Chệch Hướng & Ngược Hướng

Chệch Hướng & Ngược Hướng

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Không thể cải cách giáo dục nếu chỉ nghĩ đến sự tồn vong của chế độ.

Huy Đức

Năm 1882 – khi bước chân đến Mỹ – Oscar Wilde nói với nhân viên hải quan ở New York rằng: “Ngoài thiên tài ra, ông không có gì để khai báo cả.” (I have nothing to declare except my genius).

Một trăm năm sau, tại phi trường San Francisco, tôi cũng nghe một câu hỏi tương tự (Do you have anything to declare?) nhưngchỉ buồn bã lắc đầu thay cho câu trả lời vì tôi hoàn toàn không có tài sản hay tài ba gì ráo (để khai báo) ngoài khả năng … chịu đói.

Cái khả năng “đặc biệt” này, chắc chắn, cũng được tập thành bởi rất nhiều người Việt. Xứ sở của chúng tôi là nơi mà nghèo đói hiển hiện ở mọi thời, và hầu như ở khắp cả mọi nơi.

Hồi tháng Giêng năm nay, báo chí trong nước ái ngại đi tin: “Mười một tỉnh (Lai Châu, Lào Cai, Cao Bằng, Yên Bái, Ninh Bình, Nghệ An, Quảng Bình, Ninh Thuận, Bình Thuận, Phú Yên, Kom Tum) đồng loại xin cứu đói.”

Hai tháng sau, cái đói lan tới tuốt Hậu Giang: “Bốn Mươi Bốn Công Nhân Nhập Viện Vì Quá Đói.” Dù đói tới cỡ đó nhưng nhờ khả năng nhịn đói triền miên nên giới công nhân (thỉnh thoảng) vẫn bị Nhà Nước “cấu” bớt một hai ngày lương để giúp đỡ đồng bào vùng lũ lụt, để xây trường mầm non cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, để cất nhà tình nghĩa cho gia đình nghèo khó, để  tặng quà cho qúi bà mẹ Việt Nam anh hùng, để làm cầu cho đồng bào sắc tộc (ở vùng xa, vùng sâu vùng căn cứ cách mạng) hay để ủng hộ (thêm một ngày lương nữa) cho chương trình “Nghĩa tình Hoàng Sa, Trường Sa” tri ân liệt sĩ (của ta) và những người lính Việt Nam Cộng Hoà – như lời của ông Đặng Ngọc Tùng – Ủy Viên Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng, Chủ Tịch Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam (trên báo Lao Động) vào hôm 12 tháng 3 năm 2014.

Tuy cuộc chiến Bắc/Nam đã qua gần bốn mươi năm nhưng (có lẽ) đây là lần đầu tiên “đám lính Sài Gòn”– hay còn bị gọi một cách xách mé hơn là “bọn ngụy quân” – được một quan chức cao cấp của Nhà Nước nhắc đến với đôi chút trọng thị và tình nghĩa: “Máu của những người con đất Việt dù trong các hoàn cảnh lịch sử khác nhau đã đổ xuống để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc Việt Nam yêu dấu.”

Sự tử tế khó ngờ (và đột ngột) của nhà đương cuộc Hà Nội khiến cho nhiều độc giả ngỡ ngàng, và không ít kẻ vô cùng … thất vọng:

21 năm chiến đấu trong mưa bom bão đạn, hàng triệu người Việt Nam đã ngã xuống mới có ngày 30.4.1975. Hôm nay tại sao ông Tùng và báo Lao Động lại kêu gọi ủng hộ tri ân những người lính của chế độ VNCH?

Mới mấy chục năm đã vội quên quá khứ rồi sao? Hay mọi sự qua rồi, thì chúng ta nên thực hiện “hoà hợp”, phải cào bằng giá trị lịch sử? Các vị đang đánh đồng xương máu của những người chiến đấu cho chính nghĩa, cho dân tộc và xương máu của những kẻ chiến đấu cho bọn phản quốc. Trắng – đen, phải – trái, chính- tà cần được khẳng định rõ ràng, chứ không được lập lờ và bẻ cong lịch sử !

© An Nam ( Nghệ An)

Ngôn ngữ sắt thép của ông An Nam khiến tôi nhớ đến không khí sắt máu trong phong trào “phóng tay phát động quần chúng để thực hiện chính sách cải cách ruộng đất” (cũng ở Nghệ An) vào năm 1953, theo như ghi nhận của một nhà văn:

“Một lũ ngồi lúc nhúc ở giữa vòng vây người nung nấu căm thù, nóng rực như vòng lửa. Người xem đông quá là đông. Sóng người xô dồn lên, rồi dạt ra phía sau, rồi lại cuộn xoáy, ôm nhau, níu áo nhau. Không thể nào nghe được dân quân đang tra khảo tội nhân điều gì? Chỉ nghe nhứng tiếng quát lớn;’Mi có khai không? Mi có khai không?’ trộn lẫn với tiếng đấm đá huỳnh huỵch…”

‘Tổ cha cái đồ phản động cái đồ Việt gian’ – có tiếng người hét to như muốn vỡ ngực vỡ họng. Chính cái người hét to ấy đang ôm một gốc cây phi lao sần sùi mấu lao từ trên bức tường xuống như con mạnh thú vồ mồi, giơ cao gốc cây phang một cú vào ngực người bị treo ngược. Người bị treo rú lên một tiếng thất thanh và hai tay run rẩy như con nhái trước lúc chết. Thịch! Sợi dây đứt. Người bị treo ngược rơi xuống, sọ đập trên đất lổn nhổn cứt sắt… Người bị treo ngược bây giờ thành cái xác nằm sõng xoài trên đất ….”  (Võ Văn Trực. Chuyện Làng Ngày Ấy. California: Tạp Chí Văn Học, 2006).

Ông An Nam, tất nhiên, không phải là một nhân vật từ trên trời (vừa) rơi xuống nước Việt. Ông là thành quả hiển nhiên của nỗ lực và quan niệm  trồng người (thụ nhân chi kế) đã được Chủ Tịch Hồ Chí Minh du nhập vào Việt Nam từ giữa thế kỷ trước: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa.”

Những con người (mới) xã hội chủ nghĩa hôm nay, theo giáo sư Đỗ Mạnh Tri, chính là di sản của Mác –xít tại Việt Nam. Di sản này hiển hiện khắp nơi, kể cả nghị trường.

Nguyễn Bắc Việt, đai biểu Quốc Hội tỉnh Ninh Thuận. Ảnh: Anh Ninh Thủ Đô

Sau việc Trung Cộng Quốc ngang nhiên đặt giàn khoan trong vùng biển Việt Nam, ông Nguyễn Bắc Việtđại biểu quốc hội tỉnh Ninh Thuận – đã “tham gia một số ý kiến” như sau:

Một, phải xác định cho rõ nguyên nhân, phải biết đau lòng với tình hình hiện nay của phong trào cộng sản, công nhân quốc tế. Hai nước xã hội chủ nghĩa lình xình với nhau như thế này, ai có lợi?

Hai, phải tiên định mục tiêu lý tưởng “dĩ bất biến, ứng vạn biến” như Bác đã căn dặn. Đó là phải làm sao giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cho cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng đến nay. Xem nhẹ chúng ta sẽ chệch hướng.

Khi nói đến nạn nhân của Chủ Nghĩa Cộng Sản tại Việt Nam, thiên hạ hay nghĩ đến những người bị đấu tố trong C.C.R.Đ, những kẻ bị vùi dập trong Vụ Án Nhân Văn Giai Phẩm hay Xét Lại, những xác người vùi lấp dưới lòng biển cả và giữa rừng sâu hoặc cạnh những trại tù heo hút (rải rác) khắp nước… nhưng không mấy ai quan tâm đến đến hàng chục triệu nạn nhân  đáng thương khác – những kẻ bị giam cầm suốt đời trong thù hận, tăm tối, và dốt nát – như qúi ông An Nam hoặc Nguyễn Bắc Việt.

Nỗi lo Đảng đang “chệch hướng” của ông đại biểu quốc hội tỉnh Ninh Thuận cũng dễ khiến người ta nghĩ đến sự băn khoăn của giáo sư Hoàng Tụy về hiện tượng “lạc hướng” của nền giáo dục hiện nay:

“Giáo dục đang đi lạc hướng, nếu không có bài thuốc nào chữa thì có hết cải tiến rồi lại lùi, đổi mới liên tục nhưng vụn vặt, chắp vá, đổi đi đổi lại chỉ thêm tốn kém tiền của, công sức của dân mà rốt cục lại quay về điểm xuất phát…

Trong thế giới hiện đại, với xu thế toàn cầu hóa không thể đảo ngược được cái lý trên, nước nào không hội nhập, không thích nghi được tất sẽ bị cô lập, bị bỏ rơi, chết lâm sàng rồi từ từ bị đào thải, nếu không sớm tỉnh ngộ.”

Nguồn ảnh: Website Trường Tiểu Học Lê Văn Tám

Không riêng gì giáo sư Hoàng Tụy, nhiều vị thức giả khác cũng đã có lúc bầy tỏ sự quan tâm về hiện tượng “lạc hướng” đáng lo này. Và (chắc) vì vậy nên Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký quyết định thành lập Ủy Ban Quốc Gia Đổi Mới Giáo Dục và Đào Tạo. Theo đó, chính ông là Chủ Tịch Ủy Ban,Trưởng Ban Ban Tuyên Giáo Trung Ương Đinh Thế Huynh và Phó Thủ Tướng Chính Phủ Vũ Đức Đam làm Phó Chủ Tịch Ủy ban – theo như tin loan của Vietnam.net, đọc được vào hôm 27 tháng 5 năm 2014 vừa qua.

Thiệt là … trao duyên lầm tướng cướp!

Ông Nguyễn Tấn Dũng là quan chức đã ký chỉ thị 37 CP cấm tư nhân hoá báo chí. Còn ông Đinh Thế Huynh chính là người làm cho cả dân tộc này “mát mặt” sau khi tuyên bố (trước thềm đại hội ĐCSVN toàn quốc lần thứ 11) rằng: Việt Nam không có nhu cầu đa nguyên, đa đảng và dứt khoát không đa nguyên đa đảng.”

Với cái tâm và cái tầm của Chủ Tịch Uỷ Ban (Nguyễn Tấn Dũng) và Phó Ủy Ban (Đinh Thế Huynh) thì nền giáo dục Việt Nam – phen này – kể như là đi đứt. Nỗi lo “chệch hướng” hay “quay về điểm xuất phát”  (đương nhiên) cũng chấm dứt luôn vì ông Dũng và ông Huynh, chắc chắn, sẽ đi … ngược hướng!

Những thế nào là một nền giáo dục đúng hướng?

Xin mượn lời của ông  Nguyễn Trân Sâm – người tự giới thiệu mình là một thường dân – để trả lời cho câu hỏi (không) khó khăn này:

Xin thưa, đó là nền giáo dục đáp ứng được những yêu cầu hết sức bình thường. Nói ngắn gọn là nó đào tạo được những con người tử tế, tức là có những phẩm chất cơ bản sau: có lòng tự trọng và biết tôn trọng người khác (riêng với cha mẹ, thầy cô và những người cao tuổi còn phải biết lễ phép, nhưng không tuân theo những đòi hỏi phi lý và phi pháp), có năng lực lao động để đem lại lợi ích vật chất hoặc tinh thần cho chính mình và xã hội (có kiến thức và kỹ năng tốt hoặc đạt yêu cầu về nghề nghiệp), có ý thức tôn trọng pháp luật (nhưng không tuân theo vô điều kiện những luật lệ phản động, lạc hậu).

Trong lịch sử các dân tộc phương Đông như Việt Nam, Trung Hoa,… người ta đã diễn đạt những yêu cầu đó bằng những khái niệm “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”. Chỉ thế là đủ. Chỉ có điều ở thời đại ngày nay, đừng lồng vào những khái niệm đó những nội dung như trung thành tuyệt đối với một cá nhân hay nhóm người nào.

Người tử tế không thể xoen xoét nói những điều nhân nghĩa nhưng trong hành động thì chỉ làm và sẵn sàng làm mọi việc vì quyền lợi bản thân, kể cả chà đạp lên quyền lợi người khác, kể cả lợi dụng quyền lực để đàn áp dân lành. Người tử tế không thể là kẻ bợ đỡ, liếm gót những kẻ có quyền lực, đem tiền đi mua bằng cấp, chức tước, dùng chức tước bòn rút tiền bạc và thành quả lao động của người khác. Người tử tế không thể bắt hàng triệu người phải theo mình, phục vụ mình, tôn thờ mình như thánh. Người tử tế không tự nhận mình là người thông thái nhất, là đỉnh cao trí tuệ.

Quan điểm giáo dục nhân bản bình dị đến vậy cớ sao Đảng và Nhà Nước ta (nói chung) hoặc hai ông Nguyễn Tấn Dũng (nói riêng) lại cứ nhất định dẫn dắt toàn dân đi chệch hướng hay lạc hướng? Vì tự bản chất họ không phải là những người tử tế nên không thể thực hiện được bất cứ điều gì đàng hoàng hay tử tế, chớ sao.

 

Thánh Gioan Tẩy Giả, con người kỳ diệu

Thánh Gioan Tẩy Giả, con người kỳ diệu

st-jean-baptistes

Trong năm phụng vụ chỉ có 3 lễ mừng sinh nhật. Đó là Giáng Sinh của Đức Giêsu ( 25.12), Sinh nhật của Đức Maria ( 8.9) và Sinh nhật của Gioan Tẩy Giả (24.6) .

Cuộc đời và sứ mạng của Gioan gắn liền với cuộc đời và sứ mạng của Chúa Giêsu nên Giáo hội có lý do để sắp đặt việc mừng Sinh nhật của Vị Tiền Hô của Đấng Cứu Thế trở thành một Lễ Trọng trong niên lịch phụng vụ.

Gioan được sinh ra kỳ diệu và ơn gọi cũng kỳ diệu trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

1 .Sinh nhật kỳ diệu

Thánh Luca đã nói tới ngày sinh với những dấu hiệu kỳ diệu của Gioan ” Nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời” ( Lc 1,14).

a. Dacaria bị câm

Thân phụ của Gioan bị câm vì nghi ngờ lời Truyền tin của Sứ Thần đang khi ông dâng hương trong đền thờ theo phiên của mình ( Lc 1,5- 23)

b. Khỏi Tội Nguyên tổ

Bà Isave có thai được 6 tháng, Đức Maria đã đến viếng thăm,vừa nghe lời của Đức Maria chào thì thai nhi Gioan đã nhảy mừng trong dạ mẹ ( Lc 1,41) và được đầy tràn Thánh Thần(Lc1,15).Hồng ân này được Giáo hội hiểu là Gioan đã khỏi tội nguyên tổ, một ân huệ cao cả mà ngoại trừ Đức Maria, cả nhân loại không ai có được.

c. Son sẻ mà có con

Hai ông bà Dacaria và Isave là người công chính trước mặt Thiên Chúa,nhưng họ lại không con,vì Bà Isave là người hiếm hoi,cả hai đều đã cao niên ( Lc 1,6- 7).

Vậy mà Bà đã sinh con ” Bà sinh hạ một con trai,nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy,láng giềng và thân thích đều chia vui với bà” (Lc 1,57-58). Trong Cưụ ước cũng có những bà mẹ sinh con kỳ diệu như vậy.Bà Sara mẹ Isaac ( St 11,30;21,1- 7).Bà Rebecca mẹ của Esau và Giacop ( St 25,21- 26).Bà Rakhel mẹ của Giuse ( St 29,21; 30,22- 24).Bà Anna mẹ của Samuel ( 1Sm 1,2- 20).

d. Tên Gioan và hết câm

Gioan sinh được tám ngày, chịu cắt bì và đặt tên là Dacaria nhưng bà mẹ lên tiếng “Không, phải đặt tên cháu là Gioan”. Một tên gọi thật lạ lùng khiến mọi người kinh ngạc vì trong họ hàng của bà không có ai tên đó cả.Khi Dacaria viết tên Gioan trên tấm bảng tức thì miệng lưỡi ông được mở ra,ông hết câm và nói lại được như trước kia ( Lc 1,59- 65).

Mọi biến cố đều kỳ diệu từ khi cưu mang cho đến lúc sinh ra của Gioan vì ” Quả thật,có bàn tay Chúa phù hộ em” ( Lc 1,66).

Sinh nhật Gioan kỳ diệu cũng đúng thôi vì Gioan sẽ lãnh nhận một ơn gọi kỳ diệu là làm Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế.

2 . Ơn Gọi kỳ diệu

a Ngôn sứ Isaia loan báo

” Có tiếng hô từ nơi hoang địa: hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa,sửa lối cho thẳng để Ngài đi.Mọi thung lũng phải lấp cho đầy,mọi núi đồi phải bạt cho thấp,khúc quanh co phải uốn cho ngay,đường lồi lõm phải san cho phẳng.Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” ( Is 40,3- 5; Mc 1,3; Lc 3,4-6; Mt 3,3) . Isaia đã giới thiệu về Gioan như một vị Tiền Hô dọn đường cho Đấng Thiên Sai đến.

b. Ngôn sứ Malakia tiên báo

” Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt con,người sẽ dọn đường cho con đến để làm lòng cha ông quay về với con cháu” ( Ml 3,1- 24; Mt 1,10; Lc 1,17;7,27).Lời Ngôn sứ Malakia nhắc nhở cho người đương thời và hậu thế về ơn gọi của Gioan như vị sứ giả dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến .

c. Sứ Thần Truyền Tin xác nhận

Sứ Thần của Chúa hiện ra với Dacaria,đứng bên phải hương án,xác nhận với ông rằng người con trai của ông sắp chào đời là Gioan Tẩy Giả ” Sẽ đi trước mặt Chúa và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa”( Lc1,17).

e. Thân phụ Dacaria

Dưới tác động của Thánh Thần, Dacaria đã hát lên bài ca chúc tụng “Benedictus” về ơn gọi của người con trai mình “Hài Nhi hỡi,con sẽ đi trước mặt Chúa,mở lối cho Người,bảo cho dân Chúa biết,Người sẽ cứu độ và tha thứ cho họ hết mọi tội khiên” ( Lc 1,76- 77).

f. Gioan khẳng định

Trong một cuộc tranh luận giữa các môn đệ của Gioan và một người Do thái về việc thanh tẩy,tại Enon,gần Salem thuộc miền Giuđê,chính Gioan đã xác nhận ơn gọi của mình : ” Chính anh em làm chứng cho Thầy là Thầy đã nói : Tôi đây không phải là Đấng Kitô mà là kẻ được sai đi trước mặt Ngài” ( Ga 3,28).

