Đảng hãy mau thoát khỏi nghịch cảnh “hồn Trương Ba da Hàng thịt”!

Đảng hãy mau thoát khỏi nghịch cảnh “hồn Trương Ba da Hàng thịt”!

Mạc Văn Trang

Câu chuyện dân gian Hồn Trương Ba da Hàng thịt chỉ dài hơn một trang sách in và có mấy nhân vật rất giản dị, nhưng với tính nhạy cảm thời đại và tài năng siêu việt, Lưu Quang Vũ đã biến thành vở kịch tầm cỡ nhân loại.

Tình cảnh Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời tới nay, giữa lý luận và hành động cũng chẳng khác nào tình cảnh “Hồn Trương Ba da Hàng thịt”, hay “Hồn Các Mác, xác Bần nông”! Có điều khác là “hồn” của Trương Ba hay của Các Mác (Karl Marx) vào cái xác Đảng Cộng sản Việt Nam thì nó bị cái thân xác Bần nông làm lộn tùng phèo, bát nháo, chỉ còn là những khẩu hiểu, những ước muốn viển vông, huyễn hoặc; mà “hồn” ông Trương Ba hay “hồn” Các Mác thật cũng chẳng hiểu nổi cái mớ bòng bong trong đầu Đảng Cộng sản Việt Nam – thân xác Bần nông, nó là cái quỷ quái gì!

Ngay từ năm 1930 khi Đảng Cộng sản Việt Nam mới thành lập, chả biết cái “hồn” lý luận “Đấu tranh giai cấp” của ông Mác cao siêu thế nào mà vào cái “xác phàm” Đảng Cộng sản Việt Nam lại thành ra “Trí, Phú, Địa, Hào – đào tận gốc, trốc tận rễ”! Rồi đến cải cách ruộng đất “long trời lở đất” khiến hàng vạn người chết tức tưởi, vì cái mồm tố điêu, cái tay quen cướp của, giết người!

Khẩu hiệu “Người cày có ruộng”, ước mơ ngàn đời của người bần, cố nông vừa có, chưa kịp sướng, thì Đảng thu gom luôn ruộng đất vào hợp tác xã… cho trắng tay! Kết thúc hơn 20 năm cao trào hợp tác hóa nông nghiệp, thắng lợi của “Đấu tranh giữa hai con đường” là “Cái đêm hôm ấy đêm gì?” khủng khiếp. Hợp tác xã tan vỡ, Đảng phải “Đổi mới”, “cởi trói”, chia ruộng cho nông dân để khuyến khích nông nghiệp phát triển. Nhờ đó Việt Nam không còn phải “vác rá đi xin bo bo và ngô cho súc vật” về ăn, mà còn xuất khẩu gạo nhất nhì châu Á… Thế rồi đùng cái, Đảng lại “thu hồi đất”, cưỡng chế khắp nơi, để trao đất cho các “tư bản mới nổi” và nông dân “thi đua” khiếu kiện thấu trời!?…

Cái lý luận “Làm chủ tập thể”, “Sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa”, “Toàn dân bàn việc nước, sắp xếp lại giang sơn”… thành ra là nhập tỉnh, huyện, xã tùm lum, sau mươi năm tranh giành, đấu đá mệt nhoài, lại ăn mừng “Tái lập” tỉnh, huyện, xã “vũ như cẫn”! Nhưng cơ mà… nhập cũng vớ bẫm, tách càng bẫm hơn, nên “cái thân xác” khỏe re, càng hăng hái tư duy “lý luận mới”… “Làm chủ thiên nhiên” thì “về cơ bản đã chặt phá xong rừng”, bô-xit, than, vàng, ti-tan đến cát, đá… cũng bị các loại “tặc” đào bới tung tóe, tan hoang; hầu hết các dòng sông bị chặt khúc ra làm thủy điện vô tội vạ; hầu hết ao hồ, sông suối bị ô nhiễm, bị “bức tử”! “Làm chủ xã hội” thì cả xã hội như chợ trời, đầy “con phe”, kẻ cắp, ma cô… “Làm chủ bản thân” thì càng “phê, tự phê” thì “bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên” thành “bầy sâu” lúc nhúc càng nhiều thêm! “Chủ nghĩa tập thể” lại biến thành những phe nhóm lợi ích phá nát đất nước và kỷ cương xã hội, tạo nên lối sống cá nhân tham lam vị kỷ trắng trợn chưa từng thấy trên đất nước này.

Cái lý luận về “Bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa, tiến thẳng lên xây dựng chủ nghĩa xã hội – giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản – bằng tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng”… hóa ra lại là sau khi phá nát nền kinh tế – xã hội thì tái lập chế độ tư bản sơ khai ở Việt Nam; các quan chức cùng với những nhóm lợi ích của họ trở thành tầng lớp “tư bản đỏ”, còn nông dân, công nhân, ngư dân, diêm dân… là tầng lớp bị bóc lột tàn tệ. Nhóm người bị tha hóa, lưu manh hóa ngày càng gia tăng, hệt như F. Engels mô tả trong “Tình cảnh giai cấp công nhân Anh” (năm 1844).

Cái mồm leo lẻo “Học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, “Không có gì quý hơn độc lập tự do” thì kéo nhau đến Hội nghị Thành Đô (1990) xin làm đồ đệ cho đại ca Trung Cộng. Mồm nói “Đạo đức là gốc”, nhưng quan chức suy thoái đạo đức tuột dốc không phanh! Mồm nói “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư” nhưng quan chức đua nhau ăn cắp, ăn cướp, xây nhà lầu, sắm xe hơi, ăn chơi theo kiểu các ông hoàng, bà chúa… Của công bòn rút từ mồ hôi, nước mắt của dân thì chi tiêu như phá, thất thoát hàng trăm tỉ, nghìn tỉ, chẳng coi ra gì! Ông Cụ nói: “Quân đội trung với nước…” thì nó bẻ queo thành: “Quân đội trung với Đảng…” (?), “Công an nhân dân” thành “Công an chỉ biết còn Đảng còn mình”. Tòa án Nhân dân thì xử dân như kẻ thù, xử quan chức phạm tội như người trong nhà đóng cửa bảo nhau. “Đảng ta là đạo đức là văn minh…” thì “bộ phận không nhỏ” ngày càng to, biến thành “bầy sâu” lúc nhúc mê tín, dị đoan, dắt nhau “dò đá qua sông”, đi vào ngõ cụt! Cụ bảo “Chính phủ không làm được việc thì dân đuổi đi”, nhưng nó cứ trơ ỳ ra bảo “Đảng phân công”, “Đảng quy hoạch” nên không thể từ chức! Cụ bảo: “Dân chủ là cho dân mở miệng ra” thì nó còng tay, bịt miệng ai dám “mở miệng” phê phán những sai lầm, tội lỗi của nó! Cụ bảo “Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”, nó cứ làm ngược lại!… Thế mà quanh năm suốt tháng cứ phát động, chăng đầy pa-nô, khẩu hiệu rồi sơ kết, tổng kết, nêu gương… học tập, làm theo Hồ Chí Minh!

Mồm xoen xoét: “Phải phát triển nhanh và bền vững” mà làm đường giao thông đắt gấp 3-4 lần của Mỹ, vừa khánh thành đã lún sụt; đường ống dẫn nước từ sông Đà về Hà Nội hơn một năm vỡ 9 lần, khiến bao người dân khốn đốn trong mùa hè; các công trình “Nghìn năm Thăng Long” thì mới mấy năm đã sập sệ. Biết bao nhiêu công trình ào ạt xây kém chất lượng, tranh thủ rút ruột ăn chia, nay mai hư hỏng hàng loạt, con cháu tha hồ “phá đi làm lại” và trả nợ còng lưng!… Tâm lý nhiệm kỳ chộp giựt, “bóc ngắn cắn dài”, “cái gì cũng ăn”, “ăn không biết chán”, cốt “làm giàu cho con em nhóm ta, kệ cha con em chúng nó” phơi bày ra trên mọi lĩnh vực của đời sống, trước mắt bàn dân thiên hạ một cách trơ trẽn, sống sượng, lố bịch… Phát triển bền vững là những gì làm ngày hôm nay sẽ để lại cho muôn đời con cháu được hưởng phúc, hưởng lộc và không làm ảnh hưởng đến sự phát triển của các thế hệ mai sau. Thế mà môi trường bị hủy hoại, các công trình xuống cấp từng ngày, nợ chồng chất và “vấn đề chủ quyền đời ta không giải quyết được thì đời con, đời cháu, chắt ta tiếp tục giải quyết”!

Mồm lẻo lẻo ta khác tư bản ở chỗ “Nền kinh tế của ta là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của nhà nước”, nhưng chẳng ai chỉ ra “cái định hướng xã hội chủ nghĩa” nó tròn méo ra sao! Lại láu cá ở chỗ, cứ cái gì “suy thoái”, “tệ nạn”, “thoái hóa, biến chất”, tóm lại là tất cả cái gì xấu xa của chế độ là đổ tại “mặt trái của cơ chế thị trường” (?). Nhưng lạ hơn nữa là, đã biết cái “mặt trái” của nó đen đúa, bẩn thỉu như thế, mà các nhà lãnh đạo đến nước tư bản nào cũng khẩn khoản xin công nhận cho Việt Nam có cái “cơ chế thị trường đầy đủ”.

Lý luận “Ba dòng thác cách mạng của thời đại…” thì dòng thác chủ đạo “cách mạng xã hội chủ nghĩa” tan rã rồi. Mấy “nước anh em cùng ý thức hệ” thì Triều Tiên vừa cha truyền con nối kiểu vua chúa, vừa như Chí Phèo, thoát chết đói nhờ viện trợ lương thực, nhưng chỉ thích dọa đánh nhau; Cuba cũng đang “giành nhiều thắng lợi” bằng cách “cập nhật mô hình kinh tế” (rón rén theo kiểu tư bản) để xóa đói giảm nghèo; ông anh Trung Cộng xây dựng chủ nghĩa xã hội theo màu sắc Đại Hán bá quyền, ban cho Việt Nam “4 tốt” + “16 chữ vàng” để Đảng Cộng sản Việt Nam ngoan ngoãn thần phục, nhưng trước sự phẫn nộ của nhân dân, ông Thủ tướng phải nói “Quyết không đánh đổi chủ quyền thiêng liêng lấy cái thứ hữu nghị viển vông”… Thì ra suốt bao nhiêu năm nay toàn ra sức bảo vệ, gìn giữ trân trọng, ôm hôn cái thứ hữu nghị viển vông với Trung Cộng, còn thực tế lại là “sống trong vòng tay của bầy yêu quái”!

Cái nhãn “Đảng Cộng sản”, “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” là phấn đấu cho lý tưởng “Cộng sản chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới”, mà “mục tiêu của giai đoạn đầu là Chủ nghĩa xã hội” mới lãng mạn, mịt mùng làm sao! Còn trong thực tế thì dân bảo: “Chúng nó ăn như Rồng cuốn, nói như Rồng leo, làm như Mèo mửa!”. Trở lại với Đảng (của những người) lao động và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, rồi theo con đường dân chủ để sống cho tử tế, chân thật với nhân dân…

Tóm lại, hồn vía Đảng ta toàn mung lung huyễn hoặc, trong khi hành động thì theo kiểu Hành vi chủ nghĩa: Thấy Kích thích thì Phản ứng (S – R). Kích thích là “phong bì”, “chỉ thị” – phản ứng là ký đại, vơ đầy túi tham; là cưỡng chế, đàn áp không cần nghĩ đến hậu họa!

Chỉ có thoát ra khỏi nghịch cảnh “Hồn Trương Ba, da Hàng thịt”, “Hồn Các Mác, xác Bần nông” mới thoát được “ngôn – hành bất nhất”, mới trở thành người BÌNH THƯỜNG để có suy nghĩ đúng đắn và nhất quán với hành động. Không “phi thường, vĩ đại, vô địch, quang vinh, muôn năm nữa”! Chỉ mong nó BÌNH THƯỜNG thôi! BÌNH THƯỜNG mới hòa đồng được với nhân dân, mới không trở thành “đứa con hoang đàng” giữa lòng dân tộc!

