“ANH EM HÃY CHO HỌ ĂN…”

“ANH EM HÃY CHO HỌ ĂN…”

nguồn: conggiaovietnam.net

Tác giả: Lm. Vĩnh Sang, DCCT

 


Năm hết Tết đến, mọi người bận rộn lao xao cho cái Tết của chính mình, của gia đình mình. Các bến xe nêm chặt cứng người, xe
hỏa, xe đò ngược xuôi đủ kiểu. Năm nay kinh tế tiếp tục khủng hoảng, kinh tế thế giới khủng hoảng thì kinh tế Việt Nam làm sao thoát khỏi ? Mới đây ông Thủ Tướng hội nghị với các tập đoàn kinh tế Nhà Nước, những tập đoàn, những tổng công ty vốn được mệnh danh là “quả đấm thép” tuyên bố… lỗ 60 tỷ đôla. Con số nợ khủng khiếp người dân bình thường nghe ngơ ngác vì không tưởng tượng được con số theo mệnh gía Việt Nam đồng ( 1.330.000 tỷ VND ), và cũng không thể tưởng tượng được con số theo mệnh giá Mỹ Kim ( 60 tỷ USD ).

Lại lang thang trên mạng và đọc được những thông tin màu xám xịt, hoặc tím tái:

“…Việt Nam hiện đứng thứ 11 thế giới về số lượng người nghèo ( 14,3 triệu người, chiếm 16,9% dân số ) và cũng nằm trong số các nước có lượng người nghèo cao nhất khu vực. Lâu nay Việt Nam được xem là một trong những nước thành công nhất về chuyện giảm nghèo, tuy nhiên đó là đo theo chuẩn nghèo cũ, thấp hơn chuẩn quốc tế.

Nếu tính theo chuẩn nghèo mới của Việt Nam ( 1,61 USD cho khu vực thành thị và 1,29 USD cho khu vực nông thôn ) thì tỷ lệ nghèo trên toàn quốc là 20,7%. Còn nếu so với chuẩn của quốc tế 2 đôla Mỹ một ngày ( tính theo PPP ) thì có hơn 40% người Việt Nam nằm dưới mức nghèo…” ( Cafef, 15.12.2012 ).

“Nhìn chúng nó cởi truồng giữa mùa đông, xót xa lắm. Có cảm giác như vùng đất ấy, con người ấy trở lại thời hồng hoang, chỉ vỏ cây – áo lá che thân. Và quan trọng hơn, cảm giác như nòi giống cứ bị lụi bại đi bởi chim cò tím tái, thông thống giữa gió lạnh từ bên kia biên giới kèn kẹt thổi sang… Lo được cái ăn rồi, nhưng căn cơ gì mà
không lo thêm cái mặc, cho chính tương lai của đất liền, của vùng biên ải…
Không biết Thủ Tướng của mình, đã bao giờ được chứng kiến những cảnh này chưa
?”
( Xin đọc toàn bài và xem các ảnh chụp ở http://maithanhhaiddk.blogspot.de/2013/01/thu-tuong-oi-ung-e-chung-no-coi-truong.html )

Cũng chính cái ông Thủ Tướng ở Hà Nội mà tác giả Mai Thanh Hải vừa gọi đến, ông ấy đang còn rất ư tự hào tuyên bố đất nước của ông đứng đầu thế giới về sản lượng gạo xuất khẩu !

Những ai còn lương tâm, còn tình người, khi đọc những bản tin này không thể không xót xa, cay đắng cho đồng bào mình, cho dân tộc mình. Đáng tiếc thông tin không được rộng rãi, đáng tiếc nỗi sợ hãi làm người ta không dám thông tin, đáng tiếc người ta bị hoặc tự khoanh những vùng cấm kị, nhạy cảm để không dám bước vào, thản nhiên nhìn nỗi đau hoành hành, dửng dưng chấp nhận thực tế, ngày này qua ngày khác, mãi thành quen. Thản nhiên đã đành nhưng còn cảm thấy khó chịu khi có người đề cập đến, bàn đến, rồi tự mình phong thánh cho mình vì “không thuộc về thế gian”.

Một xã hội sau nhiều năm “hòa bình” mà cứ tụt hậu, chắc chắn trách nhiệm thuộc về những người cấm quyền, không cần phải lý luận dài dòng. Trên trường đua, bạn bè chạy bên cạnh vượt xa tắp tít, khoảng cách mỗi ngày một giãn ra, hoàn toàn mất khả năng thu ngắn thì trách nhiệm thuộc về mình, chẳng cần phải hỏi ai ! “Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt ?”

Một đáng tiếc khác là nhà cầm quyền không cho  phép tôn giáo được tham gia với xã hội về 3 mặt quan trọng của đời sống một dân tộc, một quốc gia: đó là Giáo Dục, Y Tế Cộng Đồng và Từ Thiện !

Qua kinh nghiệm của miền Nam trước năm 1975 và  qua thực tế của thế giới, tôn giáo là một tổ chức rất có uy tín trong cả ba lãnh vực này. Người ta không cho làm thì cứ ngồi yên trong Nhà Thờ, trong Tu Viện, và chấp nhận. Gần 38 năm qua đối với một số người, Đạo đã trở thành lô cốt phòng thủ, thành pháo đài kiên cố. Nhưng rồi từ khi có chính sách đổi mới, có nhiều nơi Đạo được trở thành lễ đài, tha hồ phô diễn sự hoành tráng, mặc kệ kẻ khát kẻ đói, mặc xác kẻ cô thế cô thân. Thật ra thì cũng có rất nhiều nỗ lực để thi hành sứ mạng của mình, có rất nhiều cố gắng và hy sinh, nhưng cứ làm
chui lủi trong cái mặc cảm của “cơ chế xin – cho”, nó chẳng ra làm sao cả !

Thôi thì năm mới xin có vài ước mơ, hay gọi là có vài đề nghị cũng được: Hãy giảm bớt những lễ hội, nhất là những lễ tạ ơn rềnh rang, những chi phí tiếp đón ồn ào thi đua với thế gian; giảm bớt những chi tiêu xây dựng sang trọng to lớn cho những công trình “của Giáo Hội” để chia cho vùng đói vài hạt gạo, chút vải dư; giảm bớt, thậm chí chấp nhận thiếu thốn nhân  sự vùng phát triển, hầu có người dôi ra để gởi đến các vùng nghèo, vùng đói, mà ân cần phục vụ…

Năm mới tha hồ uốn lưỡi để nói những lời chúc tốt đẹp, nhưng sẽ tốt đẹp hơn, chân thành hơn, chắc chắn là những sẻ chia cho người nghèo, thay vì chỉ môi miếng hời hợt bên ngoài mà thôi !

Chúa bảo chúng ta: “Anh em hãy cho họ ăn” ( Mt 14, 16 )…

Lm. VĨNH SANG, DCCT, 2.2.2013 (Ephata 547)

Nguy cơ Trung Quốc

Nguy cơ Trung Quốc

Đăng bởi lúc 6:58 Sáng 5/02/13

nguồn: chuacuuthe.com

VRNs (05.02.2013) – Handelsblatt, ĐứcNền kinh tế Vìệt Nam cũng như hệ thống tài chánh ngân hàng Việt Nam hiện nay là một  „copy“ mang nhiều khiếm khuyết
của nền kinh tế và hệ thống ngân hàng Trung quốc. Nhân đọc được bài viết có giá
trị về sự rủi ro của hệ thống ngân hàng Trung quốc đăng trên trang nhất của
nhật báo dành cho giới doanh nhân và kinh tế của Đức “Handelsblatt“ ngày
31.01.2013  tôi xin được dịch ra tiếng Việt để mọi người cùng tham khảo.

*  *  *

Trung Quốc lừa cả thế giới: trong lĩnh vực nợ nần nhà nước là biểu tượng sáng chói. Tuy nhiên rủi ro bạc tỷ trong lĩnh vực ngân hàng dùng chi phí cho các dự án danh tiếng và chi phí cho các chương trình kích thích kinh tế. Bong bóng tín dụng rất nguy hiểm đã được hình thành (tại Trung quốc).

Niềm tự hào mới nhất của Trung Quốc là tuyến đường sắt cao tốc 2 300 km với xe lửa màu trắng thon gọn nối liền Quảng Châu và Bắc Kinh, trung tâm kinh tế phía Bắc và phía Nam của quốc gia. Tốc độ tối đa là 300 km mỗi giờ.

Dự án chỉ có một lỗi là không bao giờ có lợi nhuận.

Cho tới nay công ty đường sắt Trung Quốc đã mượn nợ của ngân hàng tổng cộng là 280 tỷ euro để chi phí cho dự án này cũng như cho các dự án khác. Ngân hàng chủ nợ có „thấy lại“ được số tiền cho vay nêu trên hay không là điều còn cao hơn là nghi ngờ.

Bong bóng nợ  đã hình thành tại Trung Quốc, bong bóng này cũng như tất cả mọi thứ khác hiện diện trên Nước Cộng hòa Nhân dân là rất vĩ đại. Nhà nước luôn luôn chi phí hàng tỷ USD vào các dự án danh tiếng mới, chủ yếu được tài trợ bằng các khoản vay nợ ngân hàng ngắn hạn. Họ muốn phát triển bằng mọi giá – cho dù nợ ngập đầu.

Ở phương Tây, các ngân hàng phải bảo đảm rủi ro tín dụng mà họ cho vay bằng vốn của chính ngân hàng và tiền vốn bảo đảm này mỗi ngày mỗi tăng (bởi qui định của pháp luật) và các khoản nợ xấu phải được xử lý bằng cách đưa vào các ngân hàng xấu (bad debt bank),  trong khi đó các ngân hàng Trung Quốc được thổi phồng to một cách không kiểm soát được. “Hàng chục nghìn  quan chức cấp thấp của chính phủ và các nhà quản lý doanh nghiệp nhà nước đã mượn nợ mà không cần phải kiểm tra, giám sát”, nhà kinh tế Michael Pettis của Đại học Bắc Kinh cho biết. Chính thức là nhà nước không thiếu nợ cao. Tuy nhiên tất cả các rủi ro được dồn vào bảng cân đối của các ngân hàng (bank balance sheet). Vì vậy, ngân hàng (tại Trung Quóc) là lĩnh vực nguy hiểm nhất cho sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Họ phải phục vụ một
nền kinh tế lớn nhất trên thế giới sau Hoa kỳ, nhưng đồng thời cũng là nơi nhận
chỉ thị của chính quyền xã hội chủ nghĩa trung ương. Các khoản cho vay mà không
có bất kỳ một kiểm soát từ bên ngoài. Theo các chuyên gia, trên thực tế
Trung quốc chỉ có đủ khả năng tăng trưởng từ 5% đến 6% mà thôi, nhưng họ
đặt mục tiêu cho năm nay là hơn tám phần trăm. Cơn nghiện tín dụng đã phóng đại
thực tế ở Trung Quốc.

Vòng luẩn quẩn của việc giảm tăng trưởng và gia tăng nợ nần có vẻ đe dọa nặng nề hơn là Trung Quốc có nhiều ngân hàng lớn nhất thế giới. Ngân hàng Công nghiệp và Thương mại Trung Quốc (Industrial & Commercial Bank of China), với mức vốn tổng cộng gần 186 tỷ euro là ngân hàng có giá trị nhất thế giới. Ngân hàng thúc đẩy tăng trưởng gần như là độc quyền, tài trợ từ các ngân hàng khác cho tới nay không đáng kể.

