Hậu quả của một nền giáo dục duy ý thức hệ

Hậu quả của một nền giáo dục duy ý thức hệ

Kính Hòa, phóng viên RFA
2014-06-17

06172014-sgk-kinhhoa.mp3

000_Hkg8782036-600.jpg

Các bản đồ cổ được trưng bày tại một cuộc triển lãm về Trường Sa và Hoàng Sa tại Bảo tàng Quân đội Hà Nội vào ngày 10 tháng 7 năm 2013.

AFP photo

Ngày 9/6/2014 Trung Quốc tung một đòn mới trên phương diện pháp lý và ngoại giao nhằm củng cố vị thế của họ trong các tranh chấp chủ quyền ở biển Đông. Đó là việc họ đề nghị lưu hành tại Liên hiệp Quốc các tài liệu bản đồ và sách giáo khoa được nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa phát hành, tức là miền Bắc Việt Nam lúc đất nước chưa thống nhất. Nội dung các tài liệu này được Trung Quốc diễn dịch rằng Việt Nam công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên các quần đảo Hoàng sa và Trường sa, mà tên theo Trung Quốc gọi là Tây sa và Nam sa.

Nguyên văn đoạn văn trong cuốn sách giáo khoa địa lý lớp chín mà TQ đưa ra như sau:

“Vòng cung đảo từ các đảo Nam Sa, Tây sa đến các đảo Đài Loan, Hải Nam, quần đảo Hoàng bồ Châu sơn,… làm thành một bức Trường thành bảo vệ lục địa Trung Quốc.”

Trong cuộc họp báo chiều ngày 16/6/2014, các viên chức ngoại giao Việt Nam tiếp tục đưa các tài liệu khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo tranh chấp, tuy nhiên vẫn chưa có lời giải thích chính thức nào được đưa ra để giải thích nội dung cuốn sách giáo khoa địa lý lớp chín mà TQ đang viện dẫn.

Một cựu quan chức bộ ngoại giao Việt Nam là Trần Công Trục trong một bài trả lời báo Giáo dục nói rằng đó chỉ là những tài liệu dùng để dạy học. Giáo sư Trần Hữu Dũng từ Hoa Kỳ có nhận định về lý lẽ của ông Trục rằng:

Trong một Quốc gia mà chính nhà nước sọan, in và phân phát những tài liệu này thì khó lòng mà nói rằng đó không phải là chủ trương của nhà nước.
– Giáo sư Trần Hữu Dũng

“Trong một Quốc gia mà chính nhà nước sọan, in và phân phát những tài liệu này thì khó lòng mà nói rằng đó không phải là chủ trương của nhà nước.”

Trong phần cuối của bài đăng trên báo Giáo dục, Tiến sĩ Trần Công Trục còn nói:

“Trong đó không thể không nói đến tư duy ý thức hệ được hình thành và liên kết trong thời kỳ chiến tranh lạnh…”

Câu phát biểu này của ông Trục được minh họa bằng đoạn sau đây trong cuốn sách giáo khoa mà Trung Quốc dùng làm chứng cớ chuyện Việt Nam công nhận chủ quyền của họ:

“Hiện nay Đài Loan và các đảo xung quanh còn bị đế Quốc Hoa kỳ và bọn tay sai Tưởng Giới Thạch chiếm giữ, đấy là một mối đe dọa đối với nền an ninh của Trung Quốc, của Viễn Đông và miền Tây Thái Bình Dương.”

image-250.jpg

Bản đồ hiển thị vị trí giàn khoan HD 981 của Trung Quốc trong vùng biển tranh chấp ở Biển Đông được trưng bày tại Bộ Ngoại Giao Việt Nam hôm 05/6/2014. AFP photo

Tuy nhiên khó có thể lấy lý do cho việc tranh chấp chủ quyền bằng …Ý thức hệ.

Ông Phùng Hoài Ngọc, một người học tập và lớn lên ở miền Bắc trước năm 1975, nguyên trưởng khoa ngữ văn đại học An giang nói với chúng tôi về việc chi phối của ý thức hệ trong nền giáo dục Việt Nam, nhất là ở miền Bắc trước kia:

Các môn khoa học xã hội nhân văn ở miền Bắc rõ ràng mang tính chính trị quá nặng, rõ ràng là nó bị chính trị áp đặt quá nặng rồi. Cái điều này là quá rõ.”

Và theo ông Ngọc thì môn Địa lý vẫn thường được xem là một môn nằm trong khối khoa học xã hội nhân văn.

Trong một lần trả lời phỏng vấn đài RFA, kỹ sư Nguyễn Khắc Nhẫn, một người rất quan tâm đến ngành giáo dục Việt Nam cho rằng tính chính trị hóa là một trong nững điểm yếu kém của giáo dục Việt Nam hiện tại. Một nhà giáo khác là Tiến sĩ Hà Sĩ Phu nói về mục tiêu giáo dục của ngành giáo dục Việt Nam dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam như sau:

Đảng mở ra cái giáo dục chẳng qua là để đào tạo những công cụ, những người phục vụ cho cái công cuộc mà Đảng chủ trương.”

Các môn khoa học xã hội nhân văn ở miền Bắc rõ ràng mang tính chính trị quá nặng, rõ ràng là nó bị chính trị áp đặt quá nặng rồi. Cái điều này là quá rõ.
– Ông Phùng Hoài Ngọc

Dĩ nhiên sách giáo khoa làm ra là để phục vụ cho mục tiêu giáo dục. Trong trường hợp của nước Việt Nam cộng sản là phục vụ cho các chủ trương của đảng. Điều này đảng cộng sản Việt Nam cũng không hề giấu giếm trong các tuyên bố của các quan chức của họ. Một trong những mục tiêu của đảng trong những năm chiến tranh lạnh chính là quan hệ đồng minh ý thức hệ với Trung Quốc.

Trớ trêu thay người đồng minh ý thức hệ đó vào năm 1979 đã phát động một cuộc chiến tranh biên giới ngắn nhưng đẫm máu với người anh em cùng lý tưởng của mình. Năm 2014 về nguyên tắc cả hai Quốc gia vẫn là đồng minh ý thức hệ của nhau, và đối lập với họ, vẫn là đế Quốc Hoa kỳ và tay sai như trong sách giáo khoa địa lý của năm 1974. Nhưng cũng chính người đồng minh ý thức hệ từ Bắc Kinh nay lại giương cao trang sách địa lý thấm đẫm nghĩa tình ý thức hệ mà đòi biển đảo.

Thực tế đã diễn ra không như ý thức hệ, nước Việt Nam 40 năm sau ngày in cuốn sách giáo khoa ấy đã khác, sách giáo khoa địa lý lớp chín hiện nay cũng không còn những dòng chữ đó. Nhưng sự bao trùm của ý thức hệ trong giáo dục Việt Nam đã để lại hệ lụy khó lường cho Việt Nam hiện nay, vì theo như lời Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn từ Úc nói rằng cái cách biện giải giấy tờ, tài liệu có liên quan đến chủ quyền theo kiểu ý thức hệ là không thuyết phục.

 

TỬ BIỆT

TỬ BIỆT

Câu Chuyện Thầy Lang

Bác sĩ Nguyễn Ý-ÐỨC

Cổ nhân ta vẫn thường nói tới chu kỳ kín của đời người “Sinh, Lão, Bệnh, Tử”.

Vâng: có sinh thì có tử, nhưng “sinh thì hữu kỳ, tử thì vô hạn”. Nặng bụng cưu mang chín tháng mười ngày là biết rằng con sẽ “nhập thế cuộc”, chào đời. Còn mặc áo mới vĩnh viễn ra đi thì chẳng biết khi nào, ra sao.

Sinh ly, tử biệt. Vào đời là tạm thời chia ly với cơ thể người mẹ. Rời khỏi cuộc đời là tạm biệt với nhân gian. Hẹn lại cùng nhau gặp ở “cõi thật xa”: Niết Bàn, Thiên Ðàng, Aara, Elysium, Soma, Jahannan…Hoặc Ðịa Ngục để mặt đối mặt với Diêm Vương, luận tội kể công.

Với thân xác, bệnh tật thì học giả Ngô Tất Tố đã thoát dịch bốn câu thơ của vua Trần-Thái-Tôn như sau:

“Cũng bởi có thân mà có bệnh

Ví bằng không xác quyết không đau.

Phép tiên chớ vội khoe không chết,

Thuốc thánh còn chưa chắc sống lâu”.

Chưa chắc sống lâu thì có ngày phải biệt tử.

Mà Voltaire đã nói “Lúc ta chào đời là đã một bước đi về cõi chết”. Ðúng chăng là con người bắt đầu chết ngay từ lúc sinh ra và trong chu kỳ kín, cái kết cuộc nối liền với khởi điểm.

Guillaume Amerye (Abbé de Chaulieu) thì rõ ràng hơn “Cái chết chỉ là sự kết thúc cuộc đời; Nỗi thống khổ, niềm sung sướng không cùng mang theo”-.La mort est seulement le terme de la vie; De peine ni de biens elle n’est point suivie”.

Với Napoleon Ðại Ðế “Chết là giấc ngủ không mơ” và Shakespeare:“ Kẻ nào chết rồi là sạch nợ”.

Nói vậy thì chết cũng đơn giản như sanh, đôi khi ồn ào, lộn xộn hơn.

Có người đã ví sự chết của cơ thể như sự tắt của một nhà máy với những động cơ, giây điện. Nhà máy không im lặng ngưng hoạt động khi ta ngắt nút kiểm soát tắt mở mà mọi bộ phận còn cót két rên rỉ kêu trong khi chậm lại rồi ngưng.

Ngoại trừ bất thần chết vì tai nạn, thương tích hoặc cơn dột quỵ suy tim, cơ thể cũng cót két, rên xiết trước khi sự sống hoàn toàn ngưng.Vì thế Dylan Thomas có nhận xét rằng “Chúng ta không nhẹ nhàng đi vào tử biệt mà thịnh nộ, nổi khùng trước sự tắt lịm của ánh sáng”.

Nhưng có người tin rằng ở nội tâm thì lại bình an.Tuy ồn ào nhưng sự chết luôn luôn xác thực. Nhiều người đã tìm được bình an và chân giá trị trong sự xác thực này.

Tư Mã Thiên có ghi: “Nhân cố hữu nhất tử: Tử hoặc trọng ư Thái Sơn, hoặc khinh ư hồng mao”. Do đó mới có nguời khi đối diện với tử thần thì sợ hãi, phủ nhận, cô lập, giận dữ rồi năn nỷ điều đình để rồi cuối cùng cũng phải chấp nhận. Vì số trời đã định.

Y giới thường được huấn luyện để cứu chữa bệnh nhân và kéo dài sự sống trong đó họ đạt được phần thưởng về tinh thần cũng như tài chánh.Nhưng khi không ngăn chặn được sự chết thì họ hết hứng thú và thường chuyển sang đối tượng khác. Và nguời bệnh đôi khi bị quên lãng, đơn độc ra đi trong tình cảm gia đình, tôn giáo.

Mà ra đi thì xác còn đó, hồn đi đâu, chẳng ai hay. Cho nên Shakespeare đã ví “ Chết chỉ là một cuộc du lịch nhưng chẳng ai quay trở lại”. Ðể nói cho nhau biết chết ra sao, như thế nào, và bên kia vui hay buồn, thái bình hay binh đao, độc tài hoặc dân chủ…Chẳng ai “báo cáo” nên người tiễn đưa phải suy luận, tìm hiểu về người ra đi. Ði như thế nào, lúc nào, ra sao.

Từ nhiều thế kỷ, chết được hiểu như là khi con người mất hết các chức năng sống: tim ngừng đập vĩnh viễn, hơi thở không còn. Nhưng khi nào thì mạng sống đó được coi như là không còn sống. Ðó là điều mà giới y, luật gia, triết nhân, các vị học giả, thường dân, người làm chính trị đã và đang ồn ào, hăng say thảo luận, góp ý.

Vì tạm thời tim ngưng đập, hơi thở gián đoạn khoảng 6 phút mà các bộ phận sinh tử chưa bị tổn thương, con người tưởng như đã mãn phần thì y học hiện đại đã phục hồi được các chức năng và cứu sống nhiều người.

Vì vậy tiêu chuẩn não-tử brain death được thêm vào.

Não là trung tâm của hệ thần kinh.

Cuống não kiểm soát các chức năng duy trì sinh lực của các cơ quan, bộ phận.

Não trên điều hòa ý nghĩ, trí nhớ, tình cảm con người.

Năm 1968, Ðại Học Y Khoa Harvard đề nghị bốn tiêu chuẩn cho não tử:

a- Không đáp ứng với cảm giác sờ mó, âm thanh và các kích thích ngoại vi;

b- Không còn cử động và không còn hơi thở tự phát (spontaneous breathing);

c- Không cón tác động phản xạ.

Phản xạ (reflex) là một sinh hoạt tự động hay không chủ ý do một vòng thần kinh tương đối đơn giản gây ra mà không nhất thiết liên quan tới ý thức. Chẳng hạn khi dùng kim chích nhẹ vào tay một người, thì kim đau sẽ gây ra cử động phản xạ tự vệ tức thì để rút ngón tay lại trước khi não có thời gian gửi cảm giác đau tới các cơ quan liên hệ

d- Không còn ký hiệu não điện đồ hoặc bất cứ hoạt động điện năng nào từ tế bào não.

Từ năm 1929, bác sĩ thần kinh tâm trí người Ðức Hans Berger đã khám phá ra là não bộ có những luồng điện phát ra trong khi não hoạt động. Nhưng khi đó không ai tin. Phải đợi tới khi nhà bác học người Anh Edgar Adrian cụ thể chứng minh được sinh hoạt điện năng này của não thì mọi người mới chấp nhận và Edgar được Nobel Prize vào năm 1932 cùng với Sir Charles Sherrington nhờ kết quả việc nghiên cứu này.

Ngày nay nhiều máy móc tối tân đã ghi nhận được các sinh hoạt điện năng của não bộ với các sóng alpha, beta, delta, theta. Rồi lại còn MRI, PET scan ghi lại các tín hiệu cũng như thay đổi hóa chất của não khi nghỉ cũng như khi làm việc.

Trong tương lai gần đây, chắc là các ý nghĩ thầm kín của ta cũng sẽ được máy móc tìm ra, đọc được.

Tiêu chuẩn não-tử của đại Học Harvard cũng không được mọi giới công nhận là một thử nghiệm để kết luận sự chết. Mỗi quốc gia có những tiêu chuẩn khác nhau.

Từ năm 1981, Hoa Kỳ định nghĩa chết như sự ngưng không đổi ngược của toàn bộ não kể cả phần cuống là nơi điều hòa hô hấp, tuần hoàn và các chức năng khác.Và về pháp lý, các điều kiện trên phải kéo dài sau 12 giờ.

Khi còn ở trong tình trạng thực vật (vegetative state) thì cuống não còn hoạt động và tiếp tục giúp hoàn thành sự hô hấp, tuần hoàn và vài nhiệm vụ khác; nhưng phần não trên điều hòa sự suy tư, thu nhận cảm xúc không còn nữa.

Khi rơi vào tình trạng Permanent vegetative state là tình trạng không có ý thức vĩnh viễn, không đổi ngược trong đó không có cử động tự ý hoặc bất cứ khả năng nhận biết nào; không còn khả năng chủ ý truyền đạt hoặc tương tác với ngoại cảnh. Người bệnh đôi khi rơi vào tình trạng nhìn theo mà không còn biết gì (coma vision.)

Cho nên rơi vào Não Tử thì ít khi thoát lưỡi hái Tử Thần dù có cấp cứu tiến bộ tinh vi; tình trạng thực vật vegetative lại vẫn còn nhờ sự toàn vẹn của cuống não để điều khiển một số chức năng của cơ thể cho nên có thể kéo dài sự sống vật vờ cả nhiều năm…

Tử biệt

Maria được Chúa và Đức Mẹ ban cho tuổi thọ 94, kéo dài sự sống được 10 năm sau khi người chồng thân yêu của bà bình an vĩnh viễn ra đi trong một cơn stroke vào ban đêm. Từ đó bà ở với con này con kia mỗi nơi một vài tháng, nửa năm để bớt đơn côi.

Bà tương đối vẫn mạnh khỏe ngoài vài bệnh thông thường của tuổi già, rất siêng năng lần hạt mân côi và luôn luôn liên lạc, khích lệ con cháu trong sự nghiệp, bổn phận đối với gia đình và xã hội.

Mấy tháng gần đây, bà cảm thấy trong người như không được khỏe cho lắm và bà được đưa vào điều trị tại bệnh viện hơn một tuần rồi xuất viện, về nghỉ ngơi theo dõi bệnh tình ở  Skill Nursing Facility do các nữ tu dòng Franciscan tổ chức có nhân viên tận tình chăm sóc. Bà enjoy nếp sống ở đây, tham gia tất cả các sinh hoạt, vui vẻ với mọi người. Bà luôn luôn điện thoại cho con cháu xa gần, khoe là bà cảm thấy hạnh phúc sung sướng lắm…

Rồi một đêm, người nhà được thông báo là bà cảm thấy trong người mệt mỏi, ngực hơi đau, khó thở, đầu hơi choáng váng và được đưa vào phòng cấp cứu. Bà yếu dần, nằm mấy ngày, rồi nhẹ nhàng ra đi trước sự chứng kiến của các con. Bà đã được gọi về nước Chúa, sau khi đã được chịu các phép bí tích của giáo hội…

Trong khi đó, sự ra đi của Lão Tam, một người thân quen trong gia đình, lại có tính cách kinh điển hơn.

