MÙA XUÂN, ÁO MỚI

MÙA XUÂN, ÁO MỚI

Phan sinh Trần

Bạn ơi khi mình yêu ai thì mỗi buổi gặp gỡ là một kỷ niệm rất thích thú phải không ?

Trong buổi hẹn hò, mình hay chú ý hình dáng của người yêu, chú ý cái áo thường là rất đẹp của người yêu mặc. Tôi còn nhớ, mình đã từng làm bài thơ này khi thấy người yêu mặc áo sơ mi lụa hồng phấn, lần đầu đến thăm tôi tại nhà trong Ngày đầu Xuân.

Chiều mồng ba Tết đến nhà,

Ôi em mắt biếc, lụa là mới xinh

Áo hồng em mặc lung linh

Mịn màng má trắng, môi trinh nguyên nồng

Thơ ngây, e ấp em cười

Anh nghe xuân mới sáng tươi cuộc đời

Lòng anh nở hội sao đăng

Đơn sơ áo lụa mà răng nhớ hoài…

Đó là chuyện của Ngày xưa còn bé phải không? Bây giờ thì sao rồi.

Đáng tiếc là tình yêu thế gian dù ít, dù nhiều cũng có sự  “bể mộng”, chưa lấy thì “nay ước mai ao “, tranh đấu mãi để có nhau, nhưng khi lấy được rồi thì lại “ sáng mắt như tôi mới chừa”. Nếu bạn lập gia đình rồi thì  biết rõ điều này phải không ? Vì những truân chuyên trong cuộc đời làm cho hoa mộng vơi vãi đi rất nhiều, những khiếm khuyết của uyên ương lộ ra sau ngày cưới cũng làm phôi pha hình ảnh của thần tượng. Có cách nào làm sao để tình còn mãi, tinh nguyên và mặn nồng ?…

Trong tình yêu dành cho Chúa Giê Su mình cũng mặc áo mới khi bắt đầu mối tình đầu với Ngài. Bạn có biết khi nào  ta từng mặc áo thiêng liêng, áo mới Chúa ban không? Có thể bạn sẽ nói vào dịp ta rửa tội hay thêm sức. Thực ra việc này cũng có thể xảy ra vào một dịp ta tham dự tĩnh tâm Canh Tân Đặc sủng, hay Tĩnh tâm Linh Thao, Tĩnh tâm Coursillo, Thăng Tiến Hôn Nhân…, bạn có thể đã từng được mặc Áo mới Chúa tặng . Điều khác biệt là Áo đó không phải do mình mua rồi may cắt theo sở thích mà là Áo mới thiêng liêng do Chúa Giê Su ban tặng và Chúa Thánh linh mặc cho ta.  Áo đó chính  là tình trạng của một tấm lòng hoàn toàn mới, đơn sơ, vui mừng do Chúa ban tặng khi Ngài thăm viếng hồn ta và rồi Thánh Linh của Ngài  làm cho ta thêm mãi tình yêu mến Chúa Giê Su quá đỗi, quá chừng. Tình yêu đó  làm cho tim bạn tan chảy và muốn thuộc về Chúa trọn vẹn ,  không muốn phạm bất cứ một tội nào nữa làm buồn lòng Chúa kính yêu của mình phải không ? Trong cuộc tình với Chúa, nó rất thơ mộng và tuyệt vời , tôi và một số bạn luôn gọi nó là Tình Đầu với Chúa vì nó có đủ mọi ưu điểm của Tình Đầu

Có một bài hát nói lên tình trạng này , mà tôi rất thích, bài “ at the foot of the Cross” , lời của bài có  tâm tình như sau :

Nơi gốc cây Thập Tự ,
Chỗ  ân huệ và thương tổn gặp  nhau
Ngài đã tỏ tình Ngài cho con
Qua án xử mà Ngài nhận lấy

Và Chúa đã chiếm trái tim con ,
Và Chúa chiếm đoạt tim con rồi.
Giờ thì con có thể …
đổi tro bụi này   lấy thanh cao đẹp đẽ,
Con đội ơn tha thứ như vương niệm lấp lánh.
hôn đôi chân của lòng xót thương.
Con đặt hết gánh nặng dưới chân cây Thập Tự

At the foot of the Cross ( Xin bấm vào link)

Trong cuộc tình,  Chúa mặc Áo mới cho mình, đặc điểm của Áo mới Chúa ban là gì ?

Áo trắng của lòng tinh tuyền mặc vào ta không còn ham muốn tiền tài , danh vọng và lạc thú ở Đời nữa

Áo nhẹ như tơ trời của lòng đơn sơ, bé nhỏ mặc áo vào,  lòng ta sẽ rất nhẹ nhàng như mây trời, thậm chí cái “Tôi”  vốn to như ngọn núi có thể tan chảy hồi nào mà mình không hay biết.

Áo điểm tô bằng ngọc ngà của sự tha thứ và yêu thương, mặc vào lòng ta luôn chạnh thương và sắn lòng tha thứ cho Anh Em một cách dễ dàng trong sự rộng lượng, thông cảm về thân phận yếu đuối của con người.

Áo mượt mà óng ả của tình bác ái  đi đâu ta cũng muốn phục vụ và cầu nguyện cho mọi hoàn cảnh khó khăn của Anh Em.

Áo của Chúa ban còn vô vàn điều tuyệt vời có lẽ khó mà diễn tả , nhưng cách để biết rõ về nó là ta hãy đầu phục Chúa hoàn toàn trong một buổi lễ rửa tội thiêng liêng , khi ta có dịp để thực sự từ bỏ mọi oán hờn , mọi đam mê, đầu phục Chúa hoàn toàn và để Chúa khoác áo mới vào cuộc đời của mình. Áo đó thực ra là một cuộc cách mạng triệt để làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời của mình , giống như tình trạng được bắt đầu lại hay là sinh lại lần thứ hai, Chúa Giê Su từng minh xác với Ông Ni cô Đê Mô rằng:

–          Quả thật, quả thật, tôi bảo ông, ai không sinh ra bởi Nước và Thần khí,

thì không thể vào được Nước Thiên Chúa. ( Gioan 3: 3)

Kinh Thánh cũng nói về dụ ngôn Nước Trời giống như một tiệc cưới mà trong đó khách mời ai cũng phải mặc y phục dành cho tiệc cưới :

–          Nhà vua đi vào coi khách dự tiệc, mới thấy ở đó một người không mặc y phục lễ cưới, nên mới nói với y: “Này bạn, làm bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?” Người ấy câm miệng. Bấy giờ, vua bảo quân hầu: “Hãy trói chân tay nó lại mà đuổi nó ra tối tăm bên ngoài: ở đó nó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng”.( Mattheu 22:11-13)

Không ai vào được nước Trời nếu không có một đời sống mới, có sự thay đổi giống như tình trạng mình mặc Y phục thánh thiện tinh tuyền trong tiệc cưới Nước Trời .

Bây giờ, tôi xin phép được trỏ lại với câu hỏi ban đầu, làm sao cho tình trần gian được bảo tồn ?

Tình đầu của Chúa, Áo Chúa ban tặng có giúp ích gì cho Tình yêu riêng tư đôi lứa giữa bạn và người yêu trần gian không ? Vâng , theo kinh nghiệm mà tôi nhận ra thì có, và có rất nhiều là đằng khác, nó làm cho Tình yêu trần gian có thêm yếu tố yêu vô điều kiện, yêu vô vụ lợi và làm cho đôi uyên ương sẵn lòng hy sinh cho nhau , làm cho uyên ương thêm nhiều hạnh phúc ý nghĩa đến dài lâu,  vì đơn giản là khi ta biết  nhìn lại mình,  khi ta đơn sơ nhỏ bé thì Ta cũng đương nhiên sẽ dễ yêu người, yêu nhau hơn .

Yêu Chúa rồi Yêu nhau , Yêu Người như là một hệ quả tất nhiên từ nguồn sung mãn của Đấng vô vàn kính yêu. Kinh nghiệm của chúng ta là càng yêu Chúa thì càng yêu nhau hơn.

Một người trí thức VN nhập đạo nói về cảm nghiệm “Đi tìm Giáo Hội”

Một người trí thức VN nhập đạo nói về cảm nghiệm “Đi tìm Giáo Hội”


Vũ Văn An

01/11/2014

Nhiều người thích đọc lời mô tả hết sức cổ điển về Giáo Hội trong cuốn tiểu thuyết của Myles Connolly, viết năm 1951, đã hơn 60 năm qua, tựa là Dan England and the Noonday Devil. Lời mô tả này nhắc ta nhớ rằng Giáo Hội không phải là một định chế mà là một Thân Thể, là Chúa Kitô. Xin nhường lời cho Myles Connolly:

Với tôi, Giáo Hội là tất cả những điều quan trọng ở khắp mọi nơi. Giáo Hội là thẩm quyền và hướng dẫn. Giáo Hội là hy vọng và bảo đảm. Giáo Hội là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Giáo Hội là Đức Bà và Thánh Giuse. Giáo Hội là Thánh Phêrô và Đức Piô XII. Giáo Hội là giám mục và cha xứ. Giáo Hội là giáo lý và là mẹ đang cúi xuống nôi dạy ta đọc kinh tối. Giáo Hội là nhà thờ chính tòa thành Chartres và là túp lều với thánh giá trên nóc ở Ulithi. Giáo Hội là các tử đạo tại Colosseum và các tử đạo tại Uganda, các tử đạo tại Tyburn và các tử đạo tại Nagasaki. Giáo Hội là vị nữ tu già và cô dự tu mắt đầy tha thiết. Giáo Hội là gương mặt rạng rỡ của vị tân linh mục dâng thánh lễ mở tay, và là cậu bé giúp lễ ngái ngủ để lộ đôi giầy trắng chơi quần vợt đã cũ mèm dưới chiếc áo giúp lễ đen…

Giáo Hội là đỉnh tháp nhọn thoáng thấy từ cửa sổ xe lửa và là nhà thờ thu nhỏ hình thánh giá nhìn xa từ trên cao máy bay nhìn xuống. Giáo Hội là Thánh Lễ 6 giờ sáng với một nhúm thánh nhân vô danh tại chấn song rước lễ trong bóng tối mờ nhạt và là Thánh Lễ đại trào với đám đông vĩ đại và vẻ huy hoàng sáng lạn tại Nhà Thờ Thánh Phêrô… Giáo Hội là Ca Đoàn Nhà Nguyện Sistine và là đoàn rước kiệu Tháng Năm của trẻ em Trung Quốc miệng hát Lạy Nữ Vương Thiên Đàng ở Bắc Kinh.

Giáo Hội là tu sĩ Carthusian trẻ trung tại Monte Allegro và là tu sĩ Dòng Tên đang dạy nhận thức luận ở Tokyo. Giáo Hội là linh mục gốc Scheutveld của Bỉ đang chiến đấu chống bệnh ngủ tại Congo và là tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế đang tranh đấu chống thành kiến tại Vermont. Giáo Hội là tu sĩ Biển Đức, Augustinh, Thương Khó, Đa Minh, Phanxicô. Giáo Hội là mọi tu sĩ và đặc biệt Dòng Các Cha Xứ vĩ đại nhưng vô danh.

Giáo Hội là Nữ Tu Cát Minh đang đốt những ngọn nến cho buổi kinh chiều trong cái giá lạnh thê lương của Iceland và là Nữ Tu Đức Bà Namur đang may những chiếc khăn trùm Rước Lễ Lần Đầu tại Kwango. Giáo Hội là Nữ Tu Vincentian đang chăm sóc một người Da Đen Baptist sắp chết vì ung thư tại Alabama và là Nữ Tu Maryknoll đang đối diện với một ủy viên Cộng Sản tại Manchuria. Giáo Hội là Nữ Tu Dòng Trắng đang dạy những người Ả Rập nghề làm thảm tại Sahara và là Nữ Tu Chúa Chiên Lành tại St Louis đang cung cấp nơi ẩn náu cho một đứa trẻ bị bỏ rơi, một mái ấm cho con chiên lạc. Giáo Hội là Nữ Tiểu Muội của Người Nghèo đang thoa thuốc mỡ cho những vết lở loét của một ông già bị bỏ rơi ở Marseilles, là Nữ Tu Áo Xám đang phục vụ những người cùng khốn tại Haiti, là Nữ Tu Thánh Thể đang giúp một thanh niên Da Đen làm thơ tại New Orleans. Giáo Hội là Nữ Tu Bác Ái… Giáo Hội là tất cả các Nữ Tu khắp nơi.

Giáo Hội là người đàn bà nhăn nheo đang giữ cho tươi mát những bó hoa trước bàn thờ Đức Mẹ và là người nữ giáo lý viên trẻ đang dạy các tân tòng đi chân đất tại những đồi núi xa xôi. Giáo Hội là thiếu nữ đang từ bỏ cuộc chơi bài để lái các Nữ Tu tới trại giam và nhà người nghèo, và là người đàn bà tới từng cửa xin giúp đỡ các trẻ mồ côi. Giáo Hội là bà mẹ hãnh diện của vị linh mục và là bà mẹ đứt ruột đứt gan của tội nhân. Giáo Hội là tất cả các bà mẹ và bà chị bà em đang khóc, đang đau, và đang cầu nguyện để những người con trai,người anh, người em trai duy trì được đức tin.

….Giáo Hội là những bài giảng xấu và những bài giảng tốt, những ơn gọi giả và những ơn gọi thật. Giáo Hội là người thanh niên cao lớn đi Đàng Thánh Giá mỗi chiều và là người cha của mười đứa con đang đẩy xe đưa đứa con bệnh đi Lễ sáng Chúa Nhật tại Bệnh Viện Quận.

Giáo Hội là Thánh Martin và Thánh Martin de Porrès, Thánh Augustinô và Thánh Phocas, Thánh Grêgôriô Cả và Thánh Grêgôriô Thaumaturgus, Thánh Ambrôsiô và Charles de Foucault, Thánh Inhaxiô Tử Đạo, Thánh Thomas More và Thánh Barnaba. Giáo Hội là Thánh Têrêxa và Thánh Philomena, Gioan thành Arc và Thánh Winefride, Thánh Annê và Thánh Maria Euphrasia. Giáo Hội là mọi các thánh, xưa và nay, được nêu danh và không được nêu danh, và mọi kẻ tội lỗi.

Giáo Hội là tiếng bật ca Sáng Danh vào Thứ Bẩy Tuần Thánh và là hang đá tù mù trong Thánh Lễ hừng đông vào Lễ Giáng Sinh. Giáo Hội là phẩm phục mầu hồng của Chúa Nhật Laetare (Hãy Vui Lên) và là chiếc áo khoác làm việc mầu lam của linh mục đang làm việc với các lao công tại một hầm mỏ ở vùng Ruhr.

Giáo Hội là những đôi giầy mới bóng loáng và các khuôn mặt đầy tôn kính của cô dâu và chú rể Tháng Sáu đang qùy trước bàn thờ phủ hoa trắng trong Thánh Lễ Hôn Phối, và là người mẹ trẻ tái nhợt, bối rối tại giếng rửa tội, vì niềm vui của bà trộn lẫn với nỗi lo âu khi thấy đứa con đầu lòng khóc lời phản đối nước rửa tội. Giáo Hội là hàng nối đuôi dài, mờ ảo, nhấp nhô các hối nhân đang đứng chờ ngoài tòa giải tội lúc chạng vạng của một buổi chiều mùa đông, mỗi người đều cách biệt và cô đơn một cách long trọng với các tội lỗi của riêng mình, và là hình ảnh đang khom lưng của một linh mục in bóng lên các chiếc đèn chiếu của xe cảnh sát trên xa lộ tối đen khi ngài đọc những lời kinh cuối cùng trên thân xác tan nát đang nằm trên vỉa hè bên cạnh chiếc xe bẹp dúm.

Giáo Hội là Kinh Magnificat và là kinh tạ ơn đọc trước các bữa ăn. Giáo Hội là cuốn sách lễ nhầu nát và là bức tượng sứt mẻ của Thánh Antôn, là chiếc hộp thu tiền cho người nghèo và là chiếc chuông nhà thờ đã nứt nẻ. Giáo Hội là Chiếc Cửa qua đó tôi bước vào đức tin và là Chiếc Cửa qua đó, nếu Chúa muốn, tôi sẽ ra đi về miền vĩnh cửu.

