Hãy yêu thương nhau

Hãy yêu thương nhau

tocngan k1

“Một người phụ nữ vừa bước ra khỏi nhà thì nhìn thấy có 3 cụ già râu tóc bạc phơ đang ngồi trên phiến đá ở trước sân nhà. Bà không quen biết họ, nhưng là người tốt bụng, bà lên tiếng nói: “Tôi không quen biết các cụ nhưng chắc là các cụ đang đói bụng lắm, vậy xin mời các cụ vào nhà tôi dùng một chút gì cho ấm bụng nhé… “.

– Rất tiếc thưa bà, cả ba chúng tôi không thể vào nhà bà cùng một lúc được. Họ đồng thanh đáp.

– Vì sao lại thế thưa các cụ…. Người phụ nữ ngạc nhiên hỏi.

Một cụ già bèn đứng dậy từ tốn giải thích:

– Cụ ông này tên là Giàu Sang, còn kia là cụ ông Thành Đạt, và còn lão già đây là Tình Thương. Bây giờ bà hãy vào nhà hỏi ông nhà xem sẽ mời ai trong ba lão chúng tôi vào nhà trước nhé. Người phụ nữ đi vào nhà và kể lại sự việc cho chồng.

– Ồ vậy thì tuyệt quá! Người chồng vui mừng nói.

– “Vậy thì tại sao chúng ta không mời cụ ông Giàu Sang vào trước. Cụ là điềm phước rồi đây, sẽ cho chúng ta nhiều tiền bạc của cải sung túc”. Nhưng người vợ lại không đồng ý. “Nếu vậy thì tại sao chúng ta lại không mời cụ Thành Đạt vào trước chứ… Chúng ta sẽ có quyền cao chức trọng và được mọi người kính nể. ” Hai vợ chồng cứ tranh cãi một lúc mà vẫn chưa đi đến quyết định.

Cô con gái nãy giờ đứng nghe yên lặng ở góc phòng bỗng lên tiếng nhỏ nhẹ: “Ba mẹ ạ, tại sao chúng ta không thử mời ông già Tình Thương vào nhà trước đi. Nhà mình khi ấy sẽ tràn ngập tình thương yêu ấm áp, và ông già sẽ cho gia đình chúng ta thật nhiều hạnh phúc. ”

– “Có lẽ con gái mình nói đúng”.
Người chồng suy nghĩ rồi bảo vợ, “Vậy thì em hãy mau ra ngoài mời cụ Tình
Thương vào trước đi vậy. ”

Người phụ nữ ra ngoài và cất tiếng mời, “Gia đình chúng tôi xin hân hạnh mời cụ Tình Thương làm vị khách mời đầu tiên vào với gia đình của chúng tôi”. Cụ già Tình Thương từ tốn đứng dậy và chầm chậm bước vào nhà. Nhưng hai cụ già kia cũng từ từ đứng dậy và bước
theo cụ già Tình Thương…

Rất đỗi ngạc nhiên, người phụ nữ bước lại gần hai cụ Giàu Sang và Thành Đạt hỏi:

– “Tại sao hai cụ cũng cùng vào theo… Các cụ đã chẳng nói là cả ba cụ không thể vào nhà cùng một lúc sao”. Khi ấy cả hai cụ cùng trả lời: “Nếu bà mời cụ Giàu Sang hay Thành Đạt tôi đây, thì chỉ một trong hai chúng tôi vào nhà được thôi, nhưng vì bà mời cụ ông Tình
Thương, nên cả hai chúng tôi cũng sẽ vào theo. Bởi vì ở đâu có Tình Thương thì ở đó sẽ có Giàu Sang và Thành Đạt đó bà ạ”.

Câu chuyện minh họa như nhắc nhở chúng ta điều quan trọng nhất trong cuộc đời là tình thương. Chúa Giêsu cũng vì yêu thương đã mang lấy thân phận con người để cứu độ chúng ta. Trong đời rao giảng, Chúa làm mọi việc cũng vì yêu, nhưng những người kinh sư và Pharisêu hay rình mò để bắt lỗi Người. Phúc Âm thánh Luca hôm nay đã ghi lại việc Chúa chữa người bại tay cho dù những người Do Thái đưa những luật lệ của họ ra để ngăn cản Người.

Đức Giêsu nói với họ: “Tôi xin hỏi các ông: ngày sabát, được phép làm điều lành hay
điều dữ, cứu mạng người hay huỷ diệt?” (Lc 6,9)

Lạy Chúa Giêsu mến yêu, Chúa luôn bảo chúng con hãy yêu thương nhau, nhưng chúng con quá cứng lòng nên làm khổ nhau vì tính ích kỷ của mình. Xin cho chúng con biết thực thi Lời Chúa để cuộc đời đầy những niềm vui và những nụ cười.

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

 

Lịch sử ngày Thánh Mẫu

Lịch sử ngày Thánh Mẫu
image
“Năm 2012”là tựa đề một cuốn phim rất nổi tiếng cách đây 3 năm, cuốn phim mô
tả một thiên tai như lụt thời Noe tận diệt nhân loại mà những người còn sống sót sẽ là tinh hoa của nhân loại không phải về mặt trí tuệ nhưng là nhân ái và yêu thương.
Ngày Thánh Mẫu 2012 đặc biệt hơn mọi năm, vì đây là một cái mốc đặc biệt để
nhìn lại những điều kỳ diệu Chúa và Mẹ Maria đã thực hiện suốt 35 năm qua cho những người sống sót trong cuộc đào thoát vượt biển tìm tự do. Hay nói đúng hơn đây là lần thứ 35 Mẹ qui tụ tất cả con cái Mẹ đang tản mác khắp nơi trên khắp thế giới lại dưới bóng Mẹ tại thành phố Carthage nhỏ bé này, để Mẹ yêu thương che chở và khẳng định với họ là Mẹ vẫn luôn hiện diện ở đó với họ để đồng hành và săn sóc họ dù họ có lưu lạc đến phương trời nào đi nữa. Để cảm nghiệm được NTM chính là công việc của Mẹ Maria, chúng ta hãy nhìn lại 10 ngày Thánh Mẫu đầu tiên.
image
Năm 1975, vâng lời người Anh Cả dấu yêu rời Việt Nam để bảo tồn Hội Dòng,
những tu sĩ Dòng Đồng Công đã mang theo trong tim mình ngọn lửa yêu mến
Mẹ và họ vẫn luôn khắc khoải làm thế nào để tôn vinh Mẹ và loan truyền lòng yêu mến Mẹ cho những đồng bào Việt Nam đang tha hương trên đất khách quê người.
image
Năm 1977, để thể hiện sự khát khao mong mỏi cho mọi người yêu mến Mẹ, các
bề trên Dòng đã quyết định tổ chức ngày tôn vinh Đức Mẹ và kêu mời những
người Việt Nam đang định cư tại các thành phố gần nhà Dòng đến tham dự.
Người đầu tiên làm trưởng ban tổ chức là linh mục Nguyễn Đức Thiệp, CMC. Số người tham dự có chừng hơn 500 người và nhà Dòng lo cả chỗ ngủ lẫn việc ăn uống của người hành hương. Vì lần này nhà Dòng đứng ra mời nên không gọi là Ngày Thánh Mẫu.
Ngày 3/6/1978 Ngày Thánh Mẫu lần đầu tiên được tổ chức với danh nghĩa là
“Ngày Đền Tạ Trái Tim Mẹ” do Nguyệt San Trái Tim Mẹ điều hành với số người tham dự là 1.540 người. Không có Giám mục nào tham dự mà chỉ có 28 linh mục. Thế nhưng Ngày Thánh Mẫu lần thứ hai diễn ra trong 3 ngày 1-3/6/1979 không những con số người tham dự tăng lên gấp đôi, có Đức Hồng Y Carberry, Tổng Giám Mục St. Louis, MO và Giám mục sở tại là Đức Cha Benard Law chủ tọa mà còn có Cuộc cung nghinh Thánh Tượng Mẹ Fatima với việc máy bay tung hoa tươi và truyền đơn xuống địa điểm hành lễ.
image
Điểm qua mười NTM đầu tiên, cứ mỗi lần tổ chức là một lần nữa ghi đậm dấu ấn
lời hiệu triệu của Mẹ với con cái của mình, bắt đầu từ NTM thứ 3, khách hành hương đã thấy đến từ các tiểu bang xa như California, Florida….Dịp này ĐGM đã truyền chức Phó Tế cho 5 tu sĩ Dòng Đồng Công.
Đến NTM thứ 4, số người tham dự đã hơn 6.000 người. Lần đầu tiên, một ca
đoàn Tổng Hợp đầu tiên được thành lập gồm 14 ca đoàn thuộc một số cộng
đoàn và giáo xứ trên khắp nước Mỹ cùng góp tiếng trong thánh lễ Đại Trào
thứ Bảy 13/6/1981. Huy hiệu chính thức cho NTM đã được ban Tổ Chức chọn
là huy hiệu hình tam giác có hai bàn tay chắp đang lần chuỗi. Huy hiệu này do cố tu sĩ Carôlô M.Đinh Bá CMC họa tặng NTM và anh đã chết vì bệnh ung thư xương chỉ mấy tháng sau NTM thứ 4, huy hiệu này vẫn được dùng cho tới ngày nay chỉ thay đổi màu sắc và ngày tháng cho mỗi năm.
image
NTM thứ 5 bắt đầu vào ngày 13-15 tháng 8 năm 1982 thay vì tháng 6 như
trước, số người tham dự là 8.200 người. Lần này, ngoài ĐGM giáo phận còn
có Đức Cha Giacôbê Huỳnh Văn Của thuộc giáo phận Phú Cường tham dự.
image
Với con số vượt kỷ lục là 16.000 người đã về tham dự NTM thứ 6 được tổ chức
trong 3 ngày từ 12-14/8/1983. Trong lần tổ chức này, ĐGM giáo phận đã cắt băng khánh thành Công Trường Nữ Vương Hòa Bình với tượng Đức Mẹ Tỵ Nạn cao 34 feet. Một công trình được xây cất hơn 1 năm trời do cha Hòa CMC chủ trì với sự ủng hộ của một gia đình ẩn danh tại Port Arthur. Về mặt giáo quyền, lần đầu tiên Đức Khâm Sứ Tòa Thánh Pio Laghi tới tham dự NTM cùng 4 giám mục khác.
image
NTM thứ 7 từ  ngày 10-12-1984 trùng vào dịp kỷ niệm 2000 năm sinh nhật Đức
Trinh Nữ Maria. Chi Dòng Đồng Công được tổ chức Đạo Binh Xanh Quốc Tế
cho phép đón rước tượng Mẹ Fatima Thánh Du về đặt tại Đền Thánh Khiết
Tâm Mẹ. Đặc biệt năm nay có sự hiện diện của ĐTGM Ngô Đình Thục, nguyên
TGM địa phận Huế.
Hơn 22.000 người đã nô nức đổ về thành phố Carthage, Missouri để tham dự
NTM thứ 8 trong 3 ngày 9-11-1985, cũng là kỷ niệm 10 năm tha hương. Nhân
dịp này, cha Barnabas Nguyễn Đức Thiệp, Giám tỉnh Chi Dòng Đồng Công
Hoa Kỳ và cha Piô Nguyễn Quang Đán, trưởng ban tổ chức đặt vòng hoa tưởng niệm những người đã chết vì tự do và hòa bình trên biển cả và trong suốt cuộc chiến.
image
NTM thứ 9 trùng với dịp Chi Dòng Đồng Công Hoa Kỳ mừng kỷ niệm 33 năm thành
lập Dòng 1953-1986, đã có tới 30.000 người đổ về khuôn viên Nhà Dòng. Cũng trong dịp đặc biệt này, Đức Hồng Y Bernard Law và Đức Khâm Sứ Tòa Thánh tại Hoa Kỳ cũng đến tham dự NTM.
Từ NTM thứ 10, ban tổ chức đã quyết định thời gian để tổ chức NTM sẽ là 4
ngày từ 6-9/8/1987. Dịp này, 40.000 người đã về tham dự NTM để mừng kỷ
niệm 70 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima. Dịp này mọi người đã hướng về Cha
Bề Trên Đaminh Maria Trần Đình Thủ , Sáng Lập Dòng Đồng Công và một số
linh mục tu sĩ đang bị tù tại Việt Nam.
Từ đó NTM được tổ chức ngày một nề nếp hơn và số người tham dự tăng dần
lên cho đến năm 2011 vừa rồi có khoảng 65 ngàn người tham dự.
image
2011
image
image
Nếu có ai đó hỏi rằng điều đáng nói nhất trong 35 lần tổ chức NTM là gì?
Phải chăng đó là an ninh luôn được đảm bảo hay thời tiết tốt đẹp …cho dù
có đôi lần bị mưa, hay là nhà Dòng tổ chức, sắp xếp công việc chu đáo.
Xin thưa: Không phải, mặc dù đây là những yếu tố quan trọng trong việc
tổ chức. Điều đáng nói nhất ở đây chính là Mẹ Maria. Chính Mẹ đã chọn
thành phố nhỏ bé này, và chính Mẹ đã soi sáng, dẫn dắt muôn người từ
muôn phương về đây, không có sự quảng cáo hay sức mạnh nào có thể làm
cho hàng chục ngàn người bỏ giường êm, nệm ấm để đến NTM mấy ngày liền,
ngủ lều, nằm đất, chịu đủ thứ bất tiện. Ngoài Mẹ Maria không có một tổ
chức nào, một Hội Dòng nào có thể làm được như vậy. Hầu hết những người
đã đến tham dự NTM đều cảm nhận được Tình Mẹ Maria qua các bí tích, qua
thời tiết, an ninh…….để có thể nói NTM là “những ngày của Mẹ.”
Thiên Minh
Ngày thánh Mẫu năm 2012
Từ ngày 2 tháng 8 đến ngày 5 tháng 8 năm 2012
Tại Tỉnh dòng Đồng Công Hoa Kỳ, Carthage, Missouri, USA
Hằng năm lại có một kỳ
Đại Hội Thánh Mẫu Car-thage ai ơi
Rủ nhau xếp việc nghỉ ngơi
Carthage xum họp vui nơi tình người…
(Thơ của Joseph Khoa Nguyễn)
nguồn: Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Tiền bạc – mối đe dọa truyền kiếp

 

 

Tiền bạc – mối đe dọa truyền kiếp

 

Br. Huynh Quang                               nguồn: Brother Huynh Quảng

 

Aristotle cho rằng, tiền bạc chỉ là phương tiện hữu ích, nó chỉ có giá trị khi ta dùng nó để giúp ta đạt được những điều khác.

