Đức Phanxicô nói với giáo dân và tu sĩ Đại Hàn

Đức Phanxicô nói với giáo dân và tu sĩ Đại Hàn

Vũ Văn An

Bản tin AP hôm nay cho hay: Đức GH Phanxicô lúc nào cũng lo liệu cách dành đủ thì giờ để cầu nguyện. Do đó, ngài lo thức dậy thật sớm, khoảng lúc 4 giờ 30 sáng để bảo đảm sẽ không bao giờ thiếu thì giờ suy niệm hàng ngày.

Ấy thế nhưng, vào thứ bẩy hôm qua, ngài đã phải yêu cầu bỏ đọc kinh chiều, vì trễ giờ sau một ngày bận bịu cử hành Thánh Lễ cho 800,000 người ở Hán Thành, sau đó, phải du hành 90 cây số tới một cộng đồng Nam Hàn chuyên chăm sóc người khuyết tật.

Đó là cộng đồng Kkottognae. Tại cộng đồng này, ngài dự tính thực hiện ba cuộc gặp gỡ. Nhưng lúc tới giờ thực hiện cuộc gặp gỡ thứ hai gồm một buổi kinh chiều bằng tiếng La Tinh và tiếng Đại Hàn và nói chuyện với 5,000 nam nữ tu sĩ, thì ngài thấy mình không đủ thì giờ. Nên ngài nói với đám đông: “cha gặp vấn đề nho nhỏ. Nếu có điều gì đó mà anh chị em không bao giờ nên làm, thì đó là bỏ giờ cầu nguyện, nhưng hôm nay, chúng ta phải làm điều ấy một mình thôi và cha sẽ cho anh chị em hiểu tại sao: cha tới bằng trực thăng, và nếu trực thăng không cất cánh đúng giờ, thì có nguy cơ sẽ đâm vào núi”.

PopeFrancis-8.jpg

Đám đông cười rộ khi lời xin lỗi bằng tiếng Ý của Đức GH được dịch sang tiếng Đại Hàn. Phát ngôn viên Tòa Thánh, Cha Lombardi, nói rằng lý do Đức Phanxicô trễ giờ hoàn toàn biện minh được: Ngài dành thêm giờ để thăm hỏi và chúc lành cho từng người trong số khoảng 60 trẻ em khuyết tật và người cao niên ngụ tại Cộng Đồng Kkottognae… “Việc này quan trọng hơn đối với ngài, và tôi nghĩ cả với chúng ta nữa”.

Lời xin lỗi của ngài càng được biện minh hơn khi ta hiểu lai lịch cộng đồng này. Một ngày vào năm 1976, Cha John Oh, người vừa tốt nghiệp đại học Công Giáo Gwangju và đang làm cha sở Nhà Thờ Mugeuk, gặp một người đàn ông vô gia cư đã có tuổi với chiếc bát ăn mày trong tay, tên Choi Gui-dong. Điều khiến cha vô cùng ngạc nhiên và thán phục là ông Choi đang chăm sóc cho 18 người vô gia cư khác! Cha khám phá ra sự thật này: dù chỉ có khả năng ăn xin, bạn vẫn có thể là ơn phúc của Thiên Chúa. Được linh hứng bởi trải nghiệm này, cha nhất quyết thành lập Cộng Đồng Kkottognae. Cha bắt tay ngay lập tức vào việc xây dựng một mái ấm gọi là Nhà Tình Thương. Từ mái ấm đơn sơ này, Cộng Đồng Kkottognae đã phát triển đến độ cung cấp chỗ ở cho 4,000 người, với 1,000 nhân viên, tu sĩ nam nữ và linh mục. Đây là cơ sở an sinh lớn nhất của quốc gia, cung cấp chăm sóc và tình thương “từ lúc nằm nôi tới lúc xuống lỗ” cho những ai đến xin ăn cũng không làm được: họ là người vô gia cư, bệnh tâm thần, người cao niên, người khuyết tật, trẻ mồ côi, và cả những người bị bỏ rơi sau khi chết (nghĩa địa riêng).

PopeFrancis-2.jpg

Nói chuyện với giáo dân

Chính tại Trung Tâm Linh Đạo của Cộng Đồng này, Đức Phanxicô đã nói chuyện với giáo dân Nam Hàn tụ tập tại đây lúc 6 giờ 30 chiều thứ Bẩy. Ở đây ngài đã gặp 150 đại biểu giáo dân của Hội Đồng Công Giáo Tông Đồ Giáo Dân, thành lập năm 1968. Lời ngài:

“Anh chị em thân mến,

“ Cha biết ơn vì có dịp gặp anh chị em, những người đại diện cho nhiều biểu thức của tông đồ giáo dân rất thịnh hành tại Đại Hàn […] Cha cám ơn Chủ Tịch Hội Đồng Tông Đồ Giáo Dân, ông Paul Kwon Kil-joong, về những lời chào mừng tốt đẹp nhân danh anh chị em.

“ Như anh chị biết, Giáo Hội tại Đại Hàn là người thừa hưởng đức tin của nhiều thế hệ giáo dân, những người đã kiên trung trong tình yêu Chúa Giêsu Kitô và sự hiệp thông với Giáo Hội, bất chấp việc khan hiếm linh mục và sự đe doạ bị bách hại nặng nề. Chân phúc Paul Yun Ji-chung và các vị tử đạo được phong chân phúc hôm nay tượng trưng cho một trang sử gây rất nhiều ấn tượng. Họ đã làm chứng cho đức tin không chỉ bằng đau khổ và sự chết, mà còn bằng lối sống đầy liên đới yêu thương với nhau trong các cộng đoàn Kitô Giáo được đánh dấu bằng một đức ái gương mẫu.

