Phái đoàn Việt Nam “đọc báo cáo” tại UPR

Phái đoàn Việt Nam “đọc báo cáo” tại UPR

Thanh Quang, phóng viên RFA
2014-02-10

nguyentandung-305.jpg

Thứ trưởng Hà Kim Ngọc (thứ hai bên phải) trước khi trình bày báo cáo tại phiên kiểm điểm nhân quyền phổ quát tại Genève chiều ngày 5/2/2014.

Photo courtesy of nguyentandung.org

Hôm mùng 5 tháng Hai vừa rồi, theo mô tả của blogger Lâm Bình Duy Nhiên, khung trời bao phủ Trụ sở LHQ ở TP Genève hiền hòa bên hồ Leman thơ mộng bỗng mưa rơi nặng hạt tầm tã suốt buổi chiều, khi bên ngòai Trụ Sở Quốc Tế này hiện diện đông đảo các phái đoàn người Việt từ nhiều nước trên thế giới đến, trương cờ vàng, hô to những khẩu hiệu như “VN, VN tự do, dân chủ”, “Hòang Sa, Trường Sa – VN”…cùng những cuộc vận động trước đó của họ tố giác với các tổ chức nhân quyền, phi chính phủ và những nhà lập pháp nước ngòai về thực trạng nhân quyền ngày càng tồi tệ trong nước, thì bên trong Trụ sở LHQ hôm ấy – nói theo lời Shawn W. Crispin, đại diện của Ủy ban Bảo vệ Ký Giả CPJ, phái đoàn Hà Nội đang ra sức củng cố “thế thủ ngọai giao”, và, cũng giống như lần điều trần trước hồi năm 2009, các viên chức VN lần này lại ra sức “đánh lạc hướng (thế giới) về những hành động đàn áp” tiếp diễn của họ.

Tại buổi điều trần, các quan chức Hà Nội, do Thứ trưởng Ngọai giao Hà Kim Ngọc dẫn đầu, đã “thao thao bất tuyệt” về “thành tích nhân quyền  VN” mà họ cho là không ngừng cải thiện và nâng cao; đồng thời, VN “ưu tiên phát triển kinh tế-xã hội, cải thiện tư pháp, bảo vệ quyền làm người, xây dựng nhà nước pháp quyền; Ông Hà Kim Ngọc nhân tiện  khẳng định rằng VN đã đáp ứng 80% trong số 123 khuyến nghị mà các nước đề ra cho Hà Nội trong lần điều trần của VN năm 2009…

Ngọai trừ các nước “gà nhà” như TQ, Cuba đã “chúc mừng thành quả nhân quyền VN” hay “ tấm gương tươi sáng VN”, trong khi nhiều nước Á Châu, nhất là các nước ASEAN, bày tỏ “tình đoàn kết” với VN, còn thì đại đa số trong 107 quốc gia, từ Hoa Kỳ, Canada, Úc, Na Uy, Thụy Sĩ, Thụy Điện, Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Áo, Đan Mạch, Bỉ cho tới Hungarie, Serbia và cả Bra-xil khuyến nghị VN phải tôn trọng nhân quyền, những quyền tự do căn bản của người dân, bãi bỏ những điều luật mơ hồ về an ninh quốc gia, chấm dứt hành động sách nhiễu, bắt giam một cách tùy tiện nhất là những nhà bất đồng chính kiến, tôn trọng quyền của những người đang bị giam giữ, công khai số trại giam, bãi bỏ án tử hình, bảo đảm tính độc lập của tòa án…; tuân thủ các Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị, khẩn trương phê chuẩn Công ước Chống Tra tấn; cho các đặc sứ LHQ tới VN tìm hiểu sự thật…Riêng Hoa Kỳ có yêu cầu thêm là VN phải trả tự do ngay tức khắc cho các tù nhân lương tâm Cù Huy Hà Vũ, Điếu Cày, Lê Quốc Quân, Trần Hùynh Duy Thức.

” Đã không chấp nhận đối thoại với dân chúng của chính nước mình thì liệu có tư cách để đối thoại với các nước khác không?
– Blogger Phạm Thanh Nghiên”

Theo giới bloggers thì trước những chất vấn của các nước xoay quanh những vấn đề vừa nói, các quan chức CSVN “trả lời như con vẹt”. Theo blogger Trịnh Hội thì “Thiệt là lạ” khi đại diện các bộ VN tham dự buổi điều trần, từ Tư Pháp, Công An cho tới Thông tin-Truyền thông, Kế hoạch-Đầu tư, “ chắc (họ) toàn là superman và superwoman (tức là siêu nhân hay sao) mà biết trước các nước hỏi gì, vì ngay sau khi có câu hỏi là họ đã soạn sẵn ngay vài trang giấy chỉ trong vài phút để trả lời”.

Nhưng, theo LS Trịnh Hội, chỉ tiếc là những câu trả lời tràng giang đại hải ấy “chẳng ăn nhập gì đến câu hỏi cả!” vì “người ta hỏi một đàng, các đại diện nhà cầm quyền VN trả lời một nẻo”, “trả lời như con vẹt, chỉ biết cầm giấy đọc thôi” làm LS Trịnh Hội “cảm thấy xấu mặt vì tôi cũng là người VN!”.

Vấn đề là, sau khi chấp nhận cũng như đưa ra nhiều hứa hẹn về các khuyến nghị này, liệu Hà Nội có thực hiện lời hứa không ? Hay vẫn chỉ hứa suông như cách nay 4 năm như trong lần điều trần trước khiến tình hình nhân quyền ở VN hiện sa sút trầm trọng ?

Nhân quyền sa sút

Nhắc tới nhân quyền VN, người ta vẫn chưa quên ông Phil Robertson, Phó Giám đốc Khu vực Á châu-TBD của Human Rights Watch họp báo ở Bangkok hôm 20 tháng Giêng vừa rồi để công bố bản phúc trình 2014 của tổ chức này, với nội dung là tình hình nhân quyền VN sa sút trầm trọng trong năm 2013 khi Hà Nội tiếp tục duy trì thể chế độc quyền độc đảng, mạnh mẽ đàn áp giới bất đồng chính kiến, bỏ tù họ qua tòa án thiếu độc lập, số tù nhân chính trị tại VN gia tăng đáng ngại, và bản Hiến pháp mới của VN chỉ nhằm duy trì quyền lực đảng. Tại cuộc họp báo, ông Phil Robertson lưu ý:

Chúng tôi thấy tình hình VN thụt lui về mặt nhân quyền. Hiện giờ, chúng tôi ước tính VN đang giam giữ từ 150 tới 200 người chỉ vì họ thực hiện những nhân quyền căn bản; họ là những tù nhân chính trị.

Cách nay chưa lâu, một bài báo của tờ Washington Post với tựa đề tạm hiểu “ Đừng cho những nước vi phạm nhân quyền vào Hội đồng LHQ” (Keep the human rights abusers off U.N. council), nêu lên nghi vấn rằng tại sao lại ban bố tư cách thành viên nhân quyền cho những nước trắng trợn vi phạm nguyên tắc nhân quyền căn bản ? Và trong số những nước vi phạm nhân quyền mà bài báo đề cập tới, có VN, vốn trong thời gian qua đã liên tục đàn áp những người đấu tranh cho nhân quyền cùng các nhà dân chủ, tôn giáo, bloggers bất đồng chính kiến.

Tại buổi hội thảo chủ đề “Trách nhiệm của VN trong vai trò thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ” diễn ra ngay trước khi phái đoàn VN điều trần ở Genève, Phó Giám đốc tổ chức UN Watch, ông Leon Saltiel, kêu gọi các thành viên LHQ hãy “loại VN khỏi Hội đồng Nhân quyền”, cũng giống như từng loại Lybia trước đây, vì theo ông, “VN tham gia Hội đồng Nhân quyền không phải để thúc đẩy nhân quyền mà nhằm bảo vệ họ cùng những nước thân hữu khỏi bị chỉ trích”.

docbaocao-nguyentandung-250.jpg

Thứ trưởng Hà Kim Ngọc đang chăm chú "đọc" báo cáo. Courtesy of nguyentandung.org

Qua bài “ Sắp được làm chủ rồi ! Ới 90 triệu dân ta ơi !”, blogger Tô Hải lên tiếng:

Một phái đoàn đại diện cho cái bộ máy khổng lồ diệt hết kẻ thù của giai cấp cầm quyền, bỏ tù hết những ai không chịu có chung một ý nghĩ “dạ! thưa các ông muôn năm đúng!” vừa có những lời tuyên bố cực kỳ hay ho trước toàn thể loài người tại Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc. Mặc cho khắp nơi, khắp chốn đều vang lên lời mỉa mai, chửi bới và gán cho (họ) đủ mọi thứ tội bẩn thỉu nhất trên đời, như: Một “chính phủ nói dối như hát hay”, “lấy lừa bịp là quốc sách” hoặc “chính phủ VN nói có thành không, nói không thành có”; Mặc cho những lời chất vấn cụ thể về những hành động vi phạm nhân quyền, với những tên tuổi luật sư, nhà văn nhà báo, trí thức cụ thể …; Mặc cho nỗi nhục bị hơn 10 đại biểu các nước kết tội xâm phạm nhân quyền, và nhục nhất là: bị đại biểu Myanmar, nổi tiếng về quân phiệt một thời, chất vấn và khuyên nhủ nên thực thi nhân quyền ở ngay cái xứ mà ông thủ tướng (Nguyễn Tấn dũng) đã từng khuyên họ nên mở rộng dân chủ ….Mấy con vẹt được bơm cho nói trước cả tỷ người trên thế giới đấy có biết không?

Nhắc lại lời trưởng đoàn VN là thứ trưởng Ngọai giao Hà Kim Ngọc tại phiên họp UPR vừa nói rằng “ chúng tôi muốn nhấn mạnh chính sách nhất quán của Việt Nam là tăng cường đối thoại để thúc đẩy nhân quyền…Chúng tôi cam kết chủ động xây dựng, duy trì đối thoại, hợp tác và nghiêm túc thực hiện các nghĩa vụ của mình…Việt Nam sẵn sàng mở cửa cho đối thoại và hợp tác với các nước khác….”, blogger Phạm Thanh Nghiên nêu lên câu hỏi rằng “Đối thọai với ai ?”, và khẳng định:

Tôi, nhân danh một công dân Việt Nam chỉ xin phản hồi về hai chữ “đối thoại” mà ông Hà Kim Ngọc nhân danh Nhà nước cộng sản Việt Nam tuyên bố “sẵn sàng” và “cam kết” trước cộng đồng Quốc tế…Khoan nói tới sự “đối thoại” của Nhà nước CHXHCNVN với “các nước khác”. Hãy đi vào thực chất. Có hay không sự đối thoại về Nhân quyền của nhà nước với chính những công dân Việt Nam ngay trong phạm vi đất nước này? Xin trả lời ngay là: KHÔNG. Nói chính xác hơn, nhà nước chưa bao giờ dám đối mặt một cuộc đối thoại thẳng thắn, sòng phẳng với những cá nhân, những nhóm dân sự độc lập vận động cho Nhân quyền Việt Nam…Đã không chấp nhận đối thoại với dân chúng của chính nước mình thì liệu có tư cách để đối thoại với các nước khác không? Chưa kể các cuộc được gọi là đối thoại (với các nước khác) đều được dập khuôn gần như giống nhau, bằng các văn bản được soạn sẵn lôi trong túi ra đọc, khỏi cần biết câu hỏi chất vấn là gì.

Ai sẽ thay đổi vận mệnh đất nước?

Vào khi  “nhân quyền” và “quyền bày tỏ cảm tưởng” được nhắc đến nhiều nhất qua những câu chất vấn của các nước dành cho VN tại phiên điều trần UPR này, blogger Mẹ Nấm “không giấu được niềm vui vì thế giới đã nghe chúng tôi – những bloggers VN bị giới hạn quyền tự do bày tỏ của mình”.

Qua bài “Từ Tuyên bố 258 đến UPR hôm nay”, blogger Mẹ Nấm kể lại rằng sự việc bắt đầu từ hơn 100 bloggers với Tuyên bố 258 được trao tận tay cho nhiều tổ chức NGOs cũng như qua nhiều cuộc gặp gỡ, tiếp xúc và trình bày với các đại sứ, lãnh sự quán nước ngòai, cho tới những đề nghị của các nước như Thụy Điển, Đức, Đan Mạch, Hy Lạp, Úc, Phần Lan, Ái Nhĩ Lan về việc cải thiện quyền con người và quyền tự do ngôn luận, tự do bày tỏ cảm tưởng, thì hôm nay, việc giới cầm quyền VN bắt giữ bloggers – những người bày tỏ ý kiến thông qua mạng Internet, thêm một lần nữa, được nêu ra rõ ràng trước thế giới.

Tôi nghĩ về anh Điếu Cày, anh Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Tiến Trung, Trương Duy Nhất… và nhiều người khác nữa. Họ là những viên gạch lót đường, là động lực để tôi và nhiều người khác lên tiếng trong Tuyên bố 258, là động lực để chúng tôi cố gắng chứng minh cho thế giới thấy: ở Việt Nam, nhân quyền là một khái niệm được diễn giải riêng biệt với lý do “an ninh quốc gia” để chặn đứng những ý kiến trái chiều không được kiểm duyệt bởi Ban Tuyên giáo. Và hôm nay, trong phiên UPR này, ít nhất có nhiều người ở khắp nơi trên thế giới thấy rằng một khi đã tham gia vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, nhất định Việt Nam phải thực hiện các cam kết của mình để phù hợp với trào lưu tiến bộ chung của thế giới. Những cam kết ấy có được thực hiện hay không, không còn phụ thuộc vào các báo cáo trả lời được soạn sẵn để các cán bộ ngoại giao đọc như phát biểu trước Quốc hội nữa, mà nó sẽ được chứng minh bằng chính sự tự do của mỗi công dân Việt Nam.

” Hơn ai hết, chỉ có chúng ta, những người Việt mang trong mình dòng máu của một dân tộc can đảm và bất khuất, mới có thể làm thay đổi vận mệnh của đất nước Việt Nam mà thôi.
– Blogger Lâm Bình Duy Nhiên”

Qua bài “Genève và niềm tin vào ngày mai”, blogger Lâm Bình Duy Nhiên khẳng định rằng khó có một lập luận thỏa đáng nào có thể biện minh cho một chính phủ độc tài đã và đang chà đạp lên những quyền căn bản của người dân. Theo tác giả thì đảng cộng sản từ nhiều thập niên nay hầu như không có cải cách chính trị nào – vẫn một cơ chế lỗi thời, độc đóan, chỉ biết bảo vệ quyền lợi cùng sự tồn tại của đảng, của bộ máy cầm quyền, và bỏ mặc những yêu cầu cấp bách của dân tộc: Đó là tự do, dân chủ và quyền làm người. Tác giả nhấn mạnh rằng “Cái cốt lõi của vấn đề vẫn là quyền con người trong một chế độ cộng sản và cái quyền đó vẫn đang bị xâm phạm hàng ngày bởi một bộ máy công an hung tợn, sẵn sàng đàn áp những tiếng nói bất đồng chính kiến”. Và blogger Lâm Bình Duy Nhiên khẳng định “Hơn ai hết, chỉ có chúng ta, những người Việt mang trong mình dòng máu của một dân tộc can đảm và bất khuất, mới có thể làm thay đổi vận mệnh của đất nước Việt Nam mà thôi”.

Việt Nam thuộc nhóm có tự do báo chí suy giảm nhất: CPJ

Việt Nam thuộc nhóm có tự do báo chí suy giảm nhất: CPJ

RFA
2014-02-06

 

map-for-press-freedom

Bản đồ tự do báo chí của CPJ, màu đen là xấu nhất

CPJ web

Ủy ban Bảo vệ Ký giả- CPJ xếp hạng Việt Nam vào nhóm những quốc gia mà tự do báo chí bị suy giảm nhiều nhất trong năm 2013 vừa qua.