Qua sinh nhật và ơn gọi kỳ diệu của Gioan,Thiên Chúa đã đặt Gioan làm gạch nối giữa Cựu ước và Tân ước với sứ vụ đặc biệt đó là Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế.

Là một ngôn sứ trong một đất nước đang thời nhiễu nhương,bị đế quốc Roma cai trị hà khắc,nhiều phe nhóm trong dân nổi loạn,dân chúng lầm than,Gioan cũng mang nặng những ưu tư những trăn trở yêu nước thương dân.

Vị vua Hêrôđê, một hôn quân bạo chúa, sống loạn luân, lấy vợ của anh mình là Hêrôđiađê. Lương tâm ngôn sứ đã thúc đẩy Gioan lên tiếng can ngăn và tố cáo những hành vi sai trái của nhà vua,kêu gọi vua trở về nẻo chính đường ngay.Vì thế Gioan đã bị vua chém đầu.

Trước mặt người đời, Gioan là kẻ thất bại. Sứ mạng của ông không hoàn thành,bị những kẻ gian ác ghen ghét hãm hại, cuối cùng chịu chết chém trong tù.Thế nhưng Đức Giêsu đã nói về ông: ” Trong các con cái người nữ sinh ra,chưa từng một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy giả”(Lc 7,28). Như vậy điều quan trọng trước mặt Thiên Chúa chẳng phải là danh giá hay thành tích mà là thái độ sống.Thái độ sống của Gioan là bất khuất trước bạo lực, dám nói sự thật bảo vệ công lý, cho dù sự thật đó dẫn đến tù đày và cái chết.

Sứ mạng ngôn sứ thời nào cũng thế.Đức Giêsu, vị ngôn sứ làm chứng cho sự thật cũng bị bắt bớ, bị hành hạ và bị đóng đinh thập giá. Các Thánh Tử Đạo cũng đã làm chứng cho sự thật, tiếp nối con đường Thầy mình đã đi,cũng gánh lấy tù tội và cái chết. Bởi lẽ “Nếu thế gian đã ghét Thầy,thì thế gian sẽ ghét các con vì các con sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian” ( Ga 15,18 – 19 )

Được sinh ra và lớn lên trong bàn tay phù hộ của Thiên Chúa.Gioan đã sống vai trò ngôn sứ dọn đường cho Chúa Cứu Thế và đã chết vì chân lý.

Người Kitô hữu chúng ta không cần phải làm được những chuyện kỳ vĩ như Gioan hay như các Thánh Tử Đạo, nhưng với tư cách ngôn sứ chúng ta có thể làm chứng cho chân lý, cho công lý, cho tình yêu.Với tư cách là Tẩy Giả,chúng ta có thể góp một chút bột giặt tình yêu tha thứ để làm sạch tấm chăn môi trường đang bị ô nhiễm trầm trọng bởi những thứ bụi bẩn rác rưới ích kỷ, vụ lợi, hưởng thụ sa đoa, ghen ghét hận thù, dối trá lọc lừa. Và như thế chính là góp phần mở đường dọn lối cho Chúa đến.

Cuộc đời Gioan Tẩy Giả luôn mãi là tấm gương cho chúng ta. Không chỉ rao giảng bằng lời nói mà bằng cả cụôc sống.Chúng ta được mời gọi sống lý tưởng của Gioan : Ngài phải lớn lên,còn tôi phải lu mờ đi.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Anh chị Thụ Mai gởi

“Ca những điệu ngọc vàng, cao sang sảng,”

“Ca những điệu ngọc vàng, cao sang sảng,”

“Lời văng xa, truyền nhiễm đến vô song.”

(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Mt 16: 13-19

Điệu ngọc vàng, nhà thơ đã ca lên, vẫn vang rền những điều truyền nhiễm đến vô song, đầy huyền-nhiệm. Giọng trân-châu, nhà Đạo còn hát mãi đi vào hạo-nhiên lồng-lộng Nước trời, nhiều phấn-kích.

Bài đọc ngày lễ kính thánh Phêrô và Phaolô, tập-trung tiếng hát vô song, huyền-nhiệm có Đức Chúa ở cùng, nhiều ân-sủng. Ân-sủng Chúa ban, đã giúp đỡ các ngài trở-thành đấng thánh trụ-cột duy-trì thánh Hội, rất nhiều thời.

Thánh Phêrô và Phaolô đều có điểm đặc biệt: vừa giống nhau lại vừa khác-biệt, rất chân-chất. Hai thánh giống nhau ở điểm: cả hai đều là người Do-thái nhiệt-thành, xuất chúng. Trong khi thánh Phêrô, xuất thân từ làng chài bình dị ở Galilê, học hành không nhiều nhưng cung-cách rất riêng tư, khi hành-xử. Còn thánh Phaolô, là vị thánh có quốc-tịch Rôma, từng xuất thân từ trường lớp rất La Mã, nhưng thuộc thế-giới Do-thái hạnh-đạo.

Thánh Phêrô từng dẫn dắt những người theo Chúa Giêsu, nên biết Ngài rất rõ. Còn thánh Phaolô chỉ gặp gỡ Ngài trong thoáng chốc trên đường đi Đa-mát nhưng lại thông-hiểu Chúa Sống lại, hơn ai hết. Thánh Phêrô là con người bồng-bột, giản-dị phạm nhiều sai sót. Trong khi thánh Phaolô thì tính-khí phức-tạp, không dễ gì làm hoà được với nhiều người.

Do có khác-biệt về tính-khí, nên hai thánh đã hiểu lầm, xung-đột và bất đồng chánh-kiến, rất nhiều lần. Tuy thế, các ngài vẫn luôn gắn bó tình mến-thương cùng một Thày Chí Thánh cả vào khi chấp-nhận cái chết cho lòng Đạo Thày răn dạy. Điểm son ấy, lại cũng xuất từ tính giản-đơn và kết-hiệp nơi Đức Kitô, Đấng thiếu vắng tính cao-siêu, phức-tạp. Nét đẹp sáng-tạo là do sự bất-đồng nhưng lại hài-hoà từ sự khác-biệt của các yếu-tố tạo-thành.

Gương lành dị-biệt giữa tín-hữu thời tiên-khởi và đặc biệt giữa thánh Phêrô và Phaolô là lời mời gọi Hội-thánh cũng như mỗi người trong ta hãy tôn-trọng sự đa-dạng nơi lập-trường/quan-điểm, sức bén nhạy và phong-phú nơi nét đặc sắc khác-biệt ấy.

Bài đọc 1, sách Công Vụ cho thấy bầu khí vui tươi ban đầu khi thánh Phêrô sử-dụng quyền-bính với đồ-đệ và người theo Chúa, sau ngày Ngài khuất vãn. Cộng-đoàn khi ấy đều đã kết-hiệp nguyện-cầu ở phòng kín, có cửa đóng then cài. Lúc ấy, duy chỉ mỗi thánh Phêrô vắng mặt vì bị giam-giữ. Nhưng rồi, thánh-nhân thoát ngục cách lạ kỳ như chuyện trinh-thám. Ra tù, là chuyện dễ. Nhưng vào với cộng-đoàn Hội-thánh lại không thế. Bởi, thánh Phêrô là loại người có cung-cách diệu-kỳ luôn thu hút mọi người cả những chuyện không đâu lẫn việc đón-nhận ân-huệ mới, giống con trẻ.

Bài đọc 2, diễn-lộ đoạn cuối công-trình hoạt-động của thánh Phaolô, khi ấy xem chừng cũng đã mỏi mệt, già đi với mộng ước thường có, tính-khí cũng phức-tạp bởi cứ than-phiền là mọi người như thánh Máccô và Barnaba hằng lánh thân để thánh-nhân lại một mình, trơ trọi. Nhưng niềm tin ngài có vào Đức Kitô vẫn không hề chuyển lay và thánh-nhân cũng duy-trì niềm tin sắt-son cho đến chết như thánh Phêrô.

Trình thuật thánh Mát-thêu đưa ta về lại với lời tuyên-tín của thánh Phêrô và sứ-vụ Chúa giao trong đó có trọng trách dẫn dắt thánh hội. Lời thánh Phêrô tuyên xưng là câu đáp-trả khi Đức Giêsu hỏi mãi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” một câu hỏi đượm tính mật-thiết đặt nặng lên từ-vựng “bảo”. Bảo đây, tức nói lên niềm-tin vào Thày mình là “Đức Kitô, Con Thiên-Chúa hằng sống.”

Niềm tin, thật ra không chỉ là động-thái nội tại nơi tâm can, cũng không chỉ là nhận-định mang tính thiêng-liêng, tinh thần. Nhưng vẫn cần nói ra bằng lời nói cũng như hành-động. Bằng ngôn-ngữ riêng-tư, bình dị, của chính ngài thánh Phêrô tuyên-xưng thiên-tính của Đức Giêsu, Thày mình.

Điều đó có nghĩa: Thày chính là Đấng Thiên-Sai. Là, Con Một của Thiên Chúa hằng sống. Và về sau, thánh-nhân còn tuyên-tín như thế cũng rất dài bằng những tháng ngày cuộc sống dẫn đến cả nỗi chết, cũng vì Thày. Tất cả, đều là sự nối dài, nới rộng của lời tuyên-tín rất đáng tin được thánh-nhân phát nên lời.

Hệt như thế, thánh Hội là cộng-đoàn gồm những người, những vị từng lĩnh-nhận thông-điệp về Đức Kitô nơi lời lẽ rất đáng tin của thánh Phêrô. Lời lẽ ấy, là cung-cách khiến thánh cả tuyên-xưng Thày mình đích-thị là Ai, Đấng nào.

Mỗi người chúng ta, là thành-viên cũng như cơ-phận của thánh Hội do Thày Giêsu đặt để, cũng phải biết đáp trả câu hỏi của Đức Giêsu Thày Chí Ái như thánh Phêrô từng làm. Nói bằng lời, là cung-cách giúp ta khẳng-định được niềm tin mình vẫn có xưa nay. Nói bằng lời hay hành-động, còn là chuyển-dịch những lời lẽ ấy vào cuộc sống biết phục-vụ người khác. Là, chuyển-ngữ Lời Chúa thành sự việc rất hiện-thực, trong đời mình.

Hôm nay đây, hai cột-trụ của thánh hội là thánh Phêrô, đại diện cho 12 vị đồ-đệ được Đức Giêsu mời gọi vào thời ấy, và cột-trụ kia là thánh Phaolô là đấng bậc đầu tiên đến với Chúa cũng khá trễ nhưng được gọi để trở thành nhân-chứng cho những gì Đức Giêsu từng làm.

Giống như hai thánh cả là cột-trụ của Hội thánh, mọi người chúng ta cũng được mời gọi ra đi tuyên-xưng và rao truyền Tin Mừng bằng cách sống thực Lời Lẽ của Ngài. Ra đi loan báo Tin Vui cho mọi người, bằng cung-cách sống-thực điều mình rao báo.

Nhưng, như thế vẫn chưa đủ. Ta còn được mời gọi rao truyền bằng lời lẽ, tuyên-xưng niềm tin mỗi ngày và mọi ngày trong đời mình ngang qua phụng-vụ và lời nguyện cầu, dâng lên Chúa. Ta làm nhiều hơn thế trong lời ca chúc tụng ngợi khen, ngang qua Đức Giêsu Kitô Con Một Thiên Chúa, là Chúa chúng ta. Nhiều vị, lại cũng được kêu mời bằng lời rao giảng, hoặc diễn-giải Lời của Chúa, rất hăng say.

Làm cách nào cũng là làm, nhưng điều quan-trọng là nối-kết lời lẽ mình diễn-giải hoặc rao truyền vào với cuộc sống đích-thực hằng ngày. Và, vào với hy-vọng rằng Đức Giêsu sẽ đáp-trả lời ta tuyên-xưng Ngài bằng cách cũng tuyên-dương cảm kích mối thịnh-tình của ta trước Thiên-Chúa-là-Cha Ngài.

Trong tinh-thần phấn-kích quyết tuyên-xưng, ta lại về với lời thơ những ngâm rằng:

“Ca những điệu ngọc vàng cao sang sảng,

Lời văng xa truyền nhiễm đến vô song.

Bầu hạo-nhiên lồng lộng một màu trong,

Không rung động bởi tơ huyền náo nức.”

(Hàn Mặc Tử – Ngoài Vũ Trụ)

Ca vang điệu ngọc cao sang sảng, lại cũng là và mãi mãi là tuyên-xưng niềm tin ta có với Chúa không chỉ bằng lời mà thôi. Nhưng, bằng cả cuộc đời hăng say, cảm-kích rất phấn-chấn được làm con và là đồ đệ của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa hằng sống, rất như thế. Mãi một đời.

Viện phụ Armand Vielleux, OCSO (Scourmont, Bỉ) trước tác.

Mai Tá lược dịch bản tiếng Anh

do Lm Kevin O’Shea CSsR dịch từ tiếng Pháp

“Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi,”

“Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi,”
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt.

Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt
Rọi suốt trăm năm một cõi đi về.”

(Trịnh Công Sơn – Một cõi đi về)

(Lc 9: 6tt)

Đặt đầu đề cho bài hát nghe quen như thế, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đâu có tả tình/tả cảnh cái cõi nào đâu mà gọi là “một cõi đi về”.  Có đi và về như thế, mới hát “Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt”. Cũng có thể, nghệ-sĩ nhà mình quá mệt mỏi nên cứ ngồi ở nhà mà nhìn mưa rơi, rồi lại hát:

“Nghe mưa nơi này lại nhớ mưa xa.

Mưa bay trong ta, bay từng hạt nhỏ.

Trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ.

Chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà.

Đường chạy vòng quanh một vòng tiều tụy.

Một bờ cỏ non một bờ mộng mị ngày xưa.

Từng lời tả dương là lời mộ địa.

Từng lời bể sông nghe ra từ độ suối khe.

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Thế đó, là ý-kiến của nhà thơ khi viết nhạc ở đời thường, có nhiều cõi cứ đi và cứ về. Thêm vào đây, là tư-tưởng của nhà Đạo ở chốn trên cao bên trời Tây xứ ấy, rất như sau:

“Trong thánh-lễ tại nhà nguyện Santa Maria sáng thứ Năm ngày 8 tháng 5, Đức Phanxicô đã trình-bày những suy tư của ngài trên bài trích sách Tông Đồ Công Vụ thuật chuyện ông Philípphê rao giảng Tin Mừng và rửa tội cho một viên thái giám.

Đức Thánh Cha giải thích rằng bất cứ Kitô-hữu nào muốn rao giảng Tin Mừng nên vâng phục ý chí và ân sủng của Thiên Chúa, cũng như mở cửa cho đối thoại.

Đức Giáo Hoàng lấy làm tiếc rằng đôi khi Bộ máy quan liêu trong Giáo hội là một trở ngại  cho những người muốn được gần gũi hơn với ân-sủng của Thiên Chúa.

Đức Thánh Cha nói: “Ông Phillípphê vâng phục, ông ngoan ngoãn và chấp nhận lời mời gọi của Chúa. Chắc chắn ông phải bỏ ngang nhiều thứ đang thực hiện dở dang, bởi vì các Tông Đồ trong khoảng thời gian đó đang rao giảng Tin Mừng rất bận rộn. Ông bỏ lại tất cả mọi thứ và lên đường. Và điều này làm cho chúng ta thấy rằng nếu không có sự vâng phục/hiền lành trước tiếng nói của Thiên Chúa không ai có thể rao giảng Tin Mừng, không ai có thể loan báo Chúa Giêsu Kitô: cùng lắm là chỉ loan báo về chính mình. Chính là Thiên Chúa, Đấng kêu gọi chúng ta, chính là Thiên Chúa Đấng kêu gọi Phillípphê trên con đường đó. Và Phillípphê đã ra đi. Phillípphê ngoan ngoãn vâng lời.”

“Anh chị em không thể nào rao giảng Tin Mừng mà không đối thoại. Đó là điều không thể. Bởi vì chúng ta phải bắt đầu với xuất xứ của người đuợc Phúc Âm hoá. Điều này rất là quan trọng.” (x. www.tamlinhvaodoi.net, Tình trạng quan liêu của Giáo hội 15/5/2014)

Tư-tưởng và lập-trường của đấng-bậc ở trên cao nơi nhà Đạo thì như thế. Như thế, tức đã diễn tả những khía cạnh hân-hoan/vui mừng của sự việc Phúc-Âm-hoá, tức Tin Mừng. Tin Mừng với người nhà Đạo, là phổ-biến tin nói rằng “Thiên-Chúa-là-Tình-yêu” nay đang trải rộng khắp chốn miền có rao và có giảng. Đồng thời có cả đối-thoại với cả những người không ở trong Đạo.

Tin vui về Tình Thương-yêu, còn trải rộng bên ngoài nhà Đạo, tức nơi cuộc đời gồm đầy những thương-yêu đằm thắm rất thi-ca. Thế đó, là tình yêu-thương đôi lứa rất chí tình được diễn tả bằng lời thơ, nét nhạc đời như tâm-tình của người viết cũng rất thơ, như ở trang thư gửi người tình của mình:

“Đêm đã xuống dày và sương cũng đã bay vào cửa sổ. Lạnh lắm Ánh. Anh cố gắng buộc đời mình vào nỗi đơn độc này để còn Ánh. Trong cuộc sống với số – phần – vực – thẳm này vẫn còn hình – phạt – huyền – nhiệm đó để ru mình vào bình an. Anh không mong gì hơn, Ánh ơi. Ánh ơi.

Bình hoa hồng trước mặt anh có những cánh hoa đều đặn thật đẹp. Anh vẫn thường nghĩ đến hình ảnh một người con gái cầm nhánh hoa hồng buổi chiều đi trên hè phố một mình. Hè phố thì vắng. Hè phố dẫn về một giáo đường. Buổi chiều người con gái tay cầm nhánh hoa hồng, đầu cúi gặp trên hàng ghế gỗ nhà thờ, áo lụa trắng trải dài trên thân thể như một linh – thiêng. Anh ca tụng hình ảnh đó trong anh. Đôi lúc hình ảnh đó mang khuôn mặt của Ánh. Của Ánh. Của Ánh.” (Xem Trịnh Công Sơn, Thư Tình Gửi Một Người, nxb Trẻ 2013 tr. 40)

Ý thơ và giòng nhạc tình là như thế, cứ triển-nở nơi ca-từ anh viết vào hôm trước, ý-tứ vẫn  bảo rằng:

“Lời nào của cây, lời nào cỏ lạ.
Một chiều ngồi say, một đời thật nhẹ ngày qua.
Vừa tàn mùa xuân, rồi tàn mùa hạ.
Một ngày đầu thu nghe chân ngựa về chốn xa.
Mây che trên đầu và nắng trên vai.
Đôi chân ta đi sông còn ở lại.
Con tim yêu thương vô tình chợt mỏi.
Lại thấy trong ta hiện bóng con người.”