Hà Nội, 30/7/2014

M. V. T.

HÃY CÓ LÒNG THƯƠNG XÓT

HÃY CÓ LÒNG THƯƠNG XÓT

Jos. Vinc. Ngọc Biển

Trên các trang mạng, khi vào google.com và đánh típ: “Vị Tổng thống nghèo nhất thế giới” chỉ trong 18 giây, chúng ta đã có ngay kết quả lên tới 1.210.000 chuyên mục liên quan đến vị tổng thống này. Ông là ai? Thưa ông là Mujica, Tổng thống Uruguay.

“Dinh thự” của Tổng thống Uruguay là ngôi nhà cũ nát nằm ở ngoại ô thủ đô Montevideo, Uruguay. Ông đã sống ở đó gần hết cuộc đời với người bạn thân thiết là 1 chú chó 3 chân. Tài sản giá trị nhất của vị tổng thống này là chiếc ô tô cũ kỹ có giá chưa đến 2 ngàn đô la Mỹ. Ông là vị Tổng thống không thích sống trong nhung lụa.

Tuy nhiên, Mujica được nhiều người trên thế giới ngưỡng mộ không hẳn vì ông sống giản dị và nghèo, nhưng vì đã dành 90% tiền lương của mình, cho công tác từ thiện.

Chúng ta không cần biết ông có theo đạo Công Giáo hay không! Nhưng chúng ta biết chắc rằng: “ông là người biết ‘thương xót’ người nghèo”.

Hôm nay, bài Tin Mừng cũng cho chúng ta thấy Đức Giêsu đã “thương xót” dân chúng. Ngài đã chữa lành bệnh tật và làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi họ. Qua đó, Đức Giêsu cũng mời gọi các môn đệ và cả chúng ta hãy tiếp bước trên con đường “thương xót” của Ngài, để làm toát lên vẻ đẹp của Thiên Chúa là Tình Yêu nơi hành động của chúng ta.

1. Đức Giêsu là Đấng “thương xót”

Trong suốt hành trình loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu luôn yêu thương, quan tâm đến con người, nhất là những người ốm đau, bệnh tật, những người thấp cổ bé họng và đói khát.

Khởi đi từ việc rời bỏ vinh quang Thiên Quốc để nhập thế và sinh ra trong cảnh nghèo, lớn lên trong sự thiếu thốn, hẳn Đức Giêsu hiểu rõ hơn ai hết nỗi bần cùng của con người. Vì thế, đã nhiều lần, Tin Mừng cho thấy: khi dân chúng đến với Ngài, mang theo những bệnh tật trên thân xác, Ngài đã “thương xót” và chữa lành họ.

Không chỉ chữa lành bệnh tật thể lý, Ngài còn đi xa hơn để chữa trị tâm hồn cho những ai đang hoang mang, bất hạnh và thất vọng.

Vẫn tình thương đó, hôm nay, khi thấy dân theo mình nghe giảng, và khi trời đã xế bóng, Đức Giêsu không nỡ để dân chúng bụng đói ra về, nên Ngài đã ra tay để làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi dân chúng.

Tuy nhiên, điều mà Đức Giêsu đã làm, đã nói và hành động, Ngài không muốn để các môn đệ ngoài cuộc, bởi vì mai đây chính các ông là những người sẽ thay Ngài để thi hành lòng “thương xót” của Thiên Chúa cho dân. Vì thế, khi được hỏi: “Ðây là nơi hoang địa, mà giờ đã chiều rồi, xin Thầy giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn”. Nhưng Chúa Giêsu nói với các ông rằng: “Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn”. Như thế, qua câu nói của Đức Giêsu, không phải vì vô lý, cũng chẳng phải Ngài thách thức các ông, nhưng:

Trước hết, Đức Giêsu muốn các ông hãy ra khỏi sự ích kỷ của bản thân, sự an phận của vật chất để biết chia sẻ với những ai bất hạnh, nghèo đói, vì: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ(Gaudium et Spes, số 1).

Thứ đến, Đức Giêsu muốn mặc khải cho các ông về sứ mạng của chính mình, Đấng đến “để cho chiên được sống và sống dồi dào” (x. Ga 10,10).

Cuối cùng, Đức Giêsu cũng dạy cho các ông bài học về sự tin tưởng, cậy trông vào quyền năng của Thiên Chúa. Vì: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng Người, Người sẽ ra tay” (Tv 37,5).

Còn chúng ta, những người tin và theo Đức Giêsu, hẳn mỗi người cũng được mời gọi để thi hành công việc mà chính Đức Giêsu đã làm và muốn các môn đệ thi hành khi xưa. Vậy chúng ta phải làm gì?

2. Sứ điệp Lời Chúa

Sứ điệp Lời Chúa hôn nay mời gọi mỗi chúng ta hãy vươn xa tầm nhìn để thấy được trong xã hội loài người gồm hơn 7 tỷ người, trong đó có hàng ngàn trẻ em mồ côi, bệnh tật, bị bóc lột sức lao động và buộc làm nô lệ cho tình dục…

Số người chết vì đói, vì thiếu thuốc chữa bệnh cũng lên cả triệu người trên năm. Hàng triệu người vô gia cư, thất nghiệp, mù chữ… Rồi những người mắc phải những căn bệnh thế kỷ, nạn buôn bán phụ nữ để làm gái bán dâm, buôn bán ma túy và tham nhũng cũng tăng lên từng ngày.

Tình trạng loạn luân, phi đạo đức nhan nhản trong xã hội hiện nay. Những chuyện như: cha giết con, con giết cha; vợ giết chồng và ngược lại. Nhiều nạn nhân chết oan uổng chỉ vì một cái nhìn bị cho là “nhìn đểu”, hay chỉ là một câu nói vô tình nào đó…

Như vậy, ngày nay, người ta “bội thực” đủ thứ… nhưng lại “đói khát” đời sống đạo đức và tâm linh hơn bao giờ hết.

Sự thật thà dường như vắng bóng trong học đường, và ngoài xã hội. Niềm tin tưởng lẫn nhau có lẽ quá xa vời đối với thương trường. Sự tương thân tương ái có lẽ không còn mấy ý nghĩa, mà thực ra chỉ là lợi dụng. Đạo đức gia đình, nghề nghiệp là thứ gì đó xa xỉ phẩm đối với giới trẻ, các ông chủ và ngay cả những người được coi là mang danh đạo đức… Tình trạng thờ ơ, vô cảm và ngăn cấm tôn giáo là điểm “hot”; “nhạy cảm” tại nhiều nơi.

Tất cả những hiện tượng đó, Đức Giêsu không ngừng mời gọi chúng ta phóng tầm nhìn để có một tấm lòng biết “thương xót”. Đồng thời, hãy ra khỏi sự yên thân để cùng nhau lên đường nhằm góp chút men, chút muối và trở thành ánh sáng để ướp đời và soi sáng thế gian.

3. Sống sứ điệp Lời Chúa

Thực ra, chúng ta không thể nào làm thay đổi nổi màu đen trên thế giới!!! Thế nhưng, ngay thời điểm hiện tại và nơi chúng ta sinh sống, không thiếu gì những con người tương tự.

Họ là những người đang đi lạc hướng trong niềm tin, lệch lạc trong lối sống, cách nhìn và suy nghĩ; những người sống trong tội; ham tiền, mê bạc và hám dục… sống dửng dưng, vô cảm với anh chị em đồng loại. Vì thế, không thiếu những Lazarô nghèo ngay bên cạnh người Phú hộ giàu có…

Những hình ảnh trên có thể là chính chúng ta. Nếu quả là vậy, thì chúng ta hãy hối cải và trở về với Chúa. Bằng không, đó là hình ảnh mà người anh chị em chúng ta đang mang trên mình, thì không phải ai, mà là chính chúng ta hãy bắt tay vào việc dù chỉ là một cái gì đó bé nhỏ như:

–         Một cái nhìn thân thiện, cảm thông;

–         Một ly nước cho người đỡ khát, một chén cơm cho khách qua đường;

–         Một hành động khước từ sự bất chính như cờ bạc, rượu chè, trai gái;

–         Một thái đội khẳng khái với sự bất công, tham nhũng;

–         Một lời cầu nguyện, hy sinh để xin Chúa “thương xót” và làm động lòng những người dư giả, để họ giúp cho những người đói khát, bần cùng, để kẻ giàu không no và người nghèo không đói.

Lạy Chúa, xin cho chúng con có được “con mắt của Chúa” để chúng con có cái “nhìn giống Chúa”. Xin cho chúng con “con tim của Chúa” để chúng con cũng biết “chạnh lòng thương” như Chúa. Amen.

Tác giả: Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

Tấm bánh liên đới

Tấm bánh liên đới

ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

Bài Tin Mừng hôm nay chứa đựng rất nhiều bài học. Như về Nước Trời, về Dân Thiên Chúa, về bí tích Thánh Thể. Nhưng có lẽ bài học thiết thực nhất cho chúng ta hôm nay là bài học liên đới. Đó cũng chính là bài học Chúa muốn dạy cho các môn đệ của Người.

Liên đới là biết cảm thương. Nhìn thấy đám đông, Chúa Giêsu chạnh lòng thương. Đó là một đám đông nghèo khổ, đói khát, bệnh tật, bơ vơ không người chăn dắt. Đám đông tội nghiệp đi tìm Chúa không phải chỉ để được ăn no, nhưng còn để được chữa lành bệnh, nhất là được an ủi, được dạy dỗ, được chỉ bảo. Khi chạnh lòng thương, Chúa Giêsu dạy ta hãy nhìn những người chung quanh bằng ánh mắt liên đới. Những người này đói vì tôi đã ăn quá nhiều. Những người kia rách vì tôi đã mê mải đuổi theo “mốt”. Những đứa trẻ này hư hỏng vì tôi đã thiếu quan tâm chỉ bảo. Những đứa trẻ kia rơi vào tội phạm vì tôi đã không làm gương tốt cho chúng. Thế giới này chưa tốt một phần có trách nhiệm của tôi. Thế giới này chưa công bằng trong đó phần lỗi của tôi.

Liên đới là nhận lấy trách nhiệm. Các môn đệ đã nhìn thấy đám đông đói khát. Các ngài muốn thoái thác, phủi tay: “nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn”. Đó là một giải pháp hợp lý. Lo cho năm ngàn người ăn là ngoài tầm tay của các môn đệ. Đó cũng là giải pháp nhẹ nhàng. Ai lo phần nấy. Thật dễ dàng. Nhưng đó là giải pháp không được Chúa chấp nhận, vì thiếu tình liên đới. Chúa muốn các môn đệ Chúa nhận lấy trách nhiệm: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy lo cho họ ăn”. Họ đói, các con phải lo cho họ ăn. Một trách nhiệm nặng nề vượt quá sức các môn đệ. Nhưng đã cảm thương thì phải có trách nhiệm. Trái tim cảm thương thật sự phải hướng dẫn bàn tay làm việc.

Liên đới là đóng góp phần của mình. Chúa không cần những phép tính vĩ mô. Năm ngàn người thì cần bao nhiêu bánh? Những tính toán lớn lao là không thực tế và làm ta lo sợ. Chúa dạy các môn đệ khởi đi từ thực tế: “Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá”. Thật là ít ỏi, nghèo nàn. Nhưng Chúa không chê cái ít ỏi nghèo nàn đó: “Đem lại đây cho Thầy”. Có ít hãy đóng góp ít. Nhưng quan trọng là phải bắt đầu, là phải góp phần của mình. Liên đới không đòi ta phải quán xuyến mọi sự, nhưng đòi ta thật sự có trách nhiệm, góp phần của mình vào việc chung.

Liên đới là chia sẻ. Chúa chúc tụng để làm phép bánh và cá như cho ta thấy, những đóng góp dù ít ỏi của ta đã thành thiêng liêng cao quí. Chúa không làm phép lạ tức khắc biến ngay cá và bánh ra một núi lương thực cho người tự do đến lấy. Chúa cũng không tự tay phân phát lương thực cho mọi người. Chúa trao bánh và cá cho các môn đệ. Các môn đệ trao cho mọi người. Và mọi người trao lại cho nhau. Đó là bài học lớn của phép lạ. Chính khi mọi người trao cho nhau, Chúa làm phép lạ. Bánh và cá cứ tiếp tục sinh sôi bao lâu những bàn tay còn trao nhau. Bánh và cá vẫn tiếp tục nhân lên bao lâu mắt con người vẫn còn nhìn nhau. Những tấm bánh của tình liên đới. Những đàn cá của sự chia sẻ. Chúng nhân lên theo nhịp của trái tim. Khi trái tim chan chứa yêu thương, quan tâm, liên đới, lương thực trở nên phong phú, dư thừa.

