CON CHỒN và VƯỜN NHO

CON CHỒN và VƯỜN NHO

 

Tác giả: Thanh Thanh

Chuyện ngụ ngôn kể rằng: Một con chồn muốn vào một vườn nho, nhưng vườn
nho lại được rào dậu cẩn thận. Tìm được một chỗ trống, nó muốn chui vào nhưng
không thể được. Nó mới nghĩ ra một cách: nhịn đói để gầy bớt đi.

Sau mấy ngày nhịn ăn, con chồn chui qua
lỗ hổng một cách dễ dàng. Nó vào được trong vườn nho. Sau khi ăn uống no nê,
con chồn mới khám phá rằng nó đã trở nên quá mập để có thể chui qua lỗ hổng trở
lại. Thế là nó phải tuyệt thực một lần nữa.

Thoát ra khỏi vườn nho, nó nhìn và suy nghĩ: “Hỡi vườn nho, vào trong nhà ngươi
để được gì?Bởi vì ta đã đi vào với hai bàn tay không, ta cũng trở ra với hai
bàn tay trắng”.

Khi bước vào trong trần thế này, con người muốn mở rộng bàn tay để chiếm trọn mọi sự. Khi nhắm mắt xuôi tay cũng đành phải ra đi với hai bàn tay trắng mà thôi.

………….

Một nhà vua kia trước khi chết dặn rằng: “Lúc chết, khi đặt vào quan tài, thì
nhớ khoét hai lỗ và để hai bàn tay của Trẫm ra bên ngoài nhé, để cho mọi người
thấy là ta không đem theo được thứ gì cả”.

Ai chẳng biết thế, nhưng không hiểu sao mọi người cứ tích góp thật nhiều. Đến
độ phải dành dật, mất cả tình nghĩa, đến cả sát hại lẫn nhau nữa.

Cuộc sống con người đáng lẽ phải hưởng được thật nhiều hạnh phúc, thì lại bận
tâm cho sự đời. Lòng trí trở nên rối bời, khắc khoải, chờ đợi, tìm kiếm, nắm
giữ, mất đi, buồn khổ, thất vọng, chán đời, trách Chúa.

Thiên Chúa không dựng nên con người để hành hạ, đoạ đày, nhưng là để hưởng, như
Ađam Eva xưa. Thế mà con người đâu có hài lòng, lại muốn hơn muốn nữa, cuối
cùng chính họ tự làm khổ mình. Và “cái đang có cũng bị lấy đi”. Chúa dạy
là:“Hãy làm giàu kho tàng ở trên trời, nơi mối mọt không làm gì được”.

Dường như cái tâm lý chiều sâu cũng là định luật bù trừ thì phải. Xưa nguyên tổ
đánh mất, thì nay ta tìm cách lấy lại. Lấy lại bằng bất cứ giá nào. Nên càng cố
ra sức tích tích trữ thật nhiều. Và coi đó như một bảo đảm cho đời mình. Và khi
con người vất vả gom góp, thì lúc phải chia sẻ, lìa bỏ càng khó và đau xót hơn
nhiều.

Thánh Phaolô tông đồ nói: “Thưa anh em, thời gian chẳng còn bao lâu nữa. Vậy từ
nay ai có vợ hãy sống như không có; ai khóc lóc hãy làm như không khóc; ai vui
mừng như chẳng vui mừng; ai mua sắm hãy làm như không có gì cả; kẻ hưởng dùng
của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng. Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi”
(1Cr 7,29-30).

Về đạo đức, ta được động viên là hãy làm thật nhiều việc thiện, lập nhiều công
đức để được Chúa thưởng công.

Nhưng về mặt tu đức, ta lại được nghe rằng hãy gỡ bỏ mọi thứ hành trang, để
mình trở về số không. Số không nguyên tuyền tốt lành thuở ban đầu khi Thiên
Chúa dựng nên. Chính lúc này ta thực sự nhận lãnh mọi sự tốt lành Chúa đã sắm
sẵn.

Như Đức Giêsu, Ngài có tất cả, nhưng rồi lại tháo gỡ tất cả. Từ là Chúa, quyền
uy, oai phong, hoàn hảo, tốt lành, giàu có, đến sức sức khoẻ, thời gian, tài
đức, và cuối cùng là sự sống. Ngài đã thực sự trở nên số không khi bị treo trên
thập giá. Và chính lúc này, Thiên Chúa Cha tỏ cho biết thế nào là vinh quang,
thế nào là tất cả.

Nếu con người biết cái thực thực ảo ảo của thế gian, mà can đảm đi ngang qua
tất cả, thì sẽ gặp được Thiên Chúa, Đấng là tất cả.

Thanh Thanh

 

=====

BÀN TAY PHẢI CỦA CHÚA GIÊSU

Tại một nhà thờ bên Tây ban nha, có một tượng thánh giá cổ rất đặc biệt. Cánh
tay trái của Chúa Giêsu vẫn còn đóng vào gỗ, nhưng cánh tay phải thì rời ra và
đưa đến phía trước trong tư thế ban phép lành.

Người Tây ban nha kể về nguồn gốc của tượng thánh giá này như sau: Có một tội
nhân đến xưng tội với cha xứ ngay dưới cây thánh giá. Như thường lệ, mỗi khi
giải tội cho tội nhân có quá nhiều tội nặng, Linh mục này tỏ ra rất nghiêm
khắc. Ngài ra việc đền tội nặng cũng như ngăm đe nhiều điều.

Tội nhân ra về, lòng cảm thấy nhẹ nhàng. Nhưng tính nào tật ấy, không bao lâu,
người đó sa ngã lại. Lần này, sau khi anh xưng thú tội, vị Linh mục lại đe dọa
như sau: “Đây là lần cuối cùng tôi giải tội cho ông”.

Nhiều tháng qua đi, tội nhân lại đến quì dưới chân Linh mục cũng bên dưới cây
thánh giá và lại xin ơn tha thứ một lần nữa. Nhưng lần này, vị Linh mục đã dứt
khoát, và trả lời: “Ông đừng có đùa với Chúa. Tôi không thể ban phép giải tội
cho ông nữa”.

Nhưng lạ lùng thay, khi vị Linh mục vừa khước từ tội nhân, thì bỗng ông nghe
một tiếng thì thầm từ bên thánh giá. Bàn tay phải của Chúa Giêsu bỗng được rút
ra khỏi thánh giá và ban phép lành cho hối nhân. Vị Linh mục nghe được tiếng
thì thầm như sau: “Chính Ta là người đã đổ máu ra cho người này, chứ không phải
ngươi”.

Từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu cứ ở mãi trong tư thế ấy, như không ngừng
mời gọi con người đến để ban ơn tha thứ.

(Trích trong sách Lẽ sống)

Nhìn vào thập giá, con thấy tội trần gian. Nhìn vào thập giá, con thấy tội của
con. Chối từ hồng ân, tuôn tràn từ Thiên Chúa, sống trong đam mê, chống lại
tình yêu. Đan tâm phản nghịch, đóng đinh Chúa từ nhân (lời bài hát Tình yêu
Thập giá).

Nhìn vào thập giá, ta biết Thiên Chúa đã chứng tình yêu vĩ đại thế nào.

Nhìn vào thập giá, ta biết rõ tình yêu lớn lao vô cùng của Chúa và biết rõ cái
phũ phàng của nhân loại.

Nhìn vào thập giá, ta biết được Thiên Chúa không bỏ rơi con người, mà còn mở
đường và cho ta cơ hội trở về. Vì thế, ta đừng sợ hãi, mà hãy can đảm nhìn lên
Chúa Giêsu, không phải để than phiền, trách móc hay thất vọng, nhưng là hối lỗi
ăn năn, và đừng đóng đinh Chúa lần nữa.

Nhìn vào thập giá, với cánh tay dang rộng, thì biết rằng dù con người có giết
Ngài, Ngài vẫn không khép kín từ tâm, đóng cửa bịt lối, mà tiếp tục dang rộng vòng
tay yêu thương để ôm lấy nhân loại.

Nhìn vào thập giá, ta sẽ cảm nếm được thế nào là ơn tha thứ của Ngài.

Nhìn vào thập giá, lời mời gọi khẩn thiết của Chúa là các con hãy tha thứ cho
nhau. Càng tha thứ nhiều, ta càng cảm nếm được ơn tha thứ của Chúa nhiều.

Nhìn vào thập giá, ta biết rằng chính Ngài là Đấng đổ máu ra vì con người, Đấng
duy nhất có quyền kết án hay tha bổng, chứ không phải do bác ái của con người.

Nhìn vào thập giá con thấy được tình yêu. Nhìn vào thập giá con người thấy được
hồng ân. Chúa từ trời cao, quên mình là Thiên Chúa. xuống nơi dương gian sống
vì tình yêu. Hy sinh thân mình chứng minh Chúa tình yêu. (lời bài hát Tình yêu
Thập giá)

Nhìn vào thập giá, ta biết đường đi lối về của mình trong hành trình tìm kiếm
Tình Yêu.

Nhìn vào thập giá, ta biết được sức mạnh của tình yêu. Đàng sau thập giá là
hình bóng của vinh quang. Muốn có vinh quang phải đi xuyên qua thập giá.

Nhìn vào thập giá, ta thấy bầu trời tình yêu được mở ra cho mọi người chiêm
ngắm và đi vào.

Nhìn vào thập giá, con đường tuyệt vọng biến thành hy vọng, sự chết biến thành
sự sống, thất bại trở nên thành công, khờ dại trở thành khôn ngoan, tương đối
biến thành tuyệt đối, bất hạnh biến thành hạnh phúc, lo sợ trở thành vững tin,
nhút nhát trở thành can đảm, khép kín trở nên cởi mở, ích kỷ thay bằng vị tha,
cố chấp thay bằng bao dung, lười biếng thay bằng hăng say, và sẵn sàng chiến
đấu vì chân lý và sự thật, nhờ sức mạnh của cây thập giá.

Nhìn vào thập giá, ta biết được sức mạnh của sự dữ đã bị bẻ gẫy tan tành.

Nhìn vào thập giá, ta biết trời cũ đất cũ thay bằng trời mới đất mới. Nơi toàn
là ánh sáng vinh quang. Nơi không còn bất cứ áp lực nào có thể đe doạ ta được.
Nơi không còn phải lo miếng cơm manh áo hay nhà cửa, tiền bạc hay nghề nghiệp,
bệnh tật hay chết chóc… Vì mọi thứ tốt lành vĩnh cửu đã được dành sẵn cho ai
bước vào.