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Mỏi lắm không, con tim yêu thương ấy? Mệt rồi ư, nhưng sao vẫn viết và hát, như sau:

“Trong khi ta về lại nhớ ta đi.
Đi lên non cao đi về biển rộng.
Đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng.
Ngọn gió hoang vu thổi suốt xuân thì.
Hôm nay ta say ôm đời ngủ muộn.
Để sớm mai đây lại tiếc xuân thì.”

(Trịnh Công Sơn – bđd)

À thì ra: “trong khi ta về lại nhớ ta đi…”, nhớ cả vào lúc “ôm đời ngủ muộn” để rồi “sớm mai đây lại tiếc xuân thì!” Tiếc hay không, nhà thơ vẫn biết đó là tiếc và thương một cõi đi về? Quan liêu hay cường điệu, phải chăng là trạng-huống của ai đó vẫn cứ sống và cứ giảng rao, nhưng chừng như đã nghe thấy ở đâu đó có ca từ của nghệ sĩ vẫn cứ hát: “đi đâu loanh quanh, cho đời mỏi mệt.”

Mỏi mệt ư? Thế thì, một đời giảng rao/rao giảng “Thiên-Chúa-là-Tình-Yêu” cho muôn người có mệt và có mỏi không? Câu trả lời chắc chắn không thể nào có ngay ở đây bây giờ, được. Thế nên, bần đạo bày tôi đề-nghị ta cứ “loanh quanh” đây đó để tìm gặp các lập-trường ý-tưởng và tâm-thức của bà con anh em bầu bạn ở đâu đó, cũng rất lạ.

Trước hết là ý chính của Lời Vàng đấng thánh-hiền khi trước vẫn diễn tả:

“Sau khi thấy thị kiến đó,

lập tức chúng tôi tìm cách đi Makêđônia,

vì hiểu ra rằng

Thiên Chúa kêu gọi chúng tôi

loan báo Tin Mừng cho họ.”

(Cv 16: 10)

Và, ở một đoạn khác, bậc thánh-hiền lại cũng ghi:

“Đức Giê-su tập họp Nhóm Mười Hai lại,

ban cho các ông năng lực và quyền phép

để trừ mọi thứ quỷ và chữa các bệnh tật.2

Người sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa

và chữa lành bệnh nhân…

Các ông ra đi,

rảo qua các làng mạc loan báo Tin Mừng

và chữa bệnh khắp nơi.”

(Lc 9: 6tt)

Thế đó là hiệu lệnh. Thế đấy, lại là thực-tế với thực-tại ở nhiều nơi vẫn như thế. Nhiều nơi, trên thế-giới, vẫn thấy vấn-đề là: thực-tế và thực-tại mà bạn và tôi, ta thấy có gì đáng ngại, và sự thể thực-tế nay ra sao?

Đây là vấn-đề không nhỏ, để tìm-hiểu. Nhưng, cứ từ từ rồi bạn và tôi, ta cũng sẽ tìm ra cung-cách để nắm bắt mối gút từng thắt chặt rồi lần ra được sự thể rất thực-tiễn khá thực-tình và cũng rất thực. Nói thực như thế rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta đi vào chốn rất thực ở ngay dưới.

Nhưng, trước khi đi vào chính-đề, tưởng cũng nên ngang qua một vài truyện kể khá lai rai đại loại cũng lễ-mễ để trích và dẫn. Thực ra, truyện kể ở bên dưới không phải để ta diễn tả lý-chứng của sự giận-dữ hay giận-hờn nào khác; nhưng, lại gián-tiếp nói về Tình-Yêu viết Hoa, chứ không chỉ tình đôi lứa, mà thôi. Thôi thì, ta cứ mời nhau nghe truyện kể vẫn nhủ rằng:

“Có vị hiền-triết nọ, một hôm lên tiếng hỏi các đệ-tử của ông, như sau:

-Tại sao trong cuộc đời, nhiều người cứ phải hét cho thật to vào mặt nhau?

Sau một hồi suy-nghĩ, một trong các đệ-tử của ông bèn trả lời:

-Thưa, là bởi vì người ta mất bình tĩnh,mất tự-chủ!

Nghe thế, vị hiền-triết không đồng ý lắm với câu trả lời như thế, nên lại hỏi:

-Nhưng, tại sao lại phải hét lên như vậy trong khi cả hai người đang ở cạnh nhau. Tại sao hai người không thể nói bằng âm-thanh vừa đủ cho nhau nghe, thôi?

Các đệ-tử lại ngẫm-nghĩ thêm phút chốc hầu trả lời thày mình, nhưng không ai có được lời giải-thích nào khả dĩ khiến vị thày của họ hài lòng hết. Cuối cùng, ông mới bảo:

-Khi hai người giận nhau, thì trái tim của họ không còn ở gần nhau nữa. Tự thâm-tâm, họ thấy giữa họ và người kia có một khoảng cách rất xa, nên nếu muốn nói cho nhau nghe, họ phải dùng hết sức bình sinh để hét lên cho thật to. Giận dữ càng lớn, thì khoảng cách càng xa và họ lại càng nói to hơn, để tiếng nói của họ bao trùm lên khoảng cách ấy.

Ngưng một lúc, rồi vị hiền-triết lại hỏi:

-Thế, còn khi hai người hai người yêu nhau thì thế nào? Họ không bao giờ hét to mà chỉ nói rất nhỏ nhẹ thế nghĩa là làm sao? Nhỏ nhẹ, là bởi vì trái tim họ nay cận kề bên nhau. Khoảng cách giữa hai người, giờ rất nhỏ…

Nói thế rồi, vị hiền-triết lại tiếp tục:

-Khi hai người yêu nhau thật đậm sâu, thì cả hai không nói nữa mà chỉ thì thầm, vì đã ở gần bên nhau bằng tình yêu của họ. Cuối cùng, ngay cả tiếng thì thầm cũng không cần-thiết nữa, cả hai chỉ cần đưa mắt nhìn nhau, cũng đã đủ. Vì, ngang qua ánh mắt, họ đều đã biết đối phương nghĩ gì, muốn gì rồi… Khi các con bàn cãi với nhau về vấn đề gì đó như tình thân thương chẳng hạn, hãy giữ sao cho trái tim của các con lúc nào cũng cận kề. Đừng bao giờ thốt ra điều gì khiến các con cảm thấy xa cách nhau nữa… Nếu không thì, một ngày nào đó khoảng cách ấy càn lúc càng nới rộng, càng xa cách và khi ấy các con sẽ không tìm ra con đường nào để quay trở về được nữa rồi…”

Truyện kể về tình thân thương/yêu mến rất ở trên, có thể áp-dụng vào nhiều trường-hợp. Cả những trường-hợp có quyết-tâm trải rộng tin vui mừng về “Thiên-Chúa-là-Tình-Yêu” mà mọi người đều biết. Nhưng, vì một lý-do nào đó, lại đã không tiếp tay dàn trải cho người bị quên sót hoặc “mỏi mệt” vì cứ phải “đi loanh quanh” mãi bên lề cuộc đời.

Chẳng thế mà, nghệ-sĩ ngoài đời lại cứ hát mãi câu ca, trước, rằng:

“Trong khi ta về lại nhớ ta đi.
Đi lên non cao đi về biển rộng.
Đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng.
Ngọn gió hoang vu thổi suốt xuân thì.
Hôm nay ta say ôm đời ngủ muộn.
Để sớm mai đây lại tiếc xuân thì.”

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Còn nhớ, có lần truyền-thông báo chí ở Úc lại đã thông-truyền về chuyện đấng bậc vị vọng nó có tên là Bob Maguire từng bảo: “Bạn sẽ không thể nào rao truyền Tin Mừng của Chúa được, nếu không đi ra bên ngoài mà làm cho đôi tay mình lấm bẩn một đôi chút…” Để diễn rộng ý của Lm Bob Maguire, cây viên có tên là Ray Cassin từng viết như thế này:

“Trong tông thư đầy khích-lệ mang tựa-đề là “Niềm Vui Rao Giảng Tin Mừng” Đức Phanxicô có nói: Tôi thích có một Giáo hội bị bầm-dập, đau mình mẩy và lấm bẩn vì từng có mặt ngoài phố chợ hơn là Giáo hội lành mạnh vì cứ giới hạn và bám riết vào chính sự an-toàn của mình…”

Lời của Đức Phanxicô có ý muốn đỡ nâng hàng giáo sĩ cũng như giáo-dân từng để thì giờ ra mà ở giữa những kẻ bị bầm-dập, xúc phạm và lam lũ bẩn thỉu vẫn lớn lên trong giới lao-động thợ thuyền hơn là cứ ngồi ở nơi chốn ổn-định rồi hướng-dẫn/khuyến-khích người khác như giới chức ở giáo-triều. Trong số các đấng bậc hoạt động rất nhiệt-tình ở Úc, có linh mục được biết đến rất nhiều là Lm Bob Maguire.

Lm Bob Maguire không còn là mục-tử dẫn dắt họ đạo thánh Phêrô và Phaolô ở Melbourne nữa, mà chỉ là linh mục đi đứng nhiều hơn là ngồi một chỗ, trong giáo xứ. Ngang qua tổ-chức có tên gọi là “Father Bob Maguire Foundation”, vị linh mục đầy nhiệt-huyết này vẫn tiếp-tục hoạt-động tông-đồ chung đụng với người nghèo khó, vô gia-cư và giới xì-ke ma-tuý đã biến ông trở-thành người nổi tiếng trong giới truyền-thông đại-chúng. Và mới đây, ông còn xuất hiện với tư-cách là ngôi sao điện-ảnh trong bộ phim tài-liệu của Lynn Maree Milburn được ca-tụng rất nhiều là phim “In Bob We Trust”…

Có lần, người thưởng lãm từng tìm-hiểu xem: sau khi không còn là linh mục chánh-xứ nữa, ông sống ra sao? Ông có suy-nghĩ gì khác lạ về Giáo hội và nhất là loại-hình mục-vụ theo kiểu ông đeo đuổi không? Thì được ông cho biết: “Quí vị biết đấy. Đã có lúc tôi giống như đám trẻ mồ-côi bị người khác lấy đi căn-tính/lý-lịch của mình ngay từ nơi mà tôi coi như thánh-địa của mình. Gọi như thế, là vì đó là nơi tôi từng đổ mồ hôi sôi nước mắt do không chỉ mình tôi mà cả các giáo-dân ở nơi đó đã đầu-tư tạo dựng nên. Quả thực, nó là như thế đó.  Nếu nói bằng ngôn ngữ của Công Đồng Vaticăng thứ 2 thì điều đó có thể gọi là “văn-hoá nhập-nội” . Và, thực sự thì: ta không thể nào rao truyền Tin Mừng của Chúa được, nếu không có thứ văn-hoá nhập-nội ấy.”

Bằng vào sự đổi thay văn hoá của pháo-đài trung-ương, thì một khi đã đi vào nền văn-hoá nhập-nội như thế rồi, ta sẽ được coi như đang áp-dụng thứ văn-hoá của Đức Phanxicô Bergoglio. Và khi đó, ta sẽ biến nhà xứ không chỉ thành mỗi chốn miền để nuôi dưỡng người nghèo mà thôi, nhưng còn trở-thành mái ấm tình-thương giống như kiểu của Dorothy Day đang thực-hiện ở bên Mỹ.

Ý của Lm Bob Maguire là: chủ-trương của Công Đồng Vaticăng 2 kéo dài bằng việc mở rộng lòng ra với nhân-loại mà ông coi có là thành-quả của Công đồng này. Ông tin rằng thành-quả ấy đã bị những vị chủ-trương “xét lại” đánh phá dữ dội nên đã để luột mất, nhưng nay lại được Đức Phanxicô đang tìm cách tái-tạo tinh-thần của một Vatican thứ 2 đấy thôi.” (xem Ray Cassin, The Do-It-Yourself Catholic, Australian Catholics số Summer edition năm 2014, tr. 22-23)

Nói đi thì lại nói lại, chuyện phiếm Đạo/đời mà lại nói chuyện Đạo nhiều hơn đời e cũng khó. Khó nuốt trôi, khi những người quan-tâm đến chuyện đạo hay chuyện của Giáo-hội vẫn là những vị còn nằm trong guồng máy của Giáo-hội vì nhiều thứ. Có một thứ nên làm nếu muốn nói đến và nói về “Thiên-Chúa-là-Tình-Yêu” là cứ nói nhiều về tình-yêu nhưng không theo lối biện-luận hoặc cãi cọ, mà theo cung-cách của truyện kể rất dân gian.

Nếu thế thì, mời bạn và mời tôi, ta cứ thế mà “tự-nhiên như người Hà-Nội” của cha ông tôi, đừng khách sáo. Nay, hãy đi vào vườn truyện kể mà kể cho nhau nghe những chuyện rằng:

“Hôm ấy, trong buổi học, cô giáo dặn các em học sinh là: ngày mai, mỗi người hãy mang theo một dụng-cụ bảo-vệ sức-khoẻ. Hôm sau, cô gọi một em có tên là Cu Tý, mà hỏi:

-Tí à, hôm nay em đem gì vậy?

-Dạ, em đem băng gạt để băng bó vết thương, khi bị nạn.

-Giỏi! Thế còn Tèo thì sao?

-Dạ, em đem Oxy già để rửa vết thương, nếu có bị.

-Tốt! Còn bé Tũn đem gì?

-Dạ thưa cô, em đem bình Oxy!

-Em lấy của ai vậy?

-Dạ, em lấy của Bà em đấy cô!

-Thế lúc em đem đi Bà của em có nói gì không?

-Dạ không! Bà chỉ thở dài rồi phều-phào bảo: Không…được…đem…nó..đi…

-Thế thì em làm sao?

-Dạ, thì cô bảo em đem đi rồi sẽ đem về cũng được.

-Không được! Lập tức em phải đem về cho Bà thở chứ!!!

Còn bé Lan đem gì thế?

-Dạ, em đem theo nụ cười!

-Sao lại thế? Nụ cười thì ai chả có, đem đến đây làm gì?

-Thưa cô, em nghĩ: chỉ có nụ cười mới giải quyết được mọi sự, cả yêu thương lẫn sức khoẻ”.

(truyện kể như của người lớn chế, nhưng đâu sao)

Vâng. Truyện kể, do ai kể mà chả được. Miễn, nó đáp-ứng được nhu-cầu của người nghe, và cả người kể nữa. Vâng. Đúng là như thế. Bởi lẽ, trong quá-trình kể lể những chuyện khá “phiếm” như thế này, thì: truyện kể vẫn cần hơn chuyện biện-luận này khác, dù về Đạo.

Nghĩ thế nên, bần đạo bầy tôi đây hẹn sẽ còn kể lai rai dài dài, nhiều chuyện phiếm, cũng rất “phiếm”, chỉ để vui trong sống Đạo giữa cuộc đời có quá nhiều thứ thiếu vui, như con người. Chí ít, là người đi Đạo và giữ Đạo, nhưng không sống thực một đời người rất có Đạo. Đạo làm người và sống với mọi người trong đời.

Trần Ngọc Mười Hai

Có viết nhiều viết ít

Những chuyện phiếm Đạo đời,

Cũng chỉ để cho vui.

Mà thôi.

Việt Nam lún sâu vào bãi lầy do Trung Quốc tạo ra

Việt Nam lún sâu vào bãi lầy do Trung Quốc tạo ra

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-06-20

namnguyen06202014.mp3

nguyen-phu-trong-305.jpg

TBT Nguyễn Phú Trọng gặp Ủy Viên Quốc Vụ TQ Dương Khiết Trì tại Hà Nội chiều 18/6/2014.

AFP

Quan điểm khác biệt

Tình hình biển Đông càng nóng hơn sau các cuộc gặp gỡ của ông Dương Khiết Trì Ủy viên Quốc vụ Trung Quốc với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Phó Thủ tướng Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh. Báo chí trong ngoài nước cho là hai bên giữ nguyên quan điểm khác biệt trong vụ giàn khoan, hay nói cách khác đó là cuộc đối thoại giữa hai người điếc.

TS Phạm Chí Dũng, nhà bình luận độc lập từ Saigon nhận định:

“Tôi cho là đó là cuộc nói chuyện giữa hai người khiếm thính thì đúng hơn, họ nói họ nghe nhưng họ không hiểu nhau và có vẻ như họ cố tình không hiểu nhau. Nếu gọi Việt Nam là kẻ khiếm thính thì Trung Quốc còn có thể đóng trai trò một người câm nữa. Tại vì cho tới ngày hôm nay thì thêm một giàn khoan nữa đã được kéo vào biển Đông Việt Nam đó là giàn khoan Nam Hải 9 và tôi cho là hiện nay ở biển Đông Việt Nam có tới ba giàn khoan. Thứ nhất là Hải Dương 981 thứ hai là Nam Hải 9 và còn một giàn khoan sống đi bằng hai chân mang tên là Dương Khiết Trì tại Hà Nội nữa.”

Tôi cho là đó là cuộc nói chuyện giữa hai người khiếm thính thì đúng hơn, họ nói họ nghe nhưng họ không hiểu nhau và có vẻ như họ cố tình không hiểu nhau.
-TS Phạm Chí Dũng

Theo báo chí tường thuật, hai ông Phạm Bình Minh và Dương Khiết Trì gọi nhau là đồng chí và luôn cùng sử dụng nhóm từ Đảng, Nhà nước và nhân dân. Đảng luôn luôn đứng đầu khi hai ông nêu các quan điểm về vấn đề biển Đông. Có vẻ ý thức hệ Cộng sản vẫn chi phối quan hệ Việt Trung rất sâu đậm. Nhà giáo Đỗ Việt Khoa ở Hà Nội nhận xét:

“Trong quan hệ quốc tế bình thường giữa hai quốc gia, khi xưng hô, người ta sẽ gọi là ông, là ngài, là tôi chứ không thể có chuyện cho đến thời điểm này, cứ gọi nhau là đồng chí như thể ý thức hệ lệ thuộc hay mình là đàn em phải nịnh người ta không bằng. Nó cho thấy kiểu xưng hô khiếp nhược.”