Hôm qua ngày 6 tháng 2, CPJ lên tiếng cho hay hoạt động theo dõi trên diện rộng của Hoa Kỳ, rồi những luật lệ giới hạn cũng như làn sóng tấn công mạng trên khắp toàn cầu khiến cho tự do báo chí mạng bị giới hạn đáng kể trong năm 2013.

Đây là lần đầu tiên CPJ đưa hoạt động mạng vào danh sách những quốc gia hạn chế tự do báo chí mà theo tổ chức này đó là sự sói mòn dữ dội quyền tự do trong lĩnh vực Internet.

CPJ nói rõ những quốc gia nơi mà quyền tự do báo chí bị giảm đi nhiều nhất trong năm 2013 gồm có Ai Cập, Bangladesh, Syria và Việt Nam.

CPJ cho biết tình trạng cấm đoán đối với các blogger độc lập ở Việt Nam bắt đầu từ hồi năm 2008 đã gia tăng trong năm ngoái.

CPJ nói ở khu vực Châu Á, Việt Nam chỉ đứng sau Trung Quốc về số nhà báo bị cầm tù. Trong số này có blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải được CPJ trao giải Tự do Báo chí Quốc tế năm 2013.

Theo CPJ ở Việt Nam không có báo chí tư nhân, nên không gian mạng là nơi duy nhất để đưa ra những phê phán, chỉ trích mà thôi. Để đối phó với những blogger và các mạng xã hội, chính quyền Việt Nam đã ra nghị định có hiệu lực hồi đầu tháng giêng năm ngoái, nhắm đến những đối tượng đó.

BÀI GIÁO LÝ CỦA ĐTC PHANXICÔ VỀ BÍ TÍCH THÁNH THỂ

BÀI GIÁO LÝ CỦA ĐTC PHANXICÔ VỀ BÍ TÍCH THÁNH THỂ

Tác giả: GLV. Phạm Xuân Khôi (chuyển ngữ)

Thánh Lễ là tột đỉnh của hành động cứu độ của Thiên Chúa, Chúa Giêsu biến Mình thành tấm bánh bị bẻ ra cho chúng ta, đổ trên chúng ta tất cả lòng thương xót và tình yêu của Người, để đổi mới tâm hồn chúng ta, cuộc sống chúng ta và cách thức chúng ta liên hệ với Người và với tha nhân.”

Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý ĐTC Phanxicô ban hành ngày 5 tháng 2 năm 2014 trong buổi Triều Yết Chung được tổ chức tại Quảng Trường Thánh Phêrô.  Hôm nay ĐTC dạy về Bí Tích Thánh Thể

* * *

Anh chị em thân mến, chào anh chị em!

Hôm nay tôi sẽ bàn về Bí Tích Thánh Thể.  Bí Tích Thánh Thể cùng với Bí Tích Rửa Tội và Thêm Sức là trọng tâm của việc “khai tâm Kitô giáo”, và là nguồn mạch của chính đời sống Hội Thánh. Thực ra, từ Bí Tích Tình Yêu này phát sinh mọi con đường đích thực của đức tin, sự hiệp thông và làm nhân chứng.

Điều mà chúng ta thấy khi tụ họp lại để cử hành Bí Tích Thánh Thể, Thánh Lễ, làm cho ‎chúng ta cảm nhận được những gì chúng ta đang sống.  Ở trung tâm của nơi dành để cử hành là bàn thờ, là một cái bàn được phủ bằng một khăn trải bàn, và điều này làm cho chúng ta nghĩ đến một bữa tiệc. Trên bàn có một cây Thánh Giá, ám chỉ rằng trên bàn thờ ấy hy tế của Đức Kitô được hiến dâng: Người là lương thực thiêng liêng mà chúng ta nhận được ở đó, dưới hình bánh và rượu.  Bên cạnh bàn thờ có giảng đài, là nơi công bố Lời Chúa: và điều này cho thấy rằng chúng ta tụ họp lại để nghe Chúa, là Đấng nói qua Thánh Kinh, và do đó lương thực nhận được cũng là Lời của Người.

Lời Chúa và Bánh trở nên một trong Thánh Lễ, như trong Bữa Tiệc Ly, khi tất cả các lời của Chúa Giêsu, tất cả các dấu chỉ mà Người đã thực hiện, được cô đọng trong việc bẻ bánh và dâng chén rượu, diễn tả trước hy tế Thập Giá của Người, và trong những lời này: “Các con hãy cầm lấy mà ăn, này là cơ Mình Thầy… Các con hãy cầm lấy mà uống, này là Máu Thầy.”

Cử chỉ mà Chúa Giêsu đã làm trong Bữa Tiệc Ly là lời tạ ơn tột bậc của Người dâng lên Chúa Cha vì tình yêu và lòng thương xót của Ngài.  “Tạ Ơn” trong Hy Lạp được gọi là “Eucharista (Thánh Thể).”  Và vỉ thế Bí Tích này được gọi là Thánh Thể, là lời tạ ơn tối cao dâng lên Chúa Cha, Đấng đã yêu thương chúng ta quá độ đến nỗi ban Con của Ngài cho chúng ta vì yêu.  Đó là lý do tại sao từ Thánh Thể gồm tóm tất cả cử chỉ ấy, là cử chỉ của Thiên Chúa và đồng thời cũng là cử chỉ của con người, cử chỉ của Chúa Giêsu Kitô, Đấng là Thiên Chúa thật và là người thật.

Vì vậy, việc cử hành Thánh Lễ cỏn hơn một bữa tiệc bình thường rất nhiều: đó là tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Chúa Giêsu, mầu nhiệm trung tâm của ơn cứu độ.  “Tưởng niệm” không chỉ là một sự nhớ lại, sự tưởng nhớ đơn giản, nhưng có nghĩa là mỗi khi chúng ta cử hành Bí Tích này, chúng ta thông phần vào Cuộc Khổ Nạn, Cái Chết và sự Phục Sinh của Đức Kitô.  Thánh Lễ là tột đỉnh của hành động cứu độ của Thiên Chúa, Chúa Giêsu biến Mình thành tấm bánh bị bẻ ra cho chúng ta, Người đổ trên chúng ta tất cả lòng thương xót và tình yêu của Người, để đổi mới tâm hồn chúng ta, cuộc sống chúng ta và cách thức chúng ta liên hệ với Người và với tha nhân.  Chính vì lý do này mà thường khi chúng ta tiếp cận Bí Tích này, chúng ta nói là “nhận sự Hiệp Thông (Hiệp Lễ)” để “hiệp thông”: điều này có nghĩa là nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, việc thông phần vào bàn tiệc Thánh Thể làm cho chúng ta nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô một cách độc đáo và sâu xa, cho chúng ta được nếm trước lúc này sự hiệp thông trọn vẹn với Chúa Cha, đặc trưng cho bữa tiệc trên trời, nơi mà cùng với tất cả các Thánh chúng ta sẽ có được niềm vui khôn tưởng là chiêm ngắm Dung Nhan Thiên Chúa cách trực diện.

Các bạn thân mến, tôi không bao giờ có thể cảm tạ Thiên Chúa đủ vì hồng ân mà Ngài đã ban cho chúng ta trong Bí Tích Thánh Thể!  Đó là một hồng ân tuyệt vời và vì thế việc đi dự Thánh Lễ Chúa Nhật là điều rất quan trọng.   Đi dự Thánh Lễ không chỉ để cầu nguyện, nhưng để Rước Lễ (nhận sự Hiệp Thông), bánh là Thân Thể Chúa Giêsu Kitô, là Đấng cứu chúng ta, tha thứ cho chúng ta, liên kết chúng ta với Chúa Cha.  Thật là tốt đẹp khi làm điều này!  Và mỗi Chúa Nhật chúng ta đi dự Lễ, bởi đó là ngày Phục Sinh của Chúa.  Đó là lý do tại sao Chúa Nhật rất quan trọng đối với chúng ta.  Và với Bí Tích Thánh Thể chúng ta cảm thấy thuộc về Hội Thánh, thuộc về Dân Thiên Chúa, thuộc về Thân Thể của Thiên Chúa, là Đức Chúa Giêsu Kitô.  Chúng ta sẽ không bao giờ ngừng thu nhận tất cả mọi giá trị và sự phong phú của nó.  Vậy chúng ta hãy cầu xin Người cho Bí Tích này có thể tiếp tục duy trì sự hiện diện sống động của Người trong Hội Thánh và hình thành cộng đồng của chúng ta trong đức ái và sự hiệp thông, theo trái tim của Chúa Cha.  Và điều này được thực hiện trong suốt cuộc đời của chúng ta, nhưng bắt đầu được thực hiện từ ngày Rước Lễ Lần Đầu.  Việc chuẩn bị tốt cho trẻ em Rước Lễ Lần Đầu là điều rất quan trọng, và mỗi em đều phải làm thế, bởi vì nó là bước đầu tiên của việc thuộc về Đức Chúa Giêsu Kitô cách bền vững này, sau Bí Tích Rửa Tội và Thêm Sức.

Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ

http://giaoly.org/vn/

Chính quyền lại thất hứa

Chính quyền lại thất hứa

Thanh Quang, phóng viên RFA
2014-02-05

nhc-305

Việc chính quyền Việt Nam thất hứa với con, cháu của tù nhân lương tâm Nguyễn Hữu Cầu, với sự chứng kiến của Hiệu trưởng Trường Tiểu học An Minh Bắc 4, Huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang, một lần nữa, cho thấy tình trạng bội ước cố hữu của giới công lực, cầm quyền trong nước.

Buồn đến không ăn Tết nỗi

Như vậy là niềm vui khôn cùng “như đi trên mây chứ không phải ở dưới đất” của con cháu người tù thế kỷ Nguyễn Hữu Cầu vào những ngày trước Tết Giáp Ngọ trông đợi ông về ăn Tết giờ đã trở thành nỗi buồn vô tận khi người cha-ông nội-ông ngọai thương yêu của họ vẫn biệt tâm!

Từ Sài Gòn, cô Nguyễn Thị Anh Thư, con gái tù nhân lương tâm Nguyễn Hữu Cầu, than rằng:

“Con buồn đến nỗi mấy ngày Tết con không ăn gì được, không đi đâu cũng như không gọi điện cho ai. Buồn nhiều lắm. Mấy chị em con bị bệnh hết trơn. Gia đình em Bích ở dưới Kiên Giang cũng bệnh. Mấy cháu – con của Bích – chờ ông về, chờ hết ngày này tới ngày khác. Bữa nay con mới hơi nguôi ngoai, mới ngồi dậy nỗi, chứ mấy bữa trước con nằm vùi luôn, không muốn gì nữa hết trơn. Buồn dữ lắm!”

Từ U Minh Thượng, Kiên Giang, con trai của cựu Đại Úy Nguyễn Hữu tên Trần Ngọc Bích (mang họ của bố dượng) cũng bày tỏ nỗi xót xa:

” Mấy chục năm trước thì trông; còn năm nay họ hứa họ thả ba thì lại càng trông. Nhưng cuối cùng ba không được về nên gia đình, ai cũng buồn, không ăn Tết nỗi.
Con trai tù nhân Nguyễn Hữu Cầu”

“Họ hứa họ thả ba trước Tết mà bay giờ không thả. Năm nay gia đình con không ăn Tết gì đâu! Buồn quá buồn. Năm nào thì cũng trông ba, trông riết, trông cho tới Tết rồi trông hết ngày lễ này tới ngày lễ khác xem ba có được về không. Mấy chục năm trước thì trông; còn năm nay họ hứa họ thả ba thì lại càng trông. Nhưng cuối cùng ba không được về nên gia đình, ai cũng buồn, không ăn Tết nỗi. Tội nghiệp đứa con gái của con trông ông trở về, rồi ông không về nên nó khóc, cứ buồn hòai ! Cả gia đình trông, con cũng trông ba về, nhưng cuối cùng ba không về (khóc)!”

Tại sao lại phải nói dối?

Trước tình cảnh như vậy, cháu nội ông Nguyễn Hữu Cầu là Trần Phan Yến Nhi, 14 tuổi, không cầm được nước mắt trong khi ngày đêm vẫn cứ trông đợi ông nội về.

Blog Dân Làm Báo trích dẫn lời cháu Trần Phan Yến Nhi kể lại rằng sau khi “hai bác công an bảo là: Cháu cứ an tâm, ông cháu sẽ về ăn tết với gia đình… Ông cháu sẽ về trước tết…”, cháu Yến Nhi “mừng không thể nào tả nổi”, rồi chờ 1 tuần, rồi 2 tuần, rồi bước sang những ngày Tết Giáp Ngọ, nhưng “cháu chẳng thấy Ông đâu!”. Cháu Trần Phan Yến Nhi buồn bã:

Cháu Yến Nhi

Cháu Yến Nhi

“Chờ đợi cháu thấy nó dài thê thảm quá vậy mà 38 năm ở tù của Ông không biết nó dài ra sao? Mỗi lần cháu nghe chuông điện thoại của Cha cháu reo là cháu hồi hộp vì chắc có lẽ đó là có người báo cho Cha và cháu để đi đón Ông về, nhưng lần nào cũng tuyệt vọng.

Từ lúc cháu gặp và nghe hai bác công an nói vậy không đêm nào cháu ngủ được yên giấc vì trông Ông về và thương cho Ông cháu quá. Cháu và Mẹ đã chuẩn bị bánh tét, chuối khô và đặc biệt là cốm dẹp Ông cháu rất thích ăn, nhưng bánh tét và chuối khô Ông cháu ăn được còn cốm dẹp thì chắc Ông ăn không được vì Ông chỉ còn 1 chiếc răng làm sao Ông ăn được. Tội cho Ông quá Ông ơi, mỗi lần cháu nhìn những thứ này cháu không cầm được nước mắt…”

” Cháu nhớ như in những lời hai bác công an nói là Ông sẽ về trước Tết, nhưng… Cháu đi học thầy, cô bảo là không được nói dối, cháu đã không biết nói dối nhưng tại sao cháu lại phải nhận được lời nói dối.
Cháu nội tù nhân Nguyễn Hữu Cầu”

Nhưng rồi cháu Yến Nhi xem chừng như không tránh được dỗi hờn:

“Cháu nhớ như in những lời hai bác công an nói là Ông sẽ về trước Tết nhưng lúc đó có lẽ cháu mừng quá cho nên cháu quên hỏi hai bác công an là: “ Trước tết năm nào Ông cháu mới về…?”. Cháu đi học thầy, cô bảo là không được nói dối, cháu đã không biết nói dối nhưng tại sao cháu lại phải nhận được lời nói dối.”

Dư luận bất bình

Qua bài “Thủ tướng không biết gì cả ?!”, nhà báo Nguyễn Ngọc Già nhận xét rằng “Thông tin tù nhân lương tâm xuyên thế kỷ Nguyễn Hữu Cầu, 67 tuổi, không được trả tự do để về ăn tết như giới cầm quyền hứa, không làm “người lớn” ngạc nhiên, nhưng quả thật nó trở thành điều quá bất nhẫn với cô bé Trần Phan Yến Nhi – cháu nội ông Cầu”.

Nhà báo Đỗ Minh Tuyên bày tỏ bất bình về chuyện “Tù nhân thế kỷ Nguyễn Hữu Cầu vẫn chưa được trả tự do sau những hứa hẹn tốt đẹp của nhà cầm quyền CSVN ”, và nêu lên câu hỏi rằng “Tại sao lại lừa dối một đứa trẻ và hành xử tàn tệ đối với một tù nhân lương tâm gần như đã trở thành một phế nhân – người đã vì cuộc sống an bình của đồng bào mình và tương lai của quê hương đất nước đã phải trãi qua cuộc đời hơn một phần ba thế kỷ sau những chấn song sắt đầy khắc nghiệt?”.