Lão được Trời ban cho tuổi thọ gần bát tuần. Ông tương đối vẫn mạnh khỏe, không bệnh kinh niên, không phải dùng thuốc gì, ngay cả Tam Tinh Hải Cẩu hoặc nhân sâm, cao hổ cốt..

Nhưng từ nửa năm nay, Lão thấy sức khỏe mỗi ngày mỗi giảm.Lão không còn sinh lực như mấy năm trước, ít quan tâm tới mọi sự chung quanh, đôi khi muốn xa lánh mọi người. Khẩu vị giảm, nhai nuốt khó khăn và ông thấy thực phẩm là không cần thiết. Ông rất sợ khi người thân ép uống súp, ăn thịt, chỉ sợ bị nghẹn, ói. Có những ngày ông ngủ li bì, như để tiết kiệm sinh lực cho những chức năng quan trọng.

Ông bồn chồn trong lòng, nằm ngồi không yên như nhớ như quên điều gì muốn làm muốn thôi, muốn nhắc nhở vợ con. Rồi thở dài, ngán ngẫm. Vào đêm khuya vắng, ông dường như thấy cha mẹ ông xuất hiện đâu đây, ân cần nói chuyện với ông.

Có lúc ông lên kinh, chân tay co giựt, hàm cứng lại. Giá có ai bóp tay bóp chân cho mình lúc này nhỉ!.

Ông thấy nhịp tim chậm dần, nhẹ hơn. Hơi thở đôi khi như hụt và nông. Tuần hoàn kém, thân ông giá lạnh vì thiếu máu. Da ông xanh nhợt. Não thiếu oxy nên ông hay choáng váng mày mặt, kèm theo những cơn nhức đầu kéo dài khó chịu. Ngượng ngùng hơn là nhiều lần ông không kềm hãm được đại tiểu tiện, bài tiết trên giường. Người toát ra mùi hôi; nước miếng hoen khóe mép, đóng cặn.

Xương thịt, nội tạng ông đôi khi đau nhức, nhưng không kéo dài lâu. Ông nhớ có người nói, cận tử thì cơ thể tiết ra vài hóa chất giúp giảm sự đau, sự quằn quại khi mô bào, bộ phận bước vào giai đoạn đau đớn của sự chết (agony phase of death). Các bộ phận trong hình hài ông ngưng dần, bộ phận nọ tiếp nối bộ phận kia như những quân bài domino đè lên nhau mà ngả xuống.

Ông mỉm cười chờ đợi. Một ngày đẹp trời nào đó, mắt ông sẽ mờ dần, đồng tử mở rộng nhưng bất động, để đón nhận thêm nhiều ánh sáng. Không gian tối dần, như Victor Hugo than phiền “ Tôi chỉ thấy bóng tối” hoặc Emily Dickinson “…sương mù đang bao phủ quanh tôi”. Bắt chước Goeth, ông kêu lên “ Light! more light”, cho tôi thêm ánh sáng !. Ðể lần cuối nhìn thấy cuộc đời. Rồi ông lịm dần, lịm dần.

Chỉ trong vài giờ, cơ thịt ông co cứng, giá lạnh, xanh lợt. Rồi vài chục giờ sau, cơ thể ông mềm, mô bào tự hủy hoại vì hóa chất tiết ra, rồi thoái rữa vì đám vi khuẩn trong ruột già ruột non đua nhau lan tràn phá phách đó đây.

Rồi thân xác này sẽ được chôn cất dưới lòng đất xâu. Cát bụi lại về cát bụi…

Ông nhớ là cách đây vài tháng, khi linh cảm rằng sẽ đi xa, ông đã làm di chúc. Xin đừng móc dây móc máy vào người tôi khi tôi hấp hối. Cho phép tôi ra đi lành lặn như khi tôi tới. Trên giấy tờ hộ tịch sẽ được ghi tôi chết vì natural cause, rất tự nhiên, điều mà nhiều người mong ước. Và xin cảm ơn mọi người đã chăm sóc tôi, đã lưu tâm tới “những nhu cầu cận tử” nhu cầu của người trên ngưỡng cửa tử vong”.

Lão Tam sẵn sàng ra đi.

Như Thomas Edison reo lên Bên kia thế giới sao mà đẹp “It is beautifull over there”!

Và bình thản đợi chờ như nhà văn lão thành MặcThu viết nhân chuyến “tiễn đưa” nhà văn Mai Thảo.

“Sân ga một đám đứng chờ tàu,

Toàn bạn già xưa biết mặt nhau.

Tàu chật, có người lên được trước;

Chậm chân, kẻ đợi chuyến tàu sau.

Một đi là chẳng quay đầu lại,

Áo trắng trên người đủ kín thân.

Ra đi giống thuở ai vừa đến,

Tàu suốt trăm năm chỉ một lần.

Sân ga thấp thoáng bóng người già,

Họ sẵn sàng về cõi thật xa.

Hình như trong đám trông chờ ấy,

Có bạn thân tình, có cả ta”.

Vâng. Có cả ta.

Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức

www.bsnguyenyduc.com

 

Yêu kẻ thù (Mt 5, 43-48)

Yêu kẻ thù (Mt 5, 43-48)

Chuacuuthe.com


Y

VRNs (17.06.2014) – Sài Gòn- Điều gì làm nên sự khác nhau giữa người Kitô hữu và những người khác? Điều gì làm nên sự khác nhau giữa Kitô giáo và những tôn giáo khác. Đó chính là ân sủng của Thiên Chúa. Nhờ đó chúng ta có thể cư xử với người khác không phải là họ xứng đáng nhưng đó là điều mà Thiên Chúa mong muốn họ được đối xử với hết lòng nhân  ái và thương xót.

Thiên Chúa cho mưa rơi xuống trên người tốt cũng như kẻ xấu, người công chính cũng như kẻ bất lương. Tình yêu của Ngài dành cho người thánh thiện và người tội lỗi như nhau. Thiên Chúa tìm kiếm điều tốt nhất nơi chúng ta và dạy chúng ta cũng phải tìm kiếm điều tốt lành nơi người khác, ngay cả những người giận ghét và lạm dụng chúng ta. Tình yêu của chúng ta dành cho người khác ngay cả những người vô ơn bội nghĩa và ích kỷ với chúng ta, phải được đối xử bằng sự tử tế và lòng thương xót vô cùng mà Thiên Chúa phú ban cho chúng ta. Thật là dễ để thể hiện lòng tốt và thương xót khi chúng ta có thể mong đợi để hưởng ích lợi khi sống được điều này. Thật khó biết bao khi chúng ta không mong đợi được đáp trả. Lời cầu nguyện của chúng ta dành cho những người làm chúng ta đau khổ,  lời cầu nguyện này phá tan sức mạnh của sự trả thù và chiếu tỏa sức mạnh của tình yêu hướng đến thiện hảo khi đối mặt với sự ác.

Làm thế nào chúng ta có thể yêu thương những người gây thiệt hại hoặc ác ý với chúng ta? với Thiên Chúa mọi sự đều có thể. Ngài ban sức mạnh và ân sủng cho những người tin tưởng và đón nhận những ân huệ của Thánh thần. Tình yêu của Ngài khuất phục tất cả thậm chí khi ta đau, khi ta sợ hãi, định kiến và ưu phiền. Chỉ có thập giá của CGS giải phóng chúng ta khỏi sự chuyên chế của hiểm độc, thù hận, trả thù, oán giận và cho chúng ta can đảm để trở về với điều tốt từ bỏ sự ác. Tình yêu và ân sủng này có sức mạnh để chữa lành và cứu khỏi sự hư mất. Chúng ta có biết sức mạnh của tình yêu cứu chuộc và lòng thương xót của CKT không?

CGS có phóng đại khi nói rằng “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là đấng hoàn thiện không? Ý nghĩa ban đầu của hạn từ “hoàn thiện” trong tiếng Aram là “đầy đủ” hay “trọn vẹn”, “không thiếu những gì là cần thiết”. Thiên Chúa ban cho chúng ta mọi ân huệ trong CKT để chúng ta có thể không thiếu bất cứ điều gì giúp chúng ta sống và sống đạo đức, nhờ được biết Đấng đã dùng vinh quang và sức mạnh của Người mà kêu gọi chúng ta ( x.2 Pr 1, 3). Ngài biết sự yếu đuối và tội lỗi chúng ta hơn chúng ta ý thức về chính mình. Ngài đảm bảo với chúng ta về tình yêu của Ngài, lòng thương xót của Ngài, ân sủng của Ngài để chúng ta hành động theo giáo huấn của Ngài. Chúng ta có muốn triển nở trong tình yêu đối với Ngài và với tha nhân hay không? xin Chúa Thánh Thần đến thay đổi và hòa tan chúng ta trong hình ảnh của Chúa Cha để chúng ta có thể bước đi trong niềm vui và tự do của Tin mừng.

Lạy CGS tình yêu của Ngài mang lại sự tự do và ơn tha thứ. Xin đổ đầy trên chúng con Thánh Thần và đốt nóng tâm hồn chúng con bằng tình yêu của Ngài để không gì có thể làm cho chúng con mất bất an, không gì lấy đi niềm vui của chúng con, cũng không gì làm cho chúng con hằn hộc cay đắng với bất kỳ ai.

Pv. VRNs

 

Khi nào Việt Nam thay đổi

Khi nào Việt Nam thay đổi


x

Nguyễn Hưng Quốc

16.06.2014

Một câu hỏi người Việt Nam thường đặt ra với bạn bè và với chính mình là: Khi nào Việt Nam thay đổi chế độ?

Trước hết, cần nói ngay: Một câu hỏi như vậy, không ai có thể trả lời được. Trong chính trị, mọi tiên đoán đều rất phiêu hốt. Trước năm 1990, trong nhiều thập niên, nhiều người tiên đoán chế độ cộng sản nhất định sẽ sụp đổ. Nhưng nó vẫn tiếp tục vững mạnh và vẫn tiếp tục đe đoạ thế giới. Đến năm 1989, trong lúc mọi người đều không ngờ, nó lại sụp đổ, hơn nữa sụp đổ theo kiểu dây chuyền: từ Ba Lan và Hungary, nó lan sang tất cả các nước khác, ở Đông Âu, kể cả Đông Đức và Nga. Ngay sau đó, người ta những tưởng chế độ cộng sản ở các nước còn lại, từ Trung Quốc đến Việt Nam, Cuba, Lào và Bắc Hàn sẽ sụp đổ. Nhưng không. Nó vẫn sống đến tận bây giờ. Cũng vậy, trước năm 2011, không ai, kể cả chính phủ Mỹ và Pháp, Anh, vốn có mạng lưới tình báo dày đặc ở Trung Đông, có thể tiên đoán được cuộc cách mạng Ả Rập làm nhiều chế độ độc tài phải cáo chung trong một thời gian rất ngắn.

Rút những kinh nghiệm ấy, tôi nghĩ, chúng ta cần dè dặt và khiêm tốn trong việc tiên đoán sự kết cuộc của chế độ cộng sản tại Việt Nam.

Ở đây, tôi chỉ phân tích một số khả năng có thể xảy ra. Còn việc lúc nào những khả năng ấy thành hiện thực thì không dám bàn.

Thứ nhất, liên quan đến việc Trung Quốc mang giàn khoan đến thềm lục địa của Việt Nam và liên quan đến tiến trình dân chủ hoá ở Việt Nam, theo tôi, có hai khả năng:

Một, nếu Trung Quốc chỉ đem giàn khoan ấy nhấp nhứ vài tháng rồi rút về; sau đó, lại mang giàn khoan đến một chỗ khác trên Biển Đông, dừng lại… chơi vài tháng rồi về, không gây ra một cuộc xung đột nào thật lớn, có thể uy hiếp đến chính quyền Việt Nam, rất có nhiều khả năng là chế độ độc tài ở Việt Nam sẽ trở thành cứng rắn và vững mạnh hơn: Họ sẽ viện cớ đoàn kết để chống các hành động gây hấn của Trung Quốc để dẹp tan mọi đòi hỏi dân chủ và nhân quyền, và để siết chặt sự kiểm soát dân chúng trên mọi phương diện.

Hai, nếu Trung Quốc lấn thêm một bước nữa, khiến nhà cầm quyền Việt Nam phải lo lắng, từ đó, đồng ý bắt tay với các quốc gia trong khu vực và ở Tây phương, đặc biệt là Mỹ để tạo thế liên minh hầu chống lại Trung Quốc, họ sẽ mở cửa một chút, chấp nhận tự do và dân chủ một chút, để một mặt, tranh thủ sự ủng hộ của thế giới; mặt khác, huy động sức mạnh của nhân dân hầu đương đầu với Trung Quốc.

Trong cả hai trường hợp kể trên, không có trường hợp nào Việt Nam có thể thay đổi chế độ và trở thành dân chủ hơn.

Thứ hai, liên quan đến tiến trình dân chủ hoá, ở Việt Nam, sẽ có hai khả năng:

Một, thay đổi từ bên trên, khi giới lãnh đạo hoặc một trong những người thuộc giới lãnh đạo Việt Nam quyết định thay đổi để vừa thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc vừa mở đường cho đất nước phát triển theo chiều hướng hiện đại hoá và dân chủ hoá. Khả năng thay đổi này chỉ xảy ra trong hai, hoặc một trong hai trường hợp: Một, do người ta tự thức tỉnh và biết đặt quyền lợi của đất nước trên quyền lợi của chính mình; và hai, dưới sức ép của quốc tế, như một điều kiện để tạo nên liên minh chiến lược hầu chống lại Trung Quốc. Sức ép này, vừa tích cực vừa tiêu cực, đến từ hai nguồn: Tiêu cực, từ Trung Quốc và tích cực, từ Mỹ. Tích cực, từ Mỹ, tương đối dễ hiểu: Để giúp Việt Nam, chính phủ Mỹ cần sự đồng thuận của Quốc hội; để đồng thuận, các dân biểu và nghị sĩ Mỹ cần sự hậu thuẫn của dân chúng vốn là các cử tri trong địa phương. Tiêu cực, từ Trung Quốc, vì đương nhiên Trung Quốc không hề muốn Việt Nam dân chủ hoá; họ cũng không hề muốn Việt Nam thay đổi chế độ. Nhưng Trung Quốc có thể góp phần buộc Việt Nam phải thay đổi nếu họ đẩy chính quyền Việt Nam đến chỗ không còn chọn lựa nào khác ngoài việc ngả theo Tây phương.

Hai, thay đổi từ bên dưới, khi dân chúng đồng loạt đổ xuống đường biểu tình. Ở đây sẽ có hai khả năng: Nếu dân chúng chỉ xuống đường ít; sẽ không có gì thay đổi cả; nhưng nếu dân chúng xuống đường đồng loạt cả vài chục ngàn người, vấn đề sẽ khác hẳn. Về phía dân chúng, khi chỉ có vài trăm người xuống đường: ai cũng sợ; khi có vài ngàn người xuống đường: người ta sẽ bớt sợ; và khi có cả vài chục ngàn người thì sẽ không có ai sợ hãi nữa cả. Điều đó cũng có nghĩa là: sự tụ tập từ vài trăm đến vài ngàn: rất khó; từ vài ngàn đến vài chục ngàn: tương đối ít khó hơn; nhưng sự phát triển từ vài chục ngàn đến vài trăm ngàn người, thậm chí, vài triệu người thì lại rất dễ: Tâm lý quần chúng bao giờ và ở đâu cũng giống nhau: đám đông càng lớn càng có sức thu hút lớn. Về phía công an, trước vài trăm người, người ta rất dễ hành hung; trước vài ngàn người, người ta dè dặt hơn một chút; trước vài chục ngàn người, người ta sẽ đâm ra lưỡng lự; trước vài trăm ngàn người hoặc vài triệu người, người ta sẽ sợ hãi: Không ai dám áp bức cái đám đông khổng lồ ấy cả. Cứ nhìn vào những gì xảy ra ở Trung Đông trong cuộc cách mạng Ả Rập vào đầu năm 2011 thì thấy.