Nhìn vào thập giá, ta biết cửa hoả ngục bị đập tung, và cửa thiên đàng đã mở
toang.

Thì này con đây khấn xin khấn xin nơi Ngài. Xin Ngài dủ thương tha thứ muôn tội
khiên, và dìu đưa con vào suối nguồn hồng ân.

Vì thế, nói đến thập giá là nói đến Chúa Giêsu. Nói đến Chúa Giêsu là nói đến
thập giá.

Nếu ta đi tìm một Giêsu không thập giá, ta sẽ gặp toàn thập giá, mà không thấy Giêsu.
nguồn: Maria Thanh Mai gởi

 

 

 

Kiên Nhẫn – Kiên Cường: Cậu Bé Glen Cunningham

Kiên Nhẫn – Kiên Cường: Cậu Bé Glen Cunningham

Br. Huynhquảng

Hôm nay, mục Sống Đẹp xin được nêu tấm gương của cậu bé Glen Cunningham nhằm
giới thiệu chủ đề mới: Kiên Nhẫn – Kiên Cường. Qua bốn chủ đề mà chúng ta đã
cùng nhau học hỏi: Tha Thứ Hòa Giải, Xây Dựng Hiệp Nhất, Sống Hiện Tại, và Đơn
Sơ Chân Thật, thì đây là lúc chúng ta cùng nhau trao đổi về chủ đề Kiên Nhẫn –
Kiên Cường. Vì thực ra, để có thể tha thứ, xây dựng hiệp nhất, sống hiện tại,
sống chân thật, tất cả đều đòi hỏi một sự kiên nhẫn không ngơi nghỉ.

Cậu Bé Glen Cunningham

Khi mới bảy tuổi, đôi chân của Glen Cunningham bị phỏng nặng do một vụ thảm
họa. Theo nhận xét của bác sĩ, cậu bé Glen sẽ không bao giờ đi lại bình thường
được. Các bác sĩ đề nghị cưa chân cậu bé nếu muốn cậu được sống sót. Như thế,
vấn đề bây giờ không còn là chuyện khi nào đôi chân của Glen được bình phục,
nhưng là sự sống của cậu bé. Những ngón chân trái dần dần bị hao mòn đi; chân
phải dần dần ngắn hơn chân trái. Với kinh nghiệm đau đớn trong bản thân và
chứng kiến cơ thể mình tàn lụi dần, Glen quyết tâm với lòng mình là không đầu
hàng với số phận. Hằng ngày cậu tập những động tác theo hướng dẫn của bác sĩ
chỉ nhằm với ý chí rằng: Cần làm những gì cần phải làm trước khi mình không bao
giờ còn cơ hội để làm. Với ý chí tích cực kiên cường ấy, ba năm sau, cậu tự đi
mà không cần dùng nạng. Xa hơn, cậu đã tập chạy và không ngừng chạy khi có thể.
Năm 1938, Glen làm cho cả thế giới kinh ngạc khi phá kỷ lục thế giới với 4 phút
4.4 giây trong đường chạy một dặm.

Ca dạo tục ngữ Việt Nam truyền dạy rằng: “Nước chảy đá mòn; có công mài
sắt có ngày nên kim.” Và đúng là như vậy, Glen Cunningham như mẫu gương để
khơi niềm hy vọng cho chúng ta, dù trong hoàn cảnh nào, nếu chúng ta quyết chí
vươn lên, một ngày nào đó, thành quả sẽ đến với chúng ta. Nhìn vào những người
như Glen Cunningham, phần nào ta tìm thêm nghị lực để tiếp tục tiến tới và tiếp
tục hoàn thiện chính mình, và để tiếp tục đi đến cùng đích của đời mình.

Kiên cường, can đảm (fortitude, fortitudo) là một đức tính rất được đề cao
trong nền triết lý văn minh Hy Lạp. Theo triết gia Aristotle (A-ris-tot),
“Kiên cường là đức tính của những người không tỏ lộ sự sợ hãi khi họ dám
chết cho lý tưởng cao thượng.” Nhưng đức tính (virtue, arete) này cần phải
có quá trình tập luyện bền bỉ. Mẫu gương cho những cái chết cao thượng là những
người chiến sĩ anh dũng hy sinh cho quê hương, cho dân tộc. Nhưng theo triết
gia Plato, kiên cường không chỉ được hiểu là can đảm chết cho những lý tưởng
cao đẹp, nhưng còn là “sự chiến đấu với những khát vọng thú vui.” Tức
là phải chiến đấu với chính con người của mình. Còn theo triết gia Cicero (45
B.C), “Kiên cường không gì khác hơn chính là thái độ tinh thần có khả năng
chịu đựng mọi nguy hiểm dù phải chịu cực nhọc đau đớn, nhưng đồng thời không để
cho sự sợ hãi tiếp cận gần ta.” Tóm lại, sự can đảm kiên cường không chỉ
là hành động anh hùng, nhưng còn là sự kiên nhẫn tập luyện chịu đựng gian khổ
để làm chủ con người mình để dám chết, nếu khi cần, cho lý tưởng cao đẹp, và
dám sống mỗi ngày nhằm nâng cao giá trị con người của mình.

Jean-Jacques Rousseau phát biểu rằng, “Kiên nhẫn thì cay đắng, nhưng trái
của nó lại ngọt ngào.” Và quả đúng như vậy, hạt giống chỉ có thể nảy mầm
khi nó liên tục âm thầm tự lột lớp vỏ của mình ra. Như thế, kiên nhẫn đòi hỏi
sự kiên cường và can đảm. Kiên cường ở đây không chỉ là thực hiện những việc
lớn lao, nhưng quan trọng hơn chính là làm những việc nhỏ bình thường hằng ngày
với ý chí hoàn thiện chính mình. Dù làm những việc nhỏ, nhưng sự kiên trì hành
động từng ngày cũng đủ làm ta phải trả giá cho sự đau đớn, mất mát và từ bỏ
những điều thân thiết.

Thưa bạn, trong bài đầu tiên về chủ đề Kiên Nhẫn – Kiên Cường, tôi mời bạn ví đời
mình như là một người thợ xây. Mỗi ngày chúng ta dù làm việc gì (học hành, rèn
luyện nhân đức, thao luyện, cầu nguyện), chúng ta hãy coi như chúng ta đang đặt
một viên gạch lên bức tường của đời mình. Bức tường ấy có chắc chắn hay không,
có thẳng hàng hay không, có đẹp hay không đều lệ thuộc vào từng viên gạch chúng
ta đặt vào nó. Nếu mỗi một ngày chúng ta chỉ được quyền xây một viên gạch, thì
chúng ta cũng nên cẩn thận và kiên nhẫn cho từng viên gạch ấy. Và cũng nếu hôm
nay mình không thể đặt viên gạch vào bức tường của mình, thì mãi mãi chỗ ấy sẽ
là chỗ trống. Nếu một bức tường có nhiều lỗ hổng, càng xây lên cao, nguy cơ sụp
đổ của nó càng lớn. Và cũng vậy, nếu hôm nay tôi không kiên nhẫn và kiên cường
thi hành phận vụ của tôi, thì lỗ hổng vẫn còn đó, không ai giúp cho tôi được.
Vâng, kiên nhẫn thì cay đắng, nhưng trái của nó lại ngọt ngào!

Khát vọng kiếp người

Khát vọng kiếp người

TRẦM THIÊN THU

 

VRNs (29.11.2012) – Sài Gòn – Đến hẹn lại lên như một chu kỳ tất yếu, Mùa Vọng lại về. Đó là khoảng thời gian thế gian mong đợi Đấng Cứu Thế giáng sinh làm người. Đấng ấy là “Ngôi Lời trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:14), là Đấng
Thiên Sai mang tôn danh Giêsu Kitô.

Con người như đất khô cằn vì “hạn bà chằn” lâu ngày, thế nên luôn khao khát Cơn-Mưa-Giêsu. Và chỉ có Mưa Giêsu mới khả dĩ làm chúng ta “đã” cơn khát.

Trong kiệt tác “Cung Oán Ngâm Khúc” (chữ Hán: 宮怨吟曲) của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều (1741-1798), câu 103 và 104 có nói tới kiếp người:

Trăm năm nào có gì đâu

Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì

Còn Thiên Chúa nói với mỗi chúng ta: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3:19). Thân phận phàm nhân chỉ là cát bụi mà thôi. Xét ra chẳng có giá trị gì. Đồ càng cũ càng có giá trị, gọi là đồ cổ; người càng cũ càng bị người ta xa tránh, chẳng ai
muốn quan tâm “người cổ”, thậm chí còn bị chê là lỗi thời và lạc hậu.

Nói vậy nghe chừng bi quan quá. Nhưng không phải thế, người ta cần biết vậy để mà bớt tham-sân-si, để cố gắng ngày càng sống tốt hơn, ích lợi hơn không chỉ cho chính mình mà còn cho tha nhân.

Thân phận quá nhỏ nhoi, con người quá yếu đuối, quá bất túc và bất trác, vì vậy mà người ta càng khát vọng, có những khát vọng vô cùng cháy bỏng, tưởng chừng có thể “chết” đi nếu không đạt được. Ước mơ nhiều mà chẳng được bao nhiêu. Nhưng chính nhờ vậy mà người ta giảm bớt kiêu ngạo, chứ muốn gì được nấy thì người ta sẽ chẳng coi ai ra gì, và chắc hẳn người ta không còn tin vào bất cứ thần linh nào nữa. Cuộc đời không là vườn hồng, bước đời không đi trên thảm lụa, có vậy mới thành nhân.

Càng sống lâu người ta càng thấy mình kém cỏi về đủ mọi lĩnh vực, thế nên người ta phải kêu cầu Thiên Chúa: “Thân phận con khốn khổ nghèo hèn, xin mau đến cùng con, lạy Thiên Chúa! Ngài là Đấng phù trợ, là Đấng giải thoát con, muôn lạy Chúa, xin đừng trì hoãn” (Tv 70:6). Hằng ngày, người ta vẫn không ngừng sáng nguyện, trưa cầu, tối khấn: “Xin dủ lòng thương mau đến giúp, vì chúng con đã khổ quá nhiều” (Tv 79:8).