Tình cảnh của người tù thế kỷ này cùng nỗi mong nhớ, đợi chờ của con, cháu ông khiến cựu tù nhân chính trị Nguyễn Bắc Truyển từng ở tù chung với ông Nguyễn Hữu Cầu phản ứng:

“Khi cháu Bích hỏi tôi về việc này thì tôi có nói với cháu Bích là khi nào thấy cha con ra thì hãy biết chớ còn bây giờ chúng ta không thể nào tin vào lời nói của họ được. Bởi vì trong quá trình mấy chục năm nay thì họ đã hứa hẹn nhiều rồi, nhưng hòan tòan có nhiều điều họ không thực hiện. Thì hiện giờ đúng là như vậy: Cho tới giờ này, ông Nguyễn Hữu Cầu vẫn chưa được thả ra khỏi nhà tù”.

Mấy chục năm nay thì họ đã hứa hẹn nhiều rồi, nhưng hòan tòan có nhiều điều họ không thực hiện. Thì hiện giờ đúng là như vậy: Cho tới giờ này, ông Nguyễn Hữu Cầu vẫn chưa được thả ra khỏi nhà tù.
LS Nguyễn Bắc Truyển

Luật sư Nguyễn Bắc Truyển tin rằng vấn đề thương thảo giữa chính phủ Hoa Kỳ và phía Việt Nam chưa ngã ngũ. Có thể còn nhiều vấn đề họ cần phải trao đổi với nhau, như vấn đề thả các tù nhân chính trị thì VN sẽ được lợi gì.

Bởi vì, LS Nguyễn Bắc Truyển lưu ý, công luận từng biết rằng nhà cầm quyền CSVN luôn luôn lấy người tù chính trị ra để làm con tin cho các vấn đề thương thảo về kinh tế có lợi cho họ. Thật sự đây là vấn đề mà “chúng ta hết sức buồn vì cho tới giờ này, sau gần 4 thập niên, tù nhân lương tâm Nguyễn Hữu Cầu vẫn tiếp tục đón cái Tết thứ 39 và biền biệt trong trại giam Z30A, Xuân Lộc, Đồng Nai!

Thích hay không thích?

Thích hay không thích?

Thứ năm, 6 tháng 2, 2014

Việt Nam có trên 700 tờ báo

Một tờ báo ở Việt Nam phải gỡ bỏ bình luận ca ngợi bài báo về Đảng sau khi bình luận này bị độc giả chê quá nhiều.

Báo Thanh Niên Online ngày 2/2 đăng lại bài viết của GSTS Hoàng Chí Bảo (Hội đồng Lý luận Trung ương) nhân ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Bài viết có tựa đề “Bấm Đảng ta, tất cả vì hạnh phúc của nhân dân” trước đó đã đăng trên Cổng thông tin điện tử Chính phủ với nội dung ca ngợi Đảng đã làm nên “những bước ngoặt lớn, những kỳ tích, làm thay đổi số phận của cả một dân tộc, mở ra triển vọng tốt đẹp cho cuộc sống của nhân dân”.

Bài viết của Giáo sư Bảo nhận được hai bình luận (comments) của độc giả, cách nhau 34 tiếng đồng hồ.

Bình luận thứ nhất ca ngợi bài viết là “rất hay, rất sâu sắc và toàn diện”. Bình luận thứ hai ngắn gọn: “Cũ mòn và giả dối”. Các comments trên báo này đều đi kèm nút ‘Thích’ và ‘Không thích’ để độc giả phản hồi.

Ban biên tập báo Thanh Niên đã gỡ bỏ cả hai bình luận sau khi bình luận chê được gần 1.000 người bấm nút ‘Thích’ trong khi bình luận khen ‘sâu sắc toàn diện’ nhận gần 3.000 ‘Không thích’.

Đây có lẽ là lần đầu tiên các nút khen chê của báo mạng thu hút chú ý lớn như vậy của độc giả, vốn trước kia không có nhiều cách để bày tỏ thái độ của mình về các bài báo trong khi các bình luận bị ban biên tập kiểm duyệt.

Tương tự, báo VietnamNet hôm 5/2 đăng bài “Bấm Việt Nam báo cáo LHQ về nhân quyền” cũng có hai nút ‘Thích’ và ‘Không thích’ cho độc giả bầu chọn.

Tới thời điểm 15:30 chiều thứ Năm 6/2, số người thích là 66 và số người không thích là 3.329.

Đến 17:50 chiều cùng ngày, số người thích tăng lên 82, và không thích lên 3892.

Trong trào lưu báo điện tử phát triển mạnh mẽ những năm gần đây, các báo ở Việt Nam đã cố gắng đưa vào các ứng dụng kỹ thuật mới hỗ trợ người đọc.

CHÚNG TÔI PHẢI LUÔN LUÔN TẠ ƠN THIÊN CHÚA VỀ ANH CHỊ EM!

CHÚNG TÔI PHẢI LUÔN LUÔN TẠ ƠN THIÊN CHÚA VỀ ANH CHỊ EM!

Cha Louis Nicolas (Linh Mục Hội Thừa Sai Paris MEP) làm việc lâu năm bên Thái Lan kể chuyện như sau.

Tại cứ điểm truyền giáo Nakhon Ratchasima chúng tôi thành lập Hội Đạo Binh Đức Mẹ – Legio Mariae. Các tín hữu Công Giáo gia nhập Hội này rất sốt sắng nhiệt thành trong công tác tông đồ. Có một phụ nữ trẻ làm Trưởng một Nhóm. Chị đã lập gia đình và có con cái. Một ngày, chị đeo con trên lưng rồi cùng với hai bà bạn Công Giáo lớn tuổi đi đến một làng cách đó 10 cây số để nói về Đạo thánh Công Giáo.

Ngày hôm sau khi trở về, chị gặp ông xã trưởng. Ông này muốn biết chị đi đâu và làm gì. Sau khi nghe chị giải thích, ông bĩu môi khinh bỉ nói:
– Chị mà dám cả gan giảng Đạo sao? Trời ơi, chị mới có biết đọc à, vậy mà chị dám đi nói về Đạo cho những người thông thái, sống lâu năm trong các đình chùa?!

Chưa hết. Khi về đến nhà, chị chạm trán ông chồng đang sửa soạn ra đồng. Ông cay đắng mỉa mai:
– Hừ, công tác tông đồ, rao giảng Đạo thánh, nghe thì tốt lắm, đẹp lắm, nhưng còn gặt hái, con cái và công việc nhà cửa thì bỏ cho ai lo???

Ít lâu sau, khi gặp tôi, chị vừa kể cho tôi nghe câu chuyện trên đây vừa khóc .. Một thời gian sau, ông chồng chị lâm bệnh nặng. Vì chúng tôi ở xa thành phố nên mọi sự, người dân trong vùng, đều trông nhờ vào tôi. Tôi cố gắng chạy chữa, nhưng bệnh tình vẫn không thuyên giảm, trái lại càng trở nên nặng hơn. Một ngày, tôi đánh liều nói với ông:
– Anh đã trách mắng vợ vì bỏ bê công việc nhà đi lo việc tông đồ. Nếu bây giờ anh hứa để chị tự do lo việc tông đồ, thì tôi chắc chắn Đức Mẹ MARIA sẽ chữa anh lành bệnh.

Sau khi gật đầu đồng ý, anh cảm thấy khá hơn và dần dần bình phục. Anh vui vẻ trở lại với công việc đồng áng và để cho vợ tự do đi lo công tác tông đồ của Hội Đạo Binh Đức Mẹ.

… Một ông chồng khác thì cứng như đá. Cả gia đình anh rất sùng đạo Phật. Nhưng chị vợ nghe nói về Đạo thánh Công Giáo và ước muốn theo Đạo. Rủi ro thay chị chạm phải sức kháng cự vũ bão của ông chồng. Ngăn cản bằng lời nói thôi chưa đủ, ông còn cột chị vào một góc cột để cấm chị đi nhà thờ hoặc đi học giáo lý. Thế rồi một loạt các tai ương xảy đến. Các con cái lần lượt bị bệnh rồi chết. Một đứa con khác vừa ra đời cũng lâm bệnh nặng.

Cả hai vợ chồng vội vã bồng bế con đến trọ tại một làng Công Giáo gần đó. Một tháng sau, đứa bé khá hơn và trở lại bình thương. Nhưng khi con mạnh rồi, ông chồng lại bắt buộc vợ trở về làng cũ. Một khi trở về làng, đứa bé lại trở bệnh. Lần này thì cả hai vợ chồng dứt khoát rời làng và đến sinh sống nơi làng Công Giáo. Tại đây ông bằng lòng cho vợ và các con theo Đạo Công Giáo, nhưng ông thì nhất định không theo Đạo.

25 năm trôi qua, ông vẫn cương quyết không theo Đạo Công Giáo. Thấy vậy, tôi liền bảo mấy đứa cháu của ông, khi nào học bài giáo lý ở nhà, thì nhớ đọc to tiếng cho ông nghe .. Xấu hổ vì không biết các điều các cháu mình biết, ông quyết định xin học giáo lý và theo Đạo Công Giáo.

… Vào Chúa Nhật lễ Mình Thánh Chúa, ông xã trưởng đến thăm tôi. Từ cuối nhà thờ, nhìn lên bàn thờ, trông thấy Mặt Nhật đặt Mình Thánh Chúa đang trưng bày cho giáo dân đến kính viếng thờ lạy, ông hỏi tôi:
– Vật gì Trắng và Tròn ở trên kia vậy Cha?
Tôi trả lời:
– Mình Thánh Chúa!
Ông hỏi thêm:
– Vật mà Cha phân phát cho người ta lúc nãy phải không, để làm gì vậy?
Tôi đáp:
– Để giúp chúng ta làm lành lánh dữ!
Ông nói:
– Con cũng vậy! Con muốn rước Mình Thánh Chúa!
Tôi nói:
– Nhưng ông phải lãnh bí tích Rửa Tội trước đã!
Ông xã trưởng nói ngay:
– Vậy thì Cha rửa tội cho con đi!
Tôi hỏi lại:
– Nhưng ông có tin không?
Ông trả lời:
– Con tin tất cả những gì sách giáo lý dạy và con còn thuộc lòng các Kinh nữa kìa!

Và đúng như ông xã trưởng nói. Ông đọc kinh thuộc làu từ đầu tới cuối.

Từ đó tôi đến nhà dạy giáo lý cho ông và cho cả vợ ông nữa. Rồi các người láng giềng cũng đến đông đảo chăm chú lắng nghe tôi dạy giáo lý. Riêng bà vợ ông xã trưởng thì vô cùng ngạc nhiên và thích thú khi biết rằng trong Kitô Giáo, người nam và người nữ có cùng phẩm giá như nhau và quyền lãnh nhận cùng một phép rửa. Bà hết sức vui mừng và nhanh chóng loan truyền tin vui này cho tất cả các bà hàng xóm biết ..

… Một ngày, một bà mẹ Công Giáo dẫn một bà bạn đến và nói với tôi:
– Thưa Cha, đây là bà bạn láng giềng của con. Xin Cha rửa tội cho bà!
Tôi đáp:
– Được, nhưng tôi phải dạy giáo lý cho bà trước đã chớ!
Bà mẹ Công Giáo đáp ngay:
– Con dạy rồi!
Tôi tròn mắt ngạc nhiên hỏi lại:
– Nhưng bà không biết chữ thì làm sao dạy được?
Bà giải thích:
– Cha nói đúng! Con không biết đọc, nhưng bà bạn của con thì biết. Bà bạn đọc to tiếng rồi con giải thích cho bà hiểu ý nghĩa của lời bà đọc.
Tôi hỏi thêm:
– Bà dạy như thế từ bao lâu rồi?
Bà mẹ Công Giáo thưa:
– Dạ từ hai năm qua, trong khi chúng con dệt vải!

Tôi bắt đầu đặt một vài câu hỏi cho bà không Công Giáo và quả thật, bà này đã am hiểu tường tận các tín điều của Đạo Thánh Công Giáo.

Sau đó, bà mẹ Công Giáo mù chữ tự ý xin theo một lớp học bình dân để có thể truyền giáo cách đắc lực hơn. Thật là một tấm gương can đảm tuyệt vời!!!

… ”Thưa anh chị em, chúng tôi phải luôn luôn tạ ơn THIÊN CHÚA về anh chị em: đó là điều phải lẽ, vì Đức Tin của anh chị em đang phát triển mạnh, và nơi tất cả anh chị em, lòng yêu thương của mỗi người đối với tha nhân cũng gia tăng. Bởi thế, chúng tôi hãnh diện về anh chị em trước mặt các Hội Thánh của THIÊN CHÚA, vì anh chị em kiên nhẫn và có Đức Tin mỗi khi bị bắt bớ hay gặp cảnh gian truân. Đó là dấu chỉ cho thấy THIÊN CHÚA xét xử công minh: anh chị em sẽ được coi là xứng đáng tham dự Nước THIÊN CHÚA, chính vì Nước THIÊN CHÚA mà anh chị em phải chịu đau khổ .. Vì thế, lúc nào chúng tôi cũng cầu nguyện cho anh chị em: xin THIÊN CHÚA chúng ta làm cho anh chị em được xứng đáng với ơn gọi, và xin Ngài dùng quyền năng mà hoàn thành mọi thiện chí của anh chị em và mọi công việc anh chị em làm vì Đức Tin. Như thế, Danh của THIÊN CHÚA chúng ta là Đức Chúa GIÊSU KITÔ sẽ được tôn vinh nơi anh chị em, và anh chị em được tôn vinh nơi Người, chiếu theo ân sủng của THIÊN CHÚA chúng ta và của Đức Chúa GIÊSU KITÔ” (2 Thêxalônica 1,3-5/11-12).

(”ÉCHOS DE LA RUE DU BAC”, n.193, 3/1985, trang 84-86 + 3/1989, trang 86-87)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

 

Thánh Thể là bí tích của tình yêu thương, diễn tả tột đỉnh hành động cứu độ của Thiên Chúa

Thánh Thể là bí tích của tình yêu thương, diễn tả tột đỉnh hành động cứu độ của Thiên Chúa

Thánh Thể là bí tích của tình yêu thương làm nảy sinh ra lộ trình của đức tin, sự hiệp thông và chứng tá kitô. Cùng với bí tích Rửa Tội và Thêm Sức nó làm thành suối nguồn cuộc sống của chính Giáo Hội.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu trong buổi gặp gỡ chung sáng thứ tư 5-2-2014.

Tham dự buổi tiếp kiến cũng có 90 Giám Mục Ba Lan đang viếng mộ các thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và thăm Tòa Thánh. Sáng thứ tư 5-2-2014 trời Roma mưa khá lớn, nhưng nhiều tín hữu vẫn can đảm mặc áo mưa hay che dù kiên nhẫn tham dự buổi tiếp kiến. Nhiều người chạy vào trú dưới hai cánh hành lang của quảng trường và từ đó theo dõi buổi tiếp kiến trên hai màn truyền hình khổng lồ. Nhưng khi thấy xe díp của Đức Giáo Hoàng đi qua các lối chính chào dân chúng, họ lại chạy ra.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha trình bầy giáo lý về Bí tích Thánh Thể, là bí tích trung tâm của ”việc khai tâm kitô”. Đức Thánh Cha nói: điều chúng ta trông thấy khi tụ tập nhau cử hành bí tích Thánh Thể, khiến cho chúng ta trực giác được điều chúng ta sắp sống. Và ngài giải thích ý nghĩa các yếu tố của việc cử hành như sau:

Ở trung tâm không gian dành cho viỆc cử hành có bàn thờ, là một cái bàn phủ khăn, và điều này khiến chúng ta nghĩ tới một bữa tiệc. Trên bàn có thánh giá ám chỉ rằng trên bàn thờ đó được cử hành hiến tế của Chúa Kitô: chính Người là lương thực thiêng liêng mà chúng ta nhận dưới hình bánh và rượu. Bên cạnh bàn thờ có giá sách, nghĩa là nơi công bố Lời Chúa: điều này ám chỉ rằng chúng ta tụ họp nhau ở đây để lắng nghe Chúa nói qua Thánh Kinh, và như thế lương thực mà chúng ta lãnh nhận cũng là Lời Người.