Từng là Đảng viên Đảng Cộng sản cho tới khi xin ra khỏi Đảng hồi gần đây, TS Phạm Chí Dũng có cách nhìn riêng về sự ràng buộc ý thức hệ Việt Nam-Trung Quốc. Theo lời ông, đó là một sự bế tắc cả về mặt xưng hô lẫn từ vựng cũng như văn hóa giữa hai quốc gia. TS Phạm Chí Dũng nhận định:

000_Hkg9950036-250.jpg

Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh (phải) tiếp Ủy viên Quốc vụ viện TQ Dương Khiết Trì tại nhà khách chính phủ ở Hà Nội ngày 18 tháng 6 năm 2014. AFP PHOTO / POOL / LƯƠNG THÁI LINH.

“Nếu tính từ năm 1950 trở lại đây, có thể nói hai quốc gia Việt Nam và Trung Quốc đã từng bế tắc nhiều lần và cứ mỗi lần bế tắc như vậy thì họ lại thay đổi cách xưng hô, đặc biệt từ đồng chí hay là 4 tốt 16 chữ vàng hay là tất cả những từ tương tự như vậy, đều đại diện cho một sự bất nhất mà họ có thể dùng bất cứ lúc nào, nhưng đồng thời cũng phản ánh cho sự trả giá trong nội bộ của họ.

Tôi muốn nói đây là nội bộ giữa Hà Nội và Bắc Kinh vì đồng chí với nhau nhưng không bao giờ là tốt cả. Và khi người ta dùng từ đồng chí thì có thể hiểu người ta đang phê phán nhau, như là truyền thống ở trong các cuộc họp chi bộ. Còn khi người dùng từ anh em thì có thể hiểu là còn có một chút tinh thần môi răng. Nhưng khi ông Phạm Bình Minh dùng từ đồng chí với người Trung Quốc, thì tôi nghĩ là không báo trước một điềm lành gì cả mà điều đó chắc chắn là sẽ dẫn tới những hiểm họa khác và sẽ kéo dài hơn trong thời gian tới. Tóm lại cuộc gặp này không mang lại một kết quả gì khả quan, tốt đẹp hơn mà chỉ làm cho Bộ Chính trị Hà Nội lún sâu hơn vào bãi lầy do Trung Quốc tạo ra.”

Người dân thất vọng?

Trong lúc ông Dương Khiết Trì đang có mặt tại Hà Nội, một tiếng nói đơn độc cất lên từ Quốc hội Việt Nam đề nghị ra nghị quyết về biển Đông. Theo VnExpress và VnEconomy bản tin trên mạng ngày 19/6/2014, Đại biểu TP.HCM Luật sư Trương Trọng Nghĩa nói rằng, nếu lần này Quốc hội không có tuyên bố chính thức hay nghị quyết về biển Đông thì chắc chắn nhân dân rất thất vọng. Được biết Quốc hội Việt Nam chỉ còn 3 ngày làm việc trước khi bế mạc kỳ họp thứ 7 nhưng hoàn toàn không có mục nào dành cho biển Đông.

Đối với sự kiện vừa nêu TS Phạm Chí Dũng nhận định rằng, Quốc hội Việt Nam không có vai trò trong các quyết định quan trọng của quốc gia. Quốc hội được coi là sân sau của Bộ Chính trị và luôn luôn chờ chỉ đạo của Bộ Chính trị. Năm 2013, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nói Cương lĩnh Đảng cao hơn Hiến Pháp! TS Phạm Chí Dũng phát biểu:

Tôi hoàn toàn không ngạc nhiên về tỷ lệ 1/499 Đại biểu Quốc hội đưa ra vấn đề nghị quyết biển Đông vào thời điểm này.
-TS Phạm Chí Dũng

“Tôi hoàn toàn không ngạc nhiên về tỷ lệ 1/499 Đại biểu Quốc hội đưa ra vấn đề nghị quyết biển Đông vào thời điểm này. Khi mà cuối năm 2013 chỉ có hai người bỏ phiếu không đồng thuận với bản Hiến pháp được sửa đổi. Chúng ta có thấy được là một bản Hiến pháp lạc hậu phản ánh ngược chiều với quyền lợi của nhân dân lại được thông qua với tỷ lệ cao đến áp đảo như thế. Do vậy hoàn toàn không ngạc nhiên khi chỉ có mình ông Trương Trọng Nghĩa đưa ra vấn đề này.”

Khi trả lời báo chí vào sáng 19/6 bên hành lang Quốc hội, theo VnExpress LS Trương Trọng Nghĩa nói rằng, qua Nghị quyết biển Đông Quốc hội phải vạch rõ âm mưu độc chiếm biển Đông, kiểm soát biển Đông của Trung Quốc. Vấn đề không chỉ là một cái giàn khoan, không chỉ là dầu khí. Quốc hội Việt Nam cần tuyên bố với nhân dân Trung Quốc và nhân dân thế giới lập trường chính nghĩa của Việt Nam. Lên án hành vi sai trái của Trung Quốc, âm mưu của Bắc Kinh mà LS Trương Trọng Nghĩa mô tả là: “vừa đấm vừa xoa, vừa đánh vừa đàm, vừa ăn cướp vừa la làng.”

000_Hkg9950512-600.jpg

Thủ tướng VN Nguyễn Tấn Dũng (P) tiếp Ủy viên Quốc vụ Viện Trung Quốc Dương Khiết Trì tại Hà Nội hôm 18/6/2014

Vẫn theo LS Trương Trọng Nghĩa, Quốc hội cần lên án hành vi của Trung Quốc đã đi ngược lại tất cả những gì nước này cam kết và thỏa thuận với Việt Nam cũng như các nước ASEAN. Trung Quốc đã chiếm Hoàng Sa và một phần Trường Sa của Việt Nam bằng vũ lực và kéo giàn khoan phi pháp vào vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam.

Trao đổi với chúng tôi,  Nhà giáo Đỗ Việt Khoa từ Hà Nội nhận định là Trung Quốc vừa ăn cướp vừa la làng, nhưng tuyên truyền có hệ thống nên ngay cả người dân Trung Quốc cũng tin rằng Hoàng Sa, Trường Sa là của họ. Ngược lại ở Việt Nam những năm qua rất nhiều blogger, nhà báo bị bắt giam, truy tố hay trù dập vì dám nói lên sự thật, Trung Quốc xảo trá cướp đất, cướp biển của Việt Nam. Theo nhà giáo Đỗ Việt Khoa, trước năm 1975 miền Bắc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sai lầm khi có một số văn kiện công nhận chủ quyền Trung Quốc về Hoàng Sa Trường Sa, lúc ấy miền Bắc cho là đất nằm trong tay địch thì Trung Quốc chiếm cũng tốt. Nhà giáo Đỗ Việt Khoa tiếp lời:

“Chúng tôi thế hệ bây giờ cho rằng miền Bắc miền Nam anh em một nhà đánh nhau để cho hàng xóm nó cướp đất. Miền Bắc im lặng thậm chí cổ vũ cho thằng hàng xóm ăn cướp đó thì anh có tội với dân tộc. Nói thẳng ra những người ký văn bản đó là có tội với quốc gia dân tộc, lịch sử sẽ phán xét họ. Tuy nhiên xét về tài liệu cũng như các lý luận khác thì chúng ta có thể khẳng định rằng, từ hàng nghìn năm nay, các văn bản của các triều đại, các chính quyền, chưa bao giờ Hoàng Sa Trường Sa biển Đông lại thuộc về Trung Quốc cả. Họ luôn khẳng định đó là của Việt Nam.”

Sau hội nghị Việt Trung 18-19/6 tại Hà Nội, tất cả báo chí do Nhà nước quản lý đều chạy tít lớn dựa theo phát biểu của các nhà lãnh đạo Việt Nam: “Lập trường của Việt Nam về Hoàng Sa, Trường Sa: Không thay đổi và không thể thay đổi.” Báo chí hiện nay được phép đưa nhiều tin bài với lập luận mạnh mẽ, như phải thoát lệ thuộc Trung Quốc, phản kháng Trung Quốc xâm chiếm biển đảo. Đây là sự kiện đáng ngạc nhiên vì nhiều blogger hiện vẫn đang ngồi tù vì những bài viết trước đây với các nội dung tương tự. Phải chăng chính quyền Việt Nam cởi mở hơn với báo chí, trong khi Đảng và Chính phủ lại vẫn mong muốn cầu hòa với Trung Quốc. TS Phạm Chí Dũng nhận định:

“Tôi cho là không hẳn là vũ khí mà là công cụ hỗ trợ được nhà nước Việt Nam đang dùng đến. Thứ nhất vì tinh thần không thể chủ chiến của họ và thứ hai như người ta nói, không cẩn thận thì Việt Nam sẽ đi bằng đầu gối. Đó là chính sách ngoại giao đầu gối mà một số nước phương tây đã phải dùng để phê phán Việt Nam cho một hành động mà họ gọi là khó có thể nhu nhược hơn.”

Biển Đông sẽ đi về đâu sau cuộc hội đàm Việt Trung không mang lại kết quả. Ngay trong khi Ủy viên Quốc vụ Dương Khiết Trì còn đang có mặt ở Hà Nội thì Trung Quốc đã đẩy mạnh hơn điều gọi là phép thử giàn khoan. Trung Quốc đã tăng cường một giàn khoan mới trên vùng biển gần Việt Nam và có khả năng được đưa vào vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam. Ngoài ra Bắc Kinh còn loan báo cấp quyền sử dụng đất cho người Hoa tại quần đảo Hoàng Sa và tất cả các đảo bãi đá ở Trường Sa mà Trung Quốc lấn chiếm bằng vũ lực của Việt Nam. Những dự báo về vấn đề này hoàn toàn không sáng sủa cho chính quyền và người dân Việt Nam.

Một Chút Tình Riêng Về Miền Sơn Cước

Một Chút Tình Riêng Về Miền Sơn Cước

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

RFA

Chẳng hiểu em nói cái gì
nhìn môi một cụm xuân thì cũng thương
em xinh như đóa hướng dương
mọc hoang theo lối về buôn bản nghèo

‘H ‘ Na Cô Gái Tây Nguyên’

Tác giả những câu thơ vừa dẫn, thi sĩ Phan Ni Tấn, là một người vô cùng may mắn. Vô số kẻ đã đến miền sơn cước nhưng có lẽ chỉ riêng mình thằng chả là có mối duyên tình với nàng sơn nữ (”xinh như một đóa hướng dương”) dù rằng hai bên  – hoàn toàn và tuyệt đối – bất đồng ngôn ngữ.

Tôi biết một nhân vật khác, cũng lặn lội lên đến cao nguyên, và đến nơi rất sớm nhưng không có cái diễm phúc tương tự. Ðó là nhạc sĩ Văn Trí, người viết bản Hoài thu – vào năm 1951.

Ðà Lạt (ở thời điểm này) theo như lời mô tả của tác giả là một nơi “núi rừng thâm xuyên,” với những “bầy nai ngơ ngác, lá vàng rơi đầy miên man,” và… chấm hết! Tuyệt nhiên, không hề thấy bóng dáng bất cứ một cô sơn nữ nào (hết trơn hết trọi) kể cả những cô mà nhan sắc chỉ ở mức trung bình – hoặc dưới trung bình chút xíu – cũng không.

Tôi ra đời sau tác phẩm Hoài thu, và dưới một ngôi sao (vô cùng) xấu. Dù sinh trưởng ở miền sơn cước, tôi chưa bao giờ có hân hạnh được trao (và nhận) những lời yêu thương đến cô gái H’ Na – như Phan Ni Tấn. Tương tư suông, nghĩa là yêu đơn phương, cũng miễn có luôn.

Tôi cũng không được cái vinh dự nhìn thấy nét man dại, trinh nguyên của một vùng đất mới như ông Văn Trí. Sự hoang dã của cao nguyên Lâm Viên, đối với những kẻ sinh sau đẻ muộn như tôi (có chăng) chỉ là dư âm – qua những câu chuyện kể, đại khái như:

“Hồi đó, ở Ðà Lạt, cọp thiếu mẹ gì. Nhiều bữa, con nít đang lơn tơn đến trường bỗng thấy mấy ông cọp bự nằm chơi phơi nắng. Vậy là đám lật đật nín thở, nhè nhẹ quay lưng, và chầm chậm… đi về.”

Khoẻ!

Sự gần gũi (giữa cọp và người) như thế – tiếc thay – không kéo dài luôn, và cũng không kéo dài lâu. Trong những tháng ngày thơ ấu, mỗi sáng đi học, tôi đều cầu nguyện và van xin (Phật, Chúa,Thánh, Thần…) để được nhìn thấy vài ông cọp bự – cũng đang ngồi chơi phơi nắng, giữa đường – như “những ngày xưa thân ái” đó.

Dù tôi hết sức chí tình, sự khẩn cầu này – than ơi – chưa bao giờ ứng nghiệm. Lòng tin của tôi vào các đấng thiêng liêng giảm sút (không ngừng) kể từ thưở ấy.

Khi tôi được “bế” lên Ðà Lạt, vào giữa thập niên 1950, thành phố này đã bị đô thị hóa.Voi, cọp, heo, beo, gấu, khỉ, vượn, nhím, mển, gà, công, trĩ, hươu, nai, trăn, rắn, sóc, chồn… không còn chung sống với người. Người Thượng (nói chung) và những cô sơn nữ (nói riêng) cũng không mấy khi xuất hiện trên đường phố. Họ ở cách xa, nơi những bản làng heo hút.

Văn hóa miền núi, tất nhiên, có nhiều nét dị biệt với miền xuôi; do đó, khi giao tiếp (đôi lúc) giữa người Thượng và người Kinh đã có những hiểu lầm – vô cùng đáng tiếc!

Thuở ấu thơ, tôi đã có lần chứng kiến cảnh một chàng thanh niên từ miền sơn cước xuống chợ miền xuôi, và bị “tiếng sét ái tình” với một cô gái bán hàng. Chàng đứng ngẩn ngơ, chân không thể bước. Trước tình huống đó, có người buột miệng nói đùa:

– Người Kinh không có “bắt chồng” như người Thượng đâu. Muốn “bắt vợ” thì tuần trăng sau phải mang hai con trâu tới đây mới được.

Chàng trai miền núi mừng rỡ gật đầu, hăm hở quay về. Không hiểu phải qua bao nhiêu đường đất, và gặp bao nhiêu khó khăn ở thôn bản của mình nhưng đúng hẹn chàng trở lại. Nhác trông thấy người xưa – dắt theo hai con trâu, như giao ước – cô gái vội vàng bỏ trốn!

Chờ hoài không thấy cố nhân, chàng thẫn thờ (mãi) rồi lặng lẽ dắt trâu đi. Một chuyện tình buồn thảm thiết như thế mà khi kể xong vẫn có người cười. Nói thiệt: sao tôi cười… không nổi! Cách đùa cợt đó, ngay từ khi còn bé, tôi đã cảm thấy có cái gì rất là không ổn. Sau này, lúc đã cắp sách đến trường, cũng đã có lần tôi suýt khóc khi đọc một câu thơ trào phúng :

Xu hào rủng rỉnh Mán ngồi xe!

Tú Xương sinh năm 1870 và mất năm 1907. Câu thơ (thượng dẫn) có thể được viết từ cuối thế kỷ XIX. Vào thời điểm này, khi mà mọi phương tiện truyền thông và giao thông đều vô cùng giới hạn nên cách nhìn lệch lạc của thi sĩ về một người đồng bào miền núi – tôi cố nghĩ – có thể thông cảm được.

Đến đầu thế kỷ XXI, theo bài viết về “Mọi” của Duy Ngọc (đọc được trên talawas, vào hôm 13/07/2009) thì tình cảm của người Việt đối với “những đồng bào thuộc sắc tộc ít người’ (hoàn toàn) không có gì thay đổi: “Thử lên Tây Nguyên sống vài tháng sẽ thấy cái nhìn kỳ thị như thế trong rất nhiều người Kinh đối với các cộng đồng người dân tộc thiểu số vẫn còn nặng nề như thế nào.”

Khỏi phải “thử lên Tây Nguyên sống vài tháng” làm chi, cho má nó khi. Cứ ngồi nhà google vài chữ – “thằng mọi, thằng mán, thằng mường” – là sẽ tìm được vô số định kiến vô cùng đáng tiếc. Tự thâm tâm, có lẽ, những người thuộc dân tộc Kinh ở Việt Nam chưa bao giờ coi đồng bào Thượng là đồng bào (thiệt).

Tòng Thị Phóng (khi còn là Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Dân vận Trung ương) cũng đãlớn tiếng kêu gọi:

Quan tâm đặc biệt đến vùng cao, vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến trước đây; tăng cường cơ sở khám bệnh, cán bộ y tế cho các xã, thôn ấp, nâng cao hơn nữa chất lượng công tác chăm sóc sức khoẻ đồng bào dân tộc thiểu số; khuyến khích trồng và sử dụng các loại thuốc dân gian; từng bước ngăn chận tình trạng suy giảm dân số, suy giảm đời sống của một số dân tộc thiểu số.”

Bà Phóng (cũng) nói cho nó đã miệng vậy thôi chớ sáu năm sau, theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới thì “các sắc dân thiểu số ở Việt Nam có tỉ lệ người nghèo cao hơn 5 lần tỉ lệ của người Kinh.”

Và người Kinh, ở miền xuôi, không ít kẻ đang sống (và chết) dở. Nói chi đến những sắc dân ở những miền núi xa xôi. Cạch đây chưa lâu báo Tiền Phong (buồn bã) loan tin: “THPT Đinh Tiên Hoàng nằm sâu trong hẻm núi xã Sơn Dung, huyện Sơn Tây, nơi phần lớn là người dân tộc K’dong sinh sống, cách thành phố Quảng Ngãi hơn 100 km, không có học sinh nào đậu tốt nghiệp trong kỳ thi vừa qua.”

Nguyên do, theo lời của thầy hiêu trưởng Nguyễn Hải Thịnh: “Đây là hệ quả tất yếu của một hệ thống đào tạo có chất lượng thấp.” Nói cách khác là “gạo nào cơm nấy,” thế thôi.