Thế mà các môn đệ đã vội lo. Cũng như ta thường lo thế giới này quá chật hẹp không đủ chỗ cho mọi người. Cũng như ta vẫn thường lo lương thực trên thế giới không đủ nuôi mọi người. Hôm nay Chúa dạy ta mỗi người hãy chia sẻ những gì mình có thì thế giới sẽ dư thừa lương thực. Khi trái tim mở ra thế giới sẽ có đủ chỗ cho mọi người.

Lạy Chúa xin mở trái tim con để con biết cảm thương và chia sẻ. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1.    Tục ngữ Việt nam có câu: Nhiều no ít đủ. Bạn nghĩ gì về nét văn hoá Việt nam trong câu này. Có gần với bài Tin Mừng hôm nay không?

2.    Càng cho đi càng phong phú. Bạn cảm nghiệm điều này bao giờ chưa?

3.    Ta có trách nhiệm với những người chung quanh. Những người nghèo chất vấn cách tiêu dùng của ta. Bạn có nghĩ thế không?

Một thuở học trò

Một thuở học trò

image

Chủ đề của bài viết này là những hồi ức học trò ngày xưa của một người bước vào tuổi 70. Thuở học trò này rất xa và rất khác với thời đại @ ngày nay, khi mà các tiện nghi vật chất phong phú hơn, phương tiện giải trí đa dạng hơn và quan niệm về giáo dục cũng khác hơn.

Những nét khác nhau là hậu quả của hoàn cảnh xã hội và chính trị, cụ thể hơn là chính sách giáo dục và chế độ chính trị qua nhiều thời kỳ, từ thời Pháp thuộc đến giai đoạn 30 năm chiến tranh tương tàn.

Thuở học trò của chúng tôi chỉ có một mục đích duy nhất là… học, nhưng đôi khi cũng pha lẫn những chuyện tình cảm theo kiểu mà người Mỹ gọi là “tình chó con” (puppy love). Ngày nay, ngoài việc học còn có những tác động, xấu cũng như tốt, từ Internet, phim ảnh, báo chí cho đến những ảnh hưởng của người lớn như các bậc phụ huynh trong gia đình và sự tác động của xã hội bên ngoài.

image

“Puppy Love”

Học trò ngày xưa là mảng đề tài được khai thác rất “kỹ” qua văn chương, âm nhạc, hội họa. Vào thập niên 70, bản nhạc “Ngày Xưa Hoàng Thị” [1] của Phạm Duy, phổ thơ Phạm Thiên Thư [2] trở thành nổi tiếng với một mối “tình học trò”. Bài hát dẫn người thưởng ngoạn đến chuyện một cô nữ sinh tên Hoàng Thị Ngọ lúc tan trường, ôm nghiêng cặp, đi trong một cơn mưa phùn và phía sau cô… lẽo đẽo một “cây si” di động:

image

“Em tan trường về, đường mưa nho nhỏ

Ôm nghiêng tập vở, tóc dài, tà áo vờn bay

Em đi dịu dàng, bờ vai em nhỏ

Chim non lề đường, nằm im dấu mỏ

Anh theo Ngọ về gót giầy lặng lẽ đường quê…”

Đó chưa phải là tình yêu theo đúng nghĩa. Chỉ là… “thích trộm, nhớ thầm” của một “cây si”. Và chỉ cần lẽo đẽo theo một tà áo dài trắng cũng đủ thỏa lòng, dù bước chân có “nặng nề”, dù trong lòng “nức nở” để hôm sau vào lớp sẽ còn “ngẩn ngơ”:

image

“Em tan trường về

Anh theo Ngọ về

Chân anh nặng nề

Lòng anh nức nở

Mai vào lớp học

Anh còn ngẩn ngơ, ngẩn ngơ…”

“Ngày Xưa Hoàng Thị” là một kết hợp tuyệt vời giữa thơ Phạm Thiên Thư và nhạc Phạm Duy nhưng lại có một đoạn kết buồn cho… “mối tình câm”. Ở đoạn kết đưa ra hai hình ảnh của “ngày xưa” và “ngày nay” với câu kết “Ai mang bụi đỏ đi rồi…” khiến tôi nghĩ ngay đến Ban Mê Thuột, thị trấn đã từng gắn bó từ tuổi học trò. Chả là BMT vẫn nổi tiếng là vùng đất đỏ bazan, nắng thì BMT (Bụi Mù Trời) còn mưa thì… bùn đỏ ngập bước chân:

image

“Xưa theo Ngọ về

Mái tóc Ngọ dài

Hôm nay đường này

Cây cao hàng gầy

Đi quanh tìm hoài

Ai mang bụi đỏ đi rồi…”

image

Học trò Đồng Khánh trên cầu Trường Tiền

Trong một cuộc phỏng vấn của Đỗ Văn với Phạm Duy, nhạc sĩ cho biết trong số những bài hát cho tuổi trẻ, ông thích nhất là bài “Tuổi Ngọc”…” bài hát này ông viết cho con gái mới lớn Thái Hiền khi bước chân vào trung học. “Tuổi Ngọc” viết theo nhịp điệu nhí nhảnh với những câu được lập đi lập lại “Xin cho em…”. Những thứ cô xin là một chiếc áo dài, một mớ tóc dài và một chiếc xe đạp [3].

Đó là tất cả hành trang của một cô gái khi bước vào trung học. Chiếc áo dài “thơm dáng tuổi thơ”, mớ tóc nồng “êm như nhung” và, cuối cùng:

“Xin cho em còn một xe đạp

Xe xinh xinh, để em đi học

Từng vòng, từng vòng xe

Là vòng đời nhỏ bé

Đạp bằng bàn chân gót đỏ hoe”

Chắc nhà gần trường nên những học trò như cô Ngọ của Phạm Thiên Thư mới cuốc bộ để “cây si” có dịp lẽo đẽo theo sau. Nếu nhà ở xa thì chắc phải đến trường bằng xe đạp. Hình ảnh nữ sinh trên chiếc xe đạp sẽ khó có thể nào quên trong kỷ niệm, nhất là đối với những người nay đã xa xứ, không còn cơ hội nhìn thấy cảnh này.

image

Hồi xưa nữ sinh còn đội nón lá đến trường, ít có những kiểu mũ “mô đen” như ngày nay. Mỗi lúc tan học là cả một đàn bướm trắng bay ra rồi tỏa đi khắp các con đường. Nhà gần thì ôm cặp đi bộ để các anh như Phạm Thiên Thư đưa vào thơ. Nhà xa thì đạp xe theo từng nhóm như trong bức hình dưới đây trước Tòa Đô Chánh.

image

Nữ sinh trên xe đạp trước Tòa Đô Chánh

Gia đình khá giả thì có thể tậu một chiếc Velo Solex chạy bằng xăng, có cần khởi động máy ở phía trước và khi hết xăng có thể đạp như một chiếc xe đạp. Nhà thơ Nguyên Sa trong bài thơ “Tám phố Sài Gòn ” [4] có một đoạn viết về chiếc Solex và cô học trò như sau:

“Sài Gòn phóng solex rất nhanh

Đôi tay hoàng yến ngủ trong gants

Có nghe hơi thở cài vương miện

Lên tóc đen mềm nhung rất nhung”

Ngày xưa, đã có nhiều nhà văn, nhà thơ không tiếc lời ca tụng hình ảnh nữ sinh trên chiếc Solex hoặc xe đạp. Ngày nay, họa hoằn lắm mới gặp những lời có cánh về những chiếc xe “tay ga” phóng vù vù trên đường… Ôi, thời thơ mộng của tuổi học trò nay còn đâu!

image

Nữ sinh với chiếc Velo Solex

Thuở học trò của tôi cũng có một chuyện tình thuộc loại “puppy love” như trong bài thơ của Phạm Thiên Thư. Tôi không có ý “thấy người sang bắt quàng làm họ” nhưng quả thật cả hai đều có nhiều điểm rất giống nhau.

Thứ nhất, tên “người trong mộng” của nhà thơ Phạm Thiên Thư là Hoàng Thị Ngọ, một cái tên không được đẹp cho lắm, còn người tôi “mê” lại có một cái tên “không thể xấu hơn”: Phan Thị Lụng. Cả hai cô Ngọ và cô Lụng tuy có xấu tên nhưng ngược lại, hai cô lại là những nữ sinh rất xinh.

Thứ nhì, Phạm Thiên Thư tả cô Ngọ “vai nhỏ tóc dài” còn cô Lụng “của tôi” thì tóc cũng dài nhưng lại cột theo kiểu “đuôi gà” mà người Pháp gọi là “queu de cheval”, tức… “đuôi ngựa”. Ở đây có thêm một sự trùng hợp, “ngựa” còn được gọi bằng cái tên “ngọ”!

image

Kiểu tóc đuôi gà đã hớp hồn tôi thuở học trò.

Trong thơ Phạm Thiên Thư có cảnh nên thơ giữa hai học trò “trao vội chùm hoa, ép vào cuốn vở” còn tôi thì chơi trội hơn, viết luôn một cánh thiệp hồng báo hỷ bằng tiếng Pháp. Tôi không giỏi Pháp văn đến độ viết được thiệp hồng mà chỉ copy từ cuốn “Cours de Langue et de Civilisation Française” của Mauger đang học.

“Thiệp báo hỉ” mang tên Nguyễn Ngọc Chính và Phan Thị Lụng được để trên yên xe đạp của Lụng trong giờ ra chơi vì không đủ can đảm đưa tận tay nàng. Cho dù có đủ can đảm nhưng chắc cũng không dám đưa vì cái lối “tỏ tình” quá đường đột này.

Chắc chắn nàng đã đọc, không những thế, ngoài hai đứa còn có người thứ ba cũng đã đọc, đó là thầy tổng giám thị. Ông “tế nhị” gặp riêng tôi và cảnh cáo cần phải chấm dứt trò chơi “nguy hiểm” này, nếu tái phạm tôi sẽ bị “cấm túc” và thông báo về gia đình.

image

Nữ sinh miền thùy dương cát trắng Nha Trang

Thế là bao mộng đẹp bỗng tan thành mây khói, mái tóc “đuôi ngựa” mà trước đây tôi chết mê chết mệt bỗng nhiên biến mất khỏi tâm hồn tôi, còn tụi bạn trong lớp đã sửa một câu ca dao quen thuộc thành:

“Muốn người ta mà người ta không muốn,

Xách… ‘thiệp hồng’ chạy xuống chạy lên!”

image

Học trò xứ BMT

Thuở học trò ngày xưa của tôi là thế đấy. Học cũng nhiều và “nghịch tinh nghịch ngầm” cũng không ít. Chẳng thế mà người ta thường nói: “Nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò”. Đã mấy chục năm nay tôi chưa một lần gặp lại Phan Thị Lụng kể từ hồi học Đệ Ngũ.

Giờ này chắc nàng đã trở thành bà nội, bà ngoại… còn tôi thì đã là một ông già móm mén bên con đàn cháu đống. Ước gì cô học trò năm xưa đọc được những dòng chữ này để cùng cười cái thuở học trò rắn mắt ngày nào tại xứ Buồn Muôn Thuở…

image

Học trò tỉnh lẻ

Đặc điểm của nền giáo dục VNCH là có sự tách biệt giữa trường nam và trường nữ tại các thành phố lớn, một phần có lẽ là để tránh những “phiền phức” xảy ra trong tuổi học trò mới lớn. Những địa phương nhỏ như BMT thì học trò học chung, và đó cũng là lý do có những chuyện “mới nứt mắt” mà đã biết… tán tỉnh bạn gái cùng lớp như trường hợp của tôi!

Ngôi trường trung học đầu tiên tại miền Nam là Collège Chasseloup-Laubat, thành lập năm 1874 sau này đổi thành trường Lê Quý Đôn, tiếp đến là Collège de My Tho (1879), sau đổi tên là Nguyễn Đình Chiểu. Ở Huế có trường  Quốc Học dành cho nam sinh được thành lập từ năm 1896 và trường Đồng Khánh được dành cho nữ, thành lập từ năm 1917.