Lời và Bánh trong Thánh Lễ trở thành một, như trong Bữa Tiệc Ly, khi tất cả các lời của Chúa Giêsu, tất cả các dấu chỉ Người đã làm, được cô đọng trong cử chỉ bẻ bánh và dâng chén, diễn tả trước hiến tế thập giá, và trong các lời: ”Các con hãy cầm lấy, hãy ăn, này là Mình Thầy… Hãy cầm lấy, hãy uống, này là Máu Thầy”. Cử chỉ của Chúa Giêsu đã làm trong Bữa Tiệc Ly là lời tạ ơn tột cùng Thiên Chúa Cha vì tình yêu của Người, vì lòng thương xót của Người. ”Tạ ơn” trong tiếng Hy lạp gọi là ”Eucharistia”. Đó, tại sao từ Eucaristia tóm tắt tất cả cử chỉ ấy, là cử chỉ của Thiên Chúa và cũng là của con người, cử chỉ của Chúa Giêsu Kitô, là Thiên Chúa thật và là Người thật.

Như vậy, việc cử hành Thánh Thể hơn là một bữa tiệc thường: đó là việc tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Chúa Giêsu, mầu nhiệm chính của ơn cứu độ. ”Tưởng niệm” không chỉ có nghĩa là nhớ lại, mà muốn nói rằng mỗi khi chúng ta cử hành Bí Tích này là chúng ta tham dự vào mầu nhiệm cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô. Đức Thánh Cha quảng diễn thêm về Bí tích Thánh Thể như sau:

Bí tích Thánh Thể là tột đỉnh hành động cứu độ của Thiên Chúa: thật thế, khi trở thành bánh bẻ ra cho chúng ta, Chúa Giêsu tuôn đổ trên chúng ta tất cả lòng xót thương và tình yêu của Người, đến độ canh tân con tim, cuộc sống, và kiểu tương quan của chúng ta với Người và các anh chị em khác.

Chính vì thế mà bình thường khi chúng ta tới gần Bí tích này, chúng ta nói ”lãnh nhận sự hiệp thông”, “làm sự hiệp thông”. Trong quyền năng của Chúa Thánh Thần, sự tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể khiến cho chúng ta đồng hình đạng với Chúa Kitô trong cách thế duy nhất và sâu xa, bằng cách làm cho chúng ta hưởng nếm trước ngay từ bây giờ sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa Cha, là đặc tích của bữa tiệc thiên quốc, nơi cùng với tất cả các Thánh chúng ta sẽ có niềm vui không thể tưởng tượng nổi chiêm ngưỡng Thiên Chúa mặt giáp mặt.

Anh chị em rất thân mến, chúng ta sẽ không bao giờ cảm tạ Chúa đủ vì ơn Người ban cho chúng ta với bí tích Thánh Thể. Đó là một ơn thật lớn lao và vì thế thật là quan trọng đi tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật, đi lễ không phải chỉ để cầu nguyện, mà để nhận sự Hiệp Thông, nhận lấy bánh là Mình của Chúa Giêsu Kitô, cứu rỗi chúng ta, tha tội cho chúng ta, kết hiệp chúng ta với Thiên Chúa Cha. Thật là đẹp, khi làm điều này. Và mỗi Chúa Nhật chúng ta hãy đi Lễ, bởi vì đó chính là ngày sống lại của Chúa. Vì vậy Chúa Nhật quan trọng đối với chúng ta đến thế. Và với bí tích Thánh Thể chúng ta cảm thấy sự tùy thuộc vào Giáo Hội, vào dân Chúa, vào thân mình của Chúa, vào Chúa Giêsu Kitô. Và chúng ta sẽ không bao giờ ngừng tiếp nhận tất cả giá trị và sự phong phú của nó. Như thế, chúng ta hãy xin cho Bí tích này có thể tiếp tục duy trì sống động sự hiện diện của Người trong Giáo Hội và nhào nặn các cộng đoàn của chúng ta trong tình bác ái và sự hiệp thông, theo con tim của Thiên Chúa Cha. Và điều này được thực hiện trong suốt cuộc sống, nhưng nó được bắt đầu với việc rước lễ lần đầu. Thật là quan trọng việc các trẻ em chuẩn bị tốt cho việc Rước Lễ lần đầu, và ước chi đừng có trẻ em nào không làm điều đó, bởi vì đó là bước đầu tiên của việc thuộc về Chúa Giêsu Kitô một cách mạnh mẽ, sau bí tích Rửa Tội và bí tích Thêm Sức.

Đức Thánh Cha đã chào tín hữu hiện diện tại quảng trường và chúc mọi người những ngày hành hương tươi vui. Chào các tín hữu và các Giám Mục Ba Lan Đức Thánh Cha nói: Anh em thân mến xin hãy chuyển lời chào thăm của tôi tới các linh mục, tu sĩ, giáo dân nam nữ và toàn dân Ba Lan. Tôi bảo đảm với anh em lời cầu nguyện của tôi cho anh em và những người Chúa trao phó cho sự săn sóc của anh em. Xin anh em cũng hãy cầu nguyện cho tôi. Xin Chúa chúc lành cho anh em và Giáo Hội tại Ba Lan.

Ngoài ra, Đức Thánh Cha cũng chào một nhóm Giám Muc tham dự một cuộc họp do cộng đoàn thánh Egidio tổ chức, và các linh mục đang tham dự tuần hội học về việc đào tạo nhân bản các ứng viên linh mục, do Đại học giáo hoàng Thánh Giá tổ chức. Ngài cầu chúc chuyến viếng thăm mộ thánh Phêrô là dịp canh tân dấn thân truyền giáo và loan báo Tin Mừng, cách riêng cho những người rốt hết và những người nghèo.

Ngài cũng chào các sĩ quan và binh sĩ Lữ đoàn Sassari và hiệp hội các khách sạn. Ban quân nhạc của Lữ đoàn đã trình tấu nhiều bài tạo bầu khí tươi vui hùng tráng cho buổi tiếp kiến.

Chào các người đau yếu Đức Thánh Cha nói vì trời mưa nên họ tụ tập trong đại thính đường Phaolô VI và ngài đã gặp họ trước khi bắt đầu buổi tiếp kiến. Đức Thánh Cha nhắc cho mọi người biết hôm qua là lễ nhớ thánh nữ Agata trinh nữ tử đạo. Ngài cầu mong nhân đức anh hùng của thánh nữ giúp các bạn trẻ hiểu tầm quan trọng sự trong sạch của đức khiết tịnh. Ngài xin thánh nữ giúp các anh chị em đau yếu chấp nhân thánh giá trong sự kết hiệp thiêng liêng với Thánh Tâm Chúa Kitô. Đức Thánh Cha nhắn nhủ các cặp vợ chồng mới cưới hiểu biết vai trò của nữ giới trong cuộc sống gia đình.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Chuyện những người tử tế

Chuyện những người tử tế

Việt-Long, viết lại từ news.yahoo.com/blog
2014-02-04

tyler

Tyler Gedelian, manager tiệm Goodwill ở Monroe, Michigan

Courtesy of aol.com/news

Là quản trị viên của tiệm bán hàng từ thiện Goodwill ở Monroe, Michigan, Tyler Gedelian thường kiểm soát những quần áo cũ của khách đem hiến tặng, để tìm tiền lẻ còn sót trong đó, đem nạp vào quỹ của công ty.

Thường thì anh chỉ thấy những tiền xu, đôi khi dăm đồng bạc lẻ, những dúm biên lai hay tờ ghi hàng vặt cần mua, nhất là những giấy chùi tay Kleenex, trong những quần áo thường là của người già, được con cháu, họ hàng đem hiến tặng cho Goodwill.

Nhưng hôm thứ tư (29 tháng 1, 2014), Gedelian cùng người đồng nghiệp làm chung, Laura Pietscher, không thấy những thứ đó, mà là một chiếc phong bì màu xanh, nằm trong túi một bộ suit cũ và một chiếc áo khoác ngoài.

Gedelian cho biết:”Tôi được cho rất nhiều quần áo hiến tặng, và khi kiểm soát qua các túi như thường lệ, tôi thấy một phong bì màu xanh ló ra khỏi túi một chiếc áo choàng. Lấy ra, tôi vẫn nghĩ trong đó toàn là giấy rác “

Anh nói tiếp với báo Detroit News :”Nhưng khi mở phong bì, thì lạ thay, tôi thấy nhiều xấp giấy 100 đô la cột riêng với nhau.”

Tổng cộng đếm được  43 ngàn đô la. Không chút do dự, Gedelian gọi cảnh sát.

Điều tôi lo nhất là làm sao trả lại tiền cho đúng người chủ của nó” Người quản trị viên nói với báo Monroe Evening News, “Tôi không thể tưởng tượng mình ra sao nếu mất món tiền lớn như vậy. Tôi thấy áy náy quá khi giữ số tiền lớn như vậy của người khác”

May là tìm được một cái bóp trong những xấp tiến giấy trăm đó, cảnh sát tìm ra ngay người chủ sở hữu món tiền. Người này, yêu cầu không nêu tên, cho biết ông dọn dẹp để bỏ bớt đồ đạc trong tủ của một thân nhân cao niên, và đem quần áo cũ trong đó để cho Goodwill, không hề biết có tiền trong những quần áo ấy.  Ông tỏ ra kinh ngạc khi biết người thân có nhiều

money

Xấp tiền 43 ngàn đô la

tiền cất giấu như vậy, và nói Gedelian quả thật rất lương thiện khi tìm ra số tiền.

”Tôi thấy những người ở Goodwil đó thật đáng hãnh diện. Tôi cảm thấy rất vui khi có những người như vậy ngoài xã hội, nhất là trong thời gian hiện tại”

Ông nói sẽ sớm đích thân đến cám ơn Gedelian và Pietcher. “Thời buổi này không có nhiều những người lương thiện như vậy. Tôi muốn cảm tạ họ từ đáy lòng. Trong thế giới mà chúng ta đang sống ngày nay, ta cần có thêm nhiều những con người và đức tính như thế.”

Hồi năm ngoái, 2012, có một ông đem tặng đôi giày cũ cho Goodwill mà không biết vợ ông đã dấu tiền tiết kiệm cả đời, khoảng 3 ngàn 300 đô la, trong đôi giày đó. Tiệm Goodwill để dành riêng số tiền đó ra, hy vọng chủ nhân sẽ tới lấy. Và họ đã tới.

Bên dưới bài báo, người ta gặp nhiều câu chuyện kể của người đọc, chứng tỏ những người lương thiện với tinh thần danh dự như vậy không phải là hiếm có trong thời nay, như người được lấy lại 43 ngàn đô la đã quan ngại.

Bà Lori F kể rằng người ông 92 tuổi của bà đánh rơi cái bóp ở tiệm Price Chopper cạnh bên nhà, trong đó có tất cả số tiền an sinh xã hội ông vừa đổi check lấy tiền mặt.

Một cô làm công 16 tuổi của tiệm đó nhặt được, đem đưa tới phòng dịch vụ cho khách hàng. Với số lương nhỏ nhoi của cô, cô bé nếu có rút lấy một ít tiền trong đó thì cũng chẳng ai biết, nhưng cô không làm thế. Tiệm Price Chopper gọi điện thoại cho người ông của bà Lori, lúc đó vừa về tới nhà và nhận ra bị mất bóp. Ông cụ cảm kích sự lương thiện của cô gái, và dù thu nhập nhỏ nhoi bằng tiền an sinh xã hội, ông rút một tờ 50 đô la ra cho cô. Cô không nhận, nhưng ông cụ nhất định phải đưa, không chấp nhận sự từ chối. Bà Lori kết luận, ông cụ và cô gái đều là những người đáng được luôn luôn kính trọng.

Một người với bút danh Seen Enough kể chuyện ông nhận cú điện thoại từ một người lượm được cái bóp của vợ ông rơi bên đường. Bà vợ để chiếc bóp trên nóc xe lúc rời khỏi thương xá, rồi quên, cứ thế lái đi. Điều thú vị, ngoài việc về người lương thiện đã nhặt được nó, là chiếc bóp nằm trên mui xe chạy tới hơn 2 miles (hơn 3 km) rồi mới rớt xuống đường, bà không hề hay biết. Chiếc bóp được trả lại với tất cả tiền mặt và thẻ tín dụng, không sót một đồng. Seen Enough viết rằng không một ai quên đi những điều tử tế, và ông luôn luôn nhớ lại chuyện này mỗi khi lái xe ngang qua nơi bà vợ rơi bóp!

Có tới hơn 2 ngàn 200 người đọc góp chuyện quanh câu chuyện của bài báo, mỗi người kể một chuyện tương tự về lòng danh dự của mình và của người khác, khi tìm đúng người để trả lại số tiền mà người đó làm mất. Có thư nói rằng bài báo trên kể một câu chuyện với nhiều tình tiết đặc biệt khiến người ta nghĩ đó là chuyện hiếm hoi, như người mất tiền và lấy lại được cũng nghĩ như thế. Thực ra thư góp chuyện của người đọc cho thấy những con người lương thiện vẫn có mặt khắp nơi, trong mọi thời gian, tuy rằng cũng có câu chuyện kể lại về một người khoe anh ta nhặt được mấy trăm đô la trong bóp có giấy tờ, nhưng đem quăng bóp đi mà không hề tìm cách trả lại tiền cho khổ chủ. Người kể lại chuyện này cho biết anh từ bỏ và không ngó mặt người bạn kia từ khi đó.

store

Cửa tiệm Goodwill ở Monroe, Michigan

Một người đọc kể lại một câu chuyện mà qua đó cô nhắn gửi là “Phải cẩn thận khi làm việc thiện”.

Có lần Janet thấy một bà mở bóp lấy đồ gì đó, làm rơi một tờ 20 đô la xuống đất mà không biết. Cô bước tới lẳng lặng nhặt lên, đưa cho bà kia và nói bà đã làm rơi tiền. Nhưng bà nọ liền dùng cái bóp đánh cô, la lên cô là kẻ móc túi. Một bà bán hàng ngay đó chạy tới giải cứu Janet. Hai người đành cười với nhau. Janet không nói bà kia có xin lỗi hay không.

Ở trên đất Mỹ người ta phải rất thận trọng khi đi đứng gần những bà già Mỹ. Người viết bài này có lần xếp hàng chờ đưa toa thuốc ở một pharmacy, đứng sau một người thanh niên người Hispanic, người này đứng sau lưng một bà Mỹ, cách chừng hơn 1 mét. Bà này đeo một cái bóp lớn ở dưới thắt lưng, xế ra phía sau. Khi quay lại nhìn thấy người thanh niên, bà già liền trợn mắt rất dữ tợn, và xoay ngoắt cái bóp ra đằng trước…

Bạn gặp trường hợp đó bạn sẽ làm gì? Vui lòng viết email trong mục góp ý cuối bài này. Tôi sẽ kể cho bạn biết người thanh niên kia làm gì vào lúc đó.

Điều 79 và 88 được áp dụng tùy tiện’

Điều 79 và 88 được áp dụng tùy tiện’

Thứ ba, 4 tháng 2, 2014

Luật sư Sơn nói ông bị xã hội xa lánh khi bảo vệ cho thân chủ bị xử theo hai điều 79 và 88 BLHS.

Phát biểu tại Geneva, luật sư Hà Huy Sơn bày tỏ quan ngại về cách áp dụng các điều luật 79 và 88 trong Bộ Luật Hình sự (BLHS) và nói ông từng bị đe dọa.

Tham dự buổi Hội thảo về Trách nhiệm của Việt Nam trong Vai trò Thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ vào hôm 04/02/2013, Luật sư Sơn nói về những khó khăn khi đại diện cho những thân chủ trước tòa tại Việt Nam.