Còn ông Phạm Tấn Hoàng, chủ tịch UBND huyện, cho biết thêm: “Sơn Tây có 6/6 xã thuộc diện đặc biệt khó khăn, tỉ lệ nghèo đói còn 78% trên tổng số 3.706 hộ. Do địa bàn cách trở giao thông, điều kiện kinh tế học sinh khó khăn, nơi ăn ở cho học sinh chưa có nên các em không an tâm học tập.”

An tâm gì nổi, hả Trời! Đời sống có những ưu tiên sắp sẵn: ăn – mặc, ăn – học. Cơm áo lo chưa xong, nói chi đến học – mấy cha?

Theo tường trình của Ủy ban Dân tộc thì ”người như PuPéo, Rơ-măm, Brâu chỉ  còn lại… vài trăm!” Nhà văn Nguyên Ngọc, trong bài “Phát triển bền vững ở Tây Nguyên” (đọc được ở diendan.org, ngày 20 tháng 8 năm 2008) cho biết thêm: “Người Châu ở trong thung lũng Mường Hon của núi Ngok Linh, chỉ có khoảng 80…”

Ngoài bờ biển phía Đông ra, phần biên giới còn lại của Việt Nam đều là nơi cư ngụ của những dân tộc thiểu số tự ngàn xưa. Với cuộc sống đơn giản và hài hoà với thiên nhiên, họ đã giữ cho môi trường sinh thái được quân bằng và tạo một “vòng đai xanh” cho cả nước.  Cũng chính họ là những tuyến đầu, và là vòng đai an ninh cho tố quốc. Cớ sao toàn Đảng (cũng như toàn dân) tỏ thái độ khinh thị, và cương quyết tìm mọi cách đẩy họ đến bước đường cùng như thế?

“Khi bọn bành trướng Bắc Kinh tràn sang hồi năm 1979, một bộ phận không nhỏ dân tộc thiểu số, sống ở vùng biên giới, đã đồng loạt ngả theo, làm tay sai cho ngoại bang. Ðó chính là hậu quả của chính sách sai lầm trong lãnh vực sắc tộc” (Lý Hồng Xuân. Nhận diện chân dung nhà văn. Văn Nghệ: California 2000,177).

“Bọn bành trướng Bắc Kinh” (xem chừng) đang sắp sửa muốn tràn sang lần nữa, và “những chính sách sai lầm trong lãnh vực sắc tộc” thì mỗi lúc lại càng tệ hại hơn!

Tưởng Năng Tiến

 

Học sử mà gặp phải thứ sách khốn nạn như thế thì giữ nước thế chó nào được

Học sử mà gặp phải thứ sách khốn nạn như thế thì giữ nước thế chó nào được

của  Bùi Bảo Trúc

Bạn ta,

Tại Việt Nam, một cuốn sách nhan đề Vở Luyện Từ và Câu lớp 3, tập 2 vừa bị thu hồi và tạm ngưng phát hành để chỉnh sửa những sai sót trong sách.

Ở trang 5 của cuốn sách vừa kể có một bài viết tay với tuồng chữ rất chân phương và rất đẹp. Nhưng nội dung của đoạn viết tay đó đã để lại những sai sót tầy đình. Đây là nguyên văn đoạn viết tay ấy :

“Quân Nam Hán đưa một đạo quân rất đông sang đánh nước ta. Lý Thường Kiệt dùng kế chôn cọc gỗ đầu bịt sắt nhọn dưới sông Bạch Đằng . Quân Nam Hán đến cửa sông vào lúc thủy triều lên che lấp các cọc nhọn. Lý Thường Kiệt cho thuyền nhẹ bơi ra khiêu chiến , vừa đánh vừa rút lui nhử cho giặc vào nơi quân ta mai phục. Vừa lúc ấy thủy triều xuống quân mai phục hai bên bờ sông đổ ra đánh rất mạnh. Giặc hốt hoảng quay thuyền chạy thì bị va vào cọc thuyền bị thủng đâm hàng loạt . Cuộc xâm lược của dịch hoàn toàn thất bại. Mùa xuân năm 939 Lý Thường Kiệt lên ngôi vua.”

Cuốn sách này được hình thành bởi 5 người, trong đó có một chủ biên, 4 người kia không biết giữ những công việc và trách nhiệm gì.

Nhưng với 5 người như thế mà vẫn để lại những sai sót vô cùng tệ hại thì quả là bọn biên soạn cuốn sách ngu thật.

Bài viết được giao cho một người có chữ viết rất đẹp để viết làm mẫu cho các học sinh tập viết. Phải nói người viết có nét chữ rất đẹp. Nhưng cũng chính vì đó là chữ viết tay, không phải là được sắp chữ, hay đánh bằng máy điện toán nên không thể nói đó là lỗi typo. Người viết chỉ có nhiệm vụ viết, nhưng ít nhất cũng phải có một chút kiến thức về sử để nhìn ra chi tiết lộn Ngô Quyền thành Lý Thường Kiệt. Nhưng người này đã không thấy được sai sót đó. Viết xong chắc chắn bài viết phải được đọc lại để sửa chữa nếu có chi tiết, chữ nào bị viết sai, thiếu nét, đánh dấu lầm… Nhưng rõ ràng là (những) người đọc lại bản viết cũng không nhìn ra được sai sót nên Lý Thường Kiệt mới được trao cho một công việc khác là đánh quân Nam Hán, để cho Ngô Quyền ở không, ngồi chơi sơi nước.

Trong đoạn văn, quân Nam Hán được nhắc tới hai lần. Lý Thường Kiệt được nhắc tên ba lần. Lý Thường Kiệt cũng được trao cho công việc đóng cọc nhọn trên sông Bạch Đằng, để đánh đoàn chiến thuyền Nam Hán. Việc đó, ai học sử Việt cũng phải biết là việc làm của Ngô Quyền, và sau đó, năm 1288 Hưng Đạo Vương cũng dùng kế đóng cọc nhọn trên sông Bạch Đằng để đánh quân Nguyên.

Lầm Ngô Quyền thành Lý Thường Kiệt mới chỉ là một cái lỗi mà người ta nhìn thấy trong bài viết.

Nhưng thực ra, còn có những lỗi khác nữa thì lại không thấy những độc giả góp ý với tờ Dân Trí nêu ra.

Đó là ở cuối của bài viết, người ta đọc thấy nguyên văn câu này: “Năm 939, Lý Thường Kiệt lên ngôi vua.”

Thực ra thì Ngô Quyền mới là người lên ngôi vua năm 939 tức là năm Kỷ Hợi, đóng đô ở Cổ Loa, thuộc huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên. Ngô Quyền chết năm Giáp Thân (944), thọ 47 tuổi.

Lý Thường Kiệt thì không bao giờ đánh quân Nam Hán. Lý Thường Kiệt là người đánh quân Tống và Chiêm Thành (Phá Tống, Bình Chiêm). Ông đánh Chiêm Thành năm 1075 để trừng phạt việc Chiêm Thành đem quân sang quấy phá Việt Nam. Sau khi đánh Chiêm Thành xong, Lý Thường Kiệt mới quay sang đánh quân Tống.

Đến năm Quí Mùi (1103) ở Diễn Châu có Lý Giác làm phản. Lý Thường Kiệt đem quân đi đánh Lý Giác. Lý Giác chạy sang Chiêm Thành, đem vua Chiêm là Chế Ma Na đánh lấy ba châu của Việt Nam. Năm 1104, Lý Nhân Tông sai Lý Thường Kiệt đánh Chiêm Thành. Chế Ma Na thua chạy, xin trả lại đất cho Việt Nam.

Lúc ấy, Lý Thường Kiệt đã 70 tuổi. Một năm sau khi đánh Chiêm Thành (năm 1105), Lý Thường Kiệt mất, hưởng thọ 71 tuổi. Đó là dưới triều vua Lý Nhân Tông. Lý Thường Kiệt là tướng tài, không lên ngôi vua ngày nào.

Lộn Ngô Quyền thành Lý Thường Kiệt là một chuyện. Lộn quân Tống thành quân Nam Hán là chuyện thứ hai. Kế hoạch đóng cọc nhọn trên sông Bạch Đằng của Ngô Quyền thì trao cho Lý Thường Kiệt là sai lầm thứ ba.

Lý Thường Kiệt sinh năm 1034, chết năm 1105 thì viết khơi khơi là năm 939, tức là trước khi Lý Thường Kiệt ra đời tới 95 năm, Lý Thường Kiệt đã lên ngôi vua.

Than ôi, một đoạn viết ngắn có 13 dòng viết tay mà để lại một đống lỗi như thế thì dậy dỗ cái con chó gì.

Mẹ kiếp viết lịch sử láo toét như thế, lại bao nhiêu người không nhìn ra những sai sót đó cho nên học sinh mới quá chán học môn sử (như tờ Giáo Dục Việt Nam đã viết hồi tháng trước) là như vậy.

Học sinh học tới lớp 5, sống lù lù ngay ở Hà Nội, mà không biết thủ đô của Việt Nam là gì thì cũng là do mấy thứ ngu dốt đó dậy dỗ.

Đã dốt như thế, lại còn dở trò bóp méo, xuyên tạc lịch sử thì mới có cái thứ chó cái như con nhãi Lê Phong Lan làm loạt phim về Mậu Thân và đổ hết tội cho Hoa kỳ và Việt Nam Cộng Hòa đã giết mấy ngàn người ở Huế.

Mẹ kiếp con nhãi con xuyên tạc lịch sử để tẩy rửa cho các tội ác của Việt Cộng thì cũng hiểu được. Nhưng cướp công của Lý Thường Kiệt từ tay Ngô Quyền và cho Lý Thường Kiệt lên ngôi vua để … nói xấu tổng thống Ngô Đình Diệm (?) vì cùng họ với Ngô Quyền hay sao?

Mà rồi cả đống trong nước cũng không thấy được những sai lầm láo toét như thế nên đất nước mới là không khá được.

Giá chịu khó đọc vài trang trong Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim từ trang 68 đến trang 107 cũng thấy ngay là Ngô Quyền đánh quân Nam Hán, không phải Lý Thường Kiệt chư sao mà lại nhắm mắt nhắm mũi viết bậy như thế! Nhà nước thì mấy tháng sau mới quyết định thu hồi lệnh thu hồi cũng nói là “tạm”. Tại sao lại “tạm thu hồi” mà không đốt cha nó cái đống sách mả mẹ ấy đi cho sạch cái … mình?

Tôi chắc giờ học sử của các em không bao giờ có cảnh như thế này:

Những buổi sáng, vừng hồng le lói chiếu
Trên non sông, làng mạc, ruộng đồng quê
Chúng tôi ngồi yên lặng lắng tai nghe
Tiếng thầy giảng suốt trong giờ quốc sử
Thầy tôi bảo :”Các em nên nhó rõ,”
“Nước chúng ta là một nước vinh quang,”
“Bao anh hùng thuở trước của giang san,”
“Đã đổ máu vì lợi quyền dân tộc.”

…(Đoàn Văn Cừ)

Chứ học sử mà gặp phải thứ sách khốn nạn như thế thì giữ nước thế chó nào được.

(Những bí mật thú vị về) Báo “Nhân Dân” ?

(Những bí mật thú vị về) Báo “Nhân Dân” ?

Sao Hồng:

Với nghề báo và nhà báo đúng nghĩa, viết tự do theo tư duy
của mình và thực tế cuộc sống xã hội thì viết được rất nhanh và sản
phẩm thường hay. Nhưng sẽ rất khó được in, thậm chí có khi còn vô tù
vì một bài báo. Viết theo khuôn khổ đã định hướng thì rất khó viết
được nhanh. Nhưng bài viết rất dễ được in và thường là nhạt nhẽo. Nhân
“89 năm ngày Báo chí Cách mạng”, ngày tờ báo THANH NIÊN của Thanh Niên
Đồng minh Hội ra số đầu tiên (21/6/1925 – 21/6/2014), mình post lại
bài viết năm ngoái về tờ báo Nhân Dân.

1. Ký ức đọc “Nhân Dân”

“Nhân Dân”, (gọi tắt cho nó gọn), đó là tờ báo in mình tiếp xúc đầu
tiên trong “sự nghiệp… đọc báo” của mình.

Những năm 1960s, khi máy bay Mỹ bắt đầu leo thang đánh phá Quảng Bình
– Vĩnh Linh. Nhà mình hay có cán bộ về bám cơ sở. Họ thường có báo
mang theo. Sau hiệp định Paris lại có Tín dụng xã mượn làm “trụ sở”.
Thế là mình được đọc “Nhân Dân” thường xuyên hơn.

Thời ở lính luôn có 30 phút đọc báo mỗi ngày. Nhưng ở bệnh viện tiền
phương cái lệ này có châm chước, vì báo cũng không có thường xuyên cho
các khoa. Muốn đọc mình hay ghé phòng chính trị để mượn. Khi ra quân,
cơ quan mình vẫn còn đọc báo đầu giờ. Đọc tập trung tại mỗi phòng ban.
Cũng chỉ có “nhân dân”, “quân đội nhân dân”.

Về tên báo, tiền thân, vốn là tờ “SỰ THẬT”. Không biết vì sao lại đổi
sang “Nhân Dân’. Có lẽ vì Sự Thật không phản ánh đúng lối phương pháp
tuyên truyền của báo chăng (?). Mình chẳng nhớ từ bao giờ tờ báo in
này treo cái câu dài thòng dưới hai chữ “Nhân Dân”: “cơ quan trung
ương của Đảng Cộng Sản Việt Nam, tiếng nói của đảng, nhà nước và nhân
dân Việt Nam”. Sự ngoa ngôn đó mới nảy nòi đâu gần đây thôi. Chứ hồi
trước chỉ đơn giản là “cơ quan ngôn luận của Đảng Lao động/… trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam” (xem hình 2).

20/3/1979, dưới “Nhân Dân” chỉ một câu ngắn gọn: “CƠ QUAN TRUNG ƯƠNG
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM” (đổi sang tên “Công Sản” từ ĐH 4 (1976)
Về hình thức, “Nhân Dân” thời trước chỉ “giấy trắng mực đen”. Màu giấy
cũng hun hun không trắng lắm. Tùy trang có từ 4 đến 5 cộtbáo. Thỉnh
thoảng có ảnh hoặc tranh minh họa. Vì đen trắng nên chất lượng ảnhcũng
không như bây giờ. Kiểu chữ nhỏ nhưng khá rõ ràng. Có từ 4 đến 8
trang. Sau này đến thời kỳ “đổi mới” mới tăng dần số trang.

Nội dung thì cũng chỉ đưa tin tức “sản xuất và chiến đấu” của “hậu
phương và tiền tuyến lớn”. Toàn thành tích và chiến thắng; hoặc gương
“người tốt việc tốt”, “hai giỏi”. Luôn luôn có cột xã luận trang nhất
ở cột đầu tiên bên trái. Tranh châm biếm hay đã kích trang cuối. Tuyệt
đối không có mẫu quảng cáo nào. Về nội dung, cho đến bây giờ, Nhân Dân
cũng không thay đổi bao nhiêu so với thời đó.

Về phát hành, “Nhân Dân” được “phát không” cho các tổ chức thuộc hệ
thống “chính quyền nhân dân”. Gọi “phát không”, có nghĩa là dùng ngân
sách nhà nước. Phát hành cũng qua kênh bưu chính nhà nước, nên thường
đến tay bạn đọc rất trễ. Hết cả tính thời sự của báo chí, dù thuộc
diện “ưu tiên hỏa tốc”.

Trước đây, ngày hôm sau hoặc hai ba ngày sau, “Nhân Dân” mới đến tay
cán bộ. Bây giờ tỉnh nào, vùng nào cũng có nhà in kèm “Nhân Dân” và
phát hành trong ngày. Nhưng đến trưa hoặc đầu giờ chiều mới đến tay…
trực cổng. Vẫn rất trễ so với các nhật báo chủ động kinh doanh như
Tuổi Trẻ, Thanh Niên hay Thể Thao Hằng Ngày,… Thực ra, người đọc
“Nhân Dân” rất ít, nên cũng chẳng ai cần sớm làm gì.

Bây giờ, hầu hết các cơ quan doanh nghiệp nhà nước đều mua “Nhân Dân”.
Có cắt giảm chi tiêu thì “Nhân Dân” cũng phải có hàng ngày. Có những
nơi cả năm, chẳng ai sờ tới “Nhân Dân”, vẫn cứ phải mua. Vì “Nhân
Dân”là “ngôn luận của đảng”. Nhiều doanh nhân bỏ tiền túi ra mua “Nhân
Dân” cốt theo dõi tình hình và “định hướng” chủ trương chính sách của
nhà nước. Cũng có thể là lấy le làm đẹp long với nhà nước…

2. Dụng “Nhân Dân” như dụng mộc.

Có hai chuyện mà mình chứng kiến.

Khi ra quân về cơ quan dân sự, mình làm trợ lý giám đốc. Mỗi giao ban
đầu tuần, mình để ý một ông phó phòng dáng rất chỉnh chu hay đến sớm.
Ông rút trong cái cặp ra tờ “Nhân Dân”. Ông vuốt mái tóc ngược ra sau,
rồi vuốt phẳng phiu tờ báo và chăm chú đọc. Có khi đó là số báo của
tuần trước.Trong giờ giao ban, tờ báo để trước mặt, ông chăm chú ghi
ghi chép chép những lời sếp nói. Thỉnh thoảng ông giơ tay xin phát
biểu. Câu mở đầu muôn thuở là “tôi hoàn toàn nhất trí với ý kiến của…”
(ai đó). Sau một hồi, ổng lại đế thêm câu “theo như báo nhân dân
nói…”. Nghĩa là tất tần tật, ông đều lấy “Nhân Dân” làm chuẩn. Nói thế
thì chẳng ai dám bảo là nói sai. Thì đấy, vật chứng “Nhân Dân” nằm
trước mặt ông đó thôi. “Nhân Dân” nói nghĩa là… đảng nói. Cấm có cãi!
He he…

Sau mình mới biết, ổng chẳng phải đảng viên; cũng chẳng có bằng cấp
chuyên môn chi. Chỉ láu cá thế mà “sống lâu lên lão làng”. Vì ông là
tín đồ của… “Nhân Dân”, và lấy “Nhân Dân” làm… le với mọi người.

Về sau, mình lại chứng kiến một sếp dụng “Nhân Dân”như dụng mộc.