Vấn đề là: Làm sao để biến số người xuống đường từ vài ngàn đến vài chục ngàn người? Câu trả lời, trên lý thuyết, rất dễ: Khi người ta không còn biết sợ. Nhưng trên thực tế, điều ấy lại rất khỏ xảy ra vì tâm lý quần chúng bao giờ cũng sợ hãi quyền lực. Để vượt qua những sự sợ hãi tự phát ấy, lý trí không, chưa đủ. Nghị lực không, cũng chưa đủ. Đối với quần chúng, sự sợ hãi chỉ có thể được vượt qua bằng một thứ cảm xúc khác: phẫn nộ. Cứ tưởng tượng một trường hợp: Khi dân chúng đang xuống đường biểu tình, công an đến dẹp. Như họ đã từng dẹp nhiều cuộc biểu tình trước đây. Nhưng khi lôi kéo, bắt bớ, và nhất là đánh đập những người biểu tình như thế, một viên công an nào đó mạnh tay một chút, khiến một người chết. Ngay tại chỗ. Trước mắt những người biểu tình khác. Trước ống kính của máy chụp hình hoặc máy quay phim. Tình hình lúc ấy sẽ khác hẳn. Như những gì đã xảy ra tại Ai Cập trước đây: Một cái chết gây nên bão tố làm lật đổ một chế độ độc tài từng ngự trị cả hàng mấy chục năm.

Ở trên chỉ là những khả năng. Không ai biết trong các khả năng ấy, khả năng nào sẽ thành hiện thực; hoặc nếu thành hiện thực, khả năng ấy sẽ xảy ra vào lúc nào. Tôi không biết. Và tôi tin: Không ai biết cả. Ai nói biết, bạn tin tôi đi: Họ đang nói dối.

Hoặc khùng.

TS Hà Vũ: ‘TQ chiếm nốt Trường Sa, chính thể VN thay đổi mới có liên minh quân sự Việt-Mỹ’

TS Hà Vũ: ‘TQ chiếm nốt Trường Sa, chính thể VN thay đổi mới có liên minh quân sự Việt-Mỹ’

Trà Mi phỏng vấn Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ (Ảnh: Khải Nguyễn)

Trà Mi phỏng vấn Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ (Ảnh: Khải Nguyễn)

Trà Mi-VOA

15.06.2014

Trong ban lãnh đạo đảng cộng sản hiện nay không có phe thân Tây hay phe thân Tàu, mà chỉ có một phe quyết giữ cho được độc tài của đảng cộng sản để cướp bóc hơn nữa tài sản của nhân dân và quốc gia.

Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ

Một nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng, xuất thân từ một gia đình ‘công thần’ với đảng cộng sản Việt Nam, cho rằng bao giờ Trung Quốc chiếm nốt Trường Sa, chính thể Việt Nam thay đổi, mới có thể có liên minh quân sự giữa Việt Nam với Hoa Kỳ.

Nhận định của Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ được đưa ra giữa bối cảnh tranh chấp Biển Đông tiếp tục leo thang với giàn khoan 981 Trung Quốc đưa vào khu vực Việt Nam có tuyên bố chủ quyền, làm khơi dậy những tranh luận về khả năng Việt Nam liên minh quân sự với Mỹ để đối phó với sự xâm lược từ Bắc Kinh.

Việt-Mỹ có thể đồng hành quân sự với nhau hay không và lợi-hại của việc này ra sao? Đó cũng là nội dung cuộc trao đổi giữa Trà Mi VOA Việt ngữ hôm nay với Tiến sĩ luật Hà Vũ, người cách đây 4 năm từng tuyên bố rằng ‘Đồng hành quân sự với Mỹ là mệnh lệnh thời đại để bảo vệ chủ quyền trước sự lấn lướt của Trung Quốc’ vì ‘chỉ có Mỹ với tư cách cường quốc duy nhất trên thế giới sẵn sàng đối mặt với Trung Quốc về quân sự’ mới có thể giúp Việt Nam ‘giải bài toán an ninh lãnh thổ.’

Bấm vào nghe toàn bộ cuộc phỏng vấn với TS Hà Vũ

Con trai cố thi sĩ Cù Huy Cận cũng là người đã nhiều lần kiến nghị giới lãnh đạo Việt Nam tăng cường quan hệ với Hoa Kỳ để bảo vệ chủ quyền quốc gia trước hiểm họa bành trướng của Trung Quốc.

VOA: Theo ông, với tình hình hiện nay, về phía Mỹ, chuyện ‘đồng hành quân sự’ với Việt Nam có khả thi?

TS Cù Huy Hà Vũ: Hoàn toàn khả thi. Mỹ với tư cách siêu cường thế giới có lợi ích toàn cầu thì mọi xung đột quân sự trên thế giới đều ảnh hưởng tới quyền lợi của Mỹ, ảnh hưởng tới bối cảnh hợp tác của Mỹ với các nước. Cho nên, bắt buộc Mỹ phải quan tâm đặc biệt là hiện nay Trung Quốc đã thể hiện quá rõ ràng hành động xâm chiếm lãnh thổ của các nước ở Đông Á.

VOA: Khả thi, nhưng thiện chí của Mỹ trong chuyện ‘đồng hành quân sự’ với Việt Nam ra sao? Với cách phản ứng của Mỹ trước các hành động của Trung Quốc trên Biển Đông hiện nay dừng lại ở mức ‘lên tiếng phản đối’ và ‘bày tỏ quan ngại’, người ta nghi ngờ khả năng Mỹ tiến gần hơn với Việt Nam để ‘tái cân bằng lực lượng’ ở Châu Á là chưa mấy tích cực. Ý kiến ông thế nào?

TS Cù Huy Hà Vũ: Mọi người không hiểu đúng chính sách của Mỹ. Mỹ đặc biệt quan tâm đến ổn định ở Đông Á và tình hình Biển Đông nói riêng. Các hành vi gây xung đột của Trung Quốc, đương nhiên Mỹ phải đặc biệt quan tâm vì nó làm gián đoạn đường lưu chuyển của quốc tế. Thế nhưng, việc sẵn sàng can dự từ phía Mỹ để giúp Việt Nam bảo vệ chủ quyền phải có điều kiện, phải có hiệp ước liên minh quân sự.

VOA: Liệu Mỹ có sẵn sàng đánh đổi những quyền lợi về thương mại-quân sự với bạn hàng rất lớn là Trung Quốc để đi bảo vệ những nước nhỏ hơn trong khu vực?

TS Cù Huy Hà Vũ: Không phải lúc nào quan hệ với nước lớn cũng đè bẹp quan hệ với nước nhỏ. Ở đây còn có vấn đề chính nghĩa. Nếu chỉ thấy Trung Quốc là nước rất lớn mua hàng hóa của mình mà mặc kệ Trung Quốc muốn làm gì làm, thì đến lúc nào đó, chính sách chỉ trọng đồng tiền sẽ dẫn đến việc Trung Quốc dùng sức mạnh quân sự dẹp tan quyền lợi của Mỹ. Việc Mỹ ủng hộ Việt Nam về mặt quân sự chống lại xâm lược Trung Quốc cũng chính là bảo vệ quyền lợi của Mỹ, không chỉ bảo vệ đường giao thông hàng hải ở Đông Á mà còn để khẳng định với Trung Quốc rằng phải chấm dứt ngay những hành động phiêu lưu quân sự. Tóm lại, Mỹ nhất thiết phải ủng hộ Việt Nam. Nhưng Mỹ chỉ có thể ký hiệp định liên minh quân sự với một nước có chế độ chính trị, nếu không hoàn toàn thân thiện, thì cũng không thù địch. Mỹ luôn có chính sách chống lại chủ nghĩa cộng sản vì đó là chủ nghĩa vô nhân, xâm hại những quyền căn bản của con người. Bây giờ Việt Nam vẫn duy trì chế độ chống lại con người ấy mà Mỹ lại ủng hộ chế độ đó thì không khác gì phản lại lý tưởng vì con người của mình, phản lại các giá trị nhân bản của Mỹ và của thế giới.

VOA: Quan hệ Việt-Mỹ lâu nay vẫn có những rào cản. Với cuộc đối thoại nhân quyền vừa diễn ra tháng rồi và tình hình Biển Đông hiện nay, ông dự kiến sẽ trông thấy những điều gì sắp tới?

Vợ chồng Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ tại trụ sở đài VOA.

Vợ chồng Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ tại trụ sở đài VOA.

TS Cù Huy Hà Vũ: Để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, Việt Nam tất yếu phải liên minh quân sự với Mỹ. Muốn vậy, Việt Nam phải từ bỏ chế độ độc tài, phải trao lại quyền làm chủ đất nước cho người dân thông qua bầu cử công khai, tự do, có sự giám sát của Liên hiệp quốc. Mỹ trong cuộc đối thoại nhân quyền tháng 5 qua đã đòi hỏi Việt Nam cải thiện nhân quyền, trả tự do cho các nhà bất đồng chính kiến và hủy các căn cứ pháp lý dựa vào đó bỏ tù họ. Việt Nam cũng đã có những cam kết sẽ cải thiện. Đây không phải là vấn đề nhân nhượng mà là cái thế bắt buộc Việt Nam phải cải thiện nhân quyền. Vì nếu không, những thứ khác sẽ ách tắc, từ việc gia nhập Hiệp định tự do thương mại TPP cho đến sự hỗ trợ từ Mỹ chống xâm lược từ Trung Quốc. Tuy nhiên, tôi cảnh báo rằng cộng sản Việt Nam nói không đi đôi mà thậm chí còn ngược lại với hành động. Họ cam kết điều này điều kia với Mỹ và Liên hiệp quốc với tính chất thủ đoạn, chiến thuật câu giờ để chế độ cộng sản tồn tại được lúc nào hay lúc nấy. Cho nên, tôi thật sự hoàn toàn không tin tưởng vì hiện nay đảng cộng sản Việt Nam vẫn đặt lợi ích của họ lên trên lợi ích dân tộc.

VOA: Nhiều người nói trong nội bộ đảng vẫn chưa thống nhất được chính sách thân Tây hay thân Tàu vì giữa lúc Bộ Ngoại giao kêu gọi Mỹ ‘có hành động mạnh mẽ hơn’ để bảo vệ hòa bình Biển Đông thì Bộ Quốc phòng, tại Đối thoại Shangri-la, nói quan hệ Việt-Trung nhìn chung tốt đẹp và rằng ngay trong gia đình còn có xích mích huống chi là các nước láng giềng, va chạm là điều khó tránh khỏi.

TS Cù Huy Hà Vũ: Trong ban lãnh đạo đảng cộng sản hiện nay không có phe thân Tây hay phe thân Tàu, mà chỉ có một phe quyết giữ cho được độc tài của đảng cộng sản để cướp bóc hơn nữa tài sản của nhân dân và quốc gia. Tuy nhiên, trong cách hành xử họ có sự phân công. Bên đảng tập trung vào chuyện hòa hiếu với Trung Quốc. Bên nhà nước thì tìm cách kéo sự can thiệp của phương Tây giúp giải tỏa phần nào tâm lý người dân trước hành vi xâm lược của Trung Quốc vì hiện giờ người dân vô cùng phẫn nộ trước các chính sách của nhà nước đối với Trung Quốc.

VOA: Theo ông, không có phe thân Tây hay thân Tàu trong nội bộ đảng, chỉ có một phe thân lợi ích của chính họ mà thôi. Vậy những điều kiện như thế nào cần và đủ để giới lãnh đạo Việt Nam bắt buộc phải thay đổi vì quyền lợi đất nước?

TS Cù Huy Hà Vũ: Điều kiện để họ thay đổi là Trung Quốc tiến tới xâm lược nốt quần đảo còn lại là Trường Sa. Trong trường hợp đó, nhân dân và quân đội Việt Nam sẽ phải có hành động chính thức buộc đảng cộng sản từ bỏ quyền lực của mình, lập chính phủ mới hoàn toàn của dân. Chính phủ đó lúc ấy mới có thể đặt vấn đề liên minh quân sự với Mỹ và chỉ trong trường hợp đó Mỹ mới có thể giúp Việt Nam về mặt quân sự để bảo toàn lãnh thổ của Việt Nam ở Biển Đông.

VOA: Có người cho rằng nếu Việt Nam nghiêng về Trung Quốc thì mất Biển Đông, mất chủ quyền; nhưng nghiêng về Mỹ thì tự biến mình thành tuyến đầu chống Trung Quốc, đẩy dân tộc vào nguy cơ xung đột chiến tranh và nhiều rủi ro với Trung Quốc. Ý kiến ông ra sao?

TS Cù Huy Hà Vũ: Ý kiến đó hoàn toàn sai lầm. Trong quan hệ quốc tế ngày nay là bảo vệ quyền lợi của nhau chứ không phải liên kết với nhau để chống lại hay xâm hại quyền lợi của nước khác.

VOA: Từ kinh nghiệm của Việt Nam với Mỹ trong quá khứ, cũng có người lo ngại rằng kết thân với Mỹ, trong trường hợp nào đó, khi quyền lợi của Mỹ ngả nghiêng về một hướng khác thì Việt Nam cũng có thể bị bỏ rơi một lần nữa.

TS Cù Huy Hà Vũ: Tôi không nghĩ như vậy. Khi Việt Nam và Mỹ thật sự cần đến nhau thì không có khái niệm Mỹ bỏ rơi Việt Nam hay ngược lại. Nếu chế độ độc tài của đảng cộng sản Việt Nam được giải thể thì Mỹ chắc chắn sẽ coi Việt Nam không những là nước bạn, mà còn là nước có thể hợp tác trong mọi lĩnh vực để cùng nhau phát triển.

VOA: Xin chân thành cảm ơn ông đã dành thời gian cho cuộc trao đổi này.

Thư viết cho con

Thư viết cho con

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Thay vì nhận những lời chúc tụng từ con,
ba muốn dành một khoảnh khắc ngắn ngủi
để cám ơn những gì con đã đành cho ba mẹ.

Câu hỏi con vẫn thường đặt ra với ba, là sang đây, con “không được thành đạt như con cái của bạn bè ba, vậy ba có buồn không?”

 

(Hình minh họa: Jamie Squire/Getty Images)

Hình như ba đã trả lời với con rồi, nhưng hôm nay, nhân ngày Nghiêm Phụ, ba muốn nói với, không những riêng con, mà với tất cả các con, sau này là những đứa cháu của ba nữa.

Về chuyện “thành đạt,” Dale Carnegie đã nói, “Thành công là đạt được những gì mình mong muốn. Hạnh phúc là muốn những gì mình đạt được.” Như vậy thì con đã “thành đạt” rồi. Theo cha mẹ sang đây, bù lại tuổi ấu thơ nhọc nhằn, con chỉ muốn có công ăn việc làm, được một mái ấm gia đình. Ðạt được những mong muốn đó, chắc chắn là hạnh phúc đã đến với con.

Nhưng thói đời, người ta quan niệm thành đạt là:

– Có được bằng cấp cao, có địa vị trong xã hội.

– Phải được nhiều người biết đến vì sự giàu có, sang trọng của mình.

– Phải được xã hội trọng vọng kính nể

– Phải có quyền lực qua quan hệ với những người trong cộng đồng hay trong cả nước.

Khi xã hội trầm trồ về một trường hợp thành đạt, phải hiểu rằng người ấy đỗ đạt cao, có những tước vị như bác sĩ, tiến sĩ, kỹ sư… hay là những thương gia thành công có nhiều công ty, nhà máy, được gọi là triệu phú, đại gia. Người thành đạt phải kéo theo những điều căn bản cần phải có theo họ như một hay nhiều ngôi nhà lớn, đẹp; xe hơi đời mới; những bộ cánh sang trọng; những buổi tiệc tùng xa hoa và những chuyến du lịch đắt tiền.

Không có nó, không ai xem họ là những người thành đạt, vì người thành đạt không thể ở trong một căn apartment nhỏ hẹp hay đi một chiếc xe cũ tồi tàn.

Quan niệm đó được tiếp nối, con cái họ cũng phải được như họ, nếu không, sẽ không được gọi là một gia đình thành đạt, nếu cha là giáo sư đại học mà con làm công nhân trong nhà máy hay lái taxi.

Người ta thường nói, “chỉ có người hèn, chứ không có nghề hèn!” Ba biết, nói để an ủi, chứ xã hội xếp hạng tầng lớp theo nghề nghiệp. Con cứ nhìn một công nhân làm đường có được người ta xem trọng như một vị giám đốc công ty, một ông dân biểu hay một ông bác sĩ không? Trong quân đội cũng vậy, làm sao người ta coi trọng một binh sĩ hơn một tướng lãnh.

Có phải con suy nghĩ và có mặc cảm về sự thành đạt theo quan niệm này phải không?

Trước hết dưới cái nhìn và tấm lòng của những bậc cha mẹ công bình và đạo đức, một đứa con mạnh khỏe, thành đạt hay một đứa con bệnh hoạn, kém may mắn đều được xem như nhau, có khi còn ưu ái hơn.

Ba muốn dông dài kể câu chuyện ngụ ngôn về Ðứa Con Trai Hoang Ðàng (The Prodigal Son) là một trong những câu chuyện trong Kinh Thánh được yêu thích nhất.

Một người kia có hai con trai, đứa con thứ hai muốn nhận lãnh gia tài phần nó trước khi người cha qua đời. Sau khi nhận phần gia tài của mình, đứa con này bỏ nhà ra đi, tiêu xài phung phí, ăn chơi đọa lạc, cho đến lúc tiền bạc khánh kiệt, thậm chí có lúc đói, phải kiếm miếng ăn trong cái máng heo của người lái heo nó giúp việc.

