến nội dung này, tất cả các em sinh viên đều tỏ ra hào hứng, quan tâm tới hầu đồng. Chính vì vậy, chúng tôi đã đưa nội dung này vào giảng dạy cho các em hiểu vì sao lại phải đưa môn này vào giảng dạy, đi vào giới thiệu lịch sử hình thành và phát triển của thờ Mẫu, tại sao lại từ thờ nữ thần đến thờ Mẫu thần, thờ Mẫu tam phủ, tứ phủ…

Qua chương trình học, chúng tôi muốn cung cấp cho các em kiến thức để nhận diện được các vấn đề liên quan đến thờ Mẫu, hầu đồng để hiểu cho đúng.

Môn học này được đánh giá rất quan trọng nên ngay từ năm thứ 2, các bạn sinh viên trường ĐH Văn hoá (trừ 2 khoa Thư viện và Phát hành) phải học những nội dung liên quan đến thờ Mẫu, hầu đồng.

“Riêng đối với nghi lễ hầu đồng, thông qua những giáo cụ trực quan như bằng hình ảnh, video clip, chúng tôi sẽ hướng dẫn, giảng dạy cho các em sinh viên biết thế nào là nghi lễ hầu đồng, diễn ra như thế nào, có những ai tham gia… Ví dụ như khi xem một buổi hầu đồng, các em sẽ phải biết mình đang xem cái gì, vì sao người ta lại làm như vậy…” – Thạc sỹ Mai chia sẻ.

Thậm chí, trong quá trình giảng dạy, đến tiết học về hầu đồng là một trong những nội dung sôi nổi nhất, được các bạn tham gia nhiệt tình. Một số bạn sinh viên có căn đồng, đã từng đi hầu đồng… khi đến phần này, các bạn đóng góp rất là hay, với nhiều nội dung mang tính thực tế rất cao dựa trên những gì các bạn sinh viên có căn đồng đã trải qua.

Các bạn này đã chia sẻ mình có căn đồng như nào, vì sao, nguyên cớ nào lại đến với điều đấy…, thậm chí các bạn còn hát hầu đồng ngay trên lớp, thể hiện được nghệ thuật diễn xướng.

Tuy nhiên, riêng đối với việc đưa hầu đồng vào giảng day, chúng tôi nhấn mạnh vào yếu tố và giá trị văn hoá; đồng thời chỉ ra những yếu tố tiêu cực trong thờ Mẫu, đặc biệt là trong nghi lễ hầu đồng hiện nay để cho sinh viên có cái nhìn hai chiều, chứ không phải là cái nhìn một chiều, phiến diện.

Nhìn chung sinh viên rất quan tâm đến nội dung này, có một số bạn thắc mắc băn khoăn về các nội dung hầu đồng, nhiều bạn đã làm hẳn công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến hầu đồng…; nhiều bạn sinh viên cũng đã trực tiếp đến tôi để hỏi các vấn đề thắc mắc liên quan đến hầu đồng – điều này chứng tỏ nghi lễ hầu đồng không chỉ được những người già mới quan tâm mà ngay cả những bạn trẻ cũng không thờ ơ với nghi lễ văn hoá đặc sắc này.

Cũng theo Thạc sỹ Thanh Mai, trước đây, nhiều người nhìn nhận hầu đồng là mê tín dị đoan, là xằng bậy, nhưng hiện nay, rất nhiều người tỏ ra quan tâm, nghiên cứu, nhìn nhận ở khía cạnh tích cực, họ đón nhận và coi đây là một nét văn hoá dân gian.

Thậm chí, trong hội diễn văn nghệ ở trường, bên cạnh các tiết mục văn hoá dân gian như hát ở đào, chèo, tuồng… thì các em dành hơn nửa thời gian để tái hiện lại một nghi lễ hầu đồng và được đón nhận một cách tích cực từ phía các bạn sinh viên trong nhà trường.

Theo cá nhân tôi, cần phải nhìn nhận đây là một nét văn hoá cần được bảo tồn và phát huy, tìm hiểu và nhìn từ nhiều góc cạnh, tránh nhìn một cách phiến diện.

Nguồn LĐO

(Lên đồng hay hầu đồng được đem vào chương trình giảng dạy ở trường Đại Học Văn Hoá Hà Nội ?  Có thật không ? Nếu có thì thật là không thể hiểu nổi.)