Chổi cùn, bút lông vô giá trị

Giáo Hội quả là các thánh và những người tội lỗi. Năm 1986, tại Đà Lạt Việt Nam, một người trở lại Đạo Công Giáo năm 1949 lúc Việt Nam đang cựa mình thật mạnh trong giấc mơ độc lập của mình, cũng có cùng một ý nghĩ ấy về Giáo Hội. Đó là ông Nguyễn Khắc Dương, cựu quyền khoa trưởng khoa văn Đại Học Đà Lạt, tác giả hồi ký Quia Dilexit Humilitatem Meam (Vì Người Thích Sự Khiêm Nhường Của Tôi). Bỏ ngoài các nhận định về chính trị, là những nhận định có thể gây tranh cãi, cuốn tự thuật này qúy giá ở chỗ cho ta cái nhìn rất trung thực của một người, sau khi đã trải qua nhiều kinh nghiệm tâm linh, cuối cùng đã chọn Thầy Giêsu làm lẽ sống trong lòng Giáo Hội.

Nguyễn Khắc Dương vốn là em ruột Nguyễn Khắc Viện, một trong các lý thuyết gia hàng đầu về văn hóa của Cộng Sản Bắc Việt, nên hồi nhỏ, đương nhiên không thích Đạo Công Giáo. Cũng như nhiều người khác, cậu tin rằng Đạo này có trách nhiệm dẫn đường cho Pháp cướp nước ta. Đạo này còn là “tà đạo” dạy những điều mê tín dị đoan, có những lễ nghi kỳ quặc… Người Công Giáo lại “cứ quây quần trong mấy xứ đạo như tách rời khỏi cộng đồng dân tộc, do mấy cố đạo chỉ huy, gây ấn tượng làm sao ấy! Thấy người Công Giáo ra vào lui lủi nơi các toà giải tội, lên “lè lưỡi” rước lễ, rồi trở về mắt nhắm tay chắp gối quỳ – thật là không tài nào chịu nổi! Và nhìn người Công Giáo nào cũng có vẻ như bị “bùa mê”, như “mê” một cái gì đó, bị một ma lực nào quyến rũ, ám ảnh, mê hoặc (possédé, envouté)! Cho nên, chúng tôi – con nhà khoa bảng, học thức – hơi có vẻ khinh đạo Công Giáo, cho như là một hình thức quyến rũ, mua chuộc, mê lú, mà các cố đạo đã đánh bả cho một lớp người hạ lưu trong xã hội! Trong họ vừa có cái gì dễ ghét, vừa có cái gì đáng tội nghiệp như là những người bị mê hoặc”.

Nhưng cậu ấm con quan này thi hỏng chương trình Việt vì môn chính tả, nên bà mẹ gửi vào Huế học chương trình Pháp không có môn chính tả tại tư thục Công Giáo Thiên Hựu. “Vào học trường Thiên Hựu, tôi được dấn bước vào thế giới Công Giáo, mà dần dần khám phá ra những giá trị của nó”. Trước hết là sự tận tâm chức nghiệp của các linh mục giáo sư. “Điều thứ hai là ‘tình yêu người’ được bộc lộ ra qua cách đối xử”. Theo Nguyễn Khắc Dương, yêu khác thương. Khổng Giáo và Phật Giáo đều dạy thương người, thậm chí thương cả vạn vật nữa, “nhưng ‘yêu’ người thì hình như chỉ có đạo Kitô mới dạy và mới giúp người ta thực hiện được”. Vì yêu là xem người yêu như “một giá trị duy nhất vô nhị và không thể thay thế… và như thế là mình được nhìn nhận đúng phẩm giá làm người của mình, như là một ngã vị, một chủ thể duy nhất, như là được lên ngôi”. Yêu không hẳn là một đức hạnh (vertu) mà là một tác phong (comportement) “bắt nguồn từ một cảm thức dựa trên căn bản một nhận thức nào đó về giá trị con người”.

Nguyễn Khắc Dương cho rằng vị thượng tọa cậu quen biết, về mặt luân lý, “có lẽ ít linh mục Công Giáo nào sánh kịp”, có thể “liều chết cứu tôi, nhưng động thái (comportement) của ngài có cái gì lạnh nhạt. Tôi có cảm tưởng dù thương tôi hết sức, nhưng ngài thương tôi trong cái đại từ bi vô ngã đối với một chúng sinh vô ngã như bất cứ chúng sinh nào! Và tôi xin vô lễ (vì tôi rất kính mến ngài) mà cả gan suy diễn rằng có lẽ ngài xót thương cho cái chấp ngã hiện hữu của tôi, thay vì vui mừng vì hiện hữu của tôi như một ‘ngã vị’. Và xin thú thật rằng: tôi rất tôn kính Đức Thích Ca, nhưng mỗi lần chiêm ngưỡng tượng Ngài điềm nhiên trên toà sen, tôi vẫn có cảm tưởng như vậy. Tôi được chiếu rọi bởi ánh từ bi của Ngài, nhưng không có cảm tưởng được sưởi ấm cõi lòng bởi lửa yêu mến của Ngài”.

“Sau này tôi mới hiểu rằng cái ấn tượng người Công Giáo như bị “bùa mê thuốc lú”, bị “thần ám” (possédé), bị “huyễn hoặc” (envouté) không phải là không có lý do! Bởi vì trong căn bản, người Công Giáo là kẻ có cảm thức được yêu bởi Thiên Chúa, được yêu một cách khủng khiếp (được yêu mà cũng có thể nói là bị yêu, vì tình yêu nào cũng có tính cách ràng buộc: nợ tình) và được mời gọi đáp lại tình yêu như vậy. Có cái gì như kẻ si tình, chứ không phải bậc Đại Giác, Đại Ngộ như Phật dạy. Si ở đây bắt nguồn từ sự điên rồ của màu nhiệm Khổ giá (la folie de la croix); và như chữ Thương khó, khổ nạn (passion) không phải không có âm hưởng của cái gì như là đam mê (cũng là passion). Sự so sánh các thánh Kitô giáo với các thiền sư, đạo gia, thì một bên có cái gì da diết, đầy đam mê (passion), một bên thì thanh thản, đầy minh triết (sagesse)”.

Rồi nhờ học giáo lý, Nguyễn Khắc Dương khám phá ra Chúa Giêsu. “Cuộc đời của Đức Giêsu trước hết gợi lên lòng thương của tôi đối với một người vô tội bị oan khiên, sau là sự hấp dẫn của một người dịu dàng, đơn sơ, bình dị. Có thể nói tình cảm đầu tiên đối với Ngài là lòng thương mến (có pha trộn một chút tội nghiệp nào đó) hơn là lòng tôn kính đối với một bậc tôn sư: có một cái gì như tình bạn ít nhiều bình đẳng giữa hai người cùng hội cùng thuyền. Ấn tượng đầu tiên đối với Ngài có cái gì tương tự như sự an ủi của mẹ hiền, bạn quí, hàn gắn thương đau, khuyết điểm, khuyến khích về mặt cảm tính khi chán nản; sưởi ấm cõi lòng khi cô đơn – nhiều hơn là một vị tôn sư dạy một giáo thuyết”.

Cậu cho rằng “sự hấp dẫn của chúa Giêsu hình như do chính con người và cuộc đời của Ngài từ việc sinh ra trong máng cỏ, qua 30 năm âm thầm lặng lẽ, ba năm nay đây mai đó, trà trộn với dân chúng, rồi bị giết oan, nhiều hơn là do đạo lý Ngài truyền dạy. Bởi vì, xét về mặt tâm lý đạo đức thì các bài dạy của Ngài cũng chẳng có gì là cao siêu tuyệt vời, nhưng điều làm cho tôi cảm mến Ngài chính là “con người” và “cuộc sống” (gồm cả cái chết của Ngài): sa “personne” et sa “vie”. Đã có cảm tình với Ngài rồi thì khó quên, khó phai và hình như càng lâu càng thắm thiết hơn… Đối với các bậc thánh hiền khác, thì có thể nhớ bài dạy của Ngài mà quên đi con người và cuộc đời của các ngài. Đối với Đức Giêsu thì khác hẳn: đôi khi quên lời Người dạy, nhưng chính Ngài thì không quên được. Và có lẽ càng hay sống trái lời Ngài dạy, thì hình ảnh Ngài lại càng thêm xoáy vào tâm khảm… nhớ quay nhớ quắt, nhớ quằn quại đến độ không chịu được!… Thông minh, tài trí, dũng cảm… Có lẽ nhiều người hơn Giêsu, nhưng đáng yêu nhất thì có thể chỉ có duy nhất một mình Ngài mà thôi!”

Rồi cậu “gặp Pascal”, một thiên tài “cuối cùng đã vất bỏ tất cả để sống một cuộc đời cống hiến cho Chúa Giêsu! Vì sao? Vì Pascal đã cảm nghiệm được rằng Giêsu đã yêu Pascal đến chết, Giêsu đã nhỏ những giọt máu cho Pascal. Và Pascal đã nhìn nhận Giêsu là Thiên Chúa”

Nhưng hình như Đấng Giêsu này đã bị Giáo Hội do Người sáng lập, ít nhất là cái Giáo Hội trước mắt Nguyễn Khắc Dương, tức Giáo Hội Việt Nam đang ở lúc trưởng thành, phản bội. Vì cái Giáo Hội này đã biến “con chiên bổn đạo” thành “một đàn cừu của Panurge!”: khúm núm, khép nép, cúi đầu “trước một ông Trời làm chúa tể qua trung gian mấy cha cố”, nhất là các cha cố Tây. Cậu cho rằng “Tin vui cứu chuộc của Giêsu đã bị Giáo Hội biến thành một thứ bùa mê để thao túng, cầm buộc con người trong một xiềng xích tinh thần, làm cho con người trở nên ngoan ngoãn, hiền lành, dễ bảo, dễ trị; nhưng thiếu khí phách, thiếu tự do phóng khoáng – cởi mở – tiến bộ: một dạng “ngu dân” nào đó!”. Trái ngược “với Giêsu Na-da-rét là người đã có ý muốn nâng cấp cứu vớt con người, nhất là lớp người thấp hèn, khốn khổ. Tôi hình như mang máng có ý nghĩ là giáo quyền đã phản ngược lại lý tưởng của Giêsu Na-da-rét”.

Nhưng biến cố 1945 đã quét sạch “cái hình ảnh Hội Thánh gắn liền với quyền bính… Cái vỏ ‘cố Tây’ được bóc vất đi để lộ nguyên hình là các vị ‘thừa sai’ của Chúa Kitô, mà đã có thời tỏ rạng qua dáng dấp của chân phước Théophane Vénard”. Hình ảnh vị “Giám Mục Việt Nam tiên khởi địa phận Vinh lúc ra Thanh Hóa thụ phong Giám Mục, được gánh đi lủi thủi không tiền hô hậu ủng, không kèn, không trống âm thầm lặng lẽ phục xuống trước bàn thờ, như bị đè bẹp dưới cuốn Kinh Thánh đặt trên mình, đã xóa nhòa hình ảnh các vị Giám Mục áo Vàng áo Tím, oai vệ ngồi trên khán đài danh dự cạnh quan Khâm quan sứ trong các buổi duyệt binh vào dịp lễ Quốc khánh của nước Bảo Hộ Đại Pháp trước 1945”.

Nguyễn Khắc Dương cho rằng năm 1945 “quả là Năm Đại Hồng Phúc đối với riêng tôi” làm thay đổi hẳn tương quan của cậu đối với Giáo Hội. Từ từ, cậu nhận ra “trong một môi trường chịu ảnh hưởng của Chúa Giêsu Na-da-rét, tương quan liên-ngã-vị (relation intersubjective, interpersonnelle) cũng đậm đà hơn. Một gia đình, một họ đạo, một cơ sở Kitô giáo nào cũng mang màu sắc ấy (dù trình độ văn hóa và kể cả trình độ đạo đức cá nhân có thể là thấp)”. Bầu không khí của cộng đoàn Công Giáo luôn “có cái gì thân hữu, đầm ấm”. Dù có thể lắm lúc xảy ra cãi cọ tranh chấp, “nhưng vẫn là có nhau – nghĩa là dù tốt hay xấu đều có nhau, đều có tương quan liên- ngã-vị, hữu ngã và hữu tha trong cái với nhau”. Cậu cho rằng “cái tương quan liên-ngã-vị quan trọng như vậy là vì từ trong nguồn gốc của mỗi hữu thể, tức là trong Mầu Nhiệm Thiên Chúa tương quan lập hữu giữa Ba Ngôi (Cha, Con và Thần Khí) không phải là một tùy thể thêm vào một hữu thể nòng cốt; nhưng chính là “bản tính” của hữu thể. Nơi con người cái tương quan là cha, là con, là thầy, là trò chỉ là một chuyện phụ thuộc, có vất bỏ đi vẫn còn có con người. Còn nơi Thiên Chúa: Chúa Cha chỉ là Cha thôi, nếu không là Cha thì không còn gì nữa, cho nên chính cái tương quan ấy (Cha, Con, Thần Khí…) là bản tính của Hữu thể”.

Từ đó, cậu luôn tìm về với một gia đình, một cộng đoàn Công Giáo để tìm ra cái tương quan liên ngã vị này. Rất may, sau khi đậu tú tài 2 năm 1946, cậu có dịp được dạy Việt Văn tại Trung Học Đậu Quang Lĩnh tại Vinh. “Được trở về sống trong cái khí quyển mà tôi đã hấp thụ sáu năm tại trường Thiên Hựu, tôi như một ngọn cây đang bị héo rũ, bỗng được tưới mát hồi sinh… Dần dần, tôi mới khám phá ra rằng chỉ có môi trường Công Giáo mới hợp với con người tôi, và có lẽ tôi chỉ sống được trong môi trường ấy mà thôi”. Vì sau Cách Mạng Tháng Tám, chỉ “tại các xóm đạo, trong các gia đình Công Giáo thì tôi cảm thấy như sinh khí vẫn dồi dào, tương quan vẫn có cái gì đằm thắm sâu xa mật thiết, đầy sinh khí tuy có vẻ thầm lặng kín đáo nhưng vẫn vui tươi ấm áp. Nhất là những giờ kinh sáng tối trong gia đình hoặc tại nhà thờ tuy chưa có đức tin tôi vẫn cảm thấy như mình là cây được cắm vào lòng đất có nhựa sống, được bao bọc và sưởi ấm bởi tình người trong tương quan liên-ngã-vị. Có lẽ tôi đã cảm nghiệm mầu nhiệm các Thánh thông công trong sinh hoạt của Hội Thánh Công Giáo trước rồi sau mới phát giác ra rằng: mối dây của sự thông công ấy là Chúa Giêsu mà ngôi thánh đường có nhà tạm, nơi Chúa ngự, có đèn thắp sáng là trung tâm và vị linh mục, Giám mục là đại diện và thừa tác viên… Mỗi giáo xứ, mỗi Cộng đoàn Công Giáo quả là một gia đình! Bếp lửa, mỗi tổ ấm ấm cúng, có lò lửa sưởi ấm là Chúa Giêsu, mà Thánh Thể là bí tích về sự hiện diện, tuy vô hình nhưng thực sự của Ngài, vị tư tế là đại diện và thừa tác viên, các tín hữu là anh chị em, là con chung của Cha trên trời. Và trong tổ ấm ấy, đời sống cộng đoàn (communauté) chứ không phải tập thể (collectivité) vẫn không làm giảm tương quan liên-ngã-vị cá thể: vì mọi tín hữu đều có tương quan riêng duy nhất, trực tiếp với Chúa Giêsu trong một sự kín nhiệm mà không một người thứ ba nào có quyền xâm lược bằng bạo lực hay âm mưu xảo trá”.

Ngoài ra, “tôi nghĩ rằng vấn đề căng thẳng giữa cá nhân và đoàn thể, chỉ có cộng đoàn Công Giáo là giải quyết tuyệt vời. Sau này tôi mới biết rằng là nhờ phạm trù nhiệm thể và chi thể Đức Kitô mà vấn đề được giải quyết mỹ mãn đến mức độ tối đa… Hầu như tổng hợp rất nhuần nhuyễn tính cách quân chủ và dân chủ”.