Một này kia, đứa con hoang đàng quyết định trở về với mái ấm gia đình và thưa với cha rằng, “Cha ơi, tôi thật có tội với trời và với cha, không đáng gọi là con của cha nữa; xin cha hãy tha thứ cho con.”

Nhưng trước đó, trông thấy đứa con trở về từ đằng xa, người cha đã chạy đến ôm lấy con, hôn con, khoác cái áo choàng tốt nhất cho con, đeo nhẫn vào tay con, mang giày vào chân con, và sai gia nhân giết bò để ăn mừng đứa con trở về.

Người con trưởng lâu nay ở cạnh cha có vẻ bất bình, thì người cha nói, “Lâu nay ta nghĩ đứa con này như đã chết, mà bây giờ lại sống; nghĩ đã mất mà bây giờ lại thấy được. Có còn gì vui sướng hơn.”

Ba mẹ đã có một đứa con mất, ra đi biền biệt, không bao giờ tìm thấy lại được, nhưng vẫn còn những đứa con khác còn sống ở cạnh, đó chẳng phải là điều an ủi, hạnh phúc của ba mẹ hay sao?

Ngày ba phải vào nhà tù tập trung, mẹ và các con bỗng hụt hẫng, như con thuyền ra biển gãy tay lái, thành ngữ đúng nhất trong lúc này là “nhà không nóc,” gia đình như con thuyền trôi giạt trên biển cả mênh mông, không biết phương hướng, rồi sẽ về đâu!

Mới lên 8 tuổi, tuổi cắp sách đến trường, chưa bao giờ biết đến những nghịch cảnh của cuộc đời, con thấy buồn vì những ngày không có cha, thời gian kéo dài tưởng như vô tận. Con mặc những chiếc áo cũ đã bạc màu của chị con để lại, con mang đôi dép dài hơn bàn chân của con, con chịu đói, thèm những bữa ăn no như ngày xưa, nhưng con thương mẹ hơn mỗi chiều, khi con vụng về lau nước mắt cho mẹ, và gia đình ít khi còn nghe được tiếng cười. Con quay mặt đi khi thấy những gia đình khác còn có cảnh cha con thân mật, nô đùa.

Vì lòng thương mẹ, con đã không ngần ngại, không mặc cảm, lớn mạnh, can đảm ra đời để giúp mẹ. Nhà không có tiền mua than củi, con đã theo bạn bè mỗi ngày ra bến xe than, nơi những chiếc xe từ miền Ðông chở than về vựa, quét hốt những mẩu than vụn rơi rớt trên đường để chiều nay mẹ nhúm được bếp lửa cho bữa cơm (?) vắng bóng cha.

Con có thể bưng rổ khoai luộc đi quanh xóm hay mớ rau muống được bà ngoại mua về, đi rao cùng xóm để đem về cho mẹ một hai đồng bạc lời, để chiều nay gia đình có thêm được một miếng mì luộc, dù không đủ no.

Những ngày đầu khi gia đình được may mắn đến đây, con cũng chưa biết gì với những niềm vui tự do và hạnh phúc của nước Mỹ, suốt ngày ngồi bên chiếc máy may, để cuối tuần kiếm mấy chục bạc giúp gia đình đứng vững.

Chỉ ngần ấy việc làm của con, ba còn mong đợi, đòi hỏi gì nơi con vì con thành đạt hay không thành đạt theo sự suy nghĩ thông thường của người đời.

Ba mong sau này, con cũng đừng đòi hỏi gì nhiều ở nơi các con của con, như thảm kịch xảy ra cách đây vài năm của một gia đình, mà một bà mẹ chỉ muốn con mình trở thành bác sĩ. Hẳn bậc cha mẹ nào cũng mong cho con thành đạt, nhưng ba có một người bạn giao du đã hơn 10 năm, mà hoàn toàn không biết người này có đến hai người con, một là luật sư, một là bác sĩ, trong khi đó, phải cuối tháng này, lễ tốt nghiệp mới được tổ chức, mà trên mặt báo đã có những bậc cha mẹ vội vã chúc mừng con.

Trong bệnh viện cũng như ngoài đời, nếu ai cũng làm bác sĩ thì còn ai lo cho những công việc khác. Dù có thành đạt người ta cũng đừng nên ngẩng mặt quá cao, hay gọi là thất bại, cũng không nên cúi đầu quá thấp. Thái độ nào cũng dễ làm cho người ta vấp té.

Trong cuộc sống đơn giản, ít ra con cũng đạt được những gì mình mong muốn, đó là hạnh phúc. Ba còn mong muốn gì hơn nơi con.

Hôm nay ngày Lễ Cha, thay vì nhận những lời chúc tụng từ con, ba muốn dành một khoảnh khắc ngắn ngủi để cám ơn những gì con đã dành cho ba mẹ.

Cha của con.

 

Những ‘thiên tài’ bất hiếu

Những ‘thiên tài’ bất hiếu

Nguoi-viet.com


Tạp ghi Huy Phương

Nói về chuyện “bất hiếu” thì trong một bài báo trước đây chúng tôi đã nói chuyện ông cụ thân sinh của ông Hồ Ngọc Nhuận đã nói rằng: “Ðời cha sợ nhất là mất con! Có ba cách mất: một là con theo gánh hát, hai là theo cộng sản, ba là theo Công Giáo!” (Hồi ký – Chương I – trang 8 – XB 2010.) Ông Hồ Ngọc Nhuận không theo gánh hát, cũng không theo đạo Công Giáo, nhưng ông mang tội bất hiếu, quên lời căn dặn của cha mà đi theo cộng sản!

Có một người còn tệ hơn ông Hồ Ngọc Nhuận rất nhiều, về tội bất hiếu là ông nhạc sĩ Phạm Tuyên, tác giả bài hát lừng danh “Như Có Bác Hồ Trong Ngày Vui Ðại Thắng!”

Nhạc sĩ Phạm Tuyên. (Hình: Wikipedia.org)

Nhạc sĩ Phạm Tuyên sinh năm 1930 là con thứ chín của học giả Phạm Quỳnh, người đã bị Việt Minh Cộng Sản giết và chôn trong một khu rừng thuộc làng Hiền Sĩ, Thừa Thiên, năm 1945. Phạm Tuyên là người đã sáng tác hàng chục bài hát ca ngợi ông Hồ và đảng Cộng Sản: Từ Làng Sen, Việt Bắc Nhớ Bác Hồ, Như Có Bác Hồ Trong Ngày Vui Ðại Thắng, Ðảng Ðã Cho Ta Sáng Mắt Sáng Lòng, Suối Lê Nin,… trong đó, bài hát “Như Có Bác Hồ Trong Ngày Vui Ðại Thắng” được đông đảo khán, thính giả thuộc lòng, vì bài hát ngắn, dễ thuộc, lại có điệp khúc lặp đi lặp lại mấy tiếng Việt Nam-Hồ Chí Minh.

Bài hát mà trước đây ông Luật Sư Nguyễn Hữu Liêm ghi lại “Cảm nhận được một dòng điện chạy từ đáy lưng theo xương sống lên trên cổ trên đầu như là khoảnh khắc thức dậy và chuyển mình của năng lực Kundalini,” “khi vừa hết bài quốc ca, mấy chục cô và bà đại biểu từ Pháp đang chạy ùa lên sân khấu, vỗ tay đồng ca bài Như Có Bác Hồ Trong Ngày Vui Ðại Thắng. Tôi nhìn qua các thân hữu Việt kiều từ Mỹ, và ngạc nhiên khi thấy hầu hết – kể cả những người mà tôi không ngờ – đang vỗ tay hào hứng la to, Việt Nam-Hồ Chí Minh!”

Bài hát này, bọn tù “cải tạo” chúng tôi cũng đã thuộc lòng, trong suốt thời gian bị giam cầm phải vỗ tay đồm độp hát cả nghìn lần, và rống lên cái điệp khúc “chống đói:” Việt Nam-Hồ Chí Minh!

Phạm Tuyên đúng là một thiên tài, bài hát của ông nổi tiếng đến đỗi sau Tháng Tư, 1975, đứa trẻ nào ở Sài Gòn cũng thuộc và đã được chúng đổi lời thành “Như có Bác Hồ trong nhà thương… Chợ Quán! Vừa bước ra bị xe cán bể đầu…” và một lời khác: “Như có Bác Hồ trong cầu tiêu đậy nắp” hay “Như có Bác Hồ đang ngồi binh xập xám, ngồi kế bên là ông Nguyễn Cao Kỳ… Việt Nam… Hồ Chí Minh ăn gian… ăn gian… Việt Nam… Hồ Chí Minh ăn gian, ăn gian!”

Thân sinh ra ông nhạc sĩ “đại bất hiếu” này là cụ Phạm Quỳnh bút hiệu là Thượng Chi, sinh năm 1892 là một nhà văn hóa, nhà báo, nhà văn và quan đại thần triều Nguyễn. Ông là người đi tiên phong trong việc quảng bá chữ quốc ngữ và dùng tiếng Việt – thay vì chữ Nho hay tiếng Pháp – để viết lý luận, nghiên cứu.

Ông được xem là người chiến đấu bất bạo động cho chủ quyền độc lập, tự trị của Việt Nam, cho việc khôi phục quyền hành của triều đình Huế trên cả ba miền, chống lại sự bảo hộ của Pháp và kiên trì chủ trương chủ nghĩa quốc gia với chính thể quân chủ lập hiến. Năm 1930, Phạm Quỳnh đề xướng thuyết lập hiến, đòi hỏi người Pháp phải thành lập hiến pháp, để quy định rõ ràng quyền căn bản của nhân dân Việt Nam, vua quan Việt Nam và chính quyền bảo hộ.

Ngày 11 Tháng Mười Một, 1932, sau khi Bảo Ðại lên ngôi, ông được triều đình nhà Nguyễn triệu vào Huế tham gia chính quyền, thời gian đầu ông làm việc tại Ngự Tiền Văn Phòng, sau năm 1944 là Thượng Thư Bộ Học (Bộ Trưởng Giáo Dục) và cuối cùng giữ chức vụ Thượng Thư Bộ Lại (Bộ Trưởng Nội Vụ).

Tháng Ba, 1945, Nhật đảo chính Pháp, chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập, ông Phạm Quỳnh về sống ẩn dật ở một biệt thự bên bờ sông đào gần Phủ Cam, Huế.

Khi Việt Minh cướp chính quyền, ông được “gọi đi làm việc” ngày 23 Tháng Tám, 1945 nhưng lại bị đưa vào nhà lao Thừa Phủ, Huế, sau đó bị giết cùng với nguyên Tổng Ðốc Quảng Nam Ngô Ðình Khôi (anh ruột Ngô Ðình Diệm) và Ngô Ðình Huân (con trai của Ngô Ðình Khôi).

Di hài ông được tìm thấy năm 1956 trong khu rừng ở Hiền Sĩ, Thừa Thiên (phía Bắc thành phố Huế 17km), và được cải táng ngày 9 Tháng Hai, 1956 tại Huế, trong khuôn viên chùa Vạn Phước.

Cộng sản thường nói quanh co trong việc giết người, thường đổ tội cho cấp dưới, cho rằng có lệnh cấp tốc chuyển Ngô Ðình Khôi, Phạm Quỳnh và Ngô Ðình Huân ra khỏi Huế để đề phòng những chuyện bất trắc xẩy ra. Nhóm du kích áp tải các ông đến một quãng rừng cách xa Huế (Hiền Sĩ) thì nghe tiếng tàu bay Pháp ầm ì trên đầu, tưởng đâu như tiếng máy bay thả biệt kích, sợ không hoàn thành trách nhiệm áp tải, nên nhóm du kích này đã tự động thủ tiêu cả ba người mà không chờ chỉ thị của cấp trên. Cũng không nghe nói cấp trên lúc bấy giờ là ai.

Các ông Phạm Quỳnh, Ngô Ðình Khôi, Ngô Ðình Huân bị giết như thế nào? “Một người nấp trong bụi cây gần đấy thấy Phạm Quỳnh bị đánh vào đầu bằng xẻng, cuốc rồi mới bị bắn ba phát. Ngô Ðình Khôi không bị đánh chỉ bị bắn ba phát. Ngô Ðình Huân hoảng sợ vùng chạy, bị bắt lại, rồi bị bắn ngay vào đầu. Cả ba bị xô xuống mương rồi vội vàng lấp đất.” Phạm Quỳnh ở dưới cùng, đầu hướng về phía núi, Khôi và Huân nằm đè lên, đầu hướng về phía sông. Khi cải táng, ông Phạm Tuân (con thứ 12 của Phạm Quỳnh, hiện ở Virginia) thấy sọ của thân phụ có một vết nứt ngang như vết cuốc, xẻng đánh mạnh vào, “ba bộ hài cốt nằm chồng chất lên nhau… Hài cốt của thầy tôi rất dễ nhận vì dài và ngay cạnh tôi nhận ra được đôi mắt kính cận.” (phamquynh.wordpress.com/2009/02/18/phụ-lục)

Ông Nguyễn Văn Bồng, một nhân viên cũ của Phạm Quỳnh, cho rằng, “không phải là Việt Minh giết cụ Phạm Quỳnh, mà chính con cháu cụ Nguyễn Hữu Bài đã tìm được cơ hội khử Phạm Quỳnh để trả thù cho cha, về vụ năm ông thượng thư (trong đó có ông Nguyễn Hữu Bài) bị mất chức” khi ông Phạm Quỳnh được trọng dụng.

Nhưng chúng ta cũng biết rằng Nguyễn Hữu Bài có mối thâm giao với gia đình ông Ngô Ðình Khả và đã có lúc muốn gả con gái mình cho ông Ngô Ðình Diệm, không lẽ “người nhà” này lại muốn giết luôn cha con ông Ngô Ðình Khôi? Và nếu con cháu của Nguyễn Hữu Bài (không có tài liệu nào nêu tên) giết Phạm Quỳnh thì vì sao Ủy Ban Khởi Nghĩa tỉnh Thừa Thiên lại làm công tố, kể tội trạng của Phạm Quỳnh như là lời kết của một bản án tử như sau: “Phạm Quỳnh, một tay cộng sự của Pháp ở Ðông Dương, đã bao phen làm cho quốc dân phải điêu đứng. Phạm Quỳnh đã giúp sức cho quân cướp nước làm mê muội dân chúng Việt Nam. Với cái nghề mại quốc cầu vinh, Phạm Quỳnh đã từ một tên viết báo nhảy lên một địa vị cao nhất trong hàng quan lại Nam triều. Phạm Quỳnh lại còn dựa vào thế lực Pháp và địa vị của mình bóc lột, vơ vét tài sản của quốc dân. Mặc dầu chính quyền của giặc Pháp đã bị truất sau ngày đảo chính 9 Tháng Ba, 1945, nhiều triệu chứng, chứng tỏ rằng Phạm Quỳnh chỉ chờ cơ hội rước bọn thực dân Pháp đến làm cho diệt nước chúng ta.” (văn bản gửi Tòa Án Quân Sự Thuận Hóa (tức Huế), đăng trên báo Quyết Thắng Tháng Mười Hai, 1945).

Quyết Thắng là cơ quan tuyên truyền và tranh đấu của Việt Minh Trung Bộ, số 11 ra ngày 9 Tháng Mười Hai, 1945, cũng đã loan tin: “Cả ba tên Việt Gian đại bợm (Ngô Ðình Khôi, Phạm Quỳnh, Ngô Ðình Huân) bị bắt ngay trong giờ cướp chính quyền, 2 giờ (chiều) ngày 23 Tháng Tám và đã bị Ủy Ban Khởi Nghĩa kết án tử hình và đã thi hành ngay trong thời kỳ thiết quân luật.”

Hai người con gái của Phạm Quỳnh thì cảm động khi nghe “cụ Hồ” chối tội: “Trong lúc khởi nghĩa, cũng không sao tránh được sự nhầm lẫn. Rất tiếc khi ấy tôi còn đang ở trên Việt Bắc.” Ai chứ “cụ Hồ” thì ta cũng không lạ gì, “cụ” đã từng chấm nước mắt khi nói về cuộc đấu tố, cải cách ruộng đất ở Bắc Việt, sau khi đã xử tử 15,000 nông dân vô tội (Con số của tuần báo Time ngày 1 Tháng Bảy, 1957).

Thời Việt Minh, gia đình hai ông Phạm Quỳnh và Ngô Ðình Khôi có làm đơn khiếu nại lên Ủy Ban Cách Mạng Lâm Thời thì được đổ vấy cho rằng những việc trước đây thuộc thẩm quyền của Ủy Ban Khởi Nghĩa!

Ðể hợp thức hóa việc giết Phạm Quỳnh, bản án của Ủy Ban Khởi Nghĩa tỉnh Thừa Thiên hoàn toàn là một sự vu vạ, trái ngược với gì Phạm Quỳnh đã chủ trương, giết trước, kể tội sau để bào chữa.