Lẽ mầu nhiệm của sự chết và ân sủng của Thiên Chúa .

Lẽ mầu nhiệm của sự chết và ân sủng của Thiên Chúa .

Pt Huỳnh Mai Trác

2/11/2014

Sáng thứ năm, Đức Thánh Cha suy niệm về lẽ mầu nhiệm của sự chết, nói về việc cầu xin Thiên Chúa cho được ba ân huệ như sau : được chết trong Giáo Hội, chết trong niềm hy vọng và lưu lại như một chứng tá của người Kitô hữu .

Bài đọc một kể lại sự chết của vua Davít, sau khi đã cai quản nhân dân của mình và Davít đã chết giữa lòng dân chúng của mình” . Vua Davít thuộc về dân của Chúa . Davít đã phạm trọng tội, mặc dù là tội lỗi nhưng ông không bao giờ xa dân Chúa !”

Ông là người tội lỗi , vâng, nhưng không phải là người phản phúc ! Vâng, đó là một ân sủng : là ở lại đến giây phút cuối cùng với dân Chúa . Cầu xin làm sao để được chết giữa lòng Giáo Hội, ở giữa dân Chúa . Đó là điểm thứ nhất tôi cần nhấn mạnh . Chúng ta cũng vậy, cầu xin được chết tại nhà mình . Chết tại nhà, trong Giáo Hội . Đó là một ân sủng ! (Điều này không thể mua được ! Đó là một ân huệ của Chúa và chính chúng ta phải cầu xin điều ấy !”
“Lạy Chúa, xin cho con được chết tại nhà trong lòng Giáo Hội ! Vâng chúng con là những người tội lỗi ! Nhưng chúng con không phải là những tên phản phúc, không ! hủ hóa hư hỏng , không! Và Giáo Hội là người mẹ làm cho chúng ta trở nên sạch: người mẹ sẽ giặt sạch mọi dơ bẩn của chúng con !” .

Suy niệm thứ hai là vua Davít chết trong bình an, thanh thản và êm dịu ! ra đi về thế giới bên kia với tổ tiên .” Đây cũng là một ân huệ khác : chết trong niềm hy vọng, trong ý thức là thế giới bên kia đang chờ đợi chúng ta ; và bên kia cũng là nhà, là gia đình như vậy chúng ta không còn cô đơn “ . Đó là một ân huệ chúng ta cần phải cầu xin bởi vì chúng ta biết rằng đời sống là một cuộc chiến đấu không ngừng vì quỷ dữ luôn muốn có chiến lợi phẩm .”

“Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã nói, vào những giây phút cuối cùng có một cuộc phấn đấu trong tâm hồn và khi Bà nghĩ về tương lai, những gì đang chờ đợi Bà trên trời thì Bà nghe một tiếng nói: “Nhưng đừng quá ngu si, đời sau chỉ là bóng tối đang chờ đợi ngươi . Chỉ là bóng tối và hư không đang chờ đợi ngươi! Đó là lời của quỷ dữ, lời của ma quỷ, chúng không muốn Bà đến với Chúa “.

Chết trong hy vọng và chết trong kỳ vọng vào Thiên Chúa ! Hãy cầu xin Chúa ân huệ này; Nhưng hãy phú thác vào Thiên Chúa ngay từ giờ phút này, trong những công việc nhỏ nhặt hằng ngày cũng như các vấn đề trọng đại khác : luôn luôn ký thác mọi sự trong tay Chúa . Một khi đã có thái độ tin tưởng ký thác thì niềm hy vọng càng lớn lên . Hãy chết trong nhà của mình trong niềm hy vọng “ .

Suy niệm thứ ba là gia nghiệp mà vua Davit đã để lại . Có rất nhiều điều xấu xa về gia nghiệp đó là những chia rẻ trong gia đình “. Tuy vậy vua Davit đã để lại gia sản của 40 năm cai trị đất nước là một dân tộc hùng mạnh và đòan kết .”

“Theo một ngạn ngữ rất phổ biến là những người đàn ông thường ước muốn để lại trong đời sống một đứa con trai, trồng một cây cao và viết một quyển sách : đó là một gia sản quý báu! “ .

Như vậy Đức Thánh Cha hỏi mỗi người tự đặt câu hỏi là “ Phần tôi tôi để lại gia sản gì cho hậu thế? Một gia sản về cuộc sống ? Tôi có nhiều tài sản đến nỗi nhiều người muốn nhận tôi làm cha hay làm mẹ ? Tôi có trồng một cây cao không ? Tôi có để lại sự khôn ngoan cho đời không ? Tôi có viết nên một quyển sách không ?