Thoạt đầu trường Đồng Khánh chỉ có cấp  tiểu học với với đồng phục màu tím nên còn được gọi là “Trường Áo Tím”. Dưới thời Pháp thuộc đồng phục đổi sang màu xanh nước biển và bắt đầu từ Đệ nhất Cộng hòa có đồng phục màu trắng.

image

Nữ sinh Đồng Khánh (năm 1931)

Nổi bật nhất tại Sài Gòn là hai trường Gia Long và Trưng Vương, những địa chỉ được các “cây si” thường xuyên lui tới. Gia Long còn được gọi là trường “Nữ sinh Áo Tím” ngày nay là trường Nguyễn Thị Minh Khai, được thành lập từ năm 1915 và thuộc loại “lão làng” trong hệ thống giáo dục của Hòn ngọc Viễn đông.

Xét về tuổi tác thì trường Trưng Vương là em vì phải từ Hà Nội “di cư” vào Nam năm 1954 sau Hiệp định Genève. Năm học đầu tiên Trưng Vương còn phải học nhờ Gia Long vào buổi chiều. Mãi đến năm 1957, trường Trưng Vương mới chính thức xây dựng xong trường ốc gần Sở thú cùng với Võ Trường Toản.

Gia Long và Trưng Vương tượng trưng hai chị em xuất xứ từ hai miền Nam – Bắc trong suốt thời kỳ VNCH. Sau năm 1975, hai trường mở cửa tiếp nhận cả nam lẫn nữ sinh. Và có lẽ những chuyện như cô Ngọ, cô Lụng lại tiếp diễn nhưng chắc ở mức độ “hiện đại” hơn thuở chúng tôi còn đi học.

image

Xe hoa của trường Trưng Vương nhân ngày Phụ nữ Việt Nam năm 1960

Nguyễn Ngọc Chính

***

Chú thích:

[1] Nghe “Ngày Xưa Hoàng Thị” qua giọng ca “bất hủ” của Thái Thanh tại:

http://nhacso.net/nghe-nhac/ngay-xua-hoang-thi.XVlSUUVd.html

[2] Đọc về Phạm Thiên Thư và “Ngày Xưa Hoàng Thị” tại:

http://vietbao.vn/Van-hoa/Ngay-xua-Hoang-thi-noi-tieng-mot-thoi/70031661/181/

[3] Xem video clip Đỗ Văn phỏng vấn Phạm Duy và bài hát “Tuổi ngọc” do Thái Thảo trình bày tại:

httpv://www.youtube.com/watch?v=HjkPzRuKmZU

 

[4] Nhiều người thắc mắc tại sao Nguyên Sa lại đặt tên bài thơ là “Tám phố Sài Gòn”?

Đơn giản chỉ vì bài thơ này gồm 8 đoản khúc:

 

image

 

“Sài Gòn đi rất chậm buổi chiều

cánh tay tà áo sát vòng eo

có nghe đôi mắt vòng quanh áo

năm ngón thơ buồn đứng ngó theo

 

Sài Gòn phóng solex rất nhanh

Đôi tay hoàng yến ngủ trong gants

Có nghe hơi thở cài vương miện

Lên tóc đen mềm nhung rất nhung

 

Sài Gòn ngồi thư viện rất nghiêm

Tờ hoa trang sách cũng nằm im

Đầu thư và cuối cùng trang giấy

Những chữ y dài trông rất ngoan

 

Sài Gòn tối đi học một mình

Cột đèn theo gót bóng lung linh

Mặt trăng theo ánh đèn trăng sáng

Đôi mắt trông vời theo ánh trăng

 

Sài Gòn cười đôi môi rất tròn

Vòng cung mầu đỏ nét thu cong

Cầu vồng bắt giữa mưa và nắng

Hay đã đưa dần sang nhớ mong

 

Sài Gòn gối đầu trên cánh tay

Những năm mười sáu mắt nhìn mây

Chiếc tay tròn ánh trăng mười bốn

Tiếng nhạc đang về dang cánh bay

 

Sài Gòn nắng hay Sài Gòn mưa

Thứ bẩy Sài Gòn đi Bodard

Guốc cao gót nhỏ mây vào gót

Áo lụa trăng mềm bay xuống thơ

 

Sài Gòn mai gọi nhau bằng cưng

Vành môi nghiêng cánh xuống phân vân

Lưng trời không có bầy chim én

Thành phố đi về cũng đã xuân”.

CON HẠC TRẮNG

CON HC TRNG

Bạn có bao giờ ngắm kỹ một con hạc trắng chưa? Nó trông thật mảnh mai; chân dài, người mỏng, trong một bộ lông trắng muốt. Trông nó thanh cao như một người luống tuổi mà vẫn giữ được phong cách ung dung… Con hạc được coi là một con vật sống lâu cho nên người ta gọi tuổi của các cụ là tuổi hạc.

Bác Sĩ Ornish, tác giả cuốn sách Love & Survival, nói rõ: Tách lìa tình thân gia đình và bạn bè là đầu mối cho mọi thứ bệnh từ ung thư, bệnh tim đến ung nhọt và nhiễm độc.

Tình thương và tinh thần lạc quan là gốc rễ làm cho chúng ta bệnh hay khỏe.

Ba mươi năm trước mà nghe ai nói cô đơn sinh ra các chứng bệnh thì người ta sẽ chỉ cười nhẹ. Nhưng bây giờ điều này đã được nhiều bác sĩ công nhận là đúng.

Những buổi tĩnh tâm chung, có cầu nguyện, có tịnh niệm (tùy theo tôn giáo của mỗi người) chia sẻ những buồn vui, lo lắng của mình cùng người khác cũng giúp khai thông được những tắc nghẽn của tim mạch như là ăn những thức ăn rau, đậu lành mạnh vậy.

Nếu không nói ra được những gì dồn nén bên trong thì chính là tự mình làm khổ mình. Khi nói ra, hay viết ra được những khổ tâm của mình thì hệ thống đề kháng được tăng cường, ít phải uống thuốc.

Theo Bác Sĩ Ornish, khi bị căng thẳng cơ thể sẽ tiết ra một hóa chất làm cho mọi sinh hoạt ứ đọng, ăn không ngon, đầu không suy nghĩ, mạch máu trì trệ, mất sức đề kháng, dễ cảm cúm.

Như vậy sự cô đơn cũng là chất độc như cholesterol trong những thức ăn dầu mỡ, mà chỉ có sống lạc quan mới cứu rỗi được.

Nếu bạn không mở tâm ra cho người khác thì bác sĩ bắt buộc phải mở tim bạn ra thôi!!!

Tuổi như thế nào thì gọi là già, chúng ta biết khi một người qua đời ở tuổi 60 thì được gọi là ‘hưởng thọ’.   Vậy sau tuổi 60 mỗi ngày ta sống là một “bonus”, phần thưởng của Trời cho.

Chúng ta nên sống thế nào với những ngày ‘phần thưởng’ này. Lấy thí dụ một người lớn tuổi, sống cô đơn, biệt lập, không đi ra ngoài, không giao thiệp với bạn hữu, thế nào cũng đi đến chỗ tự than thân trách phận, bất an, lo âu, ủ dột và tuyệt vọng. Từ đó bắt nguồn của bao nhiêu căn bệnh.

Trong Những lời Phật dạy có câu:

Sai lầm lớn nhất của đời người là đánh mất mình.
Phá sản lớn nhất của đời người là tuyệt vọng…

Chắc trong chúng ta không ai muốn rơi vào hoàn cảnh này. Gặp gỡ bè bạn thường xuyên trong những sinh hoạt thể thao là điều tốt lành nhất cho thể lý.

Ði tập thể thao như nhẩy nhẹ theo nhạc, tắm hơi, bơi lội, tennis v.v… đã giúp cho người lớn tuổi giữ được thăng bằng, ít ngã, và nếu có bệnh, uống thuốc sẽ công hiệu hơn, mau lành hơn.

Gặp bạn, nói được ra những điều phiền muộn cho nhau nghe, ngồi tĩnh tâm, đến nhà thờ, chùa cầu nguyện giúp được làm chậm lại sự phát triển của bệnh.

Bác Sĩ Jeff Levin giáo sư đại học North Carolina khám phá ra từ hàng trăm bệnh nhân, nếu người nào thường xuyên đến nhà nguyện họ có áp suất máu thấp hơn những người không đến nhà nguyện, ông bỏ ra hàng đêm và nhiều cuối tuần để theo dõi, tìm hiểu những kết quả cụ thể của “Tín ngưỡng và sức khỏe “!

Cuốn sách ông phát hành gần đây nhất có tên là God, Faith and Health. Trong đó ông cho biết những người có tín ngưỡng khỏe mạnh hơn, lành bệnh chóng hơn, ít bị nhồi máu cơ tim, gặp sự thăng trầm trong đời sống họ biết cách đối diện, họ luôn luôn lạc quan.

Lạc quan là một cẩm nang mà chúng ta nên luôn luôn mang theo bên mình. Ðừng bao giờ nói, hay nghĩ là “Tôi già rồi, tôi không giúp ích được cho ai nữa”  hoặc  “Tôi vụng về, ít học, chẳng làm gì được”.

Tính hài hước, làm cho người khác cười cùng với mình cũng là những liều thuốc bổ.

Thi sĩ Maya Angelou vào sinh nhật thứ 77, trong chương trình phỏng vấn của Oprah, hỏi về sự thay đổi vóc dáng của tuổi già, bà nói:

“Vô số chuyện xẩy tới từng ngày… Cứ nhìn vào bộ ngực của tôi xem. Có vẻ như hai chị em nó đang tranh đua xem đứa nào chạy xuống eo trước”. Khán giả nghe bà, cười chẩy cả nước mắt.  Những vấn đề chính ảnh hưởng đến sức khỏe của bạn (qua tinh thần) là:

+Sự cảm thông giữa cha mẹ và con cái, giữa ông bà với các cháu.

+Tinh thần chấp nhận và lạc quan

+Nghĩ đến những điều vui nhỏ mỗi ngày.

+Tham gia những sinh hoạt nào phù hợp với sức khỏe.

+Làm việc thiện nguyện.

Sinh,lão, bệnh tử. Con đường đó ai cũng phải đi qua. Nhưng đi như thế nào thì hầu như 80% chính mình là người lựa chọn.

+Nhóm bạn: Ðọc sách, kể chuyện, đánh cờ, chơi bài (không phải ăn thua).

+Tham gia các lớp thể dục: Như Yoga, ngồi thiền, khí công v.v…Và ngay cả chỉ đi bộ với nhau 30 phút mỗi ngày cũng giúp cho tinh thần sảng khoái, sức khỏe tốt hơn là ở nhà nằm quay mặt vào tường.

Hãy thỉnh thoảng đọc lên thành tiếng câu ngạn ngữ này: ‘Một nét mặt vui vẻ mang hạnh phúc đến cho trái tim và một tin vui mang sức khỏe cho xương cốt.’

Chúc tất cả anh chị em luôn cảm thấy vui khoẻ và trọn vẹn an lành trong tâm hồn !

Khuyết danh

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

 

NGÀY CON SINH RA

NGÀY CON SINH RA

Ngày con sinh ra thời gian không tính bằng năm tháng, nhưng bằng những gì mà con đã làm được.

Ngày con sinh ra, mình trần thân trụi, so với bầu trời bao la, con không là chi, so với núi cao biển rộng, con đáng là gì.  Nhưng từng hồng ân Chúa âm thầm rơi xuống trên con, rồi ngày qua ngày, tháng tiếp tháng, năm nối năm, vạn hồng ân ấy đã ghép nên cuộc đời.  Con được muôn bàn tay yêu thương, chăm sóc, được bao người thân ấp ủ quí mến, lo cho con sống, dạy cho con khôn, gửi vào con nhiều ước mơ, cầu mong con nên người tài đức.  Với thời gian, thể xác con lớn lên, trí óc con phát triển.  Vòng xoay vòng, con lại có ngày kỷ niệm mừng sinh nhật trên đời.

Nhưng, ngày sinh của con có gì đáng vui!!!

Khi con đã nhận muôn vàn ơn Chúa, đã nhận biết bao điều của Giáo Hội và xã hội trao ban dưới mọi hình thức, để cuối cùng con chẳng làm được điều gì cho Chúa, cho đời!  Con mắc nợ Chúa, mắc nợ mọi người, dù món nợ không ai đòi hỏi ở con, nhưng con đã không biết trả, lại còn không biết sống nên người…

Ngày sinh của con có gì đáng nhớ!!!