Tuy nhiên, nếu chỉ xét ở bình diện con người, thì người và cộng đoàn Công Giáo Việt Nam chỉ mới ở mức độ rất bình thường, đôi khi còn kém thua người khác. Nói chung, họ thiếu khí phách hiên ngang so với mẫu người Nho Giáo. Nhưng “điều đáng lưu ý nhất nơi những cá nhân và Cộng đoàn Công Giáo nằm ở chỗ họ đang làm chứng một cách nào đó về một cái gì rất kỳ lạ, nói đúng hơn, về một con người: Đức Giêsu người Na-da-rét, còn gọi là Đức Kitô… Thực ra từ bản chất, không phải chính họ chủ động trong sự làm chứng ấy bằng nỗ lực nêu gương sáng, nhưng chính là Đức Kitô đã dùng họ mà tỏ mình ra cho dù họ là những người rất tầm thường, và đôi khi còn tệ hơn nữa là khác! Nói theo tiếng chuyên môn thần học, người Công Giáo cá nhân cũng như tập thể, đều là ‘bí tích của Đức Kitô’, là sự hiện diện và tác động của Đức Kitô trong hiện tại và ở nơi này (hic et nunc) chứ không phải họ chỉ loan truyền một tin vui xảy ra trong quá khứ cách 2000 năm về trước ở Thánh Địa xa xôi. Họ gần như là bí tích Thánh Thể vậy! Cũng như lúa mì thuộc hạng tốt hay xấu vậy, bột mì dùng làm bánh Thánh có loại thơm loại không thơm, loại thô, loại mịn, loại trắng, loại hẩm, nhưng khi đã được vị tư tế đọc lời truyền phép dưới tác động của Chúa Thánh Thần đều trở nên Thánh Thể cả, cũng đều có Chúa Kitô hiện diện thực sự…”

Giáo Hội, vì thế, theo Nguyễn Khắc Dương “chỉ là chứng tích và là dấu chỉ” qua đó, cậu “tiếp cận được với một người đang hiện diện và tác động ‘hic et nunc’: Đức Giêsu Kitô”. Cái Giáo Hội này cũng có nhiều nét tiêu cực, không hẳn “đạo đức tài trí vượt bực! Thế nhưng, cái Giáo Hội này đã “giúp tôi thấy sự hiện diện và tác động của Đức Kitô gần như là còn sống, sống giữa, sống trong Hội Thánh ấy! Và tôi thấy rằng những sai lầm thiếu sót của Hội Thánh, của các Giáo Hoàng, Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ, Giáo dân suốt 2000 năm lịch sử Tây Phương và gần 100 năm chủ nghĩa thực dân, những sai lầm thiếu sót mà trước đó đã làm cho tôi nghĩ rằng Hội Thánh đã phản ngược lại lý tưởng nguyên thủy của đạo Tin Mừng, thì nay tôi bỗng nhận thấy rằng: Hội Thánh Công Giáo không phải là một cộng đoàn lý tưởng gồm những kẻ tài cao đức trọng, đã thể hiện được một đạo sống theo một giáo thuyết cao siêu thâm thúy gì cả! Hội thánh chỉ là một số người đủ loại, y như số người hành khất tật nguyền dơ bẩn lê lết bên vệ đường, bỗng được gọi vào dự tiệc cưới mà Chúa Giêsu có nhắc đến trong bài dụ ngôn mô tả Nước Trời. Họ được Ngài gọi, được Ngài chọn để sai đi làm chứng và mang sự hiện diện tác động của Ngài theo họ, tất cả do Ngài chứ không phải do giá trị cá nhân của họ gì cả. Borgia đã làm Giáo Hoàng, Richelieu làm Hồng Y. Cauchon làm Giám mục thì nếu có một ông Linh mục Tây nào đó, có thể đã nộp một Linh mục Việt Nam tham gia cách mạng cho mật thám Pháp, thì cũng thường tình. Ở thế kỷ thứ 19, một người Tây Âu mà không có óc thực dân thì phải là bậc Đại Trí, Đại Thánh! Người mà Đức Giêsu chọn là bọn thu thuế sài lang, có khi là đĩ điếm, trộm cướp còn đầy thành kiến, ganh tị, nhỏ nhen, ngớ ngẩn, sai lầm đủ thứ… Thế nhưng, tất cả chỉ làm một việc này: làm chứng về Đức Giêsu, làm cho người ta thấy Đức Giêsu hiện diện và tác động qua họ. Các môn đệ của Đức Giêsu như lời Bernadette ở Lộ Đức “đều là cái chổi cùn Chúa muốn dùng, dùng xong thì xếp xó” hay như chính Tê-rê-sa Hài Đồng nói: “tất cả đều là ngọn bút lông vô giá trị trong tay một nghệ sĩ tài tình!” Và như vậy thì nói hơi quá cho dễ hiểu: chổi càng cùn, bút lông càng xoàng lại càng chứng tỏ có sự hiện diện và tác động của Chúa. Hội thánh Công Giáo không những với tất cả những gì là nhân loại tính tầm thường (lắm lúc còn ghê rợn: như các giàn hỏa thiêu) của nó mà đôi khi xét trên một phương diện nào đó, chính nhờ sự tầm thường ấy mà nó là dấu chỉ, làm chứng cho sự hiện diện và tác động của Chúa Giêsu. Alexandre, César, Hán Cao Tổ, Thành Cát Tư Hãn, Napoléon… các thánh nhân và hiền triết dù vĩ đại đến đâu, đều là những người đã chết; còn Giêsu người Na-da-rét thì đang sống vì đang hiện diện và tác động. Hội thánh Công Giáo cũng chỉ là nhóm người đủ loại như bất cứ nhóm người nào, chỉ khác ở chỗ là cho thấy được Đức Giêsu đang còn sống, hoạt động giữa trần gian mọi ngày, mọi giây, mọi phút, ở mọi nơi và sẽ như vậy cho đến tận thế”.

Nguyễn Khắc Dương xác tín rằng: không thể tách Giáo Hội khỏi Chúa Giêsu, như tách rời một tổ chức với người sáng lập ra nó. Vì “không có Thầy các con chẳng làm nên trò trống gì”.

PHÉP RỬA KHIÊM NHƯỜNG

PHÉP RỬA KHIÊM NHƯỜNG

TGM Ngô Quang Kiệt

Sông Gio-đăng, tiếng Do Thái là “yarad” có nghĩa là đi xuống.  Sông Gio-đăng phát nguồn từ ngọn núi Héc-mon ở độ cao 520m.  Suốt 220km đường dài dòng sông không ngừng đi xuống.  Thoạt tiên sông chảy vào hồ Hu-lê chỉ còn 68m trên mực nước biển.  Kế đó sông chảy vào biển hồ Galilê, nơi Chúa Giêsu thường qua lại, và các tông đồ thường chài lưới.  Ở đây lòng hồ sâu 212m dưới mực nước biển.  Sông tiếp tục chảy xuống miền Nam, đổ vào Biển Chết.  Ở đây độ sâu là 394m dưới mức nước biển.  Có thể nói đây là điểm thấp nhất của địa cầu.

Khi Chúa Giêsu bước xuống sông Gio-đăng để chịu phép rửa, Người đã xuống chỗ thấp nhất không chỉ về chiều sâu theo không gian địa lý mà còn về chiều sâu tâm lý xã hội.  Bước xuống để Gioan Baotixita làm phép rửa tội, Chúa Giêsu đã hòa mình vào dòng thác người tội lỗi, cần thống hối ăn năn. Tuy đến để cứu độ người tội lỗi, nhưng Chúa Giêsu không cho mình quyền đứng trên kẻ tội lỗi.  Người đã hạ mình xuống ngang hàng với họ, liên đới với họ và trở nên anh em của họ.  Không ai nhận ra Người.  Mọi người đều cho rằng Người là một trong những kẻ tội lỗi.

Trong đêm Giáng Sinh, ta được chứng kiến một Thiên Chúa hạ mình xuống làm người.  Làm một người bé nhỏ nghèo hèn như chưa đủ đối với tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa, nên hôm nay người lại hạ mình xuống thêm một bậc nữa, xuống tận đáy xã hội nhân loại khi nhận mình tội lỗi.

Hôm nay, bắt đầu cuộc đời công khai của Chúa Giêsu.  Người bắt đầu xuất hiện để rao giảng Tin Mừng.  Trước khi tiến ra gặp gỡ quần chúng, Chúa Giêsu đã tới dìm mình trong dòng sông Gio-đăng. Để chuẩn bị ra gặp loài người Chúa Giêsu cảm thấy cần phải thanh tẩy.  Mặc lấy xác phàm, Chúa Giêsu chưa cảm thấy mình gần với nhân loại cho đủ.  Người còn hạ mình xuống làm một người tội lỗi. Người dìm mình xuống lòng sông Gio-đăng, dường như muốn mượn làn nước trong xanh tẩy sạch đi tất cả dáng vẻ cao quý của Thiên Chúa còn vương vấn nơi thân xác nhân loại của Người.  Tẩy sạch đi tất cả những gì ngăn cách, để Người được thực sự là một người anh em của mọi người.

Dòng nước sông Gio-đăng có trong xanh đến mấy cũng đâu đủ sức rửa Thiên Chúa làm người.  Thực ra chính Người tự rửa mình bằng sự khiêm nhường thẳm sâu.  Khiêm nhướng là một phép rửa.  Vì khiêm nhường là sự quên mình, là chết đi một chút.  Dìm mình vào dòng sông là chấp nhận đau khổ và chết đi.  Cái chết chính là phép rửa như Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Thầy còn phải chịu một phép rửa, và Thầy những bồn chồn chờ đến lúc hoàn tất” (Lc 12,50).  Người còn hỏi hai ông Gioan và Giacôbê khi hai ông này đến xin được ngồi bên tả, bên hữu trong nước Người: “Các ngươi có thể uống chén Ta uống và chịu thanh tẩy thứ thanh tẩy Ta phải chịu không?” (Mc 10, 38).  Khi nói thế Chúa Giêsu có ý nói đến cái chết Người sẽ phải chịu.

Một câu châm ngôn nói; Không ai thấy được tình yêu.  Người ta chỉ thấy được những bằng chứng của tình yêu.  Bằng chứng tình yêu của Chúa Giêsu đối với ta đó là sự hạ sinh làm một em bé nghèo hèn yếu ớt. Đó là sự khiêm nhường hoà mình vào đoàn lũ những tội nhân tới dìm mình trong dòng sông Gio-đăng.  Tình yêu đã thúc đẩy Người đi những bước táo bạo, bất ngờ.  Mượn dòng nước sám hối xoá đi mọi khoảng cách còn lại giữa Thiên Chúa và con người.

Cử chỉ khiêm nhường của Người là một lời mời gọi ta.  Nếu ta cảm thấy mình còn xa cách Chúa.  Nếu ta cảm thấy mình cần được thanh tẩy.  Đừng ngần ngại thay đổi đời sống.  Hãy mạnh dạn tiến đến lãnh nhận phép rửa của Chúa Giêsu để trở nên gần gũi với Người.  Nếu ta chưa thể lãnh nhận phép rửa trong cái chết tủi nhục như Chúa Giêsu, ta vẫn có thể được thanh tẩy trong phép rửa khiêm nhường. Hãy rửa mình trong dòng lệ sám hối.  Hãy tắm mình trong dòng nước khiêm cung.  Như lời vua Đavit nói: “Lễ dâng Chúa là tâm hồn sám hối.  Một tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê” (Tv 50).

Khiêm nhường sám hối là bước khởi đầu để ta đón nhận Phúc Âm.  Khiêm nhường sám hối là quay trở về nhà Cha, sống trọn tâm tình của người con thảo hiếu.  Khi khiêm nhường trở về, ta sẽ gặp được người Cha nhân hậu đang đứng chờ ta.  Người sẽ nói về ta như nói về Chúa Giêsu: “Đây là con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về con”.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con biết đến với Chúa và đến với anh em bằng sự khiêm nhường sám hối. Amen.

TGM Ngô Quang Kiệt

From: langthangchieutim & Anh chị Thụ Mai gỡi

 

TÊRÊSA – BÔNG HỒNG NHỎ

TÊRÊSA – BÔNG HỒNG NHỎ

Tác giả: Fr. Huynhquảng

Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu (1873 – 1897), một nữ tu bé nhỏ thuộc dòng kín Carmêlô thành Lisieux. Suốt cuộc đời ngắn ngủi chỉ vỏn vẹn 24 năm sống trên dương thế, vậy mà chị đã để lại con đườg nên thánh thật tuyệt vời và đơn sơ biết bao. Lòng đạo đức và ơn thánh thiện Chúa ban cho chị đã lan rộng và nhanh trên khắp hoàn vũ. Vì lẽ đó, chị được Giáo hội phong thánh chỉ sau 28 năm từ khi qua đời. Chị còn được chọn làm bổn mạng các xứ truyền giáo, và gần đây vào năm 1997, Chị được nâng lên bậc Tiến sĩ Hội Thánh – Thầy dạy cho chúng ta con đường nên thánh.

Khi bàn đến lòng khao khát nên thánh, ta không thể không nói đến lòng chung thuỷ và trung tín trong ơn gọi làm người và làm Kitô hữu. Sự chung thuỷ của mỗi con người chúng ta đến từ đâu? Động  lực lý do nào làm chúng ta cố gắng sống chung thuỷ và trung tín với ơn gọi của mỗi người? Thực sự con người có đủ khả năng để sống chung thuỷ như mình mong ước không? Những câu hỏi này được tìm thấy trong cuộc đời của Chị Têrêsa, đặc biệt trong lưu bút của Chị. Với những suy tư trong đời sống cầu nguyện, Chị Têrêsa giúp chúng ta tìm được sức mạnh để sống chung thuỷ và trung tín với ơn gọi của mình. Chị đã cho chúng ta thấy được rằng nếu chúng ta có sống chung thuỷ được là nhờ vào tình yêu chung thuỷ của Thiên Chúa chứ không phải sức của chúng ta.

Trong bài cuối của chủ đề Chung Thuỷ – Trung Tín, qua sự diễn giải của linh mục JacquesPhilippe, mục Sống Sao Cho Đẹp xin điểm lại một vài ý tưởng của Chị Têrêsa, đặc biệt về sự tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, để giúp chúng ta nhận định lại thật chính xác về sự chung thuỷ và trung tín mà chúng ta đang cùng nhau học hỏi và thực hành.

* * *

Đối với Chị Têrêsa, điều quan trọng và thiết yếu nhất trong đời sống đạo chính là tin tưởng vào lòng trung tín của Thiên Chúa. Hãy tin rằng, Thiên Chúa không dựng nên chúng với một mục đích tầm thường: sống – chết, tan biến như bao loài thụ tạo khác. Nhưng thực ra, Thiên Chúa muốn làm điều vĩ đại nơi mỗi con người chúng ta. Chúng ta được dựng nên với mục đích nên thánh, sống đời sống thần linh với Thiên Chúa. Đó chính là mục đích cao cả nhất trong công trình sáng tạo con người. Xác tín này dẫn Chị Têrêsa đến một niềm quả quyết chắc chắn rằng dù Chị bất xứng, yếu hèn, tội lỗi, Thiên Chúa không bao giờ và sẽ không bao giờ thay đổi kế hoạch nên thánh đối với con người. Thiên Chúa chung thuỷ và trung tín với con người bất kể con người có phản bội và khước từ Ngài đến bao nhiêu lần đi nữa. Chị Têrêsa chia sẻ với Mẹ Agnes, “Đừng nghĩ rằng con không không phạm tội nên con có lòng tín thác mạnh mẽ vào Thiên Chúa. Xin hãy nói rõ cho mọi người biết rằng, nếu con có khả năng phạm các loại tội, thì con vẫn giữ nguyên lòng tín thác vào Chúa.” Niềm tín thác này thật đơn giản chỉ vì “Thiên Chúa là Cha, và chúng ta là con của Ngài.”[1] Thật đơn sơ, nhưng chắc chắn biết bao.

Với sự đơn sơ xác tín ấy, Chị Têrêsa quả quyết, “Thiên Chúa không thể khơi gợi một lòng ước muốn [nên thánh] trong con người chúng ta nếu chúng ta không có cơ hội để có thể đạt được.”[2] Như thế, qua Chị Têrêsa chúng ta đi tới xác tín rằng, những khao khát nên hoàn thiện (dù vẫn thường sa ngã thất bại) trong con người của chúng ta thực sự là quà tặng của Thiên Chúa. Chúa cho chúng ta ơn khao khát và Chúa hứa giúp chúng ta đạt được sự thánh thiện ấy. Vì thế bao lâu ta còn nhận ra mình yếu đuối bất toàn, bấy lâu ta vẫn còn lòng khao khát nên hoàn thiện. Ôi, Thiên Chúa thật chung thuỷ và trung tín với ta biết bao – Miễn là chúng ta tín thác vào Ngài, Ngài sẽ dùng mọi phương nhằm giúp ta đạt được đời sống thần linh với Ngài.

