Thánh tử đạo Việt Nam là những người sống “Đạo Yêu Nhau”

Thánh tử đạo Việt Nam là những người sống “Đạo Yêu Nhau”

Jos.Vinc. Ngọc Biển

Cách đây ít lâu, có một bạn trẻ ngoài Công Giáo hỏi tôi rằng: “Này anh, anh cho em hỏi bên đạo Công Giáo các anh tôn thờ những người mà gọi là thánh tử đạo, vậy họ là ai mà phải
thờ”[1]. Lúc đó tôi đã trả lời cho bạn trẻ đó rằng: “Các thánh tử đạo chính là những con người như chúng ta, nhưng các ngài đã theo, sống và làm chứng cho đạo của mình theo là đạo thật, trong khi đó vua quan thời đó lại cho là tà đạo nên cấm và bắt bớ. Ai không chịu bỏ đạo Giatô thì giết, và các ngài đã bị giết vì không chịu bỏ đạo”. Sau đó bạn trẻ đó lại
hỏi tiếp: “Khi bị bắt và giết như thế thì các vị tử đạo và người Công Giáo hiện nay có căm thù những người đã làm hại mình không?”. Tôi trả lời: “Không những không căm thù, mà các thánh tử đạo và ngay cả chúng tôi đã yêu và sẽ yêu họ nhiều hơn. Bởi vì cha ông chúng tôi và cả chúng tôi đã, đang đi theo “Đạo Yêu Nhau”[2];[3].
Bạn trẻ nghe đến đây thì tỏ vẻ ngỡ ngàng.

Đúng vậy, ngỡ ngàng là phải. Đạo gì mà lại là “Đạo Yêu Nhau”. Tại sao các ngài lại được gọi như vậy? Thưa bởi vì các ngài đã noi theo gương Đức Giêsu, Ngài là Chúa và là Thầy của
mình đã sống và chết vì yêu. Tình yêu đó được khởi đi từ Thiên Chúa Cha: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Đức Giêsu xuống trần gian chính là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa, cả cuộc đời và sứ mạng của Ngài đều quy về tình yêu và dạy cho các môn đệ và mọi người bài học về tình yêu: “Đây là Điều Răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12); Ngài nói tiếp: “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ.” (Mc 12,33), bởi vì: “Không có tình yêu nào quý hơn tình yêu của người
hiến mạng vì người mình yêu” (Ga 15,13).

Khi soi chiếu cuộc đời của mình vào trong mầu nhiệm tình yêu của Đức Giêsu, các ngài đã rút ra được một định nghĩa về Đấng mà các ngài yêu mến và tin theo, định nghĩa đó là:
“Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1Ga 4,16). Chính vì thế các thánh tử đạo của chúng ta đã đã sống và minh chứng cho mọi người biết về Thiên Chúa là Tình Yêu qua chính cuộc sống của mình: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.”(Ga 13,35).

Trải qua suốt thời kỳ bách hại đạo, các thánh tử đạo là những người đã dám chấp nhận cái chết vì tình yêu và niềm tin để minh chứng Đạo mà các ngài theo là Đạo thật, là Đạo yêu
thương. Quả thật, cây đức tin đã được các ngài vun xới và phát triển. Tuy nhiên, cây đức tin đó được lớn lên ngay trong thử thách và đau thương: hơn 300 Hội Thánh Chúa tại Việt Nam đã chia sẻ nỗi thăng trầm của quê hương, thì cũng là hơn 300 năm Hội Thánh được lớn lên trong hồng ân của Thiên Chúa[4].

Ngoài việc làm chứng bằng cả mạng sống, các ngài còn nhân chứng về chính nội dung Tin Mừng và tìm mọi cách để loan báo Tin Mừng ấy với vua quan thời bấy giờ. Vậy nội dung Tin
Mừng mà các ngài làm chứng là gì?

Các ngài là những người luôn trung thành với Chúa, sẵn sàng đón nhận cái chết để minh chứng niềm tin của mình vào đạo thật:Tôi biết tôi đã tin vào ai”
(2Tm1,12)
. Vì thế, các ngài luôn tin tưởng, phó thác trong tay Chúa: “Mọi âu lo hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em” (1 Pr 5:7). “Người ban cho mọi loài sự sống, hơi thở và mọi sự” (Cv 17,25). “Chính nơi Người mà chúng ta sống, cử động và hiện hữu” (Cv 17,28); “Vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và qui hướng
về Người. (Rm 11,36:) và các ngài xác tín thật mạnh mẽ: “Chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8:37). Hay: “Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8:39). Chính vì vậy mà càng bị đòn vọt nhiều bao nhiêu thì các ngài lại vui mừng bấy nhiêu. Những trận đòn chí tử không làm các ngài nản chí, sờn lòng, mà trái lại các chứng nhân của chúng ta còn lấy thế làm hạnh
phúc, vì được  hiệp thông với Đức Kitô chịu đóng đinh[5]. Các ngài luôn nhớ Lời Chúa phán: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế. (Mt 5, 10-12). Và đây là thước đo sự trung thành của người môn đệ: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính
mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9:23); và như trở thành quy luật: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình
vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy
” (Lc 9:24); cuối cùng: “Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần” (Lc 9:26). Như vậy các ngài đã chấp nhận tinh luyện cuộc đời của mình như thử vàng trong lò lửa, khi chấp nhận tinh luyện như thế, các ngài được đón nhận như của lễ toàn thiêu. Quả thật, khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm, các ngài đã rực sáng như những vì sao trên vòm trời và như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy” (x. Kn 3:6-7). Và các ngài thật xứng đáng lãnh nhận phần thưởng Nước Trời, vì
đã sống trung thành với Chúa đến cùng. Cái chết của các ngài đã không đi vào quên lãng, bởi vì: Linh hồn các ngài ở trong tay Chúa, đau khổ sự chết không làm gì được các ngài. Trước mặt người đời và những người không hiểu biết thì hình như các ngài đã chết và đi vào cõi tiêu diệt. Không phải vậy, các ngài đang sống trong bình an. Vì Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa,  và chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu (x. Kn 3,1-9).

Các ngài cũng là những người yêu nước; kính trọng vua quan:

Có thể nói, các thánh tử đạo là những người rất mực yêu nước như bao người yêu nước khác và kính trọng vua quan hết lòng. Là thần dân trong nước, các tín hữu sẵn sàng thi hành
nghĩa vụ công dân, từ thuế khóa cho đến gia nhập quân ngũ, điều này đã được chứng
minh qua cuộc sát hạch thân thế và tôn giáo của các binh lính tại tỉnh Nam Định, năm 1838, nguyên tại tỉnh Nam Định, quan tổng đốc Trịnh Quang Khanh đã tụ tập được 500 binh sĩ Công giáo, để rồi bắt đạp lên Thánh Giá[6].

Cũng vậy, chốn quan trường, theo chiếu chỉ tháng 9-1855 ra lệnh sàng lọc các quan Công Giáo, cấm đạo đồ đi thi hay nhận chức vụ trong làng trong tổng[7], thế mà sáu năm sau (1861), trong một đợt thanh trừng, triều đình còn bắt được 32 viên quan[8] và đã cấm bỏ đạo, nhưng phần đông các ngài đã khước từ. Khi khước từ bỏ đạo như vậy,  các ngài đã bị tra
hỏi, bị đòn vọt đau đớn, nhưng các ngài vẫn rất ôn tồn nhã nhặn, thưa gửi đàng hoàng. Bởi lẽ, các ngài được Thánh Thần Thiên Chúa dạy cho biết phải nói thế nào. Vì có Chúa ở cùng, nên các ngài không hề sợ hãi, ngược lại, thái độ ôn tồn và kiên trì là đặc trưng chung của các thánh tử đạo Việt Nam. Điển hình như linh mục Nguyễn Văn Tự đối đáp với quan tòa: “Tôi kính  Thiên Chúa như Thượng Phụ, kính vua như trung phụ, và kính song thân như hạ
phụ. Không thể nghe cha ruột để hại vua, tôi cũng không thể vì vua mà phạm đến Thượng Phụ là Thiên Chúa được “[9]. Giám mục Alonso Phê trong thư chung năm 1798 xác định khí giới đánh giặc bách hại “chẳng phải là súng ống gươm giáo đâu, mà là đức tin, lời cầu
nguyện và đức bác ái”[10]. Giám mục Hemosilla Liêm nhắc nhở các tín hữu phải tuân giữ luật nhà phép nước, còn nếu bị vu cáo tội chính trị thì cứ an tâm, vì Đức Giêsu xưa từng bị
dân Do Thái lấy cớ chính trị để giết (x. Ga 19,12). Ngài nói tiếp : “….Phô con đừng hòa tập vuối giặc, đừng nghe chúng nói dối dá đấng ấy đấng khác sai chúng nó, vì cái ấy là không hẳn”[11]. Làm được điều đó là vì các ngài luôn xác tín rằng mọi sự đều không nằm ngoài
thánh ý Chúa. Vì thế, những người làm khổ mình là những tác nhân trong chương
trình quan phòng của Chúa. Nên thái độ của các ngài là: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.”(Lc 23,34).  Tuy nhiên, lòng kính trọng phải được xây dựng trên nền tảng sự thật, tức là nếu sự kính trọng mà trái với lương tâm, đức tin và chân lý của mình thì các ngài cũng khẳng khái khước từ cách dứt khoát: khi vua Minh Mạng có ý định ban đặc ân làm quan cho các vị thừa sai, linh mục Gagelin Kính đại diện anh em từ chối đặc
ân đó, ngài nói: “Tuy nhiên, những việc đó nào có thể dung hòa với nhiệm vụ linh mục của tôi”[12]. Hay như binh sĩ Trần Văn Trung, sẵn sàng đi lính để đáp lại lệnh truyền của vua, nhưng phải bỏ đạo trước khi đi lính thì đã không chấp nhận, ngài nói: “Tôi là Kitô hữu tôi sẵn sàng đi đánh kẻ thù của đất nước, nhưng bỏ đạo thì không bao giờ” [13].