Chỉ tiếc là ông mất đi, để lại cho đời một đứa con khá bất hiếu. Cha ông bị chết thảm thương, chôn vùi trong một xó rừng, ông lại cam tâm chuyên viết nhạc nịnh hót ông Hồ và đảng. Có công làm thơ ca tụng “bác” và đảng như Tố Hữu còn leo đến chức phó thủ tướng, còn Phạm Tuyên cũng có những bài nhạc “hết lời” nhưng danh vọng chỉ tới chủ tịch Hội Âm Nhạc Hà Nội, làm ủy viên thường vụ Ban Chấp Hành Hội Nhạc Sĩ Việt Nam từ năm 1963 đến năm 1983, chứ không được là ủy viên Bộ Chính Trị như Tố Hữu (1980). Ðiều đó chắc Phạm Tuyên cũng biết vì gốc gác của ông là con “Việt gian” Phạm Quỳnh chứ không phải ba đời bần cố nông.

Có người biện hộ cho Phạm Tuyên cho rằng “theo thời thì phải thế!” nhưng có phải ai lỡ ở lại miền Bắc với cộng sản cũng “hồ hởi” “phấn khởi” ca tụng Bác và đảng như thế không, nhất là gia tộc ông đang có một mối oan cừu với Việt Minh Cộng Sản.

Người đời thường nói: “Năm ngón tay có ngón ngắn ngón dài,” nay học giả Phạm Quỳnh có tới 13 người con, không may có một đứa con là Phạm Tuyên, thuộc loại “thiên tài… đại bất hiếu!” Người cộng sản hình như chỉ biết đảng mà ít biết đến cha mẹ!

Trong bản nhạc “Ðảng Ðã Cho Ta Sáng Mắt Sáng Lòng!” Phạm Tuyên đã reo vui, ca ngợi: “Ðảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng! Ðảng ta ơi, cám ơn người dạy dỗ.” Chỉ tiếc rằng, thân phụ ông đã chết oan khuất dưới bàn tay của đảng, không biết gia đình này có ngày giỗ cha hay không?

 

Giận, hờn, buồn, tủi của những đứa con trong Ngày Lễ Cha

Giận, hờn, buồn, tủi của những đứa con trong Ngày Lễ Cha
June 14, 2014

Nguoi-viet.com

Ngọc Lan/Người Việt

WESTMINSTER (NV) – Như luật bất thành văn, không thể khác hơn, khi nói về cha mẹ, bao giờ người ta cũng được nghe những lời hoa mỹ, đẹp đẽ nhất từ những đứa con. Bởi, “Cha mẹ dù gì cũng là cha mẹ, con không thương cha mẹ là bất hiếu, sẽ bị trời đánh!”

Thế nhưng, cuộc đời không phải lúc nào cũng như sách vở. Có những đứa con phải lặng lẽ quẹt nước mắt khi nhìn thấy sự thương yêu trìu mến của ba người ta. Có những đứa con từng “vái trời cho ba chết đi để mình không phải bị đánh đến nỗi phải vào bệnh viện.” Hay có những đứa con mang cả ước mơ một lần được cha bảo bọc, chở che đi vào giấc ngủ.

Không phải đứa con nào cũng được cha cầm tay dắt qua một chặng đường đời. (Hình minh họa: Getty Images)

Chính vì thế, trong Ngày Lễ Cha, nếu có ai đó náo nức, hướng lòng về người đã góp phần cho mình hình hài, vóc dáng thì cũng có những đứa con không biết phải diễn tả tình cảm đối với người mình vẫn gọi là cha như thế nào, bởi vì “nó trống rỗng và lạt lẽo, vô hồn.”

Như một trong những người được phỏng vấn bộc bạch, “Không ai muốn nói những điều không tốt về cha mẹ mình,” nhưng nói ra được những ẩn ức, những gút mắc cứ nằm bấy lâu trong lòng âu cũng là một cách để người tâm sự có dịp nhìn lại chính mình, và đâu đó, những người cha, có thể nghe được nỗi lòng của con mình, nhất là trong hôm nay, Ngày Từ Phụ.

Hùm dữ không ăn thịt con, nhưng ba tôi từng cầm dao đòi giết tôi’

“Không biết có phải do từ nhỏ đã phải chứng kiến quá nhiều chuyện không vui xảy ra xung quanh mình hay không mà gương mặt tôi không có vui, không có cười. Phải chăng vì điều này mà ba ghét tôi?” Henry Ngô, người đàn ông độc thân gần 40 tuổi, mở đầu câu chuyện.

Theo lời Henry, người hiện sống tại thành phố Santa Ana cùng cha mẹ, khi anh chưa tròn 1 tuổi thì ba anh đã “bị bắt đi học tập cải tạo.” Sau 6 năm tá túc nơi quê ngoại, ngày ba Henry ra tù cũng là ngày gia đình anh dọn lên Sài Gòn ở cùng bên nội.

“Tôi không hiểu vì sao ngày đó ba tôi thường mua quà bánh cho con của cô chú tôi, trong khi anh em tôi thì không có. Ngày đó còn nhỏ nhưng tôi đã hiểu được một điều gì đó đau khổ, hờn tủi trong lòng. Thành ra những khi ba cho mấy đứa kia đồ ăn thì anh em tôi bỏ đi chỗ khác, hay có khi dư ra, ba cho tôi thì tôi cầm rồi mang quăng đi.” Henry tâm sự.

Không chỉ vậy, cuộc sống chung đụng trong một ngôi nhà đông người, sự va chạm giữa những đứa trẻ dẫn đến sự xung đột của những người lớn, những tiếng cãi vả, “chửi lộn, đánh nhau” vô tình khắc sâu thêm trong tâm trí của một đứa trẻ như Henry một nỗi buồn dai dẳng.

Lúc dọn ra thuê nhà ở riêng, cuộc sống của gia đình anh dường như cũng không có tiếng cười. Henry cho rằng, “Tôi thật sự không biết do sự bức bối về kinh tế hay bởi tính gia trưởng, độc đoán, chỉ biết bản thân của ba tôi mà cuộc sống trong nhà tôi ngột ngạt lắm.”

Không biết cha Henry có còn nhớ hay không, nhưng với Henry, sự cau có, vẻ khó chịu của ba anh khi thấy anh quá ốm yếu không thể phụ bưng bê những thùng nước ngọt, những két bia trong công việc mua bán của gia đình, mãi là một nỗi gì đó hằn sâu trong anh.

Không biết cha Henry có còn nhớ hay không, khi anh dùng tiền ăn sáng chắt chiu dành dụm mang đi mua những tấm hình diễn viên Hồng Kong về sưu tầm – một thú vui của nhiều đứa trẻ lúc bấy giờ – lại bị ba anh nghi ngờ, chửi mắng vì “ba nghĩ tôi ăn cắp tiền của ba đi mua”, đã như một vết sẹo tinh thần đến giờ vẫn chưa lành trong Henry.

Nhưng có lẽ không thể nào phai nhạt được trong ký ức của người đàn ông này là lần “Ba tôi cầm dao muốn giết tôi, năm đó tôi 16, 17 tuổi gì đó. Tôi không nhớ mình đã làm gì, chỉ nhớ hình ảnh ba cầm dao và thoáng trong đầu tôi là chữ ‘chạy’. Mẹ tôi giữ ba tôi lại cho tôi chạy trốn.”

“Tôi cũng nhớ ngày đó mẹ tôi làm ăn thua lỗ, bị người ta giựt nợ mà không dám cho ba hay, cứ mượn đầu này đầu kia để trả. Đến khi chị tôi trúng số, được số tiền khá lớn, mẹ tôi đã lấy một phần tiền đó đi trả nợ. Ba tôi biết được, ông điên tiết lên đi tìm mẹ tôi để giết. Mẹ trốn khắp nơi không dám về nhà. Vài ngày sau, vô tình tôi nhìn thấy mẹ nằm trốn ngay dưới giường của tôi.” Henry lắc đầu, cố xua đi những hình ảnh đen tối ngày nào.

Henry cười một cách mỉa mai khi nhớ lại, “Ngày gia đình đi xuất cảnh, tôi mang theo rất nhiều hình diễn viên Hồng Kong và tạp chí điện ảnh, ba tôi nói hành lý nhiều quá, tôi phải đưa cho ba tôi một số tiền thì ông mới đồng ý cho tôi mang chúng theo.”

Henry cho rằng hiện tại anh không ghét ba anh, cũng không giận, không hờn, mà chỉ là một sự trống rỗng, hiếm nói chuyện với nhau, dù vẫn sống chung nhà.

“Nếu hỏi tôi có thương ba tôi không. Tôi không có câu trả lời. Tôi chỉ kể chị nghe chuyện này. Vừa mới đây thôi, khi chở ba vào bệnh viện thăm mẹ, tôi hỏi ba, ‘Lúc chị hai bệnh nặng, nếu không có tiền thì ba làm sao?’ Ba tôi không trả lời. Tôi kể cho ba nghe hồi đó mẹ đã phải chạy mượn tiền để cứu chữa cho chị hai thì ngay lập tức ba tôi nói ‘Mượn tiền vậy rồi lấy đâu mà trả!’ Tôi chưng hửng, rồi nói ‘Ba nghĩ sao nói tụi con cũng làm y như vậy khi ba bệnh nặng?’ Ba tôi làm thinh.” Henry kể trong sự ngao ngán.

Trả lời câu hỏi của người phỏng vấn, “Sau này có con, anh sẽ đối với con anh như thế nào?”, Henry chậm rãi trả lời, “Người ta nói mình bị gì không tốt lúc tuổi thơ thì sẽ hành hạ con mình như vậy. Tôi thì nghĩ khác. Tôi muốn làm cho cuộc sống của con tôi phải tốt hơn những gì tôi đã trải qua.”

Được vui đùa cùng cha là ước mơ đi vào giấc ngủ của nhiều đứa trẻ trên thế giới này. (Hình minh họa: Getty Images)

Hồi nhỏ thì ghét, lớn lên thì giận vì ba cố chấp quá!

“Em nhớ hôm đó là sinh nhật lần thứ 12 của em. Em đã ngồi chờ từ sáng đến tối khuya mà vẫn không thấy ba gọi điện thoại về, trong khi mọi năm trước ba vẫn làm. Sau này thì em biết, thời gian đó ba từ Mỹ về Việt Nam cưới vợ khác.” Hạnh Lưu, hiện sống tại Riverside, nhớ lại thời khắc mà cô bắt đầu cảm thấy ghét ba của mình.

Ba Hạnh khai “độc thân” để đi xuất cảnh cùng ông bà nội khi Hạnh được 3 tuổi. Từ ngày đó, cô sống ở Sài Gòn cùng mẹ, chỉ chuyện trò với ba qua điện thoại, thư từ.

Giữa năm 2008, theo lời khuyên của mẹ “hãy đi để có một tương lai tốt đẹp hơn”, Hạnh một mình sang Mỹ với sự bảo lãnh của ba, trong khi mẹ cô vẫn ở lại Sài Gòn.

Những tưởng nỗi hờn ghét trẻ con ngày nào sẽ tan biến khi được sống bên cạnh cha ruột của mình, nhưng ai ngờ những xung đột trong vấn đề cách nghĩ, lối sống, kiểu hành xử đã đẩy hai cha con Hạnh ngày càng đi xa nhau hơn, đến mức không còn nói chuyện với nhau nữa.

Hạnh kể, “Sang Mỹ sống cùng ba và dì được 4 tháng là em không thể nào chịu đựng thêm được nữa. Ba không cho em giao tiếp với bạn bè ở trường, không cho xài điện thoại, internet thì phải thật hạn chế.”

Theo lời kể Hạnh vì không thể chịu được sự gò bó trong cách sống như vậy, cô xin ba cô cho dọn qua tiểu bang khác ở với gia đình bạn của mẹ cô, người nhận cô làm con đỡ đầu để “tự do, thoải mái hơn.” Ba cô đồng ý.

Thế nhưng ngày Hạnh xách hành lý chuẩn bị ra phi trường thì “ba lấy passport, khóa cửa và chửi mẹ em bằng những lời nặng nề lắm, cho rằng mẹ xúi biểu em. Chưa hết, ba còn đẩy em xuống cầu thang như muốn giết chết em vậy đó. May là em kịp vịn lại. Em không nghĩ là ba em vô tình, vì cho đến bây giờ, ba vẫn chưa bao giờ tỏ ra hối hận về việc đó.”

Chưa hết, cảm xúc “ghét ba” trở nên nhiều hơn là khi cha mẹ nuôi Hạnh chờ nơi phi trường để đón cô nhưng không thấy cô đâu. Điện thoại ba cô không nghe, họ bèn phải gọi cảnh sát giúp đỡ. Cảnh sát đến nhà trong lúc hai cha con hãy còn đang giằng co. Do có thể bị qui vào tội giam giữ người trái phép nên theo yêu cầu của cảnh sát, ba Hạnh phải đồng ý cho cô ra khỏi nhà vì Hạnh đã trên 19 tuổi.

Tuy nhiên, “Trước khi đi, ba em bắt phải mở hết vali ra cho ba xét, nói sợ em lấy đồ của ba. Ngày em mới đến, ba có cho em một số tiền và cái headphone. Hôm đó ba bắt phải trả lại hết, ngay cả mấy đồng tiền xu ba cũng lấy lại cho bằng hết rồi mới để em đi.” Hạnh kể.

Cũng từ đó, Hạnh không nhận được bất cứ lời hỏi thăm nào từ ba của mình. Không chỉ vậy, “Sinh nhật các con sau của ba, em mua quà gửi cho tụi nó nhưng ba gửi trả lại tất cả.”

Hạnh tâm sự, “Dù ba chưa một lần gọi thăm em, nhưng năm 2011 em có trở lại thăm ba, mời ba đi ăn trưa.”

Thế nhưng, theo lời người con gái này thì “Ba em đã nói thẳng với em rằng ba không cần em nữa, coi như không có em trong đời, ngoại trừ khi em phải xin lỗi ba, nhận là em sai. Nhưng mà em có làm gì sai đâu. Trước khi đi em có xin phép ba mà.”

Kể từ ngày đó, Hạnh và ba mình không còn có thêm một cuộc nói chuyện nào nữa. Và để diễn tả cảm xúc hiện tại của mình về ba, Hạnh cho rằng “Em giận.”

“Em giận gì ba cố chấp quá. Ai đúng ai sai đâu phải là điều quan trọng nhất. Tình cảm cha con mới quan trọng chứ. Ba không liên lạc với em mà em vẫn về thăm, vậy mà ba vẫn đối xử với em như vậy.” Hạnh trách.

“Theo em, điều gì có thể hàn gắn tình cảm giữa em và ba em?” Tôi hỏi.

Hạnh đáp, “Chỉ cần ba suy nghĩ thoáng hơn, không cố chấp nữa.”

“Vậy em có nghĩ một lúc nào đó sẽ gọi cho ba em không?” – “Em có gọi hỏi thăm dì, nhưng với ba thì không. Em có lòng tự trọng của mình. Em đã về thăm ba, nhưng ba xua em đi, em mà gọi nữa chắc ba nghĩ em xin tiền hay muốn gì nữa thì mệt.” Hạnh dứt khoát.

“Thế nếu ba gọi cho em thì em làm gì?” Tôi nêu giả thuyết.

“Ba gọi thì em nghe. Nhưng mà ngày đó chắc không đến đâu.” Hạnh lắc đầu.

Thương yêu, thông cảm, biết lắng nghe là điều nhiều người không tìm thấy được ở cha mình. (Hình minh họa: Getty Images)

Giận ba vì ba hay đánh đòn

Không đến nỗi căng thẳng hay lạt lẽo như hai trường hợp trên, nhưng những trận đòn ngày thơ bé đã làm nên lằn ranh khiến Tom Nguyễn không thể nào gần ba của mình được.

Tự nhận xét về tình cảm của cha con mình, Tom chia sẻ, “Nói rằng ghét ba thì không đúng hẳn. Giận thì đúng hơn, tại vì ba hay đánh tôi, dùng vũ lực để răn đe tôi từ nhỏ cho đến tận năm tôi học lớp 11.”

Lý do để bị đòn là gì? “Khi ba đi nhậu về, nghe mẹ méc thì ba đánh, làm bài tập sai cũng bị đánh, viết chữ xấu cũng bị đánh, em tôi làm sai thì tôi cũng bị lôi ra đánh luôn.”

Đánh như thế nào? “Bộp tay, đánh vào đầu. Đánh từ nhà ngoại sang nhà nội, chửi nặng lời trước mặt dòng họ, bạn bè, không cần nể nang gì hết, đó là cách ba tôi hay làm với tôi.”

Tom cười nhớ lại, ‘Khi tôi còn ở Việt Nam, ông nội từ Mỹ viết thư về cho tôi lúc nào cũng bắt đầu câu ‘Ba còn đánh con không?’”

Theo lời Tom, năm anh 3 tuổi, một lần ba anh đánh mặt anh sưng cả lên phải vào bệnh viện.