Hơn nữa, sự trung tín của Thiên Chúa đối với chúng ta – là những tội nhân không hề lệ thuộc vào khả năng và nhận định của chính ta: Liệu rằng chúng ta có sống tốt hay không, có hạnh phúc hay không, có đạt được thành quả này nọ hay không. Nhưng thực ra lòng tin tưởng và trung tín của chúng ta chỉ dựa vào tình yêu của Thiên Chúa; vào sự trung tín, lòng ân cần, lòng thương xót vô bờ bến, vì quả thật Ngài không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Đúng như cha Jacques Philippe nhận định, “Nếu ta không đặt trọn đời ta vào sự trung tín tuyệt đối của Thiên Chúa đối với mỗi người, chúng ta sẽ không bao giờ đạt được tự do thật sự bởi vì chúng ta chỉ loay hoay với sự yếu đuối bất toàn của chúng ta… ta lấy ta làm trung tâm thay vì là Chúa.”[3] Đó cũng là mối nguy hiểm trong đời sống tâm linh. Vì dù khi ta “Nại lý do tìm sự thánh thiện ta quá chi li với đời sống nội tâm bằng cách đánh giá và cân đo đông đếm [thành quả thiêng liêng]… Nguy hiểm của cám dỗ này là lấy ta làm trung tâm mà quên điều chính yếu trong đời sống đạo chính là ta nên tung mình vào lòng trung tín của Chúa với một lòng tin tưởng vô hạn vào Ngài.” Như thế, sự trung tín của ta không lệ thuộc vào khả năng thành bại hơn thua của ta, nhưng là từ niềm tin xác tín lòng trung tín tuyệt đối của Thiên Chúa dành cho mỗi người.

Chúng ta cầu nguyện cho nhau để “tung mình” vào lòng trung tín không thay đổi của Thiên Chúa. Sự thất bại vẫn có thể xãy ra, nhưng hãy lấy Chúa làm trung tâm để ta lại được hồi sức, và luôn xác tín rằng: Kế hoạch vĩ đại mà Chúa chuẩn bị cho đời ta sẽ không bao giờ thay đổi.

Fr. Huynhquảng

 


[1]Bài giảng về Chị Têrêsa của Chân Phước John Paul II tại Lixieus , 2-6-1980.

[2]Philippe, Jacques (2012-06-07). The Way of Trust and Love – A Retreat Guided by St. Therese of Lisieux (Kindle Locations 156-157).

[3] Lược dịch từ: Philippe, Jacques (Loc. 1114 – 1122).

Tác giả: Fr. Huynhquảng

CHUYỆN KHÓ NGHĨ

CHUYỆN KHÓ NGHĨ

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

Thỉnh thoảng gia đình, người thân chia sẻ, trao đổi với nhau về cuộc sống.

Lòng người hết sức tự nhiên sẽ chạnh thương khi thấy những người nghèo sống thiếu thốn hay bị đẩy ra bên lề của cuộc sống.

Cách đây vài hôm, như mọi lần thăm hỏi, người cô vào đề ngay trước khi chia sẻ về cuộc sống đó là chuyện cô đọc được thông tin của một sinh viên nghèo nào đó phải bỏ học vì không có tiền đóng học phí. Cô tìm địa chỉ để liên lạc chia sẻ nhưng chỉ biết tên của người sinh viên đó, ngoài ra không biết gì hơn về địa chỉ hay số điện thoại để liên lạc.

Cô kể ra và tôi nghe. Nghe tôi cũng đành chịu bởi lẽ cái biển người nghèo chạy ăn từng bữa và thiếu trước hụt sau quá nhiều. Chưa lo đủ cái ăn làm sao lo đến chuyện học nên dù có đậu đại học đi chăng nữa nhưng cổng trường còn ở thật xa với những người nghèo.

Những người tha hương cầu thực quá vất vả để lo toan cho cuộc sống. Thế nhưng, khi rảnh rỗi, họ đọc tin tức và đâu đó bất chợt gặp những hoàn cảnh khó khăn lòng của họ lại hướng về với những người nghèo, những người kém may mắn để sẻ chia.

Đây không phải là lần đầu tiên gặp những người có thiện ý sẻ chia như vậy. Nhiều lần nhiều lúc người thân cũng đã dò đến địa chỉ để sẻ chia dẫu rằng sự sẻ chia đó quá ít so với nhu cầu thực tế của những người nghèo. Nhưng, dù sao đi chăng nữa người nghèo cũng nhận được chút tấm lòng của người đồng loại.Với những người thân quen, với những tấm lòng chạnh thương là như vậy. Họ cũng phải đi cày, họ cũng phải quá vất vả để đi kiếm tiền nhưng họ tằn tiện để giúp những người đồng loại kém may mắn.

Trở về với thực tại của cuộc sống, không phải những ngày này nhưng quá khứ cũng đã có những câu chuyện buồn của cuộc sống. Những câu chuyện buồn đó là những đồng tiền được người ta chuyền tay nhau chi dùng một cách vô tội vạ. Số tiền đó không phải nhỏ. Người ta đem quy ra đầu người thì số nợ đó thật kinh khủng.

Chẳng phải là nhà kinh tế, cũng chẳng phải là nhà nghiên cứu nhưng nhìn thực tại sao mà đau lòng. Khi nhìn những con số ngàn ngàn tỷ mà người ta vung vít nó làm sao đó so với những nhu cầu nhỏ bé của những con người nghèo.

Cách đây không lâu, chuyện cậu bé đậu đại học nhưng người cha phải tá túc trong ống cống với nghề bơm vá xe và người mẹ làm thuê làm mướn thật đau lòng. Với ý chí, với nghị lực, cậu bé đã đủ điểm vào đại học nhưng cổng trường khép lại vì gia đình quá nghèo. Thật may mắn đến với cậu khi có gia đình kia mời gia đình của cậu về ở trong một phòng của gia đình và đồng thời quản lý các phòng trọ khác của gia đình để có kế sinh nhai và đắp đổi qua ngày.

Nghịch lý là đứng trước những cảnh nghèo như thế, những người nghèo lại mở lòng và đùm bọc lẫn nhau trong khi những người khác lại cứ thoải mái “đưa tiền ra cửa sổ”. Khoảng cách giàu nghèo trong xã hội ngày một tăng khi người ta đánh mất quân bình của thu nhập. Người nghèo cảm thấy đuối khi phải lăn lộn với cuộc sống hàng ngày.

Ta thấy nghịch lý và mâu thuẫn khi số tiền bạc tỷ nhảy múa trong tay những người trục lợi để rồi những người nghèo chỉ mong có số lẻ như thế để đắp đổi qua ngày.

Dĩ nhiên trong xã hội nào cũng thế, cũng có những chuyện này chuyện kia trong đầu tư hay quản lý. Thế nhưng, khi những đồng tiền do công sức của người dân đóng góp lại chảy vào túi của những người nào đó, của nhóm người nào đó thì khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng. Và, khi khoảng cách giữa giàu nghèo ngày một tăng thì lại nảy sinh ra nhiều chuyện đau đầu cho con người và xã hội.

Qua các phương tiện thông tin đại chúng, người dân không thể nào nghĩ ra được số tiền khổng lồ như thế mà nó cứ vui vẻ “nhảy múa và hát ca” trong tay của một số người.

Vài tỷ với một gia đình cũng chỉ là niềm mơ ước mà cả đời chẳng bao giờ có được. Nói gì đến tiền tỷ cho cam. Chỉ cần vài trăm triệu để mua căn nhà ở với mức bình dân trong xã hội hiện tại nhưng nằm mơ cũng chẳng hề có. Dẫu rằng không nghĩ ra nhưng rồi nó vẫn xảy ra. Những điều khó nghĩ đã xảy ra và để lại hậu quả tổn thấy vô cùng to lớn cho con người và xã hội.

Mới đây thôi, khi đoạn đường cao tốc nọ chưa kịp khánh thành thì đã phát hiện ra những điều thật khó nghĩ. Số tiền chạy ra khỏi công trình quá lớn so với số tiền thực tế để thi công. Và như vậy, chất lượng của con đường cũng sẽ chỉ đạt được với số tiền thực sự bỏ ra. Tất cả những thiệt hại như thế lại cứ phải đổ lên đầu của những người dân đen nghèo khổ. Không phải người ta không biết hậu quả để lại khi người ta làm như thế nhưng vì lý do nào đó thật khó hiểu và cũng chẳng ai lý giải được. Chỉ biết là ngày mỗi ngày cuộc sống càng thêm những gánh nặng của khó khăn, của bế tắt khi tìm kế sinh nhai.

Và, cũng qua những phương tiện thông tin đại chúng, còn có quá nhiều người nghèo chạy ăn từng bữa phải đương đầu với cuộc sống. Cánh cửa bước vào đời của những con người nghèo ngày càng hẹp lại và những lắng lo của cuộc sống ngày càng lớn. Thương thay cái phận nghèo.

Khi cuộc sống có quá nhiều điều khó nghĩ thì khi ấy càng nhiều điều phải lắng lo.

Vẫn là những trăn trở về những mảnh đời khó nghèo và chật vật phải đương đầu với cuộc sống ngày một khó khăn.

Anmai, CSsR

TỪ BÀN TAY TRẮNG

TỪ BÀN TAY TRẮNG

Ngày Phê rô đổi đời là ngày ông đang gặp thất bại.  Chúa can thiệp vào đời ông, ông có chút thành công.  Rồi Chúa lại bảo ông bỏ lại thành công đó cho đời, để nghe theo lời gọi mới.  Phêrô phân vân, “đâu là thành công thật?”

Cuộc đời Phêrô  xoay quanh con thuyền, sóng nước.  Nước có lúc bình yên, biển có ngày sóng gió.  Đời ông cũng nổi trôi như sóng nước.  Có ngày cá vào đầy lưới, ông vui.  Ngày cá đi vắng, ông buồn.  Ông không nắm chắc liệu cá có bơi qua thuyền mỗi ngày như mọi ngày?  Sống trong cái bấp bênh của may rủi là thân phận con người.  Ông có thể tính toán giỏi, nhưng ông không đọc được hết tâm tư của sóng nước.  Ông cũng chẳng hiểu những chuyến đi thầm lặng của loài cá.  Ông sống chờ thời.

Rồi một ngày, ông lên bờ với bàn tay trắng.  Ông buồn vì thất bại.  Nhưng buồn hơn là thấy đồng nghiệp của mình đang thành công, mà mình thì thất bại.  Phúc Âm kể, những người chài lưới khác đang đi rửa lưới.  Có cá vào nhiều nên mới đi rửa lưới.  Còn lưới Phêrô sạch, không cần rửa!  Ông ngồi nhìn con thuyền trống rỗng, nghĩ đến ngày mai bấp bênh.  Ông ngồi ngậm nghĩ, giá mà tối hôm qua ông thả lưới ở một vùng nước khác, có lẽ sẽ không đến nỗi tệ như hôm nay.  Giá như ông theo đám đông để thả lưới, thì có lẽ cũng kiếm được mớ cá như bao nhiêu người khác.  Bao nhiêu tâm trạng “giá mà” vẫn thường quanh quẩn trong tư tưởng mỗi khi thất bại.

Nếu nhìn chung quanh ai cũng đều thất bại, thì có lẽ Phê rô không buồn nhiều.  Còn tất cả thành công, mà mình thất bại thì buồn lắm.  Mặc cảm cá nhân thường ngăn cản những nụ cười tươi.  Chung quanh ông, có nhiều ánh mắt vui của thành công.  Còn trong ánh mắt Phêrô có ánh nhìn xa xăm.

Tôi gặp trong dòng đời nhiều ánh mắt như Phêrô, và tôi yêu mến họ.   Những ánh mắt buồn vì thất bại trong tình yêu, trong hôn nhân, và trong nghề nghiệp.  Ngay cả trong Giáo Hội, những người thất bại ít có tiếng nói, họ đứng bên lề của đời sống phục vụ.  Thinh lặng, kiên nhẫn, và đợi chờ.  Lối đi nào cũng có những khúc quanh của nó.   Lắm khi những khúc quanh cuộc đời khiến người ta ngại tìm một lối đi mới.

Câu chuyện vui của một Cha xứ kể làm tôi nhớ mãi.  Một buổi sáng Chúa Nhật, bà mẹ đến gọi con trai.

–        Steven, dậy đi lễ.

Steven nghe tiếng gọi, nhưng anh phản ứng.

–  Không, con không muốn đi.  Đi lễ một mình buồn.  Hơn nữa, chẳng mấy ai ở nhà thờ ưa con.   Rồi anh kéo mền phủ kín đầu.  Người mẹ kiên nhẫn nhưng dứt khoát.

–  Có ba lí do con phải đi lễ hôm nay.  Thứ nhất, hôm nay là Chúa Nhật, lễ buộc. Thứ hai, con đã ngoài bốn mươi tuổi rồi.  Và thứ ba, vì con la Cha Xứ.  Dậy nhanh lên con, sắp trễ rồi !

Thất bại làm con người tê liệt, không muốn vươn xa hơn.  Phêrô cũng ngại ngần như thế.  Ông nhìn con nước trong veo nhưng lòng đầy nghi nan, tương lai ảm đạm.  Bất lực.  Ông ngồi chờ thời.  Rồi ánh bình minh lên cao, có bước chân người tìm đến.  Chúa nhìn thuyền Phêrô trống trải, còn ánh mắt ông thì vẫn xa xăm.

Có tiếng nói bên tai, “Cho tôi mượn chiếc thuyền.”  Lời đề nghị thân tình làm ông ngạc nhiên.  Lâu nay có ai mượn thuyền của ông bao giờ.  Phúc Âm kể:

Một hôm, đám đông chen lấn nhau đến sát bên Người để nghe lời Thiên Chúa, mà Người thì đang đứng bên bờ hồ Ghennêxarét.  Người thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới.  Ðức Giêsu xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Simôn, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút.  Rồi Người ngồi xuống, và từ trên thuyền Người giảng dạy đám đông.  Giảng xong, Người bảo ông Simôn: Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”.  Ông Simôn đáp: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả.  Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”.  Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới.  Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp.  Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm.  Thấy vậy, ông Simôn Phêrô sấp mặt dưới chân Ðức Giêsu và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!”  Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Simôn và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc.  Cả hai người con ông Dêbêđê, là Giacôbê và Gioan, bạn chài với ông Simôn, cũng kinh ngạc như vậy.  Bấy giờ Ðức Giêsu bảo ông Simôn: “Ðừng sợ, từ nay anh sẽ bắt người như bắt cá.  Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người.”

Mượn thuyền là để đưa thuyền ra khơi.  Chúa mượn thuyền Phê rô, Chúa mượn thuyền đời tôi.  Những con thuyền cũng có lần ngại ngùng xuống nước.  Rồi một lời đề nghị thả lưới trái quy luật, khó chấp nhận, bởi vì không ai có hy vọng lưới cá ban ngày, nhất là khi nắng đã lên.  Cá chỉ xuất hiện nhiều trong đêm.  Nắng càng lên cao, cá càng lặn sâu.  Thả lưới ban đêm mà vẫn trắng tay, nay lại còn có lời yêu cầu thả lưới ban ngày!  Sóng nghi nan trỗi dậy trong lòng.  Phép lạ hiếm xảy ra trong cuộc đời chài lưới nhiều kinh nghiệm.  Càng thấy mình có kinh nghiệm, càng khó tin lời người khác chỉ bảo.

Rồi từ bàn tay trắng xen lẫn nghi nan, có phép lạ xảy đến.  Phép lạ thứ nhất là lòng Phêrô thay đổi.  Chưa bắt được cá, nhưng lòng biết lắng nghe là đã mở lối cho nhiệm mầu.  Ông để Chúa vào thuyền đời mình.  Con thuyền lâu nay ông tự lèo lái, chẳng cần ai.  Nay ông  thất bại, ông bắt đầu hoài nghi cả chính mình.  Cái hay của Phêrô là nhẹ nhàng chấp nhận, “Thôi Chúa cứ dùng, chứ con nản chí lắm rồi.”  Sẵn lòng để Chúa dùng con thuyền đời mình, là bắt đầu đón nhận nhiều sự lạ.  Chuyện lạ của mẻ cá được bắt đầu từ một thái độ mở lòng, dù nó xen lẫn chút nghi nan.