Ngoài việc kính trọng vua quan và thể hiện lòng yêu nước thì các ngài còn là những người luôn sống nhân ái, yêu thương hết mọi người:

Có lẽ điều nổi bật nhất nơi các vị tử đạo của chúng ta là tình bác ái, các ngài luôn yêu thương hết thảy mọi người, bất luận họ là ai, làm gì. Điều này đã được các vị tử đạo của chúng ta thể hiện rất xuất sắc. Điển hình như y sĩ Phan Đắc Hòa, ông luôn giúp đỡ
người khác qua việc bốc thuốc cứu người, đồng thời ông luôn khuyên họ trung thành
mà giữ đạo để được sống đời đời. Còn ông Trùm Đích thì khi có điều kiện là ông tới thăm trại cùi và sẵn sàng nuôi người mắc bệnh dịch tại nhà mình. Linh mục Emmanuel Triệu sẵn sàng nhường tiền bữa ăn ân huệ trước giờ xử tử để đổi lấy tiền mà cho người nghèo. Biết giáo dân sẽ tổ chức an táng cho mình linh đình thì Linh mục Phan Văn Minh đã kịp can ngăn và gợi ý lấy tiền đó giúp cho người nghèo. Với ông Cai Tả, thì yêu thương để xin ơn
tha tội, nên ông sẵn sàng cho vay mà không cần trả lại. Ông Năm Thuông thì quả quyết: “Tôi chưa thấy ai hay giúp người nghèo khó lại túng bấn bao giờ. Kinh Thánh chẳng dạy chúng ta phải coi họ như chi thể của Chúa đó sao? Chúa đã cho chúng ta sống, tất sẽ quan phòng cho ta đủ dùng”. Với quan Hồ Đình Hy thì: “Đừng làm việc thiện cách máy móc qua lần chiếu lệ, mà phải làm với thiện ý [14].

Còn về lòng bao dung, các ngài sẵn sàng tha thứ cho kẻ thù của mình. Điều này đã được chứng tỏ qua thái độ của các thừa sai. Thừa sai Gagelin Kính gửi thư cho bạn bè : “Tôi sẵn lòng tha thứ cho những kẻ áp bức tôi”. Chuyện linh mục Théophane Vénard Ven, khi viên quan nói : “Tôi phải theo lệnh vua, đừng giận tôi nhé”, ngài đáp : “Tôi chẳng ghét gì ai cả, tôi sẽ cầu nguyện nhiều cho quan”. Cụ Hoàng Lương Cảnh làm cho quan quân phá lên cười, vì khi cụ cầu nguyện: “Cầu Chúa Giêsu, xin cho các quan trị nước cho yên càng ngày càng thịnh”. Ông Lê Văn Phụng tại pháp trường nhắn nhủ con trai mình : “Con ơi, hãy tha thứ, đừng tìm báo thù kẻ tố giác ba nhé”. Và dặn dò thân hữu: “Hãy tha thứ các bạn ơi. Hãy tha thứ, vì chính tôi đã thứ tha”[15].

Thật vậy, các ngài luôn yêu thương, tha thứ cho hết mọi người. Luôn coi sự sống của người khác như là của mình, và hạnh phúc của con người là vinh quang của Thiên Chúa.

Khi lược lại một số hành vi mà các thánh tử đạo của chúng ta đã thể hiện trong việc tuyên xưng đức tin vào Chúa; lòng kính trọng vua quan và luôn tỏ ra yêu thương, bao dung với
hết mọi người. Ai trong chúng ta cũng hết lòng cảm phục trước thái độ bao dung và kiên cường của các ngài. Tuy nhiên, điều làm cho chúng ta đáng lưu tâm hơn cả, đó là học được bài học gì qua những gương sáng của các ngài.

Luôn biết chọn Chúa làm điểm tựa của cuộc đời, là niềm hy vọng và ơn cứu độ, là gia nghiệp của ta. Luôn biết đón nhận đau khổ như là ân huệ Chúa ban. Đồng thời phải can đảm làm chứng cho sự thật, cho tình yêu trong khi thi hành bác ái. Sẵn sàng chấp nhận thân phận của hạt lúa gieo vào lòng đất, thối đi để trổ sinh hoa trái dồi dào.

Thứ đến: luôn yêu thương hết mọi người, vợ chồng chung thủy với nhau, con cái biết nghe lời cha mẹ trong những điều ngay lẽ phải. Luôn sống chan hòa yêu thương với dân làng, giáo xứ, công sở, trường học…Như thế là chúng ta đã trở thành muối, thành men và ánh
sáng cho đời. Trung thành với những điều đó phải chăng cũng là cuộc tử đạo liên lỉ thời nay.

Tắt một lời, các thánh tử đạo là những người luôn trung thành với Chúa, sẵn sàng chết để bảo vệ đức tin. Các ngài cũng là những người có tấm lòng bao dung với hết mọi người, nhất
là với những người nghèo khổ, yếu đau và cả với những người bách hại mình nữa.
Như thế, các ngài đã sống đúng như lời Chúa dạy về giới luật yêu thương. Thế nên, người ta gọi các ngài là những người sống “Đạo Yêu Nhau” thì quả là đúng không sai.

Ước gì khi mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta làm mới lại tinh thần
của các ngài trong cuộc sống thường ngày nơi các mối tương quan của chúng ta.
Tinh thần đó chính thánh Anrê Phú Yên đã khẳng định: “Tình yêu không thể chết”

Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn trung thành với Chúa, biết sẵn sàng làm chứng cho Chúa trong mọi cảnh huống của cuộc đời. Xin cho chúng con một tấm lòng quảng đại và bao dung, để yêu thương và sẵn lòng tha thứ cho hết mọi người, kể cả những người bách hại chúng con. Amen.


[1] Vì là người ngoài Công Giáo, nên bạn trẻ đó dùng chữ “thờ” để nói về hành vi tôn kính của người Công Giáo đối với các thánh tử đạo Việt Nam. Người Công Giáo “thờ” là thờ Chúa, còn tất cả các thánh là tôn kính.

[2] Lm. Đỗ Quang Chính, Tản Mạn Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, nxb Tôn Giáo, 2008, tr. 61.

[3] Bức thư của linh mục thừa sai Gaspar d’Amaral viết ngày 31/12/1632, trong đó cho biết “lương dân gọi bổn đạo là những người theo đạo yêu nhau”.

[4] Xc. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (biên soạn cho giáo dân Việt Nam), không rõ tác giả, 1997, tr. 153.

[5] Xc.  Mai Tuyến, OP. Tử Đạo Hôm Nay, truy cập ngày 12-11-2012; http://tinmung.net/ TimHieu/Tu-dao-hom-nay.htm

[6] Gispert, Historia de las Misiones Dominicas en Tunkin, Avila 1928, tr. 428.

[7] Louvet, La Cochinchine Religieuse II, tr.204-207.

[8] Ibid. 267.

[9] Xc. Đào Trung Hiệu, OP. Cuộc Lữ Hành Đức Tin, quyển II, tr. 207.

[10] Thư chung các đấng Vicario, Kẻ sặt 1903, tr.63-68.

[11] Thư chung các đấng Vicario II, tr.53-54.

[12] Xc. Đào Trung Hiệu, OP. Cuộc Lữ Hành Đức Tin, quyển II, tr. 208.

[13] Thư chung các đấng Vicario II, tr.53-54.

[14] Xc. Đào Trung Hiệu, OP. Cuộc Lữ Hành Đức Tin, quyển II, tr. 211.

[15] Ibid. tr. 231.

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Con Hạc Trắng

Con Hạc Trắng
Bạn có bao giờ ngắm kỹ một con hạc trắng chưa? Nó trông thật mảnh mai; chân dài, người mỏng, trong một bộ lông trắng muốt. Trông nó thanh cao như một người luống tuổi mà vẫn giữ được phong cách ung dung… Con hạc được coi là một con vật sống lâu cho nên người
ta gọi tuổi của các cụ là tuổi hạc.
Tết năm nào gia đình tôi cũng lên Đà Lạt nghỉ ngơi tại nhà 1 người anh bà con. Ðằng sau nhà anh tôi có một con đường mòn dẫn tới một công viên. Con đường mòn vào cuối Xuân chớm Hạ thật là đẹp, suối róc rách chảy, cây cỏ xanh mướt, những bông hoa núi nở trắng
xoá. Chúng tôi mỗi buổi sáng dắt theo con chó đi bộ, vừa đi vừa trò chuyện. Tôi bất giác hỏi:

Sao con người không giống cây cỏ, vào mùa Đông héo, úa, rụng, đến Xuân, Hạ lại
hồi sinh nhỉ?
Anh tôi cười, nói:
– Cứ giữ mãi được Xuân, Hạ trong lòng mình là tốt rồi.
Chúng ta những người ở lứa tuổi đang bước vào tuổi già hay đã già. Tinh thần và thể xác không còn như hai mươi năm, mười năm về trước hay thậm chí như mới năm ngoái nữa.
Thông thường, bất cứ người mang quốc tịch nào, sinh sống ở phần đất hay hoàn cảnh nào thì khi về già hay ngồi gậm nhấm lại quá khứ. Ở tuổi già, không có phương tiện di chuyển, bị
trở ngại trong giao tiếp đã làm một số người sống một cuộc sống tẻ nhạt, từ tẻ nhạt đưa tới trầm cảm, khép kín.
Từ đó sinh ra bao nhiêu bệnh, và khi có bệnh, sự chạy chữa xem chừng không có hiệu quả lắm cho những người này.
Bác Sĩ Ornish, tác giả cuốn sách Love &Survival, nói rõ: Tách lìa tình thân gia đình và bạn
bè là đầu mối cho mọi thứ bệnh từ ung thư, bệnh tim đến ung nhọt và nhiễm độc.

Tình thương và tinh thần lạc quan là gốc rễ làm cho chúng ta bệnh hay khoẻ.
Ba mươi năm trước mà nghe ai nói cô đơn sinh ra các chứng bệnh thì người ta sẽ chỉ cười nhẹ.. Nhưng bây giờ điều này đã được nhiều bác sĩ công nhận là đúng.
Những buổi tĩnh tâm chung, có cầu nguyện, có tịnh niệm (tùy theo tôn giáo của mỗi người) chia sẻ những buồn vui, lo lắng của mình cùng người khác cũng giúp khai thông được những tắc nghẽn của tim mạch như là ăn những thức ăn rau, đậu lành mạnh vậy.
Nếu không nói ra được những gì dồn nén bên trong thì chính là tự mình làm khổ mình. Khi nói ra, hay viết ra được những khổ tâm của mình thì hệ thống đề kháng được tăng cường, ít phải uống thuốc.
Theo Bác Sĩ Ornish, khi bị căng thẳng cơ thể sẽ tiết ra một hoá chất làm cho mọi sinh hoạt ứ đọng, ăn không ngon, đầu không suy nghĩ, mạch máu trì trệ,mất sức đề kháng, dễ cảm cúm.
Như vậy sự cô đơn cũng là chất độc như cholesterol trong những thức ăn dầu mỡ, mà chỉ có sống lạc quan mới cứu rỗi được.
Nếubạn không mở tâm ra cho người khác thì bác sĩ bắt buộc phải mở tim bạn ra
thôi!!!
Tuổi như thế nào thì gọi là già, chúng ta biết khi một người qua đời ở tuổi 60 thì được gọi là
‘hưởng thọ’. Vậy sau tuổi 60 mỗi ngày ta sống là một “bonus”, phần thưởng của Trời cho.
Chúng ta nên sống thế nào với những ngày ‘phần thưởng’ này. Lấy thí dụ một người lớn tuổi, sống cô đơn, biệt lập, không đi ra ngoài, không giao thiệp với bạn hữu, thế nào cũng đi
đến chỗ tự than thân trách phận, bất an, lo âu, ủ dột và tuyệt vọng. Từ đó bắt nguồn của bao nhiêu căn bệnh.
Trong những lời Phật dạy có câu:

Sai lầm lớn nhất của đời người là đánh mất mình.