Khi con không có lấy một ước mơ cao đẹp, không một ý nghĩ về tương lai, không có một lý tưởng để sống, và cuối cùng con bước ra cuộc đời này cũng rỗng tuếch như khi con bước vào trần gian, không có gì dâng Chúa…

Ngày sinh của con có gì đáng mừng!!!

Khi con thừa biết đời người có là bao, mà vinh quang thật ngắn ngủi và thập giá cứ lê dài, thế nhưng con không can đảm biến thập giá thành vinh quang, biến tiếng khóc của con khi chào đời thành tiếng khóc của người khi con nằm xuống.

Ngày sinh của con có gì đáng nói!!!

Khi con chỉ ngồi chờ điều dễ, thoái lui điều khó, thích gặp người giàu, quyền thế, xa lánh kẻ nghèo, vô danh.  Thích đời phục vụ hơn phục vụ đời.  Thích ghi sổ vàng, khắc bia bạc hơn âm thầm chia sẻ, cho không.

Nếu con chỉ thích là kẻ sống nhanh, sống dễ, thì ngày con sinh cũng là ngày con chết.

Lạy Chúa!

Xin cho con sống trọn vẹn 24 giờ trong một ngày.

Xin cho con sống can trường 30 ngày trong một tháng.

Xin cho con sống thật người 12 tháng trong một năm.

Để kỷ niệm ngày sinh của con là ngày đáng vui, đáng nhớ, đáng mừng và đáng nói.

Bồ Câu Trắng

(Lễ sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả)

From: suyniemhangngay1 & Anh chị Thụ Mai gởi

Những nhà cai trị vô trách nhiệm

Những nhà cai trị vô trách nhiệm
July 20, 2014

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Ngày 27 Tháng Tư, 2014, Thủ Tướng Nam Hàn Chung Hong-won đệ đơn lên tổng thống xin từ chức sau vụ chìm phà Sewol làm cho 300 người tử vong. Vụ chìm phà Sewol không nằm trong sự kiểm soát trực tiếp của thủ tướng, nhưng ông Chung cho rằng ông có lỗi vì đã không ngăn được tai nạn thảm khốc này, và chính phủ phải có trách nhiệm về an sinh của dân chúng.

TV tại nơi tạm trú của người nhà nạn nhân chìm phà Sewol, Nam Hàn, cho thấy Thủ Tướng Chung Hong-won thông báo từ chức. (Hình: Ed Jones/AFP/Getty Images)

Tại Nhật năm 2011, sau khi có vụ động đất 9 độ richter, gây nên một trận sóng thần lớn, nhà máy điện nguyên tử Fukushima nổ cháy bốn lần, gây phóng xạ lớn phải di tản dân chúng. Mặc dù nguyên nhân vụ nổ tại đây chưa tìm ra nguyên nhân, các cấp lãnh đạo của Công Ty Ðiện Lực Tokyo đã đứng ra nhận lỗi và xin lỗi với đồng bào của họ và chấp nhận mọi hình thức trừng phạt, thừa nhận vì các giới chức trách nhiệm không lường trước hậu quả của trận động đất và sóng thần vừa qua.

Trên thế giới có người từ chức vì nhận mình có lỗi không xứng đáng với chức vụ cấp trên giao phó cho mình, như một ông bộ trưởng hỏa xa từ chức vì có chuyến xe lửa trật đường rầy, gây chết chóc cho dân chúng hay ông thủ tướng từ chức vì bị tố cáo nhận quà một chai rượu quá đắt tiền. Ðiều này chứng tỏ con người tôn trọng danh dự và có trách nhiệm, điều này quý hơn là một chức vụ, cái ghế ngồi, nhờ đó có thể kiếm được nhiều bổng lộc, tư lợi.

Ở Việt Nam ngày nay, người ta đã không có thứ văn hóa nhận lỗi, chuyên ngậm miệng ăn tiền, mặt trơ mày trẽn mà còn thêm thói quen đổ lỗi.

Theo nguồn tin của Vnexpress trong nước chỉ trong 10 ngày đầu của Tháng Bảy, trong ngành hàng không ở Việt Nam đã có 1,100 chuyến bay bị chậm trễ hoặc hủy bỏ.

Một chuyến bay từ Thanh Hóa đi Sài Gòn bị hủy do thời tiết xấu, nhưng để hành khách phải đợi 14 tiếng đồng hồ sau đó hành khách được chuyển từ Thanh Hóa ra sân bay Hà Nội. Có chuyến bay cất cánh rồi, bị hành khách đòi xuống vì có việc gia đình khẩn cấp, có chuyến bay khách đến đúng giờ thì máy bay đã cất cánh cách đó một tiếng đồng hồ rồi. Có chuyến bay trễ vì một cái…lông chim!

Ðêm 19 Tháng Sáu, máy bay của VietJet Air chở khách đi Ðà Lạt nhưng lại hạ cánh xuống Cam Ranh, vì máy bay đi Ðà Lạt bị trục trặc không bay được, phải dồn khách sang chiếc máy bay đã chuẩn bị đi Cam Ranh. Nhưng phi công trưởng là người Czech, không ai cho phi hành đoàn biết là đã đổi lộ trình, nên phi công vẫn đi Cam Ranh như chương trình đã định. Ðúng là chuyện thật như đùa, không khác gì chuyện làm của trẻ con!

Tổng giám đốc Vietnam Airline cho rằng sai sót là do sân bay quá tải vào giờ cao điểm, thiếu phương tiện mặt đất, có cạnh tranh bất chính giữa các hãng hàng không, do thời tiết, tình trạng yếu kém của dịch vụ sân bay, chậm giờ, hủy chuyến là do các hãng dồn chuyến như dồn khách xe đò để tăng doanh thu. Nói chung là tại, bởi, vì… không phải lỗi của người có trách nhiệm, nói rõ là ông lãnh đạo hàng không Việt Nam hay ông bộ trưởng Giao Thông.

Cũng nói về chuyện giao thông, đường sá cầu cống hiện nay bị hư hỏng, lún… thì các vị có trách nhiệm đổ lỗi cho xe dùng đường quá tải, mà không truy cứu trách nhiệm, ai đã thi công sai sót, ăn cắp nguyên liệu. Nhiều tờ báo trong nước đã nêu rõ chuyện xa lộ Ðại Hàn vòng đai Sài Gòn, làm đã trên 40 năm nay vẫn còn sử dụng tốt, vậy thì ưu điểm của XHCN là gì? Ngay vụ một cây cầu lòi ra xi măng cốt tre khi xe vận tải chạy qua ở Biên Hòa mới đây, chưa thấy nêu rõ lỗi ai, ai thi công và biện pháp trừng phạt như thế nào, chung quy cũng tại cái xe hay cái chân nặng nề của thằng… dân.

Chuyện đã có người nói và nói đi nói đi lại mãi là vụ cây cầu treo ở bản Chu Va 6, xã Sơn Bình (Lai Châu) sáng ngày 24 Tháng Hai bất ngờ bị đứt rơi xuống vực, khiến 9 người chết, 41 người bị thương, khi hàng chục người dân ở đang đi theo một đám tang trên cầu. Chuyện này, đáng ra những người có trách nhiệm làm cầu phải bị tử hình, ở tù hay mất chức, như Kim Jong-Un đã xử tử ba anh kỹ sư khi một chung cư bị sụp đổ bên Bắc Hàn, giết chết hàng trăm người, thì lại được một thiếu tướng, giám đốc công an tỉnh Lai Châu, không chuyên môn mà chẳng trách nhiệm, dám tuyên bố khẳng định cầu sập là do quá tải và “vì người Hmong khi khiêng quan tài thường đi rất nhanh.” Ðúng là “phủ bênh huyện, huyện bênh phủ,” vì huyện hay phủ đều là đảng.

Ðã 40 năm trôi qua, những tệ nạn xã hội hiện nay, mỗi ngày được ngay cả các cơ quan truyền thông của chính phủ và đảng loan báo, tệ nạn mại dâm tràn lan, xì ke ma túy đầy dẫy, cướp bóc lộng hành thì quý vị đổ lỗi cho là… “tàn dư Mỹ Ngụy.” Tàn dư này là những thứ xấu xa, dơ bẩn còn sót lại, như những hạt giống vừa bẩn vừa độc. Những hạt giống này chẳng may còn vương vãi lại trên một mảnh đất bùn lầy độc địa nên càng ngày càng nở rộ, sinh sôi, nảy nở phát triển tràn lan. Những người điều hành đất nước hiện nay hoàn toàn không có trách nhiệm.

Chuyện công an đánh chết người khi thẩm vấn là vì, do chúng không chịu nhận cái tội mà chúng không làm. Quan chức còn tham nhũng là vì lương không đủ sống. Cướp bóc là vì không chịu đi làm, trong khi kiếm không ra việc làm. Xã hội nhan nhản người đi ăn trộm chó, là vì người ta thích ăn thịt chó. Người ta giết người bắt chó vô tội vạ, không có bản án là vì người dân quá “bức xúc!”

Các vị cứ ngồi đó cho đến lúc bị cất chức, càng lâu càng tốt. Nói như ông thủ tướng khi bị các đại biểu Quốc Hội chất vấn và đòi ông từ chức vì những yếu kém của ông, ông đã thẳng thừng trả lời, “Tôi không xin với đảng cho tôi giữ chức vụ này hay chức vụ khác. Mặt khác tôi cũng không thoái thác bất cứ trách nhiệm nào mà đảng và nhà nước đã giao phó.” Sau đó ông nói thêm đảng hiểu rõ năng lực, tư cách, tâm tư, nguyện vọng và ông cũng nghiêm túc báo cáo về bản thân mình trước đảng. Nói chung là đảng hiểu ông, phân công cho ông, và hay, dở, ông báo cáo trước đảng, dính gì đến ba thằng dân. Các bộ trưởng hay tổng giám đốc đều do ông bổ nhiệm sẽ theo đường lối của ông, không từ chối những gì đảng đã giao phó, chỉ trách nhiệm với đảng.

Ðảng hay dân trả lương cho họ?

Những người cai trị này coi dân như …cừu!

Chuyện Kể Năm 2014

Chuyện Kể Năm 2014

RFA

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Nói dại: lỡ mà ngày mai ông Thủ Tướng, ông Chủ Tịch Nước, ông Tổng Bí Thư hay ông Chủ Tịch Quốc Hội… chuyển sang từ trần chắc (chắn) tất cả đều không được mọi người “tiếc thương” đến thế – nếu chưa muốn nói là ngược lại.

Có lần, tôi nghe, ông Vũ Thư Hiên “xúi” một người bạn đồng nghiệp

– Hay là mở một cái quán cà phê lấy tên Già Đô đi, bảo đảm là đông khách.

Người bị xúi, nhà văn Bùi Ngọc Tấn, lắc đầu cùng với một nụ cười hiền:

– Thôi, chả “trêu” chúng nó làm gì cho nó thêm rách việc ra. Mình còn nhiều chuyện cần phải có thời giờ để viết.

Già Đô là một người bạn cùng tù, và cũng là một nhân vật (nguyên mẫu) trong Chuyện Kể Năm Hai Ngàn của Bùi Ngọc Tấn:

Già là một lính thợ Pháp quốc trong đại chiến thế giới thứ hai. Từ Pháp già đã tới Algérie, Maroc (cái lý lịch ấy thật tai vạ cho già). Già đã là thợ đốt lò dưới con tàu Commerce Maritimes thuộc hãng Đầu Ngựa. Hải Phòng – Marseille là hành trình những năm tuổi trẻ của già. Làm được hai năm già thôi việc. Chỉ vì già không chịu được những lời mắng nhiếc của chủ …

Già bỏ tàu lên thành phố Marseille. Vào quán rượu quen. Uống. Uống nhiều. Và không trở về tàu nữa. Lang thang ở Marseille cho đến đồng frăng cuối cùng, già tìm được việc làm trong một xưởng sửa chữa xe có động cơ. Từ xe gắn máy, các loại ô-tô tới xe nâng, cần cẩu. Tại đây già bị động viên vào một đơn vị cơ giới. Già sang Maroc, Algérie, vẫn làm nhiệm vụ sửa xe.

