Giáo huấn Công giáo về Luyện hình

Giáo huấn Công giáo về Luyện hình

TRẦM THIÊN THU

Lễ Các Thánh là dịp chúng ta mừng Giáo hội Khải hoàn, là ngày gợi nhớ Giáo hội
Đau khổ, nhưng cũng là ngày gợi lên nhiều câu hỏi ở cả những người Công giáo
lẫn không Công giáo. Vậy Giáo hội nói gì về Luyện hình?

Dưới đây là những điều trong giáo lý chính thức của Giáo hội Công giáo. Hãy đọc cẩn thận. Các đoạn văn dưới đây xua tan nhiều cách hiểu sai của Tin Lành và Chính thống giáo Đông
phương về Luyện hình:

Số 1030 – Những người đã chết trong ơn nghĩa Chúa, nhưng chưa thanh luyện hoàn toàn, chắc chắn được hưởng ơn cứu độ đời đời; nhưng sau khi chết họ chịu thanh luyện để đạt được sự thánh thiện cần thiết để hưởng niềm vui Nước Trời.

Số 1031 – Giáo hội gọi sự thanh luyện đối với những người được chọn là Luyện hình hoặc Luyện ngục, hoàn toàn khác với sự trừng phạt đối với những người bị nguyền rủa. Giáo hội đã công thức hóa tín điều về Luyện hình, nhất là tại Công đồng Florence và Trentô.
Truyền thống Giáo hội, có tham khảo văn bản Kinh thánh, nói về ngọn lửa thanh
tẩy:

Đối với lỗi lầm nhỏ, chúng ta phải tin rằng, trước giờ phán xét sau cùng, có ngọn lửa thanh luyện. Đấng là Chân lý nói rằng những ai thốt ra lời nguyền rủa Thánh Thần sẽ không
được tha đời này và đời sau. Từ câu này, chúng ta hiểu rằng các lỗi phạm nào đó có thể được tha ở đời này, nhưng các lỗi phạm khác được tha ở đời sau (Thánh Grêgôriô Cả, Đối thoại 4, 39; PL 77, 396; x. Mt 12, 31.).

Giáo huấn này cũng dựa vào lời cầu nguyện cho người quá cố, đã được nói tới trong Kinh thánh: “Vì thế [Giuđa Macabê] đã đền tội cho người qua đời, họ có thể được tha tội”. Từ ban
đầu, Giáo hội đã tưởng niệm người qua đời và cầu nguyện cho họ, để họ được thanh luyện và có thể sớm hưởng Tôn Nhan Thiên Chúa. Giáo hội cũng khuyên làm việc bác ái, lãnh ân xá, và ăn năn đền tội thay những người đã qua đời:

Chúng ta hãy giúp đỡ và nhớ đến họ. Nếu các con của ông Gióp được thanh tẩy nhờ sự hy sinh của ngời cha, tại sao chúng ta nghi ngờ việc dâng lễ đền tội cho người qua đời đem lại
sự an ủi cho họ? Chúng ta đừng lưỡng lự giúp đỡ những người đã qua đời và cầu nguyện cho họ (611, Thánh Gioan Kim khẩu, Bài giảng về 1 Cr 41, 5; PG 61, 361; x. G 1, 5.).

Thứ nhất, Luyện hình không là Hỏa ngục. Thứ nhì, chỉ những người được chọn, các Kitô hữu được cứu độ, vào nơi đó. Luyện hình là nơi chỉ dành cho những người đang trên hành trình về Nước Trời. Đó là sự thanh luyện cuối cùng đối với những người đã chết trong
tình thân hữu với Đức Kitô.

Có những đoạn Kinh thánh liên quan việc cầu nguyện cho những người đã qua đời. Nếu người ta chấp nhận 2 Macabê (như đã trích ở trên) là đúng quy tắc Giáo hội, người ta phải chấp nhận việc cầu nguyện cho những người đã qua đời. Nhiều học giả tin rằng thánh
Phaolô đã cầu nguyện cho một người bạn quá cố trong 2 Timôthê 1:

[16] Xin Chúa tỏ lòng thương xót gia đình anh Ô-nê-xi-phô-rô, vì đã nhiều lần anh làm cho tôi lên tinh thần, và đã không hổ thẹn vì tôi phải mang xiềng xích, [17] trái lại, vừa đến Rô-ma, anh vội vã đi tìm và đã thấy tôi.

[18] Xin Chúa ban cho anh tìm thấy nơi Chúa lòng thương xót, trong Ngày đó. Về công việc phục vụ của anh ấy ở Ê-phê-xô, thì anh đã quá rõ.

Đức Kitô là Đấng Cứu Độ cũng đề cập cơ hội tha thứ ở đời này và sau khi qua đời: “Ai nói phạm đến Con Người thì được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng được tha, cả đời này lẫn đời sau” (Mt 12, 32).

Nhưng đoạn văn thuyết phục nhất là 1 Cr 3, 13-15:

[13] Nhưng công việc của mỗi người sẽ được phơi bày ra ánh sáng. Thật thế, Ngày của Chúa sẽ cho thấy công việc đó, vì Ngày ấy tỏ rạng trong lửa; chính lửa này sẽ thử nghiệm giá trị
công việc của mỗi người.

[14] Công việc xây dựng của ai tồn tại trên nền, thì người ấy sẽ được lĩnh thưởng.

[15] Còn công việc của ai bị thiêu huỷ, thì người ấy sẽ phải thiệt. Tuy nhiên, bản thân người ấy sẽ được cứu, nhưng như thể băng qua lửa.

Trước tiên, mỗi người sẽ bị xét xử và việc mình làm “sẽ được phơi bày bằng lửa”. Việc lành chúng ta làm sẽ thoát khỏi lửa và sẽ được “thưởng công”. Việc ác chúng ta làm sẽ bị
“thiêu đốt” và “người đó sẽ chịu sự mất mát, dù người đó sẽ được cứu, nhưng chỉ
qua lửa”.

Ở đây chúng ta thấy loại lửa không là Hỏa ngục, mà “người đó sẽ được cứu, nhưng
chỉ qua lửa”. Chữ “lửa” theo tiếng Hy Lạp là “pur” và cùng nguyên ngữ với tiếng
Indo-European là “PUR-gatory” (Việt ngữ gọi là Luyện ngục hoặc Luyện hình).
Luyện hình là tình trạng thanh luyện bằng lửa dành cho những người được cứu độ
rồi.

Người Tin Lành có thể hỏi về điểm này: “Nếu một người đã được cứu độ, vậy tại sao phải chịu lửa này? Chúa Kitô đã không chết vì tội lỗi của họ sao?”

Đúng, Chúa Kitô đã chết vì tội lỗi của họ và đã cứu độ họ. Nhưng Ngài chết để chúng ta có thể thực sự thánh thiện: “Hãy thánh thiện như Tôi thánh thiện”. Lửa luyện hình là lửa
yêu thương của Thiên Chúa làm cho chúng ta “chịu sự mất mát” bằng một dạng đền
tội cuối cùng. Đó là đau khổ vì cúng ta phải từ bỏ mọi ham muốn của xác thịt và
đối mặt với những thất bại. Điều này nghĩa là “chịu sự mất mát”. Chúng ta không
thể loanh quanh lời của thánh Phaolô nói rằng các Kitô hữu phải qua lửa sau khi
qua đời.

Nếu Uzzah bị chết vì chạm vào Con tàu Giao ước, chúng ta phải được thánh hóa trọn vẹn để được vào Thiên đàng. Món nợ đã trả nhưng chúng ta chưa hoàn toàn biến thành hình ảnh của Chúa Kitô. Ngài chết để chúng ta hoàn toàn thực sự thánh thiện. Luyện hình là sự biến hình cuối cùng bằng các động thái tập trung vào Chúa Kitô để được chấp nhận và ảnh hưởng tội lỗi bị thiêu hủy.

1 Cr 12, 26 – Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung.

Tốt nhất, chúng ta nên dâng lễ thay cho những người đã ra đi trước chúng ta. Chúng ta là một đại gia đình trong Đức Kitô. Khi chúng ta cầu nguyện cho những người đã qua đời, chúng ta xin Thiên Chúa, Đấng là “ngọn lửa thiêu”, thương giúp những người đang chịu
sự đền tội và sự thanh luyện cuối cùng để họ chuẩn bị hưởng Tôn Nhan Thiên Chúa
trọn vẹn.

Vì cuộc khổ nạn đau thương, sự chết và sự sống lại của Đức Kitô, xin Chúa ân thương và tha thứ cho các linh hồn. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu, Thiên Chúa của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Catholic News)

Maria Thanh Mai gởi

Đức khôn ngoan sẽ khuyên bảo con làm điều thiện!

Đức khôn ngoan sẽ khuyên bảo con làm điều thiện!

Tôi thâm tín rằng chính Đức Tin Công Giáo giúp xã hội con người hiện đại tìm thấy trở lại các giá trị căn bản đích thật.

Tháng 10 năm 2006, ông Christian Joncas đệ đơn lên Tòa Án kiện ông Jean Tremblay, thị trưởng thành phố Saguenay thuộc tỉnh Québec bên nước Canada.

Lý do vụ kiện là vì ông thị trưởng Công Giáo thường đọc kinh trước mỗi khi chủ
tọa các phiên họp của Hội Đồng Thành Phố. Ông Christian Joncas là Chủ Tịch Liên
Nhóm Công Dân thành Saguenay. Ông muốn Tòa Án tuyên bố mình thắng kiện để
có thể bắt buộc ông thị trưởng Công Giáo ngưng việc đọc kinh trước mỗi cuộc
họp.

Mặc dầu bị than phiền và bị kiện tụng như thế, ông thị trưởng Công Giáo Jean
Tremblay vẫn bình chân như vại. Ông không nao núng. Ông tuyên bố vẫn tiếp tục
đọc kinh trước mỗi phiên họp Hội Đồng Thành Phố. Ông sẵn sàng bảo vệ quyền tự
do tôn giáo tức là quyền công khai bày tỏ Đức Tin Công Giáo của ông, cũng như
của các công dân khác.

Thế rồi ngày 18-11-2006 ông Christian Joncas tự động tuyên bố rút lại đơn kiện.
Lý do là vì sau thời gian suy nghĩ, ông cảm thấy hổ thẹn với lương tâm. Ông
cũng là tín hữu Công Giáo, vậy tại sao ông có thể chống lại việc tuyên xưng Đức
Tin của một tín hữu Công Giáo khác, cho dù tín hữu ấy là ai đi nữa, kể cả ông
thị trưởng thành phố???

Nhận tin vui, ông Jean Tremblay – thị trưởng thành phố Saguenay – bày tỏ sự hài lòng và nói:

– Tôi nhận thấy rằng những cuộc chiến tranh đấu cho chính nghĩa thường kết thúc trong an bình tốt đẹp mà không cần phải lăng nhục hoặc đổ máu bất cứ người nào khác. Ông Christian Joncas đã quyết định đúng khi tự ý rút lại đơn kiện. Tôi xin cám ơn ông. Ông hành xử thật đẹp. Khiêm tốn là đức tính cao quí nhất luôn hướng dẫn con người trong mọi trường hợp, nhỏ cũng như lớn.

Nhân dịp này, ông thị trưởng thành phố Saguenay đã nêu cao các giá trị của Đức Tin Công Giáo. Ông nói:

– Càng ngày xã hội càng gặp nhiều vấn đề trầm trọng. Tôi thâm tín rằng chính Đức Tin Công Giáo giúp xã hội con người hiện đại tìm thấy trở lại các giá trị căn bản đích thật. Chính Đức Tin Công Giáo đã khai sinh – cho ra chào đời – người Canada nói tiếng Pháp ở Québec này. Vậy thì, chúng ta có nhiệm vụ trở về với Đức Tin Công Giáo và tuyên xưng Đức Tin Công Giáo. Đừng nao núng, cũng đừng sợ hãi!

Sau cùng, ông Jean Tremblay quyết định:

– Tôi tiếp tục đọc kinh lớn tiếng trước mỗi khi bắt đầu phiên họp Hội Đồng Thành Phố. Dĩ nhiên tôi không đi xa hơn khi xin cử hành Thánh Lễ tại Tòa Thị Chánh. Không. Tôi không làm thế. Tôi muốn giữ đúng mức quân bình. Nhưng tôi tin rằng mình không rơi vào tình trạng cực đoan khi cương quyết giữ vững quyết định đọc kinh lớn tiếng trước mỗi phiên họp Hội Đồng Thành Phố.

… “Tôi đã quyết định cưới Đức Khôn Ngoan làm người chung sống suốt đời, vì
tôi biết Đức Khôn Ngoan sẽ khuyên bảo tôi làm điều thiện, sẽ trợ lực cho tôi khi tôi gặp buồn phiền lo lắng. Nhờ Đức Khôn Ngoan, tôi sẽ được vẻ vang giữa muôn người, và dẫu còn trẻ tuổi, tôi vẫn chiếm được sự nể-vì của các vị bô lão.
Thiên hạ sẽ thấy tôi xét xử thật sáng suốt, và những người quyền thế sẽ nhìn
tôi bằng cặp mắt thán phục. Khi tôi lặng thinh, họ chờ tôi lên tiếng. Khi tôi
lên tiếng, họ chăm chú lắng nghe, và khi tôi thao thao bất tuyệt, họ tỏ lòng
cung kính. Nhờ Đức Khôn Ngoan, tôi sẽ được trường sinh bất tử, và muôn đời lưu danh hậu thế. Tôi sẽ thống trị chư dân, và các nước sẽ phải thần phục. Nghe
danh tôi, các bạo chúa sẽ phải khiếp kinh. Tôi tỏ ra nhân hậu với dân chúng và
quả cảm nơi trận địa. Trở về nhà, tôi nghỉ ngơi bên cạnh Đức Khôn Ngoan, vì làm bạn với Đức Khôn Ngoan, không bao giờ cay đắng, và chung sống với Đức Khôn Ngoan, chẳng khi nào đau khổ, mà luôn luôn thích thú, hân hoan”
(Sách Khôn ngoan 8,9-16).

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Maria  Thanh Mai gởi

CHO NHỮNG NGƯỜI NẰM XUỐNG

CHO NHỮNG NGƯỜI NẰM XUỐNG

Lm Giuse Trần Đình Long, Dòng Thánh Thể

Trong đời sống mỗi người chúng ta, không ai có thể chu toàn lòng kính mến đối với
những bậc ông bà cha mẹ, hoặc vuông tròn sự yêu thương hòa đồng giữa anh chị em
ruột thịt trong nhà, và bà con thân thuộc lối xóm được. Cho dù nếu có, thì trong tháng các linh hồn này, Hội Thánh cũng nhắc nhở chúng ta làm mới lại những yêu thương ấy đối với những người đã khuất, để từ đó làm mới lại mối dây liên lạc yêu thương, tương kính với những người đang sống. Những người mà chúng ta gặp gỡ hàng ngày.