Cơn đói tín dụng lên cao đến độ mà các doanh nghiệp (Trung quốc) phải kiếm ngày càng nhiều nguồn vốn từ các ngân hàng không chính thức. Tháng mười năm ngoái Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã cảnh báo sự phát triển bùng nổ của các ngân hàng trong bóng tối gây nguy hiểm cho sự ổn định tài chính của đất nước và tăng tính thiếu minh bạch của hệ thống (tài chính).

Chẳng có gì gọi là ngạc nhiên khi doanh nhân Đức ngày càng mất tin tưởng vào quốc gia đầy hy vọng trong quá khứ này là Trung Quốc. Tuy vẫn còn thu hút với doanh thu bán hàng hoá ngày càng tăng – nhưng nguy cơ cũng gia tăng.

Ở phương Tây cuộc khủng hoảng tài chính được lắng dịu, nhưng ở Trung Quốc lại đang ủ một thảm họa mới. Tin tức hôm qua được loan báo là nợ hàng tỷ của chính quyền cấp tỉnh đã được gia hạn tiếp. Rõ ràng là việc trả nợ không cần thiết phải nghĩ đến. Cựu giám đốc Ngân hàng Thế giới phụ trách Trung Quốc, Yukon Huang, đã viết trên báo Financial Times rằng, “các ngân hàng Trung Quốc quá lớn để quản lý, Chúng ta sẽ chứng kiến nhiều cuộc vỡ nợ và những cuộc khủng hoảng tài chính nhỏ, một hoặc thậm chí hai …”

Mặt trái của sự phát triển bùng nổ tại Trung Quốc.

Trong khi châu Âu đang tiếp tục trông chờ một giải pháp thuyết phục nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng nợ euro và Mỹ đang trên bờ vực thẳm của sự suy sụp ngân sách quốc gia, một nền kinh tế lớn khác tỏ vẻ không một chút ấn tượng về khủng hoảng là Trung Quốc. Tại Cộng hòa nhân dân hàng năm có trình báo số liệu thống kê về tình hình phát triển bùng nổ đặc biệt, năm 2013 các nhà kinh tế Trung quốc kỳ vọng nền kinh tế Trung Quốc sẽ tăng trưởng 8,5%.

Một phép lạ xảy ra nhờ sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản lèo lái nền kinh tế thị trường? Thưa không. Bởi vì  phép lạ phải được chứng minh, kiểm tra chặt chẽ hơn là chỉ qua một cơ chế rất tầm thường – sự gia tăng GDP chủ yếu là do các tỉnh và địa phương Trung Quốc, thí dụ như chi phí cho các dự án lớn xây nhà ở  theo phương châm: tiền không không quan trọng.

Với phương pháp trên, các tỉnh và địa phương làm suy yếu hệ thống tài chính Trung Quốc từ bên trong ra bên ngoài – mặc dù trung ương Bắc Kinh làm ăn thực sự vững chắc. „Hàng chục ngàn các quan chức chính phủ cấp thấp cũng như các nhà quản lý doanh nghiệp nhà nước đều có thể thực hiện các dự án đầu tư mà không cần được kiểm soát, giám sát“, kinh tế gia Michael Pettis của Đại học Bắc Kinh cảnh báo. Kết quả là: nợ lên đến nhiều nghìn tỷ (ức) nhân dân tệ, việc trả được nợ là hoàn toàn không chắc chắn, như các chuyên gia từng cảnh báo. Thoạt nhìn, hệ thống ngân hàng có vẻ mạnh mẽ, theo ông Pettis. Trong trường hợp của một cuộc suy thoái kinh tế, các
ngân hàng tin tưởng rằng sẽ được nhà nước để được cứu trợ.

Các khoản nợ của chính phủ tỉnh và địa phương theo một cuộc kiểm tra đặc biệt của nhà nước ít nhất là 25% tổng sản lượng GDP –  ở Đức, mặc dù tình hình tài chính các thành phố, địa phương không mấy sáng sủa nhưng khoản nợ của thành phố chỉ với 5% GDP. Thậm chí chính phủ trung ương Bắc Kinh không hề biết được là bao nhiêu các khoản vay này không thể trả lại được.

Chính thức  ngân hàng khai báo ít khoản nợ xấu. Các nhà phân tích hoài nghi những con số được khai báo này. Mục tiêu lợi nhuận cho các dự án nhà ở thường được nêu không thực tế. Nhà cửa thường được xây dựng một cách nhanh chóng và chỉ hai năm sau khi xây hoàn tất đã cần phải được cải thiện. Chính quyền địa phương sau đó cần nhiều tiền hơn. Các tỉnh trưởng hành động theo phương châm: “Bắc Kinh sẽ giải quyết.”

Một vấn đề của nợ Trung Quốc nữa là thời gian đáo hạn khác biệt của các khoản vay và các dự án mà họ tài trợ. Thời gian xây dựng một hệ thống xử lý nước thải hoặc một tuyến đường sắt đòi hỏi phải mất nhiều năm. Thời gian có thể đạt được lợi nhuận thường lên tới nhiều thập niên.. Chi phí cho các dự án này thường bằng các khoản vay nợ ngân hàng có kỳ hạn một vài tháng hoặc vài năm. “kỳ hạn trả nợ thực tế và thời gian đáo hạn của các khoản vay nợ cách nhau quá xa” kinh tế gia Qu Hongbin của ngân hàng lớn HSBC.cho biết. Tiền, không phải là một vấn đề, bởi vì tỷ lệ tiết kiệm
của Trung quốc trên 50%. “vật thiếu thốn là những công cụ (quản lý) tài trợ
dài hạn
.”

Trung Quốc không có những công cụ đó. Tài trợ bằng trái phiếu đòi hỏi phải có một thị trường thực sự trưởng thành, với việc đánh giá trung thực và thông tin minh bạch về những doanh nghiệp và chính quyền liên quan. “Trung Quốc đã thực hiện được một số vấn đề, nhưng chưa đủ” , một doanh nhân người Đức cho biết. Những người có
trách nhiệm rõ ràng là thiếu tính nhận thức vấn đề.

Tuy nhiên, ngay cả trong một nền kinh tế mà nhà nước chiếm ưu thế, một nguyên tắc cũng phải tuân giữ là: nếu mượn nợ thì tiền vay nợ cuối cùng phải được  hoàn trả lại cho chủ nợ. Tiền của các ngân hàng trên thực tế là tiền do người dân Trung quốc tiết kiệm. Một ví dụ là Bộ Đường sắt Trung Quốc là một trong những tổ chức mang nợ cao nhất thế giới: bộ vay mỗi năm thêm gần một nghìn tỷ nhân dân tệ, tương đương với 118 tỷ euro. Theo nhà kinh tế Pettis   là „một sự mất cân bằng to lớn“ và tiên đoán về trung hạn nước Cộng hòa nhân dân sẽ có „một thảm họa nợ nần“. Cứu trợ ngân hàng bởi nhà nước là điều không thể tránh khỏi.

Do đó, thống đốc ngân hàng trung ương Zhou Xiaochuan suy nghĩ phương cách làm thế nào qui trách nhiệm rủi ro này cho chính quyền cấp tỉnh. Đề nghị của ông là: phần lớn các khoản  vay nợ của chính quyền tỉnh phải được bảo đảm bởi cư dân của tỉnh đó. Theo cách suy tính  của Zhou Xiaochuan, chỉ khi nào có chủ nợ hoặc người bảo lãnh tại địa phương, thì chức năng kiểm soát mới thực sự  được thực hiện.

Tựa: Das China-Risiko

Tác giả: Finn Mayer-Kuckuk và Frank Sieren.

Đăng trên trang nhất nhật báo Đức Handelsblatt ngày 31.01.2013

Chuyển ngữ: Nguyễn Hội

Sứ Điệp Mùa Chay 2013 của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI

Sứ Điệp Mùa Chay 2013 của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI

Tin trong Đức Ái khơi dậy lòng Bác Ái”

Chúng ta đã biết và đã tin vào tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta. (1
Ga 4, 16)

Anh chị em thân mến,

Việc cử hành Mùa Chay, trong bối cảnh của Năm Đức Tin cho chúng ta một cơ hội quý báu để suy niệm về mối quan hệ giữa đức tin và đức ái: giữa việc tin vào Thiên Chúa, Thiên Chúa của Đức Chúa Giêsu Kitô, và tình yêu, là hoa quả của tác động của Chúa Thánh Thần, và là điều hướng dẫn chúng ta trên con đường tận hiến cho
Thiên Chúa và cho tha nhân.

1.Đức tin và sự đáp trả tình yêu của Thiên Chúa

Trong Thông Điệp đầu tiên của tôi, tôi đã đưa ra một số yếu tố để hiểu mối liên
hệ gần gũi giữa hai nhân đức đối thần là đức tin và đức ái.  Dựa vào lời xác quyết
cơ bản của Thánh Gioan Tông Đồ: “Chúng ta đã biết và đã tin vào tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta.” (1 Ga 4:16), tôi nhớ lại rằng “Là Kitô hữu không phải là kết quả của một sự lựa chọn đạo đức hay một ý tưởng cao cả, nhưng cuộc gặp gỡ với một biến cố,một con người, mang đến cho cuộc sống một chân trời mới và một hướng đi quyết định … Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước (x. 1 Ga 4:10), tình yêu không còn chỉ là một “mệnh lệnh”, nhưng nó là sự đáp lại món quà tình yêu mà với
Thiên Chúa đến gần chúng ta (Deus Caritas Est, số 1).  Đức tin là một sự
gắn bó cá nhân – trong đó bao gồm tất cả năng quyền của chúng ta – với mặc
khải về tình yêu nhưng không và “đắm đuối” mà Thiên Chúa dành cho chúng ta, được
thể hiện trọn vẹn trong Đức Chúa Giêsu Kitô. Cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa là Tình Yêu không chỉ liên hệ đến con tim, mà cả trí tuệ: Việc nhìn nhận Thiên Chúa hằng sống là một con đường dẫn đến tình yêu, và câu trả lời ‘xin vâng’ của ý chí chúng ta theo Thánh Ý của Ngài kết hợp trí tuệ, ý chí và tình cảm của chúng ta trong hành động bao quát của tình yêu. Tuy nhiên, tiến trình này luôn luôn chuyển động: tình yêu không bao giờ ‘hoàn thành hoặc xong.” (ibid., số 17.).  Kể từ đó, đối với tất cả các Kitô hữu, và đặc biệt là “những người tham gia trong các công việc bác ái”,cần phải có đức tin, vì “cuộc gặp gỡ Thiên Chúa trong Đức Kitô đánh thức tình yêu của họ
và mở tâm trí của họ ra
cho tha nhân, để tình yêu của họ dành cho những
người lân cận không còn là một mệnh lệnh bị
áp đặt, có thể nói là, tư bên ngoài, nhưng một kết quả phát sinh từ đức tin của họ, một đức tin trở nên tích cực qua đức ái(ibid., n. 31a).  Các Kitô hữu là những người đã được chinh phục bởi tình yêu của Đức Kitô và do đó được thúc đẩy bởi tình yêu này – caritas Christi urget nos (2
Cor 5: 14) – họ mở lòng cách sâu xa ra để  yêu thương những người lân cận cách cụ thể (x. ibid, số 33). Thái độ này phát sinh chính từ ý thức rằng mình được yêu thương, tha thứ, và thậm chí phục vụ bởi Chúa, là Đấng cúi mình xuống để rửa chân cho các Tông Đồ và hiến mình trên Thánh Giá để thu hút nhân loại vào tình yêu của Thiên Chúa.