Vua Davít đã để lại một gia nghiệp cho con trai của ngài : “ Hãy hùng mạnh và chứng tỏ là một vĩ nhân . Hãy giữ luật Chúa, Chúa của ngươi, bằng cách thi hành và tuân theo lề luật của Thiên Chúa !” .

“Gia nghiệp này chính là chứng tá của một Kitô hữu truyền lại cho những người khác . Và chắc chắn đã có nhiều người đã để lại những gia nghiệp đồ sộ ; chúng ta hãy nghĩ đến các Thánh đã sống vững mạnh theo Phúc Âm, và để lại cho chúng ta con đường đi đến sự sống và như một gia sản quý báu .”

Đó là ba điều suy niệm đến trong tâm tư của tôi khi đọc đọan nói về cái chết của vua Davít : hãy cầu xin được chết tại nhà mình trong lòng Giáo Hội, cầu xin được chết trong hy vọng, và cầu được lưu lại một gia sản tốt đẹp, một gia sản nhân bản, một gia sản làm chứng tá cho một đời sống của người Kitô hữu . Ước gì vua Thánh Davít giúp chúng ta có được ba ân huệ trên . (Nguồn Tin : News.va)

TỪ YÊU ĐỒNG LOẠI ĐẾN YÊU KẺ THÙ

TỪ YÊU ĐỒNG LOẠI ĐẾN YÊU KẺ THÙ

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.

CHÚA NHẬT VII THƯỜNG NIÊN NĂM A (23/02/2014)

[Lv 19, 1-2.17-18; 1 Cr 3,16-23; Mt 5,38-48]

I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ

Trong dịp Tết vừa qua, tôi xem nhiều chương trình của đài truyền hình, trong đó có chương trình “XIN CHỮ ĐẦU NĂM” khiến tôi suy nghĩ và bức xúc nhất. Người của Đài hỏi một nhân vật (tôi không nhớ tên) là ông muốn tặng cho Việt Nam “CHỮ GÌ” cho Năm Mới Giáp Ngọ này, thì nhân vật ấy trả lời đó là chữ “NGHĨA”, “TÌNH NGHĨA”, “NGHĨA LỄ” tức mối tương quan tốt đẹp của người này với người kia, của Nhà Nước với nhân dân, của Chính Quyền với các thành phần xã hội (trí thức, tôn giáo, lao động… ), của nước mình với các nước khác….

Tôi rất tâm đắc với câu trả lời của nhân vật trong chương trình, vì tôi cũng thấy đó là điều Việt Nam ta đang rất cần, vì quan hệ của người với người trong xã hội ta càng ngày càng tồi tệ (lừa đảo, gian dối, trọng đồng tiền và ý thức hệ hơn con người). Quan hệ giữa chính quyền và nhiều thành phần dân chúng, nhất là với giới trí thức ngoài đảng, giới tôn giáo, càng ngày càng có hố sâu ngăn cách: chỉ là “bẳng mặt” chứ chưa thật sự “bằng lòng” vì thiếu chân thực và tin tưởng nhau.

Thánh Kinh Ki-tô giáo rất coi trọng các mối tương quan xã hội nên mới dậy người ta phải “yêu mến và quý trọng đồng loại”. Và Chúa Giê-su Ki-tô, Thiên Chúa làm người, còn đòi hỏi nhiều hơn: “hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những người ngược đãi mình.”

Để thực thi giáo huấn cao trọng trên của Ki-tô giáo, mỗi Ki-tô hữu, giáo sĩ, tu sĩ cũng như giáo dân, cần có sức mạnh của Chúa Thánh Thần.

II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong bài đọc 1 (Lv 19, 1-2.17-18): Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình

1 Đức Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 2 “Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh.

17 Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó. 18 Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình. Ta là Đức Chúa.

 

2.2 Lắng nghe Lời Chúa trong bài đọc 2 (1 Cr 3,16-23): Tất cả đều thuộc về anhem, mà anh em thuộc về Đức Ki-tô và Đức Ki-tô lại thuộc về Thiên Chúa

16 Thưa anh em, nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? 17 Vậy ai phá huỷ Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt kẻ ấy. Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em.