Sếp vốn hiếm khi đọc báo, nhưng vì làm sếp không thể không có… “Nhân
Dân” theo mình. Mỗi sáng đến sở làm, văn thư đã đặt “Nhân Dân” lẫn tạp
chí, “công văn đến” trên bàn làm việc. Đến cuối ngày, thậm chí cuối
tuần, “Nhân Dân” vẫn còn “nguyên đai”. Hôm nào có lịch làm việc với
khách tỉnh hoặc thành phố, nhất là khách từ thành ủy, sếp lại lấy
“Nhân Dân” để ngay ngắn trước mặt, phía bên trái. Nếu khách ngồi ngay
đối diện bên phải, “Nhân Dân” vô tình… đập vào tầm mắt của khách. Nếu
ngồi ở bàn nước, “nhân dân” đang ở góc bàn hoặc lăn lóc trên ghế nệm
và đang mở trang nào đó. Trang đó lại có nét bút“vòng tròn đỏ”, đánh
dấu ở cột xã luận hay tiêu đề một bài báo “giật gân” nhất.Y như cái
hình “ông Cụ ngồi ghế mây đọc báo dưới bóng cây”. Ông sếp cũng dùng
“Nhân Dân” làm trang sức để lấy le. Hehe…

3. Mô hình tổng công ty.

Hiện nay, hệ thống “tiếng nói… nhân dân” có đều khắp 63 tỉnh thành.
Ngoài báo in còn có báo mạng (online/điện tử). Đó là những báo địa
phương nhưng có xì-lâu-gân giống hệt nhau và gần giống với “Nhân Dân”
trung ương: “tiếng nói/(cơ quan ngôn luận) của đảng bộ, chính quyền và
nhân dân tỉnh X, Y”.

Nhưng cái tên “Nhân Dân” thì là độc quyền của trung ương thôi. Các
tỉnh thành thì lấy tên địa danh hành chính của mình đặt cho “Nhân Dân”
địa phương. Thế nhưng có hai nơi như muốn “ta đây vẫn có sự khác biệt”
nên có tên hơi khác các tỉnh.

Ví như ở Hà Nội, “tiếng nói của đảng bộ,… & nhân dân” lại có tên là
“Hà Nội Mới”. Vì lỡ mang tên “Hà Nội Mới” nên từ địa giới hành chính
đến chính sách của thủ đô cứ thay đổi xoành xoạch theo từng nhiệm kỳ
của… đảng bộ Hà Nội Mới. Còn thành phố Hồ Chí Minh thì “tiếng nói…
nhân dân” lại là “Sài Gòn Giải Phóng”. Nghĩa là Sài Gòn xưa cứ phải
“giải phóng” dài dài mà chẳng biết bao giờ mới được… giải phóng?!

Hằng năm, “Nhân Dân” trung ương vẫn tổ chức cho“nhân dân địa phương”
các hội nghị dạng “MICE” theo khu vực. Đó là một hình thái “giao ban”
con nhà giàu. Vừa triển khai “chủ đề” vừa vui chơi nghỉ dưỡng có… định
hướng. Để đảm bảo tính “thống nhất”, “tư tưởng chỉ đạo từ trung ương
đến địa phương”.

Mới đây mình xuôi theo Lý Thái Tổ để ra đê Nghi Tàm lên Ha Noi Club
Hotel dự hội thảo. Chạy qua Lò Sũ đến phố gì đó mình thấy cái tên
“Công ty TNHH MTV Nhà in Nhân Dân”.

Hệ thống này đích thị là một “tổng công ty” mang tên “Nhân Dân”. Không
là tên gọi “doanh nghiệp Nhân Dân” hay “tập đoàn truyền thông Nhân
Dân”, nhưng hoạt động như một tổng công ty nhà nước theo mô hình “công
ty mẹ công ty con”. Chỉ có cái khác cơ bản nhất với các tờ báo tự chủ
tài chính và mang tính kinh doanh là ngốn “ngân sách nhà nước” và (để)
đảm bảo “tính đảng” trong sản phẩm của mình.

4. Ai đọc “Nhân Dân”?

Quay trở lại chuyện ai đọc “nhân dân”. Nói gì thì nói, hiện nay ở nông
thôn vẫn còn nhiều người yêu mến “Nhân Dân”. Dĩ nhiên là phải miễn
phí. Chẳng có giáo chức hay cựu chiến binh nào tự trích đồng hưu ít ỏi
của mình ra để mua… “Nhân Dân”. Họ đều quy ra thóc cả. Người mê “Nhân
Dân” có khi chỉ vì có con em, bà con mình đã và đang làm việc tại
“Nhân Dân”. Gì chứ ở quê mà có người bà con làm việc tại “cơ quan ngôn
luận của đảng” là tự hào và hãnh diện lắm.

Làng mình có bà cô vốn là nữ sinh Đồng Khánh đi theo cách mạng rồi trở
thành… cán bộ tiền khỡi nghĩa, ở luôn Hà Nội. Con gái đầu của bà có
thâm niên làm biên tập viên “ngôn luận của đảng”. Chị học MGU về rồi
làm ở đó cho đến lúc hưu. Chức danh cao nhất ngang cấp vụ trưởng là
“Trưởng ban biên tập…”.

Bà con anh em ở quê rất tự hào về chị. Khi có bài của chị là mọi người
ở quê báo cho nhau tìm để đọc. Về sau, sự nóng lạnh của xã hội, kinh
tế, chính trị cũng kéo theo nhiều bức xúc. “Nhân Dân” vẫn được bà con
theo dõi. Những chuyện bức xúc mà chưa thấy “Nhân Dân” lên tiếng là
cậu em họ của chị bốc máy gọi điện ra chất vấn chị. Sao không thấy
“Nhân Dân” lên tiếng? Khổ quá, ngay cả Tổng biên tập cũng phải chờ
“ông chủ” bật đèn xanh mới lên tiếng, chứ chị mình thì làm được gì?

Một lần mình ra Hà Nội đến thắp hương cho bà cô. Mình hỏi ông em rể
của chị, chú T. ở quê có còn gọi điện ra chất vấn “Nhân Dân” nữa
không? “Hết rồi, “Nhân Dân” của cậu hưu rồi. “Nhân dân” mất hết niềm
tìn rồi, chất vấn làm gì nữa”. He he…

5. “Đích” đến cuối cùng của “Nhân Dân”.

Hồi còn ở cơ quan, mình được coi là “mọt sách, mọt báo” vì là người
chăm đọc, chăm đi thư viện. Thư viện cũng chẳng cập nhật gì mới, nhất
là sách, tài liệu chuyên môn. Nhưng từ lâu, mình phát hiện ra nguồn
“tài liệu mới” từ đống báo thải đang chờ… bà “ve chai” ở thư viện cơ
quan.

Hàng tuần, tạp vụ hay văn thư dọn dẹp sách báo từ phòng giám đốc rồi
tống vào thư viện. Trong đống “ve chai” đó, có những bì thư chứa tài
liệu, tạp chí chuyên môn từ nước ngoài gửi cho sếp, chưa hề bóc tem.
Nhiều tập “Nhân Dân” phủ bụi nhưng còn “nguyên đai”, y như khi bưu tá
phát mỗi ngày. Làm sếp nhà nước bây giờ ai rỗi hơi đâu mà đọc “Nhân
Dân”! Lâu dọn dẹp thư viện đống “nhân dân” lại chuyển đổi sở hữu cho
bà ve chai.

Có lần một bạn còm trong status của mìnhrằng: “ông bố em 80 tuổi, lão
thành cách mạng được thành phố cho chọn một trong ba tờ báo miễn phí:
nhân dân, quân đội nhân dân và hà nội mới”. Có lẽ, ngoài được dùng để
lấy le và làm cảnh ở các cơ quan công sở, bạn đọc “Nhân Dân” bây giờ
chỉ còn mấy cụ hưu trí và “lão thành cách mạng” thôi?

Ở phố biển “quê” mình, từ lâu “tiếng nói của đảng bộ và nhân dân… địa
phương” cũng được biếu không cho mỗi đảng viên có danh hiệu 30 tuổi
đảng trở lên. Ở khu mình ở, có một cặp đôi trên 80, con cháu ở riêng,
lại không có thùng thư báo. Mắt mờ chân chậm chẳng đọc được gì, cũng
được phát không hai tờ “nhân dân địa phương”.

Mỗi sáng họ thảy vô thùng báo của mình hai tờ. Các cụ bảo mình giữ một
tờ mà đọc còn một tờ các cụ thỉnh thoảng… trải bàn nước khi đến bữa
ăn.

Rồi các cụ quy tiên mà báo vẫn đến hàng ngày. Thế là mình hưởng hai
suất “40, 50 tuổi đảng” miễn phí đến hơn một năm mới được cho… nghỉ.

Thực ra, địa chỉ nhận cuối cùng của “nhân dân địavphương” là các bà
đồng nát, ve chai! He he…

Sang thế kỷ 21, mới có thêm cái câu dài thòng và ngoa ngôn như thế,
dưới… “Nhân Dân”.

Sao Hồng
Theo FB Sao Hồng

Lâm Kim Trọng gởi

Trần Gia Phụng: ĐÃ ĐẾN LÚC PHẢI DỨT KHOÁT

Trần Gia Phụng: ĐÃ ĐẾN LÚC PHẢI DỨT KHOÁT

Trong cuộc mít-tinh của Hiệp Hội Hữu Nghị Nhân Dân Trung Quốc tại Bắc Kinh ngày 15-5-2014, tổng bí thư đảng Cộng Sản Trung Quốc (CSTQ) Tập Cẩm Bình tuyên bố rằng: “Không có gene xâm lược trong máu người Trung Quốc”.

Trong khi các báo điện tử trong nước, hoặc các blog tư nhân đưa tin nầy thì nhà nước Cộng Sản Việt Nam (CSVN), các chức sắc, Ban Khoa giáo trung ương đảng, Bộ Thông tin văn hóa, và các chuyên viên của nhà nước CS nín khe. Có lẽ họ cho lời tuyên bố của Tập Cẩm Bình là chuyện nội bộ Trung Quốc, CSVN không xía vào. Họ quên rằng từ khi nước Việt lập quốc, Trung Quốc đã bao lần xâm lược Việt Nam. Hay đó là chuyện thời quân chủ phong kiến, chẳng liên quan gì đến chế độ CS anh em giữa hai nước Việt Nam-Trung Quốc hiện nay? Thế thì người CSVN cố tình quên rằng năm 1979, CSTQ thổi kèn trên thế giới và thổi kèn ngoài mặt trận, tràn quân tàn phá sáu tỉnh biên giới phía bắc Việt Nam là gì?

Gần đây hơn nữa, ngày 8-6-2014, trang web của Bộ Ngoại giao Trung Quốc công bố năm (05) bằng chứng CSVN đã nhượng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc. Tài liệu nầy được viết bằng tiếng Anh và được Đài Phát Thanh Quốc Tế Trung Quốc (China Radio International -CRI) dịch qua tiếng Việt. Năm bằng chứng đó là:

1) Ngày 16-5-1956, trong buổi tiếp đại biện lâm thời Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội là Lý Chí Dân, thứ trưởng Ngoại giao Bắc Việt Nam là Ung Văn Khiêm đã nói: “Căn cứ vào những tư liệu của Việt Nam và xét về mặt lịch sử, quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa là thuộc về lãnh thổ Trung Quốc“. Vụ trưởng Á châu vụ Bộ Ngoại giao Bắc Việt Nam Lê Lộc còn tiếp lời: “Xét từ lịch sử, quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa đã thuộc về Trung Quốc ngay từ đời Nhà Tống”.

2) Công hàm Phạm Văn Đồng ngày 14-9-1958.

3) Tuyên bố của Bắc Việt Nam ngày 9-5-1965 về việc quân Mỹ lập khu tác chiến ở Việt Nam, có đoạn viết: “Việc Tổng thống Mỹ Giôn-xơn xác định toàn cõi Việt Nam và vùng ngoài bờ biển Việt Nam rộng khoảng 100 hải lý cùng một bộ phận lãnh hải thuộc quần đảo Tây Sa của nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoà là khu tác chiến của lực lượng vũ trang Mỹ”, đây là đe dọa trực tiếp “đối với an ninh của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nước láng giềng”.

4) Tập Bản đồ thế giới do Cục Đo đạc và Bản đồ thuộc Phủ Thủ tướng Bắc Việt ấn hành tại Hà Nội năm 1972, ghi tên hai quần đảo quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng hai địa danh do Trung Quốc đặt là Tây Sa và Nam Sa.

5) Cuối cùng là sách Địa lý lớp chín phổ thông toàn tập của nhà xuất bàn Giáo Dục, Hà Nội, 1974, trong chương “Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa”, mục “Điều kiện tự nhiên”, ở trang 4, có đoạn viết: “Vòng cung đảo từ các đảo Nam sa, Tây sa đến các đảo Hải Nam, Đài Loan, quần đảo Hoành bồ, Châu sơn … làm thành một bức “trường thành” bảo vệ lục địa Trung Quốc. (Hiện nay, Đài loan và các đảo xung quanh còn bị đế quốc Hoa kỳ và bọn tay sai Tưởng Giới Thạch chiếm giữ, đấy là một mối đe dọa đối với nền an ninh của Trung quốc, của Viễn đông và miền tây Thái bình dương). (Dân Làm Báo, trích ngày 13-6-2014) (Xin mời vào Google.com, dùng tiếng Việt đánh chữ khóa “Bộ Ngoại giao Trung Quốc công bố 5 bằng chứng về Hoàng Sa và Trường Sa”, thì có nhiều thông tin về vụ việc nầy.)

Việc Bộ Ngoại giao Trung Quốc công bố năm bằng chứng CSVN nhượng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc theo trong kế hoạch từng bước rất lớp lang của đảng CSTQ.

Đầu tiên, sau khi Trung Quốc cắm giàn khoan 981 ở vùng biển Hoàng Sa và bị dân chúng Việt Nam biểu tình dữ dội, đồng thời bị nhà cầm quyền CSVN lên tiếng phản đối, thì CSTQ cho người đưa ra công hàm Phạm Văn Đồng (bước thừ nhứt). Nhà cầm quyền CSVN một mặt cấm biểu tình chống Trung Quốc ở trong nước, một mặt thủ tướng CSVN lên tiếng đòi kiện Trung Quốc để vuốt ve tự ái dân chúng, thì CSTQ đưa ra vụ sách giáo khoa (bước thứ hai). Cộng sản Việt Nam vẫn còn hậm hực, chưa chịu yên, thì bộ Ngoại giao Trung Quốc bồi thêm đòn thứ ba, đưa ra năm bằng chứng kể trên.

Cách thức đe dọa của Trung Quốc từ từ theo liều lượng nặng dần dần, và ngang đây bắt đầu có hiệu lực. Trước những bằng chứng do Bộ Ngoại giao Trung Quốc đưa ra ngày 8-6-2014, lần nầy Bộ chính trị đảng CSVN đành im lặng, nhà nước CSVN im lặng, quốc hội Việt Nam do đảng CSVN kiểm soát im lặng. Các quan chức cao cấp; tổng bí thư đảng CSVN, chủ tịch nước CSVN, chủ tịch Quốc hội CSVN, thủ tướng CSVN cũng tịnh khẩu, không nói năng thêm gì nữa. Báo chí trong nước và các web trong nước có lẽ được lịnh của nhà nước CS cũng im lặng. Thật là một sự im lặng tuyệt đối từ trên xuống dưới.

Các nhà lãnh đạo đảng CSVN phải im lặng vì há miệng mắc quai, và nếu không im lặng thì CSTQ chắc chắn sẽ tung thêm ngón đòn thứ tư độc địa hơn nữa. Đó là“Kỷ yếu hội nghị đồng thuận bình thường hóa quan hệ hai nước”, ký kết tại Hội nghị Thành Đô (Chengdu), thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên (Sichuan) vào ngày 4-9-1990, giữa đại diện đảng CSVN gồm có Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng và đại diện đảng CSTQ gồm có Giang Trạch Dân (Jiang Zemin) và Lý Bằng (Li Peng).

Hai bên cam kết giữ bí mật nội dung văn bản nầy, nhưng nếu đảng CSVN không tôn trọng những điều đã bí mật cam kết, thì đảng CSTQ không có lý do gì mà giữ bí mật văn bản nầy nữa. Cho đến nay, người Việt Nam chưa biết nội dung văn bản Thành Đô, nhưng chắc chắn đảng CSVN đã cam kết những điều gì đó để được Trung Quốc giúp đỡ nhằm duy trì quyền lực của đảng CSVN, dầu có hại cho đất nước. Đây cũng có thể là một văn tự bán nước sau công hàm Phạm Văn Đồng, vì bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch và thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ đều rất thất vọng, chán nản, nhưng chỉ nói xa nói gần chứ không dám nói thẳng ra. Kết quả là một người bị cất chức, còn người kia xin từ chức vì không muốn liên hệ đến tội phản quốc.

Có một điều lạ nữa là ngay sau công bố ngày 8-6-2014 của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, thì khoảng gần 2 giờ sáng ngày 9-6-2014, Xí Nghiệp Bản Đồ Đà Lạt (XNBĐĐL) bị cháy nặng nề, tiêu hủy một phần ba (1/3) tòa nhà đồ sộ làm khu văn phòng, xưởng chế bản, hệ thống máy tính…

Xí Nghiệp Bản Đồ Đà Lạt thuộc Bộ Quốc phòng CSVN, số 14 đường Yersin Đà Lạt. Trụ sở xí nghiệp nầy được xây dựng năm 1939 và hoàn thành năm 1943 thời còn Pháp thuộc, tường dày, rất kiên cố. Trước năm 1975, đây là Nha Địa Dư Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).

Báo chí trong nước đưa tin nầy sáng 9-6-2014, và cho biết thượng tá Vũ Đình Hợi, giám đốc Cục Bản Đồ Đà Lạt, tuyên bố rằng: “Những tài liệu quan trọng liên quan đến chủ quyền, an ninh quốc gia đã được chuyển giao Bộ Quốc phòng quản lý… Sau trận hỏa hoạn mọi thứ vẫn còn nguyên vẹn. Vị trí xảy ra vụ hỏa hoạn là nơi làm việc của nhân viên, không phải nơi lưu trữ như dư luận đồn đoán…”

Ông giám đốc nói thế là đúng sách vở, chứ không lẽ ông giám đốc lại thú nhận là đã cháy nhiều tài liệu quý hiếm lưu trữ trong XNBĐĐL? Một câu hỏi được đặt ra là tại sao XNBĐĐL lại cháy ngay sau ngày Bộ Ngoại giao Trung Quốc công bố 5 bằng chứng bán nước của đảng CSVN, và cháy vào buổi khuya chẳng có người làm việc? Cháy do tai nạn hay do phá hoại? Ai là kẻ gây ra tai nạn hay chủ mưu phá hoại? Phá hoại để làm gì? Phải chăng phá hoại nhắm tiêu hủy tài liệu gốc về bản đồ? Liệu những tài liệu gốc về bản đồ vùng biên giới Việt Nam Trung Quốc và về bản đồ Hoàng Sa, Trường Sa có bị cháy chưa? Không ai có thể xác minh điều nầy trừ chính đảng CSVN.