“Gia tài qúy gía này sống mãi trong các công trình đức tin, đức ái và việc phục vụ của anh chị em. Ngày nay cũng như bao giờ, Giáo Hội luôn cần các chứng nhân giáo dân đáng tin cậy làm chứng cho chân lý cứu rỗi của Tin Mừng, sức mạnh tinh luyện và biến đổi tâm hồn con người của nó, và tính phong phú của nó trong việc xây dựng gia đình nhân loại trong hợp nhất, công lý và hòa bình. Chúng ta biết: chỉ có một sứ mệnh của Giáo Hội Chúa, và mọi Kitô hữu đã chịu phép rửa đều là thành phần sinh tử của sứ mệnh này. Các ơn phúc của anh chị em trong tư cách giáo dân nam nữ thì có nhiều và các việc tông đồ của anh chị em thì đa dạng, ấy thế nhưng mọi việc anh chị em đang làm đều nhằm thăng tiến sứ mệnh của Giáo Hội bằng cách bảo đảm rằng trật tự trần thế được Thần Trí Chúa Kitô thẩm thấu và hoàn hảo hóa và được sắp xếp để Nước Người trị đến.
PopeFrancis-10.jpg

“Một cách riêng, cha muốn cám ơn việc làm của nhiều hội đoàn và hiệp hội trực tiếp dấn thân vào việc vươn tay ra với người nghèo và người túng thiếu. Như gương sáng của các Kitô hữu Đại Hàn tiên khởi vốn chứng tỏ, tính phong phú của đức tin được phát biểu qua tình liên đới cụ thể với anh chị em của mình, mà không chú ý tới văn hóa của họ hay địa vị xã hội của họ, vì, trong Chúa Kitô, “không có Hy Lạp hay Do Thái” (Gl 3:28). Cha hết sức biết ơn những người trong anh chị em, qua công việc mình làm và qua việc làm chứng của mình, đã đem sự hiện diện đầy an ủi của Chúa tới cho những người sống bên lề xã hội chúng ta. Ta không nên hạn chế hoạt động này trong việc giúp đỡ có tính bác ái, mà phải mở rộng nó ra tới việc biết quan tâm một cách thực tiễn tới việc phát triển nhân bản.

Không chỉ trợ giúp mà thôi, mà còn phát triển con người nữa.

Trợ giúp người nghèo là điều tốt và cần thiết, nhưng không đủ.

Cha khuyến khích anh chị em nhân thừa các cố gắng của anh chị em trong lãnh vực cổ vũ con người, để mọi người nam nữ biết được niềm vui vốn phát sinh từ phẩm giá của việc hàng ngày kiếm được cơm áo và nâng đỡ gia đình mình. […]

“Cha cũng muốn cám ơn sự đóng góp rất đáng kể của phụ nữ Công Giáo Đại Hàn vào đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội trên quê hương này trong tư cách làm mẹ, làm giáo lý viên và thầy dạy, và nhiều cách khác không thể đếm được. Cũng vậy, cha chỉ có thể nhấn mạnh tầm quan trọng của chứng tá được các gia đình Kitô Giáo cung hiến. Vào thời điểm có cuộc khủng hoảng lớn về đời sống gia đình, như ta thấy hiện nay, các cộng đồng Kitô hữu của ta được mời gọi nâng đỡ các cặp vợ chồng và các gia đình trong việc họ chu toàn sứ mệnh riêng của họ trong đời sống Giáo Hội và xã hội.

Gia đình vẫn là đơn vị căn bản của xã hội và là trường học đầu tiên trong đó trẻ em học được các giá trị nhân bản, tâm linh và luân lý giúp chúng trở thành hải đăng của tính tốt, của chính trực và công lý trong các cộng đồng chúng ta.

“Anh chị em thân mến, bất kể sự đóng góp đặc thù của anh chị em có như thế nào vào sứ mệnh của Giáo Hội, cha vẫn yêu cầu anh chị em cổ vũ, trong cộng đồng của anh chị em, một cuộc huấn luyện các tín hữu giáo dân trọn vẹn hơn, với một nền giáo lý và một nền linh đạo liên tục.

Trong mọi điều anh chị em làm, cha yêu cầu anh chị em làm trong tình hòa hợp trọn vẹn cả tâm lẫn trí với các mục tử của anh chị em, cố gắng đem các tầm nhìn thông sáng, các tài năng và các đặc sủng của anh chị em vào việc phục vụ phát triển Giáo Hội trong hợp nhất và vươn tay ra truyền giáo. Sự đóng góp của anh chị em là điều chủ yếu vì tương lai Giáo Hội Đại Hàn cũng như trên khắp Á Châu sẽ tùy thuộc phần lớn vào sự khai triển một viễn kiến Giáo Hội học đặt cơ sở trên linh đạo hiệp thông, tham dự và chia sẻ ơn phúc (xem Giáo Hội Tại Á Châu, số 45).

“Một lần nữa, cha tỏ lòng biết ơn đối với mọi điều chúng con đang làm để xây dựng Giáo Hội Đại Hàn trong thánh thiện và nhiệt thành. Ước mong anh chị em không ngừng rút tỉa được từ lễ hy sinh Thánh Thể sự linh hứng và sức mạnh cho công việc tông đồ của anh chị em, nhờ thế “tình yêu Thiên Chúa và tình yêu nhân loại, vốn là linh hồn của việc tông đồ, được thông truyền và nuôi dưỡng” (Lumen Gentium, số 33).