Khi quá tích trử và gom góp cho đời sống con người, chúng ta sẽ lãng quên khả năng tích trử công đức cho đời sống vĩnh cửu

Thời xưa, các ẩn sỉ ra chợ bán hàng và dùng tiền để mua bánh mì. Nếu tiền còn dư, họ sẽ cho người nghèo hết, vì họ sợ rằng, mang tiền về sẽ làm cho họ hằng ngày bận tâm tới việc cất giữ chúng; và nguy hiểm hơn chính là họ dần dần đặt sự an toàn của mình vào số tiền trong kho đó thay vì là Chúa.

.

“Đam mê tiền của là cội rể của mọi sự dữ” (I Tim 6:10). Giàu có không phải là tội, nhưng để tiền của làm chủ đích mọi suy nghĩ và hành động của mình là điều dễ dẫn ta tới tội. Mối nguy hiểm chính là khi ta có nhiều tiền bạc, ta dễ bị đánh lừa và nhận thức sai lầm rằng: Tiền bạc có thể ban cho ta có mọi thứ ta muốn mà không cần Chúa.[1] Nhưng thực ra, tài khoản trong nhà băng, dù nhiều đến bao nhiêu cũng không thể mua được bình an, công bằng, và tự tại. Như thế, tham lam cũng được cho là gốc của các loại tội vì nó rất gần với kêu ngạo – muốn làm chủ đời mình mà không cần Thiên Chúa. Mình muốn dùng những phương tiện vật chất để đảm bảo lấy trách nhiệm cuộc sống của mình và gạt Chúa ra khỏi đời mình – không lệ thuộc vào Đấng Tạo Hóa nữa, đó là một khuôn mặt mới của tội kêu ngạo.

Nhưng thực ra, theo Beothius, “Chúng ta càng sở hữu tiền của bao nhiêu, thì chúng ta cũng mất nhiều thời gian, sức lực, và tiền của bấy nhiêu để bảo vệ chúng.”[2] Như thế, sự giàu sang không làm cho ta nên giàu có, mà làm cho ta thêm héo khô, lo lắng, và bất an. Một ẩn sĩ đã tâm sự rằng, “Một tu sĩ với nhiều tiền của sẽ như một con thuyền nặng nề dễ dàng bị chìm trong cơn bão tố.”[3]

* * *

Chàng thanh niên trong Tin Mừng đã chạy đến Chúa Giêsu để hỏi xem làm thế nào để được hưởng sự sống đời đời (x. Mt 19:17). Ngoài vấn đề giữ lề luật ra, Đức Giêsu đánh thẳng vào tâm điểm của ơn gọi làm môn đệ khi Ngài mời gọi anh ta bán tất cả của cải mình có, bố thí cho người nghèo, và theo Ngài (x. Mt 19:22). Cốt lõi của vấn đề chính là từ bỏ chính mình, đặt cuộc đời mình trong tay Chúa, và liều thân theo Chúa với phận nghèo.

Tin Mừng thuật lại người thanh niên đã giữ nhiều lề  luật trong Mười Điều Răn, (chớ giết người, chớ ngoại tình, chở trộm cắp, chớ làm chứng dối, thảo kính cha mẹ, yêu người thân cận; ở đây, anh ta không nói đến lề luật “chớ tham tham”). Rõ ràng, “Khi đối diện với luật hoàn hảo của Thiên Chúa, anh ta buộc phải đối diện với điều luật ‘chớ tham lam’ (Ex 20:17).”[4] Tham lam, tôn sùng của cải là cản trở lớn nhất để người thanh niên theo Chúa. Anh ta không muốn từ bỏ của cải mình để theo Chúa, là vì của cải đã trở thành điểm tựa cho đời anh; của cải trở thành “chúa” của đời anh. Buồn thay, chân lý đã có được trong tầm tay, tự do và bình an đã được ban tặng, nhưng chỉ vì quá bận tâm đến của cải trần thế, người thanh niên đã khước từ những giá trị vĩnh cửu mà chọn những giá trị tạm bợ chóng qua. Đọc tiếp Mt 19: 23-30, Phêrô cũng đặt một câu hỏi tương tự như thế, “Thưa Thầy, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy chúng con sẽ được gì?” Câu trả lời là các con “Sẽ được gấp trăm ở đời này và đời sau.” Ai theo Chúa với tất cả niềm tín thác đều xác tín và cảm nghiệm lời Chúa đúng tuyệt đối.

* * *

Trong thư I Timothê 6:6-10, thánh Phaolô đã khuyên nhủ rằng, “Còn những kẻ muốn làm giàu, thì sa vào cám dỗ với cạm bẫy, và lắm đam mê ngông cuồng tai hại, mà trầm luân diệt vong, hư khốn. Vì tham tiền là cội rễ mọi sự dữ. Cầu thỏa lòng tham, thì có kẻ đã lạc xa đức tin và bị bao nỗi đớn đau xâu xé.”

Với tiền bạc sẵn có trong tay, tính tham lam sẽ có cơ hội trỗi dậy. Vì tham lam không những là mong muốn chiếm đoạt điều mình không có, nhưng còn muốn sở hữu và chiếm đoạt những thứ mà mình hoàn toàn không cần đến.

Thói quen “shopping” dường như trở thành một thói quen của nhiều người, đặc biệt tại Hoa Kỳ. Thói quen đi shopping hằng tuần ở những nơi “on sales” thực ra đó là những lần mua những hàng hóa ngoài nhu cầu cần thiết. Shopping nhiều lần như thế sẽ trở thành thói quen xấu. Vì thực ra của cải vật chất phải là phương tiện để phục vụ con người, chứ chúng không thể trở nên trung tâm đời sống chúng ta và làm cho chúng ta quá bận tâm tới việc sở hữu
chúng. Quá bận tâm sỡ hữu một sự vật nào đó biểu lộ cho thấy tâm hồn ta đang ở
trong tình trạng bất an, đang muốn tìm một điều gì để khỏa lấp nỗi bất an, trống vắng ấy. Và như thế, suy nghĩ về điều gì, muốn sỡ hữu điều gì, muốn trao tặng điều gì đều là những biểu hiện khác nhau của một quả tim ẩn chứa sự khao khát muốn lấp đầy và kiếm tìm để được no thỏa.

Rất nhiều gia đình đã tan vỡ cũng chỉ vì liên quan đến tiền bạc, mua sắm vật chất.

Anh A làm lụng vất vả hằng ngày; chị B lo chăm sóc con cái và đưa chúng đi học. Rảnh rỗi đôi chút, chị đọc báo thấy “on sales” ở siêu thị này, siêu thị nọ liền lên kế hoạch, trước là chỉ để xem cho biết vì rẻ, dần dần chị mua một hai món hàng thật sự rẻ – và đúng nó rất rẻ theo giá cả thị trường. Từ từ chị B có thói quen đi shopping và mua những món hàng chỉ vì thấy
chúng rẻ và lý luận, “Nếu không mua thì uổng.”

Anh A tỏ ra khó chịu, cứ mỗi tuần đi làm về thấy nhiều món hàng mới lạ trong nhà mà vợ cho rằng mua chúng vì rẻ. Nào lá cái máy xay sinh tố, nào là cái thớt cắt thịt, nào là cái máy xay đậu, v.v,… “Chúng ta đã sắm đầy đủ rồi mà,” anh A lên tiếng. “Rẻ mà anh, on sales không mua thì uổng.” Cứ như thế, anh A dần nghĩ rằng vợ mình không biết quí công sức và đồng lương mình kiếm được; chị B lại cho rằng chồng mình tỏ ra keo kiệt không thương mình như xưa nữa, chỉ có mấy đồng bạc mà cũng đắn đo, cằn nhằn.

Mối bất hòa dần dần xuất hiện khi để cho tiền và vật chất chiếm chỗ trung tâm trong lối suy nghĩ của hai người; chủ đề của nhưng lần gặp gỡ chỉ là xoay quanh những món hàng và tiền bạc. Và để bảo vệ mình và lập trường của mình, anh A tìm những biện minh, lý lẽ để chứng mình rằng việc mình nói là đúng. Đồng thời, chị B cũng tìm mọi lý lẽ biện hộ để bảo vệ cái tôi của mình. Những cuộc nói chuyện của họ dần dần đi ra xa những chủ đề về con cái,
gia đình, bà con, bạn hữu, nhưng thay bằng là tiền, là hàng hóa vật chất. Mối rạn nứt bắn đầu khi chị B nghĩ rằng anh A không thương mình nữa; còn anh A thì cho rằng chị B không còn biết lo cho gia đình, cho mình và cho con. Cải vã, lời qua tiếng lại, bằng mặt mà không bằng lòng,… từ từ hiện diện giữa hai người,… hạnh phúc bay xa tầm hai người.

Đối với bất cứ ai, tiền bạc vật chất có thể sẽ là một đầy tớ tốt trung tín, nhưng chúng cũng có thể là ông chủ rất tồi. Anh A không hiểu được chị B đi mua sắm chẳng qua là biểu hiện một sự thiếu hụt nào đó trong con tim, trong gia đình, chứ từ ban đầu chị B đâu có ý tiêu xài phung phí. Chị B đâu có hiểu rằng việc anh A “tính toán” đôi chút đó là một sự biểu hiện sự lo lắng cho tương lai của mình, vợ và con của mình – Nơi anh A có một chút lo âu cho gia tương lai gia đình. Nếu những cuộc trò chuyện của họ nhằm vào hai điểm này, thì chắc chắn bầu khí hạnh phúc trong gia đình sẽ phát triển tốt đẹp hơn, nhưng vì trung tâm của nhưng lần trò chuyện là tiền và vật chất, nên không lạ gì chuyện bất hòa là có thật. Như thế đó, bản chất của vấn đề là tình cảm, tình yêu chứ đâu phải vật chất tiền bạc. Nhưng nếu không hiểu nội vụ đằng sau của sự kiện, mà lại quá chú trọng đến tiền bạc trên bề mặt, người ta sẽ bị dẫn đến thảm cảnh chia lìa, đau xót ngay trong gia đình và tâm hồn mình mà chính đương sự không hay biết.

Các tác giả Tin Mừng kết luận rằng, Giuđa nộp Thầy là vì lòng tham tiền bạc. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta rằng, “Chớ lo lắng về ngày mai…” (Mt 6:25). Quả thật, khi quá chú tâm đến của đời sống dương thế, con người sẽ đành mất hướng đi vào Nước Trời. Khi quá tích trử và gom góp cho đời sống con người, chúng ta sẽ lãng quên khả năng tích trử công đức cho đời sống vĩnh cửu. Đó chính là mối nguy hiểm lớn nhất của lòng tham.

* * *

Cốt lõi  của vấn đề chính là từ bỏ chính mình, đặt cuộc đời mình trong tay Chúa, và liều  thân theo Chúa với phận nghèo.

Nhìn vào chính con người của mình chúng ta thừa nhận rằng, dường như chúng ta dễ đánh giá người khác theo tiêu chuẩn “having” (có) mà không là “being” (là), đó là dấu hiệu của sự đảo lộn trật tự trong tâm thức của con người chúng ta. Chúng ta thích làm bạn với những người có tiền của, nể vị những người chức quyền và học vị cao, trong khi chúng ta ít để ý hay quan tâm đến những người bình thường khác trong cộng đoàn và xã hội. Nhưng theo đức
tin chúng ta tuyên xưng, mọi người đều là con cái Thiên Chúa và họ là anh em với nhau. Chạy theo tiêu chuẩn trần thế, ta không những coi thường phẩm giá của người khác, mà còn đánh mất căn tính Kitô của mình. Theo chân phước John Paul II, con người chạy theo cái gọi là “tiêu chuẩn cuộc sống” được hiểu là hữu dụng, có chức năng và phong phú về mặt kinh tế.[5] Với tiêu chuẩn này, con người chỉ có giá trị khi họ còn sức lao động, làm ra của cải vật chất, nếu không, họ không còn có giá trị nữa. Xét theo “tiêu chuẩn” này,các em bé và những người già yếu trở nên những “người thừa” của xã hội. Vì họ không “hữu dựng và có chức năng về mặt kinh tế.” Đến đây ta nhận định rằng, đây là sự sai lạc nghiêm trọng trong lối suy nghĩ đề cao tiền của vật chất trong đời sống và mối quan hệ. Nếu quan niệm tiền bạc lên trên giá trị con người và để cho tiền bạc điều khiển cuộc sống của mình, một ngày nào đó, không sớm thì muộn, đương sự ấy sẽ không tìm thấy “giá trị” của mình nữa; vì có lúc đời mình cũng trắng tay như một em bé mới chào đời. Chẳng lẽ khi con người trắng tay thì mình không còn giá trị?!

Tóm lại, thánh Augustino đã trải qua kinh nghiệm rong ruỗi những giá trị vật chất tạm bợ, cuối cùng cũng nhận định rằng: “Chúng ta sẽ không bao giờ có thể thỏa mãn nổi khao khát về hoàn mỹ sâu thẳm trong con người của mình bằng những giá trị tạm bợ bất toàn.”[6]

(Còn tiếp)

 

[1] Cf. Aquinas, 1368-72.

[2] Loc. 1383-88.

[3] Loc. 1383-88.

[4] Warren W. Wiersbe, Wiersbe’s Expository Outlines on
the New Testament
, 71-72 (Wheaton, Ill.: Victor Books, 1997).

[5] Cf. Loc. 1358-63.

[6] Loc. 1388-93.

 

Tản mạn chuyện giáo dục

Tản mạn chuyện giáo dục

Tác giả: TRẦM THIÊN THU

Tiếng trống khai trường đã điểm, năm học mới bắt đầu. Khai giảng niên học cũng là khởi đầu trách nhiệm mới, trách nhiệm của học sinh và sinh viên, trách nhiệm của quý thầy cô và quý phụ huynh.

Tuy nhiên, ngày 3-8-2012, báo Tuổi Trẻ đưa tin: 40% giáo viên cho rằng nếu được chọn lại nghề, họ sẽ không theo nghề sư phạm. Đây là kết quả của một cuộc khảo sát đã được nêu lên trong cuộc hội thảo khoa học, với chủ đề “Cải Cách Công Tác Đào Tạo Giáo Viên Phổ Thông”, diễn ra tại trường Đại học Sư phạm Saigon. Tin đó cho thấy một thực tế buồn!