“Chuyện tưởng nhỏ vậy thôi nhưng ảnh hưởng đến tâm lý rồi có khoảng cách với ba hồi nào không hay. Đến giờ ba hình như cố gắng muốn gần các con nhưng sao tôi cứ cảm thấy ngượng ngượng. Thực sự thì hỏng có biết cảm giác là ghét hay giận hay thương ba nữa.” Tom giải thích.

Vì bị đòn quá nhiều như vậy, nên “có lần tôi nghĩ dại là cầu ba chết quắc cho rồi để không còn ai đánh đập mình nữa.”

Tuy nhiên, những trận đòn của Tom đã dừng lại khi Tom học lớp 11. “Khi đó tôi tỏ thái độ giận ba, mấy ngày liền tôi không ăn cơm với ba, ba la tôi cũng không ăn. Mà hình như lúc đó ba cũng nhận ra là tôi đã lớn, không đánh nữa nhưng chửi nặng thì vẫn còn đến giờ.”

Tom từng mơ ước được ba dẫn đi chơi, như cách nhiều ông bố vẫn làm trong các bộ phim mà Tom được xem vì “từ trước đến giờ chưa một lần nào ba dẫn tôi cũng như cả nhà đi chơi. Có đi là tôi chỉ đi ké bên nhà nội ngoại thôi.” Rồi lại mơ ước được bố thương bằng cách không đánh chửi nữa.

Dù vậy, với Tom, “Ba tôi là người có trách nhiệm với gia đình nhỏ và gia đình nội ngoại, nhưng rất ư là sĩ diện, không bao giờ cho mình là sai. Tôi nghĩ là tôi có thương ba tôi, nhưng không gần được.”

Từ hình ảnh người cha của mình, Tom suy ngẫm, “Tôi nghĩ cha mẹ dạy con thì cũng có thể đánh con nhưng quá đáng lắm mới đánh và phải đánh vào mông. Nhưng đánh là thể hiện sự bất lực của mình đối với con.”

Liên lạc tác giả: Ngoclan@Nguoi-viet.com

 

Sự bất lực của con người và niềm tin vào Thiên Chúa

Sự bất lực của con người và niềm tin vào Thiên Chúa

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Dongten.net

buồn

Các bạn trẻ thân mến,

Vì một phút nông nỗi, Ađam và Eva đã đánh mất đi niềm hạnh phúc Địa Đàng. Ân huệ nguyên thủy đã không còn nữa. Họ đành phải sống hết kiếp con người trong đau khổ, mỏi mệt, cho đến khi trở về với tro bụi, nơi mà từ đó họ được dựng nên. Họ và con cháu đời sau phải đối diện với biết bao thăng trầm của cuộc sống mà không sao thoát ra được. Gia đình đổ vỡ, tương quan rạn nứt, phải làm nô lệ cho những hoàn cảnh và cảm xúc của mình.

Như một dấu chỉ mang tính định mệnh, ngày từ lúc sinh ra, con người đã chào đời bằng tiếng khóc, chứ không phải bằng tiếng cười hân hoan. Rồi sự sống cứ xoay vần theo nhịp: sinh ra, lớn lên, trưởng thành, già nua, rồi lại chết. Từ hư không, con người xuất hiện, rồi sau một khoảng thời gian ngắn ngủi được hít bầu không khí dưới bầu trời, con người lại trở về với hư không, như thể chưa bao giờ tồn tại. Trong suốt khoảng thời gian ngắn ngủi tại thế ấy, hạnh phúc và niềm vui chỉ như mây bay, còn bao khổ đau và lo lắng cứ chất chồng như núi. Kiếp con người, một kiếp sống âm u, tăm tối. Con người sinh ra rồi chết đi, để lại điều gì trên trần gian, có chẳng cũng chỉ là những dấu vết của một thời nặng gánh mỏi mệt, đau xót. Có lẽ vì cảm nhận như thế nên nhiều người đã ví cái chết như một sự “an nghỉ”, một cuộc giải thoát, một giấc ngủ bình yên sau ngày dài bương chải những truân chuyên.

Có mấy ai trong chúng ta hoàn toàn thoát khỏi những vướng bận của bụi trần? Lúc nào trên vai ta cũng là những gánh trách nhiệm nặng nề. Ta lo có miếng cơm manh áo để tồn tại, rồi đến lo cho cha mẹ, cho gia đình, người thân. Xuân về, hạ qua, thu đi, đông đến, bốn mùa luân phiên thay đổi. Ta chờ hoài đến giây phút được an nhàn thong dong, nhưng chẳng bao giờ thấy. Lúc nào ta cũng có cảm giác như mình đang ở tha hương. Tận cõi lòng, ta khao khát tìm về một chỗ nghỉ ngơi, để tựa đầu, để thanh thản. Ta cứ mãi tìm hoài hết điều này đến điều kia để khỏa lấp tâm hồn mình, nhưng sao ta cứ luôn thấy thiếu. Khoảng trống trong tâm hồn vẫn cứ còn đó, gắn chặt với đời ta như bóng với hình. Ta muốn vươn dậy, muốn bay lên nhưng thân phận nhân sinh cứ kéo ghì ta xuống.

Ta buộc phải đối diện với những người ta không ưa, phải làm những điều ta không thích, trong khi người ta yêu mến cứ luôn mãi xa ta, chuyện ta muốn làm vẫn xa tầm tay với. Những tương quan làm ta hạnh phúc thì chẳng kéo dài được bao lâu, trong khi người làm mệt mỏi thì hằng hà sa số. Ta mang trên mình một thân xác diệu kỳ, nhưng cũng mong manh yếu ớt. Gió trở trời là đã cảm thấy có gì bất ổn. Những mầm mống bệnh tật như kẻ trộm chực chờ ta. Tâm trí ta được kết cấu hết sức tinh vi, nhưng chỉ cần một cú va chạm nhỏ, ta có nguy cơ trở thành một sinh vật vô tri không hơn không kém. Những mong ước của ta, có khi là rất chính đáng, bao lần được cuộc sống này thỏa mãn? Ngày với đêm vần vũ xoay, ánh dương lên rồi vầng nguyệt xuống. Tất cả vẽ lên một bức tranh bất định của lịch sử.

Nhìn ra xã hội, ta cũng thấy bóng dáng sự xấu hoành hành. Chuyện mua bằng mua cấp. Chuyện quay cóp để được điểm cao. Chuyện hối lộ để được trắng án. Chuyện có quyền thì chà đạp công lý. Chuyện có tiền thì đánh đổi cả lương tri. Nhiều khi ta cũng muốn làm cái gì đó để xây dựng cuộc đời, nhưng những nỗ lực của ta cứ như hạt cát nơi sa mạc mênh mông, như giọt sương sánh với đại dương rộng lớn. Chẳng mấy người còn tin vào tình thương, chẳng mấy ai còn tin vào tha thứ. Con người giải quyết những xung đột của nhau bằng súng đạn, bằng bạo tàn, chứ không cùng nắm tay nhau để gắn lại vết thương rạn nứt. Trước sự dữ đang hoành hành giữa thế gian, ta cảm thấy mình bất lực hoàn toàn. Phận ta, ta còn lo chưa xong, huống hồ gì chuyện thay đổi cả thế giới.

h5

Thế nhưng, tuy sức mạnh của sự dữ lớn thật đấy, ta cũng không hoàn toàn bị mất hút. Giữa hàng vạn cây cổ thụ ngã xuống, vẫn có tỷ tỷ hạt giống âm thầm nảy sinh. Nhìn bề ngoài, ta cảm giác có vẻ như sự dữ đang thắng thế, nhưng thực chất, Thiên Chúa vẫn âm thầm hoạt động. Đích thực là tự sức chúng ta, chúng ta không thể làm được gì. Nhưng với sức mạnh của Thiên Chúa, ta hoàn toàn có quyền hy vọng vào một tương lai tươi sáng. Dưới vực sâu của kiếp tro bụi, ta hãy ngước mắt nhìn về phía trời cao, kêu nài bằng tiếng than van ai oán nhất của cõi lòng, đánh thức dậy nơi Thiên Chúa lòng trắc ẩn của Ngài. Ta tin rằng Ngài sẽ hạ giới đến cứu chúng ta. Ta hoàn toàn có quyền dám mơ đến chuyện ơn trời sẽ xuống và làm bừng dậy nơi chốn bùn lầy đen tối và hôi tanh của thế gian những cánh sen tươi đẹp và thơm ngát.

Đức Giêsu đã từng ví rằng Nước Trời giống như hạt cải nhỏ xíu, nhưng khi lớn lên, nó trở thành một loại cây lớn đến độ chim trời có thể đến ẩn náu. Hay Nước Trời giống như chút men vùi vào đấu bột và làm cho cả khối bột dậy men. Thiên Chúa đã không thi triển quyền năng của mình một cách ồn ào và khủng khiếp như sự dữ vẫn làm hay như người ta vẫn tưởng. Ngài đã làm đảo lộn tất cả những giá trị và logic của con người. Thiên Chúa đã làm cho những người nghèo trở nên giàu có. Ngài chọn những con người thấp bé để truyền giảng Phúc Âm. Ngài đã chọn những tội nhân để khiến họ trở thành những vị thánh. Ngài đã thực hiện một công trình tạo dựng mới từ chính cây thập giá trên đỉnh đồi cao. Sức mạnh của Thiên Chúa vẫn hoạt động không ngừng, âm thầm và liên lỉ. Nơi đâu tưởng chừng bế tắc, Ngài khai mở lối đi. Nơi đâu chỉ toàn bóng tối, Ngài cho lóe sáng ánh hào quang chỉ đường. Sự dữ tuy ồn ào và tưởng chừng thắng thế, nhưng chưa bao giờ có thể đánh gục được những điều tốt đẹp mà Thiên Chúa đã khởi sự nơi trần thế này.

Chúng ta hãy cứ tin vào Chúa dù có vẻ như chẳng còn gì để tin. Chúng ta hãy cứ bám vào Chúa dù có lúc ta chẳng thấy Chúa ở chỗ nào. Bất cứ khi nào con diều còn dính vào sợi dây, nó tha hồ tung tăng trong gió mà không sợ bị cuốn đi. Bất cứ khi nào con thuyền được neo bến, nó vẫn cứ yên vị dù những luồng chảy của dòng sông có tấn công nó dồn dập ra sao. Chúa là chỗ dựa của đời ta, là nơi duy nhất ta có thể tìm được nơi trú ẩn an toàn. Hướng về Ngài và cố gắng cảm nghiệm được những gì Ngài làm trên cuộc đời ta, dù phong ba của kiếp con người có lớn mấy đi chăng nữa, ta cũng cảm thấy được bình yên và an vui trong cuộc sống. Các bạn có tin điều đó không?

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

 

Nguồn gốc “Ngày của bố”

Nguồn gốc “Ngày của bố”

Hôm nay là “Father’s Day” rồi, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về lịch sử của ngày lễ đặc biệt này nhé các bạn!

Chúng mình đã quen với ngày lễ của Mẹ, ngày quốc tế phụ nữ (08/03), ngày phụ nữ Việt Nam (20/10),… vậy còn những ngày lễ cho “đấng mày râu” thì sao nhỉ? Những ngày lễ để tôn vinh “phái mạnh” không nhiều bằng “phái đẹp”. Thế nên, “Ngày của Bố” thực sự là dịp để vinh danh những cống hiến của “giới XY” cho sự hoàn thiện của cuộc sống chúng ta.

Tuổi đời non trẻ nhưng “Ngày của Bố” là ngày lễ tôn vinh một nửa dân số thế giới. Đây là dịp để các bà mẹ, con cái thể hiện sự quan tâm, chia sẻ về người chồng, người bố của mình rõ ràng nhất.

“Ngày lễ của Bố” được tổ chức lần đầu tại nước Mỹ vào năm 1972. Kể từ đó tới nay nó gần như đều được diễn ra ở hầu hết các nước vào ngày chủ nhật thứ ba của tháng 06 hàng năm.

Lịch sử

Thực tế, “Ngày của Bố” đã được diễn ra đầu tiên ở Fairmont , Tây Virginia vào ngày 05/07/1908. Nó được tổ chức bởi bà Grace Golden Clayton, người muốn kỷ niệm cuộc sống của 210 người đàn ông (họ đều đang làm bố) đã bị hy sinh trong thảm họa khai thác mỏ Monongah vài tháng trước đó tại Tây Virginia. Clayton đã chọn ngày chủ nhật gần nhất, ngày sinh nhật người bố của bà vừa mới qua đời để tổ chức buổi lễ. Thật không may, ngày lễ đó đã bị lu mờ bởi các sự kiện khác trong thành phố. Tiểu bang Tây Virginia cũng không chính thức đăng ký cho buổi lễ, từ đó nó không được tổ chức trở lại.

Sau sự kiện ở Tây Virginia 2 năm, cô Sonora Louise Smart Dodd, sống tại Shokane, Washington, nghĩ ngay đến một ngày để vinh danh các người bố khi nghe bài thuyết giáo ngày của mẹ năm 1909. Sonora là con gái lớn nhất trong sáu chị em. Bố cô là ông William Jackson Smart, còn mẹ cô qua đời trong lúc sinh. Sonora yêu quý và kính trọng bố vì đã một thân nuôi gia đình.

Năm 1910, Sonora đã chọn ngày 19 tháng 6 là “Ngày của Bố” vì ngày đó là sinh nhật của bố cô. Với sự giúp đỡ từ Hội Bộ trưởng Spokane và YMCA (Young Men’s Christian Association — Hiệp hội thanh niên Thiên chúa giáo), “Ngày của Bố” đầu tiên được tổ chức vào ngày 19 tháng 6 năm 1910.

Lễ kỷ niệm

Năm 1966, Tổng thống B. Johnson (Mỹ) đã đưa ra lời loan báo đầu tiên tôn vinh bố, ông chỉ định chủ nhật thứ ba trong tháng sáu là “Ngày của Bố”. Sáu năm sau, ngày kỷ niệm ý nghĩa này đã được thực hiện một cách trang trọng như một kỳ nghỉ lễ thường xuyên hàng năm tại Mỹ khi Tổng thống Nixon đã ký nó thành luật vào năm 1972.

Từ đó, “Ngày lễ của Bố” dần dần được phổ biến rộng rãi và được tổ chức khắp thế giới, đặc biệt là tại châu Mỹ và châu Á. Tuy nhiên, ở một số nơi thời điểm tổ chức và hình thức lại không đồng nhất, nó mang những nét đặc trưng riêng của từng quốc gia và sự sáng tạo đặc trưng trong các buổi lễ.

Mỹ

Đây là quốc gia tổ chức “Father’s Day” rộn ràng nhất thế giới. Một ngày được nghỉ lao động, trẻ em được ra đường vui chơi như ngày quốc tế thiếu nhi. Báo đài, các quan chức chính quyền luôn đề cập về ngày lễ đặc biệt này. Đồng thời rất nhiều quà cáp, thư từ và điện thoại được chuyển đi để bày tỏ sự quan tâm về người bố trong ngày lễ. Ở Mỹ, ngày lễ của bố được tổ chức vào ngày chủ nhật thứ ba của tháng 06 hàng năm.

Việt Nam

“Ngày lễ của Bố” mới được du nhập vào Việt Nam những năm gần đây. Hiện nay, giống như một số nước, Việt Nam kỷ niệm ngày lễ của bố vào ngày chủ nhật thứ ba của tháng sáu hàng năm (năm nay là ngày 15/06/2014).

Tại nước ta, đây không phải là ngày được nghỉ lễ, tuy nhiên vẫn có những sự thăm hỏi, quan tâm bằng thư từ, điện tín được truyền đi rất nhiều trong ngày này. Đa số ngày lễ chỉ được tổ chức với các buổi sum họp gia đình, bạn bè, người thân.

Đức

Tại đất nước châu Âu này, “Ngày của Bố” được tổ chức trùng với ngày lễ Thăng Thiên. Lễ được kỷ niệm vào ngày thứ năm gần nhất sau 40 ngày kể từ ngày lễ Phục Sinh.

Ở Đức “Ngày của Bố” còn được gọi là “Lễ quý ông”. Đây là một lễ hội liên bang và là dịp để mọi người thực hiện các chuyến du lịch thiên nhiên (đa số là đàn ông).

Thái Lan: tổ chức “Ngày của Bố” vào ngày sinh nhật của vua Bhumibol, đó là ngày 05/12.

Hàn Quốc: lễ được tổ chức vào ngày 08/05 ngày “Lễ của Bố – Mẹ”.

Rất nhiều thời gian và hình thức tổ chức khác nhau diễn ra để kỷ niệm “Ngày của Bố”. Nhưng mục đích chung cuối cùng là thể hiện sự biết ơn về những cống hiến của người bố trong gia đình.

Bố ơi, con nhớ Bố .

Cháu gái từ Mỹ gởi chúc mừng ngày Người Cha . Không rõ các nước có mừng Cha khác nhau không,  nhưng Cha chỉ có 1 và luôn là người ít được nhớ hơn bà Mẹ dịu dàng, gần gũi con cái.