Nếu đạo hiếu của người sống đối với người chết chỉ là đi viếng nghĩa trang, chỉ là
tu sửa lại những nấm mồ cao thấp, chỉ là tổ chức đám ma đông người đi đưa, nhiều cha đồng tế, những đám giỗ linh đình náo nhiệt thì thực sự những cái đó, nó mong manh hời hợt biết bao ! Vì sau những buổi lễ lạc linh đình đó, hoặc ngay cả lúc những nghi thức ấy đang diễn ra, thì những xác người chết vô tri cứng lạnh nằm trong áo quan, hay tăm tối trong những nấm mồ sâu dưới lòng đất, những người ấy có nhận được gì không ? Còn linh hồn của những vị ấy, nếu vui thỏa được bằng những nghi thức nghèo nàn trần tục kia, thì thử hỏi cõi thiên đàng cao sang, hoặc chốn thẳm sâu địa ngục, còn có nghĩa gì đối với chúng ta, những kẻ tin vào Chúa Kitô hôm nay ?

Khi người chết nằm xuống rồi, thì linh hồn người ấy đi vào một cõi khác, một cõi vô
cùng bí nhiệm, một cõi mà không một ai ở trần gian này biết được nó ở đâu ? Không biết nó sinh hoạt thế nào ? Việc đi viếng nghĩa trang, việc sửa sang phần mộ là việc tốt. Không phải tốt cho người đã chết, mà là tốt cho người đang sống là chúng ta. Để từ cái nghĩa trang mà chúng ta thấy đó, từ cái nấm mồ mà chúng ta đang sửa sang tô quét đó, từ những hũ đựng hài cốt mà chúng ta ngắm nhìn đó, chúng ta thấy được cái kiếp sống vắn vỏi của con người. Và để cho chúng ta, những người đang nhởn nhơ vui sống, thấy rằng cái đích điểm mà tất cả mọi người ở trần gian này sẽ phải đến gặp nhau là chỗ này đây : ba tấc đất sâu, và một
nấm mộ cô đơn lạnh lẽo. Để trong tháng các linh hồn này, mỗi con người dù là Đức Giáo Hoàng hay vua chúa, linh mục hay giáo dân, dù giàu sang của chìm của nổi hay nghèo nàn mạt rệp, dù danh vọng chức tước đạo đời đầy mình hay chỉ là tên vô danh tiểu tốt,… tất cả cùng có dịp hồi tâm lại. Những nấm mồ, những hũ đựng hài cốt nhắc nhở ta đừng bám víu, bám chặt lấy những cái bồng bềnh trôi nổi nay còn mai mất của thế gian, như tiền của, danh vọng, chức quyền. Mỗi người hãy coi sự sống vĩnh cửu vô cùng vô tận mới là cùng đích của cuộc đời. Cuộc sống mà dù muốn hay không, mọi người đều phải đi vào cõi đó, “một cõi đi
về”! Cuộc sống thật ấy chỉ bắt đầu từ cõi đó, với hai bàn tay trắng và một thân xác trần truồng ai cũng như ai. Thánh Phaolô quả quyết: “Quả vậy, chúng ta đã không mang gì vào trần gian, thì cũng chẳng mang gì ra được. Vậy nếu có cơm ăn, áo mặc, ta hãy lấy thế làm đủ. Còn những kẻ muốn làm giầu, thì sa chước cám dỗ, sa vào cạm bẫy và nhiều ước muốn ngu xuẩn độc hại; đó là những thứ làm cho con người đắm chìm trong cảnh huỷ diệt tiêu vong. Thật thế, cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé.” (1Tm 6,7-10)

Sống và chết là hai ngả vô cùng cách biệt. Người sống không thể liên lạc với người chết bằng bát cơm quả trứng, hay bằng nén nhang khói tỏa nghi ngút, hoặc ngay cả bằng những bài kinh nỉ non thảm thiết dài lê thê, mà người đọc cứ lập đi lập lại trong những giờ kinh giỗ buồn chán.

Chúng ta những người đang sống chỉ liên lạc được với những người hôm nay đang ở cõi
đời đời, nơi một con người thôi. Con người ấy đang nắm trong tay tất cả thời gian, không gian, tất cả vận mạng kẻ sống cũng như người chết. Con người đó là Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, Đấng Phục Sinh. Chỉ nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng cầm chìa khóa sự chết, mọi người mới hiểu được ý nghĩa của cuộc sống tạm bợ mau qua hôm nay, và bí nhiệm của cuộc sống vĩnh cửu ngày mai. Chỉ nơi thập giá cứu chuộc của Chúa chúng ta, nơi trái tim yêu thương của Thiên Chúa mở ra, mọi người có mặt ở trần gian, từ Ađam cho đến người cuối cùng trên trái đất này, mới thấy được rằng : sự chết từng là cái án khủng khiếp cho hết mọi người, thì
hôm nay lại là nguồn an ủi vô biên cho những kẻ tin vào Đức Giêsu Kitô, vì xác  tín rằng : nấm mồ không phải là chung cuộc cho tất cả những ai tin vào Ngài.

Vì Đức Giêsu Kitô đã phục sinh. Ngài đã đặt sự chết dưới bệ chân của Ngài, thì những ai đang sống trong sự sống của Đức Giêsu hôm nay là những kẻ sẽ không phải chết bao giờ nữa. “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại trong ngày sau hết.” Chính Đức Giêsu Kitô đã bảo đảm với những kẻ yêu mến Ngài như vậy.

Chỉ những gì liên kết trong một thân mình thì mới thông hiệp được với nhau. Bàn tay
phải muốn cảm thông nỗi đau của bàn tay trái thì hai bàn tay đó cần phải dính liền vào trong một thân thể. Cũng vậy, người tín hữu còn sống muốn hiệp thông với người tín hữu đã chết, thì cả hai đều phải là chi thể của một thân mình – thân mình Đức Giêsu Kitô. Khi Ngài thương xót những người đang sống ở trần gian bị lao đao dằn vặt bởi tội lỗi và muôn ngàn thứ đau khổ, thì cùng một lúc lòng thương xót ấy lan ra khắp thân mình Ngài, thấm vào kẻ sống thì cũng thấm vào người chết đang là chi thể của Ngài. Lúc ấy hai người ở hai thế giới cách biệt muôn ngàn trùng mới hiệp thông được với nhau, mới biết thương nhau, và khi
thương nhau thì ngày đêm mới tha thiết nhớ cầu nguyện cho những người đã nằm xuống.

Những người dù là có đạo, mà trong cuộc sống hôm nay, sống ngoài Đức Giêsu như kẻ vô
đạo, thì đừng hòng nói là thương xót các linh hồn nơi luyện tội, vì nơi bản thân họ không có lòng trắc ẩn với những người đau khổ đang sống quanh họ, thì làm sao mà họ có được khả năng hiệp thông với kẻ đã chết, hiện đang ở cõi thiêng liêng vô hình?

Bởi thế trong ngày lễ cầu cho các linh hồn, Hội Thánh đòi buộc những ai muốn lãnh
ơn đại xá, phải xưng tội rước lễ và cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng, nghĩa là người đó phải ở trong Đức Giêsu Kitô và ở trong Hội Thánh của Ngài. Có đủ điều kiện ấy, thì người đó đã trở thành chi thể trong thân mình mầu nhiệm của Đức Giêsu Kitô và lời cầu nguyện của họ cho những người đã khuất mới có giá trị.

Chúng ta là những Kitô hữu, và hơn nữa chúng ta còn là những người bạn thân thiết của
trái tim Đức Giêsu Kitô, nên chúng ta không được nghĩ rằng : tôi cứ lo kiếm sao cho có nhiều tiền rồi ngày giỗ ngày tết, tôi rải tiền ra xin lễ cho nhiều để ông bà cha mẹ anh em tôi mau được lên thiên đàng. Ngoài ra tôi muốn sống sao thì sống, tôi không quan tâm gì đến ai. Nếu nghĩ và làm như vậy là xúc phạm đến lòng thương xót của Chúa, bởi vì coi rẻ tình thương của Đức Giêsu Kitô. Nếu như ta không có khả năng xin lễ, hay có ai bỏ quên ông bà cha mẹ, thì chính Chúa sẽ bù đắp tất cả bằng tình thương vô biên của Ngài, Đấng phục sinh.

Trong tháng các linh hồn, mỗi người hãy tha thiết nài xin Đức Giêsu làm cho tâm hồn
chúng ta được say mê yêu mến trái tim Ngài. Xin Ngài làm cho trái tim chúng ta trở nên mềm dịu để mở ra đón nhận tình yêu lạ lùng ấy. Lúc ấy con người chúng ta sẽ đổi mới không phải hời hợt bên ngoài như thay một màu áo, đổi một đôi giày, mà thay đổi từ sâu thẳm bên trong tâm hồn bằng sức mạnh của Thánh Thần. Lúc ấy một sinh khí mới của lòng mến sẽ bùng lên, chúng ta sẽ luôn sống hiệp thông được với những người đã khuất và liên kết trong tình huynh đệ với những người đang sống, bởi vì chúng ta đầy Thần khí Đức Giêsu Kitô.

Lạy Đức Giêsu Kitô, xin Chúa cho chúng con nhận biết mình là những tạo vật có cuộc
sống mong manh nay còn mai mất để chúng con biết luôn luôn cậy nhờ vào sức mạnh
của tình yêu nơi trái tim Chúa trong đời sống hàng ngày của chúng con. Xin cho chúng con được hiệp thông với những người đã qua đi bằng cách biết yêu thương những người đang sống với chúng con trong đời sống hôm nay, và chính nhờ tình yêu Chúa trong chúng con mà biết yêu mến những người đã ra đi trước. Chúng con yêu mến các linh hồn ấy bằng lời cầu nguyện, bằng Thánh lễ và bằng mọi việc yêu thưong bác ái hằng ngày trong sự kết hợp với Chúa Giêsu Kitô chứ không phải trong bản chất yếu đuối của chúng con. Amen

Lm Giuse Trần Đình Long, Dòng Thánh Thể

5 bài học quan trọng của đời người



5 bài học quan trọng của đời người

Mai  Vy

11/3/2012                  Vietcatholic.net

Bài số 1: Bài học về sự tự giác :
Xưa thật là xưa, có một ông Vua nọ, một hôm ông ta sai quân lính đặt một tảng
đá lớn nằm chắn ngang đường đi. Xong, ông nấp vào một bụi cây gần đấy và theo
dõi.
Lần lượt ông ta thấy, những thương nhân giàu có đi qua, rồi đến những cận
thần của ông đi qua, nhưng không ai có ý định xê dịch tảng đá sang bên nhường
chỗ cho lối đi cả, họ chỉ lẩm nhẩm đổ lỗi cho nhà Vua vì đã không cho người
giữ sạch sẽ con đường.
Một lúc sau, nhà Vua nhìn thấy một người nông dân đi tới với một xe rau cồng
kềnh nặng trĩu. Nhìn thấy tảng đá, người nông dân liền ngừng xe và nhảy xuống
đất, cố hết sức mình ông ta đã đẩy được tảng đá sang bên kia vệ đường. Vừa
làm ông ta vừa lẩm bẩm: “Thật không may nếu có ai đó không thấy mày và vấp
phải, chắc là sẽ đau lắm đây”. Xong đâu đấy, người nông dân quay trở lại xe
để tiếp tục đi tiếp, thì bỗng nhìn thấy một bao tiền to đặt đúng ngay chỗ mà
ông đã di chuyển tảng đá. Đó là một một món quà của Đức Vua cho người nào dịch
chuyển được tảng đá.
Câu chuyện của người nông dân này đã giúp chúng ta nhận ra một điều quý giá
mà rất nhiều người trong chúng ta không bao giờ nhận thấy: Vật cản đôi khi
cũng có thể là một cơ hội tốt.
Bài số 2: Bài học về sự quan tâm
Trong tháng thứ 2 của khoá học y tá, vị giáo sư của chúng tôi đã cho chúng
tôi một câu hỏi hết sức bất ngờ trong bài thi vấn đáp…
Tôi đã lướt qua hầu hết các câu hỏi trong bài thi, và ngạc nhiên dừng lại ở
câu hỏi cuối cùng: “Hãy cho biết tên người phụ nữ quét dọn trường học của
chúng ta?”. Một câu hỏi không có trong chuyên môn, chắc đây chỉ là một câu
hỏi đùa thôi. Tôi đã nghĩ vậy!
Thật ra, tôi đã nhìn thấy người phụ nữ đó vài lần. Cô ấy cao, tóc sẫm màu và
khoảng chừng 50 tuổi nhưng làm sao mà tôi có thể biết được tên cô ta cơ chứ?
Tôi đã kết thúc bài làm của mình với câu cuối cùng bị bỏ trống.
Cuối giờ kiểm tra, một sinh viên đã hỏi vị giáo sư rằng: “Liệu ông có tính
điểm cho câu hỏi cuối cùng kia không?”, ông ta trả lời: “Chắc chắn rồi”, rồi
ông nói tiếp: “Trong công việc, các em sẽ gặp rất nhiều người, tất cả họ đều
quan trọng, họ xứng đáng được nhận sự quan tâm của các em, dù chỉ là một nụ
cười hay một câu chào”.
Tôi đã không bao giờ quên bài học đó trên mỗi bước đường đời của mình sau
này, và tôi cũng không bao giờ quên tên của người phụ nữ đó, cô Dorothy.
Bài số 3: Bài học về sự giúp đỡ :
Trong một đêm mưa bão bất thường trên đường phố Alabama vắng vẻ, lúc đó đã
11h30 khuya, có một bà lão da đen vẫn cứ mặc cho những ngọn roi mưa quất liên
hồi vào mặt, cố hết sức vẫy vẫy cánh tay để xin đi nhờ xe.
Một chiếc xe chạy vút qua, rồi thêm một chiếc xe nữa, không ai để ý đến cánh
tay dường như đã tê cứng vì lạnh cóng. Mặc dù vậy, bà lão vẫn hy vọng và vẫy
chiếc xe kế tiếp. Một chàng trai da trắng đã cho bà lên xe. (Mặc cho cuộc
xung đột sắc tộc 1960). Bà lão trông có vẻ rất vội vã, nhưng cũng không quên
cám ơn và ghi lại địa chỉ của chàng trai.
Bảy ngày trôi qua, cánh cửa nhà chàng trai tốt bụng vang lên tiếng gõ cửa.
Chàng trai ngạc nhiên hết sức khi thấy một cái tivi khổng lồ ngay trước cửa
nhà mình. Một lá thư được đính kèm, trong đó viết: “Cảm ơn cháu vì đã cho bà
đi nhờ xe vào cái đêm mưa hôm ấy. Cơn mưa không những đã làm ướt sũng quần áo
mà nó còn làm lạnh buốt trái tim và tinh thần của bà nữa. Rồi thì lúc đó cháu
đã xuất hiện như một thiên thần. Nhờ có cháu, bà đã được gặp người chồng tội
nghiệp của mình trước khi ông ấy trút hơi thở cuối cùng. Một lần nữa bà muốn
cảm ơn cháu đã không nề hà khi giúp đỡ bà.”
Cuối thư là dòng chữ: “Chân thành – Bà Nat King Cole”.
Bài số 4: Bài học về lòng biết ơn :
Vào cái thời khi mà món kem nước hoa quả còn rất rẻ tiền, có một câu chuyện
về cậu bé 10 tuổi thế này:
Ngày nọ, Jim – tên của cậu bé – sau một hồi đi qua đi lại, ngó nghiêng vào
cửa hàng giải khát đông nhất nhì thành phố, nơi có món kem nước hoa quả mà
cậu rất thích, mạnh dạng tiến lại gần cái cửa, đẩy nhẹ và bước vào. Chọn một
bàn trống, cậu nhẹ nhàng ngồi xuống ghế và đợi người phục vụ đến.
Chỉ vài phút sau, một người nữ phục vụ tiến lại gần Jim và đặt trước mặt cậu
một ly nước lọc. Ngước nhìn cô phục vụ, cậu bé hỏi: “Cho cháu hỏi bao nhiêu
tiền một đĩa kem nước hoa quả ạ?”. “50 xu“, cô phục vụ trả lời. Nghe vậy, Jim
liền móc trong túi quần ra một số đồng xu lẻ, nhẩm tính một hồi, cậu hỏi
tiếp: “Thế bao nhiêu tiền một đĩa kem bình thường ạ?”. “35 xu”, người phục vụ
vẫn kiên nhẫn trả lời cậu bé mặc dù lúc đó khách vào cửa hàng đã rất đông và
đang đợi cô. Cuối cùng, người nữ phục vụ cũng mang đến cho Jim món kem mà cậu
yêu cầu, và sang phục vụ những bàn khác. Cậu bé ăn xong kem, để lại tiền trên
bàn và ra về.
Khi người phục vụ quay trở lại để dọn bàn, cô ấy đã bật khóc khi nhìn thấy 2
đồng kẽm (1 đồng bằng 5 xu) và 5 đồng xu lẻ được đặt ngay ngắn trên bàn, bên
cạnh 35 xu trả cho đĩa kem mà Jim đã gọi – Jim đã không thể có món kem nước
hoa quả mà cậu ấy thích bởi vì cậu ấy chỉ có đủ tiền để trả cho một đĩa kem
bình thường và một ít tiền boa cho cô.
Bài Học Số 5: Bài Học Về Sự Hy Sinh :
Đã lâu lắm rồi, nhiều năm đã trôi qua, khi tôi còn là tình nguyện viên tại
một bệnh viện, tôi có biết một cô gái nhỏ tên Liz – cô ấy đang mắc phải một
căn bệnh rất hiểm nghèo.
Cơ hội sống sót duy nhất của cô là được thay máu từ người anh trai 5 tuổi của
mình, người đã vượt qua được cơn bạo bệnh tương tự một cách lạ thường nhờ
những kháng thể đặc biệt trong cơ thể. Bác sĩ đã trao đổi và giải thích điều
này với cậu bé trước khi yêu cầu cậu đồng ý cho cô em gái những giọt máu của
mình. Lúc ấy, tôi đã nhìn thấy sự lưỡng lự thoáng qua trên khuôn mặt bé nhỏ
kia. Cuối cùng, với một hơi thở thật sâu và dứt khoát cậu bé đã trả lời rằng:
“Cháu đồng ý làm điều đó để cứu em cháu”.
Nằm trên chiếc giường kế bên em gái để thuận tiện hơn cho việc truyền máu,
cậu bé liếc nhìn em gái và đôi mắt ngời lên niềm vui khi thấy đôi má cô bé
hồng lên theo từng giọt máu được chuyền sang từ người cậu. Nhưng rồi, khuôn
mặt cậu bỗng trở nên tái xanh đầy lo lắng, cậu bé ngước nhìn vị bác sĩ và hỏi
với một giọng run run: “Cháu sẽ chết bây giờ phải không bác sĩ?” Thì ra, cậu
bé non nớt của chúng ta đã nghĩ rằng: cậu ta sẽ cho cô em gái tất cả máu
trong người mình để cứu cô ấy và rồi cậu sẽ chết thay cô.
Bạn thấy không, sau tất cả những hiểu lầm và hành động của mình, cậu bé đã có
tất cả nhờ đức hy sinh… Cuộc sống có câu: “Hãy cho đi thứ bạn
có, rồi bạn sẽ được đền bù xứng đáng”.