VỀ VẤN ĐỀ THẾ NÀO?

Như mọi người đều biết rằng ngày tựu trường là ngày khai giảng, ngày nhập học sau những tháng ngày hè. Nói đầy đủ và đơn giản là “bắt đầu năm học mới”. Cái háo hức đậm “chất học trò”, nhất là những em lần đầu bước chân vào sân trường, chính thức là học sinh. Ai cũng có một thời ngồi ghế nhà trường, trung bình là 12 năm, như vậy ai cũng được học với nhiều thầy, cô.

Cái gì bắt đầu cũng quan trọng, vì “đầu xuôi” thì “đuôi lọt”. Các công ty và các cơ sở kinh doanh chọn ngày tốt để khai trương, những người buôn bán cũng coi trọng ngày khai trương sau kỳ nghỉ Tết dài. Chắc chắn ngày tựu trường cũng là sự kiện quan trọng, quan trọng không chỉ với học sinh, sinh viên, mà còn quan trọng với thầy cô và cha mẹ. Nhà văn Thanh Tịnh đã mô tả sự háo hức của một cậu học trò nhỏ lần đầu tiên đi học trong truyện “Tôi Đi Học” rất nổi tiếng của ông.

Có một thời người ta khôi hài định nghĩa thế này: “Sư phạm là ăn như (nhà) sư và ở như phạm (nhân)”. Ý nói tới cảnh khổ của sinh viên học ngành sư phạm và các giáo viên. Học sinh là tương lai của một quốc gia, có thể nói rằng quốc gia đó hưng thịnh hay yếu kém là một phần do lớp trẻ đó. Văn là người. Giáo dục tạo tính cách. Tính cách của một người có thể ảnh hưởng tới những người xung quanh, thậm chí tính cách còn có thể tạo nên số phận
con người.

Ca dao nói: “Ai ơi, đừng lấy học trò – Dài lưng, tốn vải, ăn no lại nằm”. Ôi chao, sao mà “tệ” vậy! Chẳng lẽ “cái học” ngày nay đã “hỏng” rồi chăng? Người ta không còn muốn “cái chữ” chất đầy “cái bụng” rồi ư?

Thầy cô là những người giáo dục, mệnh danh là nhà mô phạm, gọi chung là “người thầy”, rất cần thiết đối với xã hội và đất nước. Người Việt chúng ta thường nói: “Thầy nào, trò nấy”. Thầy đàng hoàng thì trò lễ phép, thầy giỏi thì trò khá. “Gần mực thì đen, gần đèn thì
rạng” là điều tất yếu. Có “lương sư” thì mới có “hưng quốc”. Người thầy cần như vậy mà ngày nay không được coi trọng. Tiền bạc không là gì, nhưng đó là cái cơ bản nhất để người thầy sinh sống, thế mà lương không đủ sống thì làm sao còn tâm trí mà chuyên tâm giáo dục?

Hồi học lớp Năm (ngày xưa gọi là lớp Nhất), người thầy của tôi chỉ dạy tiểu học mà có thể lo đầy đủ cho vợ và 10 đứa con, con lớn của ông còn trở thành bác sĩ. Điều đó cho thấy gia đình ông đủ sống nhờ đồng lương của ông, và ông cũng thoải mái mà lo việc dạy học. Còn ngày nay, chúng ta đừng e ngại hoặc che giấu sự thật, mà phải can đảm chấp nhận một thực tế phũ phàng là “40% giáo viên cho rằng nếu được chọn lại nghề, họ sẽ không theo nghề sư
phạm
”, như báo Tuổi Trẻ cho biết. Có vậy thì chúng ta mới có thể vực dậy nền giáo dục của nước nhà. Dục Tử nói chí lý: “Biết đúng mà không theo là dại, biết sai mà không sửa là mê”. Cái “mê” nguy hiểm hơn cái “sai”. Còn Khổng Tử xác định: “Có lỗi mà không sửa mới thành ra có lỗi”.

LÀM SAO ĐỂ NGƯỜI THẦY YÊU NGHỀ GIÁO?

Một câu hỏi vừa dễ vừa khó! Thiết tưởng, trước tiên người thầy phải có “cái tâm”, tức là yêu nghề và quan tâm vấn đề “hoàn thiện con người” như Chúa Giêsu dạy: “Hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Con người càng ngày càng lương thiện thì tội phạm cũng giảm theo. Nghề gì cũng vậy, không thích thì không thể
tận tụy với nghề, muốn thích thì phải hiểu biết tường tận: “Vô tri bất mộ”.

Cũng vậy, người thầy không yêu nghề và không muốn truyền đạt cho thế hệ sau những điều tốt – cả kiến thức và đạo đức, thì đó chỉ là người thầy giả danh. Song song với điều này, người thầy còn cần an tâm về mức lương, không phải đắn đo việc “làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm giờ nghỉ”, không phải dạy phụ đạo hoặc dạy thêm, không phải chạy theo thành tích, không bị so sánh trong việc dạy trường bình thường hoặc dạy trường điểm,
trường chuyên.

Nghề giáo là nghề cao cả vì được gọi là “kỹ sư tâm hồn”. Người thầy muốn bỏ nghề vì bị nhiều áp lực, kể cả việc không còn “tôn sư trọng đạo”, vì không vững lập trường, và bị tác động quá nhiều bởi ngoại tại. Người thầy mà thiếu lập trường, không có quan điểm rõ ràng thì làm sao có thể dạy học trò thành tài, chứ đừng nói thành nhân? Mà “thành nhân” quan trọng hơn “thành tài”. Thiết tưởng, muốn yêu nghề giáo thì người thầy phải tự kiểm điểm bản thân, tái củng cố lập trường và có lòng yêu thương thực sự.

PHỤ HUYNH CÓ NÊN GIÚP NGƯỜI THẦY YÊU NGHỀ GIÁO?

Lại một vấn đề nan giải hơn! Cha mẹ là những người thầy đầu tiên của mỗi con người, nhất là người mẹ. Chắc hẳn cha mẹ cũng có chút kinh nghiệm trong việc giáo dục. Tuy nhiên, việc giúp quý thầy cô yêu nghề là điều không đơn giản, thậm chí còn nhiêu khê!

Dù không có kinh nghiệm trong việc giáo dục con cái, nhưng theo thiển ý của tôi, trước tiên phụ huynh phải tôn trọng thầy cô để con cái nhận thức đúng về việc “tôn sư trọng đạo”. Học nhiều hay ít, học giỏi hay kém thì vẫn phải học đạo làm người, vì tục ngữ phân định: “Tiên học lễ, hậu học văn”. Cái “lễ” vẫn quan trọng hơn cái “văn”. Nhưng có lẽ người ta đã quá coi trọng bằng cấp, coi trọng bề ngoài, coi trọng cái “lượng” hơn cái “phẩm”, như người “tham đó, bỏ đăng”, thế nên hậu quả đã và đang xảy ra “nhãn tiền” khi ai cũng than phiền là “đạo đức xuống cấp!

Được phụ huynh thương, được học trò yêu, người thầy có thể như được tiếp sức mạnh để quyết định “tất cả vì học sinh thân yêu”. Nhưng cũng phải nói thẳng rằng “thầy phải ra thầy”, thầy không ra thầy thì không thể trách người khác không tôn trọng mình. “Lương sư hưng quốc” nghĩa là người thầy phải lương thiện và chân chính thì mới khả dĩ giáo dục thế hệ con em trở thành những công dân tốt, nhờ có những công dân tốt thì đất nước mới hưng thịnh. Công dân tốt cũng là Kitô hữu tốt, và Kitô hữu tốt cũng là công dân tốt, nhờ đó mà
Giáo hội càng ngày càng tốt đẹp và thánh thiện theo đúng ý Đức Kitô.

Ngoài ra, phụ huynh cũng nên thường xuyên trao đổi tâm sự và chia sẻ với giáo viên như những người bạn, để có thể thông cảm lẫn nhau và nâng đỡ nhau khi gặp khó khăn trong việc giáo dục, nhất là đối với những “ngựa chứng trong sân trường”.

Có nhiều dịp bàn luận và rút ra được kinh nghiệm nào là ưu điểm hoặc khuyết điểm, rồi cùng nhau hành động tốt hơn hoặc kịp thời chấn chỉnh. Hai bên không nên “đùn đẩy” hoặc giao “trọn gói” cho nhau. Mỗi bên đều có trách nhiệm giáo dục chung.

VĨ NGÔN

Cuộc đời ai cũng phải học nhiều thứ, học không ngừng. Người thầy không chỉ dạy về kiến thức, mà quan trọng hơn phải là dạy làm người, nghĩa là cách sống nhân bản, tích cực sống đạo đức của một con người. Chúng ta không chỉ học ở trường học, mà còn phải học thêm nhiều ở trường đời, đặc biệt là trường tâm linh. Chúa Giêsu là Đại Giáo Sư của Trường Tâm Linh. Bài học của Ngài dễ học và dễ thuộc, nhưng không dễ thực hành: Yêu thương. Học đến chết vẫn chưa thông suốt “bài học yêu”. Muốn thông suốt thì chỉ có nước theo cách thức
của Chúa Giêsu dạy: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm
nhường”
(Mt 11:29).

Chúc các học sinh và sinh viên biết nỗ lực học tập để hữu ích trước tiên cho bản thân, cho gia đình, sau đó là cho xã hội, cho đất nước, cho Giáo hội. Chúc quý thầy, cô biết tận tụy với công việc cao quý nhưng cũng đầy trách nhiệm, và chúc quý phụ huynh tích cực cộng tác giáo dục con em thành nhân.

TRẦM THIÊN THU

nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi

Vượt qua chính mình

Vượt qua chính mình

Tác giả: TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi pleikly
lúc 12:16 Sáng 8/09/12

VRNs
(08.09.2012) – CatholicHerald – Đây là câu chuyện thật “đầy xương máu”
của Matthêu Fradd, 28 tuổi. Chúng ta cùng rút ra bài học riêng khi đọc chuyện
đời anh trong việc chiến thắng tật “nghiện phim tươi mát”, và anh muốn giúp
người khác cũng có thể chiến thắng tật xấu như vậy. Thiết tưởng, câu chuyện của
anh có ích lợi cho chúng ta trong cuộc sống.

Matthêu Fradd bắt đầu xem phim “tươi mát” từ khi anh 8 tuổi. Anh thấy một tạp chí ở nhà
kho của một người bà con và anh bị nó “quyến rũ”. Anh cứ loanh quanh tìm điều
gì đó tương tự, và lúc anh 11 hoặc 12 tuổi, anh và một người bạn đi ăn cắp báo
ở mấy quầy báo và ở các cây xăng. Đó là những tờ báo Playboy (tay ăn chơi) hoặc
Penthouse (nhà thổ, nhà điếm). Fradd lợi dụng lúc người ta không để ý thì anh
lấy giấu trong áo.

Đó là câu chuyện mà anh kể nhiều lần trên đài truyền hình và đài phát thanh, kể
cho nhiều người ởCanada, Ai-len và Mỹ. Anh làm vậy vì anh cho rằng hình ảnh khiêu
dâm vô hại, nhưng ma quỷ dùng nó để làm mất khả năng yêu thương của con người.
Anh nói rằng nó làm suy nhược nam giới và làm thoái hóa nữ giới.

Anh và vợ là Cameron cùng con gái sống ở Ottawa, Canada. Anh nói rằng bước ngoặt
đời anh là Ngày Giới Trẻ 2000 ở Rôma. Lúc đó anh hoàn toàn không biết về tình
trạng của mình và càng đi lễ ít càng tốt. Khi diễn ra Đại hội Giới trẻ, anh bị
thu hút bởi chuyến đi tới Âu châu. Anh nói: “Tư tưởng đó lớn dần theo đức
tin hoặc khám phá Chúa Giêsu hoặc lắng nghe ĐGH nói. Thật lòng thì tôi cũng
không ham thích”.

Anh bị thuyết phục bởi các thanh niên khác trên máy bay. Anh nói: “Tôi chưa bao
giờ gặp các Kitô hữu trẻ thực sự tin vào niềm tin của họ, họ sống ngoài giáo
huấn của giáo hội về mọi thứ, kể cả về giới tính. Tôi chưa gặp những người bình
thường như vậy. Không chỉ bình thường mà rất lạnh nhạt, nhưng tự tin”
.

Anh bắt đầu cầu nguyện xin một dấu chỉ có Thiên Chúa hiện hữu. Trước đó lâu, có vẻ
như lời cầu nguyện của anh được đáp lại. Anh cho biết: “Tôi chưa bao giờ cảm
thấy vui như vậy. Tôi chỉ có cảm giác tràn ngập là Thiên Chúa có thật, Ngài yêu
thương tôi, và nếu đó là sự thật thì điều đó thay đổi mọi thứ được bao nhiêu?
Đó là quá trình tiệm tiến của sự thánh hóa”
.

Anh nhận nhiều lời khuyên về hình ảnh khiêu dâm từ các linh mục. Một số người nói
với anh rằng đó là “sự chuẩn bị khủng khiếp đối với hôn nhân”, những người khác
nói đó chỉ là “sự giải trí lành mạnh đối với giới trẻ” (Fradd cảm thấy cách nói
này không thỏa mãn).

Anh bỏ một thời gian không xem hình ảnh đồi trụy. Anh gia nhập Bộ quản lý mạng ở
Canada, và đi làm công tác đạo đức trong nước suốt một năm. Anh kết hôn năm
2006. Lúc này anh “không phải chống trả nhiều mà chỉ thi thoảng”. Anh đã sa ngã
tồi tệ. Anh nói: “Khi vợ tôi đọc Kinh thánh với các phụ nữ khác, nói với họ
về phẩm cách phụ nữ, thì tôi xem hình ảnh tươi mát”
.