Một điều đặc biệt nữa là từ năm 1960, nghĩa là hai năm sau công hàm Phạm Văn Đồng, và cùng một năm đảng Lao Động (tức đảng CSVN) tuyên bố quyết định tấn công VNCH, thì phủ thủ tướng Hà Nội nhận người do Trung Quốc gởi sang làm chuyên gia cho Cục Đo đạc và Bản đồ. Hồ sơ lưu trữ thấy có một người tên là Trương Hồng Kiên làm chuyên gia tại Cục Đo đạc và Bản đồ. Nói cách khác, từ năm 1960, chuyên viên Trung Quốc đã nằm vùng trong Cục Đo Đạc và Bản đồ ở Hà Nội. Sau đây là giấy chứng nhận của phủ thủ tướng Hà Nội:

Sự hiện diện của chuyên gia Trung Quốc tại Cục Đo đạc và Bản đồ có liên hệ gì đến việc thực hiện các bản đồ trong tập Bản đồ thế giới do Cục Đo đạc và Bản đồ thuộc Phủ Thủ tướng Bắc Việt ấn hành tại Hà Nội năm 1972, ghi tên hai quần đảo quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng hai địa danh do Trung Quốc đặt là Tây Sa và Nam Sa? Và có liên hệ gì đến sách Địa lý lớp chín phổ thông toàn tập của nhà xuất bàn Giáo Dục, Hà Nội, 1974 không? Có chuyên viên Trung Quốc khi XNBĐĐL bị cháy sáng sớm 9-6-2014?

Trở lại với công bố ngày 8-6-2014 của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, thì chúng ta cần tách bạch làm hai phần rõ rệt: 1) Phải thẩm định lại giá trị của các tài liệu nầy, ví dụ bản công bố nói rằng Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Trung Quốc từ thời nhà Tống là điều hoàn toàn phi lý, vì cho đến năm 1974, VNCH vẫn còn quản lý hai quần đảo nầy. Trung Quốc đem hạm đội đến đánh cướp ngày 19-1-1974. Tập Bản đồ thế giới do Cục Đo đạc và Bản đồ thuộc Phủ Thủ tướng Bắc Việt ấn hành tại Hà Nội năm 1972, và sách Địa lý lớp chin phổ thông toàn tập là của Bắc Việt Nam, chứ không phải của Nam Việt Nam tức VNCH. Trước năm 1974, Hoàng Sa và Trường Sa đều thuộc tổ chức hành chánh của VNCH và không bao giờ có tên Tây Sa và Trường Sa. 2) Dù đúng hay sai, bốn bằng chứng sau do Bộ Ngoại giao Trung Quốc đưa ra gồm công hàm Phạm Văn Đồng, tuyên bố ngày 9-5-1965 của Bắc Việt cộng sản, tập Bản đồ thế giới năm 1972, và sách Địa lý lớp chín phổ thông toàn tập năm 1974 của Bắc Việt Nam là chuyện giữa nhà nước CSVN Bắc Việt Nam với Trung Quốc, chứ không phải của nhân dân Việt Nam. Phải tách nhân dân Việt Nam ra khỏi chuyện nầy vì nhân dân Việt Nam luôn luôn xem Hoàng Sa và Trường Sa là di sản do tổ tiên để lại, là lãnh thổ Việt Nam.

Bốn bằng chứng nầy cho thấy ĐẢNG CSVN CHỦ TRƯƠNG BÁN NƯỚC CÓ KẾ HOẠCH từ thời Hồ Chí Minh cho đến ngày nay, và cũng cho thấy rằng HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CSVN CHẲNG YÊU NƯỚC mà họ chỉ lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam, hy sinh xương máu của nhân dân Việt Nam nhằm thỏa mãn cuồng vọng quyền lực của đảng CSVN và để phục vụ cho sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản, mà đại diện là Liên Xô và Trung Quốc, như Lê Duẫn đã có lần xác nhận với đám cận thần sau khi cưỡng chiếm Việt Nam Cộng Hòa: “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, Trung Quốc”.

Vì vậy, cuộc chiến tranh ba mươi năm (1946-1975) do CSVN hai lần gây ra là cuộc chiến hoàn toàn phi lý, không có chính nghĩa và chỉ là cuộc chiến ý thức hệ để thiết lập một chế độ độc tài toàn trị, và nhất là nhượng đất, nhượng biển cho Trung Quốc. Việc CSVN nhượng đảo, nhượng biển cho Trung Quốc càng làm sáng lên chính nghĩa quốc gia, dân tộc và nhân bản của các chính thể Quốc Gia Việt Nam và Việt Nam Cộng Hòa, dầu các chính thể nầy chưa được hoàn hảo, nhưng luôn luôn bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ do tổ tiên để lại.

Trước đây, khi bất cứ ai tố cáo CSVN bán nước thì đảng CSVN, báo chí CSVN, và cả những người thiên tả, những kẻ ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản đều phản bác lại, cho rằng đó là luận điệu tuyên truyền chống nhà nước “cách mạng” CSVN. Bây giớ, với bằng chứng rành rành như thế nầy, thì không còn chối cãi gì nữa. Vì vậy, đã đến lúc toàn dân dân Việt Nam phải có thái độ dứt khoát rõ ràng với chế độ CSVN vì không thể để cho CSVN tiếp tục phản dân hại nước.

Trước hết, là những người yêu nước đã lên đường năm 1945, đi theo “cách mạng” vì lầm tin chủ nghĩa cộng sản, lầm tin vào đảng CSVN, đã trọn đời hy sinh vì một lý tưởng xấu, để rồi cuối cùng bị phản bội một cách trắng trợn. Những tội lỗi của chế độ CSVN có phần trách nhiệm của quý vị vì chính quý vị đã dày công xây dựng chế độ nầy. Xin quý vị ít nhất vào cuối đời, quý vị hãy lên tiếng để bày tỏ cho con cháu biết rõ sự thật, giúp con cháu khỏi bị một lần nữa lầm đường lạc lối như thế hệ quý vị năm 1945.

Những thức giả (chứ không phải là trí thức) dưới chế độ CSVN hiện nay, như những sĩ quan quân đội, những giáo sư đại học, những chuyên viên các ngành, những nhà nghiên cứu, các văn thi sĩ, các nhà bình luận, ký giả báo chí; xưa nay quý vị lơ là với tình hình đất nước, và làm thinh cộng sinh với chế độ CSVN, nay chắc chắn hơn ai hết, quý vị biết rõ CSVN bán nước, hại dân, thì quý vị còn chờ đợi gì nữa mà chưa ly khai với đảng CSVN? Quý vị tiếp tục cộng sinh với đảng CSVN là quý vị tiếp sức cho CSVN gây họa cho tương lai đất nước.

Những sinh viên thiên tả thời VNCH, ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản, ở Đại học Sài Gòn cũng như Đại học Huế, biểu tình rầm rộ chống chính thể VNCH trong thập niên 60 và 70, nay trước những bằng chứng phản quốc cụ thể của CSVN, sao quý vị không xuống đường như thời VNCH, và quý vị cũng chẳng lên tiếng tý nào, nghĩa là làm sao? Hãy can đảm tiếp nối hành động cuối đời của ông Lê Hiếu Đằng, để chuộc lại những lỗi lầm của quý vị một thời phá hoại nền tự do dân chủ VNCH .

Không ai có thể trách các thế hệ trẻ ngày nay, vì từ năm 1974, các anh chị em đã bị CSVN nhồi sọ rằng Tây Sa và Nam Sa là của Trung Quốc, các anh chị em đâu có biết Hoàng Sa và Trường Sa nằm ở đâu? Vì vậy giới du học sinh Việt Nam từ trong nước ra ngoài du học, trong các ngày gần đây đi biểu tình chống Trung Quốc sau vụ giàn khoan 981, vì lòng yêu nước của anh chị em, chứ anh chị em đâu có biết chuyện Hoàng Sa và Trường Sa. Các anh chị em cũng không biết là cái lá cờ đỏ mà các anh chị em vác trên vai đi biểu tình chống Trung Quốc, chính là lá cờ của chế độ đã nhượng Hoàng Sa và Trường Sa của tổ quốc cho Trung Quốc từ lâu rồi. Các anh chị em nghĩ sao về các bằng chứng do Bộ Ngoại giao Trung Quốc
đưa ra? Anh chị em hãy thử đặt câu hỏi với các tòa đại sứ CSVN vể các bằng chứng nầy, và thêm một câu hỏi nữa là tại sao trong nước cấm biểu tình chống Trung Quốc mà ở Hải ngoại, các tòa đại sứ CSVN lại ra lịnh du học sinh vác cờ đi biểu tình?

Các anh chị em theo dõi, quan sát sự im lặng nhịn nhục của lãnh đạo đảng CSVN trước công bố của Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 8-6-2014, chắc chắn anh chị em đã hiểu nội tình rồi. Các anh chị em đừng để cho CSVN lợi dụng làm con cờ thí cho CSVN. Các anh chị em là những người ra nước ngoài học hành, hiểu nhiều, biết rộng, vậy hãy thức tỉnh và hãy đoạn tuyệt với CSVN ngay từ bây giờ để sau nầy khỏi hối hận. Các bậc cha chú, các bậc đàn anh của anh chị em đã hy sinh cho một lý tưởng xấu. Các anh chị em đừng phục vụ cho một chế độ xấu.

Tình trạng đảng CSVN ngày nay không còn có thể cứu vãn được nữa. Cứu vãn cũng vô ích. Chủ nghĩa CS đã bị dẹp bỏ từ mấy chục năn nay ở ngay đất nước của Marx, của Lenin, của Stalin. Chủ nghĩa CS bây giờ chỉ là cái vỏ bọc của những chế độ độc tài tàn bạo như Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Triều Tiên. Chủ nghĩa CS bây giờ ở Việt Nam chỉ gồm những tên tay sai của Bắc Kinh từ thời kẻ sáng lập là Hồ Chí Minh. Đã ký văn tự bán nước thì không còn lý do gì mà chống chế với Trung Quốc.

Nếu còn đảng CSVN thì còn làm tay sai cho Trung Quốc, còn những mật ước giữa CSVN với Trung Quốc mà nhân dân Việt Nam không biết đâu mà lường trước được. Việt Nam chúng ta muốn chấm dứt tình trạng nầy, thì nhân dân Việt Nam phải xóa sổ chế độ CSVN, để chấm dứt những cam kết bí mật của chế độ nầy với Trung Quốc.

Khi nhân dân Việt Nam không thừa nhận chế độ CSVN, chứng tỏ nhân dân Việt Nam cũng không thừa nhận những cam kết bán nước của chế độ CSVN. Lúc đó, mới có thể nói chuyện đòi đất, đòi biển trở lại. Đã đến lúc những đảng viện CSVN phải đánh giá lại đảng CSVN và ly khai đảng nầy. Đã đến lúc các thức giả trong nước phải đoạn tuyệt với chế độ CSVN để khỏi mang tội đồng lõa với phản quốc. Đã đến lúc thanh niên sinh viên Việt Nam phải tranh đấu để xóa sổ chế độ CSVN để xây dựng một tương lai tười đẹp hơn. Đã đến lúc nhân dân Việt Nam phải dứt khoát hành động! Nếu không, thời kỳ bắc thuộc đen tối đang chờ đợi Việt Nam.

TRẦNGIAPHỤNG
(Toronto, Canada)

 

TÌM KIẾM MỘT LỜI ĐẦY HIỆN THỰC

TÌM KIẾM MỘT LỜI ĐẦY HIỆN THỰC

Đức tin không phải là điều bạn đạt được.  Nếu bạn cố gắng đóng chặt nó xuống, nó sẽ trỗi dậy và ra đi với chiếc đinh.  Đức tin hoạt động theo cách này: Có lúc bạn đi trên mặt nước, có lúc bạn chìm nghỉm như tảng đá giữa dòng.  Nhà thơ Rumi đã nói, bạn sống với một bí mật sâu thẳm, có lúc bạn biết, có lúc bạn không biết, rồi lại biết.  Đôi khi bạn cảm thấy có một sự hiện diện thật sự, đôi khi bạn thấy trống vắng thật sự.  Tại sao như vậy?

Vì, giống như tình yêu, đức tin là một cuộc hành trình, luôn mãi thăng trầm, với những giai đoạn luân phiên giữa tha thiết và lãnh đạm, với an ủi và cô quạnh, có những lúc cảm nhận ân sủng Thiên Chúa hiện diện hiển nhiên, có lúc như đêm dài tăm tối khi Thiên Chúa vắng mặt.  Đó là một tình trạng lạ lùng: đôi khi bạn thấy mình kết chặt với Chúa, chặt chẽ vô cùng, lúc khác bạn thấy mình như rơi tự do khỏi tất cả những gì an toàn, và rồi khi mọi thứ chạm đáy, một lần nữa, bạn lại cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa.

Tại sao đức tin phải có động lực mơ hồ này?  Không phải là Thiên Chúa ác độc, đang đùa giỡn với chúng ta, muốn thử thách lòng trung tín của chúng ta, hay muốn chúng ta phải làm việc gì đó khó khăn để kiếm được ơn cứu độ.  Không, những thăng trầm đức tin phải đi cùng với nhịp điệu của đời sống bình thường, đặc biệt là nhịp điệu của tình yêu.  Tình yêu cũng như đức tin, có những giai đoạn tha thiết và đêm đen tăm tối.  Tất cả chúng ta đều biết, bên trong giao kết lâu dài nào (hôn nhân, gia đình, tình bạn, hay giáo hội), đều có những ngày, những mùa nào đó, khi tâm hồn và tâm trí chúng ta không còn giữ giao kết đó, dù vẫn ở trong nó.  Tâm trí và tâm hồn của chúng ta phai mờ đi dần, nhưng chúng ta cảm nghiệm tình yêu, xét cho tận cùng, là một điều không dựa vào tâm trí, cái đầu, hay thậm chí là tâm hồn, quả tim.  Có một sự gì đó sâu kín hơn giữ lấy chúng ta, và một lúc nào đó, giữ chúng ta ra ngoài tầm của những suy nghĩ trong tâm trí hay cảm giác trong tâm hồn.

Trong bất kỳ giao kết tình yêu nào được duy trì, thì tâm trí và tâm hồn của chúng ta sẽ phai mờ lúc lên lúc xuống.  Đôi khi tha thiết, đôi khi lạnh nhạt.  Đức tin cũng hoạt động như vậy.  Đôi khi chúng ta cảm nhận và nhận thức thấy sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm trí và tâm hồn, đôi khi cả tâm trí và tâm hồn đều lạnh nhạt và lãnh đạm.  Nhưng đức tin là một cái gì thâm sâu hơn là hình dung hay cảm nhận có sự hiện diện của Thiên Chúa.  Nhưng làm sao chúng ta đạt đến đó?  Chúng ta phải làm gì những khi cảm thấy như thể Thiên Chúa vắng mặt.

Nhà thần nghiệm vĩ đại, Gioan Thánh Giá, đã cho chúng ta lời khuyên này.  Nếu bạn muốn tìm ra sự hiện diện của Thiên Chúa một lần nữa vào những lúc bạn cảm thấy Ngài vắng mặt, thì bạn hãy lắng nghe lời tràn đầy hiện thực và chân lý thâm sâu khôn lường.

Gioan Thánh Giá nói thế nghĩa là gì?  Làm sao lắng nghe được lời tràn đầy hiện thực và chân lý thâm sâu khôn lường?  Làm sao tìm được một lời như thế?  Thành thực mà nói, cho dù lời của ngài bùng lên nhiều ý nghĩa trong đầu tôi, nhưng tôi không hoàn toàn chắc về ý của ngài.  Sẽ dễ giải nghĩa hơn nếu ngài bảo chúng ta hãy tìm kiếm một cảm nghiệm thâm sâu và đầy thực tế, ví dụ việc sinh một đứa trẻ, chết lặng trước vẻ đẹp khôn lường, hay tan vỡ tâm hồn khi mất mát hay đối diện cái chết.  Những dạng cảm nghiệm này có thật, tồn tại thật mà chẳng thể hiểu được, và chúng bật chúng ta vào một nhận thức sâu sắc hơn.  Và như thế, nếu Thiên Chúa để cho con người tìm kiếm, thì chẳng phải sẽ tìm thấy Thiên Chúa chính ở nơi đó hay sao?

Nhưng Gioan không hướng dẫn chúng ta đến với cảm nghiệm thiếu chiều sâu, ngài đang yêu cầu chúng ta tìm kiếm một lời hiện thực và thâm sâu.  Như thế nghĩa là khi chúng ta dao động và hoài nghi, chúng ta phải săn tìm những bản văn (trong kinh thánh, thần học, linh đạo, hay văn học và thơ ca thế tục) nói với chúng ta theo một cách tái truyền thụ cho chúng ta một nhận thức nền tảng rằng Thiên Chúa hiện hữu và yêu thương chúng ta, và do đó, chúng ta phải sống trong yêu thương và hy vọng. Chẳng phải là vậy hay sao?

Tôi nghĩ đây mới chính là ý của ngài.  Thiên Chúa độc nhất, chân thật, tốt lành, và tuyệt mỹ, và như thế lời thật về sự hiệp nhất, sự thật, tốt lành, hay vẻ đẹp phải có sức mạnh giữ vững tâm trí và tâm hồn lay động của chúng ta.  Lời thật có thể khiến Ngôi Lời thành xác phàm lần nữa.

Nhưng những lời nào có sức mạnh như thế cho chúng ta?  Chúng ta tất cả đều khác nhau, và như thế không phải ai cũng tìm thấy sự thật và thâm sâu theo cách giống nhau.  Vì thế, mỗi một người trong chúng ta phải tự thực hiện cuộc tìm kiếm riêng mình, vô cùng riêng của mình.