Cái đẹp của niềm tin là nó được đan quyện trong những giây phút hoài nghi.  Tin mà không có chút hoài nghi có thể là một niềm tin tinh tuyền, nhưng cũng có khi nó lại là một niềm tin non trẻ, chưa trải nghiệm sóng gió.  Tin mà xen lẫn cả nghi nan, mới thấy rõ Ơn Trời nhiệm mầu.  Chúa biết Phêrô hoài nghi, nhưng vẫn can thiệp để biến hoài nghi trở thành niềm tin tưởng.  Vì thế, cảm thông cho những giây phút chán nản trong đời của một ai đó là bắt đầu dìu nhau bước vào ánh sáng của niềm tin.

Thay Đổi Giá Trị Sống

Phêrô choáng ngợp trước thành công vật chất quá lớn.  Chúa của ông lúc này vẫn là Chúa của ban ơn, Chúa của vật chất, và Chúa của nguồn thành công.  Ông vui vì được làm bạn với Chúa, người cho ông quyền lợi, cho ông lợi nhuận.  Ông vui vì từ nay ông không còn sợ kinh nghiệm trắng tay.  Rồi ông sẽ lên bờ rao giảng cho đồng nghiệp, “Hãy theo Chúa đi, rồi sẽ trúng lớn!”  Giá trị cuộc sống của Phêrô cho đến lúc này vẫn chỉ là cá.

Chúa cho Phêrô cá, nhiều lắm, nhưng lại yêu cầu ông từ bỏ nó.  Phêrô ngỡ ngàng, “sao Chúa cho con, rồi lại bảo con từ bỏ?”  Đây là bài học sâu thăm thẳm trong hành trình gọi mời. “Sao Chúa cho con thành công rồi Chúa bảo con bỏ nó đi?”  Rồi sâu trong ký ức, Phêrô lại nghe tiếng nói lúc Chúa mượn thuyền.  Lần lắng nghe trước đã làm nên điều kỳ diệu, nên ông muốn tiếp tục lắng nghe.  Chúa mách bảo với ông, “cá nhiều thì vẫn là cá. Cá không làm cho anh trở thành người.  Bám mãi với cá, đời anh sẽ thoang thoảng với mùi tanh của cá.  Nếu anh muốn làm người, hãy đi theo Đấng đã nhập thể làm người.”

Theo Đấng đã nhập thể làm người là bắt đầu thay đổi giá trị sống: là để Chúa đi vào con thuyền đời mình hơn là tự lèo lái, là khám phá thành công vật chất, địa vị, nghề nghiệp, công danh, quyền lực, ngay cả địa vị trong tôn giáo, chỉ là phương tiện để hướng đến giá trị vĩnh cửu hơn là bám víu vào đó như là cứu cánh, rồi để bước chân lên bờ tìm đến những mảnh đời bị lãng quên.  Có khi những mảnh đời bị lãng quên đó có mặt ngay trong chính gia đình, trong giáo hội, hay lang bạt giữa chợ đời mênh mông

Trong một thoáng giây choáng ngợp, Phêrô chợt hiểu, thành công thật không phải là kết quả, nhưng là hành trình đáp trả lời mời gọi để đi tìm kiếm con người.  Ông bỏ lại phía sau những gì đã đón nhận: con thuyền, mẻ cá, chiếc lưới, chút thành công vội vàng, và cả biển khơi cả cuộc đời gắn bó để theo Đấng đã làm người và mong sao cho mỗi người được trở thành người hơn.

Lạy Chúa, xin cho con hiểu rằng, thất bại lớn nhất không phải là những lần thua cuộc trong chợ đời, nhưng là những lần không đáp trả lời mời gọi từ trên cao, và nhất là khi không sống đúng với cái hình ảnh mà Thiên Chúa muốn con trở thành.  Hôm nay, khi ánh bình minh lên cao, con cũng thấy bước chân của Ngài đi ngang qua con thuyền đời con, con thuyền cũng nhiều lần thất bại trắng tay.  Xin cho con hiểu, mỗi một lần thất bại, là mỗi lần con cần tập khám phá ý nghĩa của thất bại trong ánh sáng của Phúc Âm.  Mỗi một lần thành công, cũng xin cho con hiểu rằng, thành công là quà tặng.  Giữ mãi quà tặng cho riêng mình mà không sinh lợi cho nước Chúa, thì thành công ấy chỉ giống như mẻ cá của Phêrô, có rồi mất theo dòng sông cuộc đời.

Nguyễn Thảo Nam

http://tinvahyvong.blogspot.com/

From: langthangchieutim & Anh chị Thụ Mai gởi

 

Sự hấp dẫn vượt bực của ĐGH Phanxicô tại Vatican

Sự hấp dẫn vượt bực của ĐGH Phanxicô tại Vatican

Nguyễn Long Thao

1/2/2014

VATICAN 02/01/14.- Tin của Reuters cho biết trong vòng 9 tháng qua, tính từ tháng 3 năm 2013 đến cuối tháng 12 năm 2013, số khách tham dự các nghi lễ với Đức Giáo Hoàng Phanxicô tại tòa thánh Vatican đã vượt quá con số 6.6 triệu người. Trong khi đó, suốt năm 2012 chỉ có 2.2 triệu người đến tham dự các nghi lễ của Đức Giáo Hoàng danh dự Bêneđictô XVI.

Vatican cho biết số liệu 6.6 triệu trên đây dựa theo số vé đã phát ra cho khách hành hương trong các dịp có sự hiện diện của ĐGH như các thánh lễ trọng, các buổi triều yết chung và riêng. Đồng thời cũng dựa theo con số ước tính số người tham dự các buổi triều yết hàng tuần của ĐGH dành cho công chúng tại quảng trường thánh Phêrô. Trong các buổi triều yết hàng tuần, khách hành hương không cần vé mời tham dự.

Các con số trên đây không bao gồm số người tham dự các nghi lễ ĐGH cử hành tại Assisi, Lampedusa ở Ý. Riêng tại bờ biển Copacabana ở Rio de Janeiro vào ngày 28 tháng 7 năm 2013 đã có hơn 3 triệu người tham dự ngày cuối cùng của Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới.

Theo ký giả của thông tấn xã Reuters, sở dĩ đông đảo người đến Vatican để được nghe và diện kiến ĐGH Phanxicô là vì ngài có phong cách cởi mở, đơn sơ, thân thiện, khó nghèo và đặc biệt chủ trương của Ngài là cải cách Giáo Hội để Giáo Hội gần gũi với người nghèo và ít lên án.

Tưởng cũng nên nói thêm, vào các ngày Chúa Nhật, thường có trên 100,000 người đến quảng trường Thánh Phêrô để đọc kinh truyền tin với ĐGH. Do vậy cảnh sát Ý đã phải đóng cửa đại lộ dẫn đến Vatican để có thể chứa hết số khách hành hương.

Riêng tại Hoa Kỳ, chúng tôi ghi nhận trong những tháng gần đây, không ngày nào trên các cơ quan truyền hình, báo chí là không có bản tin liên quan đến ĐGH Phanxicô, đến nỗi tạp chí Esquire, chuyên viết chuyện những người lừng danh trong giới điện ảnh nghệ thuật đã bình bầu ĐGH Phanxicô là người đàn ông mặc quần áo đẹp nhất trong năm.(Pope Francis Is Best Dressed Man Of 2013, Says Esquire Magazine)

NHÂN LOẠI MỚI

NHÂN LOẠI MỚI

Tác giả: TGM. Jos Ngô Quang Kiệt

Lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa

Ds 6, 22-27; Gal 4, 4-7; Lc 2, 16-21

Tám ngày sau khi sinh, Chúa Giêsu được dâng vào đền thờ, chịu phép cắt bì và được đặt tên theo luật Do thái. Đối với người Do thái, tên là người. Vì thế việc đặt tên có ý nghĩa quan trọng. Giêsu có nghĩa là Thiên-Chúa-cứu. Chúa Giêsu là Thiên Chúa. Con người không thể sinh ra Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa tự nguyện làm con loài người. Nhờ đó Đức Mẹ trở thành Mẹ Thiên Chúa. Sinh ra Chúa Giêsu, Đức Mẹ sinh ra một nhân loại mới để cứu nhân loại cũ do bà Evà sinh ra, đã hư hỏng vì tội lỗi.

Đức Mẹ sinh ra nhân loại mới. Bà Evà sinh ra nhân loại cũ. Nhân loại cũ được sinh ra từ đất thấp. Thiên Chúa muốn nâng con người lên trời cao. Nhưng đất thấp lôi kéo con người chìm xuống. Vì thế con người đã từ địa vị con cái  rơi xuống thân phận nô lệ. Trái lại, Đức Mẹ sinh ra một nhân loại mới. Nhân loại mới sinh xuống từ trời cao. Chúa Giêsu là Adam mới, từ trời hạ mình xuống để nâng con người lên. Giải thoát khỏi tình trạng nô lệ. Phục hồi địa vị làm con Thiên Chúa.

Đức Mẹ sinh ra Chúa Giêsu do lời chúc phúc. Bà Evà sinh con do lời chúc dữ. Sau khi hai ông bà nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa đã tuyên án cho bà Evà: “Ta sẽ làm cho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén; ngươi sẽ phải cực nhọc lúc sinh con” (St 3, 16). Trái lại, Đức Mẹ sinh ra Chúa Giêsu do lời chúc phúc như lời thiên sứ: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng”. Và bà thánh Êlizabeth nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1, 42).

Đức Mẹ sinh con bởi phép Chúa Thánh Thần. Bà Evà sinh con do xác thịt. Như lời Thiên Chúa nói: “Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi” (St 1, 16). Trái lại, Đức Mẹ sinh con bởi phép Chúa Thánh Thần. Như lời thiên thần truyền: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà. .. vì thế Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1, 35). Nếu nhân loại cũ được sinh ra theo xác thịt thì nhân loại mới được sinh ra “không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa” (Ga 1,13).

Đức Mẹ quảng đại sinh ra người con quên mình. Bà Evà ích kỷ sinh ra Ca-in là đứa con ham hố. Vì muốn chiếm vị trí trung tâm, nó đã đẩy em là Abel ra vùng ngoại vi. Loại trừ em. Giết chết em. Trái lại, Đức Mẹ quảng đại sinh ra một người con quên mình. Chúa Giêsu là người anh cả, từ bỏ vị trí trung tâm, đi ra vùng ngoại biên nghèo khổ. Người tự hiến mạng sống, để đưa chúng ta là đàn em trở lại vị trí trung tâm, trong cung lòng Thiên Chúa.

Đức Mẹ mở lòng đón nhận sinh ra một thế giới huynh đệ. Bà Evà đóng kín vào bản thân, sinh ra những đứa con chia rẽ bất hòa. Tháp Babel khiến cộng đồng nhân loại tan rã. Trái lại, Đức Mẹ mở lòng đón nhận, nên đã sinh ra Chúa Giêsu là nhân loại mới sống chan hòa tình huynh đệ. Đón tiếp mục đồng là những người nghèo khổ. Đón tiếp ba vua là những người xa lạ. Để tất cả trở thành anh em một nhà.

Đức Mẹ vâng phục sinh người con hiếu thảo. Bà Evà phản loạn sinh ra những đứa con bất hiếu, chối bỏ Thiên Chúa là Cha. Trái lại, Đức Mẹ vâng phục nên đã sinh Chúa Giêsu là người con hiếu thảo. Nhờ  luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha, Chúa Giêsu qui tụ  người muôn nước sống hài hòa dưới mái nhà Cha chung trên trời. Và nhờ đó ta được hưởng hạnh phúc với Chúa như lời thư Galát: “Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cùng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa”.

Ngày đầu năm ta mong ước những điều mới mẻ. Nhưng thế giới chỉ đổi mới khi có những con người mới. Điều quan trọng là bản thân ta đổi mới. Chính vì thế Giáo hội cầu bình an và đặt năm mới trong bàn tay Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa.

Như xưa Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu, khởi đầu nhân loại mới, nay xin Mẹ cũng sinh lại chúng ta. Để chúng ta trở nên con người mới. Vượt thoát những tầm thường ti tiện của đất thấp, để được sinh lại thanh thoát từ trời cao. Thoát khỏi lời chúc dữ để được sinh lại tràn đầy ân sủng do lời chúc phúc. Thoát khỏi ràng buộc của xác thịt nặng nề để được sinh lại trong Thần Khí tự do.

Con người mới theo khuôn mẫu Chúa Kitô sẽ biết quảng đại cho đi. Biết ra đi đến những miền ngoại biên, gặp gỡ những anh em bị loại trừ, đưa con người trở về vị trí trung tâm. Con người mới sẽ biết mở lòng đón nhận mọi anh em dù khác biệt. Xây dựng thế giới thành một gia đình thân thương, biến thế giới thành một mái nhà chung bình an hạnh phúc. Mọi người trở thành anh em con cùng một Cha trên trời.

Như thế nhân loại được đặt trong bàn tay Thiên Chúa. Và thế giới được chúc phúc như lời Chúa hứa trong sách Dân số: “Chúc như thế là đặt con cái Israel dưới quyền bảo trợ của Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng”. Đó chính là nhân loại mới. Đó chính là trời mới đất mới. Đó chính là niềm bình an hạnh phúc ta mơ ước.

Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, Chúa sinh xuống trần để mở ra kỷ nguyên mới. Xin cho con biết sinh lại thành con người mới. Để góp phần xây dựng thế giới an bình hạnh phúc trong tình huynh đệ chân thành. Amen.

Tác giả: TGM. Jos Ngô Quang Kiệt

Nhìn lại năm 2013

Nhìn lại năm 2013

Chuacuuthe.com

VRNs (02.01.2014) – California, USA – Năm 2013 đã khép lại với nhiều diễn biến. Sống trong thời đại lớn mạnh của mạng xã hội, nhân loại đã đón nhận quá nhiều biến cố xảy ra, chưa kịp thẩm thấu thì nhiều sự kiện khác lại dồn dập ập đến. Do đó làm công việc điểm lại tình hình đã xảy ra trong năm 2013 không phải là công việc đơn giản trước hàng ngàn sự kiện đã đi vào ký ức của nhân loại.

THẾ GIỚI 2013

Trước hết, điểm qua tình hình thế giới, có mấy biến cố sau đây được coi là nổi bật vì  thu hút khá nhiều sự chú ý của truyền thông quốc tế.

Thứ nhất là Siêu bão Haiyan đổ bộ Phi Luật Tân: Cơn bão chết người ập vào Phi ngày 8 tháng 11 có quy mô mạnh nhất kể từ siêu bão Tehlma năm 1991. Bão Haiyan đổ bộ vào quần đảo với sức gió lên tới 272km/h (nhanh hơn 32km/h so với sức gió tâm bão Katrina) khiến sóng biển cao tới 6 thước ập vào bờ, cướp đi hơn 5 ngàn sinh mệnh và làm cho 2 triệu người sống cảnh màn trời chiếu đất. Trong nỗ lực cứu giúp các nạn nhân của trận bão Haiyan tại Phi Luật Tân, Cộng đồng người Việt tại Hải ngoại và một số Bloggers Việt Nam đã đóng góp một số hiện kim đáng kể qua các buổi văn nghệ, dạ tiệc gây quỹ. Đây là một nghĩa cử nhằm cảm tạ ơn cứu giúp của chính quyền và nhân dân Phi trong cuộc chiến tự vệ tại Miền Nam trước năm 1975 và cứu giúp thuyền nhân Việt Nam sau năm  1975.

Thứ hai là cựu tổng thống Nam Phi Nelson Mandela qua đời: Ông Nelson Mandela qua đời ở tuổi 95 vào ngày 5/12 tại nhà riêng  ở Houghton, Johannesburg, Nam Phi, sau một thời gian dài chống chọi với căn bệnh viêm phổi. Ông được Tổng thống Obama đánh giá là người “nắm giữ lịch sử trong tay và hướng nhân loại đến sự công bằng”. Có hơn 100 nguyên thủ quốc gia và các nhân vật quan trọng trên thế giới đã đến tham dự tang lễ của ông.

14010204

Thứ ba là chính quyền Morsi của Ai Cập bị giải thể: Sau những bất lực hòa giải với phe đối lập, ngày 3 tháng 7, Tướng, Abdul Fatah el-Sisi, đại diện quân đội Ai Cập đã tuyên bố rằng quân đội đã phế truất Tổng thống Mohamed Morsi, người được bầu lên sau 1 năm cầm quyền kể từ khi chính quyền độc tài Mubarak bị sụp đổ. Ông Morsi thuộc nhóm Huynh Đệ Hồi Giáo đã quá vội vã uốn nắn Ai Cập đi theo con đường Hồi Giáo khiến cho phe đối lập chống đối và bị quân đội truất phế sau những cuộc biểu tình lan rộng trên toàn quốc.