“Vai trò luật sư của tôi là rất hạn chế. Điều 79 và 88 hạn chế quyền bảo vệ cho người bị bắt. Không có ai tôi đại diện pháp l‎‎‎ý được tuyên vô tội.

“Một số trường hợp được trả tự do ngay tại tòa nhưng vẫn chịu án tù treo hoặc bị quản chế, hoặc bị tước đoạt một số quyền công dân.

“Theo thực tế của Việt Nam thì Hiến pháp mới năm 2013 cho rằng quyền lực nhà nước là thống nhất, kể như lập pháp, tư pháp và hành pháp không độc lập.

“Do đó các ý kiến của luật sư và người bị bắt không được xem xét khách quan và tòa khó có cơ sở độc lập với các bị cáo, ” luật sư Sơn nói.

“Chủ quan và tùy tiện”

“Nội dung hai điều 79 và 88 qui định không cụ thể và rõ ràng và công dân Việt Nam rất khó xác định gianh giới đâu là quyền của công dân và đâu là hành vi bị nhà nước cấm”

Luật sư Sơn cũng bình luận về việc hạn chế theo dõi phiên tòa xử những thân chủ của ông.

“Đối với các phiên tòa xét xử tội 79 và 88 nói xét xử là công khai nhưng thực tế là xét xử kín và người thân trong nhiều trường hợp không được dự phiên tòa.

“Nội dung hai điều 79 và 88 qui định không cụ thể và rõ ràng và công dân Việt Nam rất khó xác định gianh giới đâu là quyền của công dân và đâu là hành vi bị nhà nước cấm.

“Vì thực tế như thế nên các cơ quan tiến hành tố tụng dễ áp dụng hai điều này chủ quan và tùy tiện. Hai điều này hạn chế quyền công dân do chính Hiến Pháp Việt Nam qui định.

“Tại các phiên tòa các ý kiến bị cáo và luật sư không được hội đồng xét xử thường không chú ý quan điểm của họ và thường đồng tình với quan điểm của Viện Kiểm sát,” luật sư Sơn nói.

“Bị đe dọa”

“Đôi khi tôi bị bắt lỗi và nhắc nhở và gây khó khăn cá nhân. Khi làm các vụ án cũng có nhận các cuộc điện thoại, tin nhắn đe dọa.”

Luật sư Hà Huy Sơn cũng mô tả về điều ông gọi là “không thực hiện được đầy đủ được quyền luật sư qui định theo pháp luật.”

“Đôi khi tôi bị bắt lỗi và nhắc nhở và gây khó khăn cá nhân. Khi làm các vụ án cũng có nhận các cuộc điện thoại, tin nhắn đe dọa.

“Tôi không thể xác minh được thủ phạm là ai và không có chứng cứ để trình báo cơ quan nhà nước bảo vệ mình.

“Khi bảo vệ những bị cáo bắt vì điều 79 và 88 thì tôi bị xã hội xa lánh vì khi tiếp xúc với các luật sư như chúng tôi thì họ sợ bị ảnh hưởng.

“Những người có quyền lợi từ bộ máy nhà nước và các khách hàng có nhu cầu về tư vấn pháp luật cũng e ngại vì nếu tôi làm luật sư thì họ sẽ không được đối xử công bằng.

Trả lời câu hỏi rằng ông đã chuẩn bị tinh thần khi quay trở về Việt Nam sau sự kiện tại Geneva, luật sư Sơn nói:

Mở bằng chương trình nghe nhìn khác

“Việc tôi có sự hiện diện tại đây đã có sự quan tâm của chính quyền và tôi cũng đã nói với họ rằng tôi sang đây và sẽ nói về những thực tế về pháp luật Việt Nam và về thực tế nghề nghiệp của mình đã trải qua.

“Tôi hy vọng qua sự tiếp xúc sẽ có những điều tốt hơn với nghề nghiệp của tôi và nếu có thể mong muốn có những điều tốt hơn cho đất nước Việt Nam”

Ông Hà Huy Sơn là luật sư từng có thời gian thực tập và làm việc tại Văn phòng Luật sư Cù Huy Hà Vũ và từng bảo vệ cho nhiều nhân vật bị cáo buộc các tội theo Điều 88 và Điều 79 Bộ Luật Hình sự.

Vào tháng 11 năm 2013, luật sư Sơn Bấm gửi thư phản đối việc ông không được tham gia Đại hội Đoàn Luật sư Hà Nội.

Thư của LS Sơn viết: “Tôi cực lực phản đối hành vi xúc phạm danh dự, xâm phạm nghiêm trọng quyền, lợi ích hợp pháp của luật sư của Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP Hà Nội nhiệm kỳ VIII”.

“Tôi yêu cầu Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP Hà Nội xin lỗi công khai.”

Mồng 2 Tết: Về với Gia Đình

Mồng 2 Tết: Về với Gia Đình


Lm Giuse Nguyễn Hữu An

1/31/2014

Những ngày giáp Tết, dọc dài Quốc lộ I, xe cộ nối đuôi nhau tấp nập ngược xuôi Nam Bắc. Ai cũng hối hả, nôn nao mong sớm về với gia đình.

Tết là dịp mọi người về sum họp mái ấm tình thương. Con cháu sum vầy bên cha mẹ và anh chị em hòa hợp bên nhau. Anh chị em công nhân đi chuyến xe cuối năm chấp nhận bị nhồi nhét miễn là về đến nhà.

“Ngày đầu xuân bao người đi xa, cũng về với gia đình”. Về với mẹ cha nguồn cội gia đình hay về nhà tự thắp nén hương bày tỏ tấm lòng thành của con cháu với ông bà tổ tiên.

Tết là lễ hội của gia đình. Nhà cha mẹ trở nên ấm cúng thân thương. Con cháu quy tụ về vui mừng nói cười rộn rã. Con cháu thắp nén hương trước bàn thờ tiên tổ với tâm tình thành kính tri ân rồi thì thầm với các ngài những điều nguyện ước. Quây quần quanh ông bà cha mẹ để chúc thọ tỏ lòng thảo kính và đón nhận lời giáo huấn đầu năm.Tết còn liên kết người sống với người chết, hiệp thông con cháu với tổ tiên ông bà cha mẹ đã qua đời. Nhiều người có thói quen đi tảo mộ những ngày trước Tết. Nhiều giáo xứ tổ chức Thánh lễ tại nghĩa trang để cầu nguyện cho những người thân yêu đã an nghĩ. Người ta tin rằng dịp đầu năm ông bà tổ tiên về sum họp với con cháu. Niềm tin đó có tác dụng tích cực giúp người sống luôn nhớ tới cội nguồn, sống hiếu thảo, ăn ở xứng đáng với dòng tộc của mình. Đạo lý ngày Tết tuyệt đẹp: “Uống nước nhớ nguồn”, con cháu tỏ lòng biết ơn đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên.

Người Việt rất trọng lễ giáo, coi trọng sự bền vững gia đình với những tôn ti trật tự.Trong lễ giáo thì ân nghĩa là đầu tiên.Tôn kính tổ tiên là cách tỏ ân nghĩa đối với các vị tiên nhân,ông bà cha mẹ.Lúc các ngài còn sống,con cháu phải kính mến phụng dưỡng,vâng lời chiều ăn ở sao cho các ngài hài lòng. Khi các ngài qua đời, lo an táng tử tế, con cháu thờ kính, giỗ chạp hàng năm.Việc thờ cúng tổ tiên là mạch nước ngầm trong mát vẫn mãi nuôi sống và nối kết những tâm hồn Việt giàu tình trọng nghĩa.

Mỗi người Việt đều có một đạo rất gần gũi. Đó là Đạo Ông Bà hay Đạo Hiếu.

Đạo Hiếu là cốt tuỷ của nền văn hoá Việt Nam. Hiếu là gốc của Đức. Người ta có một trăm nết nhưng hàng đầu vẫn là Hiếu.Chưa từng có người nào hiếu thảo lại bất trung,cũng như chưa từng có người hiếu thảo nào lại bất nhân.

Cốt lõi của Hiếu bắt đầu bằng: tôn kính cha mẹ lúc còn sống, thờ phượng cha mẹ lúc qua đời. Biết ơn cha mẹ phải được nói lên bằng đạo hạnh, bằng thờ cúng giỗ chạp.Đó là nhiệm vụ thiêng liêng, là phẩm chất tối cao của con người.

Việc hiếu lễ từ ngàn xưa đã in sâu vào tâm linh mỗi người. Dân tộc Việt từ Nam chí Bắc, dù ai theo tín ngưỡng nào, dù có bài bác thần linh nhưng với ý niệm “Cây có cội,nước có nguồn”, đều coi trọng gia lễ.

Ca dao đã đúc kết lòng hiếu nghĩa ấy:

Cây có gốc mới nở ngành sanh ngọn.
Nước có nguốn mới bể rộng sông sâu.
Người ta có gốc từ đâu.
Có cha có mẹ rồi sau có mình.

Biết ơn là sống tâm tình tri ân tình cha nghĩa mẹ. Cha mẹ đã hy sinh cả đời mưa nắng cho con. Cha mẹ đã sống vì hạnh phúc của con. Lòng hiếu thảo hơn mọi lễ vật mà con cái dâng cho các ngài.

Đạo Hiếu chính là đạo của lòng biết ơn.Biết ơn trời đất,biết ơn tổ tiên ông bà cha mẹ.Ơn cha nghĩa mẹ sinh thành, ơn chín chữ, đức cù lao, ơn võng cực biển trời “Ai ai phụ, mẫu sinh ngã cù lao,dục báo chi đức,hạo thiên võng cực”. Cha mẹ sinh ra ta, nâng đỡ ta từ cung lòng,vỗ về âu yếm, nuôi dưỡng bú mớm, bồi bổ cho lớn khôn, dạy ta điều hay lẽ phải, dõi theo mỗi bước đường đời của ta, tuỳ tính tình mỗi đứa con mà khuyên dạy, che chở bảo vệ con. Ơn Đức Cha mẹ như trời biển : “Công cha như núi thái sơn,nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.

Đạo Hiếu là nền tảng văn hoá gia đình. Người Việt yêu chuộng những gì là tình, là nghĩa, coi tình nghĩa hơn lý sự “một trăm cái lý không bằng một tí cái tình”; chấp nhận “bán anh em xa mua láng giềng gần”; thích “dĩ hoà vi quý”, độ lượng “chín bỏ làm mười”; quý trọng con người, không tôn thờ của cải “người là vàng, của là ngãi; người làm ra của chứ của không làm ra người”; mong muốn anh em bốn biển một nhà “tứ hải giai huynh đệ”; đề cao tinh thần khoan dung “đánh kẻ chạy đi, ai đánh người chạy lại”. Đỉnh cao của lòng nhân ái là “thương người như thể thương thân”.

Gia đình Việt Nam có nhiều thế hệ sống với nhau “tứ đại đồng đường”. Cha mẹ già không còn lo việc đồng áng, ở nhà chăm nom giữ cháu. Bầu khí gia đình luôn ấm cúng.Tuổi thơ con trẻ được ươm đầy tiếng ầu ơ của bà, câu chuyện cổ tích của ông.Từ lúc chưa rời vành nôi, trẻ thơ đã được trau dồi cái nhân cái nghĩa. Khi lớn lên, con cái lập gia thất, cha mẹ cho miếng đất dựng căn nhà, con cháu sum vầy bên ông bà cha mẹ, tối lửa tắt đèn có nhau. Chính gia sản tinh thần gia đình là chất keo nối kết tầm hồn con người lại để rồi ai ai cũng cảm thấy “quê hương mỗi người chỉ một ….đi đâu cũng phải nhớ về” (Quê hương, Đỗ Trung Quân). Dù đi học xa, đi làm xa, đi đâu xa cũng phải về với gia đình sum họp những ngày cuối năm, ngày đầu năm.Tết là những ngày thiêng liêng ấm áp tình gia đình.

Gia đình là môi trường đào tạo con người toàn diện, tỉ mỉ và hiệu lực nhất. Dưới mái trường này, con người được đào tạo cả về kiến thức, tâm hồn, tư duy, nhân cách, lối sống để rồi có đủ bản lãnh và khả năng bước vào đời sống xã hội.Gia đình là nơi đào tạo căn bản nhất lòng đạo đức, giúp phát triển cái tài, nhân rộng cái đức cho con cái vào đời.

Đạo Hiếu chính là sợi chỉ vàng nối kết mọi người, mọi sinh hoạt gia đình. Đạo Hiếu làm nên bản sắc văn hoá người Việt. Như thế, tâm thức dân Việt rất gần với Tin mừng Đạo Chúa.

Điều răn thứ bốn dạy thảo kính cha mẹ được đặt ngay sau ba điều răn về Thiên Chúa đủ nói lên tính cách quan trọng của lòng hiếu thảo.

Sách Giảng Viên dạy: “Thảo kính cha mẹ là thảo kính Chúa, tôn kính cha mẹ là tôn kính Chúa”.

Sách Huấn ca dạy : “Hỡi các con hãy nghe cha đây.Hãy xử sự sao để được độ sinh.Vì Chúa đặt vinh quang cha trên con cái,quyền lợi mẹ, Ngài củng cố nơi đàn con.

Kẻ tôn kính cha thì bù đắp lỗi lầm và trọng kính mẹ khác gì tích trữ kho tàng.Kẻ tôn kính cha sẽ hoan lạc nơi con cái, khi khẩn nguyện, sẽ được nhậm lời.Kẻ tôn vinh cha sẽ được trường thọ, người an ủi mẹ sẽ được công nơi Chúa.Kẻ kính sợ Chúa sẽ tôn kính cha,nó sẽ phục vụ các bậc sinh thành như chủ của mình.

Hãy thảo kính cha con bằng lời nói việc làm, ngõ hầu mọi phúc lành đổ xuống trên con, vì chúc lành của cha làm cho rễ chắc, còn chúc dữ của mẹ thì nhổ cả cây.

Con đừng vênh vang về việc cha con bị nhục,vì vẻ vang gì cho con, cái nhục của cha con!

Quả thế, người ta chỉ được vẻ vang lúc cha mình được tôn kính, và con cái phải ô nhục khi mẹ mình bị khinh bỉ.

Con ơi! Hãy săn sóc cha con lúc tuổi già. Sinh thời người, chớ làm người sầu tủi. Trí khôn người có suy giảm, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người.Vì lòng hiếu thảo đối với cha sẽ không bị quên lãng, nó sẽ đền bù tội lỗi cho con.

Thiên Chúa sẽ nhớ đến con, ngày con gặp khốn khó, và các tội con sẽ biến tan, như sương muối biến ta lúc đẹp trời.Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, Kẻ khinh rể mẹ, chọc giận Đấng tạo thành ra nó” (Hc 3,1-16).

Thiên Chúa muốn con cái phải hết lòng tôn kính và thảo hiếu, đặc biệt nhấn mạnh đến công ơn sinh thành của người mẹ: “Hết lòng tôn trọng cha con và đừng quên những cơn đau đớn của mẹ. Hãy nhớ rằng nhờ họ, con đã sinh ra. Làm sao con báo đền được điều họ cho con?” (Hc 7,27-28).

Sách Tôbia cũng dạy rằng :“Hãy thảo kính mẹ con. Đừng bỏ người ngày nào trong suốt đời người. Con hãy ăn ở đẹp lòng người và đừng làm điều chi phiền lòng người cả. Hỡi con, con hãy nhớ là người đã phải trải qua bao nỗi gian lao hiểm nguy vì con khi con còn trong lòng dạ người” (Tob 4,3-4).

Thánh Phaolô khẳng định, hiếu thảo là việc làm đẹp lòng Thiên Chúa: “Con cái hãy vâng phục cha mẹ trong mọi sự, vì là điều đẹp lòng Thiên Chúa” (Col 3,20).