Anh nói anh cảm thấy “rất xấu hổ”, và anh nói với linh mục giải tội rằng anh “yếu
đuối và mệt mỏi” vì cứ tái phạm hoài. Vị linh mục đề nghị anh xin Đức Trinh nữ
Maria trợ giúp. Anh không tin sẽ tác dụng nhưng anh nghĩ cứ thử xem sao. Anh
tâm sự: “Từ hôm đó, tôi đọc kinh Mân Côi và cầu nguyện theo ý đó. Sau mỗi chục
kinh Mân Côi, tôi nâng chuỗi Mân Côi lên trên đầu như sợi xích ở hai tay và
nói: “Lạy Đức Mẹ, xin nhận xâu chuỗi của Mẹ, bây giờ con lột bỏ xiềng xích
của lòng ham muốn đê hèn”
. Cuối cùng anh cảm thấy “cơn nghiện bỏ đi”. Và
anh đã bỏ được tật xấu đó mãi mãi.

Matthêu Fradd nói thêm: “Điều đó không xảy ra qua đêm, tôi không có ý nói nó không thể
nào lại xảy ra. Sự thuần khiết là cuộc chiến thường nhật. Nó không là đích để
bạn đạt tới và bạn tỉnh thức nghĩ rằng: Ồ, tôi thuần khiết rồi. Là một
Kitô hữu, sự thuần khiết không là đích đến, Nước Trời mới là đích đến”.

Chỉ vài tháng sau, Fradd không biết có thể giúp người khác bằng cách nào khi họ
phải đấu tranh như mình. Anh thu băng lời nói và tung lên các trang mạng “rẻ
tiền” mà anh đã từng xem. Anh được nhiều người trên thế giới trao đổi qua
e-mail.

Năm 2009, một linh mục cho anh 12.000 USD để chuyển trang ThePornEffect.com
thành cái gì đó “sạch sẽ” và chuyên nghiệp. Hiện nay, trang này mỗi ngày có
khoảng 7.000 lượt truy cập, có những bài viết và phỏng vấn những người đã làm
về công nghệ phim ảnh khiêu dâm, kể cả Donny Pauling (một cựu nhà xuất bản báo
Playboy), và April Garris (một cựu diễn viên đóng phim tươi mát).

Trang này cũng có diễn đàn “The Revolution” (Cách mạng), dành cho những người đang
muốn “vượt qua chính mình”, với những câu chuyện chiến thắng chính mình của
những người đã bỏ được thói xấu đó và mục “battle cry” (cuộc chiến nước mắt)
của những người đang giữa đường chiến đấu. Trang này gây xúc động và tự
thuật: Đọc để cảm nghiệm.

Fradd khuyên người ta nên chân thật và thừa nhận rằng những người đi nhà thờ vẫn có
thể nghiện xem hình ảnh tươi mát. Anh nói: “Những người ngồi kế tôi trong
nhà thờ có thể không tin có vấn đề về phim ảnh khiêu dâm, có thể họ cũng xem và
nghiện”
. Có những người “dị ứng” khi nói về phim ảnh khiêu dâm. Fradd bây
giờ cũng vậy.

Anh nhận ra rằng “quỷ dâm dục” không dễ triệt nếu không cẩn trọng. Anh tổ chức
những buổi họp mặt tại các quán bar hoặc CLB nhạc jazz để nói chuyện về công
nghệ phim ảnh dồi trụy. Có khi anh phỏng vấn Garris hoặc Pauling trên sân khấu.
Anh nói: “Mọi người có thể đến một môi trường lãnh đạm, mua ít rượu và chỉ
để nghe nói chuyện… Đó là cách Phúc âm hóa cũng thuyết phục được 50%”
.

Từ kinh nghiệm thực tế của mình, Fradd khuyên ăn chay, chầu Thánh Thể và lần chuỗi
Mân Côi. Anh nói: “Nếu không thể khước từ một miếng bánh, một ly cà-phê, thì
làm sao có thể cưỡng lại cơn cám dỗ về phim ảnh tươi mát? Cầu nguyện mà không
ăn chay cũng giống như đấu quyền anh với hai tay bị trói phía sau lưng vậy, và
ăn chay mà không cầu nguyện chỉ như ăn kiêng mà thôi”
.

Vấn đề không phải là xem hay không xem phim ảnh xấu, mà là cố gắng hoàn thiện và
nên thánh. Fradd nói thêm: “Chúng ta muốn là loại người đó thì khi chúng ta
chết, ma quỷ sẽ mở tiệc ăn mừng. Nó sẽ nói: Cảm ơn Chúa đã đi xa. Tôi không
muốn ma quỷ ăn mừng, và tôi nghĩ chắc hẳn các bạn cũng muốn như tôi”
.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ CatholicHerald.co.uk)

 

Xưng tội, Rước Lễ lần đầu của cháu ngoại.

Xưng tội, Rước Lễ lần đầu của cháu ngoại

Tác giả: Phùng văn Phụng 

http://translate.google.com/translate?hl=en&sl=vi&tl=en&u=http%3A%2F%2Fkeditim.net

  

Colby xúng xính trong bộ đồng phục quần dài đen, áo sơ mi trắng, có thắt nơ đỏ ở cổ áo. Con gái mặc đầm, đội khăn lúp trên đầu. Các cháu vui vẻ, hân hoan, nói cười ríu rít, trong khi các cô giáo lăn xăn, sắp xếp chỗ ngồi cho các em. Các em thực tập đọc bài đọc 1 và 2 cũng như đọc lời cám ơn quý Cha, quý thầy cô và cha mẹ, ông bà. Năm nay khoảng một trăm bảy mươi em xưng tội, rước lễ lần đầu. 

Các cháu trai ngồi bên phải, các cháu gái ngồi bên trái. Nhìn các cháu tuởng chừng như những “thiên thần bé nhỏ”. Khi rước lễ, theo sự hướng dẫn của thầy cô, từ trong hàng ghế, thứ tự đi ra đứng hàng dọc, chầm chậm đi lên gần cung thánh để được rước lễ lần đầu.

 Colby năm nay vừa đã được 9 tuổi là tuổi xưng tội, rước lễ lần đầu. Mỗi tuần ông ngoại đều chở hai cháu ngoại đi nhà thờ vì hai ngày cuối tuần hai cháu ngoại ở với ông bà ngoại để đi học đàn Piano, học Giáo lý, Việt ngữ ở Giáo xứ Đức Kitô Ngôi Lời Nhập thể

Trọn ngày thứ bảy, khi các em tĩnh tâm từ 8 giờ sáng cho đến ba giờ chiều thì phụ huynh cũng được hướng dẫn đến hội trường để tìm hiểu cách xưng tội để giúp con em mình.

Năm nay các cháu phải học thuộc Kinh Lạy Cha, Kinh Kính Mừng và Kinh Sáng Danh, Kinh 10 điều răn và Kinh ăn năn tội. Colby đọc thuộc lòng bằng tiếng Việt  Kinh Lạy Cha, Kinh Kính Mừng, Kinh Sáng Danh và Kinh 10 điều răn nhưng tới Kinh ăn năn tội thì Colby chỉ đọc thuộc lòng bằng tiếng Mỹ mà thôi.

Mỗi thứ bảy cháu về sống với ông bà ngoại. Ông ngoại tập dạy thêm cho Colby kinh 10 điều răn trước khi ngủ. Vậy mà hơn hai tháng cháu mới thuộc hết kinh 10 điều  răn. Còn Kinh ăn năn tội mặc dầu dạy cho Colby tiếng Việt nhưng Colby không thể đọc trọn câu kinh bằng tiếng Việt được. Colby được học cách:

 Xét mình

 Ăn năn tội  Dốc lòng chừa

 Xưng tội

 Đền tội.

Trong hội trường có nhiều phòng mỗi phòng có các Cha ngồi chờ các cháu vào xưng tội. Tất cả các em cùng lớp với Colby ngồi thứ tự theo hàng dọc, ngay ngắn trước phòng bên phải của hội trường chờ đợi xưng tội. Tôi đứng gần đó để chờ xem thái độ của Colby ra sao?

Sau khi xưng tội xong, Colby đi ra nắm tay ông ngoại kéo đến phòng Đền tội.

Phòng đền tội là một phòng tối ở bên phải của trường “Mẫu Tâm”. Cuối phòng có để bàn thờ Chúa chịu nạn, trên tường đèn thật sáng chiếu vào hình Chúa chịu nạn.

Colby quỳ xuống hai bàn tay chấp lại trước ngực, đọc kinh Lạy Cha. Ông ngoại cũng quỳ với cháu ngoại nghe cháu ngoại đọc kinh. Sau khi đọc kinh xong cháu đứng dậy cúi đầu và kéo ông ngoại ra khỏi phòng.

Xưng tội là làm hòa với Thiên Chúa thông qua Linh mục đại diện Chúa lắng nghe lời thú tội của hối nhân, để hướng dẫn, “advise” để con người trở lại thân thiết với Chúa, gần gủi Chúa hơn và cũng từ đó kết hợp với mọi người.

Cháu được rước lễ là được gặp gỡ Chúa trong mình Thánh Chúa để được thánh hóa, được ơn nghĩa Chúa trong đời này lẫn đời sau.

Cảm tưởng của ông bà, cha mẹ khi con cháu được rước lễ lần đầu thật vô cùng sung sướng và cảm động vì cháu đã lớn, đã biết phân biệt tội lỗi, được rước Mình Máu Thánh Chúa, được gần gũi Chúa, biết yêu mến Chúa và được Chúa yêu thương. Thiên Chúa sẽ hướng dẫn chăm lo cho đời sống hàng ngày của các cháu, cũng như các cháu biết tin tưởng  vào Thiên Chúa toàn năng. 

Bà nội(người thứ ba bên trái) kế là Michelle (chị của Colby) Colby (áo trắng, thắt nơ đỏ)

ở truớc nhà thờ Ngôi lời Nhập Thể

Xin cám ơn cô giáo Thảo, các thầy cô đã bỏ rất nhiều thì giờ công sức trong  nhiều năm qua để hướng dẫn dạy dỗ tiếng Việt và giáo lý cho các cháu để các cháu không quên cội nguồn là người Việt nam và biết kính Chúa, yêu người ngay từ thời còn nhỏ.

Phùng văn Phụng

 Ngày 05 tháng 06 năm 2010

Đối chất ma quỷ

Đối chất ma quỷ

                                                               TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi pleikly lúc 1:33 Sáng 28/08/12

 

VRNs (28.08.2012) – virgin-mary  – Với những câu chuyện thật của những người và những ngôi nhà bị “ma ám”, cuốn “Exorcism: Encounters with the Paranormal and the Occult” (Trừ quỷ: Đọ sức với Siêu linh và Huyền bí) là sách mà bạn không thể bỏ xuống sau khi đọc vài trang. Nhưng khác với những cuốn tiểu thuyết tiêu biểu về ma quái, ma cà rồng, và những ngôi nhà ma ám, cuốn sách này hoàn toàn đáng tin vì là sách được viết bằng ngòi bút “sắc bén” của LM Jose Francisco C. Syquia, giám đốc Văn phòng Trừ quỷ của TGP Manila (Archdiocese of Manila Office of Exorcism), và được viết theo giáo lý Công giáo.

Tôi đã đọc cuốn sách này vài năm trước nhưng rồi để nó “ngủ yên” trên kệ sách. Tới một ngày cuối tháng Hai, lúc chúng tôi nghi là gia đình của con trai tôi là “đích nhắm” của ma quỷ. Tôi không an tâm. Đứa cháu nội yêu dấu của tôi là Juan Lorenzo bị “nhắm” tới. Là bà nội sẽ làm gì? Tôi cầu nguyện nhiều, dâng những việc hy sinh cho Chúa – và lấy sách của LM Syquia để được hướng dẫn.

Tôi bảo cháu viết ra những trải nghiệm của cháu và các chiến lược của ma quỷ, và tôi nghĩ nên viết về sách của LM Syquia làm sườn cho câu chuyện. Khi làm vậy, tôi nhận ra rằng tôi đang “khiêu chiến” với ma quỷ. Nhưng khi bạn phụng sự Thiên Chúa, bạn cứ tiến lên vì bạn cảm thấy Thiên Chúa đang thôi thúc bạn. Do đó, khi viết bản tóm lược này về cuốn sách của LM Syquia, tôi hy vọng sẽ làm cho bạn biết nhiều hơn về ma quỷ và sự hiện diện thật của ma quỷ (active presence) trên thế gian này.

MA QUỶ HIỆN HỮU!

Ai là các loại ma quỷ này? Theo LM Syquia giải thích, chúng là các thiên thần sa ngã vì kiêu ngạo và bị Tổng lãnh thiên thần Micae tống khứ khỏi Thiên đàng. Chúng ghét Thiên Chúa và chiến trường của chúng là thế gian, nơi chúng chiến đấu với các thiên thần của Thiên Chúa để giành lấy các linh hồn.

LM Syquia cũng cảnh báo chúng ta về tục lệ chữa bệnh mê tín (nhất là ở các vùng quê). Nhiều người trong chúng ta đã nghe nói về đủ loại thần linh ở chỗ này hay chỗ nọ. LM Syquia giải thích: “Đó chỉ là ma quỷ, chúng có sức mạnh như thiên thần và chúng vẫn hiện hữu sau khi sa ngã”.

Nói về việc ma quỷ tấn công một người nào đó, LM Syquia cho biết có 3 dạng. Dạng thứ nhất và phổ biến nhất là “chiếm hữu”, tức là ma quỷ kiểm soát thân xác của người đó – nhưng nó không thể kiểm soát linh hồn của người đó. Có 2 giai đoạn “câu thúc” của ma quỷ: ám ảnh và khống chế. Ám ảnh là bị ma quỷ kiềm chế thân xác nên có những ý tưởng quái gở trong ý nghĩ của người bị quỷ ám. Giai đoạn cao độ là lúc xuất hiện ý nghỉ muốn tự tử. Khống chế nghiêm trọng hơn ám ảnh. Có những “gánh nặng” hoặc nỗi thống khổ hành hạ người đó, có thể người đó cảm thấy đau nhức về thể lý, rối rắm về trí tuệ, bệnh tật về tâm lý (tâm bệnh), trầm cảm, nhìn thấy những cảnh kinh dị, và gặp ác mộng về ma quỷ. “Bị khống chế dữ dội” cũng giống như “bị ám ảnh” nhưng ma quỷ hoàn toàn kiểm soát nạn nhân.

LM Syquia liệt kê những cách mà ma quỷ có thể “ám” cả một gia đình. Ví dụ: Qua các chứng bệnh như bệnh tim, nhức đầu và đau bao tử; sự phân rẽ trong gia đình; bệnh về tâm lý và cảm xúc như tức giận và trầm cảmj; những cơn cám dỗ; kém lòng tin vào Thiên Chúa; thất bại trong công việc và các nỗ lực khác.