Thứ tư là chính biến tại Thái Lan: Sau khoảng ba năm tương đối ổn định, tình hình Thái Lan đã trở nên sôi động khi chính quyền Thủ tướng Yingluck Shinawatra của đảng Pheu Thai cho thông qua một đạo luật ân xá tất cả các đảng phái cũng như các cá nhân liên quan đến các vụ bạo động đường phố và bị bắt giữ kể từ năm 2004. Phe đối lập cho rằng đạo luật ân xá này nhằm giúp cho cựu Thủ tướng Thaksin đang lưu vong, là anh trai của Thủ tướng Yingluck, có cơ hội quay trở lại chính truờng Thái Lan. Đại diện phe đối lập là Phó Thủ tướng Suthep Thaugsuban của đảng Dân Chủ đã chỉ huy các cuộc biểu tình với mục tiêu rõ rệt là lật đổ chính quyền của nữ Thủ tướng Yingluck. Trước tình thế này, Thủ tướng Yingluck đã tuyên bố giải tán quốc hội và tổ chức tổng tuyển cử vào ngày 2 tháng 2 năm 2014 nhưng phe đối lập tẩy chay không tham gia cuộc bầu cử.

Thứ năm là Iran đối thoại với Hoa Kỳ: Nhân dịp đến Nữu Uớc tham dự Hội nghị thường niên của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc vào tháng 9, Tổng thống Hassna Rouhani được bầu lên tại Iran hồi tháng 6 đã có cuộc điện đàm lịch sử với Tổng thống Obama, chấm dứt 3 thập niên đối nghịch.  Cuộc điện đàm dài khoảng 15 phút do Tổng thống Rouhani đề xướng diễn ra trước khi phái đoàn Iran rời Nữu Ước mà trọng tâm chính xoay quanh nỗ lực đạt được một thỏa thuận về vấn đề hạt nhân. Hai tháng sau, Iran đã đi tới một thỏa thuận sơ bộ với Mỹ và một số cường quốc khác (Iran và nhóm P5+1 (gồm Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc và Đức) về kiểm soát chương trình hạt nhân để đổi lấy việc dỡ bỏ lệnh cấm vận kinh tế.

Thứ sáu là vụ Edward Snowden tiết lô bí mật tình báo Hoa Kỳ: Edward Snowden, cựu nhân viên cơ quan an ninh Hoa Kỳ (NSA) đã trở thành tâm điểm của dư luận thế giới trong nhiều tháng q         ua khi tiết lộ về chương trình thu lén của tình báo Hoa Kỳ đối với các quốc gia đã tạo một sự căng thẳng giữa Hoa Kỳ với nhiều quốc gia đồng minh. Theo tiết lộ của Snowden, toàn bộ hệ thống máy chủ của các tập đoàn truyền thông lớn như Verizon, Microsoft, Google, Facebook, Apple, Yahoo, PalTalk, Skype, YouTube… đã bị cơ quan an ninh quốc gia (NSA) trực tiếp xâm nhập nhằm kiểm tra các đoạn phim, ảnh, tư liệu của người sử dụng, kể cả công dân Mỹ và công dân các nước khác trên thế giới. Chương trình này được NSA gọi tên là “PRISM” bắt đầu tiến hành từ năm 2007. Quan hệ Mỹ – Nga đã trở nên xấu đi kể từ khi Mạc Tư Khoa chấp nhận cho Snowden tỵ nạn chính trị tại Nga.

Thứ bảy là Trung Quốc tuyên bố lập vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên biển Hoa Đông: Đúng 1 năm sau khi Tập Cận Bình lên nắm quyền tại Trung Quốc vào mùa Thu năm 2012, Bắc Kinh đã đơn phương tuyên bố thành lập vùng nhận dạng phòng không trên vùng biển Hoa Đông, bao trùm lên không phận quần đảo Senkaku đang tranh chấp với Nhật Bản khiến cho tình hình Đông Á trở nên căng thẳng. Nhật Bản, Hoa Kỳ và Nam Hàn đều lên tiếng phản đối và  cáo buộc hành động này của Trung Quốc là “leo thang thành chiến tranh khu vực”. Tuy nhiên, theo đánh giá chung của dư luận thế giới thì tuyên bố của Trung Quốc mang tính hù dọa nhiều hơn là thực chất vì khả năng kiểm soát của không lực Trung Quốc còn rất yếu kém so với Nhật Bản, Hoa Kỳ.

Thứ tám là biến động bất ngờ bùng nổ tại Campuchia: Những cuộc biểu tình rầm rộ có lúc lên đến hàng chục ngàn người diễn ra liên tục trên đường phố Campuchia vào đầu tháng 12 đã thu hút sự quan tâm của thế giới về khả năng vươn lên của phe đối lập sau 3 thập niên bị kiểm soát độc quyền của đảng Nhân dân do Thủ tướng Hun Sen lãnh đạo. Cuộc biến động khởi đi từ khi đảng Cứu Nguy Dân Tộc do ông Sam Ramsy lãnh đạo chống lại kết quả bầu cử Quốc hội Campuchia vào tháng 7 và đòi mở một cuộc điều tra độc lập về cuộc bầu cử. Thủ tướng Hun Sen đã bác bỏ yêu cầu này khiến cho 55 dân biểu tân cử của đảng Cứu nguy dân tộc đã không chịu nhận ghế trong Quốc hội 123 đại biểu. Họ muốn ông Hun Sen phải từ chức và tổ chức một cuộc bầu cử thứ hai vào năm tới. Ông Hun Sen cũng đã bác bỏ cả hai yêu cầu này.

Đảng Cứu nguy dân tộc đã tổ chức các cuộc tụ tập và tuần hành hàng ngày ở thủ đô Phnom Penh, thu hút đủ thành phần trong xã hội từ công nhân viên chức chán ngán với mức lương thấp, cho đến người dân bình thường ê chề vì tham nhũng, những nhà sư Phật giáo lên tiếng chống lại các cấp cao hơn trong giáo hội dễ dãi với đảng cầm quyền, và các công nhân dệt may phẫn nộ trước thông báo của chính phủ nâng mức lương tối thiểu từ 80 lên 95 Mỹ Kim một tháng. Rốt cuộc là ngày 30 tháng 12 vừa qua, ông Hun Sen chấp nhận cuộc đối thoại với ông Sam Ramsy để giải quyết cuộc khủng hoảng vào ngày 2 tháng 1 năm 2014.

Nhìn qua những sự kiện tiêu biểu nói trên, nếu loại bỏ đi những biến cố do thiên tai xảy ra như trận bão Haiyan đổ bộ lên Phi Luật Tân hay những biến động mang tính chất khu vực như  tại Ai Cập, Thái Lan, Campuchia và sự ra đi của cựu Tổng thống Neson Mandela, chúng ta thấy rằng có ba biến cố thế giới đáng quan tâm vì có tầm ảnh hưởng kéo dài vào những năm trước mặt.

1/ Việc Edward Snowden tiết lộ những thông tin mật của tình báo Hoa Kỳ phải nói là nó làm sứt mẻ không những uy tín mà còn là sự tin tưởng của các nước đối với sự lãnh đạo của Hoa Kỳ trong thời gian tới về mặt an ninh và chống khủng bố. Nếu Hoa Kỳ lãnh đạo thế giới suốt trong gần 7 thập niên qua nhờ vào sức mạnh kinh tế và quân sự thì những tiết lộ của Snowden có tính cách hủy diệt niềm tin và làm cho Hoa Kỳ ngày bị suy yếu về thế lãnh đạo của mình.

2/ Việc Iran có những dấu hiệu hòa hoãn với Hoa Kỳ khi ký hiệp định sơ bộ về kiểm soát vũ khí hạt nhân là một tiến bộ đáng ca ngợi vì qua hiệp định này, sẽ mở ra những cuộc đối thoại giữa Iran và Hoa Kỳ cũng như các quốc gia Tây phương để tìm kiếm những giải pháp hòa bình cho vùng Trung Đông nói chung, và nhất là giải quyết những xung đột trong khối Hồi giáo. Nếu giải quyết được bài toán Iran, Tổng thống Obama có thể rảnh tay hơn ở Trung Đông để đẩy mạnh chiến lược xoay trục về Á Châu Thái Bình Dương mạnh mẽ hơn trong những năm tới.

3/ Việc Trung Quốc đưa ra tuyên bố vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên vùng biển Hoa Đông là một nhu cầu của ông Tập Cận Bình nhằm chứng tỏ sức mạnh của Bắc Kinh đối với Tokyo trong vụ tranh chấp quần đảo Senkaku. Nhưng quyết định của Trung Quốc đã mở đường cho Hoa Kỳ tiến vào vùng Đông Á cũng như tái phối trí lực lượng quân sự trên vùng biển Thái Bình Dưong mà không bị bất cứ chống đối nào. Nhất là vào lúc mà những động thái xảy ra tại Bắc Triều Tiên qua việc thanh trừng thượng tầng lãnh đạo nằm ngoài khả năng hiểu biết của Trung Quốc.

VIỆT NAM 2013

Điểm qua tình hình Việt Nam, so với nhiều năm trước đây nhờ vào sự phát triển của mạng truyền thông “lề trái” đã giúp cho nhiều biến cố xảy ra được loan tải nhanh chóng, khiến cho Hà Nội không kịp ém nhẹm. Năm 2013 đã có một số sự kiện xảy ra trên các mặt của xã hội từ vụ làm giả hài cốt liệt sĩ, vụ phát giác án oan 10 năm của ông Nguyễn Thanh Chấn, vụ cháy nổ cây xăng tại Hà Nội, vụ chính quyền đổ 30 ngàn tỷ đồng cứu bất động sản, vụ bác sĩ thẩm mỹ viện Cát Tường ném xác nạn nhân xuống sông để phi tang cho đến những vụ mang tính chính trị như vụ sửa đổi hiến pháp 1992, vụ bắt giữ hai Blogger Trương Duy Nhất và Phạm Viết Đào, vụ xét xử 14 thanh niên Công Giáo và Luật sư Lê Quốc Quân, vụ ông Trương Tấn Sang đi thăm Trung Quốc và Hoa Kỳ. Nhưng đáng chú ý nhất có thể tạm nêu ra một số sự kiện như sau:

Thứ nhất là vụ CSVN sửa đổi và thông qua bản hiến pháp 1992: Sau gần 1 năm vận động sự góp ý của dư luận về bản sửa đổi hiến pháp 1992 vào đầu năm 2013, Ban soạn thảo hiến pháp nói rằng họ đã tu sửa đến 4 lần và đã trình cho Quốc hội CSVN thông qua vào ngày 28 tháng 11, trong đó có 2 đại biểu không bỏ phiếu. Hiến pháp lần này tuy vẫn giữ nguyên chế độ chính trị độc đảng nhưng được bổ xung một số điểm mới nhằm củng cố bộ máy cai trị của chế độ, đó là: (a) dành hẳn một Chương đề cập về Quyền Con Người để xoa dịu dư luận trong nước và quốc tế trước những lên án về vi phạm nhân quyền; và (b) nâng vai trò Chủ tịch nước nhiều quyền hạn hơn để cân bằng quyền lực của Thủ tướng trong lúc vai trò Tổng bí thư đảng càng lúc càng lu mờ đối với hệ thống nhà nước.

Tuy nhiên điểm đáng nói của việc sửa đổi hiến pháp năm 2013 chính là tạo ra những chấn thương trong nội bộ đảng CSVN với 3 hệ quả đáng chú ý: 1/ Sự yếu kém của lãnh đạo CSVN qua những phát biểu bất nhất về vấn đề góp ý sửa đổi khiến cho dư luận lên án gay gắt và coi thường tư cách lãnh đạo của các ủy viên bộ chính trị; 2/ Nội bộ đảng phân hóa với hai khuynh hướng giữ và bỏ điều 4 hiến pháp và từ đó nảy sinh hiện tượng kêu gọi bỏ đảng để lập đảng đối lập với đảng Cộng sản Việt Nam qua sự kêu gọi của ông Lê Hiếu Đẳng; 3/ Sự góp ý về nội dung bản hiến pháp, nhất là về điều 4 hiến pháp, đã tạo ra một làn sóng phê phán đảng CSVN trong hàng ngũ trí thức, cựu cán bộ, góp phần rất lớn cho việc liên kết hàng ngũ những người yêu chuộng tự do dân chủ làm nền tảng cho sự xuất hiện xã hội dân sự tại Việt Nam.

Thứ hai là sự xuất hiện nhiều đoàn thể xã hội dân sự trong năm 2013: Nếu năm 2006 đánh dấu sự liên kết các nỗ lực cá nhân để hình thành khối 8406 thì hơn 7 năm sau, sự xuất hiện hàng loạt các đoàn thể tự phát như Hội anh em dân chủ, nhóm Blogger Việt Nam, Hội phụ nữ nhân quyền, nhóm chức sắc tôn giáo, Hội bầu bí tương thân, Diễn đàn xã hội dân sự …là những tập hợp tuy mang những hình thức khác nhau nhưng có chung một chủ đích là xây dựng những nhóm quần chúng nằm ngoài sự chi phối của chính quyền. Đây là một nhu cầu và cũng là diễn tiến phải đến khi xã hội Việt Nam chuyển mình để có những thay đổi rốt ráo hơn trong lúc chính quyền bất lực trước những vấn nạn của đất nước, cùng lúc lại cố kiềm hãm để duy trì sự độc tôn cai trị.

Sự ra đời của xã hội dân sự đã đưa đến hai hiện tượng đáng chú trọng trong năm 2013: 1/ Tinh thần đấu tranh và bảo vệ cho nhau đã thể hiện rõ nét khi có một số Blogger bị bắt thì những người còn lại nỗ lực báo động và tranh đấu cho đến khi những Blogger bị bắt được tự do, kéo nhau đi thăm tù, hoặc hàng trăm người tham gia biểu tình bên ngoài đường phố phản đối phiên tòa phi lý đang xét xử sinh viên Phương Uyên hay Luật sư Lê Quốc Quân đang diễn ra; 2/ Mở rộng sự nối kết giữa những người trong và ngoài đảng CSVN, bày tỏ những quan tâm chung về dân chủ, về đa nguyên chính trị, về chấm dứt độc tài và phê phán các sai lầm của lãnh đạo một cách công khai, rầm rộ, bất chấp những trấn dáp, trù dập của chế độ.

14010206

Thứ ba là vụ Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua đời: Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã ra đi ở tuổi 103 vào lúc 18 giờ 09 phút ngày 4 tháng 10 tại bệnh viện quân đội 108 ở Hà Nội sau nhiều năm phải sống nhờ vào sự chăm sóc đặc biệt của bệnh viện. Sự ra đi của ông Giáp đã để lại sự thương mến của nhiều người dân ở Miền Bắc vốn sống trong bối cảnh bưng bít về giai cấp lãnh đạo kéo dài trong nhiều năm. Trong ngày tiễn đưa ông, hàng chục ngàn người đã sắp hàng trên đường phố để tiễn đưa ông. Các nhà hoạt động trong nước coi hiện tượng đông đảo người dân đến viếng linh cữu và tiễn đưa ông Giáp đã nói lên sự bực tức của họ đối với chế độ hiện hành. Mặc dù Tướng Giáp có công dựng đảng cùng thời với ông Hồ Chí Minh; nhưng Tướng Giáp đã không được trọng dụng hay nói khác hơn là không được kính trọng bằng các ông Trường Chinh, Phạm Văn Đồng. Một phần có thể do những kèn cựa phe nhóm trong nội bộ cấp lãnh đạo; nhưng về bản chất thì ông Võ Nguyên Giáp không phải là con người năng động nên dù ông sống lâu, nhưng không đóng góp gì nhiều cho đất nước Việt Nam ở vào giai đoạn cuối cuộc đời.