Đức tin cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã ban Con Ngài  vì chúng ta và ban cho chúng ta sự chắc chắn chiến thắng la điều thật sự có thật:  Thiên Chúa là tình yêu … Đức tin, là ý thức về tình yêu của Thiên Chúa được tỏ lộ nơi trái tim bị đâm thâu qua của Chúa Giêsu trên Thánh Giá, mà  đến lượt nó cũng gợi lên tình yêu. Tình yêu là ánh sáng – thực raánh sáng duy nhất – có thể luôn luôn soi sáng một thế giới đang trở nên mờ tối ban cho chúng ta lòng can đảm cần thiết để sống và làm việc” (ibid., số 39.)  Tất cả những điều này làm cho chúng ta hiểu rằng thái độ chủ yếu để phân biệt các Kitô hữu chính là tình yêu dựa trên đức tin và hình
thành bởi đức tin”
(ibid., số 7).

2. Đức ái là đời sống trong đức tin

Toàn thể đời sống Kitô hữu là một sự đáp trả tình yêu của Thiên Chúa.  Sự đáp trả đầu tiên chính là đức tin như sự chấp nhận, đầy bất ngờ và biết ơn, sáng kiến ​​không
thể tưởng tuởng được của Thiên Chúa là điều đi trước chúng ta và chất vấn
chúng ta. Và lời “xin vâng” của đức tin đánh dấu bước đầu của một câu chuyện sáng ngời về tình bằng hữu với Chúa, được hoàn thành và mang lại ý nghĩa đầy đủ cho toàn thể cuộc đời chúng ta.  Nhưng Thiên Chúa chưa thỏa mãn với việc chúng ta đón nhận tình yêu nhưng không của Ngài.  Ngài không những chỉ yêu thương chúng ta, nhưng còn muốn kéo chúng ta đến với Ngài, biến đổi chúng ta một cách sâu xa đến nỗi chúng ta có thể nói cùng Thánh Phaolô rằng: không còn là tôi sống, nhưng là Đức Kitô sống trong tôi(xem Gal 2: 20).

Khi chúng ta nhường chỗ cho tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta trở nên giống
Ngài, chúng ta chia sẻ chính đức ái của Ngài.  Mở lòng ra cho tình yêu của Ngài có nghĩa là để cho Ngài sống trong chúng ta, và dẫn chúng ta đến tình yêu với Ngài, trong Ngài và giống như Ngài; chỉ khi ấy đức tin của chúng ta mới thực sự “hoạt
động qua đức ái” (x. Gl 5, 6);và chỉ khi ấy Ngài mới ở trong chúng ta (x. 1 Ga 4, 12).

Đứctin là biết chân lý và gắn  bó với nó (x. 1 Tim 2, 4), đức ái là “bước đi” trong chân lý (x. Ep 4: 15).  Với đức tin, chúng ta bước vào tình bằng hữu với Chúa; với đức ái,
chúng ta sống và nuôi dưỡng tình bằng hữu này (x. Ga 15:14tt).  Đức tin làm cho chúng ta đón nhận mệnh lệnh của Chúa và Thầy, đức ái cho chúng ta hạnh phúc trong
việc đưa mệnh lệnh ấy ra thực hành (x. Ga 13:13-17).
Trong đức tin, chúng ta được sinh ra làm con cái Thiên Chúa (x. Ga 1:12tt); đức ái làm cho chúng ta kiên trì cách cụ thể trong việc làm con cái Thiên Chúa qua việc
mang lại hoa quả của Chúa Thánh Thần (x. Gl 5:22).  Đức tin cho phép chúng ta nhận ra những hồng ân mà Thiên Chúa nhân lành và đại lượng đã trao phó cho chúng ta;
đức ái làm cho chúng sinh hoa kết quả (x. Mt 25, 14-30).

3. Sự liên hệ bất khả phân ly giữa đức tin và đức ái

Trong ánh sáng của những gì đã được nói ở trên, rõ ràng là chúng ta không bao giờ có thể tách rời hoặc thấy sự đối chọi giữa đức tin và đức ái.  Hai nhân đức đối thần này liên kết chặt chẽ với nhau, và thật sai lầm khi thấy sự đối kháng hoặc “phản bác”
giữa chúng.  Thật vậy, một đàng, người ta quá một chiều khi nhấn mạnh đến quyền ưu tiên và tính quyết định của đức tin và đánh giá thấp cùng hầu như khinh thường những công việc bác ái, hạ chúng xuống thành việc làm nhân đạo cách
chung.  Nhưng, đàng khác, cũng chẳng lành mạnh gì khi nói thái quá về quyền tối cao của đức ái và hoạt động của nó, trong khi nghĩ rằng việc làm có thể thay thế đức tin.  Để có một đời sống tâm linh lành mạnh, chúng ta cần tránh cả chủ thuyết duy tín (fideism) lẫn chủ thuyết hiếu động về luân lý (moral activism).

Trong Thánh Kinh, chúng ta thấy lòng nhiệt thành của các Tông Đồ trong việc
rao giảng Tin Mừng, và khơi dậy đức tin của dân chúng liên hệ chặt chẽ với quan tâm của các ngài trong việc bác ái phục vụ người nghèo như thế nào (x. Cv 6: 1-4).  Trong
Hội Thánh, việc chiêm niệm và hành động, tượng trưng một cách nào đó bằng hai
chị em Maria và Martha trong Tin Mừng, phải cùng chung sống và bổ túc cho nhau (x. Lc 10: 38-42).  Ưu tiên phải luôn luôn là mối liên hệ với Thiên Chúa và việc
chia sẻ của cải thật sự phải xảy ra trong tinh thần Tin Mừng, phải được ăn rễ trong đức tin (x. Bài Giáo Lý trong buổi triều yết chung ngày 25 tháng 4 năm 2012). Quả thật, đôi khi người ta có khuynh hướng thu nhỏ thuật ngữ “bác ái” vào đoàn kết, hay
đơn thuần là viện trợ nhân đạo.  Tuy nhiên, điều quan trọng là phải nhớ rằng công việc bác ái lớn nhất chính là truyền giáo, nghĩa là “thừa tác vụ Lời Chúa.”  Không hành động nào hữu ích hơn, và do đó bác ái hơn, đối với những người lân cận của chúng ta bằng việc bẻ bánh Lời Chúa, chia sẻ với họ Tin Mừng của Phúc Âm, giới thiệu họ vào một mối liên hệ với Thiên Chúa: truyền giáo là cách thăng tiến con người cao nhất và toàn vẹn nhất.  Như Đấng Tôi Tớ của Thiên Chúa Đức Giáo Hoàng Phaolô VI viết trong Thông Điệp Populorum Progressio, yếu tố đầu tiên và chính yếu của sự phát triển là rao giảng Đức Kitô (x. số 16).  Đó là chân lý nguyên thủy của tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta, được sống và được công bố, mở cuộc đời chúng ta ra
để đón nhận tình yêu này và làm cho việc phát triển trọn vẹn của nhân loại và của tất cả mọi người có thể xảy ra (x. Caritas in Veritate, n 8).

Tóm lại, tất cả phát xuất từ Tình Yêu và hướng về Tình Yêu.  Tình Yêu nhưng không của Thiên Chúa được truyền đạt cho chúng ta qua việc rao giảng Tin Mừng.  Nếu chúng ta chào đón Tình Yêu này bằng đức tin, chúng ta nhận được sự tiếp xúc đầu tiên và cần thiết với Thiên Chúa, làm cho chúng ta có thể “yêu Tình Yêu”, để rồi chúng ta có thể  sống và lớn lên trong Tình Yêu này và vui mừng truyền thông
Tình Yêu này cho những người khác.

Về mối quan hệ giữa đức tin và các việc làm của đức ái, có một đoạn trong Thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Êphêsô tóm lược sự liên hệ của hai nhân đức này cách hay
nhất: Vì nhờ ân sủng mà anh em được cứu độ qua đức tin; và đó không phải
bởi anh em, mà là bởi ân huệ của Thiên Chúa; không phải bởi việc làm, để không
ai có thể tự hào. Vì chúng ta là công trình của Ngài, được dựng nên trong Ðức
Chúa Giêsu Kitô, để làm các việc lành mà Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta từ
trước, hầu chúng ta sống trong chúng
(2, 8-10).  Ở đây chúng ta nhận thức rằng toàn
thể sáng kiến ​​cứu độ đến từ Thiên Chúa, từ ân sủng của Ngài, từ ơn tha tội nhận
được từ Ngài trong đức tin;nhưng sáng kiến ​​này, thay vì hạn chế sự tự do và trách nhiệm của chúng ta, lại thực sự là điều làm cho chúng xác thực và hướng chúng về những việc bác ái.  Những điều ấy không chủ yếu là kết quả của nỗ lực của con
người, khiến chúng ta hãnh diện vì chúng, nhưng phát sinhtừ chính đức tin và chảy ra từ ân sủng mà Thiên Chúa ban cho cách dồi dào.  Đức tin không có việc làm cũng
giống như một cây không có quả: hai nhân đức này bao hàm nhau. Mùa Chay mời gọi chúng ta, qua những thực hành truyền thống của đời sống Kitô hữu, nuôi dưỡng đức tincủa mình bằng cách lắng nghe  Lời Chúa nhiều hơn và kéo dài hơn cùng tham dự
các bí tích, đồng thời lớn lên trong đức ái và trong tình yêu dành cho Thiên Chúa và tha nhân, cũng như qua các dấu chỉ cụ thể của việc ăn chay, sám hối và bố thí.

4.Tính ưu tiên của đức tin, tính ưu việt của đức ái

Nhưmọi hồng ân của Thiên Chúa, đức tin và đức ái bắt nguồn từ tác động của một và cùng một Thánh Thần (x. 1 Cor 13), Thánh Thần ở trong chúng ta kêu lên “Abba!
Cha
ơi(Gal 4:6), và làm cho chúng ta nói rằng: “Chúa Giêsu là Chúa (1 Cor 12: 3) và “Maranatha! (1 Cor 16:22, Kh 22:20).

Đức tin, như hồng ân và sự đáp trả, giúp chúng ta biết chân lý của Đức Kitô là
Tình Yêu nhập thể và chịu đóng đinh, là sự vâng phục hoàn toàn và hoàn hảo Thánh
Ý Chúa Cha, và là lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa đối với những người lân cận.  Đức tin của chúng ta khắc sâu vào con tim và tâm trí niềm xác tín chắc chắn rằng chỉ có Tình Yêu này là thực tại duy nhất có thể chiến thắng sự dữ và sự chết.  Đức
tin mời gọi chúng ta nhìn về tương lai bằng đức cậy, trong kỳ vọng chắc chắn rằng chiến thắng của tình yêu Đức Kitô sẽ đạt đến sự viên mãn của nó.  Về phần nó,
đức ái dẫn chúng ta vào tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Kitô, và gắn liền
chúng ta một cách cá nhân và sống còn với việc tự hiến hoàn toàn và vô điều kiện
của Chúa Giêsu dành cho Chúa Cha và cho anh chị em chúng ta.  Bằng cách đổ đầy đức ái vào chúng ta, Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta thành những người chia sẻ món quà riêng của chính Chúa Giêsu: hiếu thảo với Thiên Chúa và huynh đệ với mọi người (x. Rm 5: 5).

Mối liên hệ giữa hai nhân đức này tương tự như giữa hai bí tích cơ bản của Hội
Thánh: Bí Tích Rửa Tội và Thánh Thể. Bí Tích Rửa Tội (Sacramentum fidei) đi trước Bí Tích Thánh Thể (Sacramentum Caritatis), nhưng nó là hướng về Bí Tích Thánh Thể, là sự viên mãn của cuộc hành trình của Kitô hữu.  Tương tự như thế, đức tin trước đức ái, nhưng đức tin chỉ được chứng minh là thật khi được đội triều thiên bởi đức ái. Tất cả bắt đầu từ việc khiêm tốn đón nhận đức tin (“biết rằng mình được Thiên Chúa yêu thương”), nhưng phải đi đến chân lý của đức ái (“biết cách yêu mến Thiên Chúa và yêu thương người lân cận”), là điều sẽ còn tồn tại mãi mãi, như là việc làm
tròn tất cả các nhân đức (x. 1 Cor 13:13).