Phá sản lớn nhất của đời người là tuyệt vọng…

Chắc trong chúng ta không ai muốn rơi vào hoàn cảnh này. Gặp gỡ bè bạn thường xuyên trong những sinh hoạt thể thao là điều tốt lành nhất cho thể lý.
Ði tập thể thao như nhẩy nhẹ theo nhạc, tắm hơi, bơi lội, tennis v.v… đã giúp cho người lớn tuổi giữ được thăng bằng, ít ngã, và nếu có bệnh, uống thuốc sẽ công hiệu hơn, mau
lành hơn.
Gặp bạn, nói được ra những điều phiền muộn cho nhau nghe, ngồi tĩnh tâm, đến nhà thờ, chùa cầu nguyện giúp được làm chậm lại sự phát triển của bệnh.
Bác Sĩ Jeff Levin, giáo sư đại học North Carolina, khám phá ra từ hàng trăm bệnh nhân, nếu người nào thường xuyên đến nhà nguyện họ có áp suất máu thấp hơn những người không đến nhà nguyện, ông bỏ ra hằng đêm và nhiều cuối tuần để theo dõi, tìm hiểu
những kết quả cụ thể của ” Tín Ngưỡng và Sức Khoẻ “!
Cuốn sách ông phát hành gần đây nhất có tên là God, Faith and Health. Trong đó, ông cho biết những người có tín ngưỡng khoẻ mạnh hơn, lành bệnh chóng hơn, ít bị nhồi máu cơ tim, gặp sự thăng trầm trong đời sống họ biết cách đối diện, họ luôn luôn lạc quan.

Lạc quan là một cẩm nang mà chúng ta nên luôn luôn mang theo bên mình. Ðừng bao giờ nói, hay nghĩ là ” Tôi già rồi, tôi không giúp ích được cho ai nữa ”  hoặc  ” Tôi vụng về, ít học, chẳng làm gì được ” .
Tôi xin kể câu chuyện Hai con ngựa của thầy phó tế George A.Haloulakos.
“Cạnh nhà tôi có một cánh đồng cỏ, hàng ngày có một cặp ngựa, con nọ lớn hơn con kia một chút thong thả ăn cỏ ở đấy. Nhìn từ xa chúng là đôi ngựa bình thường giống những con
ngựa khác. Tuy nhiên, nếu bạn đến gần, bạn sẽ khám phá ra là có một con mù.
Trên đường trở về chuồng mỗi chiều, con ngựa nhỏ chốc chốc lại ngoái cổ lại nhìn bạn, muốn biết chắc bạn mù của nó vẫn đi theo tiếng chuông của nó để lại đằng sau..
Chủ nhân của nó chắc thương nó không nỡ bỏ đi, mà còn cho nó một chỗ ở an toàn. Chính điều này đã thành một câu chuyện tuyệt vời.
Ðứng bên chúng, bạn chợt nghe có tiếng chuông rung, phát ra từ cái đai nhỏ vòng quanh cổ con ngựa nhỏ hơn, chắc là một con cái. Tiếng chuông báo cho con bạn mù của nó, biết là
nó đang ở đâu mà bước theo. Quan sát kỹ một chút bạn sẽ thấy cái cách con ngựa sáng chăm sóc con ngựa mù, bạn nó, chu đáo như thế nào. Con ngựa mù lắng nghe tiếng leng keng mà theo bạn, nó bước chậm rãi và tin rằng bạn nó không để nó bị lạc.
Cũng giống như chủ nhân của đôi ngựa có lòng nhân từ, Thượng Ðế không bao giờ vứt bỏ bạn vì bạn kiếm khuyết, hoạn nạn hay gặp khó khăn. Người luôn luôn đem đến cho chúng ta những người bạn khi chúng ta cần được giúp đỡ. Ðôi khi chúng ta là con ngựa mù,
được dẫn dắt bởi tiếng chuông mầu nhiệm mà Thượng Ðế đã nhờ ai đó rung lên cho
chúng ta. Những khi khác chúng ta là con ngựa dẫn đường, giúp kẻ khác nhìn thấy.

Bạn hiền là như vậy. Không phải lúc nào ta cũng nhìn thấy họ, nhưng họ thì luôn hiện diện đâu đó. Hãy lắng nghe tiếng chuông của nhau.

Hãy tử tế hết sức mình, bởi vì có một người mà bạn gặp trên đời, biết đâu cũng đang ở trong một hoàn cảnh khó khăn nào đó họ phải phấn đấu để vượt qua. Không gì hơn là tuổi già nương dựa vào nhau trong tình bạn. Luôn luôn nghĩ bao giờ mình cũng có cái cho đi mà người khác dùng được.

Tính hài hước, làm cho người khác cười cùng với mình cũng là những liều thuốc bổ.
Thi Sĩ Maya Angelou vào sinh nhật thứ 77, trong chương trình phỏng vấn của Oprah, hỏi về sự thay đổi vóc dáng của tuổi già, bà nói:
” Vô số chuyện xảy tới từng ngày… Cứ nhìn vào bộ ngực của tôi xem. Có vẻ như hai chị em nó đang tranh đua xem đứa nào chạy xuống eo trước ” . Khán giả nghe bà, cười chẩy cả nước mắt.
Những vấn đề chính ảnh hưởng đến sức khỏe của bạn (qua tinh thần) là:
+Sự cảm thông giữa cha mẹ và con cái, giữa ông bà với các cháu.

+Tinh thần chấp nhận và lạc quan.

+Nghĩ đến những điều vui nhỏ mỗi ngày.

+Tham gia những sinh hoạt nào phù hợp với sức khỏe.

+Làm việc thiện nguyện.
Sinh, bệnh, lão, tử. Con đường đó ai cũng phải đi qua. Nhưng đi như thế nào thì hầu như 80% chính mình là người lựa chọn.

+Nhóm bạn: Ðọc sách, kể chuyện, đánh cờ, chơi bài (không phải ăn thua).

+Tham gia các lớp thể dục: Như Yoga, ngồi thiền, khí công v.v…Và ngay
cả chỉ đi bộ với nhau 30 phút mỗi ngày cũng giúp cho tinh thần sảng
khoái, sức khoẻ tốt hơn là ở nhà nằm quay mặt vào tường.
Hãy thỉnh thoảng đọc lên thành tiếng câu ngạn ngữ này: ‘Một nét mặt vui vẻ mang hạnh phúc đến cho trái tim và một tin vui mang sức khoẻ cho xương cốt’.
nguồn: Anh chị Thụ & Mai cùng Nguyễn Công Quí gởi

XIN CHÚA LẤY LÒNG NHÂN HẬU THƯƠNG XÓT CON!

XIN CHÚA LẤY LÒNG NHÂN HẬU THƯƠNG XÓT CON!
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
Chúa Nhật 20-2-1955, Linh Mục Alfonso Matt (+1978) Cha Sở giáo xứ Sonntag (nước Áo) gởi cho Đức Cha Franz Tschann (+1955), Giám Mục Phụ Tá giáo phận Feldkirch, bản tường trình về sự kiện bà Maria Simma nhận sứ vụ giúp đỡ các Đẳng Linh Hồn trong Lửa Luyện Ngục. Bà Maria Simma là bổn đạo thuộc giáo xứ Sonntag. Xin trích phần Cha Sở trình bày thị kiến về Luyện Ngục qua các chứng từ của bà Maria Simma.
Luyện Ngục ở nhiều nơi chốn khác nhau. Các Linh Hồn không bao giờ hiện về ngoài Luyện Ngục nhưng với Luyện Ngục. Các hình thái của Luyện Ngục cũng không giống nhau. Lúc thấy như thế này khi lại thấy cách khác.
Trong Luyện Ngục có vô số các Linh Hồn đi về không ngừng. Một ngày bà trông thấy
rất nhiều Linh Hồn bà hoàn toàn không hề quen biết. Linh Hồn nào phạm tội chống
lại Đức Tin thì mang trên trái tim một ngọn lửa tối mờ. Linh Hồn nào phạm tội chống lại đức trong sạch thì mang trên trái tim một ngọn lửa đỏ rực. Rồi bà trông thấy các Linh Hồn theo từng nhóm: Linh Mục, nam tu sĩ, nữ tu. Bà cũng trông thấy các Linh Hồn công giáo, tin lành và ngoại giáo. Các Linh Hồn công giáo chịu đau khổ nhiều hơn các Linh Hồn tin lành. Còn các Linh Hồn ngoại giáo thì chịu một luyện ngục nhẹ hơn. Nhưng vì họ nhận rất ít các trợ giúp nên luyện ngục của họ kéo dài đăng đẳng. Phần đông các tín hữu Công Giáo nhận nhiều trợ  giúp hơn nên họ được giải thoát nhanh hơn. Bà cũng trông thấy rất nhiều tu sĩ nam nữ bị phạt trong Lửa Luyện Hình vì khi còn sống đã thờ ơ nguội lạnh đối với
Đức Tin và đã lỗi đức bác ái. Các trẻ em mới 6 tuổi cũng bị phạt chịu đau khổ đôi khi kéo dài khá lâu trong Lửa Luyện Hình.
Bà Maria Simma được mạc khải cho biết có mối hòa điệu giữa tình yêu và phép công thẳng của THIÊN CHÚA. Mỗi Linh Hồn bị phạt tùy theo tội trạng đã phạm cũng như tùy theo mức độ gắn bó với tội lỗi.
Mức độ chịu đau khổ cũng nặng nhẹ không giống nhau cho từng Linh Hồn. Vài Linh
Hồn phải chịu đau khổ như trên trần gian khi họ có đời sống cứng cỏi và phải đợi lâu năm mới được chiêm ngưỡng thánh nhan THIÊN CHÚA. Một ngày nơi luyện ngục nặng thì kinh khủng bằng 10 năm nơi luyện ngục nhẹ. Thời gian các hình khổ phải chịu trong Lửa Luyện Ngục cũng rất khác nhau.
Cũng có những Linh Hồn phải chịu đau khổ dữ dằn mãi cho đến Ngày Phán Xét Chung
là ngày tận thế. Cũng có những Linh Hồn chỉ chịu đau khổ khoảng nửa giờ, hay đôi khi còn ít hơn nữa: có thể nói rằng, các Linh Hồn này chỉ bay ngang qua Lửa Luyện Tội mà thôi!
Các Linh Hồn trong Lửa Luyện Hình chịu đau khổ với lòng nhẫn nhục cách đáng khâm phục và các Đẳng Linh Hồn ca tụng Lòng Nhân Lành của THIÊN CHÚA, bởi vì, có nhiều Linh Hồn suýt bị rơi vào hỏa ngục nếu họ không được Lòng Nhân Lành THIÊN CHÚA cứu thoát. Các Đẳng Linh Hồn biết rõ mình đáng chịu các hình phạt để đền bù các tội lỗi đã phạm. Các Linh Hồn cũng khẩn nài sự trợ giúp của Đức Trinh Nữ Rất Thánh MARIA, Hiền Mẫu của Lòng Từ Bi thương xót.
Bà Maria Simma trông thấy nhiều Linh Hồn chờ đợi sự cứu giúp của Đức MARIA Mẹ
THIÊN CHÚA.
Người nào khi còn sống ít lưu tâm đến sự hiện hữu của Luyện Ngục và lợi dụng cuộc
đời để phạm tội thì phải đền bù cách nghiêm thẳng trong Lửa Luyện Hình.
… ”Lạy THIÊN CHÚA, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài. Như vậy, Ngài thật công bình khi tuyên án, liêm chính khi xét xử. Ngài thấy cho: lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai. Nhưng Ngài yêu thích tâm hồn chân thật, dạy con thấu triệt lẽ khôn ngoan. Xin dùng cành hương thảo rảy nước thanh tẩy con, con sẽ được tinh tuyền; xin rửa con cho sạch, con sẽ trắng hơn tuyết. Xin cho con được nghe tiếng reo mừng hoan hỷ, để xương cốt bị Ngài nghiền nát được nhảy múa tưng bừng. Xin ngoảnh mặt đừng nhìn bao tội lỗi và xóa bỏ hết mọi lỗi lầm. Lạy THIÊN CHÚA, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thủy. Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài. Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ, và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con” (Thánh Vịnh 51(50) 3-14).