Đại chiến thế giới thứ hai kết thúc. Già trở về Marseille. Trở về xưởng cũ. Lấy vợ. Cô Jeannette bán hoa quả ở gần bến cảng lớn bổng lên khiến già ngỡ ngàng, xao xuyến. Hai vợ chồng vay vốn mở một tiệm rượu nhỏ. Khách là những người phu pooc-tê, những thuỷ thủ, những người thợ nhan nhản ở thành phố Marseille.

Rồi già biết quê nhà đã được độc lập. Niềm sung sướng lớn lao và nỗi nhớ quê hương, nỗi sầu biệt xứ bỗng cồn cào trong lòng không chịu nổi. Càng không chịu nổi khi biết tin hiệp nghị Genève đã ký kết. Một nửa đất nước được độc lập. Lại thêm thôi thúc vì chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh đạo đất nước là người từng lâu năm ở Pháp, cũng từng là một mạch-lô.

Già về nước. Khi đó bà Jeannette đã sinh cho già một cô con gái xinh đẹp, có nước da trắng của bà, có mái tóc và đôi mắt đen của già Đô. Mặc bà vợ khóc can ngăn, già nhất định về nước. Rồi già sẽ sang đón bà về. Độc lập rồi, xây dựng sẽ rất nhanh. Đất nước sẽ phát triển rất nhanh. Dân tộc ta thông minh, cần cù, chiu khó lại được bao nước giúp đỡ. Đất nước đang cần những bàn tay như già…” (Bùi Ngọc Tấn. Chuyện Kể Năm 2000, tập II. CLB Tuổi Xanh, Westminster, CA: 2000).

Nói tóm lại, và nói một cách ví von: Già Đô là một Nguyễn Mạnh Tường hay Trần Đức Thảo của giới công nhân nhưng trung vận (cũng như hậu vận) đen đủi hơn nhiều. Tuy không chết rục trong tù nhưng Già Đô cũng sống không nổi trong lòng Cách Mạng, vẫn theo như lời của Bùi Ngọc Tấn:

“Già đi bới rác. Già lê la ở các cửa hàng mậu dịch, khách sạn. Dồn dịch những bát phở, vét đĩa, nhặt những mẫu bánh mì thừa… Rồi đến một ngày già không đi được nữa. Già thấy mình đang phiêu diêu…

Già chọn cho mình chỗ nằm để phiêu diêu: Một ngôi đình đổ nát và bị bỏ quên… Ngôi đình hoàn toàn hoang phế. Không một dấu vết thờ phượng. .. Thực là một chỗ nằm yên tĩnh lý tưởng để phiêu diêu. Chẳng ai quấy rầy già. Phiêu diêu là một cảm giác sung sướng lạ lùng. Chẳng nhớ được một điều gì, chỉ thấy mình đang tan đi và đang bay…

Đó là mùa xuân năm 1975, cũng đang mùa mưa dầm, hắn đã ra tù được hai năm, đã được gặp ông Trần và quân ta ta sắp đánh Buôn Mê Thuột mở đầu công cuộc giải phóng toàn thể miền Nam, thu giang sơn về một mối.” (sđd 224-226).

Gần bốn mươi năm sau (sau khi giang sơn đã thu về một mối) Việt Nam lại xuất hiện những Già Đô mới, cũng rất đậm nét bi hài – theo như tường thuật của biên tập viên Mặc Lâm:

Vào thời khắc gần đón giao thừa năm Giáp Ngọ, công an bao vây nhà bà Bùi Thị Minh Hằng đe dọa chủ nhà không được chứa chấp hai người tù vừa được trả tự do là hai anh em Huỳnh Anh Tú và Huỳnh Minh Trí.”

Hai hôm sau, ký giảTrương Minh Đức cho biết thêm:

Hơn 20 công an đã ập vào nhà tôi (Trương Minh Đức) tại đường N3 khu phố 04 thị trấn Mỹ Phước 1, huyện Bến Cát Tỉnh Bình Dương kiểm tra hộ khẩu vào lúc 0 giờ 55 phút, rạng sáng ngày mồng 03 tết (02/01/2014) trong lúc kiểm tra có hai anh Huỳnh Anh Tú và Huỳnh anh Trí vừa ghé qua thăm gia đình tôi vào lúc 21 giờ, vì đêm quá tối nên hai anh đã nghĩ lại qua đêm.”

Nhửng mẩu tin trên dễ khiến độc giả của Chuyện Kể Năm 2000 thốt nhớ đến tình cảnh của Già Đô, khi mới ra tù, lúc đang sống chui rúc và lén lút tại căn nhà (20 mét vuông) của người bạn cùng tù Bùi Ngọc Tấn:

Khi hắn chợp được một lúc mà hắn tưởng như đã lâu lắm rồi, có tiếng đập cửa và tiếng gọi to như ra lệnh:

– Mở cửa nhé! Kiểm tra hộ khẩu đây.

Đó là điều hắn vẫn chờ đợi. Và hắn đã chuẩn bị sẵn câu trả lời. Hắn bật điện, mở cửa…

– Ai kia?

Cái nhìn hướng vào lùm chăn ở góc nhà, góc trong cùng cạnh chỗ thằng Hiệp. Cái chăn lùng nhùng cọ quậy và một người ngồi nhỏm dậy. Già Đô râu dài, tóc xoã, dăn deo, sợ sệt, mắt nheo nheo vì chói ánh đèn.

Người ta nhìn vào hắn. Ngọc cũng đã ngồi dậy. Nàng cố chỉnh đốn y phục, vuốt tóc tai cho đỡ bù xù, bước ra:.

Dạ thưa các anh, đây là bạn nhà tôi ạ.

– Có đăng ký tạm trú không?

….

– Dạ, chưa ạ.

– Bác khách có giấy tờ gì không?

Già Đô hất hẳn chiếc chăn bông ra. Già tìm trong đống bùng nhùng chăn màn, áo, túi, lấy ra một tờ giấy. Đó là tờ lệnh tha… (sđd, trang  219-220).

Bà Bùi Minh Hằng, và ông Trương Minh Đức – rõ ràng – đều không dễ bắt nạt như ông bà Bùi Ngọc Tấn ngày nào. Họ không ngại “ăn thua đủ” với lực lượng công an để bảo vệ hai người bạn tù vừa mới được tha: Huỳnh Anh Tú và Huỳnh Anh Trí. Tuy nhiên, lòng quả cảm và sự bảo bọc của họ – tiếc thay – đã không giúp được cho người bạn tù của mình toàn mạng.

Vào ngày 6 tháng 7 năm 2014 vừa qua, không ít người bàng hoàng khi đọc được một bản tin ngắn (“Tù Nhân Lương Tâm Huỳnh Anh Trí Đã Qua Đời Sau Một Thời Gian Ngắn Mãn Hạn Tù”) trên diễn đàn Dân Luận:

Nửa năm sau khi được nhà cầm quyền Việt Nam trả tự do sau 14 năm tù giam vì bị khép vào tội khủng bố chống chính quyền nhân dân, tù nhân lương tâm Huỳnh Anh Trí đã qua đời vào lúc 13:30 phút ngày hôm nay (05/07/2014) tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch (quận 5, Sài Gòn), hưởng dương 43 tuổi.

Anh Huỳnh Anh Trí sinh năm 1972 mới được nhà cầm quyền Việt Nam trả tự do vào ngày 29 tháng 12 năm 2013 đã qua đời vì bị mắc căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS trong thời gian bị tù giam. Truyền hình Đức Mẹ trực thuộc Truyền Thông Chúa Cứu Thế Việt Nam (VRNs) đã làm một phóng sự gồm 4 phần, để vạch trần một tội ác khủng khiếp của chế độ CSVN đối với những người bất đồng chính kiến. Sau cái chết gây xúc động lòng người của Thầy Giáo Đinh Đăng Định cách đây hơn 3 tháng, đây là Tù Nhân Lương Tâm thứ hai chết sau một thời gian ngắn ra tù trong năm 2014 này.

Được biết, hai anh em Tù Nhân Lương Tâm Huỳnh Anh Trí và Huỳnh Anh Tú liên tục bị Công An xách nhiễu, đe dọa sau khi được trả lại tự do, thậm chí chị Bùi Thị Minh Hằng – hiện đang bị nhà cầm quyền Việt Nam vô cớ bắt giam từ nhiều tháng qua – đã phải phản ứng bằng cách để hàng chục can xăng bao quanh nhà sẵn sàng tử thủ, để đáp trả hành động công an dùng xe ủi sập một phần cổng nhà, khi chị Bùi Hằng cưu mang hai anh em Huỳnh Anh Trí và Huỳnh Anh Tú ngày mới ra tù, không chốn nương thân.

Thành kính phân ưu cùng gia đình anh Huỳnh Anh Trí.

Tương tự như Già Đô, anh em Huỳnh Anh Tú, Huỳnh Anh Trí không còn có thân nhân nào còn ở Việt Nam. Gia đình họ đã phiêu tán đâu đó (*) từ lâu. Khác với Già Đô, người tù Huỳnh Minh Trí đã không phải nằm chết dấm dúi trong một “ngôi đình hoàn toàn hoang phế.”

Ông đã trút hơi thở cuối trong vòng tay than ái của bằng hữu và giữa sự  tiếc thương của tất cả mọi người. Hình ảnh vô số những lẵng hoa chia buồn trên mạng, cũng như những vòng hoa phúng điếu trong đám tang của ông – xem được trên trang FB Huỳnh Công Thuận – là một hiện tượng rất hiếm hoi, chỉ thấy vào tháng trước trong đám tang của nhà giáo Đinh Đăng Định.

Ảnh chụp từ xa nên tôi chỉ xem đọc được những giòng chữ phân ưu của Hiệp Hội Đoàn Kết Công Nông Việt Nam, Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị Và Tôn Giáo Việt Nam, Hội Thánh Tin Lành Mennonite, Đồng Bào H’ Mong Phía Bắc. Nói dại: lỡ mà ngày mai ông Thủ Tướng, ông Chủ Tịch Nước, ông Tổng Bí Thư hay ông Chủ Tịch Quốc Hội… chuyển sang từ trần chắc (chắn) tất cả đều không được mọi người “tiếc thương” đến thế – nếu chưa muốn nói là ngược lại.

Chuyện Kể Năm 2000 đã cũ. Những vòng hoa tiễn biệt, cùng với những đoàn người lũ lượt trước linh cửu Huỳnh Minh Trí và Đinh Đăng Định – hy vọng – giúp cho những kẻ hiện đang nắm quyền ở VN hiểu ra được một điều giản dị: đã đến lúc họ phải ra đi, trước khi quá muộn.

Tưởng Năng Tiến

(*) Sau khi bài viết này đã hoàn thành, chúng tôi mới đọc được bản tin ngắn “Tường Thuật Lễ Tang Anh Anphong Huỳnh Anh Trí” trên trang VRNS và được biết thêm đôi diều:

– Từ Thái Lan, ông Huỳnh Kim Sơn – thân phụ của Huỳnh Minh Trí – đã đến kịp để nhìn mặt con lần cuối, sau hơn ba mươi năm xa cách.

– Ngoài những hội đoàn kể trên, trong tang lễ còn có sự hiện diện của thành viên Hội Nhà báo Độc Lập VN, Truyền Thông Dòng Chúa Cứu Thế, Văn phòng Công Lý và Hòa Bình DCCT, Nhóm No U Sài Gòn,  Phật giáo Hòa Hỏa, bà con Dân Oan, Khối 8406, Con Đường VN…

Từ trái sang: Thân phụ anh Trí (ngồi), anh Tú, người tù thế kỷ Nguyễn Hữu Cầu, Thượng tọa Thích Thiên Minh, vợ chồng anh Nguyễn Bắc Truyển tham dự thánh lễ tại Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Sài Gòn. Nguồn ảnh và chú thích VRNS

 

Thiên Chúa và các khoa học gia.

Thiên Chúa và các khoa học gia.

TRẦM THIÊN THU

Các khoa học gia có tin Thiên Chúa? Có 40% các khoa học gia tin Thiên Chúa, đa số là các khoa học gia trẻ tuổi. Chứng cớ về Thiên Chúa không dễ tìm thấy trong phòng thí nghiệm, nhưng tôn giáo vẫn giữ vai trò quan trọng trong giới khoa học.