Sự Chết

Sự Chết

Bảo Ân, SJ

Sống trong truyền thống Công giáo, tháng 11 nhắc nhớ tôi về mầu nhiệm sự chết. Trí nhớ tôi như bị hút về bao phản ứng khác nhau của những người ở lại trước cái chết của người
thân. Khóc. Cười. Cãi vã. Hối tiếc. Cảm xúc. Suy tư. Những phản ứng ấy của người cũng đang ẩn hiện trong tôi khi tưởng nghĩ về cái chết.

Đối diện với sự ra đi của người thân, tuy có nhiều tâm tình khác nhau nhưng phần nhiều vẫn là một cảm giác hối tiếc. Cái chết của người nhắc nhở tôi về trách nhiệm yêu thương và quan tâm mà tôi dành cho họ. Thường thường tôi hối tiếc vì chưa quan tâm đủ. Có những niềm thương sâu kín muốn sẻ chia, mà sao sự hiện diện hữu hình của người đôi khi làm tôi ngập ngừng. Có những mong mỏi người tiến bộ hơn, thành nhân hơn mà tôi không tiện nói. Cũng có những oán hờn, ghen tương đang đào sâu hố tương quan giữa tôi với người. Và thậm chí có cả những ác ý trả thù nếu người lỡ gây cho tôi những niềm đau. Những bức tường vô hình và cả hữu hình kia cứ làm cho tình yêu tôi dành cho người vơi dần… vơi
dần.

Cái chết của người lại là thời điểm để những niềm đau chôn giấu và những niềm yêu ẩn sâu nơi tôi vùng sống dậy. Giờ đây những rào cản kia đã mất, chỉ còn lòng tôi đối diện với hồn người. Tôi thấy như người nhìn rõ tôi hơn, hiểu tôi hơn. Vậy còn gì nữa để mà che giấu? Hãy để cho những nỗi niềm ẩn kín trong tôi được đối diện với vong linh người. Nước mắt. Tôi khóc buồn tiễn đưa người hay khóc vui vì người đã giúp tôi sống thật với chính mình? Cười. Tôi cười mừng cho người vì đã được giải thoát nơi cõi thiên đường hay cười sầu cho tôi vì còn bị giam hãm nơi thế gian này?

Quay về với thực tại, ước muốn sống thật với chính mình của tôi lại gặp những trở ngăn của kiếp người hữu hạn. Tôi giới hạn ngay cả trong cách nắm bắt mình, diễn tả mình. Người giới hạn vì chỉ có thể hiểu tôi một phần. Trách ai? Đòi hỏi gì hơn? Ngày nào còn ở trong phận người tôi vẫn còn cô đơn. Tập sống với những nghèo nàn kia tôi sẽ bình an hơn. Vậy hóa ra, sự ra đi của người là cơ hội để tôi chiêm nghiệm cuộc sống này thêm sâu lắng.

Chiêm nghiệm để sống. Tôi cũng cần lắm những cái chết để sống thật, sống đúng. Bám vào danh dự, chức vụ, lợi lộc của đời làm tôi nhìn người cũng bằng những tiêu chuẩn ấy. Tôi đeo mặt nạ và tôi cũng tưởng người đeo mặt nạ như tôi. Tương quan giữa tôi và người chỉ là những chiếc mặt nạ thôi sao? Giữ chặt ý riêng, tôi nghe tâm sự của người qua một bộ lọc. Người sợ chẳng dám cởi mở lần nữa với tôi vì bộ lọc ấy vững quá, cứng quá. Còn tôi thì cho người là thiếu đối thoại, lười suy nghĩ… Chết đi cho những mặt nạ, bộ lọc ấy, tôi mới sống thật với sự nghèo nàn của mình, mới sống đúng cho một tương quan thân ái giữa tôi và người.

Suy nghĩ về cái chết dù của người hay của mình, con người tôi như bị lột trần. Nhờ sự trần trụi ấy mà tôi được một lần nhìn thấy những ý hướng ẩn kín đang chuyển động ngổn ngang nơi lòng mình. Sự chết cũng nhắc nhớ tôi về ý nghĩa cuộc hiện sinh này. Thấy mình, nhận ra ý nghĩa, tôi phải thay đổi để sự chết không còn là nỗi sợ trong tôi. Sợ vì mình chưa yêu đủ. Sợ vì mình chưa làm hòa với chính mình. Sợ vì mình còn mê lầm. Sợ vì mình chưa một lần sống có ý nghĩa. Sự  chết phải chăng là tiếng chuông cảnh tỉnh của Đấng Tối Cao?  Nếu thế, xin tạ ơn Người.

Tác giả bài viết: Bảo Ân, SJ

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

 

CHUỖI HỒNG THƯƠNG MẾN

CHUỖI HỒNG THƯƠNG MẾN

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

Mấy ngày nay trên các mạng truyền thông, sự kiện thu hút dư luận nhất là sự kiện cô
sinh viên trẻ Nguyễn Phương Uyên, 20 tuổi, bị bắt ( ngày 16 tháng 10 ) với những tình tiết khó hiểu và lý do khó hiểu, đã có nhiều bài báo nói về sư kiện này, còn có cả một thư kiến nghị của giới trí thức, nhân sĩ ( 147 vị, đề ngày 30 tháng 10 ) ký tên gởi Chủ Tịch Nước đề nghị xem xét giải quyết trường hợp Phương Uyên, trong danh sách 147 vị ký tên chúng ta thấy tên Đức Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám Mục Giáo Phận Vinh và cha Huỳnh Công Minh, Tổng Giáo Phận Sàigòn, trong kiến nghị có đoạn viết : “Chúng tôi đề nghị Chủ Tịch Nước, với trọng trách của mình, chỉ thị cho các cơ quan có trách nhiệm trả tự do ngay cho cháu Nguyễn Phương Uyên để cháu nhanh chóng trở lại nhà trường…”

Cùng lúc đó một sự kiện khác xảy ra, một người con gái trẻ ngoài 20 tuổi, Anna Huyền Trang, cộng tác viên của nhóm Truyền Thông Chúa Cứu Thế bị bắt khi đang đi ngoài công viên trước Hội Trường Thống Nhất ( Dinh Độc Lập cũ ) đúng vào ngày xử án hai nhạc sĩ Việt Khang và Anh Bình ( ngày 30 tháng 10 ). Huyền Trang bị bắt ( lúc 10g30 ) và đưa về trụ sở Công An Phường Cầu Kho giam giữ tới tối, những diễn biến trong ngày hôm đó xảy ra với Huyền Trang đã được Huyền Trang tường thuât trên trang mạng của Dòng Chúa Cứu Thế.

Ngày xưa khi thời còn trai trẻ ở Sàigòn, tôi không thuộc thành phần đi biểu tình
xuống đường chống đối, thậm chí tôi không thích tham gia vào những chuyện đó,
dù khi ấy những người xách động đã mắng chửi chúng tôi hèn nhát, có khi còn đe
dọa chúng tôi nữa, nhưng khi xem hình nữ sinh Quách Thị Trang gục chết ở công
viên trước chợ Bến Thành, thân thể đẫm máu, tôi không thể không có cảm xúc, một
nỗi thương cảm cho thân phận người con gái đã nằm xuống đau đớn khi còn quá
trẻ, một nỗi tiếc thương nặng nề đè nén tâm tư.

Chiều tối ngày 30 tháng 10 khi Huyền Trang vừa từ trụ sở Công An Cầu Kho trở về, Huyền Trang đã có một buổi chia sẻ nhanh với các anh chị bạn bè làm truyền thông với Huyền Trang, khi tôi bước vào phòng sinh hoạt thì Trang đang chia sẻ dở dang câu chuyện, tôi ghé thăm một chút nên đã không nghe được hết câu chuyện, chỉ sau này khi đọc trên mạng tôi mới biết những chi tiết khác. Trong vài phút ngắn tôi ngồi nghe chuyện, khi nói về việc Công An lục soát trong cơ thể Huyền Trang, cô bé ngây thơ rụt rè ngập ngừng mỗi khi phải nói về những hành động thô bạo đó, khi đến sự kiện người ta lôi Huyền Trang vào buồng tắm và cưỡng bức lột quần áo, Trang không nói được nữa, mắt hoen đỏ rồi những giọt lệ trào ra, lúc ấy tôi cảm nhận được sự xúc phạm nặng nề mà họ đã dành cho Huyền Trang, dành cho một người con gái vừa lớn, vừa bước vào đời, ngây thơ trong sáng. Bóp mũi người khác, vả mặt người khác, nhục mạ người khác, … là những hành vi xúc phạm nhân phẩm, cho dù đó là một tên tội phạm thì cũng không được làm như thế. Phải nói đây lại là một hành vi tồi tệ mất nhân cách !

Bị xúc phạm như vậy nhưng trong bài tường thuật, Huyền Trang vẫn cứ một giọng văn,
một tâm tình từ đầu chí cuối là ôn hòa, nhẫn nại, bình tĩnh, quảng đại, khoan dung, đầy nhân cách và đặc biệt điều tôi muốn nói là đầy tính Tin Mừng. Trang xác tín vào chuỗi Mai Khôi, xác tín vào sức mạnh của lời cầu nguyện, xác tín vào quyền năng của chuỗi hồng thương mến, xác tín vào sự bình an và tình thương của Chúa. Khi gặp, Huyền Trang đã đưa cho tôi chuỗi Mai Khôi bị đứt làm hai, Huyền Trang nói: “Con tức lắm, họ giật đứt chuỗi của con rồi còn thách thức con nữa”, mắt cô bé lại ngấn lệ tay nắm chặt chuỗi hồng thương mến.

Chúng ta đã khai mạc Năm Đức Tin. Đức Tin không chỉ là những bài Thần Học dài lê thê
nặng nề cao siêu, nhưng Đức Tin đã được một người con gái bé bỏng, xa lạ với  những ngôn từ Thần Học, nhưng lại cảm tạ, tuyên xưng, cử hành, sống và chia sẻ rất giản đơn, rất hiệu quả, bằng chứng là những con người đang cuồng nộ bỗng thay đổi thái độ và trở nên tử tế. Đức Tin không chỉ làm cho người ta thỏa mãn những ý tưởng phiêu du bóng bảy nhưng lại có khả năng làm cho một cô gái đơn sơ nhìn kẻ đánh mình, hành hạ mình, mắng chửi mình, nhục mạ mình, rồi sau đó thuật lại cho mọi người là “chị Công An xinh đẹp, hiền từ”. Nhìn thấy cái đẹp nơi con người nhục mạ hành hạ mình đó là khả năng diệu kỳ của Đức Tin.

Chúng ta cảm tạ hồng ân Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, qua hoàn cảnh, Chúa gởi đến
cho chúng ta bài học Đức Tin sống động, nếu mỗi người Kito hữu chúng ta cố gắng
sống Đức Tin một cách sống động như thế, chúng ta hoàn toàn có thể làm “đổi mới
mặt địa cầu”.

Vâng, chính nhờ đời sống Đức Tin chứ không phải do tài năng nào khác !