Thứ tư là vụ Sinh Viên Nguyễn Phương Uyên được trả tự do: CSVN qua phiên tòa sơ thẩm tòa án Long An vào ngày 16 tháng 5, đã xử sinh viên Phương Uyên 6 năm tù giam và Đinh Nguyên Kha 8 năm tù giam về tội tuyên truyền chống chế độ mà thực chất chỉ là tham gia biểu tình chống Trung Quốc. Kết quả vụ án đã tạo ra sự bất mãn tột độ trong dư luận Việt Nam và thế giới. Một số trí thức đã khởi xướng cuộc vận động chữ ký với một kiến nghị gửi ông Trương Tấn Sang yêu cầu hủy bỏ bản án phi lý đối với Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha. Trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ vào cuối tháng 7, ông Trương Tấn Sang cũng đã bị Tổng thống Obama đặt vấn đề về trường hợp Phương Uyên và nhiều tù nhân chính trị khác. Vì thế, trong phiên tòa phúc thẩm ngày 16 tháng 8, tòa án Long An đã thả sinh viên Phương Uyên ngay tại tòa, Đinh Nguyên Kha giảm còn 4 năm tù giam.

Thứ năm là vụ ông Lê Hiếu Đằng tuyên bố ra khỏi đảng CSVN: Ông Lê Hiếu Đằng là luật gia, Phó chủ nhiệm Hội đồng Tư vấn về Dân chủ và Pháp luật thuộc Ủy ban Trung ương Mặt Trận Tổ Quốc, nguyên là Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tại Sài Gòn. Tính đến năm 2013, ông Đằng đã tham gia đảng CSVN đúng 45 năm. Ông Lê Hiếu Đằng là một trong những người đi đầu trong phong trào biểu tình chống Trung Quốc và là người đầu tiên ký tên vào kiến nghị 72 trong đợt sửa đổi Hiến Pháp 2013. Tháng 8 năm 2013, trong bài viết “Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh”, ông Lê Hiếu Đằng đã công khai nói lên những suy nghĩ của mình. Ông Lê Hiếu Đằng cho rằng đảng CSVN hiện nay đã phản bội lý tưởng cách mạng, phản bội nhân dân, phản bội những người góp phần xây dựng nên chế độ, trong đó có ông, cũng như việc cần thiết phải dân chủ hóa, xây dựng thể chế đa đảng để cứu đất nước thoát khỏi tình thế nguy cấp hiện tại. Ông kêu gọi đảng viên CSVN từ bỏ đảng và thành lập chính đảng mang tên đảng Dân chủ xã hội chẳng hạn.

Bài viết của ông Lê Hiếu Đằng đã tạo một số những phản ứng khác nhau trong dư luận Việt Nam và quốc tế. Vào ngày 4 tháng 12, ông Lê Hiếu Đằng đã công bố bản tuyên bố từ bỏ đảng CSVN vì theo ông, “Đảng Cộng sản Việt Nam bây giờ không còn như trước mà đang suy thoái biến chất, thực chất chỉ là đảng của những tập đoàn lợi ích, trở thành lực cản cho sự phát triển đất nước, dân tộc, đi ngược lại lợi ích dân tộc, nhân dân”. Đồng cảm trước sự tuyên bố của ông Lê Hiếu Đằng, Tiến sĩ Phạm Chí Dũng và Bác sĩ Nguyễn Đắc Diên cũng đã công bố tâm tư từ bỏ đảng CSVN khiến cho lãnh đạo CSVN phải viết một số bài vở xuyên tạc nhằm trấn an nội bộ đảng.

Thứ sáu là vụ CSVN xét xử hàng loạt vụ án liên quan đến điều 79: Trong năm 2013, CSVN đã đưa ra xét xử hàng loạt các vụ án tập thể dưới cái gọi là “âm mưu lật đổ chế độ” theo điều 79 Luật hình sự. Đầu tiên là hai ngày 8 và 9 tháng 1, CSVN đưa ra xét xử 14 thanh niên Công giáo và Tin lành tại Thành Phố Vinh với tổng số mức án lên đến 84 năm tù giam và quản chế sau khi mãn tù. Hai tuần lễ sau từ ngày 28 tháng 1 đến ngày 1 tháng 2, CSVN đã đưa ra xét xử 22 người trong một tổ chức tôn giáo có tên là Công án Bia Sơn tại Phú Yên cũng với tội danh lật đổ chính quyền theo điều 79 Luật hình sự. CSVN đã kết án ông Phan Văn Thu, người đại diện Công án Bia sơn tù chung thân, còn 21 người còn lại bị kết án từ 13 đến 20 năm. Cũng tại Phú Yên, ngày 11 tháng 9, Tòa án Phú Yên đã đưa ông Ngô Hào ra xử với cáo buộc là âm mưu lật đổ chế độ với bản án 15 năm tù giam.

Đặc biệt là qua sự vận động của Giáo sư Luật Weiner thuộc Viện Đại học Stanford, Hoa Kỳ đã đưa vụ án xét xử phi lý đối với 14 Thanh niên Công giáo lên Ủy Ban Điều Tra về Bắt giữ Tùy tiện của Liên Hiệp Quốc, do Cao Ủy Nhân Quyền LHQ thành lập để có yêu cầu điều tra và phán quyết. Kết quả là đầu tháng 12/2013, Ủy ban nói trên đã đưa ra phán quyết rằng việc bắt giữ và kết án 14 thanh niên công giáo là tùy tiện. Ủy Ban kêu gọi trả tự do cho 14 thanh niên ngay lập tức, hoặc bản án phải được xem xét lại bởi một tòa án độc lập.

Thứ bảy là Nguyễn Tấn Dũng đọc diễn văn tại Diễn Đàn Đối thoại Sangri La: Ngày 31 tháng 5, ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng CSVN, có bài diễn văn đọc tại Diễn Đàn Đối Thoại Sangri La Tân Gia Ba đưa ra một số quan điểm mà theo nhiều nhà bình luận cho rằng Hà Nội đã có một số thay đổi quan điểm về Hoa Kỳ. Trong bài phát biểu, ông Dũng ám chỉ Trung Quốc “đã có những đòi hỏi phi lý, những hành động trái với luật pháp quốc tế, mang tính áp đặt và chính trị cường quyền.” Trong khi đó, ông Dũng đã chính thức đề cao Hoa Kỳ bên cạnh Trung Quốc là hai cường quốc có vai trò và trách nhiệm lớn nhất trong khu vực Á Châu và Thế Giới. Cũng trong bài phát biểu, ông Dũng nói rằng Hà Nội muốn tạo dựng quan hệ đối tác chiến lược với 5 cường quốc trong Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc là Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nga. Trong 5 cường quốc này, CSVN chỉ chưa xúc tiến quan hệ đối tác chiến lược với Hoa Kỳ mà thôi.

Các nhà bình luận cho rằng, bài phát biểu của ông Dũng cho thấy là trong tình huống hiện nay, bộ chính trị CSVN muốn mở rộng quan hệ với Hoa Kỳ để tránh bớt sức ép từ phía Bắc Kinh. Tuy nhiên đa số lãnh đạo Hà Nội vẫn còn coi Hoa Kỳ là thế lực thù địch đang tìm cách lật đổ thể chế cộng sản bằng “diễn biến hòa bình” nên các trao đổi vẫn còn nằm trong khuôn khổ thăm dò, chưa thực sự tiến hành như hai phía đã cam kết hợp tác toàn diện qua các bản Thông cáo chung, đặc biệt là Tuyên bố chung 9 điểm giữa Tổng thống Obama và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang hồi cuối tháng 7.

Qua một số biến cố xảy ra tại Việt Nam, chúng ta thấy rằng ba biến cố liên quan đến: 1/ Sửa đổi hiến pháp 1992; 2/ Xuất hiện một số đoàn thể xã hội dân sự; 3/ Tuyên bố bỏ đảng CSVN của các ông Lê Hiếu Đằng, Phạm Chí Dũng, Nguyễn Đắc Diên sẽ tiếp tục có những tác động lên tình hình năm 2014 và 2015,  nhất là vào những chuẩn bị đại hội đảng CSVN kỳ XII vào tháng 1 năm 2016. Một số những diễn biến bao gồm:

1/ Hiến pháp mới sẽ áp dụng từ đầu năm 2014, qua đó vai trò Chủ tịch nước của ông Trương Tấn Sang sẽ thay đổi với nhiều quyền lực hơn để cân bằng quyền hạn bên phía chính phủ do ông Nguyễn Tấn Dũng lãnh đạo, làm mưa làm gió từ năm 2006 đến nay. Cả hai ông Sang và ông Dũng đều là những nhân vật sáng giá để nắm giữ ghế Tổng bí thư đảng sau khi ông Nguyễn Phú Trọng về hưu vào đầu năm 2016, nên cả hai sẽ tranh giành thế chủ đạo về nhân sự và quyền lực của mình để tiếp tục nắm quyền trong 5 năm tới. Trong cuộc chạy đua này, một trong hai người sẽ phải bị loại và vì thế mà xung đột thượng tầng sẽ xảy ra gay gắt giữa phe ông Sang và phe ông Dũng trong 2 năm tới.

2/ Sự xuất hiện các đoàn thể xã hội dân sự trong năm 2013 sẽ ngày một phát triển và mở rộng địa bàn hoạt động vì CSVN khó có thể ngăn chận, ngoại trừ Bộ công an dàn dựng ra một số sự kiện ngụy tạo để kết án nhóm này, hội kia là có âm mưu lật đổ chế độ, dựa theo điều 79 Luật hình sự để kết án. Nhưng trong bối cảnh có nhiều Tổ chức phi chính phủ thế giới chú ý theo dõi những ứng xử của Hà Nội trong tư cách thành viên Hội đồng nhân quyền Liên Hiệp Quốc và vụ đàm phán gia nhập TPP, khiến cho CSVN phải thận trọng trong việc tung ra những trấn áp các sinh hoạt của xã hội dân sự.

3/ Tuyên bố ra khỏi đảng của ông Lê Hiếu Đằng, Phạm Chí Dũng và Nguyễn Đắc Diên đã buộc các đảng viên đảng CSVN khác phải suy nghĩ về thân phận của chính họ. Nói cách khác là kể từ ngày 4 tháng 12 vừa qua, hơn 70% khối đảng viên thầm lặng, mang ít nhiều sự bất mãn về tình hình suy thoái của đảng và đất nước hiện nay, sẽ phải suy nghĩ về tương lai của chính họ để có những chọn lựa phù hợp. Nếu số đông không rời bỏ đảng hàng loạt như ông Lê Hiếu Đằng kêu gọi thì số đông này cũng sẽ âm thầm rút lui, không tham gia sinh hoạt đảng và chờ đợi ngày quật khởi từ  số đông quần chúng bất mãn.

***

Tóm lại, trong số những biến cố thế giới xảy ra trong năm 2013, vụ án cựu nhân viên tình báo Edward Snowden tiết lộ những thông tin mật của NSA đã làm đối với các quốc gia đồng minh của Hoa Kỳ sẽ có tác động tiêu cực lâu dài, làm sứt mẻ không những uy tín mà còn niềm tin vào Hiệp Chủng Quốc rất lớn. Hoa Kỳ sẽ phải vất vả đối phó và lấy lại niềm tin từ các nước ít nhất là trong 5 năm tới.

Trong khi đó, vụ sửa đổi hiến pháp vừa qua tại Việt Nam đã cho chúng ta thấy một hình ảnh tiêu biểu của lãnh đạo CSVN. Đó là bất tín, bất nhất trong lời hứa tôn trọng những góp ý của nhân dân, giữ chặt quyền lực bằng mọi giá, và bộ chính trị cố loay hoay tô vẽ bộ mặt nhân quyền qua việc đưa hẳn một chương về quyền con người và tái phối trí bộ máy quyền lực để thích ứng với nhu cầu mới của tình hình. Tuy nhiên, mọi thủ thuật sửa đổi hiến pháp để tạo dáng vẻ dân chủ đã bị phản tác dụng nặng nề, tạo thêm những phẫn nộ trong đảng và quần chúng, đồng thời đưa tới một hệ quả quan trọng, đó là tạo đà, thêm trớn cho khuynh hướng đòi dân chủ vươn cao. Phong trào dân chủ tại Việt Nam sẽ có những bước đột phá trong năm 2014 mà đích nhắm chính là sự phát triển rộng khắp của các đoàn thể xã hội dân sự dưới nhiều hình thức, và hiện tượng thoái đảng, bỏ đảng CSVN sẽ nở rộ trong nhu cầu thành hình một bối cảnh đa nguyên của đất nước.

Lý Thái Hùng

Tận dụng thời gian

Tận dụng thời gian

Chuacuuthe.com

VRNs (03.01.2013) – Sài Gòn – Năm cũ qua, năm mới tới. Chúng ta không biết năm mới sẽ ra sao, và nhiều người không biết dùng 365 ngày như thế nào.

Khi còn trẻ, Lm Marcos Gonzalez, quản xứ Thánh Gioan Chrysostom ở Inglewood (California, Hoa Kỳ), đã thấy phía trên chiếc đồng hồ lớn có khắc chữ “Tempus Fugit” – La ngữ nghĩa là “thời giờ trôi qua”, như Việt Nam nói: “Thời giờ thấm thoắt thoi đưa, nó đi đi mãi có chờ đợi ai”.

Lm Marcos Gonzalez cho biết: “Khi tôi hỏi mẹ tôi điều đó là chữ gì, mẹ tôi nói là THỜI GIỜ TRÔI QUA. Tôi ngạc nhiên và hỏi nghĩa là gì. Bà nói: ‘Cuộc đời ngắn ngủi, hãy dùng mỗi ngày cho tốt’. Từ đó, tôi luôn ghi nhớ”.

Lời khuyên đó là lời nhắc nhớ chúng ta mỗi khi năm mới khởi đầu. Tận dụng thời gian Chúa dành cho chúng ta phải là ưu tiên số một.

14010212

Lm James Kubicki, Dòng Tên, người phụ trách trang web ApostleshipOfPrayer.org, nói: “Điều quan trọng nhất đối với chúng ta là nhận biết rằng thời gian là điều quý giá nhất mà chúng ta có, chúng ta sống trong thời gian, thế nên khi chúng ta sử dụng thời gian là chúng ta dùng điều quý giá nhất”. Chúng ta nên tự vấn: “Tôi có đang dùng thời gian đúng như Chúa muốn không?”

Lm Jay Finelli, quản xứ Thánh Linh ở Tiverton, R.I., quản lý trang iPadre.net, nói: “Khi chúng ta trẻ, chúng ta nghĩ mình còn nhiều thời gian. Nhưng thời gian như cát, nó rơi qua các kẽ ngón tay của chúng ta”.

Mặc dù kỹ thuật có thể dùng làm công cụ để học tập, truyền bá Phúc âm và giao tiếp, chúng ta cũng có thể lãng phí thời gian vào các thiết bị hiện đại. Sự thật là nếu chúng ta không nghỉ ngơi và sống cầu nguyện và cân nhắc xem điều gì Chúa muốn, chúng ta chỉ để cho ngày tháng trôi qua mà không dùng thời gian đúng Ý Chúa.

Tác giả Thánh vịnh đã cầu nguyện: “Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan” (90:12). Chúng ta cần nhìn vào cuộc đời mình trước, nhất là đời sống tâm linh. Chúng ta đang làm gì cho cuộc đời mình để sống với Thiên Chúa và Đức Kitô? Dành thời gian cho Chúa phải là ưu tiên. Nhưng chúng ta lại thường đặt Ngài ở cuối cùng. Chúng ta thực sự nên dành thời gian cho Chúa vì chúng ta muốn dùng thời gian cho Ngài vì sự sống đời đời.

Dành thời gian cho Chúa là thế nào? Pia de Solenni viết nhận xét trên trang PiadeSolenni.com thế này: “Đó là làm cho Thánh lễ là trung tâm của đời sống. Chúng ta nên coi Thánh lễ là trung tâm điểm và là kiểu mẫu cho cuộc đời mình. Bất cứ điều gì xảy ra trong cuộc đời chúng ta, chúng ta nên coi đó như diễn biến trong Thánh lễ. Nếu chúng ta có một ngày tồi tệ hoặc một ngày hạnh phúc, chúng ta có thể coi đó là đau buồn hoặc vinh quang trong Thánh lễ. Cuộc sống và Thánh lễ không là hai thế giới riêng biệt”.

Lm Finelli đề nghị thêm những cách dành thời gian sống với Chúa Giêsu, chẳng hạn như đọc Kinh thánh, lần Chuỗi Mân Côi, lần Chuỗi Lòng Chúa Thương Xót, đọc sách hạnh các thánh, đọc sách đạo đức,… Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu là tấm gương sáng về việc dùng thời gian một cách khôn ngoan, “Con Đường Nhỏ” của Chị là một triết lý sống.