Trong chuyện trừ quỷ của cháu nội Juanlo của tôi, ma quỷ đã thể hiện qua các vết bầm tím trên cổ của cháu nội tôi, không thể giải thích về nguyên nhân của các vết bầm tím đó.

LM Syquia cũng cảnh báo về sự bành trướng của “Trào lưu Thời Đại Mới” (New Age Movement): “Sự ảnh hưởng huyền bí trong Thời Đại Mới có thể dễ dàng phát hiện bằng cách kiểm tra các tiêu đề sách. Có những cuốn sổ tay của ma thuật, tử vi và bói toán,… Giới trẻ đang bị thu hút vào các bộ phim như ‘Harry Potter’ và ‘Ma Thuật’, các trò chơi như ‘Dungeons and Dragons’ hoặc chương trình truyền hình như ‘Charmed’. Ngay cả trẻ em cũng không an toàn”.

LM Syquia liệt kê các cách áp dụng và các khí cụ của Trào lưu Thời Đại Mới mà người Công giáo nên tránh. Đó là những trò chơi ma thuật, bùa ngải, bói toán, cờ bạc, thôi miên, trầm mặc tiên nghiệm (transcendental meditation), phim ảnh và trò chơi khiêu dâm,… Nhiều người Công giáo đi lễ hằng ngày mà vẫn mua sách tử vi để “tham khảo”. Điều này chứng tỏ “miệng nam mô mà bụng một bồ dao găm”, chỉ tin Chúa bằng miệng!

VŨ KHÍ TÂM LINH

Thật vui khi Giáo hội đã cho chúng ta một số vũ khí mạnh mẽ để chống lại ma quỷ. Nhưng trước hết, chúng ta cần phân biệt 2 thuật ngữ: trừ quỷ và giải thoát. Chúng ta đã biết người trừ quỷ. Có thể chúng ta không biết rằng một linh mục phải có phép của đấng bản quyền (giám mục) mới được trừ quỷ. LM Syquia trích lời của Giáo luật: “Phép đó từ đấng bản quyền địa phương chỉ được ban cho một giáo sĩ có lòng đạo đức, hiểu biết, cẩn trọng và chính trực”.

Mặt khác, trong cuốn “Exorcist: A Spiritual Journey” (Người trừ quỷ: Hành trình tâm linh), LM Syquia định nghĩa “người giải cứu” (deliverance minister) là “linh mục, tu sĩ, hoặc giáo dân với đặc sủng giải thoát… Họ dùng các kinh nguyện giải thoát (không phải Nghi thức Rôma về Trừ quỷ) để xua đuổi ma quỷ khỏi người bị ám…”. Việc dùng kinh nguyện giải thoát được coi là trừ quỷ riêng tư.

Cũng trong cuốn sách nói trên, LM Syquia trích lời Thánh Alphong Liguori: “Việc trừ quỷ riêng tư là được phép đối với mọi Kitô hữu; việc trừ quỷ theo nghi thứ chỉ được phép đối với những người đã được chỉ định làm việc đó, và chỉ được phép của giám mục”.

Rất hiếm linh mục trừ quỷ, chúng ta có thể quy tụ nhóm để cầu nguyện giải thoát cho người bị quỷ ám, hoặc có thể cầu nguyện giải thoát chính mình (nếu bạn muốn có bản sao, xin nhắn tin về số +639178121362).

LM Syquia liệt kê một số “vũ khí” hiệu quả: Nước phép, ảnh tượng đã làm phép (đặc biệt là ảnh Thánh Bênêđictô), Áo Đức Bà và Ảnh Đức Mẹ Làm Phép Lạ, Chuỗi Mân Côi, nến phép, và sách kinh nguyện.

Đức Mẹ rất uy quyền. LM Syquia kể một câu chuyện mà ngài tin Đức Mẹ đã cứu ngài trừ quỷ rất khó khăn trong một bệnh viện nọ.

LM Syquia nhấn mạnh điều khác là các Kitô hữu phải “ở trong tình trạng ân sủng”. Tham dự Thánh lễ và rước lễ luôn là vũ khí cực mạnh chống lại ma quỷ. Như vậy, khi bị vây hãm, Kitô hữu nên cố gắng tham dự Thánh lễ thường xuyên.

CHỈ CÓ va LUÔN LÀ CHÚA GIÊSU

Trong cuốn sách về “những chuyện kinh dị”, tôi thích nhất chương “Only Jesus and Always Jesus” (Chỉ có và luôn là Chúa Giêsu). LM Syquia nói rằng, khi bị ma quỷ tấn công, người ta tập trung vào ma quỷ, như thời gian trôi qua, người trừ quỷ hoặc người giải thoát nhận biết Thiên Chúa quyền năng biết bao! Vì “Thiên Chúa luôn cùng chiến đấu với chúng ta và không bao giờ rời xa chúng ta”. Quan trọng nhất là “tiếp tục tiến tới sự thánh thiện”. Thật vậy, khi bạn cảm thấy bị ma quỷ bao vây, bạn không còn sự giải thoát nào khác ngoài Thiên Chúa.

Khi tôi đặt tựa đề “Đối chất ma quỷ” cho bài viết này, tôi nên giải thích thêm. Thực ra, chúng ta không thể và không nên “đối mặt ma quỷ”. Ma quỷ là các thiên thần sa ngã nên rất mạnh hơn chúng ta. Chúng ta phải luôn “nhân Danh Chúa Giêsu” mà chống lại ma quỷ. Như vậy, chiến thắng của chúng ta luôn là chiến thắng của Chúa Giêsu. Ngài là sức mạnh của chúng ta và là Đấng bảo vệ chúng ta. Xin chúc tụng Chúa Giêsu và Thánh Danh Ngài: “Khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ” (Pl 2:10).

Lourdes Policarpio

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ all-about-the-virgin-mary.com)

_______________________________________________________________

Giáo Dục Bi Thảm

Giáo Dc Bi Thm

                                                                                      (09/03/2012)

                                                                              trích: Vietbao.com

Bạn thân,
Một thời chúng ta nhìn các thầy giáo, cô giáo như những vị thần linh… nhưng bây giờ thì không như thế nữa.

Một thời, chúng ta lắng nghe các thầy cô nói từng lời, nghiền ngẫm từng chữ… và không bao giờ chất vấn, nghi ngờ gì hết. Bởi vì, thầy cô nói bằng tấm lòng muốn trao truyền kiến thức, và muốn chúng ta giỏi, muốn chúng ta siêng năng, và muốn chúng ta thành công ngoàì đời.

Thầy cô là những người cho chúng ta chữ, cho chúng ta hiểu về cuộc đời, cho chúng ta hiểu về ẩn nghĩa của Truyện Kiều, khi nàng tuyệt sắc Thúy Kiều bị xã hội xô đẩy vào lầu xanh, cũng y hệt như những tinh hoa đẹp nhất của giới trí thức thời cụ Nguyễn Du bị lịch sử xô đẩy, trong đó có những người phảỉ bán đi sự lương thiện…

Bây giờ thì khác. Báo Tuần Việt Nam qua bài viết của tác giả Nguyễn Trọng Bình đã nêu vấn đề ngay ở tựa bài: “Giáo dục có đang… ‘vô cảm’?” Bài viết đầy những hình ảnh đau đớn của nền giáo dục, chuyện chạy trường, chạy bằng cấp, chạy việc… trích như sau:

“…Khoảng mươi năm trở lại đây trong ngôn ngữ tiếng Việt bỗng xuất hiện một từ mới: “Chạy trường”. Hiểu một cách nôm na “chạy trường” là cách mà các quý vị phu huynh của các em học sinh, sinh viên từ bậc học mẫu giáo cho đến đại học phải bỏ tiền ra để nhờ vả, chạy chọt cho con em họ có cơ hội vào học ở những ngôi trường phần nhiều được đánh giá là có “chất lượng tốt”.

Những trường này thường được  “bảo chứng” bằng những mỹ từ như: Trường đạt chuẩn quốc gia, trường chuyên, trường điểm, hay trường quốc tế…. Hoặc có khi “chạy trường” với mong ước con em mình được học ở những ngôi trường gần nhà để nhằm tiện lợi cho việc chăm sóc và đưa đón con em lúc đến trường.

Có ai ngờ những đứa trẻ chỉ mới bắt đầu vào mẫu giáo mà cha mẹ của chúng phải tất tả ngược xuôi để tìm một chỗ xứng đáng. Để được người ta “ươm mầm” sự… giả dối trong sự đổi chác và thực dụng….

Vấn đề “chạy bằng cấp và chạy kiến thức” chủ yếu xảy ra từ cấp trung học phổ thông trở lên. Ở cấp học này chuyện “chạy bằng cấp và kiến thức” nhìn chung là do hậu quả của việc tổ chức thi cử “tưởng là nghiêm túc nhưng kì thực là rất lỏng lẽo” mà ra.

Cuộc khảo sát của 1 nhóm nghiên cứu về việc gian lận trong thi cử đối với 500 học sinh mới đây là 1 minh chứng rõ ràng nhất cho vấn đề này. Có tới 400 em học sinh thừa nhận mình có gian dối trong thì cử với nhiều hình thức khác nhau…

Đối với những cấp bậc cao hơn như đại học, hay sau đại học thì việc chạy bằng cấp và kiến thức rõ ràng nhất là ở khâu thực hiện đề tài luận văn (cử nhân), luận án (thạc sĩ, tiến sĩ) tốt nghiệp.

Đây còn là 1 đại nạn, 1 thực trạng đáng xấu hổ nhất trong hệ thống giáo dục đại học và sau đại học ở nước ta hiện nay.

Xấu hổ là vì ngay chính bản thân những thầy cô giáo toàn những thạc sĩ, tiến sĩ, phó giáo sư, GS… nhưng có không ít người đã không ngần ngại nhận phong bì từ sinh viên, học viên của mình để rồi châm chước và cho qua những luận văn, luận án không xứng đáng mà mình hướng dẫn hay phản biện.

Đau đớn hơn có người còn ra giá với học trò của mình và nếu như học trò nào đó không biết “vâng lời” thì có khi phải nhận lấy những hậu quả xấu. Những việc làm này rõ ràng chỉ có thể nói đó là sự “mất nhân tính” của những con người vốn đang gánh trên vai trọng trách “trồng người” cho xã hội….

Và “chạy việc”

Một sinh viên để có thể cầm trên tay mảnh bằng đại học (ít nhất là 4 năm) phải đánh đổi không biết bao nhiêu công sức và tiền bạc của gia đình. Đến khi ra trường các em phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt của xã hội trong hành trình xin việc để tự lập, mưu sinh.

Thế nhưng vẫn có những người thầy không ngần ngại “ra giá” với các em về một chỗ làm nào đó nhờ sự quen biết của họ. Thử hỏi học trò mới ra trường thì làm gì có tiền (từ vài chục đến vài trăm triệu) để đưa cho thầy cô mong có được chỗ làm…”

Làm sao bây giờ? Làm sao tìm ra những người thầy thơ mộng nhiều thập niên trước… Chắc chắn vẫn còn đó, ở đâu đó, vẫn còn những thầy giáo, những cô giáo thật tâm quan tâm tới các em… Thật là may mắn, là đại cơ duyên cho những ai gặp các vị thầy đáng kính như những trang sách cổ.

Bụi phù hoa

Bụi phù hoa

tocngan k1

WGPSG — “Một cô gái tên Muối đã có tình nhân mà còn làm đám cưới với một anh Việt kiều Mỹ, định sau này sẽ ly dị chồng để rước người tình qua. Nhưng đến ngày đàng trai đến rước lại không thấy cô dâu đâu khiến cho công trình mồi chài bao ngày tháng trở thành công cốc. Nguyên nhân vì đâu? Tại sao cô lại không về làm cô dâu để thực hiện chương trình đánh lừa anh chàng Dick ngơ ngáo kia?

Số là tối hôm trước ngày rước dâu, sau khi nhậu nhẹt say sưa, nhảy nhót tưng bừng cho đến gần sáng, cô Muối cùng tình nhân thuê khách sạn ngủ, dự định sáng mai về cũng còn kịp chán. Muốn cho đêm tạm biệt thêm vui, họ phi một đợt xì ke (ma túy), sau đó họ lăn ra ngủ. Đến gần chiều hôm sau cả hai mới giật mình tỉnh dậy. Cô Muối hối hả lên xe, chạy về.

Xe hoa đã lên đường được hơn nửa giờ rồi.!”

“Có mấy em bé rất muốn làm thiên thần, Thượng Đế trao cho mỗi bé một cái chân đèn bằng đồng, và bảo chúng trong lúc chờ Ngài trở lại, hãy giữ cái chân đèn sao cho luôn được sáng bóng. Nhưng rồi một tuần đã trôi qua đi mà vẫn chưa thấy Thượng Đế trở lại, tất cả các em bé đã nản chí, không còn chùi bóng chân đèn của mình nữa.

Một hôm, Thượng Đế đột nhiên đến thăm, chân đèn của mỗi đứa bé lười nhác đều đã đóng một lớp bụi dày, chỉ duy có em bé mà thường ngày cả bọn vẫn kêu bằng thằng ngốc, dù cho Thượng Đế chưa thấy đến, hằng ngày bé vẫn nhớ lời dặn, lau chùi cái chân đèn sáng bóng.

Kết quả em bé ngốc này được trở thành thiên thần.”

Hai câu chuyện: một cô dâu gian dối bị vuột mất chàng rể và một em bé bị bạn bè xem là ngốc nhưng nhờ tính kiên trì đã đạt được ước mơ, là những minh họa điển hình cho Tin Mừng thánh Matthêu hôm nay.

Nếu Kitô hữu chúng ta cứ suy nghĩ một cách chủ quan rằng mình đã giữ đạo tốt lắm rồi nên không lo chỉnh đốn cách sống đạo cho đẹp lòng Chúa, chúng tôi sẽ rơi vào trường hợp như cô dâu Muối. Trong ngày tái ngộ, Chúa sẽ nói với chúng ta rằng: “Ta chẳng biết các ngươi là ai”.

Giữa thời buổi yêu chuộng vật chất và duy tục như ngày nay, con người sống như thể rằng mình không bao giờ chết, nên để cho tâm hồn mình bị che phủ bởi bụi phù hoa. Chúng ta thà làm ’em bé ngốc’ lội ngược dòng để giữ được lòng trinh trong Chúa đã ban cho còn hơn để đời mình bị cuốn theo chiều gió hư vong.