Chính Chúa Giêsu là mẫu mực hiếu thảo với Cha, yêu mến Cha, vâng ý Cha, luôn làm đẹp lòng Cha. Là Ngôi Hai Thiên Chúa và với thân phận con người, trong vai trò làm con, Ngài đã thực hành đạo hiếu qua đời sống vâng phục cha mẹ của mình. Thánh Kinh ghi lại rằng sau khi hoàn tất công việc của Thiên Chúa tại đền thờ Giêrusalem: “Ngài theo ông bà trở về Nazareth, và vâng phục các ngài” (Lc 2,51).

Đạo Chúa cũng là Đạo Hiếu. Hiếu với cha mẹ, đấng bậc sinh thành dưỡng dục. Hiếu với Thiên Chúa và thờ phượng Ngài, Đấng sáng tạo muôn loài, dựng nên con người giống hình ảnh Ngài. Như vậy Đạo Chúa cũng chỉ gồm chữ Hiếu.Thờ lạy Thiên Chúa là chân nhận Ngài chủ tể muôn loài, con người có bổn phận tôn vinh thờ phượng tỏ bày lòng hiếu thảo. Đối với tha nhân, Đạo Chúa dạy phải sống hiếu, phải thể hiện hiếu. Điều răn trọng nhất “kính Chúa,yêu người” là điều răn của Đạo Hiếu. Không một tôn giáo nào khai triển Đạo Hiếu cho bằng Đạo Chúa. Hiếu với Chúa, hiếu với tha nhân, đặc biệt hiếu với tổ tiên ông bà cha mẹ.Vì hiếu với Chúa nên phải tu thân tích đức để làm vui lòng Chúa, xứng đáng làm con cái của Ngài.Vì hiếu với ông bà cha mẹ nên phải sống đạo làm con, giữ nề nếp gia phong lễ nghĩa, làm vinh dự cho gia đình, gia tộc. Nếu một người con không thảo kính cha mẹ, người đó không phải là một Kitô hữu đúng nghĩa. Bởi lẽ, người ấy đã không giữ luật Thiên Chúa. Giới luật Thứ Tư còn được gọi là giới răn hiếu thảo: “Thứ bốn thảo kính cha mẹ.”. Mỗi Kitô hữu đều biết hiểu và thực hành giới răn này.

Chính từ tổ tiên ông bà cha mẹ mà người Việt có thể tìm đến với Đấng là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất. Đạo Hiếu là một điểm tựa, một bước đi khởi đầu thuận lợi, một lối đi dễ dàng, gần gũi, một mãnh đất phì nhiêu để đưa con người vào Đạo Chúa. Loan báo Tin mừng của Đạo Chúa chính là làm sáng lên những nét tinh tuý tiềm tàng trong mỗi nền văn hoá. Đối với môi trường gia đình Việt Nam, đó chính là “minh minh đức”, làm sáng cái đức sáng trong môi trường gia đình. Tin Mừng chính là nguồn nước thẩm thấu qua mọi lớp ngăn văn hóa và tôn giáo. Tin Mừng là ánh sáng cho các dân tộc (LG). Tin Mừng là ánh sáng trần gian (Ga 8,12). Tin Mừng và văn hóa giao thoa và hoà điệu với nhau.

Phụng vụ Giáo Hội dành ngày Mồng Hai Tết để cầu cho tổ tiên. Hằng ngày trong mọi thánh lễ, Giáo Hội đều có lời cầu nguyện cho ông bà tổ tiên.

Đạo Chúa dạy, có một Cha trên trời mà con người phải tôn kính hiếu thảo; dạy yêu thương nhau : “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”; dạy sống chan hoà, bình dị : “anh em hãy học cùng tôi vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng”, dạy yêu quý sự sống : “Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào”.Tin Mừng làm sáng lên những giá trị sáng ngời có sẵn trong môi trường văn hoá Việt Nam, mang đến cho các giá trị văn hoá ấy chiều kích siêu việt, chiều kích cứu độ.

Tinh thần hiếu hoà, lòng thảo hiếu của người Việt là điểm son đậm đà bản sắc dân tộc.Tin Mừng bén rễ sâu vào nền văn hoá ấy làm xanh lên chồi lộc sự sống tình yêu rồi kết thành hoa trái tốt lành cho con người và cuộc đời.

Dưới ánh sáng đức tin, Đạo Hiếu không chỉ là một hành động luân lý, đạo đức xã hội mà còn là một giới luật được Thiên Chúa truyền dạy, một giới răn chỉ đứng sau ba giới răn dành riêng cho Thiên Chúa. Người Công Giáo thảo hiếu, kính trọng cha mẹ không chỉ theo ảnh hưởng của văn hóa, xã hội, tâm lý, mà còn đặt trên niềm tin tôn giáo. Thảo kính cha mẹ là điều làm đẹp lòng Thiên Chúa.

Lạy Chúa là Cha rất nhân từ,Chúa dạy chúng con phải giữ lòng hiếu thảo.
Hôm nay nhân dịp đầu năm mới Giáp Ngọ.
Chúng con họp nhau để kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ.
Xin Chúa trả công bội hậu cho những bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng con,và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối với các ngài. Amen (Lời nguyện nhập lễ, Mồng Hai Tết).

“Đêm qua ra đứng bờ ao,”

“Đêm qua ra đứng bờ ao,”

Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ
Buồn trông con nhện giăng tơ
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai.”

(Văn Phụng – Đêm Buồn)

(Lc 2: 21)

Nếu bạn và tôi, ta thử tưởng tượng một tình huống trong đó có đấng bậc anh-hùng nọ xuất thân là người Do-thái nay trở về thăm quê nhà vời vợi, bèn “ra đứng bờ ao trông cá, cá lặn trông sao, sao mờ”; thế rồi lại còn cất tiếng hát những câu lạ kỳ, như sau:

“Buồn trông chênh chếch sao Mai
Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ.
Đêm đêm tưởng giải Ngân Hà.
Ngôi sao Tinh Đẩu đã ba năm tròn.
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn.
Tào Khê nước chảy vẫn còn trơ trơ.”

(Văn Phụng – bđd)

Đã “buồn trông chênh-chếch sao Mai”, lại thấy nhớ thứ gì đó, ông bèn ới gọi: “Sao ơi sao hỡi, nhớ ai sao mờ”, nhớ như thế không chỉ mỗi “Ngôi sao Tinh Đẩu” mà thôi, nhưng là nhớ rất nhiều thứ/nhiều chuyện hơn nữa. Nhớ cả chuyện “Tào Khê nước chảy, vẫn còn trơ trơ”, và những chuyện luật lệ căn bản để trở thành người Do-thái chánh hiệu, như nhận định của đấng bậc vị vọng là thày dạy, hôm nào khi giảng giải:

“Ngay từ đầu, thánh Phaolô đã được hai thánh tông đồ hàng đầu là Phêrô và Giacôbê đồng ý về nhiều chuyện; chí ít là chuyện không nên buộc các tân tòng vừa vào Đạo phải qua thủ tục ‘cắt bì’…

Có thể, thánh Giacôbê lúc đầu cũng chọn lập trường thứ hai, tức: người ngoài Đạo muốn trở lại, buộc phải qua thủ tục ‘cắt bì’ vì khi trước họ cũng đâu buộc phải chịu “cắt bì” khi sống chung với người Do-thái cho đến lúc cuối, trước khi vào Đạo…”

“Cả bên trong nội bộ Hội thánh ở Galát cũng như ngang qua các vị trước đây từng gia nhập đoàn/nhóm của thánh Giacôbê, khi đó đã thấy mọi người đều cổ võ lập-trường chủ-trương rằng: tân-tòng nào vừa hồi-hướng trở về, đều phải thông qua tục lệ “cắt bì”, như mọi người. Thế nên, chuyện dễ thấy nhất, là: sự việc ở đây đã đính kết với thói tục địa phương. Nhiều người hẳn sẽ hỏi: nếu ta cổ võ những chuyện như thế, thì tại sao ta lại có thể hội nhập với nền văn hoá sở tại được? Nhiều vị lâu nay từng gây khó khăn hoặc trực tiếp khuấy động ở nhiều vụ –tức các bạn đạo thuộc nhóm Giacôbê- đã đến Galát sau thời gian thánh Phaolô lưu lại nơi đây, lần chót. Họ được coi như tín hữu Đạo Chúa gốc Do-thái-giáo. Các vị chủ trương áp dụng luật Torah khá triệt để, và cả đến tục “cắt bì” cũng như luật ăn đồ cúng kiếng đối với người ngoại giáo vừa trở lại, nữa…”

Vấn đề đặt ra chẳng là chuyện thứ yếu, ít quan trọng. Nhiều vị –nếu không muốn nói là hầu hết- là thành viên của nhóm bạn đạo ở Galát trước đây kính sợ Chúa, tức những người ngoài Đạo nay trở thành dân con Thiên Chúa của Israel, nhưng lại không muốn thành người có gốc Do-thái-giáo vì họ chẳng ưa thích gì tục “cắt bì”, cũng vì thế. Họ là người được thanh tẩy là cốt để dấn thân vào với cộng đoàn dân con của Chúa nhưng lại không muốn chịu phép “cắt bì”, mỗi thế thôi. Hỏi rằng: như thế phải chăng họ vẫn là người ngoài Đạo? Họ có là con cháu Abraham cùng đấng thánh tổ phụ không? Họ có thực sự chung cùng một Giao ước lành thánh với Chúa chứ?” (Xem Lm Kevin O’Shea, Phaolô, Vị thánh của mọi thời, nxb Tôn giáo 2013, tr. 182-188).

Tiếp tục tưởng tượng người hùng Do-thái-giáo nói trên, giống bất kỳ tân-tòng nào vừa mới nhập Đạo Chúa, thời tiên-khởi cũng sẽ tự hỏi xem thói-tục “cắt bì” là gì, mà ghê gớm thế?

Giáo dân tân-tòng hôm nay, có thể sẽ không buộc phải như thế nữa. Nhưng, khi tiếp cận Kinh Sách của Đạo Chúa, hẳn cũng có những lần giáo dân của ta cứ tự hỏi mình/hỏi người những câu, giống dân con nhà Đạo ở Sydney, hỏi “ông” cha ở Tuần Báo The Catholic Weekly những câu tương-tự, như sau:

“Thưa cha,

Con nhớ: khi xưa phụng vụ Đạo mình cũng để ra một ngày đặc biệt như ngày Đầu Năm Dương Lịch để cử hành thánh lễ kính nhớ việc Chúa chịu phép “cắt bì”. Nay, ngày ấy được thay thế bằng lễ “Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa”, rất long trọng. Vậy hôm nay, con kính hỏi cha xem lý do tại sao Đạo Công giáo ta từng tổ chức thánh-lễ long trọng là thế, nay lại bỏ, như thể tức là Hội thánh của ta không còn muốn nhắc nhở gì chuyện ấy hết, sao?” (Câu hỏi của một người ở Sydney, biết rất ít về thần học và lịch sử Đạo).

Là thần dân đi Đạo mà lại nói “biết rất ít về thần học và lịch sử Đạo” nhưng nhớ nhiều về phụng vụ vào dạo trước, thì chỉ có thể là dân “ta ru” tức tu ra mà thôi. Nhưng, không sao. Tu ra hay tu vào, cũng vẫn là tu miễn đừng “tu hú” hoặc “tu huyền tù” ở thế giới tục trần, dần dần rời xa Đạo là được. Vậy thì, ta cứ thử nhín chút thì giờ mà xem đấng bậc vị vọng có trọng trách giải đáp thắc mắc của tuần báo trên giải quyết ra sao. Và, giải quyết là giảng giải và nhất quyết rằng:

“Đúng như anh/chị nói, khi xưa vào ngày Đầu Năm Dương Lịch, Hội thánh có thói quen cử hành Lễ Chúa Chịu Phép Cắt Bì. Đây là ngày giờ rất thích hợp cho sự kiện xảy ra cách đích thực. Bởi lẽ sự kiện ấy xảy ra đúng một tuần lễ sau khi Chúa sinh ra đời đúng theo luật của tất cả bé trai Do-thái đều phải làm thế và khi ấy bé sẽ được đặt tên như mọi người. Thánh-sử Luca mô tả việc ấy rất rõ như sau:

“Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.” (Lc 2: 21)

Việc Chúa chịu phép cắt bì có nguồn gốc và ý nghĩa tuợng-trưng cũng rất hay. Tục lệ này bắt nguồn từ thời tổ phụ Abraham, tức chung quan niên-đại 1900 trước Công nguyên. Sách Sáng Thế Ký có ghi lại sự kiện khi ấy Abraham đã 99 tuổi, được Chúa lập Giao-ước hứa với ông là sẽ cho ông sinh con đàn cháu đống và ban cho đất Canaan làm sở hữu đến mãn đời. Cùng lúc ấy, Ngài đổi tên ông từ Abram thành Abraham (x. Stký 17: 1-8). Ngài còn dạy ông rằng:

“Đây là giao ước của Ta mà các ngươi phải giữ, giao ước giữa Ta với các ngươi, với dòng dõi ngươi sau này: mọi đàn ông con trai của các ngươi sẽ phải chịu cắt bì.11 Các ngươi phải chịu cắt bì nơi bao quy đầu: đó sẽ là dấu hiệu giao ước giữa Ta với các ngươi.12 Sinh được tám ngày, mọi con trai của các ngươi sẽ phải chịu cắt bì, từ thế hệ này qua thế hệ khác, kể cả nô lệ sinh trong nhà, hay nô lệ các ngươi dùng bạc mà mua của bất cứ người ngoại bang nào không thuộc dòng dõi các ngươi.13 Buộc phải cắt bì nô lệ sinh trong nhà cũng như nô lệ mua bằng bạc. Giao ước của Ta ghi dấu trong xác thịt các ngươi, sẽ thành giao ước vĩnh cửu.” (x. Stký 17: 10-13)

Kể từ đó, coi như dấu hiệu của Giáo ước giữa Chúa và loài người, tất cả các bé trai đều phải đem “cắt bì” vào ngày thứ 8 sau khi sanh; và việc này trở thành khuôn khổ để đi vào Giáo ước giống như việc người Kitô-hữu hôm nay lĩnh-nhận ơn thanh tẩy, vậy. Đến thánh Phaolô cũng lấy làm kiêu-hãnh về tục-lệ này của dân Do-thái khi thánh-nhân bảo: tôi chịu cắt bì ngày thứ tám, thuộc dòng dõi Ít-ra-en, họ Ben-gia-min, là người Híp-ri, con của người Híp-ri; giữ luật thì đúng như một người Pha-ri-sêu”.(Phil 3: 5) Xem như thế, thì “cắt bì” làm cho người Do-thái khác với dân ngoại, tức những người chẳng bao giờ chịu tuân theo tục-lệ này hết.

Vì thế nên, việc Chúa chịu phép “cắt bì” chứng tỏ Ngài là người thật, được sinh ra từ người nữ thuộc giống giòng Do-thái là xứ sở Ngài hạ sinh để cứu vớt họ. Chúa tuyển chọn dân riêng của Ngài như sách Cựu ước đã chứng mình là để chuẩn bị con đường cho Con Một Ngài Nhập thể làm người là Đấng Mêsia đã được xức dầu ngõ hầu giải-thoát mọi người khỏi mọi tội lỗi họ mắc phạm và kiến tạo Giao ước mới với họ một cách dứt khoát.