Đó là cách làm mọi thứ, dù là việc nhỏ nhất, nhưng vẫn làm vì yêu mến Thiên Chúa. Theo đó, chúng ta cũng sử dụng thời gian như vậy. Mọi khoảnh khắc trong cuộc đời chúng ta nên sống vì yêu mến Thiên Chúa. Việc gì cũng trở nên có giá trị nếu làm vì yêu mến Chúa, vì Nước Trời, vì sống đức tin: Cầu nguyện, làm việc nhà, mưu sinh, học tập, vui chơi, giải trí, nghỉ ngơi, ngủ,…

Chúng ta có thể sống trong sự thánh thiện, và chúng ta sẽ càng ngày càng nhận biết qua mỗi khoảnh khắc quý giá mà chúng ta có để dâng lên Thiên Chúa.

Lm Gonzalez cho biết: “Lúc cuối đời, nhiều người đã hối tiếc vì không cầu nguyện đủ, không dành đủ thời gian cho Chúa, không dành thời gian cho con cái, cha mẹ hoặc người thân. Đó là những điều hối tiếc vì chúng ta không dùng đúng thời gian mà Chúa dành cho mình.

Ngày hôm nay, ngay lúc này, hãy nhìn lại chính mình và cố gắng khắc phục trước khi quá muộn: Thời gian thắm thoắt thoi đưa, nó đi đi mất chẳng chờ đợi ai. Thiên Chúa vẫn đang kiên trì chờ đợi chúng ta, hãy dành thời gian cho Ngài.

Bậc đáng kính Giám mục Fulton Sheen (tác giả viết nhiều sách hay) khuyên nhủ: “Không bao giờ chúng ta không có thời gian để suy niệm; người ta càng ít nghĩ về Thiên Chúa thì càng có ít thời gian cho mình. Thời gian để làm điều gì đó tùy vào cách chúng ta đánh giá. Suy nghĩ là cách xác định việc dùng thời gian; thời gian không khống chế chúng ta suy nghĩ! Vấn đề tâm linh không bao giờ là vấn đề thời gian, mà là vấn đề suy nghĩ. Không đòi buộc nhiều thời gian để chúng ta nên thánh, mà chỉ cần yêu mến nhiều”.

JOSEPH PRONECHEN

TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ NCRegister.com)

Mười phát ngôn ấn tượng nhất Việt Nam trong năm 2013 do Bauxite Việt Nam chọn

Mười phát ngôn ấn tượng nhất Việt Nam trong năm 2013 do Bauxite Việt Nam chọn

clip_image001 (1)Nguyễn Phương Uyên: Tôi yêu Tổ quốc, nhưng xin đừng đánh đồng với Đảng”.
(2)Luật gia Lê Hiếu Đằng: Khi ra khỏi Đảng, tôi được tự do đấu tranh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ nhân quyền và dân quyền; bảo vệ môi trường. Đó là những vấn đề thiết thực cho con người, vì con người đối với người Việt, chứ còn cái thứ chủ nghĩa xã hội rất là mơ hồ”. clip_image003
clip_image004 (3) Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng:Đến hết thế kỷ này không biết đã có chủ nghĩa xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa”. 

(4) Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng:Xem ai có tư tưởng là muốn bỏ Điều 4 Hiến pháp không, phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng không? Muốn đa nguyên đa đảng không?Muốn ‘tam quyền phân lập’ không?Hả?Muốn ‘phi chính trị hóa quân đội’ không? Người ta đang có những quan điểm đấy! Đưa cả lên phương tiện thông tin đại chúng nữa.Thì như thế là suy thoái chứ còn gì nữa, chỉ ở đâu nữa nào?Tham gia đi khiếu kiện, biểu tình, ký đơn tập thể… thì nó là cái gì?! Cho nên các đồng chí quan tâm xử lý cái này”.

(5) Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Doan:

Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, biết kế thừa những tinh hoa dân chủ của các Nhà nước pháp quyền trong lịch sử và đã, đang phát triển lên tầm cao mới, khác hẳn về bản chất và cao hơn gấp vạn lần so với dân chủ tư sản”.

clip_image006
clip_image008 (6) Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Nguyễn Văn Thơ:

”Chính sách nhất quán của Việt Nam là coi trọng phát triển quan hệ hữu nghị, tăng cường hợp tác toàn diện với Trung Quốc. Chúng ta không có hai lòng”.

(7) Cáo trạng của Viện Kiểm sát tỉnh Long An:

Khẩu hiệu “Tàu khựa hãy cút khỏi Biển Đông” của sinh viên Nguyễn Phương Uyên là có “nội dung không hay về Trung Quốc”.

clip_image010
clip_image012 (8) Đại sứ Việt Nam tại Triều Tiên Lê Quảng Ba:

Bao giờ ta có thể làm được như họ? [Triều Tiên]”.

(9) Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến:

Tăng viện phí là thành tựu y tế”.

clip_image014
clip_image015 (10) Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Bắc Son: Báo chí nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một phương tiện thông tin truyền thông thiết yếu của đời sống xã hội, là cơ quan ngôn luận của các tổ chức Đảng, Nhà nước, tổ chức xã hội; là diễn đàn của nhân dân. Như vậy có thể khẳng định rằng, trong xã hội ta không có báo lá cải”.

 

Hiện tượng Phanxicô, vị Giáo hoàng làm xoay chuyển thế giới

Hiện tượng Phanxicô, vị Giáo hoàng làm xoay chuyển thế giới

Đức Giáo hoàng Phanxicô được đám đông tín hữu nồng nhiệt chào đón lại Rio de Janeiro, Brazil hôm 22/07/2013.

Đức Giáo hoàng Phanxicô được đám đông tín hữu nồng nhiệt chào đón lại Rio de Janeiro, Brazil hôm 22/07/2013.

REUTERS/Ricardo Moraes

Thụy My

RFI

Mới cách đây chưa đầy một năm chưa ai biết đến, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã trở thành một nhân vật được đông đảo người trên thế giới mến chuộng, thậm chí đã tạo nên một làn sóng ái mộ, dù là người Công giáo hay ngoại đạo. Nhật báo Le Figaro nhận xét, ngay cả Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô đệ nhị trước đây cũng không tạo được vầng hào quang toàn cầu nhanh chóng như thế.

Le Figaro đã bắt đầu bằng từ tiếng Tây Ban Nha « fenomenal» (phi thường). Đây không phải là lời bình về một bàn thắng của đội bóng đá Achentina, mà là tiếng nói từ trái tim của nhiều người trên hành tinh dành cho Đức Giáo hoàng Phanxicô, nhân vật đã thu hút đông đảo người trên thế giới chỉ trong vòng chín tháng.

Chín tháng, hãy còn quá ngắn ngủi để trở thành Giáo hoàng. Nhất là tại Vatican, nơi các vị Giáo hoàng tập sự thường phải mất nhiều năm trời trong bộ máy Tòa Thánh. Giáo hội tìm kiếm một làn gió mới trong thiên niên kỷ mới, và Mật nghị Hồng y hôm 13/3 đã chọn ra một vị Hồng y Mỹ latinh vô danh, nay đã trở thành thần tượng được nhiều người ngưỡng mộ.

Đức Giáo hoàng Phanxicô, 77 tuổi, tuổi cao và sức lại yếu do đã bị cắt bỏ một thùy phổi vào năm 21 tuổi, đã từng bị loại một lần trong Mật nghị Hồng y năm 2005 một phần cũng vì lý do « sức khỏe không tốt ». Nay ngài đã chứng minh ngược lại, một cách hết sức ngoạn mục. Hôm 4/12 tại Roma, vị Hồng y thân tín người Honduras của ngài là Oscar Maradiaga đã nhận xét : « Đó là một ngọn núi lửa ». Tuy vậy Đức Giáo hoàng Phanxicô hôm 4/7 tại Sardaigne vẫn khẳng định : « Tôi không phải là Tarzan ! »

Nhà truyền giảng tin mừng thích thêm vào chất hài hước, những câu nói độc đáo trong những thông điệp của mình. Nhưng ngài tìm cách làm giảm bớt sự cuồng nhiệt của đám đông, của hàng triệu người đã xa rời Giáo hội, đang trông đợi rất nhiều ở ngài vào cuối một năm khá âm u. Chưa có một Giáo hoàng nào kể cả Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô đệ nhị được thế giới ngưỡng mộ đến thế, với sự nhiệt thành như thế.

Nhân vật « tỉnh lẻ » siêu năng động, vừa huyền ảo vừa thực tiễn lần lượt ghi nhiều bàn thắng, làm đầy các hội trường, thu hút vô số ống kính truyền hình, hoàn toàn tương phản với người tiền nhiệm. Dư luận – cho đến nay rất thiện cảm – hoàn toàn có thể đổi chiều. Nhưng sau chín tháng trở thành Giáo hoàng, « hiện tượng Phanxicô » lại càng sôi nổi hơn.

Nhân vật của năm, một trong những người quyền lực nhất thế giới

Sự thừa nhận có thể coi là ngoạn mục nhất đến từ tạp chí Time uy tín của Mỹ. Ngày 11/12, Time đã chọn Đức Giáo hoàng Phanxicô là « Nhân vật của năm 2013 ». Đây là vị Giáo hoàng thứ ba được vinh dự này kể từ năm 1927, năm mà Time bắt đầu chọn lựa các nhân vật trong năm. Đức Giáo hoàng đầu tiên được trao danh hiệu này là Giáo hoàng Gioan XXIII, người đã tổ chức Công đồng Vatican II, và tiếp đó là Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô đệ nhị, nhưng phải chờ đến tận năm 1994, tức là 16 năm sau khi ở ngôi vị Giáo hoàng, trong khi Giáo hoàng Phanxicô mới cách đây một năm còn chưa được ai biết đến. Time nhận xét : « Điều quan trọng ở Giáo hoàng Phanxicô là Ngài đã nhanh chóng thu hút nhiều triệu người trước đây đã không còn hy vọng nào nơi Giáo hội ».

Hôm 30/10, Đức Giáo hoàng Phanxicô cũng được tạp chí Forbes của Mỹ xếp vào hàng thứ tư trong danh sách các nhân vật quyền lực nhất thế giới, chỉ sau nguyên thủ các nước Nga, Mỹ và Trung Quốc. Một nhà ngoại giao nhiều kinh nghiệm ở Roma nhận xét : « Người ta không còn lắng nghe Đức Giáo hoàng tiền nhiệm là Benedicto 16. Với Đức Giáo hoàng Phanxicô, Giáo hội lại được coi là một trong những tổ chức có ảnh hưởng lớn nhất. Các nguyên thủ quốc gia lại quan tâm đến Vatican ».

Ngày 2/10, Tổng thống Mỹ Obama công khai tuyên bố « vô cùng ấn tượng » bởi vị Giáo hoàng. Một tháng trước đó, Thủ tướng Đức Angela Merkel, vốn có cha là một mục sư Tin Lành, đã tuyên bố bà là « fan » của Đức Giáo hoàng Phanxicô. Còn Tổng thống Pháp François Hollande tuy không hào hứng mấy với cuộc hội kiến Giáo hoàng Benedicto 16, nay đã đến gõ cửa Vatican. Ủy ban châu Âu cũng không ngoại lệ : hôm 13/12 đã trao cho Giáo hoàng Phanxicô giải Người truyền thông toàn cầu của năm 2013.

Đặc biệt tạp chí uy tín của cộng đồng người đồng giới The Avocate hôm 16/12 đã dành cho trang nhất cho Đức Giáo hoàng Phanxicô với câu nói nổi tiếng của ngài : « Tôi là ai mà phán xử ? »

Công ty Mỹ The Global Language Monitor chuyên thu thập thông tin trên internet cho biết cái tên được sử dụng nhiều nhất trên mạng bằng tiếng Anh trong năm 2013 là « Pope Francis » (Đức Giáo hoàng Phanxicô). Tương tự, đây là chủ đề được thảo luận nhiều nhất của 1,2 tỉ người sử dụng Facebook trong năm nay.

Ngài cũng thành công trên mạng Twitter : tài khoản của Đức Giáo hoàng tại Twitter có đến 11 triệu người theo dõi, gấp bốn lần so với người tiền nhiệm. Vatican ước tính mỗi một tweet (tin nhắn Twitter) của ngài có ảnh hưởng đến “ít nhất 60 triệu người” vì được truyền đi hầu như vô tận.

Một làn sóng ái mộ chưa từng thấy, được khẳng định với hai cuộc thăm dò dư luận mới đây tại Hoa Kỳ. Thăm dò thứ nhất do Wall Street Journal và kênh truyền hình NBC tổ chức, công bố hôm 11/12, cho biết 57% người Mỹ có ấn tượng tích cực về Đức Giáo hoàng Phanxicô. Kết quả một cuộc thăm dò khác của Washington Post và kênh truyền hình ABC công bố cùng ngày loan báo tỉ lệ này là 64%, và nói thêm, chưa bao giờ ý kiến tích cực đối với Giáo hội Công giáo lại cao như thế : đến 62%.

Tại Ý, hiện tượng Phanxicô có thể thấy rõ qua số lượng người tham dự các buổi lễ ngày thứ Tư hàng tuần tại Quảng trường Thánh Phêrô, từ 30 đến 60.000 người, gấp bồn lần so với trước đây. Bưu điện của quốc gia nhỏ nhất thế giới này bị tràn ngập với hai ngàn lá thư mỗi ngày gởi riêng cho Đức Giáo hoàng Phanxicô, chưa kể đến thư điện tử. Nhiều tín đồ để lại số điện thoại, hy vọng một ngày nào đó sẽ nhận được một cuộc gọi từ người đứng đầu Giáo hội Công giáo. Cơ quan du lịch thành phố Roma ghi nhận số khách từ châu Mỹ latinh đến viếng Tòa Thánh tăng 20% trong năm 2013, trong khi đây là năm ảnh hưởng nặng nề nhất từ khủng hoảng.

Cơn sốt mộ đạo bất ngờ

Nhưng đối với Giáo hội, lại có một ngạc nhiên khác : đó là cơn sốt mộ đạo bất ngờ. Một nghiên cứu xã hội học tiến hành với 250 linh mục Ý và được công bố vào tháng 11 cho biết gần phân nửa ghi nhận « hiện tượng Phanxicô », với sự gia tăng đáng kể số người đi lễ. Ở cấp quốc gia, kết quả này cho phép các nhà xã hội học khẳng định : « Nếu phân nửa các giáo xứ chịu ảnh hưởng của ‘hiện tượng Phanxicô’, có thể nói hàng trăm ngàn người đã bắt đầu trở lại nhà thờ ».

Khuynh hướng này, theo người chủ trì nghiên cứu là Massimo Introvigne « không những không giảm đi mà ngày càng mạnh mẽ hơn ». Đức Giám mục Giovanni d’Ercole nhận thấy : « Đức Giáo hoàng Phanxicô đã gây xúc động và truyền đi nhiệt huyết, đặc biệt đối với những người đã xa rời việc đạo. Họ đi xưng tội nhiều hơn và quay lại với nhà thờ ».

Theo Le Figaro, đây là khuynh hướng toàn cầu chứ không chỉ tại Ý quốc. Tại Anh, trong tháng 11 số người thường xuyên đến các giáo xứ tăng 20%, với nhiều « con chiên lạc » quay lại sau nhiều năm vắng bóng. Tương tự, Tây Ban Nha và Achentina có tỉ lệ người năng đi lễ tăng 12%…

Rất nhiều trẻ sơ sinh được sinh ra tại Ý trong năm nay đã được đặt tên là Phanxicô, đây là cái tên được chọn lựa nhiều nhất trong năm 2013. Vị Giáo hoàng nổi tiếng cũng đã được đưa vào bảo tàng sáp ở Roma, và dưới dạng tượng trang trí máng cỏ Giáng sinh trong các hang đá Ý.

Một huyền thoại đã được hình thành, nhưng người làm nên huyền thoại không hề quan tâm. Phát ngôn viên của ngài là Cha Lombardi khẳng định : « Đức Giáo hoàng Phanxicô không tìm kiếm sự nổi danh cũng như thành công. Ngài chỉ thực hiện nhiệm vụ loan báo Tin mừng Phúc âm, để bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với mọi người trên Trái đất ».

Phanxicô, Giáo hoàng “perestroika” ?

Time chọn Đức Giáo hoàng làm nhân vật của năm 2013