Cha khẩn cầu để anh chị em và gia đình anh chị em và tất cả mọi người tham dự vào các công việc thể xác và tinh thần của giáo xứ, hiệp hôi và phong trào của anh chị em được hưởng hân hoan và bình an của Chúa Giêsu Kitô và sự che chở đầy yêu thương của Đức Maria, Mẹ chúng ta. Một lần nữa, cha xin anh chị em cầu nguyện cho cha…”

PopeFrancis-7.jpg

Đời thánh hiến là hồng ơn qúy giá cho Giáo Hội và thế giới

Trước đó, vào hồi 5 giờ 30 chiều, tại Hội Trường của Cộng Đồng Kkottognae, Đức Phanxicô đã nói chuyện với khoảng 5,000 nam nữ tu sĩ, đại diện các hội dòng Công Giáo tại Đại Hàn. Trong buổi gặp gỡ này, ngài đã đọc bài diễn văn sau đây:

“Anh chị em thân mến trong Chúa Kitô,

“Cha xin chào hỏi anh chị em tất cả với tâm tình âu yếm trong Chúa. Quả là điều tốt đẹp được hiện diện với anh chị em hôm nay và được chia sẻ các giờ phút hiệp thông này. Tính đa dạng lớn lao trong các đặc sủng và việc tông đồ, mà anh chị em đại diện, đang làm đời sống của Giáo Hội tại Đại Hàn và nhiều nơi khác phong phú một cách kỳ diệu… Cha cám ơn anh chị em và tất cả các anh chị em của anh chị em, về các cố gắng xây dựng Nước Thiên Chúa tại xứ sở thân yêu này…

“Lời Thánh Vịnh: ‘Dẫu cho hồn xác suy tàn, thì nơi ẩn náu, kỷ phần lòng con, muôn đời là Chúa cao tôn’ (Tv 73:26)

mời gọi chúng ta suy nghĩ về chính cuộc sống của mình. Thánh vịnh gia tiết ra một niềm tin tưởng hân hoan vào Thiên Chúa. Tất cả chúng ta đều biết rằng dù niềm vui không được phát biểu cùng một cách ở mọi lúc trong đời, nhất là lúc gặp khó khăn lớn lao, nhưng “nó vẫn luôn tồn tại, dù chỉ lấp loé, phát sinh từ niềm chắc chắn bản thân của ta rằng, xét cho cùng, ta được Thiên Chúa yêu thương vô hạn” (Evangelii Gaudium, 6).

Niềm xác tín được Thiên Chúa yêu thương nằm ở ngay tâm điểm ơn gọi của anh chị em: trở thành cho người khác dấu chỉ hữu hình sự hiện diện của Nước Thiên Chúa, một sự nếm trước các niềm vui thiên đàng vĩnh cửu.

Chỉ khi nào chứng tá của ta vui tươi, ta mới lôi cuốn được những con người nam nữ cho Chúa Kitô. Và niềm vui này là một hồng phúc cần nuôi dưỡng bằng đời sống cầu nguyện, suy niệm lời Thiên Chúa, cử hành các bí tích và cuộc sống cộng đoàn. Điều này rất quan trọng. Thiếu những điều này, các yếu đuối và khó khăn sẽ diễn ra làm tan biến niềm vui mà chúng ta đã biết ở lúc bắt đầu cuộc hành trình.

“Đối với anh chị em, những người nam nữ tận hiến cho Thiên Chúa, niềm vui này bắt rễ trong mầu nhiệm thương xót của Chúa Cha đã được mạc khải trong lễ hy sinh của Chúa Kitô trên Thánh Giá.

Bất kể các đặc sủng của anh chị em hướng anh chị em vào chiêm niệm nhiều hơn hay vào đời hoạt động nhiều hơn, anh chị em vẫn bị thách thức trở thành “các chuyên viên” về lòng Chúa Thương Xót qua cuộc sống của anh chị em trong cộng đoàn.

Do kinh nghiệm, cha biết rằng cuộc sống cộng đoàn không luôn dễ dàng, nhưng nó là cơ sở huấn luyện mà Chúa quan phòng đã dành cho trái tim chúng ta. Không chờ đợi tranh chấp là điều không thực tiễn chút nào; các hiểu lẩm sẽ xẩy ra và cần được đối phó. Bất chấp các khó khăn này, chính trong cuộc sống cộng đoàn, chúng ta được mời gọi lớn lên trong từ bi, nhẫn nhịn và bác ái hoàn toàn.

“Cảm nghiệm lòng Chúa thương xót, được nuôi dưỡng bằng cầu nguyện và cộng đoàn, phải lên khuôn tất cả những gì anh chị em là và anh chị em làm. Đức khiết tịnh, nghèo khó và vâng lời của anh chị em sẽ là chứng tá hân hoan cho tình yêu Thiên Chúa bao lâu anh chị em đứng vững trên tảng đá lòng Người thương xót. Nó là tảng đá. Nhất định đúng như thế với đức vâng lời. Việc vâng lời trưởng thành và đại lượng đòi anh chị em phải bám vào việc cầu nguyện với Chúa Kitô, Đấng, khi mặc lấy thân phận tôi trung, đã học vâng lời nhờ những gì Người chịu đau khổ (xem Perfectae Caritatis, số 14). Không có đường tắt: Thiên Chúa muốn trái tim ta cách trọn vẹn và điều này có nghĩa ta phải “để ta đi” and “đi ra ngoài” chính ta mỗi ngày mỗi hơn.

“Một cảm nghiệm sống động về lòng thương xót vững bền của Chúa cũng nâng đỡ uớc mong đạt được sự hoàn hảo về đức ái vốn phát sinh từ một tâm hồn trong sạch. Sự trong sạch nói lên sự toàn tâm toàn trí tận hiến cho tình yêu của Thiên Chúa, Đấng vốn là “sức mạnh của trái tim ta”. Tất cả chúng ta đều hiểu việc này hàm ẩn một dấn thân có tính bản thân và đòi hỏi đến chừng nào. Các cám dỗ trong lãnh vực này đòi ta phải khiêm nhường tin tưởng vào Thiên Chúa, phải tỉnh táo và kiên tâm. […]

“Nhờ lời khuyên tin mừng về nghèo khó, anh chị em có khả năng nhận ra lòng thương xót của Chúa không những như nguồn sức mạnh mà còn như một kho tàng. Xem ra như mâu thuẫn nhưng sống nghèo khó quả có nghĩa đã tìm ra một kho tàng. Ngay khi ta mệt mỏi, ta vẫn có thể dâng lên Người trái tim nặng chĩu tội lệ và yếu đuối của ta; vào những lúc ta cảm thấy bất lực nhất, ta vẫn có thể vươn tới Chúa Kitô, “Đấng đã tự làm ra nghèo để ta được nên giầu” (xem 2Cor 8:9).