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

3.11.2012

nguồn: trích báo Ephata 534

conggiaovietnam.net

 

TÔI THEO ĐẠO TRỜI

TÔI THEO ĐẠO TRỜI

1. Đạo Trời là gì ?
Đạo Trời là lòng tin tưởng một vị linh thiêng, tự hữu, toàn năng, toàn thiện, chí công, chí minh, ngự trên Trời; Đấng ấy gọi nôm là Ông Trời, là Tạo Hóa, là Thượng Đế, là Đấng Tối Cao, tùy tiếng nói của mỗi dân tộc.
2. Tại sao nhận biết có Trời ?
Nhìn vào vũ trụ bao la, tinh vi huyền diệu, tôi nhận rằng phải có bàn tay
tác tạo…
Ta xem một chiếc đồng hồ,
Nếu không có thợ, bao giờ thành thân,
Phương chi máy tạo xoay vần,
Tứ thời bát tiết muôn phần lạ hơn,
Nên ta phải lấy trí khôn,
Luận rằng có Đấng Chí Tôn sinh thành.
Con chim nó hót trên cành,
Nếu trời không có, có mình làm sao ?
Con chim nó hót trên cao,
Nếu Trời không có thì sao có mình ?
Trời là gốc của vạn vật “Thiên giả vạn vật chi tổ” ( Trọng Thư )
3. Những ai tin tưởng có Trời ?
Có thể nói rằng hầu hết nhân loại tin tưởng có Trời. Tính tự nhiên của con
người, khi gặp nguy biến, đều kêu Trời ! Ca dao bình dân có bài:
Lạy Trời mưa xuống,
Lấy nuớc tôi uống,
Lấy ruộng tôi cày,
Lấy đầy bát cơm…
4. Đạo Trời có phải riêng cho một nước nào không ?
Đạo Trời chung cho mọi nước, mọi thời. “Thiên giả vạn vật chi tổ” ( Trọng Thư ); Đạo sáng suốt là bởi Trời ban xuống “Minh Đạo chi bản nguyên, xuất ư Thiên” ( Khổng Tử ).
5. Làm thế nào biết được Đạo Trời ở nơi mỗi người ?
Trời ban cho mỗi người có lương tri, lương tâm như ngọn đèn soi cho ta biết
đâu là thật, đâu là dối, đâu là lành, đâu là dữ, đâu là phúc, đâu là tội, để ta
lái mọi tư tưởng, hành động của ta sao cho hợp với đường lối của Trời. “Tri
Thiên đạo, hành thân dĩ nhân nghĩa” ( Biết Đạo Trời thì ăn ở theo nhân nghĩa –
Khổng Tử )
6. Mỗi người phải giữ Đạo Trời thế nào ?
Phải cố gắng tìm cho thấy rõ Đạo Trời. Phải lấy Đạo mà hướng dẫn đời sống –
theo lương tâm mà lấy điều thiện làm vui, lấy đạo lý làm trọng – phải nhớ luật
của Trời làm lành sẽ được thưởng, làm dữ sẽ bị phạ “Thiên vọng khôi khôi, sơ
nhi bất lậu”. ( Lưới trời rộng, thưa mà không lọt đâu ).
7. Bình thường, người ta thờ Trời như thế nào ?
Mỗi gia đình thường có bàn thờ trong nhà để thờ Trời và Ông Bà Tổ Tiên; có
người xây trụ ở ngoài sân trước nhà, sớm tối vái lạy; thỉnh thoảng dâng hương
nến, hoa quả để tỏ lòng tri ân.
8. Đạo Trời dạy ta phải cư xử với nhau như thế nào ?
Trời là gốc, là cha mẹ sinh thành, thì phải coi mọi người là anh chị em với
nhau và cư xử như một đại gia đình nhân loại, lấy tình thương mà bao bọc.
9. Đạo Trời có từ bao giờ ?
Đạo Trời có từ khi Trời tác tạo ra con người có trí khôn biết suy luận, biết
hướng về Trời, biết xem ý Trời thế nào mà hành động.
10. Ý Trời thế nào ?
Ý Trời là lương tri, lương tâm, Trời đã đặt trong lòng mỗi người, khác nào hạt giống đặt vào đất, sẽ dần dần nẩy mầm vươn lên thành cây, sinh hoa kết quả, thế là đạt tới mức độ mà ý Trời mong muốn.
11. Đạo Trời đưa người ta đến đâu ?
Đạo Trời đưa người ta về tới Trời. Trời là nguồn hạnh phúc vô cùng vô biên
mà lòng người khao khát.
12. Sống đạo Trời có dễ không ?
Dễ hay khó là tại mỗi người. E dè thì khó. Cương quyết thì dễ. Sống theo luơng tâm, làm lành lánh dữ. “Vi thiện tối lạc” ( làm lành thì rất vui ). “Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi, nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông” ( Nguyễn Bá Học ).
13. Trên đường thực hiện đạo Trời, người ta gặp những kẻ thù nào ?
Có ba loại: Một là ngay ở trong mình. Đó là tính mê nết xấu, dục vọng đê
hèn… Hai là thế tục cám dỗ lôi cuốn đi vào sa đọa trụy lạc. Ba là Xa-tan ác
quỷ, luôn tìm hại con người.
14. Con người đối phó thế nào với 3 loại kẻ thù nói trên ?
Phải tự tu tỉnh và kêu cứu kịp thời:
a. Tự tu là sửa trị tính nết xấu, loại trừ những sâu mọt đục khoét trong mình
b. Tự tỉnh là tỉnh táo đề phòng, tránh xa những cạm bẫy do thế tục giương lên
để bắt mình
c. Kêu cứu kịp thời và xin Trời hộ giúp để Xa-tan ác quỷ không hại được mình.
Kẻ lành thánh, người khôn ngoan nhờ 3 việc đó là lúc nào cũng vững như kiềng 3
chân. “Trời giúp kẻ tự giúp”.
Chim khôn xa tránh lưới dò,
Người khôn tránh chốn ô đồ mới khôn.
15. Xa-tan ác quỷ ở đâu ra và mưu hại con người đến thế nào ?
Nó là một loài do Trời sinh ra, rồi vì tự kiêu tự đại mà phản bội với Trời,
nên nó muốn phá việc của Trời, và không muốn cho con người trở về với Trời, vì
như thế thì Trời được vinh hiển và con người được hạnh phúc thật. Xa-tan không
làm gì được Trời, nhưng chỉ làm hại được con người bằng cách lôi cuốn dụ dỗ con
người xa Trời, phản bội với Trời như nó. Người nào mắc mưu Xa-tan là đi đến chỗ
tự sát và đồng khổ cực với nó sau này mãi mãi.
16. Có ai thắng được Xa-tan ác quỷ chưa?
Các bậc thánh nhân lấy Đạo Trời làm lẽ sống, luôn cậy dựa quyền năng của
Trời, bền chí quyết giữ Đạo dù chết cũng không bỏ. Những vị đó đã thắng được
Xa-tan.
17. Đạo Trời từ xưa tới nay được công bố như thế nào ?
Lịch sử Đạo Trời là lịch sử nhân loại, vì Đạo Trời là đường lối để Trời đi
xuống với nhân loại bằng cách tác tạo nên ta, và cũng là đường lối để nhân loại
ta đi lên với Trời, đó là trở về nguồn chơn phúc vô biên mà ta khát vọng.
Đạo Trời được công bố bằng ba hình thức:
Hình thức thứ nhất là in sẵn vào tâm hồn mỗi người khi sinh ra. Đến tuổi
khôn người ta nhìn thấy trong lòng mình ý nghĩa thế nào là lành, thế nào là dữ,
đâu là phúc, đâu là tội, và khi làm trái lương tâm thì người ta thấy bứt rứt
sầu khổ.
Hình thức thứ hai là đi vào lịch sử thực sự. Trời chọn một dân tộc, giao cho
sứ mạng duy trì, phổ biến ý niệm về Đạo Trời, kêu gọi các dân tộc khác giác ngộ
từ bỏ những tà thần mà Xa-tan đã bày đặt ra để lừa dối con người. Hình thức thứ
hai này đã được thực hiện trong lịch sử dân Do Thái. Đạo luật của Trời xưa chỉ
in trong lòng người thì đã được in vào bia đá trên núi Xi-nai và trao cho thủ
lĩnh Mô-sê đem công bố cho dân một cách long trọng vào khoảng 1.250 năm trước
Công Lịch.
Hình thức thứ ba tiếp tục lịch sử thực sự. Đó là việc Trời cử một Ngôi vị
giáng trần, nhập thể làm một Con Người để sống với con người chúng ta, trực
tiếp nói với nhân loại đường lối của Đạo Trời, và cho chúng ta biết Trời yêu
thương ta như Cha yêu thương con, cùng dạy ta cách thức cầu nguyện thông hiệp
với Trời. Ngôi vị Trời giáng trần đây chính là Đức Giê-su Ki-tô mà thân thế và
sự nghiệp đã được lịch sử ghi nhận rõ ràng – và sự giáng trần của Ngài đã dựng
nên một cái mốc phân chia lịch sử làm hai giai đoạn:
– Trước Ngài ( BC ): Tính từ Ngài lui về trước.
– Sau Ngài ( PC ): Tính từ Ngài cho tới nay.
Và cũng từ ngày Đức Giê-su Ki-tô di vào lịch sử nhân loại, Đạo Trời được sáng
tỏ và mang thêm một tên mới là Ki-tô Giáo.
18. Việc Đức Giê-su Ki-tô đến có lợi gì cho nhân loại ?
Lợi rất nhiều, rất lớn, rất cần thiết:
a.    Chính nhờ sự hy sinh của Ngài, nhân loại được Chúa Trời ( Thiên Chúa ) nhận vào hàng con cái và cho hưởng gia nghiệp Thiên Quốc nếu trung thành.
b.    Nhờ lời giáo huấn và gương sống của Ngài, ta biết được gốc ngọn của mình, biết được lẽ sống chân chính, biết được đường lối trở về với Chúa Trời.
c.    Nhờ sự trung gian của Ngài, nhân loại lại được giao hòa với Chúa Trời.
d.    Nhờ quyền năng, biểu hiện trong cuộc sống lại ( Phục Sinh ) của Ngài, cũng là nhờ Chúa Thánh Thần, nhân loại được ơn thiêng hỗ trợ để thắng các mưu chước của bè lu Xa-tan, để tiến tới Quê thật là Nước Trời.
Ai theo Đức Giê-su Ki-tô thì được sống hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi, nghĩa là đồng nhất với Đức Giê-su Ki-tô, trong Chúa Thánh Thần, trở nên con chí ái của Cha trên Trời.
19. Sự nghiệp của Đức Giê-su Ki-tô còn tiếp tục trong nhân loại bằng cách nào ?
Vì Đức Giê-su Ki-tô là một Ngôi Trời giáng thế, nên sau khi hoàn thành sứ mệnh, Ngài về Trời. Nhưng sự nghiệp của Ngài cần phổ cập đến mọi người và trong mọi thế hệ, nên Ngài đã lập một hội đoàn để duy trì, phổ biến những chân lý về Đạo Trời cho kẻ hậu lai khỏi bị Xa-tan lừa dối mà thiệt phần vĩnh phúc chăng.
Hội đoàn mà Đức Giê-su Ki-tô để lại, đó là Hội Thánh, do các Tông Đồ kế tiếp nhau coi sóc. Vị Tông Đồ Trưởng gọi là Giáo Hoàng, là thủ lãnh thay mặt Chúa Giê-su lãnh đạo Hội Thánh. Thánh Phê-rô là vị Giáo Hoàng đầu tiên do chính Chúa Giê-su chỉ định; và vị Giáo Hoàng hiện tại, vừa mới về Trời, là Đức Gio-an Phao-lô đệ nhị, vị Giáo Hoàng thứ 265, coi sóc hướng dẫn Hội Thánh từ năm 1978 đến năm nay, 2005.
20. Muốn học hỏi gia nhập Đạo Trời ( Đạo Thiên Chúa ), ta có thể căn cứ vào đâu và ta đến với ai ?
Căn cứ vào sử sách, vào uy tín và công cuộc của Hội Thánh đã thực hiện từ gần hai ngàn năm nay ở khắp mọi nơi trên thế giới. Bộ sách Thánh Kinh gồm phần Cựu Ước ( Đạo Trời do Ông Mô-sê và các Ngôn Sứ ghi chép trước Chúa Giáng Sinh ) và phần Tân Ước ( Đạo Trời do chính Chúa Giê-su và các môn đệ đầu tiên ghi chép ): Là bộ sách được phổ biến rộng rãi nhất từ xưa tới nay. Nước nào cũng có Thánh Kinh, có sách Giáo Lý in bằng tiếng nước ấy, nên việc học hỏi Đạo đuợc dễ dàng. Còn việc gia nhập Đạo cũng được các vị đại diện của Hội Thánh chỉ bảo cặn kẽ và tiếp đón nồng hậu.
Dù nhiều khi bị hiểu lầm, bị ghen ghét, bị bách hại, Hội Thánh vẫn phát triễn bất chấp mọi trở lực, khiến con số giáo hữu ngày nay đã tới hàng tỷ người.
Xưa kia chỉ biết kêu Trời,
Ngày nay lại biết Chúa Trời là Cha.
Trần gian chưa phải là Nhà,
Thiên Đàng vĩnh phúc mới là chính Quê.
Chữ rằng “Sinh ký tử quy”,
Nghĩa là: “Sống gởi thác về đời sau”.
21. Tại sao có người đang giữ đạo tự nhiên, ăn ngay ở lành, danh thơm tiếng tốt rồi, mà khi gặp Đạo Trời, lại tin theo ?
Vì Đạo tự nhiên thực ra cũng là Đạo Trời, nhưng ở giai đoạn sơ khai. Vả lại
giữ Đạo có phải cốt cho được danh thơm tiếng tốt ở đời này đâu, nhưng là cốt
làm đầy đủ đức hiếu thảo đối với Trời là Đấng sinh thành dưỡng dục và thưởng
phạt người ta sau này. Vì thế khi gặp được Đạo Trời ở giai đoạn hoàn toàn trọn
vẹn thì không thể không theo cho được.
Đức Giê-su đã ví Đạo Trời như viên ngọc quý giá đặc biệt mà một đời người
chỉ gặp thấy có một lần, nên ai khôn ngoan thật đều dẹp bỏ hết các thứ khác kém
cỏi để sắm cho bằng được thứ ngọc hảo hạng ấy. Những thứ ngọc khác đây có thể