Lạy Chúa Giêsu mến yêu, chúng con có mong ước tốt nhưng với bản tính yếu mềm của con người, không có Chúa giúp chúng con không làm gì được. Xin cho chúng con luôn hướng về trời là cùng đích của đời tín hữu, hầu có thể đón Chúa trở lại trong hân hoan.

Vậy anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào (Mt 25,13).

 Maria Thanh Mai gởi

NGƯỜI CON GÁI VIỆT NAM

NGƯỜI CON GÁI VIỆT NAM

                                                                                                                HẠNH NGUYÊN

                                                                                                           trích Ephata: 525

 VTT ZZAUG 22  JPEG HTVY

             Huỳnh Thục Vy

             Trịnh Kim Tiến

“Trịnh Kim Tiến, tên em gắn liền với những biến cố vui buồn của đất nước trong gần một năm qua. Dòng nước mắt em khóc cha, ông Trịnh Xuân Tùng, bị công an đánh chết, làm bao nhiêu người Việt Nam trong và ngoài nước khóc theo. Nhìn tấm hình em khóc, tôi cảm thấy thương em vô cùng vì trong giọt nước mắt của em có bóng của đời mình.

Vài tuần sau, nhìn Kim Tiến mỉm cười cùng các bạn hiên ngang đi giữa lòng chế độ độc tài, lòng tôi chợt dâng lên niềm hãnh diện:

“Khi em xuống đường vì Hoàng Sa, Trường Sa

Đồng bào bước cùng em

Thanh niên, sinh viên, học sinh bước cùng em

Sài Gòn bước cùng em

Hà Nội bước cùng em

Trong nước bước cùng em

Ngoài nước bước cùng em”

( Trần Trung Đạo – Những cánh én của mùa xuân dân tộc )

Tôi cũng như bao người Việt Nam xa xứ nặng lòng với quê hương mang tâm trạng như nhà thơ Trần Trung Đạo, dõi theo những thăng trầm của vận mệnh dân tộc, buồn vui với non sông cùng bước chân những người yêu nước. Kim Tiến đã làm bao người khóc cùng em khi cha em bị đánh gần chết giữa công đường, hân hoan nhìn dáng đứng thướt tha hiên ngang trong tà áo dài truyền thống khi biểu tình bảo vệ Hoàng Sa – Trường Sa:

“Thấy áo em bay giữa cờ gió lộng
Xin nghiêng mình tặng Em nhành Nguyệt Quế
Viết bài ca tặng Em Người Con Gái Việt Nam !
Gửi đến Em ! Người Con Gái Da Vàng !
Gửi đến Em ! Người Con Gái Việt Nam !” 

( Nhạc và lời Dzuylynh – Người Con Gái Việt Nam ) 

Mới đây bao người uất ức cùng em khi biết bản án bất công của những người hành xử pháp luật ( xem ghi chú bên dưới ). Em đã trở thành người con của Chúa: Monica Trịnh Kim Tiến, sau nhiều đau thương mất mát. Hôm nay tôi chúc mừng hạnh phúc khi bên em có người bạn đời Phaolô Thành Nguyễn đồng hành đi tìm công lý. Kim Tiến chọn ngày thành hôn cũng gần ngày kính thánh Bổn Mạng Monica, vị thánh quan thầy giới hiền mẫu. Hiếm có những trường hợp trong gia đình cả hai mẹ-con cùng là Thánh, nhất là trong hoàn cảnh gia đình tưởng như tan nát tuyệt vọng lại biến thành hạnh phúc tuyệt vời góp phần cho Giáo Hội vị đại Thánh Augustinô.

Ai mà không đau lòng khi nhìn những giọt nước mắt nơi em ngày cha mất cách tức tưởi, tiếng khóc của em không hẳn chỉ cho cha mà còn là tiếng kêu thê lương của cả một dân tộc oằn oại bao năm dưới luật pháp kẻ bạo tàn, nhà báo Lê Diễn Đức đã xót xa:

“Tiếng khóc em thảm thiết cứa vào thịt da.

Em, người con gái mất cha !

Uất ức, đau thương trùm lên mặt phố !”

( Lê Diễn Đức – Em đi tìm công lý nơi nào ? )

Nếu trước đây tôi vui mừng khi chị Tạ Phong Tần trở về mái nhà Cha và hãnh diện danh hiệu “Nhà Báo Tự Do Công Giáo” khi chị mạnh dạn viết những bài đấu tranh cho Công Lý và Sự Thật. Hôm nay niềm vui trong tim gấp bội hơn khi biết tin Kim Tiến, Thục Vy cùng đón nhận Đức Tin Công Giáo. Việc trở về cùng Cha không bao giờ là một sự muộn màng: người đến trước ( giờ thứ nhất ) hoặc đến sau ( giờ thứ 25 ) rốt cuộc cũng chỉ hưởng công… một đồng. Sự trở về của các cô từ chính trong tâm hồn cảm nghiệm Chúa chắc hẳn hơn một số người theo Đạo dòng như tôi. Có câu danh ngôn nào đã nói: Cánh cửa này đóng sẽ mở cho ta cánh cửa khác, như ánh sáng cuối đường hầm, niềm tin chính là ân điển của Thiên Chúa luôn bao bọc và mời gọi chúng ta ở những thời điểm khác nhau.

Chị Tạ Phong Tần về với Chúa như Thánh Phaolô Tông Đồ Dân Ngoại, trong thư gửi chúc mừng Kim Tiến, Thục Vy, Hoàng Vy chị đã viết: “Chúng ta cùng nhau cám ơn Chúa, cám ơn Đức Mẹ, cám ơn Giáo Hội đã cho chúng ta niềm tin và sự sống, đặc biệt chị muốn cám ơn các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế đã làm cầu nối để chúng ta đến được với Chúa. Bất cứ ai tha thiết với công lý, sự thật và tình thương đều có thể gặp được Chúa, qua kinh nghiệm của chúng ta, chị tin như thế. Bốn chị em mình mỗi người được gặp Chúa theo nhiều kiểu khác nhau. Chị khác các em, chị bước ra từ vũng lầy của tuổi trẻ sai định hướng, chị đến với Chúa trong một cuộc gặp gỡ tình cờ, tuổi xuân của chị có quá nhiều sai lầm mà ngày ấy chị ngỡ tưởng mình đúng hướng…” ( http://www. chuacuuthe. com/archives/34947 – Thư gửi Hoàng Vi, Thục Vi và Kim Tiến ).

Còn Kim Tiến, chị đã cảm nghiệm: “Không phải anh em chọn Thầy mà chính Thầy đã chọn anh em” ( Ga 15, 16 ), đúng vậy, chính Chúa đã chọn tôi làm con của Người. Câu nói này đến bây giờ, sau khi trải qua nhiều biến cố, thăng trầm, tôi mới hiểu được hết ý nghĩa của nó. Thật là khó nói hết ra những điều kỳ diệu mà Chúa đã mang đến cho tôi, thật sự nó rất huyền bí” ( Kim Tiến – Chúa trong tôi ).

Phần Maria Thục Vy khi được hỏi về lý do trở nên người con Chúa, cô viết: “Con tin rằng cuộc đời con không phải do con người quyết định mà được. Lúc con bị bắt, con tự nhiên thấy mình luôn được chở che. Con chưa hiểu vì sao con lại có cảm giác ấy. Nhưng con hy vọng nếu có một Đấng cao vời mà con chưa từng biết thì con mong các cha giúp cho con một cơ hội để bước vào con đường nhận biết Ngài. Đó là những lời con nói thật lòng mình” ( Nữ Vương Công Lý ).

Ban đầu, khi đọc những bài viết của Huỳnh Thục Vy, biết cô còn rất trẻ nhưng tư tưởng nhận định rất lớn, tôi còn hơi chút hòai nghi, nhưng hôm nay niềm tin và sự ngưỡng vọng cô là một điều khẳng định không chỉ nơi tôi mà còn biết bao nhiêu người. Nhà báo Lê Diễn Đức đã từng nhận xét Huỳnh Thục Vy là “một cô gái trẻ mà hiểu biết rộng, thông minh, có nhân cách trong sáng, can đảm, mãnh liệt nhưng rất ôn hòa trong các bài viết xuất sắc về các giá trị dân chủ, quyền công dân hay xã hội dân sự, được sự mến mộ và cảm phục của đông đảo người Việt trên khắp thế giới…”, hay “Cái đẹp của Huỳnh Thục Vy không chỉ của một người, nhưng là cái đẹp của cả một non sông” ( Nguyễn Bá Chổi – Một bông hồng cho Thục Vy ), và “nhà thơ năm chữ” Thái Bá Tân đã phác họa thật tâm đắc:

“Cháu – Cô gái xinh đẹp,

Đẹp cả ngoài lẫn trong.

Nhìn cháu mà cứ nghĩ,

Cái đẹp của non sông.”

( Thái Bá Tân – Huỳnh Thục Vy )

Thượng Đế là nguồn chân thiện mỹ từ trong sâu thẳm của con người, dù bạn theo bất cứ tôn giáo nào, đạo đức tâm linh, nhân bản có những chuẩn mực căn bản rất gần nhau, tình đồng loại, nghĩa đồng bào, lòng yêu quê hương thể hiện rất gần gũi. Huỳnh Thục Vy mang một ước mơ cháy bỏng cho dân tộc, thể hiện qua nhiều bài viết: “Tôi thương dân tộc tôi – dân tộc anh hùng có bốn ngàn năm Văn hiến đã và đang phải gò lưng nuôi cả một chế độ độc tài bất công, không những thế lại bị tước hết các quyền tự do được sống như những con người chân chính và có ý chí. Trong tình yêu thương ấy, với nhiệt huyết trào dâng trong lòng một cô gái trẻ, tôi đang mơ một ngày cả nước Việt Nam từ Hà Nội, Đà Nẵng, Sàigòn, tất cả chúng ta – những người Việt Nam không phân biệt già trẻ, nam nữ, Phật giáo đồ hay con Chúa… cùng xuống đường trong những khẩu hiệu chống độc tài, tham những, đòi quyền tự do dân chủ. Và rồi sẽ cùng nhau kiến tạo một Việt Nam với diện mạo mới”.

Chính tình thương vô biên nguồn Chân Thiện Mỹ của mọi tôn giáo chân chính, cộng với những đau thương từ gia đình thôi thúc trong cô lòng yêu nước hoài bão cho tương lai dân tộc. “Thục Vy sinh năm 1985 tại Tam Kỳ. Tình yêu quê hương và nỗi đau mười năm tuổi thơ là những ngày đi thăm cha trong tù, đã hun đúc tâm hồn của cô bé xinh đẹp, hồn nhiên lớn lên bên giòng sông Bàn Thạch, Quảng Nam thành một nhà lý luận chính trị vững vàng. Kiến thức Thục Vy dẫn chứng trong các bài viết vượt trội hơn tuổi tác và điều kiện trưởng thành thiếu thông tin bên ngoài mà em đã phải trải qua. Sinh ra và lớn lên trong một chế độ độc tài, một nền giáo dục ngu dân lạc hậu, cây bút Huỳnh Thục Vy nổi bật như một bông hoa hiếm hoi mọc lên giữa rừng gai nhọn. Có thể nhiều khi em cũng cảm thấy cô đơn, nhưng từ trong nỗi cô đơn đó đã sáng lên niềm kiêu hãnh… Huỳnh Thục Vy không chỉ là niềm vui của tuổi trẻ Việt Nam mà còn cho tất cả những ai đang nặng lòng với đất nước” ( Trần Trung Đạo – Những cánh én của mùa xuân dân tộc ).

“Dải đất Việt Nam 
Nằm co ro như một kẻ ăn mày 
Đang thoi thóp cuộc đời trên góc phố 
Như giọt lệ chảy dài nhưng chưa nhỏ 
Như chiếc lưng khòm Mẹ gánh cả trời thương.
Thuở Hùng Vương 
Đi chân đất dựng sơn hà 
Bao nhiêu máu đã âm thầm đổ xuống 
Khi Trưng Trắc trầm mình trên sông Hát 
Chỉ mong giữ tròn trinh tiết với giang san.” 

( Trần Trung Đạo – Thưa Mẹ Chúng Con Ði )

Điều khẳng định chắc chắn đau khổ của phụ nữ Việt Nam hơn bất cứ người phụ nữ nào trên thế giới, hai gánh quê hương gia đình luôn oằn trĩu đôi vai. Thân phận quê hương và gia đình đã quyện vào máu xương người phụ nữ Việt Nam. Có nơi đâu trên trái đất này con người phải trải qua hàng ngàn năm chinh chiến, nếu hình ảnh chinh phu oai hùng đi vào hùng sử thì bóng thầm lặng chinh phụ mòn mỏi chờ chồng dạ sắt son đã thành truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Cho tôi xin trân trọng gọi thầm mãi tiếng yêu thương lẫn tự hào đến bao Anh Thư Liệt Nữ nước Việt: Bà Trưng, Bà Triệu, Bùi Thị Xuân, Cô Bắc, Cô Giang… và hôm nay con cháu các vị anh hùng vẫn tiếp tục hy sinh vì đại nghĩa, dấn thân cho Việt Nam hôm nay hướng đến tương lai. Những cái tên hôm nay: Đặng Thị Kim Liêng, Lê Thị Công Nhân, Phạm Thanh Nghiên, Đỗ Thị Minh Hạnh, Hồ Thị Bích Khương, Bùi Thị Minh Hằng, Huỳnh Thục Vy, Trịnh Thị Kim Tiến, Tạ Phong Tần… đã và mãi mãi đi vào lòng người, là những tấm gương cổ vũ sức mạnh tiềm tàng lòng yêu nước của dân tộc một thời gần như quên lãng:

“Cho con thầm lặng gọi tiếng: Mẹ ơi !

Mẹ của Lê Sơn, Mẹ của Tạ Phong Tần.

Như hạt cải mục ươm mầm dưới đất.

Để sớm mai cả dân tộc hồi sinh”.