(”Le anime del Purgatorio mi hanno detto”, Maria Simma, Edizioni
Villadiseriane, Ottava edizione, trang 38-40)
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Khúc ca tri ân

Khúc ca tri ân

Toc ngan k1

 

WGPSG — “Bộ phim Occurrence at Owl Creek Bridge (biến cố xảy ra ở cầu Owl Creek) kể lại chuyện một người đàn ông sắp bị treo cổ.

Bọn lính phía đối địch của anh dẫn anh ra một chiếc cầu bắc ngang qua sông Owl Creek. Chúng lấy một tấm ván đặt một phân nửa lên cầu còn phân nửa kia để lòi ra khỏi thành cầu. Đoạn một tên lính đứng lên nửa tấm ván trên thành cầu, còn người tử tội bị dẫn ra đứng trên nửa tấm để lòi ra khỏi thành cầu. Kế đó, người ta cột chặt tay chân người tử tội, đoạn
thòng một sợi dây từ đỉnh cầu xuống quấn vào cổ anh ta. Khi mọi sự đã sẵn sàng, viên chỉ huy ra hiệu lệnh thì người lính nhảy ra khỏi tấm ván, lập tức người tử tội bị hất xuống phía dưới với sợi dây siết vào cổ anh.

Ngay bấy giờ một điều kỳ lạ đã xảy ra. Sợi dây bị đứt và người tử tội rơi tõm xuống lòng sông. Anh ta chìm sâu dưới nước. Lúc bấy giờ anh ta ý thức được mình vẫn còn sống và anh
cố gắng tháo gỡ dây trói nơi tay và chân ra. Thật kỳ diệu thay, anh đã tự cởi trói cho chính mình được. Thế rồi khi nhận ra mình có cơ may sống sót, anh ta bắt đầu lặn sâu xuống.

Sau đó, anh bơi ngang qua một cành cây đang bềnh bồng trên mặt nước. Anh xúc động vì vẻ đẹp của những tàu lá cây. Anh sững sờ vì những đường gân phức tạp nơi tàu lá. Một lúc sau, anh nhìn thấy một chú nhện đang giăng lưới. Anh lại xúc động trước vẻ đẹp của màng nhện và những giọt nước bám vào đó lấp lánh không khác gì những hạt kim cương. Anh cảm thấy mình sũng nước, anh liền ngước lên nhìn vào bầu trời xanh biếc, đối với anh, chưa bao giờ thế giới lại xinh đẹp thế!

Bỗng nhiên đám lính đứng trên cầu bắt đầu nhả đạn xuống. Anh liền cố gắng lướt tới dưới làn mưa đạn, bơi nhanh nhẹn như một chú rắn nước băng qua nhiều ghềnh thác. Cuối cùng, anh cũng bơi được vào bờ và hoàn toàn kiệt sức. Anh ngã xuống cát, lăn qua lăn lại. Khi ngước nhìn lên anh trông thấy một bông hoa. Anh liền bò tới đưa mũi ngửi và thầm nhủ: “Ôi! Mọi sự sao mà đẹp thế! Được sống sót quả là một điều vĩ đại biết bao!” Nhưng ngay sau
đó có tiếng đạn rít qua các tàn cây; anh vội đứng lên và bắt đầu co giò chạy tiếp.

Anh chạy hoài chạy mãi tới khi đến được một căn nhà có hàng rào trắng bao quanh. Những cánh cổng bỗng mở ra một cách kỳ diệu. Anh không thể nào tin vào mắt mình: thế là anh đã về được đến nhà bình an. Anh gọi tên vợ anh và nàng vội chạy thật nhanh ra cổng giang tay chào đón anh.

Ngay khi họ vừa ôm nhau, máy quay phim mang khán giả trở lại chiếc cầu Owl Creek. Bây giờ, khán giả lại không thể tin được vào mắt mình khi nhìn thấy xác của anh tử tội bị treo thòng xuống đang đong đưa qua lại với sợi dây siết quanh cổ. Thì ra anh đã chết rồi!”

Khán giả xem phim cảm thấy bị sốc khi thấy cái kết bi thương của người tù. Nhưng với nhãn quan của một Kitô hữu, chính những chi tiết: bầu trời xanh biếc, giọt nước lấp lánh như kim cương, một bông hoa thơm… nhắc chúng ta hãy biết tận hưởng vũ trụ xinh đẹp Chúa dành cho chúng ta mà dâng lên lời cảm tạ Đấng Sáng Tạo khi đang còn sống, chứ đợi đến giờ chết
thì sẽ không còn kịp nữa.

Mười người cùi trong Tin Mừng thánh Luca còn bi thảm hơn, với căn bệnh đang mang, họ sống mà như đã chết. Điều kỳ diệu đã đến khi họ được gặp gỡ Chúa Giêsu, họ được lành sạch hoàn toàn. Nhưng chỉ có một người Samari mới thật sự cảm nhận được hồng ân
này: Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa (Lc 17,15).

Lạy Chúa Giêsu mến yêu, khi chúng con không biết tạ ơn Chúa và sống trọn vẹn từng giây phút của đời sống, chúng con không khác gì bệnh nhân phong, vì mất cảm giác nên không biết được bao thứ xấu đang rúc rỉa thân mình. Xin Chúa giúp chúng con được lành sạch và biết hát khúc ca tri ân khi bình minh đến cũng như lúc chiều tà. Amen.

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

 

Cần Có Một Tấm Lòng

Cần Có Một Tấm Lòng

Trong những ngày qua, trên các trang mạng nói nhiều về cuốn phim tài liệu có tựa đề
là “Đừng Khóc Thương Tôi, Sudan”. Thật sự, khi xem cuốn phim này, người xem phải rơi lệ khi nhìn thấy hình ảnh vị linh mục Gioan Lee Tae Suk và số phận của những con người nghèo đói và bất hạnh tại làng Tonj miền Nam Sudan thuộc Châu Phi. Cuốn phim này sẽ tham dự Đại hội điện ảnh lần thứ 61 tại Bá Linh vào năm 2013.

Được sinh ra trong một gia đình nghèo khó, gồm có mười anh chị em, cậu bé Gioan Lee Tae Suk là người con thứ chín. Năm lên chín tuổi thì người bố qua đời, người mẹ vất vả tần tảo bằng nghề may vá để nuôi mười người con. Mặc dù là một đứa trẻ nghèo, nhưng Lee Tae Suk đã cố gắng học và thi đậu vào trường y khoa, và đã trở thành một bác sĩ y khoa. Con đường giàu sang và danh vọng đang mở rộng trước mặt với chàng trai Lee. Nhưng sau những năm phục vụ trong quân đội, chàng trai Lee đã cảm nhận được tiếng gọi của Thiên Chúa và từ bỏ tất cả sự nghiệp để vào dòng tu Salêriêng- Don Bosco.

Sau ngày lễ truyền chức linh mục tại Vatican, cha Gioan Lee Tae Suk đã tình nguyện đến phục vụ tại Sudan. Nhìn thấy trước cảnh nghèo đói và bệnh tật của người dân, cha Gioan Lee đã mở phòng khám bệnh cho người nghèo và thành lập một ngôi làng cho những người mắc bệnh phong, để cấp thuốc và chữa trị cho người phong cùi và xây dựng một ngôi trường học đầu tiên từ cấp mẫu giáo đến cấp trung học. Đối với người dân nơi đây, cha Gioan Lee như là hiện thân của Chúa Giêsu. Ngài đến với những con người đang bị bỏ rơi, đau khổ và
bất hạnh, và ngài là vị linh mục đầu tiên của Hàn Quốc đến phục vụ tại Phi Châu.