Về bản thân tôi, có nhiều lời của các tác giả khác nhau đã truyền tải dạng chân lý này cho tôi trong nhiều giai đoạn của cuộc sống.  Quyển Câu chuyện một Linh hồn của Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã giữ vững tôi trong những khi tôi nao núng.  Quyển Chùm nho Phẫn nộ của John Steinbeck, có thể tái định hướng tầm nhìn của tôi để nó được phẳng lặng khi nó bị vẩn đục.  Những đoạn văn khác nhau của Karl Rahner, John Shea, Raymond Brown, Henri Nouwen có thể con tàu của tôi được vững vàng khi nó bị chòng chành.  Và một vài lời của Dag Hammarskjold có thể làm cho tôi muốn sống sao để phản ánh lại những điều tốt đẹp trong đời hơn nữa.

Nhưng, bằng cách riêng của mình, mỗi chúng ta cần phải tìm kiếm những lời đầy tràn hiện thực và sự thật khôn dò thấu, để khơi lên cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa.

Fr. Ron Rolheiser

 

Muốn thoát Trung phải thoát mọi chế độ độc tài

Muốn thoát Trung phải thoát mọi chế độ độc tài

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-06-19

06192014-to-free-fr-cn.mp3

Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang cúi chào tại buổi lễ chào đón khi ông đến thăm Trung Quốc tại Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh ngày 19 tháng 6 2013

Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang cúi chào tại buổi lễ chào đón khi ông đến thăm Trung Quốc tại Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh ngày 19 tháng 6 2013.

AFP

Sự kiện giàn khoan HD 981 và viễn ảnh lệ thuộc Trung Quốc như một chư hầu khiến cho giới trí thức Việt Nam đặt vấn đề “thoát Trung”. Câu hỏi đặt ra Việt Nam có thể thoát khỏi ảnh hưởng Trung Quốc mà vẫn duy trì ý thức hệ Cộng sản hay không. Nam Nguyên ghi nhận một số ý kiến liên quan.

Giải Cộng

Đặt vấn đề muốn thoát Trung phải giải Cộng như một điều kiện tiên quyết, thì dễ thấy mục tiêu này có khoảng cách khá xa với thực tại. Nhưng các sử gia đã dẫn chứng những trường hợp thoát Cộng, từ bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa đã nhiều lần diễn ra trên thế giới. Điển hình là sự sụp đổ Liên bang Xô viết năm 1991, khi tình hình còn chưa ngã ngũ thì một số nước Cộng hòa, từng bị ép đi theo con đường Cộng sản đã nhanh chóng tuyên bố độc lập và sau đó người dân bầu chọn chế độ chính trị dân chủ đa đảng. Sự từ bỏ chủ nghĩa Cộng sản đã hoàn tất ở tất cả 15 nước Cộng hòa thuộc Liên bang Xô viết, kể cả Liên bang Nga.

Nếu Liên Xô cái nôi của chủ nghĩa Cộng sản phải mất 70 năm mới tan rã thì Campuchia lại khác, Xứ Chùa Tháp bị nhuộm đỏ nhanh chóng sau năm 1975 và cũng nhanh chóng thoát Cộng trong vòng 15 năm. Cho nên đối với những ai dị ứng với chế độ Cộng sản, vấn đề giải Cộng ở Việt Nam cũng không phải là chuyện viễn tưởng.

Theo tôi, về lâu về dài không có con đường nào khác phải thoát khỏi chế độ toàn trị này, xây dựng một chế độ dân chủ thực sự trong đó có đa nguyên đa đảng, đảm bảo các quyền con người và chỉ có trên cơ sở ấy thì mới có cơ hội để thoát ra những cái ràng buộc với Trung Quốc

TS Nguyễn Quang A

Trò chuyện với chúng tôi, TS Nguyễn Quang A thuộc nhóm chủ trương Diễn đàn Xã hội Dân sự từ Hà Nội trình bày ý kiến của ông:

“Tôi nghĩ rằng, thoát khỏi Trung Quốc là một vấn đề rất bức thiết. Nhưng cũng là một vấn đề không thể vội vàng làm ào ào được. Theo tôi, về lâu về dài không có con đường nào khác phải thoát khỏi chế độ toàn trị này, xây dựng một chế độ dân chủ thực sự trong đó có đa nguyên đa đảng, đảm bảo các quyền con người và chỉ có trên cơ sở ấy thì mới có cơ hội để thoát ra những cái ràng buộc với Trung Quốc và những ảnh hưởng không có lợi của Trung Quốc đối với Việt Nam.”

Các nhà lãnh đạo cộng sảng Việt Nam, (hàng đầu từ phải) Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, và Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng.

Các nhà lãnh đạo cộng sảng Việt Nam, (hàng đầu từ phải) Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, và Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng.

Tuy vậy, TS Nguyễn Quang A nhấn mạnh rằng người Việt Nam cần hết sức thận trọng, tránh bài học thoát Cộng nhưng vẫn không thoát độc tài. Ông nói:

“Người ta nói rằng phải thoát Cộng, tôi cũng đồng ý như thế nhưng cái đó chỉ mới là một nửa thôi. Có thể không có Cộng sản nhưng mà lại có một chế độc độc tài khác, một đất nước không thể phát triển được trên cơ sở chế độ độc tài. Cho nên tôi nghĩ rằng phải thoát cái gọi là toàn trị, thoát cái độc tài và đấy là một quá trình không thể ngày một ngày hai. Tôi nghĩ là không có biện pháp nào nói rằng ngày mai, hay hai năm nữa, hay sáu tháng nữa mà có thể đạt được. Bởi vì nếu mà còn một chế độ độc tài như thế này, thì thực sự Việt Nam không có bạn, trơ trọi và như thế khó mà có thể vươn lên được và có thể có mối quan hệ bình thường giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc được.”

Cũng có những ý kiến quan ngại sự giải Cộng hay xóa bỏ chế độ Xã hội Chủ nghĩa hiện nay ở Việt Nam sẽ có xáo trộn rất lớn. Hơn nữa không phải người dân Việt Nam nào cũng muốn giải cộng, giải tán chế độ hiện tại. Luồng ý kiến này lập luận rằng Việt Nam hiện có 3,6 triệu đảng viên cộng sản, mỗi gia đình trung bình 4 người, kéo theo họ hàng quyến thuộc và những kẻ ăn theo, tổng số người chịu ảnh hưởng quyền lợi nhờ chế độ Cộng sản hiện nay có thể lên tới mười mấy, hai chục triệu người. Thật ra để biết được người dân Việt Nam thực sự nghĩ gì, mong muốn gì đối với việc lựa chọn thể chế chính trị thì có lẽ phải có một cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức nghiêm túc. Đây là điều Đảng Cộng sản Việt Nam không muốn phải đối mặt, do vậy mà mấy chục năm Quốc hội Việt Nam không hình thành được Luật Trưng cầu Dân ý hay Luật Biểu tình. Dù bản Hiến pháp nào của Việt Nam cũng đều có qui định các quyền  công dân này.

Thoát Trung?

Đáp câu hỏi của chúng tôi là để thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc rất nặng nề cả về chính trị và kinh tế, có ý kiến cho là Việt Nam phải cải tổ để có một chế độ dân chủ thực sự thì mới có thể không còn ngán ngại trong việc bảo vệ chủ quyền. TS Trần Đình Bá, thành viên Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam từ Hà Nội nhận định:

Tình hình bây giờ khác với thời kỳ 1979….Ngay bây giờ, thí dụ TQ mà xâm lược Việt Nam ở trên bộ thì người dân VN sẽ đoàn kết lại bất kể Chính phủ như thế nào. Chuyện ấy đụng tới vấn đề xâm lược, nhưng mà như thế không có nghĩa là thoát Trung. Sau năm 1979, thì đâu có thoát

TS Nguyễn Quang A

“ Không, theo tôi không cần thiết. Tôi nghĩ bây giờ ở các cơ chế đa phương, các quốc gia đều được tự do bình đẳng về quyền lợi quốc tế của mình, tất cả các hiệp định của quốc tế. Tôi nghĩ mỗi quốc gia có thể chế riêng của mình không sao cả, các nước ASEAN cũng thế thôi.”

Nhà nước Cộng sản Việt Nam trong quá khứ là đồng chí môi hở răng lạnh với Trung Quốc và nhận viện trợ về vũ khí và nhân sự rất lớn từ Trung Quốc. Thế nhưng sau khi Bắc Việt Cộng sản chiến thắng thống nhất đất nước thì đến năm 1979 thì Trung Quốc lại mở cuộc tấn công xâm lăng, gây ra cuộc chiến khốc liệt ở biên giới Việt-Trung.

Với ý kiến cho rằng, nước Việt Nam độc tài đảng trị nhưng vẫn đẩy lùi được quân xâm lược Trung Quốc bảo vệ chủ quyền vào năm 1979. Tình hình lấn chiếm hiện nay qua vụ giàn khoan HD 981 có thể xem là lịch sử đang tái diễn hay không. TS Nguyễn Quang A phân tích:

“ Tôi nghĩ tình hình bây giờ khác với thời kỳ 1979 và lúc ấy Trung Quốc xâm lược ở trên bộ, còn bây giờ ở xa ngoài biển và chuyện đó khác xa. Ngay bây giờ, thí dụ Trung Quốc mà xâm lược Việt Nam ở trên bộ thì người dân Việt Nam sẽ đoàn kết lại bất kể Chính phủ như thế nào. Chuyện ấy đụng tới vấn đề xâm lược, nhưng mà như thế không có nghĩa là thoát Trung. Sau năm 1979, thì đâu có thoát mà ảnh hưởng Trung Quốc từ xa xưa lắm rồi và tôi nghĩ không thể có một biện pháp đơn giản nào để làm việc này có kết quả ngay lập tức.”

Thoát Trung mà phải từ bỏ xã hội chủ nghĩa, từ bỏ vai trò lãnh đạo toàn diện Việt Nam chắc chắn không phải chọn lựa của Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản. Nhà nước sẽ làm gì để thoát khỏi ảnh hưởng lệ thuộc Trung Quốc. Người dân Việt Nam rất mong muốn được thông tin về vấn đề này.

Đáp số của những sự im lặng

Đáp số của những sự im lặng

Hòa Ái, phóng viên RFA
2014-06-18

06182014-hoaai.mp3

000_Hkg9926949-600.jpg

Hai người Trung Quốc vào Việt Nam qua cửa khẩu Lào Cai hôm 09/5/2014.

AFP photo

Đã 6 tuần trôi qua kể từ khi giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc hạ đặt trong vùng biển thuộc chủ quyền của VN. Dư luận cho rằng phản ứng từ cấp lãnh đạo đến cả người dân trong nước trước tình hình căng thẳng ở biển Đông hiện nay chỉ là sự im lặng.

“Tình hình biển Đông bây giờ dân thì cũng nhiều người như tôi, người ta mặc kệ, chán rồi, chán chả buồn nói nữa vì 1 tháng rồi có làm được gì đâu. Nghe tivi nói nhiều nhảm nhí suốt ngày, súng phun nước chỉ bắn được có 1 lần, cứ rêu rao đi rêu rao lại mà cứ để bị lấn lướt như thế thì người ta cũng chán. Biểu tình thì không cho. Nhiều người kể cả công an về hưu cũng nói ‘rồi chẳng đi đến đâu’. Những lời nói của truyền thông như kiểu mị dân là ‘sợ bị Trung Quốc đánh’. Còn bao nhiêu nước, Liên Hiệp Quốc, có đánh mình chết được ngay đâu? ‘Kiến nghị hòa bình, 4 tốt’: ông Bộ trưởng nói kiểu quỳ lụy Trung Quốc quá thành ra dân cũng chán. Mình là người dân thấp cổ bé họng chẳng làm được gì cả”.

Vừa rồi là chia sẻ của 1 tài xế lái taxi tên Vũ ở Hà Nội. Do tính chất công việc, anh Vũ có cơ hội tiếp xúc với nhiều người, nhiều độ tuổi và nhiều thành phần khác nhau trong xã hội nhưng đa số những người anh Vũ gặp hằng ngày có cùng thái độ im lặng giống như anh trước tình hình căng thẳng ở biển Đông hiện nay.

…ở đâu không biết chứ ở Nha Trang-Khánh Hòa, người ta nói sao Nhà nước VN không lên tiếng mà cứ im lặng.
– Một người chạy xe ôm ở Nha Trang

Người dân im lặng không phải vì họ hoàn toàn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản và Nhà nước VN với phương châm “toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải hết sức tỉnh táo, sáng suốt, cả nước một lòng, kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ” như lời phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong ngày bế mạc Hội nghị Trung ương 9 khóa XI hôm 14/5.

Dân chúng im lặng vì họ không thể thực hiện quyền công dân đi biểu tình chống Trung Quốc một cách ôn hòa, cho thế giới thấy tinh thần tôn trọng luật pháp quốc tế của họ trước sự xâm lấn chủ quyền biển đảo VN của Bắc Kinh. Công luận trong nước im lặng do không biết Chính phủ VN sẽ chọn phương sách nào giải quyết vụ việc giàn khoan HD 981 khi Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh khẳng khái tại Đối thoại Shangri-La hồi cuối tháng 5, cho rằng Việt Nam-Trung Quốc vẫn phát triển tốt đẹp, vẫn duy trì quan hệ giữa 2 nước và vấn đề tranh chấp chủ quyền ở biển Đông đôi khi có những va chạm gây căng thẳng giống như mỗi gia đình có những mâu thuẫn, bất đồng nên các nước láng giềng với nhau còn tồn tại tranh chấp về biên giới, lãnh thổ hoặc va chạm là điều khó tránh khỏi. Nhiều người dân trong nước mà đài ACTD tiếp xúc đều cho rằng họ rất bất mãn trước những lời tuyên bố trong quốc nội cũng như trong những diễn đàn quốc tế của các quan chức lãnh đạo hiện nay. Ngoài sự im lặng, người dân không còn cách nào khác để bày tỏ sự bất mãn của mình.

“Há miệng mắc quai?”

1-TBT-(2)-250.jpg

TBT Nguyễn Phú Trọng gặp Ủy Viên Quốc Vụ TQ Dương Khiết Trì tại Hà Nội chiều 18/6/2014.

Câu hỏi đặt ra có phải sự im lặng này là một sự buông xuôi trước vận mệnh của quốc gia? Trao đổi với Hòa Ái, một người hành nghề chạy xe ôm ở Nha Trang không cho là như vậy. Người thanh niên này cho biết:

“Trung Quốc khi đặt giàn khoan Hải Dương 981 thì dân chúng rầm rộ đi biểu tình ở Hà Nội và Sài Gòn nhưng sau này cũng lắng dịu. Tuy nhiên đây không phải là sự lắng dịu quên lãng đâu mà đây là sự âm thầm giống như lò áp suất hơi vậy đó, sẽ bùng phát hồi nào không hay, chứ không đơn giản bình thường. Người ta không dám nói nhưng bàn tán ngầm, ở đâu không biết chứ ở Nha Trang-Khánh Hòa, người dân có sự chú ý nhiều đến biển Đông, người ta nói sao Nhà nước VN không lên tiếng mà cứ im lặng. Người dân bây giờ đang nghi ngại Nhà nước những vấn đề như vậy đó”.

Một trong những người đại diện cho Nhà nước là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, được người dân đặc biệt nhắc đến trong thời gian từ khi giàn khoan HD 981 xuất hiện ở khu vực biển cách đảo Lý Sơn 120 hải lý. Nhân vật lãnh đạo cao cấp nhất của Đảng CSVN được nhắc tên vì sự im lặng của ông.

Có nhiều đồn đoán cho rằng ông Nguyễn Phú Trọng không đăng đàn nói được lời nào vì bị “há miệng mắc quai”. Thậm chí dư luận mặc cả rằng ông Nguyễn Phú Trọng tiếp tục giữ im lặng chính là bằng chứng “cõng rắn cắn gà nhà” của một Lê Chiêu Thống trong lịch sử VN, thế kỷ 21.

Tình hình biển Đông bây giờ dân thì cũng nhiều người như tôi, người ta mặc kệ, chán rồi, chán chả buồn nói nữa vì 1 tháng rồi có làm được gì đâu.
– Một tài xế taxi ở Hà Nội

Còn có dự đoán sau giữa tháng 8 vào lúc thời tiết không thuận lợi cũng như giàn khoan HD 981 đã tròn nhiệm vụ khoan thăm dò và rút đi thì Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng sẽ xuất hiện trước truyền thông để lên tiếng trấn an người dân rằng Đảng Cộng Sản và Nhà nước VN đã giải quyết thắng lợi tình trạng căng thẳng ở biển Đông đồng thời trỗi lên những lời ca tụng tình hữu nghị “4 tốt-16 chữ vàng” với người bạn láng giềng Trung Quốc.

Cho đến ngày 18/6 là ngày gặp gỡ chính thức đầu tiên giữa Ủy viên Quốc Vụ viện Trung Quốc, ông Dương Khiết Trì và đại điện quan chức cấp cao gồm Thủ tướng VN và Tổng Bí Thư Đảng CSVN thì ý nghĩa sự im lặng của ông Nguyễn Phú Trọng vẫn chưa được giải mã.

Một ngày trước cuộc gặp gỡ giữa các đại diện cấp cao của Hà Nội và Bắc Kinh để thảo luận liên quan đến việc Trung Quốc triển khai giàn khoan dầu HD 981 ở vùng biển tranh chấp, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh cảnh báo VN nên chú trọng đến lợi ích lớn hơn trong quan hệ song phương để làm việc cùng Trung Quốc trong tình hình căng thẳng hiện nay. Trước đó, nhà nghiên cứu văn hóa Nguyên Ngọc của VN nói với báo giới trong nước rằng “vụ giàn khoan trái phép đã dại dột đánh thức lòng tự tôn dân tộc thiêng liêng bị dồn nén của người Việt, sức mạnh đã từng quét sạch mọi cuộc xâm lăng của đế quốc Trung Hoa trong suốt chiều dài lịch sử. Nó phơi trần mọi sự lừa bịp được công phu bày vẽ lâu nay”.

Người dân trong nước bày tỏ vẫn đang thầm lặng chờ đợi xem phản ứng của những người đại diện Nhà nước VN trong cuộc gặp gỡ mặt đối mặt với đại diện của Trung Quốc như thế nào và họ cũng thầm hy vọng những lời tuyên bố của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong cuộc gặp gỡ này sẽ không đồng nghĩa với sự im lặng suốt những tuần vừa qua khi biển đảo quê hương bị xâm chiếm.