Anh chị em thân mến, trong Mùa Chay này, chúng ta chuẩn bị cử hành biến cố Thập Giá và Phục Sinh, trong đó tình yêu của Thiên Chúa đã cứu chuộc thế gian và chiếu ánh sáng của mình trên lịch sử, tôi cầu chúc tất cả anh chị em sống thời gian quý báu này bằng cách làm tái sinh đức tin của anh chị em trong Đức Chúa Giêsu Kitô, để
cùng Người bước vào cuộc hành trình tình yêu đối với Chúa Cha và tất cả anh
chị em mà chúng ta gặp trong cuộc đời mình.  Để đạt được mục đích này, tôi dâng lời cầu nguyện của mình lên Thiên Chúa, và nguyện xin phúc lành của Chúa đổ xuống trên mỗi cá nhân và mỗi cộng đồng!

Làmtại Vatican, ngày 15 tháng mười năm 2012

BENEDICTUS PP. XVI

Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ từ tiếng Pháp

http://giaoly.org/vn

Lm. Chân Tín: Luồng gió mới – Cách mạng Thánh giá (29)

Lm. Chân Tín: Luồng gió mới – Cách mạng Thánh giá (29)

Đăng bởi lúc 2:10 Sáng 4/02/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (04.02.2013) – Sàigòn

Cách mạng Thánh giá

Mùa Thương sắp trở về với chúng ta.

Nói đến Mùa Thương, tức là nói đến một cuộc cách mạng có một không hai trong lịch sử loài người, một cuộc cách mạng đã đổi hướng xoay chiều lối đi của Lịch sử: cách mạng Thánh Giá.

Cách đây gần hai ngàn năm, trật tự của thế giới La Hy là trật tự của người giàu: giàu tiền của, giàu thế lực, giàu chức tước. Người ta xây dựng trật tự trên xương máu của đám nô lệ, duy trì trật tự bằng võ lực, bằng mưu mô, bằng gian trá. Người ta không biết công lý và nhân đạo là gì. Người ta chỉ biết có luật: mạnh được yếu thua.

Chúa Kitô đã đến đã phá hủy trật tự ấy và đã thiết lập một trật tự mới, trật tự của tám mối Phúc thật:

“Phúc cho kẻ có trí ý nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.

Phúc cho kẻ hiền lành, vì họ sẽ làm Đất Hứa làm cơ nghiệp.

Phúc cho kẻ ưu sầu, vì họ sẽ được an ủi.

Phúc cho những kẻ đói khát công chính, vì họ sẽ được thương xót.

Phúc cho những kẻ có lòng trong sạch, vì họ sẽ được thấy Thiên Chúa.

Phúc cho những kẻ bị bắt bớ vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ.

Các ngươi có phúc khi người ta chửi rủa các người và bắt bớ, đặt điều nói xấu đủ chuyện về các ngươi vì cớ Ta” (Mt,5,1-12)

Qua bản Hiến chương Nước Trời đã được Chúa Kitô long trọng tuyên bố, chúng ta nhận thấy:

Đức Kitô không thiết lập trật tự mới dựa trên đấu tranh giai cấp, trên cách mạng tư bản hay cách mạng vô sản, nhưng trên tinh thần khó nghèo của mọi người, mọi tầng lớp xã hội: “Phúc cho kẻ có trí ý nghèo khó”.

Đức Kitô không làm cách mạng với bạo lực, dao búa, với những vụ xuống đường, nhưng với lòng nhân từ: “Phúc cho kẻ hiền lành”.

Đức Kitô lên án tất cả những hình thức bất công và chúc phúc cho những người công chính: “Phúc cho những kẻ đói khát công chính”.

Đức Kitô không lấy sự thù hằn làm động lực gây cuồng tín, nhưng là lòng thương xót: “Phúc cho những kẻ biết thương xót”.

Đức Kitô lên án chia rẽ, lên án  chiến tranh, và chỉ chúc phúc cho những ai hoạt động cho hòa bình: “Phúc cho những kẻ gây hòa thuận”.

Đức Kitô chúc phúc cho những ai làm cách mạng Thánh Giá như Người: “Các ngươi có phúc khi người ta chửi rủa các ngươi và bắt bớ các ngươi, đặt điều xấu đủ chuyện về các ngươi vì cớ Ta”.

Nói tóm lại Đức Kitô đã loại bỏ tất cả những phương tiện cổ điển của mọi cuộc cách mạng trên trần gian, như tiền bạc, bạo động, bất công, hận thù, chia rẽ, mưu mô, áp lực, cấu kết. Người chỉ  dùng những phương tiện nghèo, phương tiện vô hiệu lực theo con mắt người đời. Cách mạng của Đức Kitô là cách mạng Thánh Giá: Thánh Giá từ ngày sinh trong hang bò lừa cho đến cái chết nhục nhã trên thập giá. Cách mạng của Người là cách mạng của Chân Lý và Tình Thương. Và trật tự mới của Người cũng là trật tự Chân Lý và Tình Thương.

Tiếp tục sứ mạng của Chúa Kitô giữa trần gian qua các thế hệ, Giáo hội không thể đi vào con đường của tiền bạc, thế lực, của quyền bính, của mưu mô. Con đường của Giáo hội là con đường nghèo khó, con đường hòa bình, con đường chân lý, con đường tình thương, con đường tám mối phúc thật, đó là con đường duy nhất của Giáo hội để hoàn thành cuộc cách mạng vĩ đại của Chúa Kitô: Cách mạng Thánh Giá.

Nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp


Số 190-3/1965

BÀI HỌC ĐẮT GIÁ

BÀI HỌC ĐẮT GIÁ

THANH ANH NHÀN

Trên đời này có những cái chết quá thương tâm mà người ngoài thì xót xa, người trong cuộc thì ân hận khôn cùng. Bản thân tôi đã được một lần chứng kiến một trong số những cái chết như thế…

Khi tôi đến thăm em thì cũng có vài người bạn của em cùng đến, có cả bố mẹ chồng và bố đẻ em ngồi đó. Đằng sau nhà, bà ngoại đang đút cơm cho thằng cháu chưa đầy 5 tuổi, đứa bé đẹp trai bụ bẫm dễ thương như một thiên thần.

Nhìn em nằm đó, tôi nhủ thầm: “Em đẹp quá !” Hình như càng lúc em càng đẹp, dù em đang phải đối diện với những cơn đau đớn tột cùng của căn bệnh thế kỷ, em nằm một chỗ chỉ còn da bọc xương, người xanh bóng, mệt mỏi, kiệt quệ, nhưng vẫn còn đó dáng dấp của một hoa khôi ngày nào. Nét mặt dịu hiền mỉm cười đưa mắt chào mọi người, vẻ nhẫn nại chịu đựng chấp nhận số phận.

Những người đến thăm an ủi chia sẻ với em về sự đau buồn mất mát vì chồng em vừa được Chúa gọi về cách đây hơn một tuần, nay đến lượt em, sức sống cũng tính bằng giờ chứ không bằng ngày bằng tháng nữa. Ai cũng cố nói chuyện bình thường tránh gợi lại vết thương lòng mà em đang phải đối diện chịu đựng. Trước một sự việc mà từ gia đình, bạn bè, họ  hàng, làng xóm, ai cũng rõ như ban ngày, tôi và mọi người ai nấy đều gượng cườiđể giữ cho nước mắt chỉ trực chờ trào ra trên khóe…

Tôi nhớ ngày xưa vợ chồng em cùng học một trường, quen nhau từ những ngày còn ở cấp một, cứ như hình với bóng, tốt nghiệp cấp 3 cả hai lại cùng học một ngành Công Nghệ Thông Tin. Thế rồi ra  trường, được sự đồng ý của hai bên gia đình, môn đăng hộ đối, tuy khá giả nhưnglại hiếm hoi, cả hai người đều là con một. Quí tử sánh duyên cùng ái nữ, trai tài gặp gái sắc bởi em từng là hoa khôi của Giáo Xứ đã dự thi hoa hậu của báo Tiền Phong tổ chức năm nào, chồng em thuộc loại con nhà giàu điển trai học
giỏi.

Vậy đó, cả đôi nên gia thất trong cuộc sống sung túc phú quý mà biết bao người mơ ước. Cha mẹ hai bên vun đắp, ra trường vợ chồng em được làm việc trong một môi trường hết sức thuận lợi. Hơn nữa, các em còn được ở riêng trong một cơ ngơi đồ sộ. Nhìn thấy rõ ràng em được tất cả, em có tất cả, thượng đế ưu đãi vợ chồng em thật
nhiều, một cuộc sống hoàn hảo và vượt bậc về mọi mặt…

Em sanh con đầu lòng là một bé trai kháu khỉnh, vậy là thỏa nỗi mong đợi có con nối dõi của gia đình nội ngoại. Cha mẹ hai bên, họ hàng, bạn bè chúc mừng càng khiến em thêm phần hạnh phúc.

Không ngờ, quả thật không ngờ, tất cả niềm hạnh phúc ấy đã vượt khỏi tầm tay của vợ chồng em một cách thật lãng nhách.

Trong thời gian em sanh con ở cữ, chồng em liên tiếp có những thành công trong công việc, anh bị các bạn rủ rê tiệc tùng cùng đối tác. Vì nể bạn bè, lại không có vợ nhắc nhở, anh đi “tăng một” rồi lại “tăng hai”, đến “tăng ba” thì cả đêm cũng không về nhà. Việc gì xảy ra ai cũng đoán được, anh qua đường với gái làng chơi. Chỉ một lần duy nhất, nhưng khốn nạn thay, cô gái ấy nhiễm HIV. Anh vô tình đem mầm bệnh trong mình mà không hề hay biết.

Một thời gian sau, khi thấy có những triệu chứng bất thường, anh đi xét nghiệm, phát hiện ra mình đã nhiễm căn bệnh chết người. Đau đớn nhất là người vợ hiền vô tội của anh cũng bị vạ lây, anh làm hại đời người anh yêu quý. Con virus quái ác đã làm sụp đổ biết bao gia đình, trong đó có gia đình em. Hạnh phúc vuột khỏi tầm tay thật nhanh chóng, tưởng chừng như một cơn ác mộng.

Những ngày mới phát hiện bệnh, tội nghiệp em vật vã khóc lóc đòi tự tử làm chồng em càng ân hận vì đã yếu lòng sa ngã. Mọi người xúm lại, hai bên cha mẹ và bạn bè đều an ủi, khích lệ: con của hai đứa còn quá bé, nó rất cần tình yêu và hơi ấm của cha mẹ, các con phải cố gắng sống để lo cho nó bằng tất cả những gì có thể bù đắp được, để chuẩn bị thật tốt cho tương lai của nó, để mai này nó có thể bước đi vững vàng khi trên đường đời vắng bóng cha mẹ…

Vợ chồng em hiểu ra rằng số phận đã an bài, mấy năm trời sau đó, các em đã chiến đấu bằng sự can đảm phi thường đến tuyệt vời. Cả hai đã sẵn sàng ra đi trong tình yêu của Chúa và mọi người thân thương.

Bà mẹ chồng bảo với chúng tôi: “Xin các chị an ủi em nó để nó vui chịu những sự khó Chúa gửi. Tôi biết nó vẫn không an tâm về thằng bé…” Tôi nghĩ không phải chỉ an ủi riêng em, mà còn cần phải nâng đỡ cả bốn bậc sinh thành, vì không gì có thể bù đắp được nỗi đau tột cùng này khi họ nhìn đứa cháu mồ côi kia.