 

Trong cuốn tự truyện: “Các con là những người bạn của cha”. Cha đã dùng âm nhạc để xoa dịu những vết thương chiến tranh trong lòng các em. Khi tâm hồn những đứa trẻ bị tan vỡ do những vết thương chiến tranh tạo ra, qua âm nhạc, các em sẽ tìm được niềm vui và hy vọng trong một đất nước đã bị tàn phá do bởi chiến tranh. Trẻ em không còn cầm súng trên tay mà là những chiếc kèn mang lại những âm thanh của hòa bình, tình yêu và hy vọng.

Vào ngày 14 tháng 01 năm 2010, cha Gioan Lee đã đi về với Chúa, vì bệnh ung thư ruột già ở tuổi 48. Ngài phục vụ trọn vẹn cho những người đau khổ, bệnh tật, phong cùi, và nghèo đói tại Sudan. Cha Gioan đã ra đi trong nụ cười, còn những người ở lại đã đưa tiễn cha trong những giọt nước mắt của đau đớn và tiếc thương. Khi hay tin cha Lee qua đời, những người dân đã đau đớn vô cùng, họ ôm tấm ảnh cha Gioan khóc trong nghi thức tiễn biệt lần cuối tại ngôi Thánh đường. Những dòng nước mắt khóc thương cho một người cha đã yêu
thương và sống chết với họ. Cha Gioan Lee là vị mục tử nhân lành của Chúa Giêsu.

Hoàn cảnh của cha Gioan Lee thì không giống bà góa nghèo trong Tin mừng hôm nay, nhưng có một điểm chung, đó là một tấm lòng. Chúa Giê-su ngồi nhìn dân chúng bỏ tiền vào thùng bố thí trong Đền Thờ. Có rất nhiều người giàu có xếp hàng để bỏ tiền vào. Người giàu có thì bỏ rất nhiều tiền, nhưng chỉ bà góa nghèo bỏ vào thùng với hai đồng tiền. Đức Giê-su liền gọi các môn đệ lại và nói:” Thầy bảo thật anh em: bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng tiền nhiều hơn ai hết. Vì mọi người đều lấy tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ
vào đó; còn bà này đã túng thiếu, lại còn bỏ đó tất cả những gì bà có, tất cả những gì để nuôi thân”. Qua lời giải thích của Chúa Giê-su, các môn đệ và chúng ta đều nhận thấy rõ ý nghĩa của việc bố thí. Tấm lòng quý hơn lễ vật. Trong khi đó, người đời thường đánh giá theo số lượng. Mỗi khi dâng cúng hay làm điều gì thì cần được ghi danh và mọi người biết đến công trạng của mình. Cho nên, Chúa Giê-su nói với đám đông dân chúng rằng: ” Anh em hãy coi
chừng những kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi, thích ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, thích đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn.”.

Vậy, những kinh sư là ai? Có phải là tôi không?. Lời Chúa phản chiếu vào tâm hồn tôi. Mỗi khi tôi làm gì, tôi muốn được người khác biết ơn, muốn được người ta biết mình là người quảng đại có lòng bác ái, từ bi…, và muốn được ghi công trạng với Chúa và trước mặt người đời. Nếu tôi biết hồi tâm và nhìn lại, thì rõ ràng tôi đang bị lệ thuộc vào cách đánh
giá bên hơn là đi vào chiều sâu của nội tâm. Vì Chúa cần tấm lòng của tôi hơn là những gì tôi làm cho chính mình được vinh danh trong ngày hôm nay. Tấm lòng đó được thể hiện trong tình yêu thương nơi tha nhân, những người đang cần được yêu thương và quan tâm giúp đỡ, nơi công việc tôi làm với tấm lòng tạ ơn Thiên Chúa thì việc bố thí mới sinh lợi ích cho tha nhân. Bà góa đã dạy cho tôi cách làm đó, vì bà cho đi với tất cả tấm lòng của bà. Bà chia sẻ những gì bà có. Và cha Gioan Lee nhìn ra chính Chúa Giê-su trong mỗi con người, dù họ có vẻ đáng kinh tởm, xấu xí đến đâu đi nữa thì họ cũng là hình ảnh của Thiên Chúa. Chính tình yêu Thiên Chúa là động lực để ngài hy sinh và phục vụ cho những người
phong  cùi, những người bệnh tật và nghèo khổ.

Khi hiểu và đón nhận Lời Chúa, như là điều kiện cần thiết cho đời này và đời sau,
thì giờ đây chúng ta cần phải làm một việc gì đó cụ thể, để Nước Chúa lớn lên
trong tâm hồn và trong thế giới này. Chúng ta không chỉ đón nhận Thiên Chúa
bằng hình thức bên ngoài, lễ nghi mà còn là bằng một tấm lòng yêu thương chân
thành trong mỗi con người.

Lm. John Nguyễn, Utica, New York

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Tận thế

Tận thế

Tác giả: Trầm Thiên Thu

(Chúa nhật XXXIII TN, năm B)

Thời gian thấm thoát. Mới ngày nào bắt đầu một năm mà nay đã vào cuối năm, cả
về năm đời và năm phụng vụ. Thời gian vào giai đoạn cuối. Thời điểm cuối gợi
nhiều suy tư. Có nhiều cái cuối, đặc biệt nhất là cuối đời và cuối thời – tức
là tận thế, Công giáo gọi là cánh chung.

Tận thế là 2 từ người ta không muốn nghe ai nhắc tới, vì nó khiến người ta e
ngại hoặc không vui. Tuy nhiên, tận thế có thể là niềm mong chờ của người này,
nhưng có thể lại là nỗi sợ của người khác.

Ngôn sứ Đanien nói: “Thời đó, Micaen sẽ đứng lên. Người là vị chỉ huy tối cao,
là đấng vẫn thường che chở dân ngươi. Đó sẽ là thời ngặt nghèo chưa từng thấy,
từ khi có các dân cho đến bây giờ. Thời đó, dân ngươi sẽ thoát nạn, nghĩa là
tất cả những ai được ghi tên trong cuốn sách của Thiên Chúa” (Ðn 12:1a). Đó là
những lời tiên báo về ngày tận thế, đặc biệt ông cho biết đó là “thời ngặt
nghèo nhất”, chắc chắn rất đáng quan ngại, thậm chí là đáng sợ, nhưng lại không
hề đáng sợ đối với những người thuộc về Thiên Chúa, vì họ sẽ được “thoát nạn”.

Ngôn sứ Đanien giải thích: “Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều
người sẽ trỗi dậy”. Những người “an nghỉ trong bụi đất” là những người chết,
vậy mà họ “trỗi dậy”, tức là sống lại. Rõ ràng đó là ngày tận thế, ngày chung
thẩm. Nhưng số phận mỗi người khác nhau:: “Người thì để hưởng phúc trường sinh,
kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời. Các hiền sĩ sẽ chói lọi như bầu
trời rực rỡ, những ai làm cho người người nên công chính, sẽ chiếu sáng muôn
đời như những vì sao” (Ðn 12:1b-2). Cùng một ngày, cùng được sống lại, nhưng có
người sợ hãi và có kẻ vui mừng.

Tác giả Thánh vịnh thân thưa thay những người thuộc về Chúa: “Lạy Chúa, Chúa là
phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con,
chính Ngài nắm giữ” (Tv 16:5). Tất cả đều là của Chúa, nhưng Ngài trao chúng ta
quyền quản lý. Nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài, chúng ta hoàn toàn an tâm:
“Con luôn nhớ có Ngài trước mặt, được Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ. Vì
thế, tâm hồn con mừng rỡ, và lòng dạ hân hoan, thân xác con cũng nghỉ ngơi an
toàn” (Tv 16:8-9).

Tác giả Thánh vịnh xác định nguyên nhân: “Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong
cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ” (Tv 16:10), đồng
thời hoàn toàn khiêm nhường và tín thác vào Chúa: “Chúa sẽ dạy con biết đường
về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc
chẳng hề vơi!” (Tv 16:11). Chắc hẳn chúng ta không đủ ngôn từ để diễn tả niềm
hoan lạc được cận kề bên Chúa!

Thánh Phaolô nói: “Vị tư tế nào cũng phải đứng trong Đền Thờ lo việc phụng tự
mỗi ngày và dâng đi dâng lại cũng ngần ấy thứ lễ tế; mà những lễ tế đó chẳng
bao giờ xoá bỏ được tội lỗi” (Dt 10:11). Tế lễ là bổn phận và trách nhiệm hằng
ngày của các tư tế, không chỉ dâng lễ đền tội cho mình mà còn dâng thay người
khác, nhưng dù dâng bao nhiêu lần vẫn không bao giờ đủ mức để hoàn hảo. Nhưng
có một tư tế chỉ cần dâng một lần cũng đủ, đó là Đức Kitô: “Sau khi dâng lễ tế
duy nhất để đền tội cho nhân loại, Ngài đã lên ngự bên hữu Thiên Chúa đến muôn
đời” (Dt 10:12).

Vì Đức Kitô là Thiên Chúa, là Thượng tế, là Đấng cao cả hơn mọi loài: “Từ khi
đó, Ngài chờ đợi ngày các kẻ thù bị đặt làm bệ dưới chân” (Dt 10:13), và “Ngài
chỉ dâng hiến lễ một lần, mà vĩnh viễn làm cho những kẻ Ngài đã thánh hoá được
nên hoàn hảo” (Dt 10:14). Dù là ai và là gì thì tất cả chúng ta vẫn chỉ là
những tội nhân. Thánh Phaolô vừa giải thích vừa kết luận: “Nơi nào đã có ơn tha
tội thì đâu cần lễ đền tội nữa” (Dt 10:18).

Nói về ngày Con Người quang lâm, Chúa Giêsu cho biết các dấu hiệu: “Trong những
ngày đó, sau cơn gian nan, mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu
sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, và các quyền lực trên trời bị lay chuyển”
(Mc 13:24-25). Đó là giờ G. Đó là lúc “thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền
năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến” (Mc 13:26). Và cũng chính lúc đó,
“Người sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển
chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời” (Mc 13:27).

Thấy những sự việc diễn biến hằng ngày, chúng ta có thể đoán biết điều gì xảy
ra. Ngày tận thế cũng có những dấu chỉ khả dĩ nhận biết, Đức Kitô dùng hình ảnh
thực tế hơn để mọi người đều có thể hiểu: “Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà học
hỏi. Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc, thì anh em biết là mùa hè đã
đến gần. Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Con Người
đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi” (Mc 13:28-29). Cuối cùng, Ngài quả quyết:
“Thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. Trời đất sẽ qua đi,
nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu” (Mc 13:30-31). Tức là rất chắc chắn
xảy ra ngày tận thế, không hề là chuyện đùa hoặc bịa đặt!