Có thể có người nghĩ rằng Chúa không nghe hoặc làm ngơ, vì họ cầu xin quá nhiều mà chẳng thấy động tĩnh gì, cũng có thể có người sẽ thối chí nản lòng. Thực ra Chúa biết hết, Ngài muốn chúng ta “đừng lải nhải” (Mt 6:7), mà Ngài tập cho chúng ta đức kiên trì. Thánh Thomas Tiến sĩ nói: Công hiệu của năng lực cầu nguyện là do đức ái, nhưng năng lực để cầu nguyện cho được hiệu  quả vẫn là do đức tin và đức cậy của mình. Thánh Sibyllina giải thích: “Mong đợi, giống như một đồ
đựng, đồ đựng càng lớn thì chứa được càng nhiều, đồ đựng càng nhỏ thì chứa được càng ít. Mong đợi lớn thì được ân điển nhiều, mong đợi nhỏ thì được ân điển ít”
.

Quả thật, khi cầu nguyện mà không thấy động tĩnh gì, không thấy cảm giác gì, đó mới là cách cầu nguyện đẹp lòng Thiên Chúa. Người ta có thể rưng rưng mắt lệ hoặc bật khóc khi cầu nguyện, nhưng có thể đó chỉ là cảm giác nhất thời, vì “bức xúc” cá nhân điều gì đó, chứ chưa hẳn là vì say Men Tình Giêsu.

Cuộc sống có biết bao thứ để chờ đợi, ước mong, hoài vọng, nhưng điều cần là phải biết lắng nghe. Nghe cũng phải có phương pháp, lắng nghe chứ không nghe bình thường, lắng nghe cả những điều trái ý mình chứ không chỉ lắng nghe điều hợp ý mình với cả tấm lòng. Khó lắm! Vả lại, Thiên Chúa chỉ thì thầm với chúng ta khi chúng ta vui mừng, nhưng Ngài nói  to trong lương tâm của chúng ta khi chúng ta giãy giụa trong bể khổ trần ai. Chính lúc chúng ta “đầu hàng vô điều kiện” thì Ngài sẽ kịp thời ra tay: “Đức Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử, đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên” (1 S 2:6).

Lắng nghe mà chưa hiểu thì lắng nghe tiếp, và tâm sự với Chúa: “Xin Ngài lắng nghe con rên rỉ: có ai thèm an ủi con đâu! Mọi kẻ thù con vui mừng hớn hở khi biết chính Ngài gây khổ cực cho con. Ngày Ngài hứa, xin cho mau đến để chúng cùng số phận với con” (Ac 1:21). Mà thật đấy: “Ngài có đó khi con tưởng mình đơn côi, Ngài nghe con khi chẳng ai thèm đáp lại, Ngài thương con khi tất cả đều hững hờ” (Thánh
Augustinô).

Chúng ta thực sự cần Chúa, vì chỉ có Ngài mới là Cứu Cánh: “Lạy Chúa, xin Ngài nhớ đến con bởi lòng thương dân Ngài, xin ngự đến viếng thăm mà ban ơn cứu độ” (Tv 106:4). Có yêu Chúa mới cần Chúa, mong Chúa: “Lạy Chúa, con kêu lên cùng Chúa, xin Ngài mau đến phù trợ con. Xin lắng nghe lời con, khi con kêu lên Ngài” (Tv
141:1). Khoảng mong chờ nào cũng là khoảng thời gian dài nhất, dù chỉ phải chờ
5 phút cũng thấy thời gian sao quá lâu!

Chờ mong, nhưng có thành khẩn? Nếu thật lòng mong chờ thì Thiên Chúa không nỡ để chúng ta phải chờ lâu, vì Đấng làm chứng về những điều đó phán: “Phải, chẳng bao lâu nữa Ta sẽ đến” (Kh 22:20a). Chắc chắn như vậy, nhưng bổn phận của mỗi chúng ta vẫn phải cầu nguyện liên lỉ: “Amen, lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến” (Kh 22:20b).

Mùa Vọng cứ đến rồi qua, càng lớn tuổi càng trải qua nhiều Mùa Vọng, nhưng vấn đề không phải sống qua nhiều  mùa Vọng mà là còn “đọng” lại chút gì ý nghĩa thánh đức hay không. Đó mới là điều Chúa muốn!

Chúa Giêsu đã đến thế gian lần thứ nhất để trao ban Ơn Cứu Độ cho nhân loại. Đó là “lần đầu”. Ngài sẽ đến thế gian lần thứ hai để hoàn tất công cuộc cứu độ, gọi là Tận Thế hoặc Cánh Chung. Đó là “lần cuối”. Nhưng còn một lần Ngài đến riêng với từng người: Lúc chúng ta chết. Đó là “lần giữa”.

Lần nào cũng quan trọng, nhưng “lần giữa” là lần tối quan trọng với từng người, vì chúng ta không được chứng kiến Chúa Giêsu đến “lần đầu” trong nghèo hèn và đau khổ, và không biết chúng ta có diễm phúc chứng kiến Ngài đến “lần cuối” trong vinh quang hay không, nhưng chắc chắn chúng ta sẽ chứng kiến Ngài đến “lần giữa”.

Lạy Chúa, xin đổ xuống Sương-Giêsu và Mưa-Giêsu để giải khát chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Mùa Vọng – 2012

KITÔ HỮU – TỬ VÌ ĐẠO

KITÔ HỮU – TỬ VÌ ĐẠO

Suy niệm Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam

Ngày nay, những người đã được rửa tội để gia nhập Hội Thánh Công Giáo được gọi là “Kitô Hữu”, hoặc rõ nghĩa hơn là “Kitô Hữu Công Giáo”, thay cho từ vẫn thường gọi cách chung chung ngày xưa (mà bây giờ vẫn còn dùng đây đó): “người có đạo”.

Vâng, tôi còn nhớ câu giáo lý đã học thời tuổi nhỏ của tôi: “Chỉ có một đạo chánh, đạo thật, ấy là đạo thánh Đức Chúa Trời” (sách Giáo Lý cũ, Địa Phận Qui Nhơn).

Thiết nghĩ, việc thay đổi danh xưng này muốn thiết lập một ý nghĩa chính xác hơn trong cuộc đời người đã được rửa tội trong Hôi Thánh Công Giáo: Theo Chúa Kitô, có Chúa Kitô  và sống như Chúa Kitô đã sống.

Đã có nhiều  “Kitô Hữu”, cụ thể như Cha Ông chúng ta, với đức tin đơn sơ, học thức ít ỏi,
không phải là nhà thần học hay giảng thuyết, chưa thấu đạt ý nghĩa mà Giáo Hội
muốn thiết lập qua việc thay đổi danh xưng, chưa thấu đạt ý nghĩa theo Giáo Lý
Công Giáo, nhưng nhờ ơn Chúa, nhờ Lời Chúa tác động, họ có kinh nghiệm đơn sơ
thánh thiện khi đi qua gần hết một đời Kitô Hữu trên trần gian này rằng “theo
đạo công giáo là phải tử vì đạo”, “tử vì đạo mọi lúc mọi nơi” hoặc “tử vì đạo
âm thầm lặng lẽ trong đời sống hằng ngày”….

Và quả thật như vậy, một ngày sống của một Kitô Hữu Công Giáo là một ngày tử vì đạo.

-Đơn giản nhất như việc ưu tiên “nhớ đến Chúa ngay khi  vừa thức giấc và dâng ngày cho Chúa” cũng đã đòi hỏi nơi mỗi người phải chiến đấu và chiến thắng những quyến rủ “nhớ ngay việc phải làm hôm nay”, hoặc những quan tâm trần thế khác.

-Việc sống Lời và giữ lề luật Chúa dạy, một cách tích cực là vì yêu mến Chúa, yêu cầu mỗi tín hữu phải từ bỏ biết bao ý riêng mình, để đẹp ý Chúa, từ bỏ biết bao cơ hội làm giàu bất chính, biết bao cơ hội thoải mái cuộc đời này.

-Trong cuộc sống gia đình, làng xóm, giáo xứ, đôi khi những người bắt đạo, những người bắt mình phải bước qua thập giá, những tên lý hình thời đại, không ai khác lại là chồng là vợ là người thân, là láng giềng, đôi khi lại là người đáng kính trọng trong giáo xứ, giáo hội đáng ra phải nêu gương đời sống đạo đức, phải dắt dẫn mình sống thánh thiện hơn.

Không thể không tử vì đạo trong đời sống các Kitô Hữu, bởi vì, chính chúng ta đã chấp nhận mặc lấy Chúa Kitô để cùng Ngài chết đi cho con người cũ, và sống con người mới. Con người mới là người đang tập sống giữa những cái chết, tập sống nhờ sự chết.

Như vậy, là Kitô Hữu, nơi nào, lúc nào cũng có thể thấy Máu Chúa Kitô đang đổ ra cho chính mình và cho mọi người. Và cùng với Chúa Kitô, chúng ta cũng đang

-chết dần những danh dự vinh quang của mình để chỉ một mình Thiên Chúa được vinh danh

-chết dần những khát khao để chỉ còn một khát khao duy nhất là khát khao Thiên Chúa.

-chết dần những đam mê khoái lạc trần gian chóng qua để chỉ còn một niềm vui thánh thiện và vĩnh cửu là niềm vui giữ luật Chúa hôm nay và trong lòng Thiên Chúa mai sau.

Là Kitô Hữu Công Giáo Việt Nam, nơi nào, lúc nào chúng ta cũng có thể thấy Máu Các Thánh Tử Đạo đang nhuộm khắp dọc dài đất nước, không chỉ những Đồng Mơ, Trí Bưu, Định Tường….mà là khắp cả đất nước. Vì nơi nào có Kitô Hữu Công Giáo, ấy là nơi có  những giọt máu các Thánh Tử Đạo Việt Nam đươm bông kết trái. Và hoa trái của Đức Tin Anh Hùng ấy, không cho phép chúng ta chỉ ngợi ca, chỉ tri ân, chỉ tổ chức lễ hội hoành tráng, mà còn phải thực sống tinh thần Tử Vì Đạo cách anh dũng như Chúa Giêsu Kitô, như các thánh Tử Đạo Việt Nam.

Thiết tưởng, còn Đạo Công Giáo, còn Kitô Hữu, là không bao giờ hết cảnh bắt bớ, tù đày, tra tấn, ngược đãi, đàn áp đến mức dã man…. là mãi còn tử vì đạo. Nhất là, trong một xã hội mà chính quyền là những người không những “không tin” vào Thiên Chúa mà còn cả gan “hạ bệ” uy tín của Thiên Chúa trong lòng con dân mình, mà cả gan chống lại Thiên Chúa, để con dân mình phải chỉ tin vào một quyền bính thế gian tàn bạo mà yếu đuối, tưởng bền vững mà mong manh.