Thấy có người đến thăm, chúng tôi xin phép ra về, mọi người nắm chặt bàn tay bé nhỏ gầy guộc của em, nhìn ánh mắt đầy nghị lực, tôi nghĩ chắc còn lâu lắm…

Vậy mà chỉ mới hai ngày sau đó em đã ra đi trong sự yêu thương của mọi người. Xin Chúa cho linh hồn Maria và Gioan Baotixita được sớm về hưởng nhan Thánh Chúa.

Vợ chồng em đã ra đi, để lại một bài học đắt giá cho mọi người về một cuộc sống đầy những cám dỗ và cay nghiệt, cùng với nỗi ân hận day dứt phải trả vì điều mình đã làm.

Xin Chúa gìn giữ và che chở mỗi người chúng con, để giữa những cạm bẫy và thử thách gặp trong đời thường, chúng con có đủ nghị lực, có cái nhìn sáng suốt để biết tránh xa những nỗi nguy hiểm làm đổ vỡ hạnh phúc gia đình và đưa chúng con tới chỗ diệt vong, gây đau khổ tan nát tấm lòng nơi những người thân yêu của chúng con. Amen…

THANH ANH NHÀN

trích EPHATA 547

 

Ông Táo chầu Trời

Trầm thiên Thu
1/28/2013
Tết đến, người ta cũng nghĩ ngay tới Táo Quân. Người Việt không xa lạ với “sự kiện” Táo về trời để báo cáo với Ngọc Hoàng về những việc xảy ra trong năm cũ. Có một loại văn vần như vè, thường là 4 chữ, quen gọi là “Sớ Táo Quân”.
Táo Quân [Trung ngữ: 灶 君 (Táo quân), Zào jūn], Táo Vương (灶 王) hay Ông Táo trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam và Trung quốc được xem là vị thần cai quản việc bếp núc trong mỗi nhà. Táo (灶) nghĩa là bếp. Việt Nam và Trung quốc có những
truyền thuyết về Táo Quân khác nhau.
Trung Hoa có những truyền thuyết về Táo Quân như sau:
– Theo Lã Thị Xuân Thu: Chúc Dung là thần quản lý lửa do Viêm Đế mang tới, khi
chết người dân thờ làm thần lửa.
– Theo Ngũ Kinh Di Nghĩa: Táo Quân tên Tô Cát Lợi, vợ là Vương Thị.
– Theo Dũ Dương Tạp Trở: thần lửa trông như một cô gái đẹp, tên là Ổi hay
Trương Đan, tên chữ là Tử Quách, những ngày không trăng thường lên trời tâu về
việc người nào có lỗi.
– Theo Hoài Nam Tử: Viêm Đế (tức Thần Nông) mang lửa đến cho dân, khi chết được
thờ làm Thần bếp.
Về giới tính, người dân Phúc Kiến (Giang Tây) cho rằng Táo là nữ thần, gọi là
“Táo Quân Lão Mẫu” hoặc “Táo Quân Thái Thái”. Theo Thái Bình Ngũ Lãm trích từ
Ngũ Kinh dĩ nghĩa, Trịnh Huyền cho Táo Thần là “lão phụ”, tức một bà già. Hứa
Thận, nhà ngôn ngữ đời Đông Hán, cho rằng: “Táo Thần họ Tô, tên Cát Lợi, phu
nhân của Táo Thần họ Vương tên Bác Giáp”, và hình tượng Táo Thần là người đàn
ông. Nhưng người vùng Ninh Hóa và một số vùng khác thì vẫn tôn thờ nữ thần, có
thể do họ chịu ảnh hưởng của Trịnh Huyền hoặc cho Táo Thần chuyên lo việc bếp
núc, điều tra tội nhỏ, công việc của nữ giới.
Người Trung Quốc cho rằng, trước kia, mỗi tháng vua bếp lên trời một lần vào
ngày tối trời (cuối tháng âm lịch) để báo cáo về từng người trong mỗi gia đình
nhưng sau này, mỗi năm vua chỉ lên trời một lần vào ngày 23 tháng Chạp. Vào
ngày đó, người Trung Quốc bày bàn thờ gần bếp, cúng vua bếp với thịt, cá, rượu
nếp, bánh kẹo. Ngoài ra còn có nước và cỏ khô cho ngựa của vua bếp “ăn” để bay
và chở vua lên trời.
Táo Quân trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có nguồn gốc từ ba vị thần: Thổ
Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ của Lão giáo Trung quốc, nhưng được Việt hóa thành huyền
tích “hai ông, một bà” – thần Đất, thần Nhà, thần Bếp. Tuy vậy, người dân vẫn
quen gọi chung là Táo Quân hoặc Ông Táo, do kết quả của tính chất Tam vị Nhất
thể (Trinity, Chúa Ba ngôi). Bếp là nguyên bản của nhà khi người nguyên thủy có
lửa, và đều dựa trên nền móng là đất.
Ở Việt Nam, sự tích Táo Quân được truyền khẩu, rồi được ghi chép, do đó có
những sự khác nhau về chi tiết. Nội dung chính như sau:
Trọng Cao có vợ là Thị Nhi ăn ở với nhau đã lâu mà không con, nên sinh ra buồn
phiền, hay cãi cọ nhau. Một hôm, Trọng Cao giận quá nên đánh vợ. Thị Nhi bỏ nhà
ra đi, sau đó gặp và bằng lòng làm vợ Phạm Lang. Khi Trọng Cao hết giận vợ,
nghĩ lại mình cũng có lỗi nên đi tìm vợ. Khi đi tìm, vì tiền bạc đem theo đều
tiêu hết, Trọng Cao đành phải đi ăn xin.
Khi Trọng Cao đến ăn xin nhà Thị Nhi, hai người nhận ra nhau. Thị Nhi đưa Trọng
Cao vào nhà, hai người hàn huyên tâm sự, rồi Thị Nhi tỏ lòng ân hận vì đã trót
lấy Phạm Lang làm chồng.
Lúc đó, Phạm Lang trở về. Sợ chồng bắt gặp Trọng Cao thì khó giải thích nên Thị
Nhi bảo Trọng Cao ẩn trong đống rơm ngoài vườn. Phạm Lang về nhà rồi ra đốt
đống rơm để lấy tro bón ruộng. Trọng Cao không dám chui ra nên bị chết thiêu.
Thị Nhi trong nhà chạy ra thấy Trọng Cao đã chết bởi sự sắp đặt của mình nên
nhào vào đống rơm đang cháy để chết theo.
Phạm Lang gặp tình cảnh quá bất ngờ, thấy vợ chết không biết tính sao nên cũng
nhảy vào đống rơm đang cháy để chết theo vợ.
Linh hồn của ba vị được gặp Thượng đế. Thượng Đế thấy ba người đều có nghĩa,
nên sắc phong cho làm Táo Quân, gọi chung là: Định Phúc Táo Quân (定 福 灶 君), nhưng mỗi người giữ một việc: Phạm Lang làm Thổ
Công, trông coi việc bếp núc, danh hiệu là Đông Trù Tư Mệnh Táo Phủ Thần Quân;
Trọng Cao làm Thổ Địa, trông coi việc nhà cửa, danh hiệu là Thổ Địa Long Mạch
Tôn Thần; Thị Nhi làm Thổ Kỳ, trông coi việc chợ búa, danh hiệu là Ngũ Phương
Ngũ Thổ Phúc Đức Chánh Thần.
Người Việt quan niệm rằng ba vị Thần Táo định đoạt phúc đức cho gia đình, do
việc làm đúng đạo lý của những người trong nhà. Bàn thờ thường đặt gần bếp,
trên có bài vị viết bằng chữ Hán. Hằng năm, đúng ngày 23 tháng Chạp là ngày Táo
Công lên chầu trời, có nơi gọi ngày này là “Tết Ông Công”, lễ cúng có cá chép –
vì người Việt cho rằng ông Táo cưỡi cá chép lên trời.
Ngoài ra người Việt còn quan niệm rằng Táo Quân lên trời và thưa với Ngọc Hoàng
Thượng Đế về những sự kiện xảy ra trong năm vừa qua ở dưới trần gian. Vì thế,
người Việt làm lễ tiễn ông Táo rất thịnh soạn, với mong muốn những điều tốt đẹp
nhất sẽ được thưa với Ngọc Hoàng, còn những điều không may mắn hoặc không tốt
sẽ được báo cáo nhẹ đi. Tương truyền như thế.
Người Công giáo không có thói quen cúng Táo Quân nhưng cũng vẫn biết truyền
thuyết này và cũng nhắc tới khi trò chuyện vào những ngày cuối năm.
Nói đến chuyện Ông Táo lên chầu trời, chúng ta cũng nhớ tới việc trình diện
Thiên Chúa khi chúng ta từ giã trần gian để về Trời làm công dân Thiên quốc.
Ông Táo chầu trời rồi lại về trần gian, còn chúng ta thì một đi không trở lại.
Đặc biệt là chúng ta phải trình diện Chúa mà không cần báo cáo, vì mọi sự đều
tỏ bày rõ ràng.
Là phàm nhân, ai cũng chết, đó là hậu quả của tội lỗi: “Phận con người là phải
chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét” (Dt 9:27). Nhưng chúng ta không bi
quan, nếu chúng ta sống khiêm nhường: “Anh em hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa
và Người sẽ cất nhắc anh em lên” (Gc 4:10).
Thánh Gioan căn dặn: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của tôi, tôi viết
cho anh em những điều này, để anh em đừng phạm tội. Nhưng nếu ai phạm tội thì
chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng
Công Chính” (1 Ga 2:1). Thật may mắn và hạnh phúc cho những tội nhân chúng ta!
Tuy nhiên, trách nhiệm và bổn phận của chúng ta là phải sinh lời tùy theo số
“nén bạc” mà Thiên Chúa đã giao cho chúng ta quản lý (x. Lc 19:11-27; Mt 25: 14
-30). Cuối cùng, ai cũng phải tổng kết cuộc đời khi Thiên Chúa bảo chúng ta
vĩnh biệt trần gian này.

Thật hạnh phúc nếu chúng ta được đứng bên những người lành và được Chúa chào
mừng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han” (Mt 25:34-36).
Nhưng thật khốn nạn nếu chúng ta phải đứng bên những kẻ dữ và bị Chúa nguyền
rủa: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng” (Mt 25:41-43).
Chúng ta hoàn toàn câm họng, chẳng nói được gì mà tự biện hộ, vì tất cả được
phát hình và phát thanh chính xác từng chi tiết của cuộc đời của mỗi chúng ta.
Ngày Hăm ba, tháng Chạp

Táo quân phải chầu Trời
Rồi sẽ đến lượt tôi
Về trình diện Thiên Chúa.

Lạy Chúa, xin xót thương con là tội nhân!

Đức Thánh Cha giải thích: Tại sao chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha?

Đức Thánh Cha giải thích: Tại sao chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha?

Đồng Nhân

1/30/2013

Nguồn: Vietcatholic.net

VATICAN – Trong buổi tiếp kiến chung hôm thứ Tư 30 tháng Giêng, Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16 đã trình bày những suy tư của ngài về lý do tại sao chúng ta gọi Thiên Chúa là “Cha”. Đức Thánh Cha giải thích rằng Tin Mừng sử dụng thuật ngữ này để phản ánh về sự thứ tha, rộng lượng và lòng thương xót của một người cha nhân lành.