Tuy nhiên, hình như loài người vẫn bán tín bán nghi. Bằng chứng là đã từng có
nhiều tin đồn về ngày nọ hay tháng kia là thời điểm tận thế, về chuyện “tối ba
ngày, ba đêm”,… thế nên người ta lo tích lũy nến và mì gói để “đối phó”. Thật là
nhảm nhí và dị đoan, chứng tỏ họ chẳng biết hoặc chẳng tin lời Chúa nói. Chính
Chúa Giêsu đã xác định: “Về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các
thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi” (Mc
13:32).

Vậy sao người ta vẫn bịa ra những tin đồn? Thật tệ hại là vẫn có những người
nhẹ dạ cả tin khi nghe những lời “tiên tri dỏm” ấy. Chúa Giêsu còn chưa biết
thì sao những con người phàm phu tục tử đầy tội lỗi như chúng ta lại biết
trước? Không lo sống tốt mà cứ lo chuyện nhảm trên trời, dưới đất là sao? Quá
vô lý!

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết vững niềm tin vào Lời Chúa và hoàn toàn
tín thác vào Con Chúa để có thể đứng vững cho đến lúc Đức Kitô tái lâm. Chúng
con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con.
Amen.

TRẦM THIÊN THU

God Bless America ?

God Bless America ?

Huỳnh Quốc Bình

Chúa Ban Phước Cho Hoa Kỳ ?

“God Bless America” là lời chúc mà chúng ta thường nghe từ miệng các chính khách người bản xứ, nhất là các vị Tổng Tống Hoa Kỳ sau khi chấm dứt bài diễn văn, hay đọc một thông điệp nào đó để gửi đến dân chúng của mình. Lời chúc lành này cũng không khác chi lời chúc “Chúa ban phước” giữa những người có niềm tin vào Thiên Chúa dành cho nhau. Nói cho cùng những ai sử dụng các câu “God Bless America” hoặc “Chúa ban phước” nó cũng chẳng có ý nghĩa gì, nếu không muốn nói là “sáo ngữ” nếu họ nói vì thói quen, hoặc không nói thì sợ người khác cho rằng mình không “thiêng liêng”.

Chúa ban phước cho Hoa Kỳ ?

Sau cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ hôm ngày 6 tháng 11 năm 2012 vừa qua, một ông bạn
vong niên Việt Nam, gọi điện thoại và chia sẻ với tôi một điều khiến tôi chú ý và quyết định viết bài này. Ông cho biết, một buổi sáng sau ngày bầu cử, ông đi lễ nhà thờ; trong bài giảng luận, vị Linh Mục người Mỹ nói rằng:

“Mọi người hay chúc “God Bless Ammerica” nhưng làm sao Thiên Chúa có thể
ban phước cho một quốc gia có vị Tổng Thống và nhiều người dân ủng hộ cho những vụ giết người trực tiếp hay gián tiếp, làm những điều nghịch lại lời Chúa… Giống như vấn đề phá thai và tán đồng cho vấn đề hôn nhân đồng tính tại Hoà Kỳ…”

Theo tôi, sư nhận xét hay thắc mắc của vị linh mục vừa nêu rất đáng cho những ai nhận mình là Thiên Chúa Giáo (Công Giáo và Tin Lành) xét lại đức tin của mình, nếu người đó từng cầm lá phiếu ủng hộ cho những thành phần có chủ trương và đường lối nghịch lại Thánh Kinh.

Làm lợi cho ma quỷ :

Tôi thấy một số người cũng đến nhà thờ “xem lễ” hay “nhóm” thờ phượng Chúa đều đặn, nhưng lại rất hăng hái vận động người khác bỏ phiếu cho ứng viên Tổng Thống- Obama vì tin rằng ông sẽ làm một cuộc “cách mạng” về kinh tế cho Hoa Kỳ. Khi suy nghĩ như thế, chẳng lẽ họ đã quên lời khuyến cáo của Thánh Kinh rằngcon người không phải chỉ duy nhất cần vật chất, mà còn cần lời của Đức Chúa Trời nữa, hay sao?. (1)

Cần sự thay đổi :

Năm 2008 sau cuộc bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ, tôi có đáp chuyến bay qua miền Đông
Nam Hoa Kỳ. Trên chuyến bay chuyển tiếp từ phi trường thành phố Portland đến Chicago, tôi ngồi gần một phụ nữ Mỹ da trắng, tuổi khoảng ngoài năm mươi. Qua cuộc chuyện trò, tôi mới biết bà là một giáo sư của một Đại Học ở thành phố Chicago và là người có niềm tin vào Thiên Chúa. Vì thấy trên tay của bà có đeo chiếc lắc bằng kim loại được kết từ những mẫu tự “Alpabet” (hai mươi sáu chữ cái), nên tôi “tò mò” hỏi cho biết. Bà bèn giơ cánh tay lên cho tôi xem và giải thích:

“Đây là tên của Tổng Thống Barack Hussein Obama, là người tôi rất ngưỡng mộ và đã bỏ phiếu tín nhiệm ông vào chức Tổng Thống…”.

Vì tôi hỏi bà nên bà hỏi lại tôi:

“Ông nghĩ thế nào về ông Tổng Thống của mình?”.

Tôi không ngần ngại cho bà biết rằng Tổng Thống Obama mà người có tài hùng biện, có bằng cấp cao, có sự quyết tâm, nhưng rất tiếc ông không phải là vị Tổng Thống mà tôi mong đợi và bỏ phiếu tín nhiệm. Dù vậy tôi vẫn tôn trọng chức vụ của ông, bởi tôi tôn trọng lá phiếu của những cử tri đã chọn ông….”

Nghe tôi nói, bà chau mày và có vẻ không vui, nhưng vẫn giữ giọng từ tốn để hỏi
tôi:

“Ông có thể cho tôi biết tại sao ông không bỏ phiếu cho Obama, được không?” (Ít khi nguời Mỹ hỏi ai câu hỏi này).

Thay vì trả lời, tôi hỏi ngược lại bà:

“Don’t you know that Obama announces he supports same-sex marriage and Abortion?” (Bà không biết rằng ông Obama đã tuyên bố ủng hộ hôn nhân đồng tính và tự do phá thai hay sao?).

Thay vì trả lời, bà cũng hỏi ngược lại tôi bằng câu nói có tính cách thách đố:

“Do you think I do not know that?” (Ông nghĩ là tôi không biết chuyệt đó sao?), và bà nói tiếp: “Tôi biết chuyện đó, những tôi vẫn phải bỏ phiếu chọn ông ấy, vì tôi muốn Hoa Kỳ có sự thay đổi, Hoa Kỳ cần có một Tổng Thống không giống những Tổng Thống trong quá khứ. Mọi người cần sự thay đổi…”

Nói xong bà im lặng, và tôi thấy mình cũng không còn đủ ngôn từ (tiếng Anh), và
khả năng (tính thuyết phục) để giải thích thêm với người đàn bà Mỹ, trí thức và
“có đạo” này, nên cũng im lặng luôn. Khoảng hai tiếng đồng hồ sau, lúc máy bay
gần hạ cánh thì bà gợi chuyện lại, và nói với tôi:

“Ben, you are right, I forgot all about that. Thank you for pointing that
out”
(Ông Bình, ông nói đúng, tôi đã quên mất chuyện đó. Cảm ơn ông đã chỉ ra những điều đó)

Bốn cái vỏ xe mới :

Tôi có quen một anh Việt Nam, qua Mỹ trên hai mươi lăm năm. Sống ngoài đời anh
cũng là thành phần được cho là lanh lẹ, khó có ai dễ dàng gạt gẫm hay lấn lướt anh ta. Có lần anh “khoe” với tôi về chiếc xe cũ anh mới mua với giá tiền khoảng sáu ngàn Mỹ Kim. Xem xét qua chiếc xe, tôi cho anh biết rằng anh đã mua nó gần gấp đôi giá bình thường. Anh đồng ý là nhận xét của tôi không sai, nhưng “chê” rằng tôi chỉ thấy có phân nửa giá trị của chiếc xe. Tôi hỏi phân nửa giá trị còn lại mà tôi không thấy đó là gì? Thì anh cho biết là tôi hãy nhìn vào bốn cái vỏ xe thượng hạng và “mới toon” thì biết. Tôi chỉ cuời thông cảm và
nói:

“Bốn cái vỏ mới này nếu mua giá bình thường tối đa là sáu trăm Mỹ kim,
nếu mua lúc giá hạ thì khoảng bốn trăm thôi, như vậy ông vẫn còn hố trên hai
ngàn Mỹ kim…”.

Tới đây thì anh ta mới “té ngửa” và nhận ra rằng mình đã bị “hố”. Không phải do anh “ngu” mà bị hố, nhưng do “cái đầu” của anh lúc bấy giờ bị “mê hoặc” bởi bốn cái vỏ xe mới nên mới “lâm nạn”. Cũng may, anh này thuộc thành phần biết phục thiện, nên không “cãi chày cãi cối” để bảo vệ cái “khôn” của mình…
Nói chung, ai cũng có thể bị kẻ gian lừa. Người khôn ngoan có khi bị lừa theo cách “bình dân”. Người dại thường bị lừa theo kiểu “trí thức”. Chính vì sự bất toàn này của con người nên ngay cả Tổng Thống của một nước, mà cũng còn cần người khác cố vấn là vậy.

Vấn đề phá thai:

Nhiều bài viết, sách báo, tài liệu… lên án những ai chủ trương “phá thay” hay “nạo thai”, tức là làm công việc “giết thai nhi” (abortion). Vì khuôn khổ bài viết, tôi sẽ không dài dòng về chuyện này mà chỉ muốn nói rằng: “…….bất cứ hành động nào giết thai nhi cho dù còn non tháng, đều là những kẻ sát nhân cần bị lên án.”

Những ai ra vẻ “công bằng”, “tự do” khi trả lời theo kiểu “lách” để hốt phiếu cử tri, rằng họ “tôn trọng quyền quyết định của phụ nữ” chính là những kẻ giết người gián tiếp. Bọn chúng chính là tay sai của ma quỷ, chứ không có “công bằng”, “tự do” gì ráo. Nếu ngày nào những kẻ “sát nhân” đó đông hơn những người biết tôn trọng sinh mạng con người thì xã hội loài người sẽ ra sao? Ủng hộ hành động phá thai sẽ là việc làm khuyến khích thanh thiếu niên xem thường hôn nhân thánh khiết, không biết trân quý giá trị đạo đức con người, sống buông thả, và các hành động gian dâm bất chính ngày càng gia tăng.