Nhu cầu căn bản này của ta muốn được tha thứ và chữa lành tự nó đã là một hình thức nghèo khó mà ta không bao giờ nên quên, bất kể ta đã tiến bộ bao xa về nhân đức. Cũng nên tìm ra cách phát biểu cụ thể lối sống của anh chị em, cả như các cá nhân lẫn như các cộng đoàn. Cha nghĩ cách riêng tới nhu cầu phải tránh né tất cả những gì làm phân tâm anh chị em và tạo nơi người khác sự ngỡ ngàng và tai tiếng.

Trong cuộc sống tận hiến, nghèo khó vừa là “tường” vừa là “mẹ”. Là tường vì nó che chở cuộc sống tận hiến, là mẹ vì nó giúp cuộc sống này lớn lên và hướng dẫn nó tiến thao đường nẻo chính trực.

Sự giả hình của những người tận hiến nam nữ khấn hứa nghèo khó mà lại sống như người giầu sẽ làm linh hồn tín hữu bị thương và gây hại cho Giáo Hội. Anh chị em cũng hãy nghĩ về việc sẽ là một cám dỗ nguy hiểm xiết bao khi chấp nhận một não trạng chỉ hoàn toàn có tính chức năng, theo trần đời dẫn ta tới chỗ đặt hy vọng vào các phương thế nhân bản mà thôi và tiêu diệt mất chứng tá nghèo khó mà Chúa Giêu Kitô của chúng ta đã sống vã đã dạy dỗ ta […]

“Anh chị em thân mến, với lòng khiêm nhường lớn lao, anh chị em hãy làm tất cả những gì có thể làm được để chứng minh rằng đời sống tận hiến là hồng ơn qúy gía đối với Giáo Hội và đối với thế giới. Đừng giữ nó cho anh chị em; hãy chia sẻ nó, bằng cách đem Chúa Kitô tới mọi ngõ ngách của xứ sở thân yêu này.

Hãy để niềm vui của anh chị em tiếp tục tìm được biểu thức trong các cố gắng của anh chị em nhằm lôi cuốn và nuôi dưỡng các ơn gọi, và thừa nhận rằng mọi người anh chị em đều có phần trong việc đào tạo các người nam nữ tận hiến của ngày mai […]

Bất kể anh chị em hiến thân cho chiêm niệm nhiều hơn hay cho đời sống tông đồ nhiều hơn, anh chị em hãy nhiệt thành trong tình yêu đối với Giáo Hội tại Đại Hàn và ước nguyện được đem các đặc sủng riêng của anh chị em đóng góp vào sứ mệnh công bố Tin Mừng và xây dựng dân Chúa của Giáo Hội này trong hợp nhất, thánh thiện và yêu thương.

“Phó thác tất cả anh chị em, và cách riêng, các thành viên già nua và bệnh hoạn trong các cộng đoàn của anh chị em cho sự chăm sóc yêu thương của Đức Maria, Mẹ Giáo Hội, cha thân ái ban phép lành của cha làm bảo chứng ơn thánh và bình an bền vững trong Chúa Giêsu, Con trai ngài”.

PopeFrancis-1.jpgPopeFrancis-3.jpgPopeFrancis-4.jpgPopeFrancis-5.jpgPopeFrancis-6.jpgPopeFrancis-9.jpg

Vũ Văn An

Sài Gòn qua bao mùa nhạt phai

Sài Gòn qua bao mùa nhạt phai

Song Chi.

RFA

Từ tháng 3.1975 đến khi rời VN vào cuối tháng 4.2009, tôi sống ở Sài Gòn. 34 năm. Chưa kể những khoảng thời gian đứt quãng trước 30.4.1975. Vì vậy, dù gốc Huế, không có gì lạ khi tôi gắn bó với Sài Gòn.

Từ khi xa Sài Gòn, tôi đã có dịp lang thang qua nhiều thành phố của nhiều quốc gia. Và cứ mỗi lần ngắm nhìn những thành phố xinh đẹp, hài hòa từ quy hoạch tổng thể cho tới từng chi tiết, những thành phố có đời sống tinh thần phong phú, thú vị nhưng rất đỗi bình yên…tôi lại chạnh nhớ về Sài Gòn.

Bâng khuâng. Ngậm ngùi. Vì “Hòn ngọc Viễn Đông” một thời đã “ngọc nát, vàng phai” rất nhiều sau gần 40 năm đất nước thống nhất, do những cái đầu, tư duy lãnh đạo, quản lý thiển cận, và cũng có thể, do họ thiếu vắng một tình yêu sâu sắc đối với Sài Gòn. Đó là chưa kể một thiểu số dân chúng cũng chưa thật sự ý thức giữ gìn cái đẹp, cái hồn của thành phố.

Sài Gòn thừa và thiếu

Sài Gòn bây giờ, dù vẫn là thành phố ăn nên làm ra nhất nước, dù vẫn thu hút dân nhập cư từ khắp vùng miền nhất vì có nhiều cơ hội học hành, làm ăn, sinh sống, cũng như sự cởi mở, phóng khoáng trong tính cách của người Sài Gòn khiến dân nhập cư ai cũng có thể trụ lại, hội nhập và thành công nếu chịu khó…Nhưng mặt khác, Sài Gòn cũng bị tàn phá bởi những căn bệnh chung của các thành phố lớn, nhỏ ở VN. Đó là từ quy hoạch tổng thể cho đến kiến trúc, cảnh quan hết sức lộn xộn chắp vá.