Đức Giáo Hoàng cũng nói thêm rằng khi các bậc cha mẹ gặp khó khăn trong việc
chăm sóc và nuôi dạy con cái, họ có thể tìm kiếm nơi Thiên Chúa là Cha Toàn
Năng những mẫu gương để vượt qua những thử thức này.

Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em thân mến, Tiếp tục các bài giáo lý của chúng ta trong Năm Đức Tin,
giờ đây chúng ta hãy suy tư về lý do tại sao Kinh Tin Kính mô tả Thiên Chúa là
“Cha Toàn Năng”. Bất chấp cuộc khủng hoảng về tình phụ tử trong nhiều
xã hội, Kinh Thánh chỉ cho chúng ta thấy rõ ràng ý nghĩa của việc gọi Thiên
Chúa là “Cha”.

Lòng quảng đại, trung thành, tha thứ, và yêu mến thế gian của Ngài vô biên đến
độ đã ban cho chúng ta Con Một của Ngài để cứu rỗi của chúng ta.

Là “hình ảnh của Thiên Chúa vô hình” (Col 1:15), Chúa Giêsu tỏ cho
chúng ta thấy Thiên Chúa là một người Cha đầy lòng thương xót không bao giờ bỏ
rơi con cái của mình và yêu thương lo lắng cho chúng ta đến độ chấp nhận cả
Thập Giá. Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã biến chúng ta thành dưỡng tử của Ngài.
Thập giá cũng cho chúng ta thấy Thiên Chúa, là Cha của chúng ta, là Đấng
“toàn năng” đến mức nào.

Sự toàn năng của Ngài vượt qua khái niệm đầy hạn hẹp của của con người chúng ta
về quyền lực, sức mạnh của Ngài chính là ở một tình yêu nhẫn nại được thể hiện
trong chiến thắng cuối cùng của sự tốt lành trên sự gian ác, sự sống trên sự
chết, và tự do trên ách nô lệ của tội lỗi. Khi chúng ta chiêm ngắm Thánh Giá
của Chúa Kitô, chúng ta hãy hướng về Thiên Chúa là Cha toàn năng và cầu xin ân
sủng của Ngài giúp chúng ta từ bỏ chính mình với lòng cậy trông và tin tưởng
nơi tình yêu đầy lòng thương xót và quyền năng cứu độ của Ngài.

Tôi chào đón nồng nhiệt các linh mục tham dự khoá thường huấn tại phân khoa
Giáo dục thần học của trường Đại học Bắc Mỹ. Với tất cả các du khách nói tiếng
Anh hiện diện tại buổi triều yết ngày hôm nay, bao gồm những người từ Hàn Quốc,
Canada và Hoa Kỳ, tôi cầu khẩn muôn ơn lành của Thiên Chúa, niềm vui và an bình
tuôn đổ trên anh chị em.

MỘT LỜI CẢNH BÁO ĐÁNG SUY TƯ

MỘT LỜI CẢNH BÁO ĐÁNG SUY TƯ

Đặng Tự Do

Trên tờ Records của giáo phận Perth, Australia, có đăng lời tâm sự
của một cựu linh mục, một nhà thần học sau gần 20 năm trong thiên chức linh
mục, nay đã hoàn tục. Bài tâm sự này là một lời cảnh báo cho tất cả chúng ta
không nuôi dưỡng đời sống cầu nguyện hằng ngày.

“Không có gì tách tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa, trong Đức
Kitô. Tôi xác quyết rằng dù sống hay dù chết, dù tù đày, bắt bớ, dù khốn cùng,
quẫn bách. Không có gì tách tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa, trong Đức
Kitô”.

Tôi đã nhiều lần gân cổ, mặt đanh lại khi hát những câu hát
trên.  Cứ tưởng như là chỉ cần gào to lên như vậy thì tôi sẽ đời đời sống
trong lòng mến của Thiên Chúa. Thật ra, cũng không hoàn toàn là vô lý.
Thật sự, đúng là tù đày, bắt bớ, khốn cùng, quẫn bách đã không tách tôi ra khỏi
lòng mến của Thiên Chúa.  Nhưng, đơn giản là vì những thứ ấy không xảy ra
trên đất nước tự do này.  Ai dám bỏ tù tôi, ai dám kỳ thị tôi, ngược
đãi tôi vì tôi là người Công giáo, tôi kiện lên họ tới Tối Cao Pháp Viện chứ
chơi à.

Tuy nhiên, đã có một thứ nhẹ nhàng hơn, êm ái hơn đã không chỉ
tách tôi mà thực sự là “bứng” tôi hoàn toàn khỏi lòng mến của Thiên
Chúa: một đời sống bận rộn và thiếu sự cầu nguyện.

Năm 1972, sau khi tốt nghiệp tiến sĩ thần học ở Rôma, tôi đã nổi
như cồn với tác phẩm đầu tay “Tiếng thở dài”.  Cuốn sách trình bày những
suy tư thần học về ý nghĩa của sự đau khổ trong kiếp nhân sinh này, đã được bề
trên, các linh mục và anh chị em giáo dân đón nhận nhiệt liệt.  Có những
người viết thư cho tôi cho biết họ tìm lại được đức tin sau khi đọc cuốn sách
đó.  Họ tìm lại được lòng trông cậy vào Chúa và khen nức nở các ý kiến của
tôi.  Mỗi khi có chuyện không như ý, theo lời khuyên trong cuốn sách, họ
cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, con biết Chúa hằng yêu thương con.  Con
phó thác mọi sự trong tay Chúa. Nhưng, lạy Chúa, qua chuyện không vui này, Chúa
muốn nói với con điều gì?”.

Khốn nạn thân tôi, trong khi khuyên người ta cầu nguyện, tôi càng ngày càng ít dành thời gian cho việc cầu nguyện.  Tôi miệt mài trong các thư viện, cố viết hay hơn nữa, nhiều hơn nữa.  Tôi tưởng tôi đã gặp được Chúa trong những suy tư thần học, cho nên
tôi xao lãng đời sống cầu nguyện, tôi đã không thực hành chính những điều tôi
nói và viết hằng ngày trên bục giảng và trong các tác phẩm của tôi.  Có
lẽ, tôi đã cho rằng cầu nguyện chỉ là hình thức cấp thấp dành cho những người
bình dân.  Siêu đẳng như tôi thì không cần.  Càng ngày tôi cũng càng
ít có giờ cho giáo dân và càng ngày tôi càng bướng bỉnh và kiêu căng với các
đấng bề trên.  Chuyện gì đến cũng đã đến.  Tôi không muốn sa vào
những phân tích vụn vặt.  Điều tôi muốn nói với các bạn sau nhiều năm suy
tư, sau những đêm dài không ngủ và trong sự hối tiếc chân thành của tôi là sự
thật đơn giản này: Những hiểu biết sâu hơn về Thiên Chúa, nhiều hơn về Thiên
Chúa không giúp giữ tôi trong lòng mến của Ngài.  Chính đời sống cầu
nguyện đơn sơ mà mẹ tôi tập cho tôi từ ngày còn bé mới giữ tôi lại trong tình
yêu thương của Thiên Chúa.

Chẳng vậy, mà trong Phúc âm biết bao nhiêu lần chúng ta gặp câu
này: “Sau đó, Người lui vào một nơi thanh vắng mà cầu nguyện”. Chính
Chúa Con mỗi ngày còn cần đến sự cầu nguyện ở nơi thanh vắng để hiểu được ý
Chúa Cha.  Chúng ta là ai, tư cách gì, mà đòi có thể biết được ý Chúa
qua trí khôn, qua sự xét đoán nông cạn của mình trong cái náo nhiệt, bận rộn
của cuộc sống quay cuồng chung quanh.

Chẳng vậy, tất cả các lần Đức Mẹ hiện ra, Mẹ đã không nói gì nhiều
hơn là lặp lại tiếng kêu gọi khẩn cấp hãy cầu nguyện đó sao. Chúng ta cũng
nhìn thấy điều này nơi các Thánh mà chúng ta hằng tôn kính.  Chính sự
cầu nguyện đã giúp các Ngài nên Thánh.

Tôi đặc biệt mong muốn lặp lại ở đây những điều Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô 2 đã viết trong cuốn “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng”:

Việc cầu nguyện vừa là tìm tòi Thiên Chúa, vừa là mặc khải Thiên
Chúa.  Nơi việc cầu nguyện của ta, Thiên Chúa tỏ rõ Ngài là Đấng Sáng Tạo
và là Cha, là Đấng Cứu Chuộc và là Chúa Cứu Thế, là Thần Khí “dò thấu mọi
sự, cả đến những gì sâu xa nhất của Thiên Chúa”
(1 Cr 2, 10), cũng như
dò thấu những gì bí mật của tâm hồn.  Trong việc cầu nguyện, trước hết,
Thiên Chúa tỏ ra Ngài là tình thương xót, nghĩa là một Tình yêu đi tới gặp con
người đau khổ. Tình yêu này nâng đỡ, vực dậy và mời gọi chúng ta hãy tin
tưởng”.

Trên tất cả mọi sự, tôi nhận rõ rằng chính việc thiếu một đời sống
cầu nguyện đã giết chết ơn gọi Linh mục trong tôi.

*************************************

Những lời cảnh báo này thật đáng suy nghĩ.  Bao nhiêu lần tôi
đi dự lễ ngày Chúa Nhật mà chỉ mong cha làm cho nhanh nhanh để tôi về còn lo
làm chuyện khác.  Tôi có chuyện gì đáng lo hơn là phần rỗi linh hồn của
tôi.

Tôi có một công việc rồi, còn muốn kiếm thêm một công việc nữa đến
nỗi không còn có giờ cầu nguyện nữa.  Sống như điên, cày như điên như thế
có phải là cuộc sống được chúc phúc không?

Đặng Tự Do

langthangchieutim &

Anh chị Thụ & Mai gởi

Lm. Chân Tín: Luồng gió mới – Đời sống tu trì (21)

Lm. Chân Tín: Luồng gió mới – Đời sống tu trì (21)

Đăng bởi lúc 2:15 Sáng 27

nguồn: Chuacuuthe.com

VRNs (27.01.2013) – Sàigòn

Đời sống tu trì

Ngày 21 tháng này, Giáo hội sẽ mừng lễ Đức Mẹ dâng mình vào đền thánh: Giáo hội tưởng niệm và nêu cao gương mẫu cuộc đời tận hiến của Trinh nữ Maria cho Thiên Chúa. Từ giây phút đầu tiên cho đến hơi thở cuối cùng của đời Người, Đức Mẹ luôn luôn thuộc trọn về Chúa, sống cho Thiên Chúa và việc làm của Người đều hướng về Chúa. Người đón nhận tất cả nỗi thống khổ, thử thách, để sáng danh Chúa trên trời. Người đã hiến dâng dạ trinh khiết trong con đường khó nghèo và vâng phục để phụng sự Thiên Chúa và nhân loại. Lòng tin, lòng cậy và lòng mến chiếu rạng trong cả
cuộc đời Người.

Mẹ Maria đã để lại tấm gương tận hiến cho tất cả những ai dâng mình cho Chúa trong đời sống tu trì. Vì thế, nhân dịp lễ Mẹ về, chúng tôi muốn dành Nguyệt san tháng này, để nêu lên một vài khía cạnh của đời sống tu trì, ngõ hầu gây một mối thông cảm giữa anh chị em sống ngoài đời và những người sống trong tu viện.

Nói đến vấn đề tu trì,con người thế kỷ 20 chúng ta vẫn còn nhiều quan niệm lỗi thời. Có kẻ giàu trí tưởng tượng cho rằng tu viện là nơi nương nấu của những tâm hồn tan vỡ: Đi tu là tìm cái u tịch của chốn thánh để thoa dịu các vết thương lòng khi ai có ý
muốn đi tu, họ liền nghĩ đến một khối tình nào đã đổ vỡ.