Hôn nhân đồng tính :

Có nhiều bằng chứng cho thấy, sự luyến ái nghịch với lẽ tự nhiên (same-sex
marriage) đã tạo ra những bệnh tật quái ác. Đảo lộn những hôn nhân thánh khiết
mà Đức Chúa Trời đã định. Thánh Kinh Cựu Ước- Sáng Thế Ký 19 có đề cập đến
thành Sô Đôm, đó là thành bị Đức Chúa Trời huỷ diệt vì cả thành mang tội “luyến
ái nghịch với lẽ tự nhiên”.

Có người cho rằng, người ta có quyền tự do chọn lựa những điều mình thích và muốn người khác phải tôn trọng. Điều nầy mới nghe cũng có vẻ công bằng, nhưng chúng ta đừng quên rằng nếu tự do cái nầy được, thì tự do cái khác cũng có thể được. Điển hình cho thấy là Thánh Kinh đã khuyến cáo việc con người không được giao cấu với người cùng phái. (2), (3)

Những kẻ “làm nhục” Thập Tự Giá

Mất linh hồn :

Người ta có thể lấy lòng cử tri, vì muốn duy trì quyền lực trong giáo quyền, hoặc vì một quyền lợi nào đó để ủng hộ những điều nghịch với Thánh Kinh, nhưng con dân Chúa cần phải biết, Chúa Cứu Thế Jesus từng khuyến cáo rằng, linh hồn quý hơn cả thế gian. (4)

Kết luận :

Không có Chua nào lại ban phước cho một con người hay một đất nước xem thường mạng sống của người khác. Không một Thiên Chúa nào lại ban phước cho những cá nhân hay quốc gia nào có chủ trương hay đường lối nghịch lại Thánh Kinh, dù họ cũng có quyển Thánh Kinh trong tay. Là con dân Chúa chân chính, chúng ta phải bằng mọi cách, góp phần ngăn cản người khác có hành động giết người và giết chết thai nhi dù bất cứ lý do “chính đáng” nào, nếu đó không phải là để cứu mạng sống người mẹ của thai nhi. Chúng ta cần nói cho họ biết rằng hành động phá thai là mang tội giết người.

Chúng ta sẽ không ruồng bỏ những người có sự luyến ái với người cùng phái, nhưng chúng ta không thể ủng hộ việc làm của họ chỉ vì muốn chứng tỏ mình là người tôn trọng quyền tự do của người khác. Nếu xã hội này mọi người được tự do quá đà và hôn nhân thánh khiết mà Đức Chúa Trời đã định bị đảo lộn, thì bao nhiêu xáo trộn khác sẽ xảy ra. Ngoài những bệnh tật quái ác do những sự luyến ái bất thường tạo ra, thì sự truyến giống của loài người cũng sẽ bị tận diệt.

Cầu xin Thiên Chúa cho mọi người biết quý trọng mạng sống con người, có tình
yêu thương thật, yêu cả những ai có sự luyến ái không tự nhiên… Nhưng xin Chúa
cho chúng ta không vì quyến lợi cá nhân, vì muốn đạt danh vọng đời này mà lại
ủng hộ những việc làm nghịch với Thánh Kinh. A-men!

Huỳnh Quốc Bình

Viết xong ngày 8 tháng 11 năm 2012, tại Salem, Oregon, USA

(503) 949-8752

email: [email protected]

Ghi Chú:

1. Chúa Cứu Thế Jesus phán: “..Người ta sống chẳng phải chỉ nhờ bánh mà
thôi, song nhờ mọi lời nói ra từ miệng Ðức Chúa Trời.” (Ma-thi-ơ 4:4)

2. “Chớ nằm cùng một người nam như người ta nằm cùng một người nữ; ấy là một
sự quái gớm.” (Lê-vi ký 18:22)

3. “Ðức Chúa Trời đã bỏ mặc họ cho sự tình dục xấu hổ; vì trong vòng họ,
những người đờn bà đã đổi cách luyến ái tự nhiên ra cách khác nghịch với tánh
tự nhiên. Những người đờn ông cũng vậy, bỏ cách luyến ái tự nhiên của người đờn
bà mà un đốt tình dục người nầy với kẻ kia, đờn ông cùng đờn ông phạm sự xấu
hổ, và chính mình họ phải chịu báo ứng xứng với điều lầm lỗi của mình.” (Rô-ma
1:26-27).

4. “Người nào nếu được cả thiên hạ mà mất linh hồn mình, thì có ích gì? Vậy
thì người lấy chi mà đổi linh hồn mình lại? (Ma-thi-ơ 16: 26).

nguồn: Anh chị Thụ, Mai gởi

 

TRẮC NGHIỆM MẾN CHÚA VÀ THA NHÂN

Đời sống Tâm Linh #19

TRẮC NGHIỆM MẾN CHÚA VÀ THA NHÂN

(Ngày Chung thẩm theo Mt 25, 31-46)

* Chuyện kể: Một câu chuyện cổ của Ái Nhĩ Lan có từ khi vua chúa còn cai
trị về một ông vua hành khất như sau:

Ông này không có con cái nối ngôi, nên ông sai các hầu cận đi tìm một người nối ngôi trước khi ông từ trần. Với điều kiện là người ấy phải có hai đức tính quan trong là mến Chúa và yêu người. Một thanh niên thấy mình có hai đức tính trên nên quyết định đến gặp vua; nhưng anh nghèo quá, không có bộ đồ coi được để đến gặp vua. Anh liền cầu nguyện và xin được một bộ đồ và ít vật liệu cần dùng để lên đường. Sau gần một tháng, anh tới cung điện nhà vua; nhưng lại gặp một người ăn xin ngồi bên vệ đường, ông ta run rẩy van nài xin anh giúp đỡ: “Tôi đói và lạnh, xin anh cho tôi bộ quần áo để mặc và chút lương thực để ăn.” Anh xúc động trước cảnh tượng này, liền cởi bộ quần áo ấm áp của mình để ra, lấy bộ quần áo tả tơi của người ăn xin mặc, anh cũng cho ông ta hết những đồ ăn cần thiết.

Sau đó anh bước vào cung vua chẳng còn gì cả, bọn lính liền ngăn chặn bắt anh đợi chờ. Sau một thời gian thật lâu anh mới được vào. Với tư thế khúm núm không dám nhìn lên
vua, khi được lệnh, anh quá ngạc nhiên nói với vua: “Ngài chính là người ăn xin bên vệ đường tôi gặp lúc nãy? – Nhà vua trả lời: Đúng rồi! – Anh hỏi : “Sao ngài lại làm như vậy đối với tôi? – Vua trả lời: “Tôi muốn làm như vậy xem anh có thực lòng mến Chúa và yêu người không?

* Cảm nghiệm : Câu chuyện có tính cách giả tưởng; nhưng đó là bài học thật qúy giá cho bạn và tôi như trong đoạn phúc Âm sau :

“Vì xưa ta đói các ngươi đã cho ăn, Ta khát, các ngươi đã cho uống, Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước. Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom, Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm?”. Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc?”. (Mt 25, 35-38)

Chúa Giêsu đã kết thúc toàn bộ Giáo huấn của Ngài với tôi bằng một dụ ngôn trên. Tôi tự hỏi mình: Tôi là người lành hay là kẻ dữ? Tôi sẽ hưởng sự sống muôn đời hay vào chốn cực hình muôn kiếp?

Phó tế: GBM. Nguyễn Định Sưu Tầm

 

GIỮA LÒNG HẬN THÙ VÀ THA THỨ

Đời Sống Tâm Linh # 24

GIỮA LÒNG HẬN THÙ VÀ THA THỨ


(CảmnghiệmSống CN31TN-B)

* Chuyện kể: Trong thế chiến thứ hai, Corrie Ten Boom và em gái của bà là Betsie đã bị lính Đức bắt vì tội che dấu những người Do thái. Hai người đã bị đưa đến trại tập trung của Đức quốc xã. Với sự hành hạ dã man, Betsie em bà đã chết thật đau khổ và tàn nhẫn!

Còn bà Corrie sống sót trở về, đến năm 1947 bà chia sẻ đức tin của mình trong nhà thờ ở Munich, bà nói về ơn tha tội lớn lao của Thiên Chúa cho bà và sự mình tha thứ cho người khác. Ngay sau đó, một trong số những người đã nghe bà chia sẻ tìm đến gặp bà, bà kinh hoàng nhận ra đó là một trong những tên lính Đức dã man đã hành hạ bà và người em gái Betsie. Anh ta vội chạy lại thưa với bà: Tôi đã trở thành Kitô hữu, đã nhận biết tội lỗi của mình. Anh ta liền quì xuống dang rộng hai tay xin bà tha thứ cho. Lúc đó bà Corrie phải chiến đấu mãnh liệt với những cảm xúc “giữa lòng hận thù và tha thứ”, giữa những
căm phẫn trong lòng và những lời dạy của Lời Chúa, của Kinh Thánh : “Còn Thầy, Thầy bảo anh em: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh
em.”
(Mt 5, 44)

Có lẽ trong đời, chưa bao giờ bà phải đối diện với một tình huống khóxử đến thế! Nhưng Corrie nhớ lại Lời Chúa, bà biết mình phải tha thứ, bà lặng lẽ cầu nguyện: “Lạy Chúa! Xin giúp con, không có tình yêu Chúa, con không thể làm nổi sự tha thứ này.” Rồi bà dơ tay đỡ kẻ thù đứng dậy.!

* Một phút suy tư: Tha thứ lỗi lầm cho cho người khác không chỉ là một sự kêu gọi; nhưng còn là một mệnh ! Mệnh lệnh này lại được ràng buộc như một điều kiện, nếu bạn muốn được sự tha thứ của Chúa. Bạn có kẻ thù nào lớn hơn kẻ thù của cô Betsie chăng?

Hãy cầu nguyện bằng tất cả tấm lòng vâng phục, vì khi cầu nguyện được là dấu chắc chắn bạn có lòng tha thứ. Hơn nữa, khi bạn nhịn nhục được là bạn đã có lòng tha thứ đi theo, vì những người hạnh hạ, làm khổ bạn cũng là con cái một Cha trên trời. Do đó, chỉ có tình yêu Chúa thật trong TÂM, mới giúp ta thực hiện điều này.