So với hồi trước 30 tháng Tư năm 1975, số lượng dân cư Sài Gòn hiện nay đã tăng gấp 3 lần (khoảng hơn 3 triệu so với 9-10 triệu) nhưng cơ sở hạ tầng, đường xá, giao thông công cộng…đều chưa theo kịp với đà tăng dân số.

Môi trường sống bị ô nhiễm khá nặng, mức độ bụi bặm lẫn tiếng ổn trên đường phố đều cao vượt mức cho phép. Tỷ lệ cây xanh, tỷ lệ công viên quá thấp. Đường xá thì quanh năm cứ hết đào lên lại lấp xuống, vá chỗ này vá chỗ kia, tạo ra những ổ gà, hố tử thần… gây tai nạn. Còn khi trời mưa lớn thì rất nhiều khu vực trong thành phố biến thành… sông, khiến người dân đi lại rất vất vả.

Là thành phố lớn thứ nhì VN sau khi Hà Nội được mở rộng, nhưng đông dân nhất và về một số khía cạnh nào đó, ví dụ như nếp sống đô thị của người dân, văn hóa mua bán, phục vụ khách hàng… Sài Gòn còn được đánh giá là văn minh hơn thủ đô Hà Nội. Mặc dù vậy, Sài Gòn vẫn chưa đủ tiêu chuẩn để gọi là một đô thị đúng nghĩa.

Một đô thị đúng nghĩa khi được quy hoạch một cách khoa học, thành từng khu vực riêng biệt: khu hành chính, thương mại, công nghiệp, giải trí, dân cư…Chứ không thể từ quận trung tâm đến những quận ở xa, từ đường lớn, đường nhỏ cho đến từng con hẻm, ngõ cụt, nhà nào cũng mở cửa làm ăn, buôn bán; khu dân cư ở lẫn với khu văn phòng, trường học, nhà máy, quán nhậu…một cách lộn xộn bát nháo.

Một đô thị đúng nghĩa phải có các phương tiện giao thông công cộng hiện đại: xe bus, xe điện, xe điện ngầm, xe lửa…, những làn đường trên cao dưới thấp dành cho các loại xe khác nhau. Và khi các phương tiện giao thông công cộng chưa có hoặc chưa phát triển, thì đừng mơ đến chuyện giảm được nạn kẹt xe và tỷ lệ tai nạn giao thông quá cao như ở VN lâu nay. Đó là chưa nói đến số lượng xăng tiêu thụ cho hàng triệu xe gắn máy mỗi ngày tính ra là bao nhiêu tiền, lượng khí thải từ xăng xe mỗi ngày mà người dân thành phố phải hít vào khi đi ngoài đường.

Nếu kể ra cho hết những cái hạn chế của các thành phố lớn ở VN nói chung và Sài Gòn nói riêng thì rất nhiều. Nếu nói về việc Sài Gòn bị xấu đi, cái hồn của thành phố bị nhạt phai, thì cũng đã nhiều người phân tích. Điều quan trọng hơn, những cá nhân, cơ quan lãnh đạo Sài Gòn bao nhiêu năm qua đã không thực sự quyết tâm làm cho cái thành phố này trở nên đẹp hơn, văn minh hơn và đáng sống hơn.

Với người dân tại chỗ, một thành phố đáng sống không chỉ vì có nhiều cơ hội học hành, làm ăn, mưu sinh, mà bên cạnh đó, phải có một môi trường sống tốt-ít ô nhiễm, phương tiện đi lại tiện lợi, an toàn, nhiều cây xanh, nhiều công viên…

Công viên và các quảng trường là những không gian công cộng nơi người ta có thể ngồi nghỉ, thư giãn, là những khoảng thở cho con người bớt ngộp bởi sự đông đúc chật chội luôn hạn chế tầm nhìn, vây hãm đầu óc, không cho tâm trí được nghỉ ngơi. Quảng trường còn là nơi có những sinh hoạt cộng đồng, biểu diễn văn nghệ đường phố…và du khách khi viếng thăm một thành phố nào đó thường rất thích ghé qua các quảng trường vì bị lôi cuốn bởi những sinh hoạt này.

Còn ở Sài Gòn, đã gần 40 năm sau ngày đất nước thống nhất nhưng một quảng trường rộng, đẹp vẫn chưa có, công viên đã ít mà còn mọc lên đủ thứ hàng quán, chỗ gửi xe, hoặc vào chiều tối, ban đêm, là nơi “chiếm đóng” của những người lang thang, nghiện ma túy, gái bán hoa…khiến người dân ngần ngại ghé qua.

Sống trong một môi trường lúc nào cũng đông đặc người và xe cộ, lúc nào cũng bị vây bủa bởi bụi bặm, khói xăng, ô nhiễm, kẹt xe, tiếng ồn từ sáng đến tối, cộng thêm cái nóng hầm hập của xứ nhiệt đới…rõ ràng không chỉ gây tác hại cho con người về sức khỏe mà cả tinh thần. Không có gì lạ khi con người hay bực bội, và dễ dàng trút nỗi cáu bực đó vào người khác, thậm chí lao vào đánh giết nhau chỉ vì một sự va chạm hay hiềm khích vụn vặt…

Với du khách nước ngoài, phải nói rằng từ ngành du lịch cho tới dịch vụ các loại, người Việt thường chỉ tính chuyện móc túi ngay trước mắt mà không nghĩ đến chuyện giữ khách lâu dài, khiến tỷ lệ du khách quay lại VN lần thứ hai, thứ ba…là rất ít. Mà ngay cả nghệ thuật moi tiền khách, chúng ta cũng kém.

Ví dụ như khách đến Sài Gòn. Ngoài việc đi ăn, uống cafe, vào quán bar hay đi mua sắm hàng giá rẻ, quà lưu niệm, họ biết đi đâu, xem gì ở Sài Gòn?