coi là luân lý tự nhiên mà các bậc hiền nhân quân tử như Đức Khổng Tử, Mạnh Tử,
Tuân Tử, Mặc Tử, Lão Tử ở Trung Hoa; như Socrate, Platon, Aristote ở Hy Lạp,
như Đức Thích Ca ở Ấn Độ… đã theo luơng tâm thực hiện và phổ biến được phần
nào trong lúc sinh thời, đó là những sứ giả tiền phong của Đạo Trời.
Bởi thế khi chính Đạo Trời được công khai xuất hiện trong lịch sử với sự
giáng trần của Đức Giê-su Ki-tô, Con Trời hằng sống, thì vai trò của các sứ giả
đương nhiên chấm dứt, và lòng người tất nhiên hướng về Đạo Trời là chỗ có Chân
Lý hoàn toàn và Thiện Mỹ viên mãn vậy.
22. Đạo Trời đối với Đạo Ông Bà Tổ Tiên thế nào ?
Không có Trời thì làm gì có ông bà tổ tiên, vì chính tổ tiên cũng nhờ Trời
sinh Trời dưỡng, cũng do Trời đặt vào cái vũ trụ này, cho qua một cầu sinh tử
dài lắm là ba vạn sáu ngàn ngày, rồi cũng từ giã cõi trần mà về tới Trời rồi,
“sinh ký tử quy” là thế.
Đằng khác, chính đức hiếu nghĩa với tổ tiên cũng là do Trời in vào lòng ta,
nên hiếu nghĩa là theo hướng Trời sắp đặt, nhưng không nên dừng lại ở tổ tiên
mà phải đi xa hơn nữa, đến tận Trời mới là hiếu nghĩa vẹn toàn, mới là chính
đáng, vì Trời mới là gốc tổ mọi loài, còn ông bà tổ tiên chỉ là những móc nối
trung gian mà thôi.
23. Có người nghĩ rằng theo Đạo Trời thì không cúng thực phẫm đồ dùng cho ông bà để ông bà đói khổ, vì thế mà có người tuy mến Đạo Trời, vẫn chưa dám trở lại. Nghĩ thế có đúng chăng ?
Lòng thương nhớ ông bà đã quá cố là việc tốt, nhưng nghĩ rằng vong linh ông
bà còn cần cơm gạo bánh trái hay đồ dùng như khi còn sống thì không đúng, vì
linh hồn thiêng liêng không cần vật chất như xác, nhưng cúng quảy thực phẩm như
một nghi lễ để kính nhớ thì tốt. Việc hiếu nghĩa ta có thể làm là thành khẩn
cầu xin với Trời mở lượng hải hà: nhất xá vạn xá, cho ông bà vào hưởng phúc với
Trời sớm ngày nào hay ngày ấy, đó là thiết thực và cần cấp hơn hết.
Bên Công Giáo có việc cầu nguyện cho ông bà hằng ngày; mỗi năm lại dành hẳn
một tháng để toàn thể thế giới hợp ý thỉnh nguyện cho nữa. Ngoài ra, các ngày
kỷ niệm, tuần ba tuần bảy, tuần ba mươi, tuần trăm, giáp năm, hay giỗ đầu, giỗ
năm của gia đình nào thì gia đình nấy hoặc cả Họ Đạo cùng đọc kinh cầu nguyện
cho nữa. Cũng có thể tổ chức bữa ăn giỗ để phát huy tình cảm gia đình và gia
tộc. Xét thế, theo Đạo Trời, con cháu rất là hiếu nghĩa với ông bà tổ tiên.
24. Có người biết Đạo Trời là cần cho mình, nhưng vì sinh kế bận rộn, vì còn muốn sống dễ dãi, ngại chịu khó, nên chưa dám trở lại Đạo. Nghĩ thế có được chăng ?
Đạo lý tối đại, sao lại coi rẻ thế được. Sinh kế chỉ là phương tiện nhất thời, chớ có phải là cứu cánh của con người đâu. Ta nên biết, con người lúc nào cũng nhờ ơn Trời, sao ta lại quên vị Đại Ân Nhân của ta là Trời. Nếu ta muốn sống bừa bãi ngoài kỷ luật của lương tâm, tức là ta tự giảm giá và tự đặt mình vào tình trạng nguy cấp luôn luôn, vì ta không biết mình chết lúc nào – và chết rồi phải bị phán xét ngay lúc ấy, hối cũng không kịp.
Biết Trời thưởng phạt sau này,
Muốn sau được thưởng thì rày phải lo.
Gắng công Trời sẽ giúp cho,
Đạo lành gây dựng cơ đồ mai sau.
Mọi sự ở trên đời,
Một mai rồi cũng hết,
Việc lành dữ mà thôi,
Sẽ theo ta khi chết…
PHỤ LỤC:
Ý kiến của những người trở lại Đạo Thiên Chúa:
1.   Ông Lục Trưng Tường, nhà ngoại giao Trung Hoa, từ nhỏ là môn sinh của sân Trình cửa Khổng và chỉ có biết đạo Ông Bà Tổ Tiên, sau đã gặp được Đạo Công Giáo như gặp được kho báu, đã trở lại và tiến xa trên đường Đạo, đã hiến thân làm Linh Mục. Ông nói: “Ơn Cứu Độ là chỗ tập trung tất cả các nẻo đường, là chỗ độc nhất mà đức hiếu của loài người được tiếp vào đức hiếu thảo siêu nhiên mà Đức Ki-tô đã dạy và đã cho chúng ta hưởng thụ để kết hợp tất cả nhân loại với Thiên Chúa là Cha chúng ta ở trên Trời”. ( x. The Ways of Confucius
and of Christ )
2.   Ông Ngô Gia Lễ, tri phủ Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, miền Bắc Việt Nam ta, vì tiếp xúc với người Công Giáo, ông muốn tìm hiểu đạo lý, đã học sách Phúc Âm, đã nhận được tính cách siêu việt của Đức Ki-tô, Con Trời giáng thế, ông đã trở lại để được tâm giao với Trời qua Đức Ki-tô. Ông nói: “Tôi đã đọc Phúc Âm một cách thành kính. Tôi nhận thấy Đức Ki-tô không phải chỉ là một nhân vật khác thường, Ngài chính là con Thượng Đế đã đến để cứu đời. Tôi là một trong những kẻ được Ngài tỏ mình ra trong Phúc Âm”. ( x. Ông Tổ Đạo Công Giáo )
3. Ông Trịnh Sùng Ngộ, giáo sư triết học Đại Học Honolulu, nước
Huê Kỳ, nguyên đại sứ Trung Hoa Dân Quốc tại Vatican. Từ nhỏ đã sinh ra trong
gia đình thấm nhuần tư tưởng Lão Giáo, Khổng Giáo và Phật Giáo. Sau khi ông trở
lại ông đã giúp nhiều bạn hữu biết Đạo và đã đem hết tâm trí vào việc phiên
dịch Thánh Kinh và Kinh Thi ra tiếng Trung Hoa. Ông nói: “Thiên Chúa Giáo là
Đạo bởi Trời. Người ta lầm nếu cho đó là đạo của Âu Châu. Đạo dó không phải của
Âu Châu hay của Á Châu, không cũ không mới. Tôi cảm thấy Đạo đó tiềm ẩn ở trong
tôi một cách sâu đậm hơn cả Lão Giáo, Khổng Giáo, Phật Giáo là những đạo tôi đã
hấp thụ khi sinh trưởng. Tôi biết ơn những đạo này vì đã làm đà đưa tôi đến với
Đức Ki-tô. Sau nhiều năm lạc lõng, nay tôi được về với Đức Ki-tô để ở luôn với
Ngài thật là vui sướng vô biên. Tôi đã nhảy vọt lên trên thời gian rồi. Từ nay
sự sống động và bản thể của tôi đuợc đặt vào lãnh vực đời đời. Gia nhập Hội
Thánh Chúa Ki-tô, tôi đã không thiệt mất gì, nhưng đã được hoàn toàn mãn
nguyện” ( x. Par delà l’Est et l’Ouest ).
4.   Ông Mashaba, một học giả Ấn Độ, sau 20 năm tìm tòi suy luận
về Ấn Giáo, Khổng Giáo, Phật Giáo, Ba-la-môn Giáo, Do Thái Giáo, Thiên Chúa
Giáo, Lão Giáo, Hồi Giáo, Thần Đạo ( của người Nhựt Bổn ), Tin Lành Giáo, ông
đã phân tích như sau: “Sở dĩ mỗi tôn giáo có một công dụng khác nhau là vì mỗi
Giáo Tổ nhìn thấy một khía cạnh đau khổ của con người và tìm cách cứu giúp theo
khía cạnh đó. Bởi thế, có thứ kêu gọi từ bi quảng đại, có thứ chủ trương diệt
dục hy sinh, có thứ dùng hiếu thảo nhân nghĩa, có thứ giúp tu thân cứu đời,
công bình bác ái v.v… nhưng không tôn giáo nào được đầy đủ như Thiên Chúa
Giáo, vì Đạo này xây dựng cho con người một cuộc đời biết xả thân vì tình yêu
thương”.
Tưởng nhớ ông bà tổ tiên
Chương trình đơn giản khi cầu nguyện với tổ tiên bất cứ dịp nào:
1.   Thắp hương đèn trên bàn thờ
2.   Làm dấu hình Thánh Giá
3.   Nguyện Kinh Lạy Cha
4.   Nguyện: “Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ cho các đẳng linh hồn được lên chốn nghỉ ngơi, hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen”.
5. Dâng lời nguyện với tổ tiên: “Kính lạy anh linh các bậc tổ tiên ông bà nội ngoại…, hôm nay nhân ngày…, chúng con thắp nén hương bày tỏ lòng tưởng nhớ và biết ơn. Kính xin thương cầu nguyện cho chúng con được bình an mạnh khoẻ, được hòa thuận êm ấm và được mọi điều tốt đẹp như ý Thiên Chúa muốn…”
Nghi thức Lễ Cưới ở gia đình:
Ngày nay việc tổ chức đám cưới tại gia đình có thể diễn tiến theo nhiều dạng rất khác nhau. Tuy nhiên, trường hợp thông thường nhất vẫn là: sau Lễ Hôn Phối, nhà gái tổ chức mừng vu quy, và sau khi đón dâu về nhà, nhà trai tổ chức chúc mừng Lễ Thành Hôn. Nghi Lễ Vu Quy dưới đây cử hành khi nhà trai đến nhà gái đón dâu; nghi Lễ Thành Hôn cử hành khi cô dâu được đưa về nhà chồng. Nếu diễn tiến theo các cách khác, xin tùy nghi ứng biến.
A. Nghi thức Lễ Vu Quy:
Vị chủ hôn bên nhà trai, chú rể và họ hàng từ nhà trai tới nhà gái, dừng lại
ngoài cổng. Đại diện vào báo cho nhà gái ra đón mời vào. Rồi nghi thức như sau:
1. Nhà trai ngỏ lời, giới thiệu lễ vật.
2. Nhà gái đáp lời chấp thuận và xin đưa lễ vật đến bàn thờ gia tiên để làm lễ.
3. Lễ Gia Tiên và cầu nguyện tạ ơn. ( xem Lễ Gia Tiên tiếp sau )
4. Chú rể và cô dâu vào chào cha mẹ và họ hàng bên vợ.
5. Uống nước hoặc ăn tiệc.
6.   Cuối giờ, chủ hôn nhà trai xin đón dâu, nhà gái đáp lời ưng
thuận…
B. Nghi thức Lễ Thành Hôn:
Đoàn đưa dâu về nhà trai, nhà trai mời vào. Người mẹ chồng đón con dâu vào
phòng nghỉ một lát rồi ra Lễ Gia Tiên. Nghi thức Lễ Gia Tiên như sau:
1. Nhà trai ngỏ lời chào mừng và mời tới trước bàn thờ gia tiên làm lễ.
2. Lễ Gia Tiên và cầu nguyện tạ ơn.( xem Lễ Gia Tiên tiếp sau )
3. Cô dâu chú rể chào cha mẹ chồng và họ hàng bên chồng.
4. Uống nước hoặc ăn tiệc.
5.   Cuối cùng, vị chủ hôn nhà gái gởi gắm, nhà trai giã từ.
Lễ Gia Tiên và cầu nguyện tạ ơn:
1. Vị chủ hôn nói đại ý: “Kính lạy anh linh các bậc tổ tiên, nhờ phúc đức
ông bà, tổ tiên, gia đình chúng con (hoặc nêu tên gia đình anh chị X… ) sinh
hạ được người con gái ( hoặc con trai ) là… và đã giáo dục cháu nên nguời.
Nay cháu được Chúa thương cho đẹp duyên cùng cháu… Chúng con xin đưa hai cháu
đến trước bàn thờ gia tiên. Xin phép cho hai cháu được dâng nén hương bày tỏ
lòng kính nhớ tri ân và thắp lên ngọn nến bày tỏ quyết tâm làm rạng danh tổ
tiên và vinh Danh Thiên Chúa. Xin các bậc tiền nhân bầu cử cho hai cháu được
trăm năm hạnh phúc, sống đẹp lòng cha mẹ họ hàng hai bên, chu toàn các trách
nhiệm hôn nhân và gia đình theo đúng ý của Chúa Trời”.
2. Cô dâu chú rể niệm hương: ( Một người đốt nhang sẵn và đưa cho cô dâu chú
rể, cả hai cùng vái 4 vái ).
3. Cô dâu chú rể thắp nến.
4. Vị chủ hôn tiếp lời: “Giờ đây chúng ta hướng đến Thiên Chúa là nguồn gốc
trên cùng của mọi gia tộc. Xin Ngài lấy tình Cha mà che chở gia đình mới…
“Lạy Cha chúng con…”
5. Đọc Lời Chúa: ( Ga 2, 1 – 11 )
6. Cô dâu và chú rể cùng cầu nguyện: “Lạy Chúa Giê-su, xưa Chúa đã đến trong
tiệc cưới Ca-na, ban ơn lành cho đôi bạn mới và gia đình hai bên. Nay qua Bí
Tích Hôn Phối, Chúa cũng đã đến trong gia đình chúng con, chúng con xin dâng
lời tạ ơn Chúa. Xin Chúa chúc lành cho cha mẹ chúng con, mỗi người trong gia
đình và họ hàng hai bên, và toàn thể ân nhân bạn hữu. Xưa Chúa đã biến đổi nước
thành rượu, ngày nay xin Chúa biến đổi tình yêu thương bé nhỏ giới hạn của
chúng con thành tình yêu thương bao la và nồng thắm của Chúa. Xin cho gia đình
chúng con biết tôn vinh Chúa, đem lại hạnh phúc cho nhau và niềm an ủi cho mọi
người. Chúa hằng sống hằng trị muôn đời. Amen”.
7. Kết thúc: Hát Kinh Hòa Bình hoặc một bài khác thích hợp…
Lm. NGUYỄN QUANG DUY, DCCT,