Tôi không nghĩ là họ ngu muội hay không biết việc họ làm. Tôi hiểu là họ cũng tin có Ông Trời, có Đấng Trên Đầu Trên Cổ, có thể họ cũng biết họ cũng là con cái của Thiên Chúa nhưng vì Satan đã giáo dục họ ‘không chấp nhận sống cuộc sống của Đức Kitô là chết để sống’, không chấp nhận cuộc sống mất hưởng thụ ở trần gian này, nên họ đã khước từ Cha mình là Thiên Chúa và tìm cách tấn công vào Thiên Chúa. Họ đang giơ chân đạp mũi nhọn. Họ cũng đang giơ chân đạp vào những Kitô hữu trên khắp cả nước, không kể thành phần
nào, bằng đủ mọi thủ đoạn của Satan.

Là tín hữu của Chúa Kitô, chúng ta tin vững chắc vào chiến thắng của Chúa Giêsu Kitô. Là Kitô Hữu Công Giáo Việt Nam, chúng ta tin vững chắc vào chiến thắng của các Thánh Tử Đạo.

Chúa Kitô và các Thánh Tử Đạo đang là mẫu gương, là niềm hy vọng, là niềm vui lớn lao cho mọi người chúng ta tử đạo hằng ngày trong cuộc sống tín hữu, và làm chứng cho Thiên Chúa trong bất kỳ cuộc tàn sát dã man nào rằng: Kitô hữu là Tử Vì Đạo.

Xin mời bạn cùng tôi dừng lại một phút hướng về những nơi và những anh chị em đang bị bức bách.

Lạy Chúa,  vì công nghiệp Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã Tử Vì “Đạo Yêu Con Người Tội Lỗi”, và nhờ lời nguyện giúp cầu thay của các Thánh Tử Đạo Việt Nam Thân Yêu,  chúng con nguyện xin Chúa ban thêm sức mạnh và niềm vui hy sinh cho các Kitô hữu kiên cường bảo vệ Đức Tin và Công Lý.

Amen

PM. Cao Huy Hoàng

11-11-2011

 

LỜI CẦU NGUYỆN TẠ ƠN

LỜI CẦU NGUYỆN TẠ ƠN

Lạy Chúa Giêsu, Chúa thường dâng lời tạ ơn với Đức Chúa Cha trước khi làm việc gì:  khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều (Mt 15:36), trong bữa tiệc ly (Mt 26:27), cho La-da-rô sống lại từ cõi chết (Ga 11:41)…  Nhân Mùa Tạ Ơn đến, con cũng muốn bắt chước Chúa để bập bẹ những lời tạ ơn, những lời tạ ơn khó nói nhất của kiếp nhân sinh!  Có những lời
tạ ơn thật dễ để nói với nhau và với Chúa.  Nhưng cũng có những lời tạ ơn không thể thốt thành lời nếu không có ơn Chúa.  Phải đợi khi linh hồn con được nuôi dưỡng bằng bao nhiêu ân sủng từ trời cao, đợi khi con đi gần đến hoàng hôn của đời người, thì con mới đủ can đảm nói lên những lời tạ ơn muộn màng này.  Tạ ơn ai?  Tạ ơn hay hờn giận?  Cám ơn hay trách móc?  Tạ ơn Chúa trong nghịch cảnh cuộc đời và những người một thời đã làm
con đau khổ.  Khó quá Chúa ơi!  Đôi khi lời được thốt ra trong dòng nước mắt không biết của hờn giận hay của tha thứ.  Đôi khi lời được bập bẹ ở đầu môi, những nghẹn ngào tức tưởi ngăn cho lời không tròn chữ.  Đôi khi lời được bật lên qua con tim rướm máu của vết thương năm xưa chưa lành hẳn.  Dù thật khó để nói, dù ê a tập tành từng chữ như trẻ nhỏ học nói, nhưng Chúa ơi, con sẽ cố gắng để nói…

Cám ơn những người bạn đã phản bội tôi năm nào.  Đau khi bị phản bội!  Nhưng Người đã dạy cho tôi hiểu bài học về tình bạn chân thật là “tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15:13)

Cám ơn người yêu đã phụ tình tôi năm xưa.  Hận khi bị phụ rẫy!  Nhưng Người đã dạy tôi biết trân quý tình yêu của Người đã dám “yêu thương đến cùng!” (Ga 13:1)

Cám ơn kẻ thù, những người đã bắn gục tôi trên chiến trường năm nào, đã đẩy tôi lao đao khốn khó trong chốn lao tù năm xưa.  Người đã vô tình tạo cơ hội cho gia đình tôi giờ đây được bình an định cư nơi thiên đường của trần thế, đã cho tôi cơ hội để sống câu: “hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.” (Mt 5:44)

Cám ơn những đứa con hoang đã làm cõi lòng mẹ cha tan nát.  Thất vọng, buồn tủi ngập tràn con ơi!  Nhưng con đã cho cha mẹ cơ hội để nên thánh.

Cám ơn những bậc cha mẹ bất hảo đã không yêu thương và dạy dỗ con cái mình như bổn phận đáng phải làm.  Cay đắng khi bị hất hủi mẹ cha ơi!  Nhưng Người đã làm cho trái tim con luôn khát khao tìm kiếm tình yêu nơi Thiên Chúa Tình Yêu.

Cám ơn những vấp ngã của tuổi thanh xuân. Ngươi đã làm cho ta biết khiêm nhường hơn.

Cám ơn những tội lỗi mà phận người yếu đuối vấp đi phạm lại nhiều lần trong đời.  Ngươi đã cho ta cơ hội cảm nếm lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa.  Ôi, tội hồng phúc!

Cám ơn những quyết định sai lầm thưở nào đưa đến hoàn cảnh ngang trái hôm nay. Ngươi đã dạy ta biết phấn đấu vươn lên trong nghịch cảnh cuộc đời.

Cám ơn hai chữ “kiếp nghèo” gắn liền với số phận hẩm hiu.  Đôi lúc ta ghét ngươi nhưng ngươi đã làm cho ta dễ dàng tiến vào Nước Trời hơn.  “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó vì Nước Trời là của họ.” (Mt 5:3)

Cám ơn những lần thất nghiệp cay đắng, những lần phá sản, bị lừa gạt, mất nhà, thua stock trắng tay.  Ngươi đã dạy cho ta hiểu nghĩa của cải phù du ở đời này.  “Phù vân, quả là phù vân.  Phù vân, quả là phù vân.  Tất cả chỉ là phù vân!” (Gv 1:2).

Cám ơn những lần thất bại ê chề nhục nhã. Biết bao bài học ta đã học được từ nơi ngươi.

Cám ơn căn bịnh hiểm nghèo mà ta đang mang.  Nhờ ngươi mà linh hồn ta thức tỉnh phận người mỏng dòn chóng qua.  Ngươi đã giúp ta biết yêu quý những giây phút ít ỏi còn sót lại trên cõi đời tạm này.

Tạ ơn Chúa vì những gì Ngài đã lấy đi!

Tạ ơn Chúa vì những trái đắng Ngài đã trao ban, dù con không muốn nhận.

Tạ ơn Chúa vì số vốn quá ít ỏi Ngài cho con khi gởi con đến trong cuộc đời này!  Vì “ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều.” (Lc 12:48)

Tạ ơn Chúa vì những lần Ngài đã thẳng tay thanh tẩy, gọt dũa linh hồn con mặc cho con dẫy dụa đau đớn.

Tạ ơn Chúa vì tấm thân mệt mỏi bịnh hoạn, những lo toan vất vả trong cuộc sống khiến con không còn sức để bon chen hận thù ghen ghét.

Tạ ơn Chúa vì những lần Ngài đã cương quyết không cho con những cái mà con xin, những thứ con cần, những gì con đang mong đợi, vì chỉ có Ngài mới biết những gì là cần thiết cho linh hồn và ơn cứu rỗi của con

Tạ ơn Chúa vì những cái chết oan nghiệt, sự ra đi vội vàng của người thân khi tuổi đời còn quá trẻ.  Con biết Ngài muốn nhắc con nhớ rằng“đời sống con chung cuộc thế nào, ngày tháng con đếm đuợc mấy mươi, để hiểu rằng kiếp phù du là thế!” (Tv 39:5).

Tạ ơn Chúa vì những bài học cay đắng mà Ngài đang dạy dỗ con.  Có những bài học con không hiểu hết ý nghĩa.  Có những lúc con muốn thét lên “tại sao là con?”, “tại sao lúc nào cũng lại là con?”.   Nhưng con biết rằng chỉ những ai được Người thương yêu thì Người mới  sửa phạt vì “Đức Chúa khiển trách kẻ người thương, như người cha xử với con yêu qúy.” (Cn 3:12)

Lạy Chúa, đường đời trước mắt còn giăng đầy chông gai, có bao nhiêu nghịch cảnh thì có bấy nhiêu “Lời Tạ Ơn Khó Nói”.  Có những cái con chưa nhìn ra hết, có những điều con chưa cảm nhận được và có những lời chưa thể thốt nên lúc này.  Xin ban cho con sức mạnh của Ngôi Lời Nhập Thể để con có thể tiếp tục cám ơn anh em mình – dù là kẻ thù – và dâng
lời tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh – dù là ngang trái.  Tạ ơn không chỉ trong ngày lễ Tạ Ơn mà là tạ ơn Chúa mọi ngày trong suốt cuộc đời con.  Amen!

Lang Thang Chìều Tím

Maria Thanh Mai gởi

LÒNG ĐẠO ĐỨC CAO SANG CỦA MỘT CẬU BÉ MỒ CÔI

LÒNG ĐẠO ĐỨC CAO SANG CỦA MỘT CẬU BÉ MỒ CÔI

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Với cái quần hai ống ngắn cũn cỡn, một chiếc áo thô sơ mất nút hở ngực, đôi chân không mang tất, đó là hình dáng thảm thương của một cậu bé mồ côi sống vào đầu thế kỷ thứ XI tại thành phố Ravenna ở miền Bắc nước Ý. Không một ai thèm quan tâm săn sóc cậu. Cậu bé phải tự kiếm chút lương thực ít ỏi sống qua ngày bằng việc chăn heo.

Tuy nhiên, dầu ăn mặc nghèo nàn khốn khổ tột cùng như thế, cậu bé vẫn giữ nguyên nét tươi mát và vẻ đẹp hồn nhiên trong trắng tuyệt vời. Đầu cậu bé có mái tóc rậm và óng ả có thể dùng làm mẫu cho nhà họa sĩ muốn vẽ một thiên thần. Đôi mắt có màu trong xanh lóng lánh một trí thông minh xuất chúng đi kèm một lòng tốt vô bờ. Đơn sơ, dễ thương, hiền
dịu là những nét nổi bật toát ra từ con người cậu bé mồ côi. Chưa hết. Cậu bé còn có giọng nói thanh tao nghe như một nốt nhạc của chiếc đàn vĩ cầm! Với tất cả những ưu điểm vừa thể xác vừa tinh thần như thế, cậu bé thật sự lôi cuốn sự chú ý và lòng thương mến của mọi người. Ai ai cũng khen ngợi tính tình ngoan hiền của cậu bé.