* Lời Chúa quả quyết: Đừng lấy ác báo ác, đừng lấy nguyền rủa đáp lại lời nguyền rủa; nhưng hãy chúc phúc. Vì anh chị em được Thiên Chúa kêu
gọi là để thừa hưởng lời chúc phúc. (I Pr 3, 9)

Phó tế: GB. Maria Nguyễn Định Sưu Tầm

 

Đạo hiếu và vật chất

Đạo hiếu và vật chất

TRẦM THIÊN THU

Kinh Phật dạy: “Tột cùng Thiện không gì bằng có Hiếu, tột cùng Ác không gì bằng Bất Hiếu”. Đó là đạo làm người. Dù là ai trong tôn giáo hay cuộc sống đời thường, từ kẻ cùng đinh trong xã hội tới người có quyền lực cao nhất, trước tiên người ta phải LÀM NGƯỜI, tức là có Đạo Làm Người. Không giữ Đạo Làm Người thì kẻ đó phải bị nguyền rủa. Còn trong Kinh thánh, sách Lêvi 19:3 dạy: “Mỗi người phải kính sợ cha mẹ”, hoặc Lêvi 20:9  dạy: “Bất cứ người nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử. Nó đã nguyền rủa cha mẹ, thì máu nó đổ xuống đầu nó”, và ở Đanien 27:16: “Đáng nguyền rủa thay kẻ khinh dể cha mẹ!”.

Trong một chương trình Bạn Hãy Nói Với Chúng Tôi phát sóng lúc 22g30 trên kênh VOV (hệ 2) có một câu chuyện thật thương tâm về tình mẫu tử. Nghe xong chắc hẳn ai cũng phải “nóng máu” mà thương cho bà cụ và căm phẫn đứa con “xác người, dạ thú” kia!

Bà cụ năm nay đã 81 tuổi, ở Hà Nội (rất tiếc là nhà đài không cho biết tên tuổi và
nơi ở cụ thể, vì lý do “tế nhị”). Chồng bà đã mất lâu. Bà một mình nuôi 3 đứa con: Đứa con trai lớn là con nuôi, 53 tuổi; đứa con thứ hai 45 tuổi; và đứa con gái thứ ba 42 tuổi. Các con bà đã có gia đình riêng. Cha mẹ luôn yêu thương con cái. Với người Bắc và người Trung, cha mẹ yêu con đến nỗi quên mình và không mong con các sẽ đền đáp (người Nam thì nuôi con và hy vọng chúng sẽ đền đáp). Với bà cụ đau khổ kia cũng coi con trai là “của để dành” – vì dân Việt thường ảnh hưởng sâu nặng quan niệm “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” (1 con trai coi là “có”, 10 con gái coi như “không”).

Đứa con nuôi và cô con gái út không có vấn đề gì. Đứa con trai 45 tuổi do bà rứt
ruột đẻ ra lại có vấn đề nghiêm trọng. 19 năm anh ta lấy vợ thì bà ăn riêng 18
năm, dù ở chung nhà. Vì tuổi cao sức yếu, nay ốm mai đau, bà mới ăn chung và
“lệ thuộc” vào vợ chồng anh ta khoảng 1 năm nay. Khi bà nằm bệnh viện, anh ta
thường xuyên vào thăm và “rỉ tai” khiến bà ký giấy cho xong, vì bà quá mệt mỏi
cả tinh thần lẫn thể lý. Thế là anh ta tráo trở, làm sổ đỏ và tách hộ khẩu, đất
đai do anh ta đứng tên. Anh ta đã lừa chính mẹ ruột mình!

Chuyện không chỉ vậy. Hàng ngày, anh ta luôn “kiếm chuyện” la hét bà, mọi thứ đều đổ
lỗi cho bà, thậm chí là đánh đập bà như cơm bữa mà không hề thương tiếc. Cô con dâu là giáo viên cấp I (sic!), đã không can ngăn chồng làm ác mà còn “đổ dầu vào lửa”. Cô ta cũng kiếm chuyện “đá thúng đụng nia, đá mèo khoèo rế”, vào hùa với chồng để hành hạ mẹ. Cứ đến bữa cơm thì cô ta lại la rầy đứa con: “Già rồi còn ngu”. Mới đây, không biết cô con dâu giáo viên “to nhỏ” với chồng thế nào mà anh ta tức tốc về nhà tát bà cụ mấy cái, rồi đuổi bà cụ ra khỏi nhà.

Cô con gái út nhiều lần khuyên can anh nhưng vô ích. Anh ta còn dõng dạc tuyên
bố: “Quyền ở tay ông, lôi thôi ông đuổi khỏi nhà. Có tiền không chịu bỏ ra, chết ông bỏ thối”. Nghe những lời anh ta nói mà “nổi da gà” và “rởn tóc gáy”. Vì tham lam mà anh ta bất chấp đạo lý làm người, đạo là con với mẹ mình! Thật vậy, lòng tham không có đáy, “dù đá có biến thành vàng thì lòng người vẫn không thỏa mãn” (Ngạn ngữ Trung Hoa).

Balze nói: “Lòng Mẹ là vực sâu mà dưới đáy luôn có sự bao dung”. Nhưng bà cụ kia đã chịu đựng quá nhiều, bà đã kiệt sức, cuối đời mà bà không được thanh thản. Và nay bà làm đơn kiện đứa con “trời đánh” đó, nhưng lòng người mẹ còn băn khoăn không biết bà làm vậy có quá đáng không.

Ước mong sao những người con hãy tỉnh thức mà báo hiếu phần nào với song thân phụ
mẫu – dù không bao giờ có thể đền ơn đáp nghĩa đủ, nếu không sẽ không còn cơ hội, vì Petit Sein đã xác định: “Cái chết của người mẹ là nỗi đau buồn thứ nhất khi người ta
khóc mà không có mẹ bên cạnh dỗ dành”
.

TRẦM THIÊN THU

Cầu Cho Cha Mẹ

httpv://www.youtube.com/watch?v=MtrUM-7AkxM&feature=related

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Liên lụy tội lỗi

Liên lụy tội lỗi

 

Tác giả LM John Zuhlsdorf

Thom. Aq. TRẦM THIÊN THU

Lợi ích của việc xưng tội có liên quan “cấu trúc tội”. “Cấu trúc tội” là điều mà
những người sống phóng khoáng dùng để che giấu thực tế trách nhiệm cá nhân đối
với tội lỗi đã phạm. Tất cả các “cấu trúc tội” có căn nguyên trong trách nhiệm
của tội cá nhân.

Tuy nhiên, tội lỗi ảnh hưởng nhiều hơn tội nhân. Nó ảnh hưởng mọi người. Khi
một chi thể trong Nhiệm thể Chúa Kitô phạm tội, tất cả chúng ta đều chịu đau
khổ. Một số người ảnh hưởng trực tiếp, nhưng tất cả chúng ta đều yếu đuối. Do đó, khi chúng ta muốn hòa giải với Thiên Chúa, chúng ta cũng phải giải hòa với cả Giáo hội, không chỉ với người này hay người nọ mà có thể chúng ta đã làm tổn thương. Vì thế có “chiều kích xã hội” đối với tội lỗi.

Có “chiều kích xã hội” vì nó nằm trong cách chúng ta có thể phạm tội. Chúng ta có thể phạm tội không chỉ là hành động trực tiếp của mình, mà còn gián tiếp liên can các tội lỗi do người khác phạm trực tiếp.

Chúng ta liên can tội của người khác bằng cách nào? Chúng ta phạm tội qua hành động của người khác bằng cách…

1. Tư vấn: Nếu bạn tư vấn hoặc xúi người khác làm điều tội lỗi, và họ làm, bạn đã phạm tội bằng cách can dự vào tội lỗi của người đó.

2. Mệnh lệnh: Nếu bạn có quyền trên người khác, và bạn ép buộc người khác phạm tội, trong khi người đó có thể giảm tội, còn bạn thì không.

3. Ưng thuận: Nếu người ta yêu cầu bạn mà bạn nghĩ tội lỗi là điều tốt có thể làm, bạn có thể chủ động với tình huống đó, và nếu bạn cho phép hoặc ưng thuận thì bạn đã phạm tội.

4. Khiêu khích: Bạn khiêu khích hoặc thách thức người khác làm điều xấu mà họ không muốn.

5. Nịnh bợ: Khá rõ ràng. Đây là cách khác để phạm tội.

6. Che giấu: Một người phạm tội và rồi bạn giúp người đó che giấu chứng cớ hoặc động thái.

7. Đồng lõa: Một người khác là người chính có liên can, nhưng bạn có mặt ở đó hỗ trợ hành vi tội lỗi. Chẳng hạn, một người giúp bác sĩ phá thai, một chính khách giúp nhà cầm quyền hoặc nói về việc nhận thức đối với “hôn nhân” trái tự nhiên bằng cách ủng hộ.

8. Im lặng: Có một câu nói rất thường gặp: “Im lặng là đồng ý” (silent implies
consent). Nếu một người có quyền thế hoặc có quyền về luân lý có nhiệm vụ ngăn
chặn tội lỗi, nhưng lại im lặng và bàng quan, điều đó có thể cấu thành việc can
dự vào tội lỗi. Điều này quỷ quyệt mới nghĩ ra được, nhưng đó không chỉ là sự
im lặng quở trách (rocket silence). Có thể là can dự làm giảm nhẹ tình huống,
chẳng hạn như sự xâm chiếm Vatican, bắt Giáo hoàng và tiêu diệt Giáo hội ở
nhiều nơi. Trong khi đó, ai đó có thể im lặng làm ngơ. Tuy nhiên, ai đó không
làm được gì. Một điểm khác có thể được cân nhắc: Luật về việc sửa lỗi anh em
(fraternal correction). Điều này không thể là vị trí của bạn để sửa lỗi người
khác, tùy trường hợp.

9. Biện hộ: Khá rõ ràng. Đó là bạn biện hộ để ủng hộ tội lỗi. Nhưng điều này không giống như luật sư biện hộ trước tòa cho người phạm tội.

Cần xem lại danh sách này một lần nữa để có một lúc chân thành kiểm tra lương tâm.

Tất cả chúng ta vướng vào những tình huống khó khăn hoặc mơ hồ về luân lý mà chúng ta
bị giằng co trong việc chọn lựa giữa những điều tốt hoặc điều xấu nhiều và xấu ít. Chúng ta phải theo dõi chính mình và là sự tương tác với những người khác để:

a) Chúng ta đừng gây nguy hiểm cho linh hồn mình bằng cách can dự vào tội lỗi của người khác.

b) Chúng ta đừng gây nguy hiểm cho linh hồn người khác bằng cách lôi kéo họ vào tội lỗi của mình.

Thom. Aq. TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Catholic News)