Gx. Long Hưng, Gp. Vĩnh Long, năm 2000, theo “Sứ Vụ Loan báo Tin Mừng”

GIÁO HỘI CÔNG GIÁO DÀNH THÁNG 11 ĐỂ CẦU CHO LINH HỒN LUYỆN NGỤC

GIÁO HỘI CÔNG GIÁO DÀNH THÁNG 11 ĐỂ CẦU CHO LINH HỒN LUYỆN NGỤC
Năm 1880 Cha Martin Berlioux phổ biến tập sách nhỏ ”Một Tháng với những người bạn của chúng ta Các Đẳng Linh Hồn  trong Lửa Luyện Ngục, biết các ngài, cầu nguyện cho các ngài và giải thoát các ngài”. Xin trích dịch Lời Mở Đầu với các lý chứng vững chắc thôi thúc mỗi tín hữu Công Giáo sốt sắng dành trọn tháng 11 để cầu nguyện cho những người thân yêu đã qua đời.
An ủi người quá cố và gây ích lợi cho người còn sống là hai mục đích chúng tôi nhắm tới khi soạn tập sách nhỏ này.

Trong giới công giáo ai cũng biết rằng lời cầu nguyện của người còn sống giúp ích cho người đã qua đời, nhưng ít ai biết rằng các kinh nguyện và việc lành phúc đức dành cho người chết cũng mưu lợi ích cho người còn sống.
Vâng, đúng thế! Quyền lực và lòng tri ân của Các Đẳng Linh Hồn ít được biết đến cũng không được đánh giá cao. Do đó người ta không lo lắng bao nhiêu đến chuyện xin Các Đẳng Linh Hồn cầu bầu cùng THIÊN CHÚA cho chúng ta. Trong khi đó thì thế lực của các ngài thật lớn lao đến độ, nếu kinh nghiệm mỗi ngày không có đó để làm chứng, thì người ta khó lòng tin được.
Nói đúng ra thì Các Đẳng Linh Hồn không còn có thể lập công đức vì các ngài không còn ở trong con đường lập công; nhưng các ngài có khả năng làm tăng giá trị các công phúc trước đó của các ngài để giúp chúng ta. Các ngài không còn có thể thu nhận được gì cho chính các ngài, nhưng lời các ngài cầu nguyện cho chúng ta và các đau khổ các ngài chịu gây xúc động lòng THIÊN CHÚA rất nhiều. Và nếu các ngài đã có thể hữu ích cho chúng ta dường ấy khi vẫn còn đang ở trong Lửa Luyện Hình, thì thử hỏi có gì mà các ngài không làm cho chúng ta khi các ngài sẽ được vào chốn trường sinh? Trên Thiên Quốc các ngài sẽ bày tỏ lòng tri ân biết bao đối các vị ân nhân của các ngài!
Phần đông các nhà thần học trong đó có các vị như Thánh Alfonso Maria de’ Liguori (1696-1787), Thánh Roberto Francesco Romolo Bellarmino (1542-1621) đều dạy rằng thật là điều hợp pháp và rất hữu ích khi kêu xin Các Đẳng Linh Hồn cầu bầu cùng THIÊN CHÚA cho chúng ta các ơn lành chúng ta cần về phần hồn cũng như phần xác.
Thánh nữ Teresa thành Avila (1515-1582) có thói quen khẳng định rằng tất cả những gì thánh nữ xin cùng THIÊN CHÚA nhờ lời chuyển cầu của các tín hữu đã qua đời thì đều được nhậm lời. Thánh nữ Caterina thành Bologna (1413-1463) quả quyết: ”Khi muốn chắc chắn nhận được một ơn nào, tôi liền chạy đến với Các Đẳng Linh Hồn xin các ngài đệ trình lên THIÊN CHÚA và ơn tôi xin luôn luôn được Chúa nhậm lời”. Thánh nữ còn nhấn mạnh là đã nhận được nhiều ơn qua lời chuyển cầu của Các Đẳng Linh Hồn hơn là qua sự cầu bầu của Các Thánh.
Có một số ân huệ nơi trần gian này có vẻ như thuộc riêng về lãnh vực cầu bầu của Các Đẳng Linh Hồn, ví dụ như: ơn khỏi bệnh nặng, ơn thoát hiểm nguy thể lý, luân lý hay thiêng liêng, ơn lập gia đình và tâm đồng ý hợp nơi mái ấm, ơn tìm  được việc làm .. THIÊN CHÚA biết rõ loài người thường bám vào các lợi ích ở hàng thứ yếu, nên đã giao cho Các Đẳng Linh Hồn ưu tiên cầu bầu cho chúng ta, hầu thúc giục chúng ta làm nhiều việc lành phúc đức rồi nhường lại cho Các Đẳng Linh Hồn.
Nói như thế thì có nghĩa là chúng ta được lợi rất nhiều khi trao đổi các lời cầu nguyện của chúng ta với các lời cầu nguyện của các anh chị em quá cố của chúng ta. Thật là hồng ân ưu ái của THIÊN CHÚA Quan Phòng và là mầu nhiệm Các Thánh Thông Công! Khi chúng ta giảm bớt hình khổ của Các Đẳng Linh Hồn bằng lời cầu nguyện của chúng ta và khi chúng ta giải thoát các Linh Hồn khỏi Lửa Luyện Hình, thì cùng lúc, Các Đẳng Linh Hồn cũng dâng lên THIÊN CHÚA các công đức các ngài đã làm khi còn sống để cầu cho chúng ta và như vậy, chúng ta nhận được các phúc lành thiêng liêng và trần thế.
Có không biết bao nhiêu lợi ích và an ủi đủ loại đến từ việc thực thi lòng bác ái đối với các thành phần của Giáo Hội đang đau khổ nơi Lửa Luyện Ngục!

Biết các Đẳng Linh Hồn, cầu nguyện cho Các Đẳng, giải thoát Các Đẳng chính là ba lý do của tập sách nhỏ này.
Ai có thể quả quyết rằng mình không có người thân nào hay bạn hữu nào đang ở trong Lửa Luyện Hình?
… ”Cứ tin tưởng vào Chúa và làm điều thiện, thì sẽ được ở trong đất nước và sống yên hàn. Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng. Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay. Chính nghĩa bạn, Chúa sẽ làm rực rỡ tựa bình minh, công lý bạn, Người  sẽ
cho huy hoàng như chính ngọ. Hãy lặng thinh trước mặt Chúa và đợi trông Người. Bạn chẳng nên nổi giận với kẻ được thành công hay với người xảo trá .. Chúa giúp con người bước đi vững chãi, ưa chuộng đường lối họ dõi theo. Dù họ có vấp cũng không ngã gục, bởi vì đã có Chúa cầm tay. Từ nhỏ dại tới nay tôi già cả, chưa thấy người công chính bị bỏ rơi, hoặc dòng giống phải ăn mày thiên hạ.
Ngày ngày họ thông cảm và cho mượn cho vay, dòng giống mai sau hưởng phúc lành  Hãy làm lành lánh dữ, bạn sẽ được một nơi ở muôn đời. Bởi vì Chúa yêu thích điều chính trực, chẳng bỏ rơi những bậc hiếu trung”
(Thánh Vịnh 37(36),3-7/23-28).
(Abbé Berlioux, ”Un Mois avec nos amies les Âmes du Purgatoire”, les connaitre, les prier, les délivrer, supplément au bulletin mensuel ”L’Étoile Notre Dame”, 6è édition, trang 3)
Sr.Jean Berchmans Minh Nguyệt

Dấu-Chấm-Hết TRÒN

Dấu-Chấm-Hết TRÒN

TRẦM THIÊN THU

Tháng ngày hối hả, đời người ngắn ngủi, thoáng chốc đã già! Gió heo may đã về… Chẳng
ai dám nói mình hiểu hết mọi lẽ nhân sinh, có chăng chỉ là thêm kinh nghiệm để hiểu “đời là thế”, hiểu để khả dĩ chấp nhận mà sống thanh thản và thoải mái.

Qua một ngày, mất một ngày. Qua một ngày, vui một ngày. Vui một ngày, lời một ngày. Ngày mai cứ để ngày mai lo, vì “ngày nào có cái khổ của ngày đó” (Mt 6:34).

Hạnh phúc do mình tạo ra. Vui sướng là mơ ước của con người, niềm vui ẩn chứa trong
những việc nhỏ nhất trong đời sống, mình phải tự tìm lấy. Hạnh phúc là cảm giác, cảm nhận, điều quan trọng là ở tâm trạng. Hạnh phúc như nước hoa, càng cho đi càng thơm lừng.

Tiền không phải là tất cả nhưng không phải không là gì. Nó có một
vị trí nhất định nào đó thôi!

Nghịch-lý-thuận hay thuận-lý-nghịch? Đừng quá coi trọng đồng tiền, càng không nên quá so đo, nếu hiểu ra thì sẽ thấy nó là thứ ngoại thân: Khi sinh ra chẳng mang gì đến, khi lìa đời chẳng mang gì theo. Vua Louis để hai tay ra ngoài quan tài để cho người ta biết rằng quyền lực và giàu sang như ông là một Hoàng đế, thế mà chết cũng chỉ còn tay trắng buông xuôi!

Nếu có người cần giúp, rộng lòng mở lòng và mở hầu bao, đó là một niềm vui. Nếu dùng
tiền mua được sức khỏe và niềm vui thì tại sao không bỏ ra mà mua? Nếu dùng tiền mà mua được sự an nhàn tự tại thì đáng lắm chứ. Người khôn biết kiếm tiền và biết tiêu tiền. Hãy làm chủ đồng tiền, đừng làm tôi tớ cho nó!

Tiền mua được ẩm thực, nhưng không mua được bữa cơm gia đình; tiền mua được nhà cửa,
nhưng không mua được hạnh phúc gia đình; tiền mua được nhà thờ, nhưng không mua
được ân phúc; tiền mua được sách báo, nhưng không mua được kiến thức; tiền mua được chỗ nằm, nhưng không mua được giấc ngủ; tiền mua được thuốc men, nhưng không mua được sức khỏe; tiền mua được chiếc ghế, nhưng không mua được chức tước; tiền mua được địa vị nhưng không mua được uy tín; thậm chí tiền có thể biến lòng người thay trắng đổi đen, nhưng không thể làm mất niềm tin tôn giáo…

Quãng đời còn lại càng ngắn thì càng phải làm cho nó phong phú. Người già phải thay
đổi quan niệm cũ kỹ, hãy chia tay với “thầy tu khổ hạnh”, hãy làm “con chim bay lượn”. Cần ăn thì ăn, cần mặc thì mặc, cần chơi thì chơi, luôn luôn nâng cao chất lượng cuộc sống, hưởng thụ những thành quả công nghệ cao, đó mới là ý nghĩa sống của tuổi già. Nghĩa là đừng hà tiện quá, con cháu cũng buồn, chứ không có ý nói “xả láng, sáng về sớm”!

Tiền bạc là của mình, địa vị là tạm thời, vẻ vang là quá khứ, sức khỏe là của mình.
Cha mẹ yêu con thì vô hạn, con yêu cha mẹ lại có hạn. Con ốm, cha mẹ buồn lo;
cha mẹ ốm, con nhìn một chút rồi hỏi vài câu là thấy đủ rồi. Con tiêu tiền cha
mẹ thoải mái; cha mẹ tiêu tiền con chẳng dễ. Cha cho con tiền thì cha con cùng cười, con cho cha tiền thì cha con cùng khóc! Nhà của cha mẹ là nhà của con, mà nhà của con lại không phải là nhà của cha mẹ. Khác nhau lắm! Người hiểu đời coi việc lo liệu cho con là nghĩa vụ và niềm vui, không mong báo đáp. Chờ báo đáp là tự làm khổ mình!

Ốm đau trông cậy ai? Trông cậy con ư? Nếu ốm dai dẳng chẳng có đứa con có hiếu nào ở
bên giường đâu (cửu bệnh sàng tiền vô hiếu tử). Trông vào bạn đời ư? Người ta lo cho bản thân còn chưa xong, có muốn đỡ đần cũng không làm nổi. Trông cậy vào đồng tiền ư? Chỉ còn cách ấy sao? Cũng có thể. Nhưng đâu phải ai cũng có tiền mà hưởng già, và rồi tiền cũng không cứu nổi mình!

Cái được, người ta chẳng hay để ý, cái không được thì tưởng nó to lắm, đẹp lắm, giá
trị lắm. Thực ra sự sung sướng và hạnh phúc trong cuộc đời tùy thuộc vào cách thưởng thức nó. Người hiểu đời rất quý trọng và biết thưởng thức những gì mình đã có, và không ngừng phát hiện thêm ý nghĩa của nó, làm cho cuộc sống vui hơn, nhiều ý nghĩa hơn. Cuộc đời không tính bằng chiều dài mà tính bằng chiều sâu chiều rộng.

Rất cần có tấm lòng rộng mở, biết yêu cuộc sống và thưởng thức cuộc sống. Trông lên
chẳng bằng ai, trông xuống chẳng ai bằng mình (tỷ thượng bất túc, tỷ hạ hữu dư), biết đủ thì lúc nào cũng vui (tri túc thường lạc).

Tập cho mình nhiều đam mê tốt, vui với chúng mà không biết mệt, đó là tự tìm niềm vui,
người ta gọi đó là “ngu lạc trường” của riêng mình. Tốt bụng với mọi người, vui vì làm việc thiện, lấy việc giúp người làm niềm vui. Con người ta vốn chẳng phân biệt giàu hay nghèo, sang hay hèn, chỉ lo tận tâm vì công việc là coi đó là cống hiến, có thể yên lòng, không hổ thẹn với lương tâm là được. Suy cho cùng, ai cũng thế cả, rồi cũng trở về với cát bụi, về với thiên nhiên. Chiếc ghế cao chẳng bằng tuổi thọ cao, tuổi thọ cao chẳng bằng niềm vui thanh cao!

Bạn đã dành khá nhiều phần đời cho sự nghiệp, cho gia đình, cho con cái, cho mơ
ước,… Bây giờ thời gian còn lại chẳng bao nhiêu thì nên dành cho mình, quan tâm bản thân, sống thế nào cho vui thì sống, việc nào muốn thì làm, ai nói sao mặc kệ vì mình đâu phải sống vì ý thích hay không thích của người khác, nên sống thật với lòng mình. Sống ở đời không thể nào vạn sự như ý, có khiếm khuyết là lẽ thường tình ở đời, nếu cứ chăm chăm cầu toàn thì sẽ bị cái cầu toàn làm mình khổ sở. Chẳng thà thản nhiên đối mặt với hiện thực, thế nào cũng xong.

Tuổi già mà tâm không già, thế là già mà không già. Tuổi không già mà tâm già, thế là không già mà già.Nhưng xử lý một vấn đề thì nên nghe người già. Bảy mươi phải học bảy mốt, thậm chí chỉ sinh ra trước 1 phút cũng kinh nghiệm hơn!

Sống phải năng hoạt động nhưng đừng quá mức. Ăn uống quá thanh đạm thì không đủ chất
bổ, quá nhiều thịt cá thì không hấp thụ được. Quá nhàn rỗi thì buồn tẻ, quá ồn ào thì khó chịu,… Mọi thứ đều nên “vừa phải”. Đạo trung dung luôn là đạo khó nhất!

Sống ngu gây bệnh (hút thuốc, say rượu, tham ăn tham uống, háo sắc, hám lợi,…), sống
dốt chờ bệnh (ốm đau mới đi khám chữa bệnh), sống khôn phòng bệnh (chăm sóc bản
thân, sức khỏe, cuộc sống,…). Khát mới uống, đói mới ăn, mệt mới nghỉ, thèm ngủ
mới ngủ, ốm mới khám chữa bệnh,… Tất cả đều muộn màng!