Cậu bé là con út trong một gia đình đông con. Mồ côi cả cha lẫn mẹ ngay khi mở mắt chào đời, cậu bé lớn lên trong đói khổ. Giờ đây cậu bé sống nương nhờ nơi gia đình người anh cả. Anh cả đã lập gia đình lại có đông con cái và cũng nghèo mạt rệp nên sự hiện diện của đứa em mồ côi trong gia đình khiến anh cảm thấy khó chịu. Anh cho đây là một gánh nặng
phải vác, một cái miệng phải cho ăn. Anh sai em đi chăn đàn heo.

Một ngày, đang lúc lùa heo đi ăn, cậu bé bỗng trông thấy dưới đất một đồng tiền bằng bạc. Mân mê đồng tiền trong tay, cậu bé mồ côi bỗng nghĩ đến chuyện có thể mua vài vật dụng cần thiết nào đó cho hoàn cảnh thiếu thốn của mình. Còn đang đắn đo suy tính thì cậu bé trông thấy một Linh Mục tiến đến, vừa đi vừa đọc Kinh Thần Vụ. Hình ảnh vị Linh Mục
khiến cậu bé nhớ đến Cha Mẹ quá cố. Và như được ơn trên soi sáng, cậu bé liền tiến về phía vị Linh Mục. Cậu hôn tay Cha, trao cho Cha đồng tiền bằng bạc và xin Cha dâng Thánh Lễ cầu cho linh hồn Ba Má đã qua đời.

Vị Linh Mục trông thấy nơi cử chỉ tất cả tấm lòng quảng đại và nét cao cả của một con tim trong trắng của cậu bé nghèo. Cha hiền từ nói với cậu:

– Ngày mai Cha sẽ dâng Thánh Lễ cầu cho Ba Má quá cố của con!

Rồi Cha nói thêm vài lời ưu ái trước khi bước đi và đọc tiếp Kinh Thần Vụ.

Chỉ vài ngày sau biến cố trên đây, cậu bé mồ côi bị anh cả đuổi ra khỏi nhà. Trời đã tối lại vừa mưa vừa lạnh, cậu bé đáng thương lang thang không biết đi về đâu. Từ sáng đến giờ chưa có chút gì  bỏ bụng. Nước mắt đầm đìa, cậu tìm đến gõ cửa nơi nhà một người anh khác. Ngườianh này, khi trông thấy một đứa bé ăn mặc tồi tàn, run lẩy bẩy vì đói và vì
lạnh, đã nhận ra đứa em trai út của mình. Anh cảm thấy con tim đau nhói. Trong phút chốc, anh tự hứa với lòng mình là phải trở thành người cha săn sóc em và sẽ lo lắng mọi sự cho em, không để em còn thiếu thốn một thứ gì nữa.

Ít lâu sau đó người anh trao phó đứa em trai út cho một Linh Mục và xin ngài dạy em học. Cậu bé mồ côi tỏ ra thật thông minh và hấp thụ nhanh chóng mọi điều. Vị Linh Mục nhận ra nơi đứa trẻ các dấu hiệu tích cực của một ơn gọi. Cha nghĩ đến chuyện cho cậu bé gia nhập tiểu chủng viện.

Thời gian trôi qua, chương trình học kết thúc, cậu bé mồ côi đến tuổi thụ phong linh mục. Trở thành Linh Mục, rồi làm Giám Mục, rồi được vinh thăng Hồng Y. Vị Hồng Y đồng thời cũng là một thần học gia lỗi lạc. Ngài qua đời trong hương thơm thánh thiện nên chẳng bao lâu được tôn phong hiển thánh. Chưa hết. Vì các tác phẩm nổi tiếng, ngài lại được
Đức Thánh Cha Lêô XIII (1878-1903) ban tặng tước hiệu Tiến Sĩ Hội Thánh vào năm
1828!

Vị hiển thánh xuất thân từ đứa bé mồ côi mà chúng ta giới thiệu và nói đến chính là thánh Pier Damiani (1007-1072) chào đời năm 1007 tại Ravenna và qua đời năm 1072 tại Faenza, miền Bắc nước Ý. Trên mộ ngài có khắc mấy câu do chính ngài viết:

– Tôi từng là người như bạn hôm nay; bạn sẽ là người như tôi hôm nay. Xin làm
ơn nhớ đến tôi. Xin thương cảm nhìn tro tàn của Pietro. Cầu nguyện, than khóc
và lập lại: Xin Chúa miễn cho con điều ấy!

… ”Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng. Ta cho thần khí Ta ngự trên nó; nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân. Nó sẽ không kêu to, không nói lớn, không để ai nghe tiếng giữa phố phường. Cây lau bị giập, nó không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi. Nó sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý.
Nó không yếu hèn, không chịu phục, cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu. Dân các hải đảo xa xăm đều mong được nó chỉ bảo. Đây là lời THIÊN CHÚA, Đấng sáng tạo và căng vòm trời, Đấng trải rộng mặt đất với hoa màu tràn lan, Đấng ban hơi thở cho dân trên mặt đất, ban sinh khí cho toàn thể cư dân” (Isaia 42,1-5).

(”La Mia Messa”, 1 Ottobre 2012 – 31 Dicembre 2012, Anno VI, vol.IV, Casa Mariana Editrice, trang 221-223)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

nguồn: Anh chị Thụ & Mai gởi

Bẩn !

Bẩn !

TRẦM THIÊN THU


Bẩn là dơ, là không sạch. Bẩn có nhiều dạng và nhiều mức độ: Ô nhiễm môi trường
là bẩn, ô nhiễm không khí là bẩn, ô nhiễm thực phẩm là bẩn, ô nhiễm nguồn nước
là bẩn, ô nhiễm quản lý là bẩn, ô nhiễm tư tưởng là bẩn, ô nhiễm ánh mắt là
bẩn, ô nhiễm lương tâm là bẩn, ô nhiễm giáo dục là bẩn, ô nhiễm âm nhạc là bẩn,
ô nhiễm văn chương là bẩn,… Ô nhiễm nào cũng bẩn, cũng xấu, cũng có hại!

Các phương tiện thông tin đại chúng hằng ngày đưa tin về các loại bẩn. Nào là
thịt thối, heo siêu nạc; nào là thuốc tăng trọng, cà-phê là đậu nành trộn với
hàng chục loại hóa chất; nào là giá làm bằng đậu bẩn, trái cây được kích thích
bằng hóa chất; nào là phở chứa phoóc-môn, nước tương (xì dầu) chứa chất 3-MCPD,
sữa chứa melamine,… Cơ man nào mà kể. Đó là dạng bẩn thực phẩm gây hại cho cơ
thể, có thể sinh ung thư!

Chỉ nói riêng về thực phẩm thôi cũng đã thấy có nhiều mối nguy hiểm đe dọa tính
mạng con người hằng ngày, tính đến mức từng giây. Dạng bẩn nào cũng nguy hiểm,
nhưng dạng bẩn nguy hiểm và độc hại nhất là “lòng người bẩn”, là “lương tâm
bẩn”. Tất cả sẽ không bẩn nếu lòng người không nhiễm bẩn, nếu lương tâm trong
sạch. Có thể nói rằng mọi thứ bẩn đều bắt nguồn từ “lương tâm bẩn”, vì từ đó
dẫn tới nhiều hệ lụy khác!

Phàm cái gì từ con người xuất ra mới là cái làm cho người ta ra ô uế. Có thể
hiểu “cái từ con người xuất ra” theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Chính Chúa
Giêsu xác định: “Những cái gì từ miệng xuất ra, là phát xuất tự lòng, chính
những cái ấy mới làm cho con người ra ô uế. Vì tự lòng phát xuất những ý định
gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và
vu khống. Đó mới là những cái làm cho con người ra ô uế; còn ăn mà không rửa
tay thì không làm cho con người ra ô uế” (Mt 20:18-20).

Hãy cẩn trọng, vì có thể Chúa Giêsu đang lên án chính mỗi chúng ta: “Các người
giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương
người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công
chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác!” (Mt
23:27-28).

Ngoại tại và nội tại đều cần thiết một môi trường trong sạch, không bị ô uế!

TRẦM THIÊN THU

 

SỐNG NĂM ĐỨC TIN : TÍN THÁC

SỐNG NĂM ĐỨC TIN : TÍN THÁC

Lm. Giuse Trần Đình Long

Dòng Thánh Thể

Ngày 11/10/2012 toàn thể Giáo Hội bắt đầu cử hành và sống Năm Đức Tin theo lời mời gọi của Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI trong tự sắc Porta Fedei “Chúng ta mong ước Năm Đức Tin sẽ khơi dậy nơi mỗi tín hữu khát vọng tuyên xưng Đức Tin trong sự toàn vẹn và với
một niềm xác tín được đổi mới, trong niềm tín thác và hy vọng. Năm này sẽ là một cơ hội thuận lợi để tăng cường việc cử hành Đức Tin trong phụng vụ, nhất là trong phép Thánh Thể, vốn là chóp đỉnh mà hoạt động của Giáo hội hướng tới, đồng thời là nguồn mạch tuôn trào sức mạnh của Giáo hội. Đồng thời, chúng ta ước mong việc làm chứng bằng đời sống của các tín hữu sẽ tăng tiến trong sự khả tín. Tái khám phá nội dung Đức Tin được tuyên xưng, được cử hành, được thể hiện qua đời sống; cầu nguyện và suy tư về chính việc làm của lòng tin, đó là nhiệm vụ mỗi tín hữu phải thực hiện, nhất là trong Năm Đức Tin này.”

Một trong những điểm mà chúng ta có thể suy tư về chính việc làm của Đức Tin, đó là Sống Đức Tin trong niềm Tín Thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa.

Khi đề cập đến việc tín thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa, Đức Giêsu nói : “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này
mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được” (Mt 6, 24).

Đức Giêsu lại nói tiếp : “Anh em đừng lo lắng tự hỏi : ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây ? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần
tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,31-33).