Tôi cũng gần Mẹ hơn Cha , nhưng trong kí ức của tôi người Cha quá cố vẫn nguyên vẹn hình bóng nhân hậu, lặng lẽ thương yêu gia đình, con cháu, anh em và những người bên dưới của ông, kể cả khi ông rầy rà con cháu ngỗ nghịch  . Ông ít nói , ít tranh cãi , ít ra lệnh, mà chỉ sống bằng hành động theo đạo lý của tôn giáo và  thế hệ ông, cho gia đình và cuộc sống quanh ông. Công bằng, bác ái  và chân thực là điều ông đã dậy tôi qua những ngụ ngôn của La Fontaine và giáo lý của chúng tôi .

Là con út nhỏ hơn người anh kế gần 10 tuổi , tôi được ông ” chiều” hơn anh chị một chút . Ông ăn 1 lóng mía tôi cũng được ngồi bên, tôi lại chỉ thích khúc “đầu mặt” khi ông cắt thêm vào khúc ” mía thịt ” dài hơn cho tôi, Mẹ tôi không chịu được mùi thịt trâu bò, thịt chó, bơ sữa , anh chị tôi theo mẹ , mâm hai Bố con ăn riêng khi có những món đó đã giúp tôi thành ” Vô Kị” khi ra đời . Lúc 3 chị em còn sống với Bố Mẹ  chưa ai lập gia đình ,  ví tiền của ông chỉ mình tôi dám lục khi thèm quà vặt do Mẹ không hề cho tiêu tiền . Ông lĩnh lương là đưa hết cho Mẹ,  Mẹ thường “lục” ví ông kiểm soát để ” châm” thêm tiền cho ông ăn sáng , tôi lục để tìm tiền lẻ . Có lần tôi thèm kem quá mà trong ví ông chỉ có tờ bạc 50 chục tôi liều lĩnh một cách ngu ngốc lấy tờ 50 chục này định chiều về trả lại tiền dư , hôm đó ông ăn phở Tầu Bay mở ví không còn tiền phải để ông tài xế của sở  trả , chiều về ông âm thầm hỏi tôi khi tôi đưa ra 1 nắm tiền đúng…49 đồng. Ông  kéo tôi ra 1 góc để tránh Mẹ và từ đó tôi được nghe nhiều lần chuyện ngụ ngôn ” Au Loup” , con chó sói của cậu bé đùa dối hô hoán giả tạo và lần sau cậu đã chết vì chó sói thật do không ai đến cứu . Là người Bắc trong nhà không có chuyện con trai ở trần mặc quần đùi, tối đi ngủ dù trời nóng cũng phải mặc pyjama hay quần ta dài, áo may ô , ông không bao giờ la rầy tôi khi phá luật mà chỉ ” dũa” ông anh không chăm dậy  em. Sáng sớm thức dậy ông bắt mỗi anh em vào toilet ngồi 15 phút , anh em  tôi thoát khỏi di truyền bệnh táo bón khủng khiếp của Mẹ chính nhờ “cữ ” mặc niệm bắt buộc mỗi sáng này của ông .

Ông còn cả kho ca dao, cách ngôn cho mọi trường hợp để dậy tôi . Hay sang nhà bạn thì ” Năng mưa thì tốt lúa đường – Năng qua lại   lắm xem thường nhau đi ” , quần áo luộm thuộm thì ” Y phục xứng kì đức ..” . Duy có một điều  ông không hề dậy tôi bằng lời nhưng từ hành vi của ông, có lần ông đưa cả tháng lương cho người thuộc cấp than thở vợ con đau bệnh không có tiền lo , lâu quá  Mẹ hỏi lương thì ông mới rì rầm nói” Nhà nó nghèo quá , đưa cả rồi !!” , khi làm ở Báo Văn Nghệ Tiền Phong đám kí giả văn nghệ sĩ  thưòng nắm áo ông vay tiền trước , ông ” vay” từ túi Mẹ đưa họ rồi chịu im lặng nghe bà cằn nhằn. Sống như thế nhưng ông không uống thứ nước nào ngoài nước đun sôi , không trà, rượu, cà phê, tất nhiên không thuốc lá và đàn đúm bạn bè , chỉ có công việc, nhà thờ  và gia đình , thỉnh thoảng gia đình tụ họp em cháu  cuối tuần mở canh Bài Chắn giải trí ông chơi rất dở , có khi còn bị Mẹ tôi  cấm vận , tôi hay lấy nê con út lăn vào cầm bài cho Bố để bà thôi cằn nhằn .

Các cháu con chị tôi ở Thủ Đức thường nhắc chuyện sau 75 ông đã gần 80 mà vẫn đạp xe từ Tân Bình lên ra vườn dọn dẹp cây cối , hỏi han vài điều, uống li nước lạnh rồi lại đạp xe về lo cho đám cháu nội ở Saigon, lúc đó cả hai anh em tôi đều còn cải tạo. Thời gian trước  khi ông mất năm 2005 , ông đã hơi lẫn và chướng, nằm bệnh viện bác sĩ muốn vô nước biển ông nhất định là ” Nó định đầu độc tôi cho thuốc giả  “, các cháu phải gọi tôi về thủ thỉ giải thích, ông lại cười nói ” Bố phải cảnh cáo trước ” rồi đưa tay cho vô thuốc. Những năm cuối đời của Cha Mẹ,  tôi  thật may phước được gần bên để cùng con cháu chăm lo cho hai vị , được các cụ thường đòi có mặt khi nhập viện hay tưởng là trăn trối lần cuối . Cha tôi đã mê man ít ngày trước khi mất , người không trăn trối điều gì cho con cháu được ngoài ” thương hiệu ” di sản của một con người  hiền hòa, nhân hậu, bình dị . Mất nhiều năm tôi mới hiểu lí do mình gần Mẹ hơn ông , bà trò chuyện với tôi nhiều hơn ông , dậy dỗ con cái  nghiêm khắc hơn ông , cũng làm nhiều quyết định và gánh vác đời sống gia đình, gia tộc nhiều hơn ông . Sự sắc sảo, khôn ngoan rất chính đáng của bà chi phối không chỉ gia đình mà còn toàn gia tộc và mỗi giai đọan quan trọng trong đời tôi  ,khi ở xa đau yếu, khó khăn thì chính bà là người chủ trì bàn tính hay đích thân lo liệu, các con, cháu tôi, anh chị tôi , cháu ông bà cũng một tay bà lo liệu .

Ông chỉ gần tôi khi tôi đã rất trưởng thành , gần 10 năm cuối đời ông thì hầu như tôi là điểm tựa , sự an tâm, vui thú  của  ông , là người bạn trẻ duy nhất của ông khi kiên nhẫn giải thích những điều ông hỏi, khi đưa ông đi đây đó  vẫn để ông thỏa thích nghiền ngẫm, quan sát , hỏi han về những điều mới lạ quanh ông, suốt đời ông không khi nào nắm giữ, đòi hỏi  tiền bạc, tài sản nhưng gần cuối đời ông thường nói tôi đưa tiền , chỉ những số tiền rất nhỏ , khi ” Để Bố hớt tóc “, khi ” Để bỏ nhà thờ hay cho kẻ khó ” , kể cả khi ông đã lẫn thường đến một tiệm thuốc Tây quen gần nhà tự định bệnh, tự kê toa đòi lấy thuốc và nói :  ” Cháu T. sẽ trả tiền ” . Anh dược sĩ quen đồng ý với tôi cứ đưa ông 1 liều thuốc bổ vô thưởng vô phạt cho ông vui.

​ Vâng, đó là cha tôi , người con cả thừa kế của một gia đình ​địa chủ giầu ruộng đất, được đi học trường Tây trên tỉnh, ” Cậu Cả ” đã có  xe đạp từ thời trước Thế Chiến thứ Hai , về làng cũng ngấm nghé các cô xinh đẹp, nhưng suốt đời ông từ khi cưới Mẹ tôi ông bà không rời nhau được một ngày mà không bồn chồn, bà chỉ đi thăm bà con vài tiếng ông đã bắt cháu đi tìm , khi ông mất bà đã lẫn , khi tỉnh khi mê nhưng khi tỉnh biết ông đã mất bà đã gào khóc làm chúng tôi đau đớn bội phần ” Ông ơi , sao ông không gắng sống thêm cho tôi hầu hạ ông . Các con ơi, các con mồ côi Bố rồi !!!”

Xin chúc mừng các người Cha là anh, là bạn, là con cháu tôi, nhân viên của tôi hôm nay . Xin những bạn còn Cha hãy tận hưởng tình cha con thân thiết và lòng thảo hiếu dành cho người lúc tuổi gìa bóng xế .

Bố ơi, con nhớ Bố .

Chúa Nhật 15/6/2014 Saigon

Lâm Mạnh Di và Tình tự của một người cha, người ông

Lâm Mạnh Di và Tình tự của một người cha, người ông

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2014-06-14

VHNT06142014.mp3

Freddy-Lam2-305.jpg

Bé Freddy Lâm Gia Nghi.

Photo courtesy of Lâm Mạnh Di

Trong dịp Father’s day năm nay, Mặc Lâm xin giới thiệu bài viết cảm động của tác giả Lâm Mạnh Di về người con trai cũng như đứa cháu nội hai dòng máu mà ông rất thương yêu. Tình tự của một người cha, người ông trong hoàn cảnh đặc biệt của lịch sử Việt Nam có lẽ khiến những cung bậc tình cảm tăng theo với dòng chảy một thời buồn bã của rất nhiều gia đình. Tác giả Lâm Mạnh Di đã gửi gấm niềm xúc động của ông qua hai bài viết Tình phụ tử và Tháng 4, Những giòng chữ cho Freddy Lâm Gia Nghi.

Lâm Mạnh Di: Tôi có tất cả là 4 người con trai, và cháu Thi, đứa mà tôi đề cập trong bài viết Tình phụ tử ra đời trong một hoàn cảnh thật đặc biệt. Cháu ra đời trong một trại tỵ nạn mà lúc đó tôi còn ở lại Vũng Tàu có lẽ vì lý do đó mà tôi có một tình cảm thật đặc biệt với cháu. Nhưng tôi nghĩ trong hoàn cảnh đất nước của chúng ta thì không ít các cháu đã ra đời trong hoàn cảnh nghiệt ngã như vậy.

Tình phụ tử – Lâm Mạnh Di

Vũng Tàu khoảng 16h chiều…

Trời còn rất nóng, rất khó chịu. Một căn phòng nhỏ trên đường Nguyễn An Ninh gần ngã tư giếng nước. Phòng chứa toàn sách vở ngổn ngang, bàn ghế chẳng có gì xa xỉ. Một ông già có lẽ chưa đến 60 cặm cụi sắp sếp lại các cuốn sách cho ngăn nắp. Ông mỉm cười khi cầm cuốn Album hình ảnh gia đình ông trên tay, cứ đến mỗi trang ông xem lại lẩm nhẩm vài tiếng, chen lẫn với tiếng thở dài…

Có tiếng gõ cửa thật lớn, ông già hơi ngạc nhiên vì ông rất ít bạn bè đến thăm ông. Bạn bè thân thiết của ông hiện đang ở khắp nơi trên thế giới, nếu có về Việt Nam thăm ông đều báo trước cho ông biết…

Ông ra mở cửa và ngạc nhiên đến nghẹn ngào: “Trời ơi, con đấy à”… T. ôm bố, nước mắt dàn dụa, bằng giọng nói tiếng Việt không thành thạo…”bố ơi, con về thăm bố đây…!”

Ngày Father’s day tôi chỉ biết cầu nguyện ơn trên hãy thương xót cho dân tộc Việt Nam, thương xót cho những cháu bé trong hoàn cảnh nghiệt ngã.
-Lâm Mạnh Di

T. tên thật là Lâm Gia Thi, và ông bố chính là người đang ngồi viết những dòng chữ này…

Thi và bố gặp nhau đã nhiều lần, nhưng chưa lần nào ở Việt Nam và bất thình lình như lần này. Thi nhân cơ hội đi họp ở vùng Đông Nam Á về thăm bố và mang về cho bố đủ loại thuốc.

Bố dẫn Thi đi xem Vũng Tàu, đi mua sắm ở chợ Năm Tầng… Nét mặt Thi rạng rỡ, không còn căng thẳng như qua buổi họp, lúc nào đi bên bố cũng nhè nhẹ đấm lưng cho bố.

Thi ơi, trong những đứa con của bố, có lẽ bố thương Thi nhất. Vì ngày Thi chào đời không có sự hiện diện của bố, con chào đời trong 1 trại tỵ nạn.

Tôi dẫn Thi ra biển, những cơn sóng vỗ về, tiếng sóng và gió biển dạt dào làm tôi nhớ 1 ngày nào đó năm 1980. Tôi chỉ cho Thi nơi mẹ cùng anh Huy xuông thuyền đi vượt biên. Lúc đó Thi còn là 1 thai nhi trong bụng mẹ … Cuộc đời là tử biệt sinh ly, có ai ngờ sau 25 năm Thi lại trở về đây và đang đứng lặng lẽ bên tôi.

Thi nhìn xa xăm ra khơi, nơi có những ánh đèn chớp tắt của người đi đánh cá đêm. Tôi bắt gặp những giọt nước mắt chảy trên má Thi mà thương con vô cùng.

Hai bố con ngồi với nhau trên bãi biển, chẳng để ý đến thời gian qua mau… Có lẽ buổi tối hôm đó là ngày sinh nhật đẹp nhất đời tôi, chỉ có 2 bố con ngồi cô đơn nghe sóng biển, nghe đời mình như những cơn mơ…

Năm giờ sáng tài xế đến Vũng Tàu để đón Thi trở lại Sài Gòn, Thi có kể cho tôi biết về dự án mà Thi có trách nhiệm. Và Thi đã quyết định làm việc tại Việt Nam 1 thời gian. Lý do duy nhất cho quyết định này là chỉ để được gần bố.

Thương con quá …!

Lâm Mạnh Di: Hôm nay các con tôi đã trưởng thành và tôi cũng hạnh phúc được thành ông nội của ba đứa cháu thật ngoan và hiền. Có cháu mang hai dòng máu Việt và Mỹ. Đương nhiên về tuổi già khi nhìn thấy con cháu như vậy thì tôi cũng rất hạnh phúc và có đôi chút nào đó tự hào…

Tháng 4 – Những giòng chữ cho Freddy Lâm Gia Nghi

064_IS09AH48I-250.jpg

Hình minh họa. AFP PHOTO.

Hơn 30 năm về trước, bà Nội con lũ lượt theo giòng người bỏ xứ ra đi, mang theo bố con trong bụng, một thai nhi vừa đươc vài tháng, và bác Huy của con lúc đó vừa tròn 7 tuổi.

Lần đầu tiên trong đời ông mới biết thế nào là đau khổ của sự chia ly. Có lẽ dùng chữ đau đớn mới đúng. Ví ai biết được có còn ngày tao ngộ?

Và ông cũng chẳng ngờ, trong đời ông lại có 1 đứa cháu nội mang 2 giòng máu, đứa cháu nội thật xinh, có cặp mắt to với hàng lông mi cong vút. Mỗi lần con theo cha mẹ con về thăm ông, dẫn con ra đường chẳng ai biết là 2 ông cháu, ai cũng khen con hiền và đẹp, cứ ngỡ ông là người giúp việc cho 1 gia đình người ngoại quốc nào đó.

Trong cuộc sống khép kín cô đơn của ông, dường như ông chỉ vui được vài tuần ngắn ngủi khi bố mẹ con dẫn con về thăm ông. Về lần cuối thì con cứ huyên thuyên nói với ông bằng tiếng Tây Ban Nha, thay vì tiếng Mỹ như thường lệ, làm ông chẳng hiểu cứ ôm cháu vào lòng mà cười. Cái nghề nghiệp cứ bắt bố con vài năm là lại phải đi đến 1 nước khác làm việc kể cũng tốt cho con.

Thời gian hạnh phúc nhất trong đời ông, có lẽ đó là lúc bố con về Việt Nam làm việc, lúc đó con vừa thôi bú mẹ. Ông chăm sóc con cẩn thận lắm, cứ cầm quạt phe phẩy cho con suốt ngày vì sợ có con muỗi nào nó chích vào da thịt non nớt của con. Ba năm trời được sống bên con, bên cha mẹ con, là những giờ phút ông luôn có nụ cười, làm ông quên được những tháng năm sống trong hẩm hiu đau khổ. Và ông cũng chẳng ngờ, càng lớn con càng quấn quít ông hơn bố mẹ con, lúc nào hai ông cháu mình cũng cứ quanh quẩn bên nhau.

Ba năm trời qua nhanh như 1 giấc mơ, rồi ông phải ngậm ngùi chia tay những người mình thương yêu nhất đời. Hôm đưa gia đình con trở lại Mỹ, đó là một ngày mưa tầm tã. Mẹ con dù là người phương Tây cũng rơi lệ, tim ông quặn đau khi con cứ nắm chặt tay ông không chịu rời. Phi trường Tân Sơn Nhất hôm đó sao mà ảm đạm… rồi bóng dáng 3 người thân yêu cứ xa dần, xa dần… Ông còn nghe tiếng con gào khóc sau bức tường cách ly của phi trường.