Isaac Newton

Ông là một trong các khoa học gia nổi tiếng nhất. Ông là nhà vật lý và nhà toán học đã phát hiện định luật vạn vật hấp dẫn. Ông đưa ra chứng cớ về Thiên Chúa: “Thái dương hệ đẹp nhất, các hành tinh, và sao chổi, chỉ có thể xuất phát từ ý định và quyền lực về sinh vật thông minh và quyền hành”.

Albert Einstein

Ông là cha đẻ của thuyết tiến hóa. Khoa học gia nổi tiếng này tin vào quyền tối cao mà lại không nhận biết Thiên Chúa. Ông giải thích về quan điểm tâm linh: “Mọi người theo đuổi khoa học đều tin rằng thần linh biểu hiện trong quy luật của vũ trụ – một thần linh vượt trội con người, và trước thần linh này, chúng ta phải khiêm nhường. Theo cách này, sự theo đuổi khoa học dẫn tới cảm thức tôn giáo của một loại đặc biệt, điều này thực sự rất khác với tín ngưỡng của người ngây thơ”.

Stephen Hawkings

Khoa học gia nổi tiếng trong thời đại chúng ta là tiến sĩ Stephen Hawkings. Ông là chuyên gia về thuyết tương đối và cơ học lượng tử. TS Hawkings là người theo thuyết bất khả tri (agnostic), không phải là vô thần (atheist), nhưng ông có nói về Thiên Chúa: “Điều tôi đã làm là để chứng tỏ rằng có thể vũ trụ bắt đầu được xác định bằng quy luật của khoa học. Trong trường hợp này, không cần yêu cầu Thiên Chúa quyết định cách khởi đầu vũ trụ. Điều này không chứng tỏ là không có Thiên Chúa”. Điều “không chứng tỏ là không có Thiên Chúa” tức là “chứng tỏ có Thiên Chúa”.

Charles Darwin

Charles Darwin là nhà sinh học nổi tiếng với thuyết tiến hóa “nóng sốt” trong thời ông. Nhưng khi tuyên bố rằng con người tiến hóa từ cây cối và động vật như loài khỉ, Darwin đã đưa ra chứng cớ về Thiên Chúa: “Với nhận thức của chúng ta, không thể hiểu rằng vũ trụ to lớn và kỳ diệu này ngẫu nhiên mà có, đối với tôi có vẻ là sự tranh luận chính về sự hiện hữu của Thiên Chúa”.

Francis Collins

Dự án gen con người được hoàn tất năm 2003. Bản đồ gen kỳ diệu đó đã thay đổi các nghiên cứu của y học và sinh học. Lịch sử trước đó chưa bao giờ có nhận thức khoa học nào mở ra những cánh cửa tới việc cải thiện chất lượng của cuộc sống. TS Francis Collins là giám đốc Viện Nghiên cứu Quốc gia về Hệ Gen Con người (National Human Genome Research Institute). Người ta hỏi: “Các khoa học gia có tin vào Thiên Chúa?”. Ông trả lời: “Khoa học không hiệu quả trong việc phê bình thế giới siêu nhiên. Đối với tôi, cả hai thế giới đều khá thực tế và khá quan trọng. Chúng nghiên cứu khác nhau. Chúng cùng hiện hữu. Chúng soi sáng lẫn nhau”.

Max Planck

Ông đoạt Giải Nobel về vật lý. Thuyết lượng tử của ông đã khiến nhân loại phải suy nghĩ lại một số niềm tin về triết học mà trước đây người ta ca tụng. Khoa học gia Kitô giáo này sống trong chế độ Đức quốc xã, ông thấy nhiều bạn bè và đồng nghiệp trong giới khoa học bị hành hạ vì niềm tin tôn giáo. Đây là lời ông nói về khoa học và Kinh Thánh: “Cả tôn giáo và khoa học đều cần tin vào Thiên Chúa. Đối với những người tin, Thiên Chúa ở trong sự khởi đầu, còn đối với các nhà vật lý thì Thiên Chúa là cuối cùng của sự cân nhắc… Không phải ngẫu nhiên mà các nhà tư tưởng lớn của các thời đại đều tin có linh hồn”.

Erwin Rudolf Josef Alexander Schrödinger

Trước khi có máy vi tính, có một kiểu mẫu đối với nguyên tử và phân tử, điều này cho thế giới một điều gì đó gọi là “cơ chế sóng cuối cùng”. Một số người nói rằng việc áp dụng cơ chế lượng tử hiện đại là tiền bối đối với kỹ thuật như chúng ta biết ngày nay.

Erwin Schrödinger là nhà vật lý người Áo, sống có trách nhiệm. Ông nói về Thiên Chúa và khoa học: “Tôi rất ngạc nhiên thấy hình ảnh khoa học về thế giới thật ở xung quanh tôi là quá thiếu. Nó có nhiều thông tin thật, đặt kinh nghiệm của chúng ta vào một trật tự rất phù hợp, nhưng lại im lặng về mọi thứ, những thứ tạp nham lại ở gần tâm hồn chúng ta, thực sự là vấn đề đối với chúng ta. Nó không thể cho chúng ta biết về màu đỏ và màu xanh, vị đắng và vị ngọt, nỗi đau và niềm vui thể lý; nó chẳng biết gì về cái đẹp và cái xấu, điều thiện và điều ác, thần linh và vĩnh hằng”.

William H. Bragg

Ông là người Anh, là nhà vật lý, nhà hóa học, và nhà toán học. Ông là người tinh luyện quá trình sử dụng tia X để làm vỡ các tinh thể. Đó là khám phá lớn khiến ông đoạt Giải Nobel.

Ông giải thích về tôn giáo và khoa học: “Nhờ tôn giáo mà có mục đích của con người, nhờ khoa học mà đạt được mục đích. Đôi khi người ta tự hỏi không biết tôn giáo và khoa học có đối lập với nhau hay không. Thế này: theo nghĩa ngón tay cái và các ngón tay trong bàn tay đối lập với nhau. Đó là sự đối lập mà mọi thứ đều nắm bắt được”.

Wernher Von Braun

Bạn có thông minh hơn khoa học gia về rocket?  Kỹ sư không gian Wernher Von Braun là người Mỹ gốc Đức, ông không chỉ là cha đẻ của khoa học về rocket, ông còn là khoa học gia có niềm tin vào Thiên Chúa. Ông nói: “Tôi thấy khó hiểu về một khoa học gia mà lại không nhận biết sự hiện hữu của Đấng Tối Cao ẩn sau sự hiện hữu của vũ trụ, như vậy thì cũng giống như một thần học gia mà lại từ chối sự tiến bộ của khoa học”.

Rõ ràng khi bạn hỏi: “Các khoa học gia có tin vào Thiên Chúa?”. Trả lời: “Có!”. Đó là sự thật, dù không phải là khoa học gia nào cũng tin như vậy. Nhưng người ta có thể thấy rằng chứng cớ về Thiên Chúa có thật trong thế giới khoa học.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ beliefnet.com)

Anh chị Thụ Mai gởi

Tiếng Chó Sủa

Tiếng Chó Sủa

Những người có chức vụ và quyền hành trong bất cứ xã hội nào cũng thường bị chỉ trích và chống đối.

Có một nhà lãnh đạo quốc gia kia thường bị những người đối lập tấn công và thóa mạ một cách bất công, nhưng lúc nào ông ta cũng tỏ ra bình thản như không có gì xảy ra.  Một hôm, có người bạn hỏi lý do tại sao ông có thể tỏ ra bình tĩnh được trước không biết bao nhiêu khiêu khích của người khác, ông đã giải thích như sau:

“Tôi đã học được bí quyết giữ bình tĩnh ngay từ lúc nhỏ.  Chúng tôi sống bên cạnh một nhà láng giềng có nuôi một con chó khó tính.  Cứ mỗi lần trăng tròn, con chó lại sủa một cách giận dữ vô căn cứ, có khi cơn sủa của nó kéo dài đến cả tiếng đồng hồ.  Tất cả những người xung quanh đều tỏ ra bực bội đối với con vật khó tính ấy, chỉ trừ có người chủ của nó.  Ông không bao giờ tỏ ra bực bội, bởi vì ông ta là một người điếc.  Tất cả bí quyết của tôi nằm ở đó.  Trăng sáng, con chó sủa.  Một lúc sau, nó lại mỏi mệt và thôi sủa mặc dù trăng vẫn cứ sáng”.

Kiên nhẫn chịu đựng thường bị xem như một thể hiện của tính thụ động, tiêu cực.  Có người còn gọi đó là nhân đức của người nghèo.  Thế nhưng, trong cuộc sống, nhất là trong hoàn cảnh hiện tại, có lẽ chúng ta cần đến nhân đức này hơn bao giờ hết.

Thiên Chúa là đấng kiên nhẫn.  Kiên nhẫn vẫn là nét đặc thù trong công trình sáng tạo của Ngài.  Chúng ta có biết rằng trái đất của chúng ta có bao nhiêu tuổi chưa?

Các nhà địa chất nói với chúng ta rằng trái đất đã được cấu tạo qua từng thời kỳ kéo dài đến cả triệu triệu năm.  Ðịa chất học quả thực là môn học của sự kiên nhẫn của Thượng Ðế.

Thiên Chúa luôn tỏ ra kiên nhẫn đối với con người.  Toàn bộ Cựu Ước là một quyển ký lục về những nhẫn nhục chịu đựng của Thiên Chúa đối với sự yếu đuối, khờ dại cũng như hung bạo của con người.

Ngài phải chờ đợi đến cả trăm năm để cho lụt Hồng Thủy trút xuống trên con người.

Ngài chờ đợi đến cả mười năm mới trừng phạt vua Saolô.

Tân Ước lại càng cho chúng ta cảm nhận được bằng xương thịt. Tình yêu thương nhẫn nhục, chịu đựng của Thiên Chúa.  Chúng ta hãy chiêm ngắm sự nhẫn nhục của Chúa Giêsu đối với các môn đệ, đối với kẻ thù của Ngài và nhất là đối với đám đông nghèo khổ, lạc lõng.  Nhưng nhất là những đau khổ, bách hại mà chính bản thân mình gánh chịu, Chúa Giêsu chỉ biết giữ thinh lặng, thinh lặng không phải của căm hờn, oán trách mà là của yêu mến, tha thứ cho đến cùng.

Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Học sếp Nhật từ chai nước uống thừa.

Học sếp Nhật từ chai nước uống thừa.

Câu chuyện này được khơi gợi từ 1 buổi hội thảo tăng cường quan hệ đối tác giữa 1 số doanh nghiệp Nhật Bản và 1 số cơ quan quản lý, doanh nghiệp Việt Nam .

Khi các đại biểu chào nhau ra về, người viết nhận ra, trên bàn của những người Nhật không còn chai nước suối nào cả; trong khi bàn đối tác Việt Nam vẫn đầy các chai nước, có chai chỉ mới mở nắp.

Một cán bộ phiên dịch cũng nhìn cảnh đó và cười: “Người Nhật sẽ mang theo chai nước uống dở của họ, vì họ sẽ tự buộc mình phải uống cạn chai nước ấy”.

Không phung phí chi tiết nào

Sự việc khiến người viết nhớ lại những lần làm việc với ông Nguyễn Văn Phu, Phó giám đốc công ty Daiwa (Đà Nẵng), khi đứng lên là ông “nhờ” mang theo chai nước uống dở trên bàn về. “Quy định của công ty mình là thế, bạn thông cảm, các chai nước không được vứt bỏ dở dang. Nếu mình uống không hết thì mang theo uống tiếp, còn hơn là bỏ đó rồi phải đổ đi, rất lãng phí”.

Thói quen tập được đó của 1 người Việt đã lâu năm làm chung với người Nhật đủ cho thấy, tập quán sinh hoạt của người Nhật thật sự chỉn chu và tuân thủ đủ những “quy định” nhỏ nhoi nhất, và lâu dần biến thành nếp sống, thói quen tốt. Cũng không chỉ với chai nước lọc, mà bất cứ thực phẩm, đồ dùng nào, người Nhật cũng nghiêm túc sử dụng, không để xảy ra sự phung phí nào.

sếp-nhật, công-ty-nhật, doanh-nghiệp-nhật, nhân-viên, tuyển-dụng, doanh-nghiệp

Người Nhật sẽ mang theo những chai nước uống dở của mình chứ không bỏ lại.