Chất lượng cuộc sống của người già cao hay thấp chủ yếu tùy thuộc vào cách tư duy.
Tư duy hướng lợi là bất cứ việc gì đều xét theo yếu tố có lợi, dùng tư duy hướng lợi để thiết kế cuộc sống tuổi già sẽ làm cho tuổi già đầy sức sống và sự tự tin, cuộc sống có hương vị. Tư duy hướng hại là tư duy tiêu cực, sống qua ngày với tâm lý bi quan, sống như vậy sẽ chóng già và chóng chết.

Chơi là một trong những nhu cầu cơ bản của tuổi già, hãy dùng trái tim con trẻ để tìm
cho mình một trò chơi ưa thích nhất, trong khi chơi hãy thể nghiệm niềm vui  chiến thắng: thua không cay, thắng không kiêu, chơi là đùa. Về tâm sinh lý, người già cũng cần kích thích và hưng phấn để tạo ra một tuần hoàn lành mạnh.

Hoàn  toàn khỏe mạnh nghĩa là thân thể khỏe mạnhtâm lý khỏe mạnh và đạo đức khỏe mạnh. Thân thể khỏe mạnh là biết vận động, chơi đúng chỗ, dừng đúng lúc, không sa đà. Tâm lý khỏe mạnh là biết chịu đựng, biết tự chủ, biết giao thiệp. Đạo đức khỏe mạnh là có tình thương yêu, sẵn lòng giúp người, có lòng khoan dung, người chăm làm điều thiện sẽ
trường thọ.

Con người là con người của xã hội, không thể sống biệt lập, bưng tai bịt mắt, riêng
một ốc đảo, mà phải nên chủ động tham gia hoạt động công ích, hoàn thiện bản
thân trong các hoạt động xã hội, thể hiện giá trị của mình, đó là cách sống lành mạnh.

Cuộc sống tuổi già nên đa tầng, đa nguyên, đa sắc. Có vài người bạn tốt thì chưa đủ,
nên có cả một nhóm bạn già, tình bạn làm cuộc sống tuổi già thêm đẹp và ý  nghĩa, đượm nhiều hương vị. Sống luôn phải là sống VỚI, sống VÌ, sống CHO,…

Con người ta chịu đựng, hóa giải và xua tan nỗi đau đều chỉ có thể dựa vào chính
mình. Chỉ có thời gian là vị thầy thuốc giỏi nhất. Quan trọng là khi đau buồn,
bạn chọn cách sống sao cho phù hợp.

Tại sao khi về già người ta hay hoài cổ – nhớ chuyện xa xưa? Những năm cuối đời, người
ta đã đi đến cuối con đường sự nghiệp, vinh quang xưa kia đã trở thành mây khói
xa vời, đứng ở vạch cuối, tâm linh cần trong lành, tinh thần cần thăng hoa, người ta muốn tìm lại những tình cảm chân thành. Về lại chốn xưa, gặp lại người thân, cùng nhắc lại những ước mơ thuở nhỏ, cùng bạn học nhớ lại bao chuyện vui thời trẻ, có như vậy mới tìm lại được cảm giác của một thời đầy sức sống. Quý trọng và được đắm mình trong những tình cảm chân thành là niềm vui lớn của tuổi già. Ký ức đầy kỷ niệm. Kỷ niệm đã qua nhưng không hề quên.

Nếu bạn đã cố hết sức mà vẫn không thay đổi tình trạng không hài lòng thì cứ mặc kệ nó
– không có nghĩa là “vô tình” mà vì “muốn cũng không được”. Chấp nhận để lòng
mình thanh thản. Đó cũng là một sự giải thoát. Chẳng việc gì cố mà được, quả ngắt vội không bao giờ ngọt. Sinh-Lão-Bệnh-Tử là quy luật ở đời, không ai chống lại được. Khi thần chết gọi thì thanh thản mà đi. Chỉ cốt sao sống ngay thẳng mà không hổ thẹn với lương tâm.

Cuối cùng, hãy cố gắng tạo cho mình một dấu-chấm-hết thật
tròn trịa!

Người đi về cõi ngàn thu

Tôi còn ở lại vẫn mơ kiếp người

Nay người, mai cũng đến tôi

Trở về cát bụi: Khóc, cười, trắng tay!

Trăm năm gom lại một giây

Lá âm thầm rụng xa cây lìa cành

Cuộc đời tưởng dài mà ngắn, thấm thoắt như bóng câu qua cửa. Tuổi già đến nhanh,
nghĩa là cái chết cũng gần kề. Cọp chết để da, người ta chết để tiếng. Tất cả  đều qua đi, chỉ còn lại cách sống của mình – còn lâu hay mau trong tâm trí mọi người là tùy vào chính con người của mình.

Lạy Thiên Chúa, Đấng Cứu độ con, xin đừng giận mà ruồng rẫy con, xin đừng bỏ rơi, xin đừng xua đuổi con khỏi Tôn Nhan Chúa, dù mọi người bỏ con thì vẫn còn có Ngài đón nhận con. Vì Lòng Thương Xót của Ngài vô biên và khác thường, xin dạy bảo con cung đường của Ngài và dẫn con đi trên lối phẳng phiu (Tv 27:9-11). Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Maria Thanh Mai gởi

Lễ Giỗ

Lễ Giỗ

ĐÂU PHẢI THEO ĐẠO CÔNG GIÁO LÀ BỎ ÔNG BÀ

Hình chỉ mang tính minh họa

Được anh bạn mời dự tiệc giỗ (đám giỗ), tôi hơi ngạc nhiên vì gia đình anh là người theo đạo Công giáo. Theo lời mời, 10giờ sáng tôi có mặt ở Đất Thánh (nghĩa địa) của một xứ đạo ở ngoại thành , nhìn những ngôi mộ đẹp được trồng nhiều hoa cảnh như để làm ấm lòng linh hồn người đã khuất. Theo anh, tôi đến trước ngôi mộ có ba nấm mồ,  có khoảng 20 người đang đứng tước ngôi mộ ấy để cầu nguyện. Tôi nghe tiếng cầu nguyện của cụ ông 89 tuổi: Lạy Chúa, hàng năm cứ đến ngày này, chúng con gồm bốn đời, ông , con, cháu, chắt lại về đây, để nguyện xin Thiên Chúa thương đến linh hồn tổ tiên ông bà nội ngoại chúng con, đã ra đi trước chúng con, và nay đang được hưởng Vinh Quang Nước Chúa. Chúng con cũng xin Thiên Chúa qua lời cầu bầu của tổ tiên ông bà, ban cho chúng con được ơn trung thành với Chúa, tin yêu phó thác vào Chúa, như ông bà chúng con đã từng tin yêu phó thác,
để sau này chúng con cùng được hưởng Nhan Thánh Chúa với ông bà chúng con trên
Thiên Đàng. Niệm hương và dâng kính những lẵng hoa tươi để tỏ lòng kính nhớ ông
bà cách thành kính.

Anh bạn tôi chia sẻ: Trước đây, thắp hương (nhang), cúng hoa quả trên bàn thờ ông
bà được coi là của tôn giáo bạn, người công giáo không thắp hương, nên có thể
có sự hiểu lầm là:  không kính nhớ tổ tiên ông bà. Ngày nay, nhận thấy việc thắp hương hay cúng hoa quả là nghi lễ  của người á đông (trong đó có Việt Nam) , rất tốt, rất hay, nên giáo hội đã đồng ý để giáo dân làm việc này. Chúng ta còn làm những việc hữu ích khác như: giúp người già qua đường (hay hành động tương tự) với tâm tình kính nhớ ông bà là hành động đầy ý nghĩa, cầu nguyện cùng ông bà là cách tưởng nhớ thiết thực nhất.

Bây giờ tôi đã hiểu, những lời đồn, đoán trước đây là theo đạo Chúa (Công giáo) là bỏ ông bà là hoàn toàn sai sự thật. Tôi còn biết thêm, ngoài lễ giỗ theo ngày người quá cố mất, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam cón chọn ngày mùng hai tết là ngày kính nhớ tổ tiên ông bà còn sống hay đã chết và ngày 2/11 hàng năm là ngày cầu cho các linh hồn ông bà, cha mẹ, anh chị em cùng tất cả mọi người không phân biệt tôn giáo, đất nước, dân tộc vv… Trong mười điều răn của Đức Chúa Trời, điều răn thứ tư ghi rõ: Thảo kính cha mẹ (ông bà, cha mẹ khi còn sống cũng như khi đã khuất). Mến Chúa yêu người tóm gọn trong  mười điều răn, ba điều răn đầu dạy ta thờ Thiên Chúa, bảy điều răn sau dạy ta yêu người, thảo kính cha mẹ đứng đầu bảy điều răn sau.

Theo anh về nhà, đã có khá nhiều khách mời (Anh em bạn bè hàng xóm) đến dự. Trong nhà, bàn thờ Thiên Chúa để nơi trang trọng nhất, có hoa tươi, đèn nến cháy sáng, tôi còn
thấy bàn thờ tổ tiên ở phía dưới bên phải, trên bàn thờ này hoa tươi, quả tươi, cùng hương thơm từ lư hương bay ra thơm ngát.

Một vị lớn tuổi chia sẻ: Chúng ta cần phân biệt Thờ và Kính. Đối với Thượng Đế chúng ta chỉ có một chữ Thờ, đối với ông bà hay các vị đáng kính, chúng ta chỉ có một chữ Kính.
Việc thờ kính đôi khi chúng ta lầm lẫn. Nhiều tiếng vỗ tay đồng ý với vị khách
lớn tuổi kia.

Tổ chức tiệc giỗ cũng là đề tài bình luận, việc này tuỳ vào hoàn cảnh gia đình và phong tục địa phương, (Nhiều địa phương tổ chức tiệc trà, bánh ngọt vào buổi tối rất hay) không nên hiểu là không làm tiệc giỗ là không kính nhớ ông bà và ngược lại .

Theo lời kể của một người bạn

Đỗ Thế kỷ

Maria Thanh Mai gởi

Mến Chúa, yêu người

 

Mến Chúa, yêu người

(Chúa nhật XXXI TN, năm B)

TRẦM THIÊN THU

Luật Chúa tóm gọn trong 2 điều: “Mến Chúa, yêu người”. Tuy hai điều, bốn chữ
(tiếng Việt), nhưng cũng chỉ là một: “Yêu”. Nghe chừng rất đơn giản, và nghe
quá quen tai, thế mà sao khó thể hiện quá!

Vâng, “biết rồi, khổ lắm, nói mãi!”.

Thánh Gioan phân tích: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em
mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông
thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4:20). Rất
thực tế. Yêu thì phải thật, chứ không thể yêu ảo. Thánh nhân tái xác định: “Ai
yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 4:21). Rất hợp lý,
rất lô-gích.

Thật ra Chúa Giêsu đã từng nói đến việc “mến Chúa, yêu người”, nói đúng ra là
Ngài đang trách mỗi chúng ta, trách thật: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng
miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì
giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân” (Mt 15:8-9; Mc 7:6-7). Cũng
về ý “mến Chúa, yêu người”, một lần khác Chúa Giêsu xác định: “Không phải bất
cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng
chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà
thôi” (Mt 7:21).

Những lời nói nghe chừng “nhẹ” mà “nặng” lắm, giản dị mà phức tạp, “xoa” mà
“đau” quá! Khi nói đến “luật” thì luôn liên quan “quyền”, nói đến “quyền” thì
thường liên quan sự “cạnh tranh”.

Thời Cựu ước, Vua Đariô (người Mê-đi, lên ngôi vua năm 62 tuổi) quyết định đặt trên
vương quốc của ông 120 thống đốc để họ cai trị toàn vương quốc dưới quyền 3 tể
tướng (tương đương “thủ tướng” ngày nay), trong đó có ông Đanien. Họ phải phúc
trình mọi việc cho 3 vị này để nhà vua khỏi bị thiệt hại. Ông Đanien vượt hẳn
các tể tướng và thống đốc, nhờ có một thần khí siêu phàm, nên vua có ý định đặt
ông đứng đầu cả vương quốc. Do đó, các tể tướng và thống đốc cố tìm cách bắt
lỗi ông Đanien về việc triều chính.

Người Việt có câu: “Con gà tức nhau tiếng gáy”. Con gà như thế thì con người cũng
vậy, ai “gáy” hay thì người khác thường cảm thấy “xốn” mắt. Chúa Giêsu bị ghét
và bị giết chết nhục nhã cũng chỉ vì Ngài là “cái gai” trong mắt người khác.
Người ghét không ai xa lạ là chính những người thât thiết nhất của mình: “Ngôn
sứ không được tôn trọng tại quê hương mình” (Mt 13:57; Mc 6:4; Lc 4:24; Ga
4:44). Quá phũ phàng! Đời là thế! Thật vậy, chỉ có người giỏi mới khả dĩ công
nhận tài năng của người giỏi.

Ông Đanien “trổi vượt” hơn người khác nên bị ghét, âu cũng là lẽ thường. Trung
thần Chu Văn An đã “điểm mặt” 7 nịnh thần nên bị họ triệt tới cùng. Xưa đã vậy,
nay cũng thế. Người đời “kèn cựa” nhau đã đành, người theo đạo Chúa cũng chẳng
hơn gì! Thậm chí người thời nay còn tinh vi hơn nhiều!

Ghét thì rất ghét, nhưng họ đã không thể tìm được một cớ hay một thiếu sót nào
để bắt lỗi, vì ông Đanien vốn là người trung tín; họ đã không tìm được điều gì
sơ suất hay thiếu sót nơi ông. Vì thế, những người ấy mới nói với nhau: “Chúng
ta sẽ chẳng tìm được một cớ nào để bắt lỗi tên Đanien này đâu, trừ phi tìm lý
do tôn giáo để hại y” (Ðnl 6:6). Quá thâm độc!

Con người ngày nay vẫn đang lăn vào “vết xe cũ”, nhưng theo “phong cách” tân kỳ
hơn, thế mà vẫn “hãnh diện”. Có lẽ vì thế mà Thiên Chúa soi sáng cho Giáo hội
biết phải Tân Phúc Âm hóa, xét lại đức tin của chính bản tân mình trước rồi mới
nói tới người khác!

Ông Đanien là hiện thân của những người “ăn ngay ở lành”. Những con người ấy
vẫn kiên cường tín thác vào Chúa: “Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của
con” (Tv 18:2). Họ luôn tin yêu và tâm sự với Chúa: “Lạy Chúa là núi đá, là
thành luỹ, là Đấng giải thoát con; lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con
trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ” (Tv
18:4).

Trước mặt người đời, họ là kẻ bị lép vế, bị thua thiệt, bị khinh miệt, bị ghen
ghét, bị xa tránh, bị trù dập, nhưng họ vẫn âm thầm cầu nguyện và nương tựa vào
Chúa. Họ hiên ngang nói: “Chúa cho đôi chân này lanh lẹ tựa chân nai, Ngài đặt
tôi đứng vững trên đỉnh núi” (Tv 18:46). Ngay trong gian truân, họ vẫn tuyên tín:
“Đức Chúa vạn vạn tuế! Chúc tụng Ngài là núi đá cho tôi trú ẩn. Tôn vinh Thiên
Chúa là Đấng cứu độ tôi” (Tv 18:47). Đúng như tác giả Thánh vịnh chia sẻ kinh
nghiệm: “Chúa ban nhiều chiến thắng lớn lao cho Đức Vua chính Ngài đã lập. Chúa
hằng ưu ái Đấng mà Ngài đã xức dầu tấn phong, là Đa-vít cùng dòng dõi đến muôn
đời” (Tv 18:51).