Việc Chúa chịu phép cắt bì còn có giá trị tượng-trưng rất lớn. Đó là việc Ngài chấp-nhận đổ máu Ngài lần đầu tiên song song với việc tên lính hầu La Mã đã đâm thủng “nương long” Ngài khi Ngài kêu “khát nước” trên thập tự/khổ giá (x. Ga 19: 34). Việc này còn cho thấy trước giòng thanh-tẩy nhờ đó mọi Kitô-hữu cũng được chung phần đi vào với Giao ước của Chúa. Về việc này, thánh Phaolô còn viết thêm, như sau:

“Trong Người, anh em đã được chịu phép cắt bì, không phải phép cắt bì do tay người phàm, nhưng là phép cắt bì của Đức Ki-tô, có sức lột bỏ con người tội lỗi của anh em.12 Anh em đã cùng được mai táng với Đức Ki-tô khi chịu phép rửa, lại cùng được trỗi dậy với Người, vì tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết.(Col 2: 11-12)

Khi Chúa chịu phép cắt bì, Ngài được đặt tên bằng danh-tánh mà thần-sứ đã báo cho cả thánh Giuse (Mt 1: 2) lẫn Đức Mẹ nữa (Lc 1: 31). Danh-tánh Chúa Giêsu có nghĩa: Ngài là Đấng Cứu Thế, cho nên thần-sứ mới báo cho thánh cả Giuse rằng: Trẻ này sẽ được gọi là Giêsu, bởi “Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”. (Mt 1: 21)

Lễ Chúa Chịu Phép Cắt Bì khi xưa được cử-hành vào ngày thứ 8 sau Giáng sinh, tức đúng nhất vào ngày 1 tháng Giêng Dương lịch, kể từ các thế kỷ đầu đời. Lễ Giáng Sinh lần đầu được mừng vào ngày 25 tháng Chạp sớm nhất vào thế kỷ thứ 4. Bởi lẽ, ngày 1 tháng Giêng là ngày đầu năm mới của Tây Lịch, nên Lễ mừng dành cho Kitô-hữu khi ấy đụng phải lễ hội của người ngoại giáo cũng mừng cùng một ngày, như người đời vẫn giữ tập-tục này cho đến hôm nay. Theo nghi-thức của người Gals thì Lễ Cắt bì khởi sự được cử hành từ thế kỷ thứ 6 và theo lịch của người sắc tộc Byzantin là vào thế kỷ thứ 8 và thứ 9. Từ thế kỷ thứ 7 ở Rôma, mọi người ở đây cũng có thói lệ mừng ngày Bát Nhật Giáng Sinh cũng vào dịp ấy.

Dù lễ này được gọi là Lễ Chúa Chịu Phép Cắt Bì, nhưng nội dung phụng vụ thánh lễ lại bao gồm nhiều điều nói đến Đức Mẹ. Cho đến năm 1960, lịch Công giáo La Mã vẫn có thói quen cử hành lễ Chúa Chịu Phép Cắt Bì vào ngày 1 tháng Giêng dương lịch và Bát Nhật Giáng Sinh trong cùng một ngày như thế. Sau lần duyệt xét lịch Đạo từ năm 1960, ngày 1 tháng Giêng được gọi một cách đơn giản là Lễ Bát Nhật Giáng Sinh, thôi. Nhưng cuối cùng thì, theo Lịch Công giáo La Mã ấn hành từ năm 1969, lễ này trở thành Lễ trọng gọi là Lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng vẫn được qui chiếu làm Lễ Bát Nhật Giáng Sinh. Điều này phù hợp với sự việc ta cử hành mừng kính vai trò làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Mẹ rơi vào đúng Bát Nhật Giáng Sinh, khi ta cử hành Sinh Nhật của Con Thiên Chúa làm người. Và thêm nữa, lễ mừng Tên thánh của Chúa Giêsu được cử hành vào ngày 3 tháng Giêng mỗi năm, như sự thường.” (xem Lm John Flader, The Circumcision of Christ, Question Time, The Catholic Weekly 29/12/2013)

Xem thế thì, “Cắt Bì” hay cắt “da qui đầu” theo cổ lệ của người đi đạo Do-thái-giáo, là như thế. Như thế, tức như thể: mỗi khi gia-nhập nhóm hội/đoàn thể nào đó ở xã-hội, người người đều thấy người gia-nhập buộc phải tuân theo một số qui-định hoặc qui-luật nào đó, cho thuận lợi. Thuận lợi càng nhiều, thì xã-hội ấy/đạo-giáo ấy càng có cơ phát-triển và nổi tiếng.

Tuy nhiên, càng nhiều luật-lệ hoặc càng bó buộc nhiều vào qui-định này khác, thì đạo ấy/xã-hội nọ lại sẽ có cơ bị nhiều người có lập-trường hoặc quyết-tâm đối chọi, rồi từ từ cũng sẽ từ-bỏ hoặc lơ là cả luật-lệ hoặc tục-lệ, giống như thế.

Tương tự như thế, vừa qua, toà thánh La Mã lại đã đề cao cảnh-giác một số tục-lệ được nhiều người ở trời Tây “đổ xô” hoặc rủ rê nhau tìm đến với lý lẽ để duy trì lòng tin/yêu hoặc “lòng đạo” xưa nay vẫn có. Lời cảnh-báo, có ghi rõ như sau:

“Bộ trưởng Thánh Bộ Tín Lý đã cảnh-báo người Công-giáo Hoa-Kỳ về việc các vị này hay tham dự các lễ lạy mừng kính điều mà nhiều người cho rằng Đức Mẹ cũng đã hiện ra ở Medjugorje, xứ Bosnia-Herzegovina.

Đức Tổng Giám Mục Carlo Maria Vigano, sứ thần Toà thánh, có viết cho ngài Ronny Jenkins, Tổng Thư Ký Hội Đồng Giám mục Hoa Kỳ và nhắc nhở ông về chuyện Đức Mẹ hiện ra ở đây lâu nay vẫn chưa được Toà Thánh La Mã xác-chứng coi đó là việc đúng thực.

Sau đó, Đức Tổng Giám Mục Vigano có viết trong thư luân-lưu của ngài những điều như sau: “Hàng giáo sĩ cũng như giáo-dân của ta không được phép tham-dự bất cứ buổi họp mặt, hội-thảo, mừng kính công-khai nào có dụng đích khiến mọi người tin rằng việc Đức Mẹ hiện ra ở nơi đó, là sự việc được Hội thánh công nhận”. Thư nhắc nhở của Đức Tổng Giám Mục Vigano cũng được gửi đến Đức Tổng Giám Mục Gerhard Muller, Chủ Tịch Thánh bộ Tín Lý trong thư ghi rõ: “đến nay chưa có khả năng để cam kết rằng có sự việc Đức Mẹ hiện ra ở đây hoặc Mẹ có mặc-khải điều gì rất siêu nhiên”.

Cùng lúc Toà thánh La Mã nói rằng: các giáo-phận không được phép tổ chức bất cứ cuộc hành-hương nào đến Medjugorje, nhưng vẫn thêm rằng: người Công giáo vẫn có tự do đến thăm thị trấn này và/hoặc đến đó mà nguyện cầu và có điều nữa là: Giáo phận Mostar-Duvno và thủ phủ do các tu sĩ Dòng Phanxicô trông nom vẫn có bổn phận trông nom chăm sóc về mục vụ cho giáo dân ở đây.” (xem Bản tin có tựa đề: Don’t attend Medjudorje meetings, Vatican warns, The Catholic Weekly 17/11/2013 tr. 4)

Hôm nay, bần đạo cũng có dịp “ra đứng bờ ao” nào đó, nhưng không là ao nhà, mà là ao người mãi tận xứ Ba-Tư cứ suy-tư rất ư là vô tư-lự rất nhiều giờ về câu nói của cụ hướng-dẫn-viên du lịch người Iran đã nói trong lúc diễn-giải lịch-sử của đất nước từng được gọi là “ngàn đêm lẻ xứ Ba-Tư” rằng: phụng-vụ trong Đạo Công-giáo ta cũng đã vay mượn một số tập tục của đạo thờ thần lửa khi xưa gọi la Zoroastrian…”

Tiếc một điều, là vị ấy không đan-cử trường hợp nào làm chứng-cứ hỗ trợ lời khẳng định của mình. Nay, khi ra đứng bờ ao của xứ lạ quê người, bần đạo lại cũng nhớ có lần bậc thày dạy Kinh thánh từng nói Khi xưa các bậc thánh-sử của Đạo mình khi viết Kinh-thánh cũng có đưa một vài tập tục dân gian ở đời vào bài viết của mình. Và sau này, Hội thánh dùng đó đưa vào Cựu Ước và một số vào Tân-ước. Lại rất tiếc, hôm ấy cha giáo Kinh thánh Nguyễn Thế Thuấn không nói rõ đọan ấy là đọan nào.

Nay suy nghĩ nhiều bên bờ ao, hôm nào, bần đạo đây lại quay về bài ca trên mà hát thêm:

“Đêm qua ra đứng bờ ao

Trông cá, cá lặn trông sao, sao mờ

Buồn trông con nhện giăng tơ

Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai

Buồn trông chênh chếch sao Mai

Sao ơi, sao hỡi nhớ ai sao mờ.”

(Văn Phụng – bđd)

“Trông cá, cá lặn; trông sao, sao mờ” chắc chắn không phải là và cũng không giống như câu nói của ai đó vẫn cứ bảo mình “trông gà hóa quốc”. Hôm nay đây, bần đạo cũng đã trông và thấy, một bài thơ rất “mờ mờ” của ai đó, có giòng chữ như sau:

“Còn gặp nhau thì hãy cứ vui.

Chuyện đời như nước chảy hoa trôi.

Lợi danh như bong mây chìm nổi.

Chỉ có tình thương để lại đời.

Còn gặp nhau thì hãy cứ thương.

Tình người muôn thuở vẫn còn còn vương.

Chắt chiu một chút tình thương ấy.

Gửi khắp muôn phương vạn nẻo đường…”

(x. thơ Tôn Nữ Hỷ Khương tìm gặp trên điện thư và trang mạng, ở đâu đó)

Bần đạo nhớ: bài thơ trên cứ ghi thêm các câu có những vận như: “hãy cứ chơi”, “hãy cứ cười”, “hãy cứ chào”, “hãy cứ say” và “hãy cứ đi” … để rồi người luận thơ kết luận bằng một ý nghĩ vẫn cứ bảo: “Khi vui, luôn có nhau trong tình tri kỷ. Lúc buồn, cũng có nhau trong tình thương ái tương thân, nói với nhau những lời yêu thương dịu ngọt, cho nhau những nụ cười, những niềm vui, những ngọt bùi, để khi theo quy luật tự-nhiên, luật vô thường, mọi vật đều có thể mất đi, thì “chỉ có Tình Thương để lại đời”… (người luận thơ ký tên: GS TS Trần Văn Khê)

Trong giòng chảy suy tư giống như thế, bần đạo lại bắt gặp câu truyện của ai đó có nhan đề “Họa và Phúc” do bạn bè gửi đến, như sau:

“Có một vị quốc vương, khi ra ngoài đi săn không may bị đứt một ngón tay, mới hỏi vị đại-thần thân-cận nên làm thế nào? Đại-thần nói với giọng lạc-quan nhẹ nhõm: Đây là việc tốt! Quốc vương nghe vậy giận lắm, trách ông hí-hửng khi thấy người khác gặp nạn, vì thế ra lệnh nhốt ông vào đại lao.

Một năm sau, quốc vương lại ra ngoài đi săn, bị thổ-dân bắt sống, trói vào đàn tế, chuẩn bị tế thần. Thấy phù-thủy đột nhiên phát hiện quốc vương khuyết mất một ngón tay, cho rằng đây là vật tế-thần không hoàn chỉnh, bèn thả quốc-vương ra, thay vào đó lấy viên đại-thần tùy-tùng làm vật hiến-tế.

Trong niềm vui thoát nạn, quốc vương nghĩ tới viên đại thần vui vẻ từng nói rằng: mất ngón tay là việc tốt, liền ra lệnh thả ông, và xin lỗi vì đã vô cớ bắt ông chịu nạn một năm trong ngục tối. Vị đại thần này vẫn lạc quan nói: “Cái họa một năm ngồi tù cũng là việc tốt, nếu như tôi không ngồi tù, thì thử nghĩ vị đại thần theo người đi săn mà bị lên đàn hiến tế kia sẽ là ai?

Bởi vậy, việc tốt chưa chắc đã tốt hòan tòan, việc xấu cũng chưa chắc xấu hoàn toàn. Mọi việc trên đời đều có thể trở thành tốt xấu. Người bi quan mãi mãi nghĩ đến mình chỉ còn một triệu đồng mà buồn lo; người lạc quan vẫn cảm thấy hạnh phúc vì mình vẫn còn mười ngàn đồng…”

Họa là gốc của Phúc. Phúc là gốc của Họa. Họa-Phúc luân chuyển và tương sinh. Sự biến đổi ấy không thể nhìn thấy được, chỉ thấy cái kết quả của nó. Hai điều Họa-Phúc cứ xoay vần với nhau, khó biết được, nên khi được Phúc thì không nên quá vui mừng mà quên đề phòng cái Họa sẽ đến, khi gặp điều Họa thì cũng không nên quá buồn rầu đau khổ mà tổn hại tinh-thần. Việc đời, hết may tới rủi, hết rủi tới may, nên cần giữ sự thản nhiên trước những biến đổi thăng trầm, trong cuộc sống…” (trích bài viết của một người không ký tên, trên mạng về “Họa & Phúc”)

Bần đạo đây, nay trích dẫn đôi điều ở trên là để phiếm khi gặp vấn đề này khác, như: “cắt bì”, “tri kỷ”, “họa-phúc” xuất hiện ở bài thơ, bài báo lẫn câu nhạc đây đó giúp mình có được những suy nghĩ cho riêng mình. Rồi từ đó, hiên ngang sống đời còn lại để cùng với bạn đạo khác thực hiện một vài động-tác gọi là “tái rao giảng Phúc Âm” theo cương vị của mọi người như đề nghị của Đức đương kim Giáo Hòang mới đây từng đề xuất.

Nghĩ thế rồi, bần đạo bắt chước người nghệ sĩ trên, dù có hát như sau, nhưng không buồn:

“Đêm qua ra đứng bờ ao,

Trông cá,cá lặn; trông sao, sao buồn.

Buồn trông con nhện giăng tơ,

Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai.”

(Văn Phụng – bđd)

Những mong rằng: mối nhện ấy không là mối tơ vương của nhện buồn, nhưng lại là mối nhện rất thân thương của tình thương yêu trầm lắng, vẫn cứ giăng.

Trần Ngọc Mười Hai

Dám học hỏi nhiều điều

Từ chú nhện giăng tơ

Lẫn mạng lưới tình thương

Vẫn đang chờ.

Suy tư Tin Mừng Chúa nhật thứ 5 mùa thường niên năm A 09.02.2014

“Hoa cười nguyệt rọi, cửa lồng gương,”

Lạ cảnh buồn thêm, nỗi vấn vương.”

(dẫn nhập từ thơ Hàn Mặc Tử)

Mt 5 13-16

Với nhà thơ, nay cứ vấn vương một nỗi như hoa cười, nguyệt rọi, cửa lồng gương. Với nhà Đạo, xưa cũng vương vấn nhiều tình đầy hạnh phúc rất “8 mối”, được thánh-sử diễn tả ở trình-thuật.

Trình-thuật về “phúc hạnh 8 mối” hay “Hiến Chương Nước Trời”, thật ra không là lời Chúa đã nói thế, mà chỉ là lối hành văn đặc-biệt mà thánh Mát-thêu đã diễn-tả và như đường lối sáng-tác kiểu Do thái, vào thời đó. Văn-chương thời đó cốt đưa ra cho người đọc hiểu theo kiểu “bánh mì xắt lát nhiều lớp, xếp bắt chéo”. Lát đầu song song với lát cuối và lát thứ hai song song với lát áp chót, cứ thế diễn tả cách thoải mái, ý nhị. Rõ ràng là, cung cách viết lách theo kiểu này cứ xếp lớp chòng chéo nhau, chuyển thông-điệp thật rất đẹp.