Nếu là các tour du lịch do các công ty nhà nước hoặc tư nhân tổ chức, thể nào cũng có những địa điểm “có tính chất tuyên truyền chính trị” như đi xem Bảo tàng tội ác chiến tranh VN (trước kia còn gọi là Bảo tàng tội ác Mỹ-ngụy nữa kia), Bảo tàng Hồ Chí Minh và bến Nhà Rồng nơi bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước (!), xa hơn nữa thì đi xem địa đạo Củ Chi thời…chống Mỹ!

Khi còn ở Sài Gòn, thỉnh thoảng tôi lại rơi vào thế khó này khi một người bạn, người quen ở nước ngoài đến Sài Gòn lần đầu tiên và muốn nhờ tôi dẫn đi xem “những cái gì chỉ có ở Sài Gòn”. Biết dẫn họ đi đâu đây?

Về mặt này thì Hà Nội, Huế hay Hội An còn có những nét riêng để du khách khám phá.

Quán café, nhà hàng đẹp ở Sài Gòn rất nhiều, nhưng ở thành phố nào mà chả có quán café, quán bar, nhà hàng… Còn các địa điểm văn hóa như bảo tàng, gallery, nhà hát vốn là thế mạnh, là niềm tự hào của một thành phố thì lại thiếu và toàn là những bảo tàng cách mạng!

Rất cần thêm những bảo tàng thú vị, hấp dẫn, ví dụ bảo tàng về các dân tộc thiểu số ở VN, thêm bảo tàng về văn hóa nghệ thuật, sân khấu, điện ảnh VN…để giới thiệu với du khách đã đành, mà đối với người dân, nhất là học sinh, sinh viên, có thể học được rất nhiều từ những bảo tàng bổ ích, có giá trị. Nếu nhà nước không làm nổi thì để tư nhân góp sức làm.

Một trong những địa chỉ văn hóa tư nhân mà tôi còn nhớ, khá thú vị, là “Điểm của một thời” nằm trên đường Lê Thánh Tôn của nhà thiết kế áo dài Sĩ Hoàng, thường tổ chức các chương trình âm nhạc dân tộc Việt Nam kết hợp với trình diễn áo dài từ xưa đến nay, ngoài ra khách còn được thưởng thức trà, chè, bánh mứt VN…Khách nước ngoài rất thích, không biết bây giờ còn không.

Khi du lịch đến các thành phố khác nhau của các nước, một ý thích của tôi là tìm đến những ngôi nhà, những quán café, địa điểm thường lui tới của các văn nghệ sĩ hay chính khách, triết gia…nổi tiếng trong lịch sử. Nhưng ở Sài Gòn thì điều này lại chưa có được.

Còn nhớ khi học giả, nhà sưu tập đồ cổ Vương Hồng Sển mất, ông đã hiến tặng cho nhà nước ngôi nhà cổ (Vân đường phủ) và toàn bộ sưu tập đồ cổ giá trị của mình với hy vọng thành lập một bảo tàng mang tên ông. Thế nhưng, vì những lý do nào đó, có thể vì sự hẹp hòi, thiển cận, không muốn có những bảo tàng mang tên cá nhân nào ngoại trừ bảo tàng Hồ Chí Minh (!), những người lãnh đạo trung ương và thành phố đã không chấp nhận. Những cổ vật sau đó được đưa về Bảo tàng Lịch sử Thành phố, còn ngôi nhà xưa rất đẹp thì không được chăm sóc, bị xuống cấp, hư hỏng nặng theo thời gian.

Rồi còn bao nhiêu nhân vật khác từng sinh sống, thành danh ở thành phố này, gia đình, người thân sẵn sàng biến những ngôi nhà khi họ còn sống thành địa điểm tham quan cho du khách và người dân nếu nhà nước cho phép, nhưng riêng với VN thì lại còn vướng mắc bởi bao vấn đề “tế nhị” khác, mà tất cả là do sự hẹp hòi mà thôi. Ví dụ như ngôi nhà của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, nhạc sĩ Phạm Duy…có thể sẽ có nhiều người trong và ngoài nước muốn ghé nhưng đã chắc gì những nhạc sĩ cách mạng khác lại thu hút người đến khi mà nhạc của họ bây giờ còn chẳng mấy ai nghe?

Với du khách là thế, còn với người dân, Sài Gòn cũng như tất cả những thành phố lớn, nhỏ khác ở VN thường rất thừa thãi quán café, quán nhậu, nhà hàng…(chả trách dù nghèo nhưng tỷ lệ tiêu thụ bia, thuốc lá ở nước ta rất cao), song lại thiếu những công trình văn hóa công cộng để nâng cao dân trí, ví dụ thiếu thư viện tốt. Ở Sài Gòn, từ phường, quận cho tới cấp thành phố đều có thư viện, nhưng các thư viện phường, quận thường quá chán, sách đã ít, sách hay lại càng ít.

Tại các thư viện không cho mượn băng đĩa nhạc, phim…miễn phí, càng không thể tìm thấy những băng đĩa nhạc giao hưởng, ca kịch opera, múa ballet hay nhạc quốc tế đủ các thể loại từ các quốc gia khác nhau…để người dân, nhất là giới trẻ có thể mượn về xem và “chống dốt”. Cái gì cũng phải đi mua tiền đâu mà mua, hỏi sao giới trẻ thường rất thiếu hụt kiến thức về opera, ballet, nhạc cổ điển, phim cổ điển…

Sài Gòn hồn xưa phai nhạt

Là một thành phố trẻ chỉ mới hơn 300 năm tuổi, Sài Gòn không có nhiều di tích, di sản văn hóa, ngay cả so với Hà Nội hay Huế. Nhưng điều đáng tiếc là đã ít mà lại không được giữ gìn, mà còn bị phá bỏ.

Theo thởi gian những vết tích của Sài Gòn xưa cứ mai một dần hoặc hoàn toàn biến mất. Đôi khi, người ta cứ nghĩ là chuyện nhỏ.