Thánh Phaolô nói: “Trong dòng tộc Lêvi, có nhiều người kế tiếp nhau làm tư tế,
bởi vì họ phải chết, không thể giữ mãi chức vụ đó. Còn Đức Giêsu, chính vì Ngài
hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của Ngài tồn tại mãi mãi. Do đó, Ngài có
thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Ngài mà tiến lại gần Thiên Chúa.
Thật vậy, Ngài hằng sống để chuyển cầu cho họ” (Dt 7:23-25). Đó chính là vị
Thượng Tế mà chúng ta cần đến: “Một vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội,
tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời” (Dt 7:23-26).

Thư gởi giáo đoàn Do Thái xem chừng không ăn nhập gì, vì nói tới chức tư tế,
nói tới thừa tác vụ. Nhưng không, rất “ăn nhập” đấy. Tại sao? Tư tế là những
người có trách nhiệm củng cố đức tin cho giáo đoàn. Cây càng cao, gió càng lay.
Tất nhiên. Vì thế, Chúa hỏi Phêrô không chỉ 1 lần mà hỏi tới 3 lần: “Anh có mến
Thầy hơn các anh em này không?” (Ga 21:15). Đó cũng là câu hỏi hằng ngày Chúa Giêsu
vẫn hỏi mỗi người trong chúng ta. Mỗi người có cách trả lời khác nhau, nhưng đó
là điều kiện Chúa đòi hỏi từng người phải thực hiện nghiêm túc, nhất là trong
Năm Đức Tin này, để chứng tỏ lòng tin của mình.

Rất dễ đọc: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài”, nhưng vấn đề không chỉ là
thuộc lòng và đọc như vẹt, mà là thể hiện lời tuyên tín đó một cách sống động
bằng hành động cụ thể. Không dễ đâu, tôi ơi!

Thánh Phaolô giải thích: “Đức Giêsu không như các vị thượng tế khác: mỗi ngày
họ phải dâng lễ tế hy sinh, trước là để đền tội của mình, sau là để đền thay
cho dân; phần Ngài, Ngài đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ. Vì Luật
Môsê thì đặt làm thượng tế những con người vốn mỏng giòn yếu đuối, còn lời thề
có sau Lề Luật, lại đặt Người Con đã nên thập toàn cho đến muôn đời” (Dt
7:27-28).

Đức Kitô đã hiến tế, chúng ta cũng phải hiến tế. Chúa Giêsu đã hóa thành tấm
bánh nuôi sống chúng ta, thì chúng ta cũng phải CẦM LẤY, TẠ ƠN, BẺ RA và TRAO
TẶNG
chính Tấm-Bánh-Cuộc-Đời-Mìnhcho người khác, nhất là trao
cho những con người bé mọn.

Có một người trong các kinh sư đã nghe Đức Giêsu và những người thuộc nhóm
Xađốc tranh luận với nhau. Thấy Đức Giêsu đối đáp hay, ông đến gần Ngài và hỏi:
“Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” (Mc 12:28). Đức Giêsu
trả lời: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ítraen, Đức Chúa, Thiên Chúa
chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của
ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ
hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào
khác lớn hơn các điều răn đó” (Mc 12:29-31).

Nghe có vẻ “đã tai” nên ông kinh sư nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, hay lắm,
Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Ngài ra không có Đấng nào
khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân
cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ” (Mc 12:32-33).
Chắc hẳn chúng ta cũng mang tâm trang như ông kinh sư này, cũng thấy rất thú vị
và hợp lý, nhưng NGHE và CHẤP NHẬN là một chuyện,
còn THỰC HIỆN lại là chuyện khác. “Khoảng cách” đó vừa gần vừa xa.

Thấy ông kinh sư trả lời khôn ngoan như vậy, Đức Giêsu bảo: “Ông không còn xa
Nước Thiên Chúa đâu!” (Mc 12:34). Nói “mến Chúa” quá dễ, nói “yêu người” cũng
quá dễ”. Tất cả chỉ là “chuyện nhỏ”. Vấn đề quyết định cuối cùng phải là THỰC
HÀNH
điều mình nói để chứng tỏ ĐỨC TIN, vì “đức tin không
có hành động là đức tin chết” (Gc 2:26). Đó mới là… “chuyện lớn”.

Lạy Thiên Chúa, chúng con cảm tạ Ngài đã ban cho chúng con đức tin vào Ngài qua
Đức Kitô, xin giúp chúng con giữ vững và thể hiện đức tin qua từng động thái
hằng ngày, bằng cách thật lòng chia sẻ mọi nỗi đau của tha nhân, nhất là những
con người nhỏ bé nhất đang ở bên cạnh chúng con mọi nơi, mọi lúc. Chúng con cầu
xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

KINH LẠY CHA CẦU CHO CÁC ĐẲNG LINH HỒN

KINH LẠY CHA CẦU CHO CÁC ĐẲNG LINH HỒN

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

 


Câu chuyện xảy ra tại đền thánh Đức Mẹ MARIA ở Einsiedeln bên Thụy Sĩ vào ngày Lễ Nến mùng 2 tháng 2 năm 1968. Đền thánh rất được các tín hữu Công Giáo năng lui tới kính viếng, hành hương.

Nhưng ngày mùng 2 tháng 2 năm 1968 là một ngày trong tuần và trời mùa đông thật lạnh. Đền thánh vắng vẻ không một bóng người. Bà Aloisia Lex đến viếng đền thánh cùng với mấy người bà con. Đang quỳ cầu nguyện, bỗng bà đưa mắt nhìn lên bàn thờ chính và trông thấy một Nữ Tu cao tuổi đang đứng đó. Nữ Tu mang y phục đan sĩ nhưng y phục trông thật cổ xưa như thuộc về mấy thế kỷ trước. Bà Aloisia liền tiến về phía Nữ Tu và được Chị trao cho một tờ giấy Kinh. Bà nhận lấy và lơ đãng bỏ vào túi. Cùng lúc ấy, một hiện tượng lạ lùng diễn ra. Cửa nhà thờ bỗng mở toang và bà Aloisia trông thấy một đoàn ngũ tín
hữu hành hương, đông vô kể, tiến vào nhà thờ. Các tín hữu ăn mặc thật nghèo nàn, và chân đi lướt trên mặt đất, giống như những bóng ma. Đoàn tín hữu hành hương dài như bất tận cứ tiếp tục nối đuôi nhau tiến vào nhà thờ. Trong nhà thờ, có một vị Linh Mục đang đứng đó và hướng dẫn cho các tín hữu biết phải đi đâu.

Trông thấy đoàn tín hữu đông vô kể bà Aloisia tự hỏi:

– Làm sao đền thánh nhỏ bé lại có thể chứa hết một đoàn người hành hương đông
đảo đến như thế?

Vừa thắc mắc tự hỏi bà vừa quay mặt đi hướng khác, trong khoảnh khắc bằng thời
gian thắp lên một ngọn nến. Nhưng khi nhìn lui thì bà lại thấy nhà thờ trống
trơn, vắng vẻ y như trước!

Lòng đầy kinh ngạc, bà Aloisia Lex chạy đến hỏi những người bà con thì họ cho biết là không trông thấy một ai kể cả vị Nữ Tu cao tuổi! Bà Aloisia bối rối không biết mình mơ hay thật. Nhưng khi cho tay vào túi thì bà lại rút ra tờ giấy Kinh mà vị Nữ Tu đã trao cho bà. Tờ giấy Kinh là bằng chứng bà không mơ! Đây là lời Kinh do chính Đức Chúa GIÊSU KITÔ đã dạy thánh nữ Mechtilde đọc, trong một lần Ngài hiện ra với thánh nữ.

Thánh nữ Mechtilde (1241-1299), người Đức, được đặc ân trông thấy Đức Chúa GIÊSU hiện ra nhiều lần. Và một trong những lần hiện ra ấy, Đức Chúa GIÊSU dạy cho chị Kinh LẠY CHA cầu cho các Đẳng Linh Hồn trong Lửa Luyện Ngục.

Tiếp đó, cứ mỗi lần đọc Kinh LẠY CHA này, thánh nữ Mechtilde lại trông thấy đông đảo các Linh Hồn trong Lửa Luyện Ngục được Chúa rước về Trời. Sau đây là Kinh LẠY CHA cầu cho các Đẳng Linh Hồn trong Lửa Luyện Hình.

Lạy CHA chúng con ở trên Trời. Con cầu xin CHA, lạy CHA Thiên Quốc, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn trong Luyện Ngục, bởi vì các Linh Hồn đã không yêu mến CHA đủ, cũng không tôn vinh CHA cân xứng, đúng với địa vị của CHA, Đấng vừa là CHÚA vừa là CHA, đã vì lòng nhân lành mà nhận các Linh Hồn làm con của CHA. Trái lại, các Linh Hồn vì phạm tội mà xua đuổi CHA ra khỏi lòng họ, nơi mà CHA vẫn hằng mong muốn ở lại.

Để đền bù các lỗi phạm này, con xin dâng CHA tình yêu và lòng kính trọng mà Con CHA nhập thể, đã bày tỏ cùng CHA, suốt thời gian sống tại thế. Con cũng xin dâng CHA mọi việc hãm mình, mọi đền bù mà Con CHA đã làm và chính nhờ các việc lành này mà Con CHA tẩy xóa và chuộc đền các tội lỗi của loài người. Amen.

Chúng con nguyện danh CHA cả sáng. Con nài van CHA, lạy CHA Chí Lành, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn nơi Luyện Ngục, bởi vì các Linh Hồn đã không luôn luôn tôn vinh danh thánh CHA cách cân xứng. Các Linh Hồn đã nhiều lần gọi tên CHA cách bất cẩn và đã làm ô danh tên gọi Kitô-hữu bằng đời sống bất xứng của mình.

Để đền bù tội lỗi các Linh Hồn đã phạm, con xin dâng lên CHA mọi danh dự mà Con Chí Ái CHA đã làm cho danh CHA được cả sáng, bằng lời nói và bằng việc làm, suốt trong thời gian tại thế của Con CHA. Amen.

Nước CHA trị đến. Con cầu xin CHA, lạy CHA Chí Nhân, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn nơi Luyện Ngục, bởi vì các Linh Hồn đã không luôn luôn tìm kiếm cũng không hề ước mong cho Nước CHA trị đến, ước mong với lòng nhiệt thành và chú tâm đến Nước CHA, là Nước duy nhất nơi được an nghỉ đến muôn đời.

Để đền bù cho sự hờ hững làm việc lành của các Linh Hồn, con xin dâng lên CHA niềm mong ước dạt dào của Con Chí Thánh CHA, Ngài không ngừng cầu mong cho các Linh Hồn trong Luyện Ngục được mau mau vào hưởng hạnh phúc trong Nước của Ngài. Amen.

Ý CHA thể hiện dưới đất cũng như trên Trời. Con cầu xin CHA, lạy CHA Chí Nhân, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn nơi Luyện Ngục, bởi vì các Linh Hồn đã không luôn luôn đặt ý muốn của họ dưới thánh ý của CHA; họ đã không chu toàn thánh ý CHA trong mọi sự và rất thường khi, họ chỉ sống và hành động theo ý muốn của họ mà thôi.

Để đền bù cho sự bất tuân của các Linh Hồn nơi Luyện Ngục, con xin dâng lên CHA sự thuần thục hoàn hảo của Trái Tim đầy tình yêu của Con Chí Thánh CHA đối với thánh ý CHA và sự tuân phục sâu xa nhất mà Con CHA bày tỏ cùng CHA khi Con CHA vâng phục CHA cho đến chết trên Thánh Giá. Amen.

Xin CHA cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Con cầu xin CHA, lạy CHA Chí Nhân, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn nơi Luyện Ngục, bởi vì các Linh Hồn đã không luôn luôn nhận lãnh Bí Tích Thánh Thể với lòng ao ước đủ; các Linh Hồn cũng thường nhận lãnh Bí Tích này với sự lo ra chia trí và không có lòng mến, hay đôi lúc còn dám nhận lãnh cách bất xứng, hay tệ hại hơn nữa, đó là chểnh mãng trong việc nhận lãnh Bí Tích Thánh Thể.

Để đền bù mọi tội lỗi trên đây mà các Linh Hồn đã vấp phạm, con xin dâng lên CHA sự thánh thiện cao cả và sự trầm mặc lớn lao của Đức Chúa GIÊSU KITÔ, Chúa chúng con, Con Chí Thánh CHA, cũng như tình yêu nhiệt thành mà qua đó Đức Chúa GIÊSU đã ban cho chúng con hồng ân khôn sánh này là bí tích Thánh Thể. Amen.

Xin CHA tha nợ chúng con như chúng con cũng tha cho kẻ có nợ chúng con. Concầu xin CHA, lạy CHA Chí Nhân, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn nơi Luyện Ngục
vì đã vấp ngã phạm bảy mối tội đầu, cũng như không muốn yêu thương cũng chẳng
tha thứ cho kẻ thù của mình.

Để đền bù cho mọi tội lỗi trên đây, con xin dâng lên CHA lời kinh đượm đầy tình yêu mà Con Chí Thánh CHA đã thân thưa cùng CHA, xin CHA thứ tha cho kẻ thù của Ngài, lúc Ngài bị đóng đinh trên Thánh Giá. Amen.

Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Con cầu xin CHA, lạy CHA Chí Nhân, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn nơi Luyện Ngục, bởi vì, rất thường khi các Linh Hồn đã không chống trả lại các cơn cám dỗ và các dục tình nhưng đã đi theo kẻ thù của điều lành và đã chìu theo các quyến rũ của xác thịt.

Để đền bù cho các tội lỗi trên đây dưới mọi hình thức mà các Linh Hồn nơi  Luyện Ngục đã phạm, con xin dâng lên CHA chiến thắng vinh quang mà Đức Chúa GIÊSU KITÔ Chúa chúng con đã chiến thắng trên thế gian này, cũng như đời sống rất thánh thiện, việc làm và những lao cực, sự đau khổ và cái chết nhục nhã của Ngài. Amen.

Nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Con cầu xin CHA, lạy CHA Chí Nhân, xin CHA hãy giải thoát chúng con khỏi mọi biến loạn, nhờ công nghiệp của Con Chí Ái CHA và xin dẫn đưa chúng con, cũng như dẫn đưa các Linh Hồn nơi Luyện Ngục vào trong Nước CHA, Nước của vinh quang vĩnh cửu, giống y như CHA vậy. Amen.

(”STELLA MARIS”, mensuel d’informations religieuses, Novembre/1993, trang 5)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Nguồn : vietvatican.net

Maria Thanh Mai gởi