18 Đừng ai tự lừa dối mình. Nếu trong anh em có ai tự cho mình là khôn ngoan theo thói đời, thì hãy trở nên như điên rồ, để được khôn ngoan thật. 19 Vì sự khôn ngoan đời này là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa, như có lời chép rằng: Chúa bắt được kẻ khôn ngoan bằng chính mưu gian của chúng. 20 Lại có lời rằng: Tư tưởng kẻ khôn ngoan, Chúa đều biết cả: thật chỉ như cơn gió thoảng ngoài.

21 Vậy đừng ai dựa vào phàm nhân mà tự hào. Vì tất cả đều thuộc về anh em;  22 dù là Phao-lô, hay A-pô-lô, hay Kê-pha, dù cả thế gian này, sự sống, sự chết, hiện tại hay tương lai, tất cả đều thuộc về anh em, 23 mà anh em thuộc về Đức Ki-tô, và Đức Ki-tô lại thuộc về Thiên Chúa.

2.3 Lắng nghe Lời Chúa trong bài Tin Mừng (Mt 5,38-48): Hãy yêu kẻ thù

38 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng:  “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. 39 Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. 40 Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. 41 Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. 42 Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi.

43 “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. 44 còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.  45 Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính.  46 Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi ? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao ? 47 Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao ? 48 Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.

III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Chúa là ai?)

Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:

– là Đấng đòi hỏi con cái Ít-ra-en không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, sẽ khỏi mang tội vì nó;  không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi và phải yêu đồng loại như chính mình.

– là Chúa Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời Thiên Chúa, Đấng đã đến trần gian để dậy dỗ các môn đệ sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa là Đấng yêu thương hết mọi người. Vì thế các Ki-tô hữu được mời gọi yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ làm hại mình.

– là Chúa Thánh Thần, Đấng ban sức mạnh thần linh cho các Ki-tô hữu để họ vượt lên trên tự nhiên để yêu chính những kẻ thù địch với mình.

3.2 Sứ điệp hay Giáo Huấn của Lời Chúa (Chúa dậy gì hay Chúa muốn chúng ta làm gì?)

Sứ điệp hay Giáo huấn của Lời Chúa hôm nay là các môn đệ Chúa Giê-su Ki-tô phải yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi mình. Yêu kẻ thù nên phải tha thứ cho họ và giúp họ thoát khỏi cách sống lầm lạc hay làm hại người khác.  Cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình để kẻ ấy được ơn thứ tha và không làm điều bất công, bất chính nữa mà quay về đường ngay nẻo chính của người lương thiện.

IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI

4.1 Sống với Thiên Chúa là Chúa Cha, Đấng đã dậy chúng ta không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, sẽ khỏi mang tội vì nó; không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi và phải yêu đồng loại như chính mình.

Sống với Thiên Chúa là Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng đã dậy chúng ta phải yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi mình.

Sống với Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần, Đấng soi sáng và ban sức mạnh cho các Ki-tô hữu, để giúp chúng ta thực thi thánh chỉ của Thiên Chúa và của Chúa Giê-su Ki-tô.

4.2 Thực thi  Ý Chúa hay Giáo Huấn của Chúa là yêu kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình.

V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ THẾ GIỚI

[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý:  ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]

5.1 “Không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi và phải yêu đồng loại như chính mình.” Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các dân tộc trên thế giới, nhất là cho dân tộc đang có xung đột, chiến tranh, để  các tầng lớp xã hội rộng lòng thứ tha cho nhau và yêu thương nhau.

Xướng: Chúng con cầu xin Chúa!

Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!

5.2 “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh.” Chúng ta hãy cầu xin Chúa cách đặc biệt cho Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ để các vị ấy nên những vị chân tu, đạo đức thánh thiện như Thiên Chúa mong ước.

Xướng: Chúng con cầu xin Chúa!

Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!

5.3 “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi mình.” Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các Ki-tô hữu thuộc cộng đồng giáo xứ chúng ta, để mọi người nghiêm chỉnh thực hành giáo huấn của Chúa Giê-su Ki-tô.

Xướng: Chúng con cầu xin Chúa!

Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!

5.4 “Phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó.” Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các vị lãnh đạo trong giáo hội cũng như trong xã hội để các vị ấy có đủ dũng cảm mà quở trách và trừng phạt những kẻ  vi phạm luật pháp và đạo đức.

Xướng: Chúng con cầu xin Chúa!

Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.