Có người cho rằng đi tu chỉ vì số phận hẩm hiu, hết tương lai, bị đời từ chối. Họ tưởng rằng đau khổ thất bại là một yếu tố cần thiết của một ơn kêu gọi tu Dòng và chỉ cần đời đóng cửa là tu viện sẽ mở cửa.

Vẫn biết đôi khi nhờ thất bại con người sẽ mở mắt nhìn thấy những giá trị siêu nhiên và Thiên Chúa đại lượng sẽ lãnh nhận tất cả những gì người ta dâng với lòng thành, kể cả một cuộc đời tàn phế, nhưng nếu đi tu chỉ vì tàn phế, chắc rằng họ sẽ không ở lâu
trong tu viện.

Cũng không thiếu người nghĩ rằng đi tu là một lối thoát nợ đời, cũng êm đẹp: Ở đời, nhiều lo âu về tinh thần cũng như vật chất. Đã có gia đình, phải lo cho gia đình, phải thức khuya dậy sớm, phải đổ mồ hôi trán để nuôi vợ con. Còn người đi tu, chỉ một
thân một mình cơm áo mặc đã có nhà dòng lo, thoát khỏi mọi bận rộn, sống một
cuộc đời nhàn hạ, tâm hồn được bình an thoải mái.

Tất cả những quan niệm trên đều sai lạc: Đi tu không phải vì tâm hồn đã quá đau khổ, quá chán đời không thiết gì với cuộc sống, muốn chôn mình vào nơi thanh vắng để dễ than vắn thở dài. Đi tu cũng không phải vì số phận quá hẩm hiu, bị đời từ chối, không
làm ăn nên nỗi, phải nhờ chốn tu viện an thân lúc về già. Đi tu cũng không vì
hèn nhát, chỉ vì thoát nợ đời, khỏi bận rộn âu lo, khỏi phải chiến đấu.

Vậy thế nào là tu? Tu tức là sống cuộc đời tận hiến cho Chúa, bằng ba lời khấn khó nghèo, trinh khiết và vâng lời, để hoàn toàn tin yêu và phụng sự Chúa. Trên phương diện ba lời khấn khó nghèo, tinh khiết và vâng lời sẽ phân biệt đời sống tu trì với đời
sống ngoài đời. Trên phương diện nội tâm, đời sống tu trì cốt ở chỗ tận hiến
cho Chúa. Thiên Chúa là một bản vị mời gọi người ta đi đến chỗ sống thân mật
với một tình yêu độc nhất vô nhị là Người. trước tiếng gọi tha thiết, thầm kín,
huyền diệu của Thiên Chúa, con người đại độ trút bỏ lòng ham muốn của cải,
khoái lạc và tự do để bước vào con đường tu của ba lời khấn. Tiếng mời gọi ấy,
trong hết mọi chặng đường tu hành về sau, lại còn vang lên mãi, thúc giục từ bỏ
mỗi ngày một thêm, biến đời sống mình làm một của lễ cho Chúa.

Nhưng người tu sĩ chưa phải là thánh. Họ cũng còn là người với những tính xấu của họ, với những yếu đuối, những trượt ngã trên con đường tu thân. Bao lâu họ còn là người bấy lâu họ còn bị tiền tài danh vọng, khoái lạc, tự do tấn công họ. Và trong cuộc chiến đấu gay go ấy, người tu sĩ có lúc thắng có lúc bại. nhưng với ơn Chúa, họ chiến đấu mãi và mong một ngày kia cởi bỏ hẳn con người cũ, con người tội lỗi để luôn mặc
lấy con người mới là chính Chúa Giêsu. Lúc ấy con người và Thiên Chúa sẽ hợp
nhất hoàn toàn trong tình yêu bất diệt, cùng đích của đời sống tu trì.

Nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp

Số 174-11/1963

EVA, CAIN, SA-UN THỜI HIỆN ĐẠI!

EVA, CAIN, SA-UN THỜI HIỆN ĐẠI!
Mở lại những trang đầu của sách Sáng Thế, người ta đọc và thấy những trang sách ghi lại tình cảm hết sức tốt đẹp giữa Thiên Chúa và con người.  Cứ chiều chiều, Thiên Chúa đến và đi dạo với hai ông bà trong vườn địa đàng.  Trong cuộc đi dạo ấy, ắt hẳn Thiên Chúa như người tình đến thỏ
thẻ, thủ thỉ với hai ông bà và hai ông bà cũng thỏ thẻ tâm sự với Chúa.
“Mối tình đầu” trong sách Sáng Thế Ký thật nên thơ.
“Mối tình đầu” đang triển nở một cách tốt đẹp bỗng dưng con rắn dữ xuất hiện.  Nó đã gieo
những lời ngon ngọt rằng khi ăn “trái ấy” vào thì ông bà sẽ bằng Thiên
Chúa.  Nhưng Khi ăn vào rồi thì sự thật lại khác.  Sự thật chính là
sự tan vỡ của mối tình đầu lãng mạn mà Thiên Chúa dành cho con người.  Eva
muốn bằng Thiên Chúa, muốn đẩy Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời mình nên bóp nghẹt
sự hiện diện và tình yêu của Thiên Chúa bằng hành động hái trái cấm.
Tưởng chừng kinh nghiệm của hai ông bà nguyên tổ sẽ là kinh nghiệm quý báu cho con cháu.  Nhưng
không, trường hợp hai đứa con đầu lòng của ông bà đã đi theo vết xe cũ của cha
mẹ.  Không đơn giản như hai ông bà mà Cain đã cam tâm giết em mình là
Aben.  Cain và Aben là hai anh em ruột thịt hằng ngày vẫn yêu mến, hoà
thuận với nhau.  Thế rồi, sau khi thu hoạch hoa màu lợi tức, hai anh em
cùng nhau dâng của lễ đầu mùa lên Thiên Chúa.  Thiên Chúa nhận lễ vật của
Aben mà từ khước lễ vật của Cain.  Thế là từ đó, trong Cain phát sinh lòng
ghen tỵ.  Lòng ghen tị lớn dần lấn át cả tình anh em ruột thịt khiến Cain
dụ em ra đồng và xông vào đánh chết em mình.  Chính lòng ghen tị trong tâm
hồn Cain là nguyên nhân chính xui khiến anh giết chết Aben.
Một trường hợp tương tự khác là vua Sa-un và Đavít.
Thời ấy, Gô-li-át, một kiện tướng của quân Philitinh, một người khổng lồ có sức mạnh vô địch, khiêu chiến với quân Ít-ra-en.  Trong hàng ngũ quân Ít- ra-en, không ai dám đương đầu với tên khổng lồ ấy.  May thay, Đa-vít xuất hiện kịp thời.  Cậu dùng ná bắn lủng trán Gô-li-át, rồi
dùng chính gươm của y mà chặt đầu y.  Quân Ít-ra-en thừa thắng xông lên
như nước vỡ bờ, đánh tan quân địch không còn manh giáp.  Sau đó, phụ nữ từ
các thành Ít-ra-en tuôn ra các ngã đường chào mừng vua Sa-un chiến thắng và ca
tụng Đa-vít như vị anh hùng kiệt xuất: “Vua Sa-un giết được một ngàn, còn
Đa-vít giết được hàng vạn” (I Sm 18, 6-8).  Lời ca tụng đó làm cho
lòng ghen tị sục sôi trong lòng vua Sa-un.  Nhà vua tìm mọi cách tiêu diệt
Đa-vít và cuối cùng đem quân truy lùng tận những hang núi sâu, mưu toan tiêu
diệt vị anh hùng tài năng và dũng cảm này.
Eva, Cain, Sa-un vẫn vịn vào cái lý cái lẽ ác tâm sẵn có trong lòng mình để hại người công
chính.   Eva, Cain, Sa-un chỉ đăm đăm vào cái tôi của mình, vào lợi danh của mình mà quên đi tình Chúa – tình người.
Những bài học về Eva, Cain, Sa-un lẽ ra là bài học quý báu cho con người, nhưng ngày nay vẫn nổi lên quá nhiều khuôn mặt của Eva, Cain và Sa-un.  Điều đáng tiếc là dẫu cho có nhiều tiếng kêu ai oán về hành động giết người, nhưng ngày nay vẫn có quá nhiều khuôn mặt Eva, Cain và Sa-un thời hiện đại.  Eva, Cain và Sa-un vẫn cứ giả điếc làm ngơ để mặc cho sự dữ tiếp diễn để thoả mãn dục vọng
đen tối của mình.
Giả như Thiên Chúa xa lạ để Eva hành xử như thế thì cũng chẳng có gì để bàn nhưng Thiên Chúa
đã yêu thương hai ông bà hết mực.
Giả như Cain và Eben là người dưng nước lã để Cain giết Aben thì nhẹ tôi nhưng đàng này lại là
anh em cùng cha cùng mẹ.  Cain và Aben đã hơn một lần ăn chung, uống
chung, ngủ chung và thậm chí bú chung dòng sữa mẹ nhưng Cain đã quên đi mối
tình ruột thịt ấy.
Sa-un và Đavit cũng vậy.  Cả hai như là người một nhà vì sau khi thắng trận Sa-un đã gả
con gái lớn của vua cho Đavit.  Như một nhà, ấy vậy mà Sa-un đã ra tay sát hại Đavit.
Đứng trước sự ác, sự dữ lan tràn mặt đất như thế này chắc có lẽ không còn con đường nào khác
là con đường lặng thinh và cầu nguyện.  Tiếng kêu ai oán về tình Chúa – tình người, về lòng nhân hình như cứ như vô vọng trước những con người như Eva, Cain và Sa-un thời hiện đại.
Có thể ngày hôm nay người ta thiếu đời sống cầu nguyện, thiếu đời sống kết hợp mật thiết với
Chúa nên sự ác và sự dữ hoành hành một cách khốc liệt như thế này!  Cố lên
và cố lên!  Thêm một lời cầu nguyện cho Eva, cho Cain và cho Sa-un thời
hiện đại.  Biết đâu Chúa Thánh Thần sẽ biến đổi lòng của những Eva, Cain
và Sa-un thời hiện đại.
Thanh Tâm

TÔN GIÁO NÀO TỐT NHẤT?

TÔN GIÁO NÀO TỐT NHẤT?

Trần Tiến sưu tầm

1/26/2013

Nguồn: Vietcatholic.net

Đây là một mẩu đối-thoại ngắn với Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma, nhà Thần-học người
Brazil, Leonardo Boff kể lại:

Tại một cuộc hội-thảo bàn tròn về “Tôn-giáo và tự-do” có Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma và tôi cùng tham-dự. Lúc tạm nghỉ, tôi hỏi ngài vừa tinh-nghịch vừa tò-mò “Thưa ngài, tôn-giáo nào tốt nhất? ”

Tôi nghĩ ngài sẽ nói: “Phật-giáo Tây-tạng” hoặc “Các tôn-giáo phương Đông, lâu
đời hơn Ki-tô giáo nhiều”.

Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma trầm-ngâm giây lát, mỉm cười và nhìn vào mắt tôi… Điều này
làm tôi ngạc-nhiên vì tôi biết đây là một câu hỏi ranh mãnh.

Ngài trả lời:

“Tôn-giáo tốt nhất là tôn-giáo đưa anh đến gần Đấng tối-cao nhất. Là
tôn-giáo biến anh thành con người tốt hơn”.