Một em bé cần một ổ bánh mì, nếu có 5000 đồng, nó sẽ có một ổ bánh mì thơm ngon dòn nóng một cách dễ dàng. Nhưng nếu nó đọc một kinh Kính Mừng mà trong tay không có 5000 đồng, chắc chắn nó không thể nào có được một ổ bánh mì như mơ ước. Điều này hiển
nhiên, vì một lời kinh không phải là cái máy chế biến ra bánh mì. Hơn nữa quyền năng của Thiên Chúa không phải để cho người ta thử thách, như ma quỷ đã thách thức Đức Giêsu trong hoang địa : “Nếu ông là con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi!” (Mt 4,3). Thế nhưng hôm nay vẫn còn có người nói, “nếu không có tiền thì lấy đâu ra bánh mì ?” Ở Liên Xô thời ông Stalin, cái trò lừa bịp ấu trĩ này người ta đã thường làm ở các lớp mẫu giáo để phủ nhận Thiên Chúa và đánh lừa trẻ em.

Sống Đức Tin trong niềm Tín Thác vào Chúa quan phòng ngày hôm nay vẫn gây nhiều thắc mắc cho một số đông người có đạo và cũng là đầu đề cho những người vô thần châm chích Hội Thánh. Họ cho rằng đây là những lời dạy tiêu cực đối với lao động. Thực sự Lời
Chúa ít khi nghe êm tai lắm. Kinh thánh nói “Lời sắc như gươm hai lưỡi, nó cắt vào tận hồn phách người ta”.

Trước khi suy niệm việc Sống Đức Tin trong niềm Tín Thác vào Chúa quan phòng hôm nay chúng ta cũng nên ghi nhận một sự việc sau đây. Khi Đức Giêsu nói “Thịt Ta là của ăn, Máu Ta là của uống”, thì người Do Thái la ó rồi bỏ đi không thèm nghe nữa. Nhưng khi nghe bài giáo huấn về niềm Tín Thác vào Chúa quan phòng này, thì người Do Thái không la ó gì cả. Họ yên lặng, nghĩa là họ đón nhận bởi vì dân Do Thái đã trải nghiệm cuộc sống bốn mươi năm chẳng làm ăn gì cả cứ lang bang trong sa mạc cát nóng mà Giavê Thiên Chúa nuôi họ, bụng không hề đói, áo xống không sờn rách, giầy dép đầy đủ, chân không hề bị phỏng suốt bốn mươi năm như thế.

Nhưng hôm nay chúng ta không sống bằng cảm nghiệm thực tiễn như người Do Thái, mà chúng ta sống bằng cảm nghiệm Đức Tin (ăn uống máu thịt Con Thiên Chúa). Tuy vững chắc hơn người Do Thái nhưng cũng làm một số người chao đảo. Vì hôm nay vấn đề gay gắt
nhất là lo lắng cho cuộc sống vẫn còn đó. Đành rằng, “Có làm thì có ăn. Tay làm hàm nhai, tay quai hàm trễ!” Câu này rất đúng thôi. Chỉ có kẻ trây lười biếng nhác mới nghĩ khác. Nhưng làm đến tối tăm mặt mũi, lo đến xanh mặt mà vẫn chưa đủ ăn, cái đó mới bi đát. Thế mà lời Đức Giêsu lại nói : “Thầy bảo cho anh em biết : đừng lo cho mạng sống : lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể : lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao ? Hãy xem chim trời : chúng không gieo, không gặt, không
thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao ? Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm dù chỉ một gang không ?… Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc cho đẹp như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin ? “ (Mt 6,25-33).

Lời Chúa còn đó, nhưng sự thúc bách của đời sống thực tiễn cũng vẫn còn đó. Những kẻ tin hôm nay vẫn phải chiến đấu với những dằn vặt trong đời sống hàng ngày, gay gắt đến độ mà Kinh Thánh gọi là sự quằn quại rên xiết nơi mình “muôn loài thọ tạo cùng rên xiết và
quằn quại như sắp sinh nở “(Rm, 8.22t). Nếu kẻ tin mà không mở toang đời mình cho Đức Giêsu Kitô thì sẽ thấy vấn đề cơm ăn áo mặc, nhà ở nó khẩn trương đến độ Lời Chúa có thể bị vấp phạm ngay nơi chính bản thân mình.

Không chịu làm, cứ ở đó mà kinh kệ thì gây cớ vấp phạm cho người khác, bởi vì Thiên Chúa của chúng ta có nói “Ta là Thiên Chúa của kẻ sống”. Những kẻ sống thì làm việc, còn những
kẻ chết thì không làm việc. Kẻ chết là kẻ không tin vào Thiên Chúa mà tin vào  tiền bạc. Việc làm của những kẻ tin vào tiền bạc chẳng đáng giá gì trước mặt Chúa.

Sau khi phục sinh, Đức Giêsu hiện ra với Nhóm Mười Hai và nói với Tôma “hãy ở
như người thành tín” (Ga 20, 27). Chúng ta là Kitô hữu, chúng ta là những kẻ thành tín nhờ lòng tin vào Đức Kitô. Về phần những người cuồng tín thì họ nói “Không làm lấy gì mà ăn ?” Họ tin vào sức lực, tin vào việc làm của mình, tin vào tiền bạc. Gọi là cuồng tín, bởi vì lòng tin của họ đến độ có những câu “với sức người sỏi đá cũng thành cơm”.

Hãy nhìn những biến cố ngay trước mặt chúng ta đang làm rung chuyển cả thế giới. Những dân tộc, những quốc gia trong bao nhiêu năm trời đã cuồng tín đến độ chỉ tin vào sức lao động vào sức mạnh của những bàn tay vàng, tay thép, ngày hôm nay những dân tộc ấy
đang rã rời, tơi tả vì có làm mà không có ăn, vì kinh tế sụp đổ, nói rõ ra rằng, vì đói ăn thiếu mặc. Cũng vậy khi một cộng đoàn không tin vào Thiên Chúa, mà chỉ tin vào tiền của, vào quyền lực trần gian thì hậu quả là phân hoá rã rời, rồi hết muốn nhìn nhau nữa.

Kitô hữu là những người có một đức tin lành mạnh, mỗi ngày được trưởng thành nhờ sự canh tân đổi mới của Thánh Thần. Vậy chúng ta không thể là những người cuồng tín được. Chúng ta thành tín, vì chúng ta một lòng một dạ tin vào Đức Giêsu. Như Đức Giêsu đã
một lòng một dạ tin vào Cha, tín thác vào Cha, nên Người đã phục sinh. Hôm nay
Đức Chúa Phục Sinh đang cầm vận mệnh các dân các nước và vận mệnh của từng người. Giêsu Kitô là Chúa, một Đức Chúa đã từng chịu dãi dầu như chúng ta, vì thế Ngài là Đức Chúa biết xót thương. Trước Philatô, đại diện quyền lực thế gian, Ngài nói : “Ta là vua!” Nhưng trước nỗi thống khổ của đoàn dân chúng bơ phờ đông đảo, Ngài nói : “Ta là đấng chăn chiên tốt lành”. Đức Chúa nhân hậu ấy không chỉ biết rõ những nỗi cơ hàn của chúng ta về cơm ăn áo mặc nhà ở bệnh tật, mà còn xót xa cả nỗi khốn cùng của chúng ta, vì thấy chúng ta thiếu vắng Thiên Chúa trong cuộc đời của mình, mà vì thiếu vinh quang Thiên Chúa nên các nỗi cơ hàn về thân xác kia lại càng làm cho chúng ta lo âu, sợ hãi xao xuyến
gấp bội.

Đức Chúa ấy nói : hãy xem chim trời, có con nào chết đói đâu. Hãy ngắm nhìn hoa huệ, có bông nào meo mốc đâu ! Chúng đáng là gì mà Cha anh em còn nuôi ăn mặc đẹp cho như thế ? Đừng có lo, đừng có hốt hoảng ! Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, ai trong anh em chỉ lo mà có thể làm cho đời mình dài thêm ra một gang nữa không ! Vậy thì anh em đừng có lo mà nói rằng ! Ta sẽ ăn gì ! Sẽ lấy gì mà mặc ! Cha biết anh em cần các điều ấy mà ! Có một điều anh em phải lo mà lo trước hết mà anh em lại không lo đó là “Hãy tìm nước Thiên Chúa và sự công chính của ngài (cứ tìm Thiên Chúa đi) các điều lo kia Cha sẽ ban cho anh em”.

Lời Chúa không thể tranh cãi, không thể lý luận, chỉ có tin hay là không tin.
Nếu tôi tin và đặt đời tôi vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa, tôi mới thấy
quyền năng của Ngài và mới biết được Ngài yêu thương và chăm sóc tôi biết bao
nhiêu. Nếu không tin thì tôi sẽ chẳng thấy xảy ra sự gì của Ngài trong đời tôi,
mà những lo âu, xao xuyến, bất an, của tôi vẫn còn đó. Vì với khả năng hạn hẹp
của tôi, làm sao mà làm nó tan biến, làm sao mà cất nó ra khỏi đời tôi và ra
khỏi gia đình tôi được.

Để có thể Sống Đức Tin trong niềm Tín Thác vào Chúa quan phòng, chúng ta đặt hết lòng tin vào Cha trên trời và nghe lại lời tha thiết này : Giavê đã bỏ tôi ! Đức Chúa đã quên tôi. Mẹ nào lại quên con đẻ của mình, cạn lòng thương đối với đứa con dạ đã mang? Cho
dù chúng quên được nữa thì phần Ta, Ta sẽ không hề quên con đâu ?

Chúng con đặt hết lòng tin tưởng vào Cha trong Đức Kitô Chúa chúng con.

Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa. Amen.

Lm. Giuse Trần Đình Long

Dòng Thánh Thể

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Mệt mỏi giữa đời thường

Mệt mỏi giữa đời thường

Tâm Thương

WGPSG Câu chuyện của một người bạn

Bạn tôi làm kế toán cho một công ty đã hơn bốn năm qua. Vừa rồi, bạn ấy than thở rằng: “Em thấy chán và mệt mỏi quá anh ơi! Chuyện gì giám đốc và mọi người cũng đổ lỗi cho em. Em bị rầy la. Em bị nghi kỵ. Nếu không có người yêu của em trên này thì em đã về quê lâu rồi. Làm lương chẳng bao nhiêu mà áp lực thì nhiều quá!”

Bạn thân mến, con người ai mà chẳng trải qua những giây phút mệt mỏi trong cuộc đời. Mệt mỏi vì áp lực công việc. Mệt mỏi vì đời sống hôn nhân không hạnh phúc. Mệt mỏi vì cha mẹ suốt ngày cãi cọ v.v… Tựu trung lại, đó là những mệt mỏi giữa đời thường. Mệt mỏi thể xác. Mệt mỏi tinh thần. Ai cũng thế và ở đâu cũng vậy thôi. Vậy, làm thế nào để vượt qua những giờ phút mệt mỏi trong đời?