Không ít người Việt khi cọ xát với những điều này, đã phải “bực mình” thốt lên, hầu như bất cứ cái gì sử dụng được, người Nhật đều tận dụng tối đa; còn cái gì vứt đi của họ, cũng được chắt lọc rất kỹ lưỡng. Họ chỉ ăn vừa đủ miệng ăn, uống vừa đủ mức uống, có thể nói là tằn tiện chi ly đến đáng ngạc nhiên.

“Họ nấu nướng rất kỹ lưỡng, pha chế đồ ăn tỉ mỉ mà lại chỉ làm rất ít, chỉ vừa đủ để ăn uống thôi, không dư thừa. Rau thì rửa kỹ như chà từng cọng, mỗi loại rau rửa 1 cách. Thịt cá thì xử lý từng gram cụ thể, chi tiết như đo vàng”. Nhận xét này của 1 doanh nhân Việt từng sống nhiều năm ở Nhật được đưa ra nhằm chứng minh: người Nhật là “tằn tiện’ nhất thế giới !

Hãy tập hành xử tiết kiệm

Quay lại với chai nước lọc, 1 nhân viên khách sạn vốn đầu tư của người Nhật tại Hà Nội từng phân tích, thật sự thói quen tiết kiệm như vậy đã giúp ích rất nhiều cho người Nhật.

Cứ tính kỹ mỗi chai nước chứa 1/2 lít nước, nếu sau 1 buổi họp phải đổ đi 20 – 30 chai nước bởi chẳng ai uống thừa lượng nước còn lại trong 1 chai nước mở nắp cả, rõ ràng là việc hao phí tài nguyên nước đáng suy nghĩ.

Hầu như chẳng bao nhiêu người Việt chú ý điều đó, nên gần như nạn lãng phí nước uống này ở các cơ quan, đơn vị Việt Nam là rất phổ biến.

Trong khi đó, do “tằn tiện”, người Nhật chỉ bỏ chai nước khi đã uống hết, họ đã thường xuyên tiết kiệm được 1 lượng rất lớn nước lọc tinh khiết, trong sinh hoạt và chi phí hàng ngày.

sếp-nhật, công-ty-nhật, doanh-nghiệp-nhật, nhân-viên, tuyển-dụng, doanh-nghiệp

Hãy tập uống cạn chai nước của bạn, dù chỉ là 1 chai nước nhỏ trên máy bay.

Một chai nước tiết kiệm như vậy, mỗi cân thực phẩm được tiết kiệm như vậy, tính ra đã giảm thiểu hao phí xã hội rất lớn, phải chăng khiến nước Nhật thêm 1 lý do để ngày càng phú cường ?

Hơn nữa, với thói quen tiết kiệm, chi tiêu đúng mực, hành xử tinh tế như vậy, người Nhật còn xây dựng được thái độ giao tiếp chừng mực, bặt thiệp nghiêm túc cho mình.

Từ những chi tiết nhỏ giữa đời thường đến kỹ năng sáng tạo với công việc, khéo tận dụng mọi chi tiết tưởng chừng nhỏ nhất, người Nhật mới có thể sáng tạo ra những sản phẩm công nghệ, trí tuệ cực kỳ tinh xảo mà chất lượng lại ở đẳng cấp hàng đầu thế giới.

Cho nên, muốn có được sự thành công xuất sắc của người Nhật, phải chăng cá nhân mỗi người Việt, hãy nên xem xét lại chính thói quen tiêu dùng lãng phí của mình. Hãy uống cạn chai nước của bạn, đó là lựa chọn khởi đầu tốt nhất !

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Mâm cỗ có cao hơn tiếng chào?

Mâm cỗ có cao hơn tiếng chào?

image

Ông bà ta có câu “tiếng chào cao hơn mâm cỗ”, ý nói lời ăn tiếng nói đáng trọng hơn là của cải vật chất. Nhìn rộng ra một chút, truyền thống ngày xưa của người Việt Nam là coi trọng cách đối nhân xử thế, mối quan hệ thân tình hơn là vật chất. Vậy mà theo như tôi thấy thì ngày nay dường như truyền thống đó đang bị mai một dần. Ngoài xã hội Việt Nam lúc này tôi chỉ thấy “mâm cỗ” được ưu tiên hàng đầu.

Thời còn học ở Mỹ, có lần tôi gặp một tình huống rất đáng ngạc nhiên. Tôi đếnTexas vào lúc  tiết trời sắp chuyển sang mùa thu. Thời tiết rất đẹp và mát mẻ. Tôi quyết định đi dạo một vòng khu học xá để tham quan nơi mà mình sẽ theo học mấy năm. Khi bước ra ngoài, có rất ngạc nhiên khi thấy nhiều hoàn toàn không quen biết chào tôi “what’s up”, “hello”, “hi”. Tôi chỉ biết gật đầu cười lại. Sau này khi đã quen thân với một vài người bạn Mỹ, tôi có hỏi họ tại sao những người Mỹ không quen đó lại chào hỏi tôi trên đường. Câu trả lời tôi nhận được là: “do thói quen”. Sau này, khi còn ở Mỹ, bất cứ ở đâu tôi cũng gặp những người Mỹ xa lạ cười rất tươi và chào hỏi tôi như người quen thuộc.

image

Quả thật, chắc chỉ ở Mỹ mới có thói quen kỳ lạ như vậy, nhưng thói quen đó lại làm tôi cảm thấy rất dễ chịu và vui vẻ. Chỉ cần một nụ cười, một tiếng nói cũng xóa tan được cái băng giá lạnh lùng. Người Mỹ không hề sống thiếu tình cảm như chúng ta vẫn tưởng. Theo tôi, những người Mỹ xa lạ chào hỏi tôi là vì thói quen, nhưng nguyên nhân là do, với họ, giữa con người với con người cần có sự giao tiếp, và với họ, một tiếng chào không làm mất của họ đồng nào nên chẳng tiếc gì mà không chia sẻ nó với cả những người không quen. Ở một xứ xa lạ, một nụ cười, một tiếng chào bỗng dưng làm trái tim ấm áp lạ. Ngẫm lại xứ mình, đôi khi chúng ta quên việc chào hỏi nhau, thậm chí có lúc còn né tránh. Tôi còn nhớ có một cậu bạn đại học, lần đó chúng tôi đang đi chung trên đường, bỗng dưng cậu ấy nằng nặc đòi rẽ sang hướng khác. Một lúc sau hỏi ra mới biết, chỉ vì trên đường bỗng gặp cô giáo chủ nhiệm cấp ba năm xưa, cậu bạn không muốn phải đến chào hỏi. Tôi cảm thấy xấu hổ giùm cho cậu ta, một người trẻ lại không dám (đúng hơn là không muốn) mở lời chào hỏi người đã từng dạy bảo mình.

image

Lại nhớ, một cô bạn thời cấp ba của tôi lại thực dụng hơn một chút. Ngày còn đi học, mỗi khi đến ngày lễ nhà giáo, cô ấy luôn được gia đình “đầu tư” cho những phần quà to và giá trị nhất để tặng thầy cô. Sau khi đã tốt nghiệp, mỗi lần đến ngày lễ nhà giáo hay lễ tết, lớp chúng tôi đều tụ họp đến thăm thầy cô. Trước là để tỏ lòng tôn kính, sau là để hỏi han sức khỏe của những bậc vi sư, và cũng là dịp để mỗi người chúng tôi cập nhật tình hình của nhau khi đã một thời cùng là học trò dưới một mái trường. Thế mà cứ mỗi lần chúng tôi ngỏ lời mời cô bạn ấy tham gia thì cô ấy không bận việc này thì cũng bận việc khác, còn nói bóng gió là đã ra trường rồi thì cần gì phải đến thăm hỏi thầy cô giáo như vậy nữa. Cảm thấy chạnh lòng, chẳng lẽ đối với cô ấy, việc tôn kính những người thầy lại chỉ có ý nghĩa khi cô ấy còn đi học? Ý nghĩa của ngày nhà giáo rồi cũng nhanh chóng bị quên lãng theo những món quà, phong bao?

Tôi còn để ý thấy người Mỹ rất hay nói “thank you” (cảm ơn) và “sorry” (xin lỗi). Cho dù đó là một anh công nhân ít học, cho đến một vị giáo sư có học hàm học vị cao thì những từ “cảm ơn” và “xin lỗi” luôn thường trực trên môi. Thật ra hai từ ấy cũng chẳng có sức mạnh ghê gớm gì nhưng lại thể hiện một xã hội văn minh và có tính nhân văn, thể hiện được giữa con người với con người có sự quan tâm và tôn trọng lẫn nhau. Ở một khía cạnh khác, cách nói “cảm ơn” và “xin lỗi” cũng thể hiện được tính cách của một dân tộc. Cách đây vài ngày tôi có đọc một bài viết so sánh về cách sử dụng hai tiếng “cảm ơn” của người Việt và người Mỹ. Theo đó, tác giả cho rằng người Việt rất ít khi nói cảm ơn. Thậm chí khi được người khác khen ngợi, người Mỹ thường nói “cảm ơn”, còn người Việt thì thường tìm cách từ chối lời khen đó chứ tuyệt nhiên ít khi nào nói “cảm ơn”. Tác giả cho rằng sở dĩ người Việt hay tìm cách từ chối lời khen ngợi là do thói quen. Dù vui như mở cờ trong bụng khi được khen nhưng chúng ta vẫn một mực tìm cách không nhận lời khen, bởi vì nhận lời khen tặng được xem là đồng nghĩa với thiếu khiêm tốn, và việc nói “cảm ơn” được xem là đồng  nghĩa với việc nhận lời khen. Do đó, người Việt ít khi nói “cảm ơn” khi ai đó khen tặng. Thêm một lý do nữa mà người Việt ít khi nói “cảm ơn”, “xin lỗi” là vì tâm lý ngại, mắc cỡ, xấu hổ, và vì thế khi mang ơn của ai đó hay mắc lỗi nhỏ với ai, thường họ cứ cười trừ cho qua, và tìm cách lờ đi chuyện đó. Trăm lần như một, mỗi khi tôi bước vào bước ra một cửa hàng hay một văn phòng nào đó, tôi giữ cửa cho người sau bước ra cùng thì  chẳng khi nào nghe có ai nói lời cảm ơn. Những lúc tôi giữ thang máy chờ một vài người ở văn phòng làm việc thì 10 lần hết 9 chẳng có ai nở một nụ cười cảm ơn,  nói chi đến chuyện thốt lên hai tiếng lịch sự đó. Còn chuyện không nói lời xin lỗi khi làm lỗi thì gần như ngày nào tôi cũng được chứng kiến. Điển hình nhất là khi có va chạm phương tiện xảy ra trên đường phố, thường thì người có lỗi và người không có lỗi đều đứng dậy và chửi mắng nhau xối xả, nhất định không hỏi han người kia có bị làm sao không, và dù biết mình có lỗi đôi khi cũng tìm cách lơ đi để chối bỏ trách nhiệm.

Thói quen ít nói lời cảm ơn ở nơi công cộng, làm cho người làm ơn có cảm giác mình có bổn phận phải làm việc đó, cảm thấy hành động tốt bụng của mình bị phủ nhận. Dần dà, chẳng còn ai muốn giúp ai ở nơi công cộng nữa. Việc nuốt mất hai từ “xin lỗi” khi làm lỗi còn tai hại hơn khi nó cho thấy rằng đa số người Việt là những người hèn nhát, không dám chịu trách nhiệm về những lỗi lầm do mình gây ra. Còn nhớ trong vụ chìm tàu Sewol ở Hàn Quốc gần đây, những quan chức liên quan đã tự động nhận lỗi và từ chức, thậm chí có người đã tự tử vì cảm thấy tội lỗi nặng nề. Còn ở Việt Nam, các vị vẫn thường đổ lỗi cho nhau và đổ lỗi cho dân vì sự hèn nhát và tham lam cá nhân. Tất nhiên, số đông không phải là tất cả, nhưng rõ ràng thói quen của số đông sẽ ảnh hưởng ít nhiều đến xã hội. Chỉ mong sao hai “tiếng chào” hay lời xin lỗi, câu cảm ơn sẽ lại nở trên môi người Việt Nam.

Tiến sĩ Cao Huy Huân