Từ những viên gạch cũ mộc mạc lát xung quanh Nhà thờ Đức Bà cũng bị đào lên thay bằng loại gạch mới bóng loáng. Một quán café Givral, nơi từng là địa điểm của bao ký giả trong và ngoài nước thời chiến tranh VN đến thu thập thông tin, ngồi viết bài, trong đó có nhân vật tình báo Phạm Xuân Ẩn; nơi từng được nhắc đến trong cuốn sách và bộ phim “Người Mỹ trầm lặng”…Lẽ ra thay vì xây mới, cùng với việc phá bỏ toàn bộ hành lang Eden cũ, nên giữ lại, biến thành một địa chỉ văn hóa du lịch khi treo thêm những bức ảnh của bộ phim này, của Sài Gòn xưa, chẳng hạn.

Một ví dụ nhỏ, như ở ở Paris, quán Café des 2 Moulins sau khi được quay trong bộ phim tình cảm Amélie, 2001 càng trở nên nổi tiếng hơn, du khách ghé đến là thấy ngay hàng loạt hình ảnh của bộ phim treo trong quán.

Mới đây, nhiều người dân Sài Gòn cảm thấy tiếc nuối khi toàn bộ hàng cây cổ thụ ở công viên Lam Sơn phía trước Nhà hát thành phố, có tuổi đời hàng chục năm, đã bị đốn hạ để xây nhà ga ngầm đầu tiên của tuyến metro số 1 (Bến Thành-Suối Tiên). Vòng xoay cây liễu cùng đài phun nước ở giao lộ Nguyễn Huệ với Lê Lợi cũng bị di dời. Rồi cụm tượng đài ở vòng xoay Quách Thị Trang trước chợ Bến Thành.

Và cả thương xá Tax. Theo báo chí, trung tâm thương mại lâu đời nhất tại VN, hơn 130 năm tuổi này, sẽ được phá đi, xây dựng thành cao ốc 40 tầng.

Cùng với chợ Bến Thành, Nhà thờ Đức Bà, Bưu điện thành phố…, những cái tên như Eden, thương xá Tax, quán café Givral, La Pagode, Brodard, những hình ảnh như đài phun nước ở giao lộ Nguyễn Huệ-Lê Lợi…đã trở thành quen thuộc, gắn liền trong ký ức của người dân Sài Gòn bao nhiêu năm…nay đã biến mất.

Nhà thờ Đức Bà, Nhà hát thành phố (trước đây là Hạ Nghị Viện của chính quyền VNCH), và sắp tới sẽ là chợ Bến Thành, thì đều đang và sẽ bị đè bẹp xuống, trở nên bé nhỏ thảm thương vì những công trình mới xây cao hơn nhiều lần.

Tất cả đều được lấy lý do vì nhu cầu phát triển, thành phố cần phải hiện đại hóa, người dân cần phải hy sinh! Biết là thế, nhưng thật ra, đập bỏ luôn là phương án nhanh nhất, dễ nhất!

Giá trị của một thành phố không chỉ ở những công trình kiến trúc mới. Linh hồn của một thành phố nhiều khi nằm trong từng viên gạch cũ, từng hàng cây cổ thụ, một quán café xưa…Ở đó những dấu ấn lịch sử, những dấu vết thời gian đi qua còn in lại. Và người ta gắn bó với một thành phố lắm khi chỉ từ những thứ nhỏ nhặt như thế.

Sài Gòn ơi hồn ở đâu bây giờ?

Phê phán chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam hiện nay

Phê phán chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam hiện nay

Kính Hòa, phóng viên RFA
2014-08-18

081892014-dcs-kh.mp3

000_Hkg2678165.jpg

Công nhân đô thị chăm sóc công viên Lê Nin ở Hà Nội.

AFP photo

Một trong những khía cạnh mà những người tham dự hội thảo nhan đề “Thoát Trung” ở Hà Nội vừa qua đề cập tới là chủ nghĩa cộng sản, cũng như những biến thái của nó là chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa Mao. Mặc dù trong hội thảo này, tranh luận về văn hóa được đưa lên hàng đầu nhưng không tránh khỏi những bàn luận về chính trị xoay quanh ba thứ chủ nghĩa vừa nêu.

Điều trớ trêu là ngay giữa lòng Hà Nội, dưới câu khẩu hiểu ca tụng chủ nghĩa cộng sản và các nhà lý luận của nó như Marx, Engels, Lenin, người ta công khai thách thức tính đúng đắn của chủ nghĩa cộng sản.

Sự thách thức chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam có lịch sử dài lâu chứ không phải mới đây, từ những ngày đầu tiên chủ nghĩa này bám rễ vào Việt Nam. Sự thách thức đó vẫn tồn tại trong lúc chủ nghĩa này lên đến đỉnh điểm hùng mạnh nhất. Và khi hệ thống cộng sản đổ vỡ khắp nơi, cộng với bùng nổ của công nghệ thông tin thì sự thách thức đó ngày càng lớn.

Một trong những người thách thức chủ nghĩa cộng sản ngay trước khi đảng cộng sản chấp nhận nền kinh tế thị trường là tiến sĩ Hà Sĩ Phu, người học hành và lớn lên trong lòng chế độ cộng sản. Trước cuộc hội thảo ở Hà Nội trong tháng tám này, cũng có một cuộc hội thảo khác tương tự, ông Hà Sĩ Phu nói với chúng tôi sau cuộc hội thảo ấy rằng vấn đề chung của cả hai dân tộc Việt và Hoa là chủ nghĩa cộng sản.

Năm 2013 chủ nghĩa cộng sản chứng kiến một thách thức lớn là 72 nhân sĩ trí thức gửi kiến nghị đòi bỏ điều bốn trong Hiến pháp quốc gia về sự độc tôn của chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam.

Tháng bảy 2014 đến lượt 61 đảng viên hiện vẫn còn sinh hoạt đảng kiến nghị kêu gọi từ bỏ chế độ toàn trị.