Mệt mỏi thể lý

Trước tiên, con người thường mệt mỏi thể lý. Nhiều công nhân mệt mỏi vì suốt tuần tăng ca ở công ty. Nhiều sinh viên và học sinh mệt mỏi vì thức khuya học bài thi cử. Nhiều bệnh nhân mệt mỏi bởi những chứng bệnh phải mang trong người. Nhiều bạn trẻ mệt mỏi vì thức khuya uống bia tới sáng v.v… Mệt mỏi thể xác làm ta chán ăn. Mệt mỏi thể xác làm ta mất ngủ. Mệt mỏi thể xác làm ta thấy nhức đầu v.v… Bởi vậy, một bạn gái đã thốt lên: “Em thật sự cảm thấy mệt mỏi, thấy bức bối, thấy uất ức một điều gì đó mà lúc này em chưa gọi nó ra
thành tên được.”  Những lúc mệt mỏi như thế khiến bạn và tôi chẳng muốn làm gì cả.

Thật vậy, nhịp sống và lối sống Sài Gòn đô thị hiện đại dễ làm con người ta mệt mỏi thể lý. Họ nhức đầu bởi tiếng ồn của xe cộ. Họ khó thở bởi khí độc ở nhiều khu công nghiệp thải ra. Họ bất ngờ mang những chứng bệnh bởi nhiều thức ăn nước uống có nhiều hóa chất v.v… Quả thế, môi trường sống làm cho con người trở nên mệt mỏi thể lý. Những mệt mỏi thể xác kéo theo những mỏi mệt  của tinh thần. Vậy, những mệt mỏi tinh thần của phần đông con người thời đại hôm nay là gì?

Mệt mỏi tinh thần

Tiếp đến, con người thường mệt mỏi tinh thần. Ngạn ngữ Latinh có câu: “Một tinh thần minh mẫn trong một thể xác tráng kiện” (Mens sana in corpore sano). Vì thế, nếu mệt mỏi thể xác thì tinh thần không thể sáng suốt được. Những lúc nằm trên giường bệnh người ta thường suy nghĩ tiêu cực bi quan. Nhịp sống hối hả và bận rộn của Sài Gòn dễ làm con người ta căng thẳng, lo lắng và trầm cảm. Họ thấy chán nản. Họ thấy bất an. Họ muốn tự tử v.v… Dù vậy, người ta vẫn phải chấp nhận thích nghi với cuộc sống với bộn bê lo toan ấy thôi. Ví dụ một bạn trẻ chân thành thổ lộ rằng: “Công việc cơ quan thì bề bộn, cộng với
bao nhiêu sự thay đổi trong nhân sự, đổi mới trong công nghệ tại công ty. Mà phòng em thì anh quá biết rồi, vì đặc thù công việc nên phòng chỉ toàn nữ thành ra sự rắc rối càng nhân lên gấp bội. Em thấy mệt mỏi vì sự đố kỵ, kèn cựa lẫn nhau… và bao nhiêu điều khác nữa mà em không thể gọi nó ra thành tên.”

Chị tôi đã trải nghiệm quá nhiều về sự mệt mỏi tinh thần. Thất bại trong chuyện mở quán ăn làm chị chán nản. Mệt mỏi vì phải lo lắng chuyện trả lại mặt bằng. Mệt mỏi vì phải tìm người mua lại chén tô, bàn ghế. Mệt mỏi đi thuê một căn nhà cho con chị đi học ở Sài Gòn. Chị quá mệt mỏi tinh thần vì phải bon chen với cuộc sống thị thành. Ngoài ra, chị ta còn mệt mỏi vì tánh chồng chị hay ghen bóng ghen gió. Điều này cho thấy sự mệt mỏi thường xảy ra do ngoại cảnh tác động. Hơn nữa, sự mệt mỏi tinh thần thường xảy ra trong đời sống
gia đình. Người vợ mệt mỏi vì ông chồng suốt ngày cờ bạc, say xỉn. Người chồng mệt mỏi hoang mang vì vợ chỉ lo chuyện công ty đi sớm về khuya. Sự mệt mỏi thường dẫn đến những đổ vỡ trong đời sống hôn nhân. Bởi lẽ, sức chịu đựng của con người luôn có giới hạn. Vì thế, biết chấp nhận và vượt qua những lúc mệt mỏi tinh thần là một kỹ năng sống quan trọng cho con người hôm nay. Vậy, chúng ta phải làm gì?

Làm thế nào để vượt qua mệt mỏi?

Người bạn của tôi tâm sự như thế này: “Mình thích cảm giác của ngày thứ Bảy cuối tuần. Được nghỉ ngơi vì sáng mai Chúa nhật không phải đi làm. Nhưng tới sáng thứ Hai thì thấy mệt mỏi vì lại phải đi làm tiếp.” Điều này cho chúng ta thấy nghỉ ngơi và thư giãn là nhu cầu cần thiết cho con người. Và đó cũng là cách giúp ta vượt qua những lúc mệt mỏi. Nghỉ ngơi để giảm bớt mệt mỏi thể lý. Thư giãn để đầu óc thoải mái bớt căng thẳng. Vì thế, người Sài Gòn thường đi mua sắm, ăn uống và du lịch Suối Tiên, Đầm Sen… trong những ngày cuối
tuần. Đối với các linh mục Sài Gòn thì được nghỉ ngơi vào ngày thứ Hai v.v… Sự
mệt mỏi bởi cuộc sống bộn bề lo toan ảnh hưởng đến đời sống đạo của chúng ta.
Vậy, phải làm sao?

Cuối cùng, Chúa Giêsu đã khuyến khích các môn đệ: “Chính anh em hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6,31). Thật vậy, mỗi Kitô hữu cần nghỉ ngơi lắng đọng tâm hồn. Chúng ta cần tĩnh tâm. Chúng ta cần cầu nguyện. Điều này sẽ ích lợi nội tâm và đời sống đạo của chúng ta. Bởi thế, một người Công giáo đã tâm sự chân thành: “Mới đây tôi nói với một người bạn rằng tôi có thể đi đâu đó vài ngày để tĩnh tâm. Bạn tôi là người đã có gia đình với ba đứa con, nói rằng: ‘Tôi có thể đánh đổi tất cả
mọi sự chỉ để được vài ngày trong thanh vắng!’ Điều đó cũng còn cho thấy đối với hầu hết mọi người cuộc sống hiện đại tất bật làm sao!”

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Hàng triệu người đói trong lúc 40% thực phẩm ở Mỹ bị phí phạm

Hàng triệu người đói trong lúc 40% thực phẩm ở Mỹ bị phí phạm

image

WASHINGTON — Lễ Tạ Ơn là một lễ hội truyền thống mùa thu hoạch bắt nguồn từ quá khứ nông nghiệp của nước Mỹ. Nhiều người Mỹ mừng ngày này cùng gia đình và bạn bè quanh một bàn tiệc đầy các món như gà tây quay, khoai lang, rau xanh, sốt cranberry, bánh ngọt, bánh nhân và nhiều món khác.

Giữa sự thừa mứa này, phần lớn người Mỹ sẽ kinh động khi biết rằng trên thực
tế, số thực phẩm bị phí phạm ở Hoa Kỳ nhiều đến mức nào. Theo một bản phúc
trình mới, khoảng 40% thực phẩm sản xuất ở nước này mỗi năm cuối cùng bị vứt
vào thùng rác.

image

Thông tín viên VOA Rosanne Skirble tìm hiểu về thực phẩm bị vứt đi ở nước Mỹ và về một tổ chức đang tìm cách thu hồi số thực phẩm bị bỏ đi để giúp những người không có đủ mà
ăn.

Ông Gregory Jones mỗi ngày nấu 5.000 bữa ăn cho D.C. Central Kitchen, một tổ chức bất vụ lợi ở thủ đô giúp nuôi ăn những người thiếu thốn. Vào ngày hôm nay, ông điều khiển những người tình nguyện lóc xương một loạt các con gà tây vừa nấu chín.

image

Ông Jones lấy những miếng gà rồi bỏ thêm đậu hạt và mì vào một cái nồi to đến độ ông phải dùng một cái thìa to như cái mái chèo để quậy đều.

Vừa dốc muối vào nồi, ông vừa ra lệnh cho dây chuyền sản xuất: “Các bạn ơi, bỏ phần da đi, chỉ lấy thịt thôi.”

image

Ông Gregory Jones mỗi ngày nấu 5.000 bữa ăn cho D.C. Central Kitchen, một tổ chức bất vụ lợi giúp nuôi ăn những người thiếu thốn.

​​Ông Jones yêu thích công việc này, và nói nó đã cứu vớt đời ông. Từng là một người nghiện ma túy, ông đã được đào tạo trong chương trình Nghệ thuật Nấu ăn của tổ chức Kitchen và
đã cai được ma túy từ đó.

Ông Jones cho biết: “Ðiều kỳ diệu của công việc này, và điều khiến tôi yêu thích công việc này là bạn có thể đền đáp lại những gì mà Thượng Ðế cao cả đã giúp tôi có được.”

Trưởng ban quản trị Mike Curtin cho biết câu chuyện của Jones là trọng điểm
trong nền tảng hoạt động của tổ chức – phí phạm là sai lầm.

Ông Curtin nói: “Sự phí phạm có thể là thực phẩm. Nó có thể là những đầu óc xây dựng. Nó có thể là những cái bếp không được sử dụng một cách hữu hiệu.”

image

Số lượng phí phạm không thể tưởng tượng được. Một báo cáo mới của Hội đồng Bảo vệ Tài nguyên Thiên nhiên uớc lượng hàng năm số thực phẩm còn tốt nguyên có thể ăn được trị giá tới 165 tỷ đôla thường bị người tiêu thụ ở nhà bỏ đi, hay không được dùng tới tại
các nhà hàng hoặc bị bỏ phí không thu hoạch tại các nông trại. Và báo cáo nêu ra rằng trong khi số thực phẩm này bị phí phạm, thì cứ 1 trong 6 người Mỹ bị thiếu ăn kinh niên hoặc không có tiền để mua thức ăn. Nhà khoa học phụ trách dự án của Hội đồng vừa kể, đồng thời là tác giả cuộc khảo cứu Dana Gunders nói đa số người Mỹ không nhận thức được vấn đề này.