Trình thuật, nay thánh Mát-thêu diễn-tả ở đoạn đầu, vào lúc Chúa cất bước lên đồi cao có chúng dân cứ thế kéo nhau đi theo; và đoạn cuối trình-thuật, lại mô-tả Chúa xuống đồi, cũng có chúng dân đi theo Ngài, rất lũ lượt. Các đoạn tiếp theo sau, thánh-sử đề-cập đến 9 mối phúc hạnh. Và, đoạn chót nhắc nhở những 3 lời rất cảnh-báo: các “lát bánh” mô-tả ở giữa bài, bàn việc thực-thi luật Torah và chuyện các ngôn-sứ thời buổi trước theo cung-cách cũng diễn-tả theo cách “tượng thanh tượng hình”, giống như thế.

Trọng tâm trình-thuật, nay thánh-sử cốt bàn về luật chính-yếu ở thời đó, như: cấm giết người, chớ ngoại tình hoặc đừng ly dị, cùng một số hành-xử khác như: thề độc, hoặc trừng phạt cùng đòi hỏi phải yêu thương cả đến kẻ thù mình, nữa. Điều này tương-xứng với yêu-cầu ở phần cuối của điều luật, là: làm cách nào xử lý tiền bạc/tài sản cho tốt đẹp và làm sao liên-hệ mật-thiết với bà con họ hàng, chốn thôn làng.

Phần giữa trình-thuật, tác-giả Mát-thêu càng đi dần vào cốt-lõi của “Hiến Chương Nước Trời”, tức: bàn về bổn-phận phải bố thí, nguyện cầu và kiêng khem. Điều, làm cho trình-thuật thánh Mát-thêu khác với thánh Luca và/hoặc các thánh-sử khác, là tác giả Mát-thêu lại đã chêm vào bản-văn mình viết “Kinh Lạy Cha” Chúa truyền-dạy như trọng-tâm mọi động-tác nguyện cầu nội-tâm; và đặc biệt là quyết-tâm tha-thứ hết mọi người.

Có thể nói, toàn-bộ công việc cải-tân luật Torah do Đức-Chúa-là-Môsê-Mới trên núi thánh, là nội-dung chính được nhắm đến trong “Kinh Lạy Cha”. Nội dung kinh này, tỏ cho thấy quan-hệ huyền-nhiệm Cha-Con rất tốt đẹp của Thiên-Chúa. Sự việc này, tăng dần với bổn phận tiên-quyết của người biết “cảm kích” quà tặng khó lường, do Cha ban. Lời kinh tập trung vào tương-quan xã-hội cũng như nhu-cầu tha-thứ hết mọi người; đồng thời, chấp-nhận sự thứ-tha của người khác. Tất cả, đã trở-thành điều quan-trọng đối với hành-xử căn bản là chúc-tụng/ngợi ca và cảm tạ Chúa phú ban món quà quí già, làm con Ngài.

Vào Mùa Chay, Hội-thánh thiết-lập nghi-thức “Khai-tâm Lòng đạo” là cốt tăng-cường ý-nghĩa quà tặng Chúa ban như nhiệm-tích thánh-thiêng đưa vào cử-hành ở Lễ Vọng Phục Sinh. Sở dĩ “Kinh Lạy Cha” đặt vào phụng-vụ của buổi ấy, là để chuẩn-bị cho những ai chấp-thuận “khai tâm lòng đạo” biết nhận ra quà của Chúa rất quí giá. Hiến Chương Nước Trời ở trình-thuật thánh Mát-thêu diễn tả giúp ta hiểu được sự việc canh-cải gồm tóm ý-nghĩa và kinh-nghiệm quí giá của quà tặng, còn nhiều hơn.

Đàng khác, tư-duy ý-nghĩa của “8 mối phúc-hạnh” nơi Hiến Chương Nước Trời, còn là suy-tư về toàn-bộ ý nghĩa rút ra từ nơi đó. Đây, là ý-nghĩa Lề-luật mà người Do-thái từng tuân-thủ rất nhiều năm ta có thói quen gọi là “Luật Torah”.

Cụm từ “Torah” ta nghe biết cũng nhiều, thật ra, là phần đầu của Kinh Thánh Do-thái và là Sách Cựu Ước dành cho mọi Kitô-hữu, tức gồm các sách: Sáng Thế, Xuất Hành, Lê-vi, Dân Số vá Đệ Nhị Luật. Các bậc thức-giả vẫn gọi đó là Sách Ngũ Thư, tức đầu đuôi 5 cuốn Kinh Sách do Môsê lập. Các điều-luật ghi ở Ngũ Thư được viết trên “chỉ cảo” duy-nhất, tức: văn-bản chính-thức được thiết-lập ngay từ đầu. Đây là Sách Thánh “tiên khởi” của Do-Thái-giáo lẫn Đạo Chúa. Người Do-thái trân-trọng Sách này với tất cả niềm vui như trọn vẹn tài sản của riêng mình.

Cụm-từ “Torah” được mọi người hiểu theo nghĩa “lề-luật của Do-thái”. Quả là, sách Ngũ Thư bao gồm rất nhiều điều-khoản, chẳng hạn như: 10 điều răn-dạy, tuyển-tập luật-pháp và một số qui-định đặc-biệt dành riêng cho người Do-thái mà thôi như: tục cắt bì, thừa kế, vv… gồm tóm nhiều truyện kể, ghi ở trong đó. Lâu nay, ta vẫn gọi đó là: “Lề-luật Do-thái”, nhưng đó không là văn-bản được chuyển-vận từ sách ghi rõ luật Torah cho người Do-thái, như đa số nhiều người vẫn hiểu thế mỗi khi nói đến Ngũ Thư, tức: sách đề-cập mỗi luật và luật, thôi.

Thật ra thì, “Torah” chỉ có nghĩa như: chỉ-thị hoặc giáo-huấn mà người Do-thái muốn mọi người chú tâm như qui-định do cha ông để lại và là luật-lệ do cha mẹ đề ra, tựa Châm ngôn 18 ở Cựu Ước. Giáo huấn rút từ Luật Torah, mang nhiều ý-nghĩa hơn các điều-luật cần được áp-dụng cách triệt-để. Đó là chỉ-dẫn giúp ta học cách quan-hệ với Chúa, và đi vào thế giới của Ngài. Có điều hay, là: ngay phần đầu Luật Torah là sách Sáng Thế Ký, lại không thấy bất cứ điều-khoản nào nói về luật-pháp mà chỉ là truyện kể, thế thôi.

“Torah” tiếng Hipri xuất tự cụm-từ Hy Lạp “nomos”, diễn tả quan-hệ ta có với Chúa, nhưng không là điều mọi người ưa thích. Chính Luther, là người đầu tiên trong Đạo đã trích-dịch cụm-từ ấy thành “điều luật” và đưa vào văn-bản Kinh-thánh cùng nền thần-học chính-mạch. Nói chung, ông muốn nói lên phản-ứng của người đi Đạo đối với hệ-thống luật-lệ rất chi tiết mà ông thấy đầy nơi cuộc sống của người Công-giáo, vào thời ấy.

Kinh thánh Do thái, ở sách cuối như: Ezra, Nêhêmiah, Ký sự 1 và 2 lại thấy có câu “Torah của Đức Chúa” như mặc-khải thánh-thiêng do Môsê điều-nghiên suy-tư. Cứ thế, “Torah” trở-thành Luật truyền-khẩu do Chúa nói cho ta biết, rồi dần dà, ta coi đó như luật viết thành văn. Tuy nhiên, bản-văn Torah viết bằng chữ, tự nó không đứng vững, nhưng được bao- bọc bằng các khoản luật truyền-khẩu, có diễn giải.

Nói chung thì, “Torah” là đường-lối giúp ta sống đúng cách; đúng phong-tục/luật-lệ của người Do-thái từ trước đến nay. Tầm-suy nguồn-gốc tiếng Do-thái, người đọc thấy: tiếng ấy có nghĩa như “Mũi tên bắn” đánh thẳng vào mục tiêu, rất trúng đích. Như, Thánh vịnh 119 có đoạn viết rất rõ:

“Luật pháp Ngài, lạy Chúa, con yêu chuộng dường bao, suốt ngày cứ suy đi gẫm lại! Mệnh lệnh Chúa làm con khôn hơn địch thủ, vì con hằng ấp ủ mệnh lệnh đó trong lòng “(Tv 119: 97-98)

Cũng tựa hồ sự việc người Công giáo lâu nay cất-giữ Mình Chúa ở “Nhà Tạm” thế nào, thì người Do-thái khi xưa cũng lưu-trữ Luật Torah trong “Khám” ở hội-đường, hệt như thế.

Với thánh Mát-thêu, “Torah-Mới” không là văn-bản giảng về Lề-luật hoặc Tin Mừng viết thành sách, cũng chẳng là bộ sưu-tập gồm mọi ký-ức truyền-tụng qua cửa miệng, cũng chẳng là truyền-thuyết hoặc truyện kể rất “đáng nể”, nhưng là chính Chúa bằng xương bằng thịt, được ban cho ta.

Thánh Mát-thêu ưa gọi Tin Mừng mình viết như “Sáng Thế Ký” mới của Đạo. Thật ra thì, Sáng Thế Ký ở Kinh-Sách là văn-bản cuối thêm vào Luật Torah theo cách hiểu này khác, đây lại là thành-tựu của bộ luật được người Do-thái xưa nay trân trọng. Đó cũng là truyện kể về cách sống của nhân loại, trong đó có phần khai-thác rất lan man, tản mạn nguy không kém. Thêm vào đó, là: đoản-văn ngẫu-hứng về tự-do và lý-sự gồm một số truyện xung-khắc nam/nữ, và/hoặc nền tảng gia-đình, tương lai nhân-loại; có sự chết, có nét đẹp và các anh-hùng-ca cùng truyện cám dỗ, có công bằng chính trực của giao ước và lề-luật, nữa.

Nói cho cùng, đây là văn-bản/truyện kể của con người về giai-đoạn chuyển từ di-sản tổ-tiên và lòng sùng-kính rất Đạo vào tình huống hy-vọng. Sáng Thế Ký có đoạn nói rõ: Đức Chúa là Đấng Tạo Thành Trời Đất, Ngài để mọi sự cứ thế xảy ra và biến mọi hỗn-độn thành trật-tự. Con người, đặc biệt là nữ-giới, lại được Tạo-hóa chăm-nom đặc-biệt và được ở chốn rất cao của cuộc sống, cũng rất thánh. Nói cho cùng, Sáng Thế Ký còn là truyện tình-tứ rất triệt-để và tích-cực.

Thánh Mát-thêu từng nắm rõ điều đó, nên đã tuyển-chọn các truyện kể tiêu-biểu và còn tiến xa hơn. Mở đầu Tin Mừng mình, tác-giả Mát-thêu đã sử-dụng những câu như: “Sách Cội Nguồn” về gia phả của Đức Giêsu như sau…” Rõ ràng là, với thánh Mát-thêu, Đức Giêsu là “Torah-Mới và Chung Cuộc”, tức: ý-nghĩa mới-mẻ và kết-cuộc của một Khởi-Đầu Mới” của nhân-loại khi Ngài chấp-nhận thân-phận làm Con Thiên Chúa-là-Cha-và-là-Tình-Yêu, rất thực.

Cùng một cảm-nghiệm với thánh-sử như thế, cũng nên ngâm tiếp lời thơ trên, mà rằng:

“Hoa cười nguyệt rọi, cửa lồng gương;

Lạ cảnh buồn thêm nỗi vấn vương.

Tha thướt liễu in hồ gợn bong,

Hững hờ mai thoảng, gió đưa hương.”

(Hàn Mặc Tử – Bài Cửa Sổ Đêm Khuya)

Đêm khuya cửa sổ, mở ra chân trời mới. Chân trời của Chúa, vẫn là 8 mối hoặc 10 mối rất phúc thật, nơi đời thực của mọi người.

Lm Kevin O’Shea CSsR

Mai Tá lược dịch

CON PHẢI LÀM GÌ?

CON PHẢI LÀM GÌ?

Bài sách Công vụ Tông đồ hôm nay kể về một cuộc gặp gỡ lạ lùng giữa Đức Giêsu Nadarét với anh Saun, kẻ đang bách hại các Kitô hữu.  Chính Ngài muốn gặp anh trên con đường anh đang đi.  Dưới mắt Saun, Kitô hữu là những kẻ bỏ đạo Do Thái chính thống, để chạy theo một tà phái của ông Giêsu nào đó mà họ tin là đã phục sinh.  Trong tư cách là một người Pharisêu nhiệt thành và nghiêm túc (c. 3), Sa-un thấy mình có bổn phận phải trừng trị những kẻ phản đạo, bằng cách bắt bớ, xiềng xích, tống ngục, thậm chí thủ tiêu (cc. 4-5).

Chính lúc đang say sưa đến gần thành Đamát thì anh bị quật ngã.  Cuộc gặp gỡ bắt đầu, đời anh từ nay giở sang một trang mới.  Khi anh đang tự tin và hiên ngang tiến bước, thì ánh sáng chói lòa từ trời làm anh ngã quỵ (c. 7).  Khi Saun nghĩ mình là người sáng mắt, thì ngay giữa trưa, anh trở nên mù lòa (c. 11).  Khi anh định chỉ đạo cho những kẻ lầm đường lạc lối, thì bây giờ anh lại cần một người cầm tay dắt đi (c. 11).  Cuộc đối thoại bắt đầu giữa anh với người mà anh chỉ nghe tiếng nói.

Ngài âu yếm gọi tên anh hai lần và tự giới thiệu:  “Saun, Saun, tại sao ngươi bắt bớ Ta?  Ta là Giêsu Nadarét mà ngươi đang bắt bớ” (c. 8).  Bắt bớ các Kitô hữu là bắt bớ chính Đức Giêsu.  Đức Giêsu và các Kitô hữu là một.  Bài học đầu tiên này Saun sẽ chẳng thể nào quên.

“Lạy Chúa, con phải làm gì?” (c. 10).  Lần đầu tiên Saun gọi người mà anh không hề tin là Chúa.  Khi tuyên xưng Đức Giêsu Nadarét là Chúa, anh lập tức phó thác cho Ngài, để Ngài chỉ bảo điều mình phải làm.  Nhưng Chúa Giêsu phục sinh đã không nói gì.  Ngài trao anh cho ông Khanania, một người chưa phải là Kitô hữu.  Chính ông này cho mắt anh thấy lại và cho anh biết anh được chọn để làm chứng nhân cho Ngài trước mặt mọi người.

Đa-mát là nơi Đức Giêsu tỏ mình cho Saun, cũng được gọi là Phaolô, là nơi ông nghe tiếng gọi trở nên tông đồ cho dân Ngoại, và cũng là nơi khởi đầu cho cuộc hoán cải tận căn của ông.  Chính mặc khải của Đấng phục sinh dẫn đến ơn gọi và hoán cải.  Từ nay cuộc đời của Phaolô đi sang một hướng mới.  Giêsu đã trở nên trung tâm của đời ông. “Tôi coi tất cả như đồ bỏ, để chiếm được Đức Kitô” (Ph 3, 8).  Biến cố trên đường đi Đamát đã chia đời ông làm hai. “Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước” (Ph 3, 13).

Chúng ta cũng có những kinh nghiệm như Phaolô: ngã ngựa, mù lòa, nghe và gặp Đức Kitô, rồi hoán cải.  Như Phaolô, mong chúng ta để cho Đức Kitô Giêsu chiếm lấy mình, và trở nên người tông đồ nhiệt thành cho thế giới.

Lm Nguyễn Cao Siêu

***********************************

Xin hãy dẫn dắt con

đi từ cõi chết đến sự sống,

từ lầm lạc đến chân lý.

Xin hãy dẫn dắt con

đi từ thất vọng đến hy vọng,

từ sợ hãi đến tín thác.

Xin hãy dẫn dắt con

đi từ ghen ghét đến yêu thương,

từ chiến tranh đến hòa bình.

Xin hãy đổ đầy bình an

trong trái tim chúng con,

trong thế giới chúng con,

trong vũ trụ chúng con.

(Mẹ Têrêxa Calcutta)

From: ThiênKim & Nguyễn Kim Bằng