Thế là hai ông cháu mình xa nhau thật rồi, nước mắt ông dàn dụa… và ông ngã quỵ trong tay hai người bạn cùng đi theo. Về lại nhà, ôi sao mà trống vắng, tiếng cười nói của con còn loáng thoáng đâu đây. Ông nằm liệt giường cả tuần, chẳng màng đến cơm nước…

Tôi nghĩ trong hoàn cảnh đất nước của chúng ta thì không ít các cháu đã ra đời trong hoàn cảnh nghiệt ngã như vậy.
-Lâm Mạnh Di

Bây giờ con đã 8 tuổi, một học sinh thông minh và hiền hậu. Con có đôi mắt thật buồn của bà Nội, có chuyện vui buồn gì cũng gọi điện thoại cho ông. Bố con biết ông thích bài Bên Cầu Biên Giới nên nhờ thầy dạy nhạc dạy cho con đàn bài này… nghe tiếng đàn piano của con qua điện thoại, ông cũng hát nhỏ theo “Bên cầu biên giới… Tôi lặng nghe dòng đời từ từ trôi… Sông nước xa xôi… mây núi khắp nơi… Không tỏ một đôi lời…”

Freddy, ông biết con thương ông lắm. Cả bố mẹ con nữa, mọi người đều muốn ông rời Việt Nam để theo gia đình. Khi nào con đủ lớn khôn có lẽ con sẽ hiểu vì sao ông không muốn bỏ Sài Gòn mà ra đi. Chính phủ này là 1 Chính phủ tàn bạo trong các Chính phủ tàn bạo trên thế giới, họ đã làm gia đình mình và hàng triệu gia đình tan nát. Nhưng ông vẫn chọn cuộc sống ở đây chỉ vì ông thương yêu bao nhiêu là kỷ niệm. Sài Gòn là quê hương của ông, nơi đây ông gặp bà Nội và đó là lần đầu tiên ông biết yêu. Những con đường, những hè phố, những buổi trưa nắng oi ả, những người bạn thân thương, những quán cóc bên đường… là tất cả những gì ông còn giữ lại cho đời mình.

Ông không biết mình sẽ làm gì trong 1 không gian xa lạ, nếu ông rời Việt Nam. Rồi khi cha mẹ con đi làm bận rộn, con phải đi học, có lẽ ông sẽ co ro 1 mình trong phòng…

Cháu ngoan, con ráng học hành cho giỏi nhé. Và nhớ mỗi năm theo bố mẹ về thăm ông vài tuần, như vậy là ông vui lắm rồi. Ông sẽ cố gắng đi học tiếng Tây Ban Nha, để về kỳ tới có thể chuyện trò với con, hay ít ra ông có thể dịch lá thư này để mai mốt con đọc.

Ông viết lá thư này vào những ngày tháng 4, thời gian này cũng là thời điểm của những bọn lố nhố lăng nhăng đang sửa soạn ăn mừng chiến thắng trên hàng triệu xác người. Ông chẳng màng đến họ, những con diều hâu đang rỉa thây dân tộc Việt Nam, vì ông bây giờ chỉ sống với hình ảnh con cháu, vui khi con cháu điện thoại về thăm ông. Đó là những sức mạnh của yêu thương, vực ông dậy để sống trong những ngày cô quạnh.

Lâm Mạnh Di: Tôi đọc báo và được biết các thế hệ con cháu người Việt tỵ nạn được lớn lên và học hành ở nước ngoài đa số là đã thành công trong cuộc sống và có những cháu làm rạng rỡ cho quê hương của chúng ta.

Ít nhiều gì khi nói đến đây tôi lại thấy thương các cháu sinh ra trong những gia đình nghèo khó tại Việt Nam. Những hình ảnh các cháu lam lũ đến trường với quần áo rách rưới có lẽ ai trong chúng ta khi nhìn những hình ảnh đó sẽ thấy trong lòng quặn đau. Có những cháu tuổi vừa lên 10, 11 gì đó đã phải vất vả làm những công việc thật nặng nhọc để giúp đỡ cho gia đình các cháu.

Trong ý nghĩa của ngày Father’s day tôi chỉ biết cầu nguyện ơn trên hãy thương xót cho dân tộc Việt Nam, thương xót cho những cháu bé trong hoàn cảnh nghiệt ngã. Có cháu phải lội sông lội suối đến trường, hãy thương hãy độ trì cho các cháu có được bữa ăn no áo quần tươm tất và được học hành đến nơi đến chốn…

 

ĐÊM TỪ PHỤ VINH DANH CÁC NGƯỜI CHA

ĐÊM TỪ PHỤ VINH DANH CÁC NGƯỜI CHA

Xúc động đầy ấn tượng

Hà Tường Vy

Như thường lệ, tôi là người vẫn đều đặn tham dự các Đêm Gia Đình từ những lần tổ chức đầu tiên tại Trung Tâm Công Giáo Việt Nam, Giáo Phận Orange do Gia Đình Nazareth tổ chức.

Đối với tôi, Đêm Gia Đình là một sinh hoạt rất giá trị và ích lợi cho những ai đang sống trong đời sống hôn nhân, gia đình, cũng như cho những ai đang phải đối diện với những khó khăn đến từ nhiều mặt, từ tâm lý, tâm sinh lý, giáo dục, xã hội, luật pháp, cũng như những vấn đề liên quan đến việc thực hành niềm tin tôn giáo. Điểm son của Gia Đình Nazareth là ở chỗ vẫn trung thành tổ chức các Đêm Gia Đình và đã không ngừng tìm kiếm những đề tài, cải tiến những hình thức sinh hoạt, nhờ đó thu hút số người tham dự ngày càng đông đảo.

Đêm Gia Đình, do đó, là một sinh hoạt nhằm đưa Gia Đình Nazareth đi vào dòng chính của sinh hoạt xã hội, của sinh hoạt tôn giáo. Với Đêm Gia Đình, Gia Đình Nazareth đã thực hành đúng phương châm sinh hoạt của mình: “Gia Đình Nazareth đồng hành với các gia đình”.

Đôi dòng lịch sử của Đêm Gia Đình:

Đêm Gia Đình là một sinh hoạt mang tầm mức Cộng Đồng và mở rộng cho mọi thành phần tham dự. Đêm Gia Đình đầu tiên được tổ chức vào chiều ngày 5 tháng 9 năm 2012 dưới sự chủ tọa, và giảng thuyết của Đức Cha Mai Thanh Lương. Kể từ đó đến nay, liên tiếp hàng tháng vẫn có những Đêm Gia Đình. Sinh hoạt này vì thế đã trở thành nét đặc thù của Gia Đình Nazareth.

Được tổ chức vào mỗi tối thứ Sáu, tuần thứ 2 trong tháng từ 7giờ đến 9giờ tối tại Trung Tâm Công Giáo Việt Nam, Giáo Phận Orange, Đêm Gia Đình đã thu hút nhiều thành phần trong cộng đồng Công Giáo cũng như những thính giả đến từ các tôn giáo bạn, hoặc từ các nơi xa. Điểm đặc biệt của Đêm Gia Đình là sự phối hợp nhịp nhàng giữa phần tâm linh và phần sinh hoạt đời thường.

a) Sinh hoạt tâm linh:

Bao gồm những đề tài về giáo lý, Giáo Hội, và Thánh Kinh nhằm giúp cho mọi người hiểu rõ hơn về mục đích, giá trị, và ý nghĩa của sinh hoạt tâm linh trong ứng dụng thực tế vào đời sống ơn gọi hôn nhân, gia đình. Đức Cha Mai Thanh Lương, Cha Giám Đốc Nguyễn Thái, các Cha Cựu Giám Đốc Trung Tâm Công Giáo như cha Nguyễn Uy Sỹ và cha Mai Khải Hoàn, cha Phạm Ngọc Hùng, Viện Phụ Phạm Sỹ Hanh, Đan Viện Xitô, cha Trần Đình Thụy, Giáo Sư đại chủng viện Thánh Qui, Cần Thơ, cha Vũ Thế Toàn Dòng Tên, Cha Timothy Nguyễn, Cha Trịnh Ngọc Danh, linh hướng Gia Đình Nazareth, phó tế Hoàng Thanh Sơn, phụ tá linh hướng Gia Đình Nazareth và nhiều linh mục tên tuổi, phó tế đã đến với các Đêm Gia Đình qua những chủ đề khác nhau.

b) Sinh hoạt đời thường:

Bao gồm những chủ đề về tâm lý giáo dục, tâm lý tuổi trẻ, tâm lý hôn nhân, tâm lý gia đình, tâm lý cao niên, tâm lý xã hội, luật lệ xã hội, và những vấn nạn liên quan đến gia đình, bạo hành gia đình… Các chủ đề này được trình bày do các nhà tâm lý, luật sư, bác sĩ, và những chuyên gia giầu kinh nghiệm như Bác sĩ Trung Chỉnh, Tiến  Sĩ Phạm Kim Long, Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt, Tiến Sĩ Tâm Lý Phan Nguyễn Kim, Tiến Sĩ Tâm Lý Lê Văn Ẩn, Tiến Sĩ Giáo Dục Phạm Thị Huê, Luật Sư Nguyễn Quốc Lân, Luật Sư Phòng Biện Lý của Quận Cam (District Attorney of Orange County) chuyên lo về bạo hành trong gia đình, Đại diện văn phòng Cảnh Sát của Quận Cam chuyên lo về ngăn ngừa rượu, ma túy, Anh chị Nguyễn Văn Nhuệ-Thu Nhi, và Ông Kenny Phan, Giám Đốc của PNA Insurance…

Đêm Từ Phụ vinh danh người cha:

Không như những Đêm Gia Đình khác trong đó trình bày những chủ đề về đạo hiếu, về tình thương vợ chồng, về những ưu tư của cha mẹ đối với con cái, Đêm Gia Đình lần này được gọi là “Đêm Từ Phụ. Đêm Vinh Danh Các Người Cha”. Những gì xảy ra trong đêm nay đã gây xúc động cho mọi người tham dự, không những đối với những người cha mà cả những người mẹ, người con nữa.

Phần tâm linh của đêm hôn nay đã được bắt đầu bằng thánh lễ tạ ơn do linh mục Christ Phạm Quốc Tuấn chủ tế và giảng thuyết qua đề tài “Gia Đình là Cộng Đoàn Cầu Nguyện, Cộng Đoàn Yêu Thương”. Là một linh mục trẻ, hoạt bát, rất hăng say trong các sinh hoạt mục vụ tông đồ. Cha từng là linh hướng của Chương Trình TTHN, và hiện giờ là linh hướng của Phong Trào Canh Tân Đặc Sủng. Một trong những điểm khiến tôi tâm đắc và suy nghĩ nhất là câu nói của Thánh Augustine đã được linh mục giảng thuyết nhắc lại trong bài giảng của mình: “Gia đình cầu nguyện chung, gia đình ăn cơm chung với nhau là gia đình sống cho nhau”. Một tư tưởng nói lên đầy đủ ý nghĩa thế nào “Gia đình là cộng đoàn cầu nguyện, cộng đoàn yêu thương”, nhưng có lẽ đây cũng là một thách đố lớn lao đối với nhiều gia đình trong nếp sống hiện tại do thiếu ý thức trách nhiệm của các phần tử, và cũng do vì quá chú trọng vào những thu hút của cuộc sống trước mắt.

Phần sinh hoạt đời thường hôm nay mới thật sự gây ấn tượng hết sức đặc biệt đối với mọi người tham dự qua nghi thức “rửa chân cha” do các em đã tình nguyện rửa chân cho cha mình.

Nghi thức bắt đầu sau khi các người cha đã ngồi vào những chiếc ghế danh dự được chỉ định sẵn. Trước mặt họ là các con tuổi từ 8, 9, 10 đến 25, 29. Có em đã là những kỹ sư, chuyên viên computer, sinh viên y khoa, hoặc sinh viên các đại học, trai cũng như gái tất cả đều quì gốc rửa và lau chân cho cha mình. Nhiều gia đình cả mấy anh chị em cùng tham dự với nhau. Lúc đầu mọi người xem như bỡ ngỡ và coi đây như một hành động vui đùa, tượng trưng, nhưng khi thấy các em làm công việc này với tất cả tấm lòng biết ơn cha mình, thì cả hội trường đều thổn thức, đặc biệt, đối với những ai không còn cha. Và nhiều người đã thấy những giọt nước mắt lăn trên những gò má xám nắng vì công việc của một vài người cha. Việc này càng khiến tôi cảm động hơn khi nhớ lại câu chuyện của hai mẹ con đã trao đổi hôm trước Đêm Gia Đình như sau:

-Mẹ ơi, con nghĩ con không cần mua quà cho ba trong ngày Father’s Day nữa.

-Vậy con định làm cái gì cho ba. Hay là con mời ba đi ăn tối?

-Không. Con không nói trước được, chỉ cần mẹ nhớ nhắc ba và cả mẹ nữa đi dự Đêm Gia Đình tối mai là được. Tối mai con sẽ cho ba và mẹ xem quà gì con tặng cho ba.

-Con định tham dự nghi thức “Rửa Chân Cho Ba”?

-Mẹ đừng đoán nữa, sợ lộ chuyện, tối mai sẽ biết.

-Mẹ không đoán nữa, nhưng mà con trai của mẹ ngoan quá, mẹ không ngờ con lại biết tỏ lòng kính yêu cha mẹ như vậy. Mẹ biết thế nào ba con cũng sẽ cảm động lắm.

-Con sẽ làm một cử chỉ đẹp cho ba con, vì từ hồi nào tới giờ con ít khi nghĩ đến việc phải đền đáp công ơn của ba con. Nhưng cũng từ hôm nay, ngay bây giờ con muốn mẹ khi nào khen con, mẹ cũng thêm ba trong đó nữa, thí dụ như “Con trai của Ba Mẹ …tử tế, dễ thương, giỏi giang quá ”, tại vì con nghĩ rằng nếu không có Ba thì cũng không có con.

Gia Đình Nazareth đã đi tiên phong trong việc tuyên dương công đức người cha bằng việc làm rửa chân này. Nếu bên Đại Hàn, người ta đã xúc động nghẹn ngào khi chứng kiến hàng trăm các em qùi trước mặt mẹ, rửa chân, và cúi đầu lạy mẹ các em trong một chương trình vinh danh hiền mẫu nhân ngày của mẹ, thì ở đây, cũng trong một hội trường đông đảo, nhiều người đã rưng rưng dòng lệ khi thấy hàng chục em quì trước mặt cha mình, rửa và lau chân cho cha mình trong một nghi thức vinh danh cha nhân ngày từ phụ.

Qua việc làm rửa chân này, Gia Đình Nazareth đã đem mọi người tham dự trở về với nguồn gốc gia đình và tinh thần hiếu thảo, khi hướng dẫn các em “rửa chân” cho cha mình như một món quà đặc biệt tặng cha nhân ngày Từ Phụ. Đây không phải là nghi thức rửa chân của tôn giáo, nhưng qua hình thức rửa chân này cũng đã nhắc nhở cho các con nhớ đến công ơn của cha mình. Nhờ những bàn chân bụi bậm, bầm dập, trầy trụa của cha mà các con mới có của ăn, áo mặc, mới có tương lai tươi sáng. Nhờ những bàn tay sạm nắng, chai cứng của cha mà cả gia đình được bảo toàn và sống những ngày bình an không thiếu thốn. Nhờ những cặp mắt nghiêm nghị của cha mà các con mới hiểu thế nào là kỷ luật. Nhờ những vất vả, mồ hôi nhễ nhãi của cha mà con mới hiểu thế nào là bổn phận, là trách nhiệm. Nhiều em đã khóc ròng, thổn thức khi nâng niu những bàn chân mà các em có lẽ chưa bao giờ cảm thấy hoặc sờ được cái chai cứng, sần xùi, và xấu xí của cha mình. Có lẽ chính những giây phút ấy, các em mới nhận ra món quà quí giá mà Thượng Đế đã ban tặng cho các em là người cha, mặc dù bề ngoài những món quà ấy có được gói ghém và mang những hình hài không như các em nghĩ.

Ca dao Việt Nam có câu:

Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.

Nhưng có lẽ khi nói về tình mẹ, nghĩa cha, đa số chỉ nhắc đến công ơn sinh thành của mẹ, nhưng lại quên đi công đức dưỡng dục của người cha. Sinh thành và dưỡng dục phải đi đôi với nhau, sự hòa nhịp và gắn bó này không thể thiếu cho sự phát triển đồng đều và cần thiết của người con. Người con mỗi khi nhớ đến chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm của mẹ, cũng phải nghĩ đến sự dưỡng dục ân cần, những giọt mồ hôi và cả nước mắt của người cha trong khi lo lắng bảo toàn sự an nguy của gia đình, của con cái.

Xin thắp nén hương lòng dâng về người cha kính yêu. Người cha không còn trên cõi đời này để cùng đồng hành với con.

Đêm Gia Đình vinh danh những người cha.

13 tháng 6 năm 2014

Tường Vy