Bà Gunders nói: “Thực là điều đáng kinh động khi nghĩ rằng chúng ta phí phạm nhiều thực phẩm như thế trong khi có thể nuôi ăn chính dân chúng của mình. Chúng tôi ước tính là nếu chỉ giảm thiểu mức phí phạm thực phẩm khoảng 15% thì cũng ngang với số lượng thực phẩm cần để nuôi sống 25  triệu người Mỹ. Những người bị thiếu ăn.”

image

Từ hơn 20 năm, tổ chức D.C. Central Kitchen đã hoạt động để thay đổi tình trạng đó. Những người lái xe hàng ngày đi thu nhận số thực phẩm thặng dư được hiến tặng từ các cửa hàng bách  hóa, các hãng buôn thực phẩm, nhà hàng và nông trại. Vào ngày hôm nay, một
chiếc xe tải tiến vào nông trại của ông bà Carl và Carol Brady ởMitchellville, Maryland để
nhận 2 tấn dưa chưa được thu hoạch.

image

Nông trại của ông bà  Carl và Carol Brady ở Mitchellville, Maryland tặng 2 tấn dưa cho
tổ chức D.C. Central Kitchen.

Bà Brady cho biết: “Tôi ghét phí phạm và chịu khó thêm một chút là tôi có thể làm một việc tốt bằng cách gom góp số dưa đó lại. Ðem cho thì mất công hơn, nhưng việc đó nằm trong
tiến trình. Tôi cần phải đưa số dưa ấy ra khỏi đồng. Nó cần phải đưa đi và sử
dụng cho bớt phí phạm.”

Lượng thực phẩm dư thừa của nhà nông đó trở thành bữa ăn ngày hôm sau khi nó
được đưa miễn phí đến các nhà tạm trú của những người vô gia cư, những trung
tâm từ thiện nuôi ăn được gọi là nhà bếp súp, và các chương trình ở trường học
như trung tâm huấn luyện sau giờ học mà bà Denise Lacey điều hành tại một khu
của những người có lợi tức thấp tại thủ đô Washington. Hôm nay, bà Lacey bỏ vào
đĩa các phần ăn to gồm thịt gà tây nóng, mì và sốt cà chua cho các em nhỏ đang
chờ được ăn và thường là không biết bữa ăn tiếp theo sẽ ở đâu ra.

image

Trẻ em được cung cấp một bữa ăn tại nhà bếp của tổ chức D.C. Central Kitchen

Bà Lacey nói: “Tôi chọn phục vụ bữa tối bởi vì nhiều em nhỏ trong khu này có thể không được ăn tối khi về nhà.”

Trở lại trụ sở D.C. Central Kitchen, giám đốc Mike Curtin tóm lược ngày làm
việc. Ông nói bằng cách thu góp thực phẩm, tổ chức này cũng thu góp lại những
cuộc đời, không tiêng cho những người mà họ phục vụ, mà cả cho nhân viên của
ông, một số bản thân đã trải qua những lúc sa cơ lỡ vận.

image

Ông Curtin nói tiếp: “Chúng tôi muốn mọi người hiểu để cho người khác đói là điều sai trái đến mức nào, thật là sai trái. Nhưng bằng cách dùng số thực phẩm, chúng ta có thể giải
quyết vấn đề đã gây ra tình trạng thiếu ăn và giảm bớt số người đói, chúng ta có thể đạt được sự thành công với tư cách một cộng đồng và trở thành một nơi tốt đẹp hơn.”

Ðầu bếp Gregory Jones cũng đồng lòng với các tư tưởng đó. Ông tươi cười nói: “Tôi đang làm một việc mà tôi vẫn hằng mong muốn. Nó đem lại một nụ cười trên gương mặt tôi.”

image

nguồn: Anh Lê Khôi gởi

Baomai.blogspot

 

 

ĐỨC TIN CÔNG GIÁO MANG LẠI TÌNH YÊU, HÒA BÌNH VÀ VĂN MINH!

ĐỨC TIN CÔNG GIÁO MANG LẠI TÌNH YÊU, HÒA BÌNH VÀ VĂN MINH!


Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

nguồn: Đài Vatican

Vào hậu bán thế kỷ XIX nơi đảo Sicilia ở miền Nam nước Ý có một người gây rất nhiều tiếng vang ồn ào và lôi kéo sự chú ý của mọi người. Ông tên Ercole Antonio Calascibetta và là thành viên cuồng tín của bè tam điểm. Ông còn là đảng viên nhóm ái quốc cực đoan. Nói
tắt một lời, ông trổi vượt mọi người về lòng oán thù. Một thứ oán thù đến từ âm phủ do quỷ dữ xúi giục chống lại tôn giáo, đặc biệt là đạo thánh Công Giáo.

Ông Calascibetta không bao giờ vắng mặt trong các buổi họp chính trị của đảng phái. Và cứ mỗi lần như thế ông đều lợi dụng lớn tiếng chửi rủa công kích các Linh Mục, các tu sĩ nam nữ và tất cả những ai dám công khai bày tỏ tâm tình của một tín hữu Công Giáo chân chính. Ông như bán trọn linh hồn và xác cho ma quỷ và ông làm chuyện này cách công khai chứ không e dè dấu diếm!

Nơi tấm thiệp thăm viếng, tên của ông Ercole Antonio Calascibetta được viết trên đôi cánh mở rộng của một tên quỷ với màu máu đỏ chói. Ông như muốn mọi người thấy và hiểu ông bay lượn trên lông cánh của Satan. Dĩ nhiên điều đáng lo sợ nhất là ông không có niềm tin gì ráo trọi.

Nhưng vượt ngoài các khốn khổ trên đây, ông Ercole Antonio Calascibetta lại được hồng phúc có một người vợ hiền đức. Tạm gọi tên bà là Maria Rita. Bà Maria Rita giống như một thiên thần của lòng nhân hậu mà THIÊN CHÚA Từ Bi đặt bên cạnh các tội nhân để đưa các tội nhân trở về cùng THIÊN CHÚA.

Bà Maria Rita vô cùng đau đớn, vừa khóc vừa nói với chồng:

– Anh viết tên anh trên đôi cánh của một thằng quỷ sứ. Phần em trái lại,
em ghi tên anh trên Trái Tim Vô Nhiễm của Hiền Mẫu MARIA Thiên Quốc. Chúng ta cùng chờ đợi xem ai sẽ là người chiến thắng!

Cứ mỗi lần có chút giờ rảnh rỗi bà Maria Rita chạy nhanh đến quỳ dưới chân bức
tượng Đức Mẹ MARIA, Nữ Trạng Sư bênh vực cho các kẻ có tội. Bà khóc lóc van xin
Đức Mẹ biến đổi tâm lòng chai cứng, đầu óc luôn chống đối tôn giáo của chồng.

Thế rồi một ngày ông Ercole Antonio Calascibetta lâm trọng bệnh. Bà Maria Rita túc trực ngày đêm và âu yếm chăm sóc chồng từng ly từng tý. Ông Calascibetta ngỡ ngàng xúc động trước tấm lòng bao la khoan hậu của hiền thê. Ông suy đi nghĩ lại. Ông âm thầm lý luận rằng lòng tận tụy với tình yêu dạt dào chỉ có thể nẩy sinh từ Kitô Giáo, một tôn giáo ông từng quyết liệt chống phá, nhưng lại mù tịt về giáo lý của đạo thánh! Ông nhất định dành thời giờ để nghiên cứu để học hỏi. Càng học hỏi ông càng khám phá ra nét cao cả, sự thánh thiện của một tôn giáo đến từ trời cao, từ THIÊN CHÚA chí tôn chí thánh! Kitô Giáo chiếm trọn tâm trí và con tim của ông. Ông thay đổi tận gốc rễ. Ông không còn như trước nữa.

Ông Ercole Antonio Calascibetta khiêm tốn trở về với Giáo Hội Công Giáo thánh
thiện duy nhất và tông truyền. Từ đó cho đến khi trút hơi thở cuối cùng, ông sống
đúng nghĩa một tín hữu Công Giáo chân chính. Ông cũng không quên đền bù tội lỗi
quá khứ bằng cách lớn tiếng ca tụng vẻ đẹp và nét cao cả của Đức Tin Công Giáo.
Chỉ duy nhất Đức Tin Công Giáo là suối nguồn mang lại tình yêu, hòa bình và văn
minh!

… Kinh Cầu Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.

Lạy Rất Thánh Đồng Trinh MARIA, Mẹ đã vui lòng nhận lấy tước hiệu là Mẹ Hằng Cứu Giúp, cho được giục lòng chúng con trông cậy vững vàng, thì con nài xin Mẹ dủ lòng thương, cứu giúp con trong mọi nơi mọi lúc, khi phải các cơn cám dỗ, khi sa phạm tội, và khi gặp các sự khốn khó trong đời con, và nhất là trong giờ chết. Lạy Mẹ hay thương, xin cho con siêng năng chạy đến cùng Mẹ luôn luôn. Con tin rằng, con siêng năng chạy đến cùng Mẹ, thì làm cho Mẹ càng sẵn lòng nghe lời con. Xin Mẹ ban cho con ơn trọng này, là siêng năng cầu xin Mẹ, và được lòng trông cậy Mẹ như con thảo, ngỏ cho Mẹ nghe lời con hằng cầu xin, mà hằng cứu giúp con, và ban cho con được ơn bền đỗ đến cùng. Lạy Mẹ yêu dấu hay thương giúp, xin Mẹ ban phúc lành cho con, và cầu bàu cho con khi này và trong giờ lâm tử. AMEN.

Lạy Mẹ Hằng Cứu Giúp, xin che chở mọi kẻ thuộc về con, ban ơn phù hộ cho Đức
Thánh Cha, cho Hội Thánh, cho nước Việt Nam con, cho gia đình con, cho kẻ thânnnghĩa, kẻ thù nghịch và hết mọi kẻ khốn khó. Sau hết cho các Linh Hồn đángnthương trong Lửa Luyện Ngục.

Thánh MARIA, lạy Mẹ Hằng Cứu Giúp, xin cầu bàu cho con.

Lạy Thánh Anphongxô là quan thầy bào chữa con, xin giúp đỡ con trong những khi khó ngặt thiếu thốn biết chạy đến cùng Đức Bà MARIA.

Lạy Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, cầu cho chúng con.

Lạy Thánh Anphongxô, cầu cho chúng con.

(”La Mia Messa”, 1 Ottobre 2012 – 31 Dicembre 2012, Anno VI, vol.IV, Casa
Mariana Editrice, trang 304-305)

Sr.Jean Berchmans Minh Nguyệt