( Tú Anh – Cho con thầm gọi )

Đức Hồng Y Peter Turkson, Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh Công Lý và Hòa Bình khẳng định rằng: “Các tấn kịch và bắt bớ chống lại các Kitô hữu sẽ không ngăn cản được việc làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa”. ( Linh Tiến Khải dịch – Bách hại không thể ngăn chặn chứng nhân Kitô hữu )

Bác ái là căn bản của đời sống mọi Kitô hữu, không thể chỉ kính mến Thiên Chúa trong Nhà Thờ bằng câu kinh tiếng kệ, điều quan trọng là bạn hãy làm chút gì đó cho những người anh em để thực thi công lý và tình thương. Ý chí nơi Kim Tiến thật đáng khâm phục, blogger Mẹ Nấm đã ghi lại cuộc trò chuyện với cô:

“Tôi cảm thấy công lý này cần tự mình giành lấy, và tôi sẽ đứng ra trước tòa để tranh luận công khai minh bạch trong phiên tòa sắp tới. Tôi sẽ nhìn thẳng vào các vị quan toà, những người đang nắm giữ trong tay cán cân công lý để khẳng định với họ một điều rằng: công lý không bao giờ chết, nó chỉ đang bị chèn ép…

Tôi tin rằng con đường tôi đi luôn có bạn bè và đồng bào tôi cùng đồng hành và chia sẻ. Thật sự đến giờ này, tôi chỉ biết cảm ơn mọi người. Mọi người đã cho tôi sức mạnh, đã cho tôi niềm tin. Niềm tin để cố gắng sống cho đúng nghĩa một con người, niềm tin rằng mỗi cá nhân, dù nhỏ bé đến đâu cũng có thể góp phần, góp sức, góp một viên gạch khiêm tốn nhưng cực kỳ cần thiết để xây dựng nhà Việt Nam thân yêu, không phải cho chúng ta mà cho thế hệ mai sau”. ( Mẹ Nấm – Chị có về được không ? )

Tôi viết bài này giữa lúc hôn lễ của Maria Kim Tiến và anh Paul Thành Nguyễn đuợc tổ chức tại Nhà Thờ Kỳ Đồng Sàigòn, Chúa Nhật 26.8.2012 và cũng được biết tin thêm là vào ngày 3.9.2012 đến đây, Maria Huỳnh Thục Vy và Lê Khánh Duy sẽ làm lễ thành hôn tại Tam Phú, Tam Kỳ, Quảng Nam. Mừng cho hai em có niềm tin, hạnh phúc bên những người chồng đồng chí hướng tương trợ, giúp đỡ, an ủi trong đời sống hôn nhân và hành trình đi tìm công lý cho cha, cho gia đình, cho dân tộc dưới sự bảo trợ của Đức Maria, Thánh Phaolô, Thánh Monica… để rồi một ngày nào đó:

“Em ngày mai hái những cành hoa của tình yêu, công lý

Cắm lên mộ cha và lên mảnh đất này

Cho Hà Nội thu về tay ấm lại cầm tay ?

( Lê Diễn Đức – Em đi tìm công lý nơi nào ? )

Ghi Chú:

Phiên tòa sơ thẩm ngày 13.1.2012 tại Tòa Án Nhân Dân Hà Nội diễn ra rất nhanh chóng, sơ sài và bất công với tội danh ‘làm chết người trong khi thi hành công vụ’ với bản án chỉ 4 năm tù giam tuyên phạt bị cáo Nguyễn Văn Ninh, tất cả những người đồng phạm đều không phải chịu bất cứ trách nhiệm nào Tòa Án robot’, ngày 14.5.2012, tại phiên tòa phúc thẩm trong một phiên xử kín, anh chị em ruột nạn nhân không được tham dự, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hình sự vì không triệu tập đầy đủ nhân chứng…, nên gia đình yêu cầu hoãn lại phiên tòa và đề nghị triệu tập đầy đủ những người liên quan. Trong phiên phúc thẩm ngày 17.7.2012, bạn Kim Tiến đã tự tham gia tranh luận trong phiên tòa, không luật sư. ( Hà Minh Thảo – Những Người Việt Công Giáo Mới ).

HẠNH NGUYÊN, Boston, 26.8.2012

 

 

 

 

SỰ THẬT

SỰ THẬT

                                                                             tác giả: PHÙNG VĂN HÓA

                                                 trích báo: Ephata 525

 Cư dân mạng hiện đang xôn xao bàn tán, có người còn tỏ ra choáng váng trước tin ông Từ Hoài Khiêm ( Xu Huaiqian ) 44 tuổi, tổng biên tập một tờ báo Đảng Cộng Sản Trung Quốc, vừa nhảy lầu tự sát hôm 25.8.2012 vừa qua. Lý do cái chết này được cho biết là ông ta bị trầm cảm vì đã không thể nói ra được điều muốn nói: “Tôi đau đớn vì dám nghĩ nhưng lại không dám nói ra. Nếu dám nói thì lại không dám viết và nếu dám viết thì cũng chẳng có nơi nào chịu đăng bài tôi cả. Tôi ngưỡng mộ những cây bút tự do nhưng tôi không thể rời hệ thống vì nếu làm như vậy thì gia đình tôi sẽ chịu hậu quả” ( Nguồn BBC ngày 25.8.2012 ).

Hệ thống được nói tới là Đảng Cộng Sản, còn những cây bút tự do đó là những người viết trong các nước Dân Chủ. Sống mà không dám nói, dám viết ra những suy nghĩ, quan điểm lập trường của mình, điều ấy là một mối nguy chẳng những cho cá nhân ấy mà còn cho cả đất nước dân tộc. Tại sao ? bởi vì như vậy là không sống trong sự thật mà đã không sống sự thật thì tất cả chỉ là dối trá, lừa đảo để rồi đưa đến hậu quả diệt vong không thể tránh. Bằng chứng là Thủ Tướng Đức, bà Angela Markel người đã từng sống dưới chế độ Cộng Sản Đông Đức, nhân dịp kỷ niệm ngày 20 năm bức tường Berlin sụp đổ, và ông Medeved cựu Tổng Thống Nga, người đã sinh ra, sống và được giáo dục bởi chế độ xô viết nhân dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng Đệ Nhị Thế Chiến; cả hai đều tuyên bố đại ý rằng: “Chế độ Cộng Sản là một guồng máy tạo ra sự dối trá, lừa đảo bịp bợm và giết người, chẳng những giết chính dân tộc nó mà còn giết những dân tộc khác.” ( Nguồn Chu Chỉ Nam – Tại sao chế độ Cộng Sản lại là một guồng máy lừa đảo giết người lớn nhất trong lịch sử nhân loại ? ).

Con người cần phải sống sự thật, thế nhưng điều hết sức khó khăn, hơn nữa có thể nói là không thể phân biệt đâu là sự thật, đâu là dối trá. Trước tòa, Philatô hỏi Chúa Giêsu, vậy ngươi là vua sao ? Chúa đáp: “Đúng như ngươi nói, Ta là Vua. Cốt vì việc ấy mà Ta sanh ra, cũng cốt vì cớ ấy mà Ta đến thế gian để làm chứng cho sự thật. Hễ ai thuộc về sự thật thì đều nghe tiếng Ta”. Philatô hỏi Sự Thật là gì ? ( Ga 18, 37 – 38 ). Đức Kitô không trả lời câu hỏi của Philatô, bởi Ngài biết rõ dù có nói cũng vô ích, ông ta không thể hiểu. Chẳng những không riêng gì Philatô mà tất cả người thế gian cũng không thể hiểu.

I. Thế gian không có sự thật

Từ Hoài Khiêm nói rằng mình ngưỡng mộ những cây bút tự do bởi cho rằng những con người trong các nước Dân Chủ ấy dám viết và nêu lên sự thật. Thế nhưng có hẳn là báo chí trong những quốc gia ấy phản ảnh đúng sự thật hay không ? Để có câu trả lời thì cũng không khó, bởi dù sao đó cũng chỉ là một nghề để kiếm sống hoặc địa vị danh vọng gì đó. Một khi đã là nghề nghiệp thì cũng phải tuân thủ những luật tắc của nó và luật tắc ở đây chính là lợi nhuận. Báo có nhiều độc giả thì sống, trái lại thì… ngỏm. Nói chung, toàn thể người ở cõi thế gian này đều chỉ sống vì lợi nhuận và lợi nhuận ấy dù trong bất kỳ tính chất nào, trong sạch hay dơ bẩn thì cũng đều chỉ có một cứu cánh là để thỏa mãn cho “Cái Tôi” mà thôi.

Bao lâu còn vì “Cái Tôi” mà làm thì dù cho có là hành vi tôn giáo đi nữa cũng không thể có sự thật, mà đã không sống sự thật thì ắt sẽ sống trong giả dối. Hết thảy con người đều sống giả dối bởi chưng không ai lại không bị tội nguyên tổ làm cho hư hỏng. Nguyên tổ vì nghe theo sự lừa dối của rắn Satan nên đã ăn trái cây phân biệt mà Thiên Chúa đã cấm, thế nên bị đuổi ra khỏi Vườn Địa Đàng ( St 3, 24 ). Chính bởi vậy, Đức Kitô nói Satan là cha của sự nói dối: “Các ngươi ra từ cha các ngươi là ma quỷ và các ngươi muốn làm theo tư dục của cha các ngươi. Từ ban đầu nó là kẻ giết người chẳng đứng trong lẽ thật, vì trong nó không có lẽ thật đâu. Khi nó nói dối thì tự mình nó nói, vì nó vốn là kẻ nói dối cũng là cha của sự ấy” ( Ga 8, 44 ).

Từ ban đầu Satan là kẻ nói dối và sự dối trá ấy tinh vi đến độ y như là thật. Bà Eva còn đang lưỡng lự thì rắn quả quyết: “Hai người chẳng chết đâu, nhưng Đức Chúa Trời biết rằng hễ ngày nào hai người ăn trái đó thì mắt mình mở ra sẽ như Đức Chúa Trời biết điều thiện điều ác” ( St 3, 4 ). Có vẻ như Satan… không nói dối vì sau khi ăn cây phân biệt cả hai ông bà nguyên tổ chẳng những không chết mà mắt còn… mở ra. Tuy nhiên cái chết đây không phải là chết phần xác nhưng là chết tâm linh: “Đoạn mắt hai người liền mở ra, biết mình lõa lồ bèn lấy lá cây vả đóng khố che thân” ( St 3, 7 ). Khi mắt xác thịt mở ra thấy mình lõa lồ tức là cái thấy của sự phân biệt nam nữ, giầu nghèo, sang hèn, có không ( thị phi ) được mất v.v…

Chính cái thấy của sự phân biệt ấy là nguồn gốc tội ác đưa đến khổ đau cho con người. Bởi thấy có nam có nữ mà nảy sinh dục vọng luyến ái nọ kia. Bởi thấy có ngôn ngữ màu da khác biệt mà kỳ thị chủng tộc. Bởi thấy có giàu nghèo sang hèn mà nảy sinh tỵ hiềm ganh ghét đố kỵ…

Hết thảy những cái thấy mang tính phân biệt đều là lừa dối nhưng bởi là lừa dối của Satan nên con người khó thể nhận biết. Ở đây có thể kể ra hai cuộc lừa dối mang tính… toàn cầu vô tiền khoáng hậu cho cả hai phía Cộng Sản và Dân Chủ Tây Phương.

Chủ Nghĩa Cộng Sản lấy chiêu bài đấu tranh giai cấp để xây dựng thế giới đại đồng vô giai cấp. Nhưng đại đồng đâu chẳng thấy mà chỉ thấy những chế độ độc tài đảng trị nối tiếp nhau. Bà Rosa Luxembourg, người bạn chiến đấu của Lénine, trước khi chết trong ngục tù chế độ ( 1919 ) đã viết một bức thư gửi cho ông ta: “Cái độc đảng và nhà nước độc tài mà anh lập ra anh bảo rằng nó phục vụ nhân dân và thợ thuyền. Nhưng trên thực tế nó chẳng phục vụ một ai cả, vì nó đã đi ngược lại với những nguyên tắc chính của Chủ Nghĩa Xã Hội, đó là tôn trọng tự do dân chủ” ( Nguồn: Chu Chỉ Nam – đã dẫn ).

Một người đã để cả đời tranh đấu cho lý tưởng Cộng Sản, ấy vậy mà cho đến lúc sắp chết trong lao tù vẫn còn ảo tưởng về nguyên tắc tự do dân chủ của Chủ Nghĩa Xã Hội thì thật khó mà hiểu, nếu không nhận ra đây chỉ là một trong vô vàn nạn nhân của Satan, cha đẻ của dối trá.

Mặt khác, ảo tưởng tự do dân chủ không phải chỉ có ở nơi người Cộng Sản mà còn là một cái gì đó… hấp dẫn cho cả những người theo đuổi lý tưởng dân chủ. Ảo tưởng ấy cách nay hơn một thế kỷ đã bị Đức Thánh Cha Pio IX vạch rõ: “Việc phổ thông đầu phiếu là một vết thương phá hỏng trật tự xã hội và đúng ra nó xứng đáng được gọi là “Sự nói dối phổ cập”. Ma quỷ chắc chắn có cùng ý kiến như nó đã để lộ cho thấy trong một cuộc trừ tà. Nó không giấu diếm ý dồ chính trị của nó… Nó tự tuyên bố là người Cộng Hòa nhiệt tình: Tự Do – Bình Đẳng – Huynh Đệ và Cộng Hòa Pháp. Chính ma quỷ dùng những lời lẽ ấy mà chào những khách đến thăm ( người bị quỷ nhập ). Một hôm ông Spies thị trưởng Selestat nói với hắn: “Ngu, mày không biết điều mày nói !” Nó liền đáp: “Tôi biết điều tôi nói, hoan hô Tự Do, Bình Đẳng, Huynh đệ. Lúc đó chúng tôi sẽ được việc lắm” ( Michel Servant – Ngày của Chúa ).

Tự Do – Bình Đẳng – Huynh Đệ ( Liberté – Égalité – Fraternité ) là ba lý tưởng căn bản được nêu lên trong Cách Mạng Pháp 1789 và rồi đã được các nướ c dân chủ Tây Phương lấy đó để làm mục tiêu hành động. Satan hoan hô tự do bình đẳng huynh đệ và đồng thời nó cũng biết rất rõ đó chỉ toàn là ảo tưởng. Nhưng với con người thì lại coi đây như là lý tưởng cần thực hiện để có được cuộc sống hạnh phúc.