Để giấu sự bối-rối của tôi trước 1 câu trả-lời đầy khôn-ngoan như thế, tôi hỏi:
Cái gì làm tôi tốt hơn? ”

Ngài trả lời:

“Tất cả những gì làm anh

Biết thương-cảm hơn

Biết theo lẽ-phải hơn

Biết từ-bỏ hơn

Biết dịu-dàng hơn

Biết nhân-hậu hơn

Có trách-nhiệm hơn

Có đạo-đức hơn”.

“Tôn-giáo nào biến anh thành như-vậy là tôn-giáo tốt nhất”.

Tôi thinh-lặng giây lát, lòng đầy thán-phục, ngay cả bây giờ, khi nghĩ đến câu
trả-lời đầy khôn-ngoan và khó phản-bác, Ngài tiếp:

“Anh bạn tôi ơi!

Tôi không quan-tâm đến tôn-giáo của anh hoặc anh có ngoan-đạo hay không. Điều
thật-sự quan-trọng đối với tôi là cách cư-xử của anh đối-với người đồng-đẳng,
gia-đình, công-việc, cộng-đồng và đối-với thế-giới.

Hãy nhớ rằng vũ-trụ dội lại hành-động và tư-tưởng của chúng ta. Quy-luật của
hành-động (Action) và phản-ứng (Reaction) không chỉ dành riêng cho vật-lý. Nó
cũng được áp-dụng cho tương-quan con người.

Nếu tôi ở hiền, thì tôi gặp lành.

Nếu tôi gieo gió, thì tôi gặt bão.

Những gì ông bà nói với chúng ta là sự-thật thuần-túy. Chúng ta luôn nhận được
những gì chúng ta làm cho người khác. Hạnh-phúc không phải là vấn đề số-mệnh.
Đó là vấn-đề lựa-chọn.”

Cuối cùng ngài nói:

“Hãy suy-tư cẩn-thận vì Tư-tưởng sẽ biến-thành Lời-nói,

Hãy ăn-nói cẩn-thận vì Lời-nói sẽ biến-thành Hành-động,

Hãy hành-xử cẩn-thận vì Hành-động sẽ biến-thành Thói-quen,

Hãy chú-trọng Thói-quen vì chúng hình-thành Nhân-cách,

Hãy chú-trọng Nhân-cách vì nó hình-thành Số-mệnh,

Và Số-mệnh của anh sẽ là Cuộc-đời của anh.

… và …

“Không có Tôn-Giáo nào cao-trọng hơn Sự-Thật.”

Bên Thắng/Bên Thua & Những Bức Tường Lòng

Bên Thắng/Bên Thua & Những Bức Tường Lòng

01/24/2013                                       nguồn: RFA

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Người Nga có câu ngạn ngữ là nếu thiếu chó chăn, loài cừu không trở nên bầy đàn được. Cái khó của những cộng đồng người Việt hải ngoại là họ có dư loại chó này. Ðã thế, phần lớn, đều là … chó dại!

Khi còn bị phân chia bởi bức tường Bá Linh, dân Ðức hay kể câu chuyện hài này:

Có một con chó chui tường từ Ðông sang Tây. Thấy khách lạ nên lũ chó bên Tây Ðức xúm xít và tíu tít hỏi thăm:

– Bên ấy có hội bảo vệ súc vật không?

– Có chứ.

– Có bác sĩ thú y không?

– Có luôn.

– Có thẩm mỹ viện và nghĩa trang dành riêng cho chó không?

– Có tuốt.

– Thế thì việc gì đằng ấy phải vất vả chui tường sang đây?

– Tại vì ở bển bị cấm được cho …sủa!

Tháng 9 năm 1989, bức tường Bá Linh bị đập đổ. Ðông Ðức được giải phóng. Từ đây, người dân được quyền ăn nói tự do, và chó có quyền… được sủa.

Sự thống nhất nước Ðức về thể chế, cũng như về nhân tâm, tuy không phải là một tiến trình toàn hảo nhưng có thể được coi như là ổn thỏa – ngoại trừ đối với một số người. Họ là những di dân đến từ Việt Nam, theo như tường thuật của Alisa Roth:

“Người Việt vẫn đang là nhóm Á Châu lớn nhất tại thành phố Bá Linh. Những nguời được mệnh danh là Người Việt miền Tây là những người miền nam Việt Nam, hầu hết là thuyền nhân mà trong những năm tiếp theo chiến thắng 1975 của cộng sản, họ đã đổ đến những vùng bây giờ là Tây Ðức.”

“Còn nguời Việt miền Ðông là những nguời đến Ðông Ðức vào thập niên 1960 và 1970 cùng với các công nhân xuất khẩu từ những quốc gia cộng sản đang phát triển tới làm việc trong các nhà máy…”

“… Cái cộng đồng nhỏ bé này hãy còn duy trì sự chia cắt với hai thế giới, hai phương trời cách biệt. Những ý thức hệ – từng xé nát nước Ðức và nước Việt Nam ra làm đôi – hiện vẫn còn luân lưu mạnh mẽ tại nơi đây…”

Nó “mạnh mẽ” tới độ khiến một người dân bản xứ phải thốt lên rằng:”Bức tường Bá Linh nằm trong đầu óc của người Việt miền Ðông với người Việt miền Tây còn cao hơn cả bức tường của người dân Ðức đối với người dân Ðức.” (“Berlin’s Divide
Lingers For Vietnamese Expatriates Capital’s East – West Gap Reflects Cold War
Past,” San Jose Mercury News, 12 Jul. 2002:A1/ Việt Mercury 12 Jul. 2002:
1 + 69. Trans. Nguyễn Bá Trạc”).

Nói như thế, nghe đã phũ phàng nhưng  (vẫn) chưa …hết ý! Trong cuốn Tổ Quốc Ăn Năn của Nguyễn Gia Kiểng – ấn bản 2001, Paris, nơi trang 70 – tác giả còn trích dẫn nhận xét của một người ngoại quốc khác về dân Việt, như thế này đây: “Ils ne s’aiment pas” (Chúng nó không ưa nhau đâu).

Cha nội Parisien nào đó nói bậy bạ vậy mà …trúng phóc. Những phương tiện truyền thông và giao thông của thời hiện đại quả có làm cho trái đất nhỏ lại, và khiến cho loài người gần gũi với nhau hơn. Nhưng riêng với với dân Việt thì không. Nhất định là không.

Người ngoài có vẻ “hơi” ngạc nhiên về thái độ “rất kém thân thiện” của dân Việt đối với nhau, trên bước đường lưu lạc. Họ sẽ ngạc nhiên chết (mẹ) luôn nếu biết rằng những “bức tường ô nhục” tương tự hiển hiện khắp chốn, kể cả ở Việt Nam,
chứ chả riêng chi ở Berlin.

Dù đất nước đã “thống nhất” hơn một phần tư thế kỷ, dân chúng giữa hai miền Nam/Bắc Việt Nam (rõ ràng)  vẫn chưa gần nhau mấy. Đôi lúc, họ ăn ở cư xử với nhau cứ y như những kẻ phải sống trong một cuộc hôn nhân … cưỡng bách.

Theo “truyền thống,” người Việt hay chia phe và họ thường nhìn nhau qua những “lỗ châu mai” từ những “pháo đài” của … phe mình. Họ hay gọi nhau là “tụi
này” hay “tụi nọ” (tụi Công Giáo, tụi Phật Giáo, tụi Nam Kỳ, tụi Bắc Kỳ, tụi Trung Kỳ …). Gần đây, có thêm một “tụi mới” nữa – tụi thuộc … phe thắng cuộc!

Và đó mới chỉ là những chuyện nhỏ, ở miền xuôi. Ở miền ngược, miền núi, hay còn gọi là miền cao, miền sơn cước (hoặc cao nguyên) thì còn nhiều chuyện … kỳ cục dữ nữa. Nơi đây, một phần dân tộc Việt vẫn chưa được nhìn nhận là người thường hay người Thượng. Họ bị coi là … “tụi mọi” và bị chính đồng bào mình (toa rập với cường quyền) cướp đoạt hết đất đai canh tác.

Nghèo đói quá hoá “sảng” chăng? Khổ cực quá, cùng quẫn quá, bị chèn ép quá nên đâm ra gấu ó, cấu xé lẫn nhau chăng? Không hẳn đã thế đâu.

Tại nước Ðức, ngay giữa một thành phố tự do và phú túc, “bức tường Bá Linh nằm trong đầu óc của người Việt miền Ðông với người Việt miền Tây (vẫn) còn cao hơn bức tường của người dân Ðức  đối với người dân Ðức” mà. Hơn nữa, như đã thưa, những bức tường lòng (ô nhục) tương tự hiển hiện ở khắp nơi chứ đâu có riêng chi ở Berlin.

Nơi đâu có người Việt quần tụ là tức khắc nẩy sinh những chuyện  đố kỵ, chia cách, phân hoá, và đánh phá lẫn nhau túi bụi. Mỗi cộng đồng vẫn thường cần đến hơn một ban đại diện (dù tất cả những ban đại diện “dường như” không đại diện được cho bất cứ ai và cũng không mấy ai – thực sự- cần người đại diện)

Tương tự, mỗi hội đoàn đều có tới hai hay ba ông (bà) chủ tịch, dù cả hội đoàn đều không mấy ai biết rõ là họ hội họp lại với nhau để làm gì. Mọi tổ chức (không chóng thì chầy) nếu không vỡ tan tành thì cũng bể thành vài mảnh!

Người Nga có câu ngạn ngữ là nếu thiếu chó chăn, loài cừu không trở nên bầy đàn được. Cái khó của những cộng đồng người Việt hải ngoại là họ có dư loại chó này. Ðã thế, phần lớn, đều là … chó dại!

“Sự kiện vô vàn phi lý, cực độ vô nghĩa, và bất lợi không lường này, đang diễn tiến kết thành hiện tượng phân hoá hỗn loạn, phân liệt khắc nghiệt, chia rẽ trầm trọng giữa những cá nhân, nhóm cá nhân, cộng đồng người Việt ” (Phan Nhật Nam, “Lời Khẩn Thiết Nhằm Chấm Dứt Hiện Tượng Phân Hoá”).Cũng theo tác giả bài báo vừa dẫn thì Cục Tình Báo Hải Ngoại, trực thuộc Ban Tổ Chức Trung Ương Ðảng Cộng Sản Hà Nội, là nguyên nhân gây ra những hiện tượng phân hoá tiêu cực kể trên.

Những nhân viên của Cục Tình Báo Hải Ngoại e không tài ba đến thế. Chợ chiều rồi. Chúng nó (nếu có) cũng chỉ lo đánh quả mà thôi và chuẩn bị để chạy thôi.

Thủ phạm không đến từ bên ngoài. Chúng phục sẵn trong “thâm tâm” của tất cả chúng ta.

Khi còn nhỏ, tôi nhớ là đã đọc ở đâu đó – qua lời kể của Schopenhauer – một câu chuyện ngụ ngôn mà nội dung (đaị khái) như sau:

Có một mùa Ðông lạnh đến độ muốn tồn tại muôn loài đều phải xích lại thật gần nhau để truyền cho nhau hơi ấm. Chỉ riêng có loài nhím vì lông quá nhiều, quá nhọn và không cách nào thu lại được nên đành … chờ chết!

Dân Việt đang trải qua một mùa Ðông khắc nghiệt. Nếu chúng ta không vượt qua được những bức tường lòng hiện hữu, không xếp lại được những lông nhọn tua tủa tự mỗi người, và mọi phe nhóm đều nhất định “tử thủ” trong pháo đài của riêng mình thì (e) khó mà qua khỏi đuợc cơn quốc nạn này. Vấn đề không phải là mùa Ðông sẽ kéo dài vô tận mà vì đất nước (cũng như lòng người) sẽ bầm dập, te tua, tan nát, và tanh bành – sau đó.