Lý do khiến Satan biết rõ đó chỉ là ảo tưởng bởi vì trong ba yếu tố ấy loài người không thể thực hiện được điều thứ ba, tức tình huynh đệ. Trong những thể chế thực sự dân chủ, người ta có thể tương đối có tự do và bình đẳng, thế nhưng nếu không có tình huynh đệ coi hết mọi người như anh chị em một nhà thì rút cục cũng chẳng thể nào có tự do bình đẳng, nếu không muốn nói là hỗn loạn.

Một mặt Satan hoan hô nhưng mặt khác nó lại nói lúc đó chúng tôi sẽ được việc lắm. Cái gọi là… “được việc” ấy là khi người ta nói rằng mình tranh đấu cho tự do bình đẳng thì ngay khi ấy cũng là lúc mà ganh ghét hận thù nổi lên. Tất cả nguyên nhân khiến không thể có tự do bình đẳng là vì không có tình huynh đệ. Đức Kitô nói: từ ban đầu Satan là kẻ giết người chẳng đứng trong lẽ thật thì việc giết của nó chính là giết chết tình huynh đệ – đệ huynh ở nơi con người. Đức Kitô xuống thế hầu đem lại cho nhân loại Sự Thật và chỉ trong Sự Thật ấy nhân loại mới có thể tìm đến với nhau như anh em một nhà.

II. Con đường đưa tới sự thật

Để có thể đi tới bất cứ nơi nào thì cần phải biết đường, còn như không biết thì hỏi, người ta sẽ chỉ cho. Đối với đường đời đã vậy, còn đường đạo tức đường thực hiện tâm linh thì việc hỏi, thắc mắc lại còn quan hệ hơn gấp bội. Không hỏi không nghi thì không bao giờ có lời giải đáp. Tuy nhiên việc hỏi ấy có thể đưa đến kết quả khác nhau, chấp nhận hay không chấp nhận. Người Do Thái vây quanh Chúa Giêsu chất vấn: “Thầy để chúng tôi vơ vẩn đến chừng nào. Nếu thầy là Đấng Kitô thì hãy nói tỏ tường cho chúng tôi” ( Ga 10, 24 ).

Đối với câu hỏi này cũng như của Philatô hỏi sự thật là gì. Chúa không  trực tiếp trả lời, bởi biết họ không tin. Thế nhưng trường hợp các Tông Đồ thì khác, sau khi nghe Chúa nói mình đi để chịu chết thì Tôma hỏi: “Thưa Chúa chúng tôi chẳng biết Chúa đi đâu làm sao biết đường ?” Chúa Giêsu đáp: “Ta là đường, là sự thật, và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” ( Ga 14, 5 – 6 ).

Qua câu trả lời này, ta thấy Đức Kitô chẳng những rất ân cần với các Tông Đồ mà còn trở nên con đường để những ai theo Ngài có thể bước đi trên đó. Mặc dầu Chúa nói mình là đường, là sự thật, sự sống nhưng như thế không có nghĩa có thể dừng lại trên con đường này. Dừng như thế thì Đường Giêsu sẽ ắt thành… đường cụt. Lý do bởi vì có đường thì phải đi mà đã đi thì phải đến một nơi chốn nào đó chứ chẳng lẽ lại cứ đi vơ đi vẩn ? Đức Kitô đã nói một cách rõ ràng rằng không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Điều ấy chứng tỏ cứu cánh con đường Giêsu phải là Đấng Cha chứ không phải là Ngài.

Thời này là thời Tục Hóa tức Giải Thiêng ( désacralisation ) mà đã giải thiêng thì tất nhiên không thể còn cứu cánh là Đấng Cha nữa. Một khi đã không còn Đấng Cha như một cứu cánh thì cũng không thể có sự thật. Tại sao ? Bởi vì sự thật chỉ đến với con ngườii khi nào nó nhận biết được phẩm vị Con Thiên Chúa ở nơi chính mình.

Quả thật, con người được dựng nên giống Hình Ảnh Thiên Chúa ( St 2, 26 ) tức Con của Ngài, nhưng do ảnh hưởng tội nguyên tổ mà chúng ta như đã hoàn toàn quên mất phẩm vị cao quý ấy. Cũng bởi vì quên nên con người mới sa đà vào đủ thứ giống tội nhưng lại chẳng cho đó là tội. Tội khiến làm cho che lấp Sự Thật tức phẩm vị Con Thiên Chúa nơi mình. Vì vậy Đức Kitô nói: “Nếu các ngươi cứ ở trong Đạo Ta thì thật là môn đệ Ta, các ngươi sẽ nhận biết sự thật và sự thật sẽ giải thoát các ngươi” ( Ga 8, 31 – 32 ).

Chúa là Đấng Giải Thoát nhưng sự giải thoát ấy hoàn toàn không phải do phép mầu hay quyền năng nào mà nó chỉ đến với chúng ta khi nhận biết sự thật. Lý do nhận biết sự thật lại giải thoát là vì sự thật ấy vốn dĩ đã có ở nơi mỗi người, chỉ cần nhận ra là được.

Sự thật cần nhận biết ấy như đã nói đó chính là Hình Ảnh Thiên Chúa và cũng là Nước Trời mầu nhiệm mà Đức Kitô rao giảng: “Người Pharisêu hỏi Chúa Giêsu về Nước Đức Chúa Trời chừng nào đến thì Ngài đáp: “Nước Đức Chúa Trời không đến cách mắt thấy được. Người ta cũng sẽ không thể nói đây này hay đó kia, vì này, Nước Đức Chúa Trời ở trong lòng các ngươi” ( Lc 17, 20 – 21 ).

Nước Trời là nước vô cùng mầu nhiệm, ấy vậy mà nước ấy lại chẳng có ở đâu khác ngoài mình và đây mới chính là Sự Thật chúng ta cần hết lòng tìm kiếm. Tìm kiếm địa vị sang giàu ở thế gian là việc cũng chẳng phải dễ. Thế nhưng dù cho nó có được thì cũng chẳng ra gì nếu không muốn nói là chỉ chuốc vào mình lo âu phiền muộn. Đang khi đó con đường tâm linh đem lại cho ta Sự Thật, một Sự Thật vĩnh cửu chẳng bao giờ tàn, chẳng bao giờ phai.

Tuy nhiên để có được Sự Thật ấy thì ngoài con đường tín thác, cậy trông vào Chúa Giêsu chẳng còn con đường nào khác.

PHÙNG VĂN HÓA,

 9.2012

Thực thà với Chúa

Thực thà với Chúa

                                                           PM. CAO HUY HOÀNG

1:10 Sáng 1/09/12

 

VRNs(01.09.2012) – Suy Niệm Lời Chúa CN 22 TN B

Noi gương Ông Giosuê, bắt chước Thánh Phêrô, tuần trước, chúng ta cùng thưa với Chúa rằng: Chúng con quyết không bỏ Chúa, gia đình chúng con tôn thờ Thiên Chúa và trung tín với Chúa.

Tuần này, Lời Chúa dạy chúng ta cách tôn thờ Thiên Chúa thế nào cho đúng với ý Chúa muốn, và còn phải biết “dạy cho con cháu” cách sống đạo cho nên ( x. Đnl 4, 1-2. 6-8 ).

Tôi bỗng nhớ câu chuyện của mẹ tôi. Trước lúc cha tôi mất, Người chỉ để lại một di ngôn ngắn lắm: “Sống đẹp lòng Chúa”. Mẹ tôi ôm ấp di ngôn của cha và hay nhắc bảo anh em chúng tôi. Mười năm sau, trước lúc mẹ mất, di ngôn của mẹ có ba điều: “Các con hãy:

1. Đoàn kết thương yêu nhau.

2. Làm lành lánh dữ.

3. Giáo dục con cái biết thờ phượng Đức Chúa Trời cho nên”.

Vào những ngày Giỗ, Chạp, Tết nhất hay những lúc sum họp gia đình, anh em tôi thường lặp lại Di Ngôn của cha mẹ. Có lần, chú em tôi cảm động quá, khóc và thưa với mẹ rằng: “Cảm ơn mẹ đã chú giải di ngôn của cha, cho chúng con biết thế nào là sống đẹp lòng Chúa”.

Cô Út chợt nhận ra điều gì, nói: “Sau này, Chúa sẽ không hỏi em rằng em đã làm gì cho Chúa, nhưng chắc chắc Chúa sẽ hỏi em có tin tưởng, yêu mến và phó thác vào Chúa không ? Vậy mà có lần em cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, con tin tưởng, yêu mến, và phó thác hoàn toàn vào tay Chúa. Xin Chúa ban cho con thoát khỏi cảnh nợ nần, nghèo khổ hôm nay”. Em tự thấy mình có điều gì gian dối. Đã tin, yêu, cậy trông mà làm như Chúa hổng biết gì về mình vậy, còn thưa lảm nhảm hoài: con khổ quá Chúa ơi ! Như vậy “tin yêu mến” của em chắc là “đầu môi chót lưỡi” rồi. Đúng không ?

Cả nhà không ai dám giải thích gì. Vì có lẽ ai cũng không khác cô út bao nhiêu !

Sống thành thật với nhau đã là khó. Sống thành thật với Chúa còn khó biết bao. Người đời có thể lầm cách sống đạo của tôi, của bạn, nhưng chắc chắn Chúa không lầm. Chúa biết rõ chúng ta tin tưởng và yêu mến Chúa tới mức nào.

Ở đời, mà nhất là đời nay, thời buổi này, trong toàn cảnh Việt Nam hôm nay, thì sự dối trá càng rõ hơn. Dối khắp nơi, chỗ nào cũng dối. Dối từ trên xuống, từ dưới lên, từ trong ra, từ ngoài vào. Dối tứ phía. Tình gian dối. Tiền gian dối. Quyền lực gian dối. Tài sản gian dối. Ngay cả việc tôn kính lãnh tụ cũng chẳng có gì là thật lòng. Khóc gian dối. Cười gian dối. Và nếu chỗ nào cũng dối, người nào cũng cũng dối, thì có thể nói đó là một thách thức lớn cho Tin Mừng Sự Thật.

Thánh Giacôbê bảo: “Anh em hãy khử trừ mọi thứ nhơ bẩn và lòng đầy gian ác”. Thiết nghĩ, thứ nhơ bẩn ấy chính là sự dối trá trong lòng.

Chúa Giêsu thì vạch mặt sự dối trá của những thầy thông luật, những kinh sư, những Pharisêu giả hình khi họ bắt bẻ các môn đệ Chúa không rửa tay trước khi ăn cho sạch sẽ theo tập tục cha ông của họ: “Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người. Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người”.

Lời trách mắng của Chúa Giêsu cũng đang nhắm đến hầu như tất cả chúng ta. Gọi là “tất cả”, bởi vì, mỗi người trong chúng ta, không ai tránh khỏi ảnh hưởng sự dối trá, cách sống dối trá do hậu quả của tội nguyên tổ: Không tuân phục Thiên Chúa, lừa dối Thiên Chúa.

Trong khi Thánh Thần của Thiên Chúa luôn hướng dẫn chúng ta sống cuộc sống chân thành để chúng ta trưởng thành về mặt Đức Tin hơn, thì ma quỷ cùng thế lực chống Thiên Chúa lại xúi quẩy chúng ta sống giả dối, cách sống ấu trĩ của ma quỷ:

Chúng ta đang biến việc thờ phượng Thiên Chúa qua các lễ nghi phụng tự thành lễ hội. Hình thức tổ chức lễ có vẻ được quan tâm hơn là chuẩn bị tấm lòng yêu mến tôn kính cách chân thực.

Càng có nhiều lễ hội tôn giáo càng chứng tỏ ra rằng đất nước ấy tự do tôn giáo, một thứ tôn giáo hời hợt bên ngoài, thứ tôn giáo giả hình.

Từ lễ hội linh đình của các cấp Giáo Hội lớn, đến nhỏ hơn, và xuống đến nhỏ hơn nữa là gia đình, là cá nhân… ai cũng làm bộ có đạo, làm bộ đạo đức, mà quên rằng chúng ta đang thực sự lừa dối Thiên Chúa, cũng chẳng khác nào quân Pharisêu thờ kính Chúa ngoài môi miệng, bằng băng-rôn biểu ngữ, bằng rêu rao tự do, bằng xây cất cho hoành tráng, bằng lễ lớn lạc lớn, bằng tham gia đủ thứ hội đoàn, bằng chức danh ông kia bà nọ, bằng áo mão chỉnh tề, bằng xuất hiện công khai cách long trọng, bằng bảng vàng dâng cúng, bằng con số, bằng báo cáo thành tích, bằng toàn bộ hình thức bên ngoài và giả dối bên trong khi có thể.

Lời Chúa muốn cảnh tỉnh chúng ta phải trở về với nội tâm sâu xa của lòng yêu mến chân thành. Lòng yêu mến Chúa thúc đẩy chúng ta thực hiện lề luật của Chúa và truyền dạy cho con cháu thực hiện lề luật ấy cách chân thành.

Thánh Vịnh đáp ca chỉ rõ mấy việc cần làm ngay của người có đạo: “Sống thanh liêm và thực thi công chính”, “trong lòng suy nghĩ điều ngay, và lưỡi không bịa lời vu khống”, “không làm ác hại bạn đồng liêu, cũng không làm nhục cho ai lân cận”, “không xuất tiền đặt nợ thu lời, cũng không ăn hối lộ hại người hiền lương” ( x. Tv 14, 2 – 3ab . 3cd – 4ab . 4c – 5 ).

Phải sống thành thực, không sống giả dối, bởi vì, theo Thánh Giacôbê: “Người đã muốn sinh ra chúng ta bằng lời chân thật, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các tạo vật”.

Ngài khuyên chúng ta tránh xa sự gian dối: “Anh em hãy khử trừ mọi thứ nhơ bẩn và lòng đầy gian ác, anh em hãy ngoan ngoãn nhận lãnh lời đã gieo trong lòng anh em, lời có sức cứu độ linh hồn anh em. Anh em hãy thực thi lời đã nghe, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình”.

Và đó là “lòng đạo đức trong sạch và tinh tuyền” (x. Gc 1, 17 – 18 . 21b – 22 . 27)

Lạy Chúa Giêsu, Đấng Thánh vì là Sự Thật của Thiên Chúa, nhờ Máu Chúa, chúng con đã được tẩy rửa sự gian ác trong lòng chúng con. Xin cho chúng con giữ được lòng đạo đức trong sạch và tinh tuyền ấy trước những cám dỗ dối trá của cuộc đời. Amen.

 

 PM. CAO HUY HOÀNG, 30.8.2012