Cũng trong tháng bảy 2014, luật sư Nguyễn Đăng Trừng tại Sài Gòn bị khai trừ ra khỏi đảng. Lý do được nhiều người nói đến chính là việc luật sư Trừng không đồng ý sự can thiệp quá nhiều của đảng bộ TP HCM vào công việc của đòan luật sư Thành phố HCM.

Con đường đến Việt Nam của CNCS

Chủ nghĩa cộng sản đến Việt Nam với lý do làm phương tiện cho việc đòi độc lập. Lý do lớn này làm cho ngay chính những đảng viên cộng sản không coi trọng phương diện ý thức hệ của nó bằng những vấn đề thực tế. Ông Trần Đức Nguyên, từng là thư ký của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt nới với chúng tôi sau khi ký tên vào bản kiến nghị 61:

Cái việc mà đưa ra yêu cầu sửa đổi chế độ toàn trị thì đã nói từ thời kiến nghị 72 rồi. Sau đó có những ý kiến đã nói rõ là đất nước phải chuyển từ chế độ toàn trị sang dân chủ một cách ôn hòa. Và như thế là không đụng đến những vấn đề về chữ nghĩa. Cái đó là cái thực trạng thì cần phải thay đổi.

Mới đầu thì họ chống ở một chừng mực nào đó nhưng thật ra họ bị ảnh hưởng của Khổng giáo mà chính họ không biết bởi vì nó ăn vào trong máu, và điều đó làm cho chính quyền hiện nay hưởng lợi.
– Nhà văn Thùy Linh

Trên con đường đến Việt Nam nói riêng và đến châu Á nói chung chủ nghĩa cộng sản đã gặp phải một thực trạng mà nhiều người cho là thuận lợi để phát triển, đó chính là khía cạnh chuyên chế của ý tưởng xã hội Khổng Giáo.  Nhà văn Thùy Linh, từ Hà Nội nói với Mặc Lâm của đài RFA, sau hội thảo “Thoát Trung” trong tháng tám:

Sau khi chủ nghĩa cộng sản nắm quyền thì đạo Khổng rất có lợi cho sự tồn tại của họ. Mới đầu thì họ chống ở một chừng mực nào đó nhưng thật ra họ bị ảnh hưởng của Khổng giáo mà chính họ không biết bởi vì nó ăn vào trong máu, và điều đó làm cho chính quyền hiện nay hưởng lợi.”

Phản hồi của ĐCS và ảnh hưởng của sự thách thức

Sau khi kiến nghị 72 ra đời hồi năm 2013, đảng cộng sản im lặng một thời gian rồi lên tiếng chỉ trích những người đưa kiến nghị 72 là chống lại sự cai trị của đảng. Hiến pháp Việt nam sửa đổi 2013 vẫn duy trì đảng cộng sản và ý thức hệ của nó ở vị trí độc tôn.

Sau khi ký kiến nghị 61, Giáo sư Tương lai nói rằng ông chờ đợi sự phản hồi của đảng. Từ đó đến thời điểm chúng tôi hoàn thành bài viết này thời gian đã hơn một tháng, người ta chưa thấy truyền thông của đảng cộng sản lên tiếng. Còn ông Hà Sĩ Phu thì nói rằng đảng cộng sản cũng sẽ bỏ ngoài tai kiến nghị 61:

Có thể nói chắc chắn rằng họ không nghe gì cả. Điều đó là đương nhiên, họ không nghe một tí gì, không nghe một phần trăm nào. Bởi vì cái lập trường của đảng thì quá rõ rồi, vì đối với đảng cộng sản chân lý là vô nghĩa, lòng tốt là vô nghĩa, đặt trên bàn của họ chỉ là lợi ích.”

Tuy nhiên cũng có người, như Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng người theo dõi sát chính trị Việt nam cho rằng mặc dù có thể không được lắng nghe, nhưng những kiến nghị như thế là rất tốt. Nhà văn Phạm Đình Trọng thì hy vọng tác động của kiến nghị 61 đến các đảng viên của chính đảng cộng sản:

Có thể nói chắc chắn rằng họ không nghe gì cả. Điều đó là đương nhiên, họ không nghe một tí gì, không nghe một phần trăm nào.
– TS. Hà Sĩ Phu

Cái kiến nghị này là văn bản chính thức của một số đảng viên, họ đã dứt khoát lên tiếng đoạn tuyệt với chủ nghĩa Marx, chủ nghĩa cộng sản. Đoạn tuyệt với chủ nghĩa Marx tức là cái lõi lý luận của chủ nghĩa cộng sản. Đây là một tiếng nói rất rõ ràng. Còn lại là những người kiếm lợi từ chủ nghĩa cộng sản, những người bất tài, kém cỏi, và nhờ có chủ nghĩa cộng sản họ mới có vị trí như thế, thì họ sẽ cố duy trì, nhưng đây là một đợt tấn công mạnh mẽ vào cái thành trì bảo thủ ấy.”

Những lời phát biểu này thể hiện rằng sự thách thức chủ nghĩa cộng sản tại Việt nam theo năm tháng đã chuyển từ sự thách thức trên phương diện ý thức hệ sang sự thách thức về quyền lực và quyền lợi không còn mang màu ý thức hệ nữa. Chỉ trích ý thức hệ vẫn có thể diễn ra một cách công khai khi mà nó chưa xuống đường để đụng chạm tới quyền lợi của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Điều này được thấy rõ trong một tương quan so sánh sau đây: chỉ sau hội thảo “Thoát Trung” vài ngày, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong buổi nói chuyện với lực lượng công an đã nhắc đến thế lực thù địch và sự chuyển hóa chính trị nguy hiểm cho chế độ. Tuy nhiên trước đó, trong hội trường diễn ra hội thảo “Thoát Trung” nhiều người nêu lên sự không đúng đắn của chủ nghĩa Marx ngay dưới chân dung ông.

Của Thiên Trả Địa – Easy Come, Easy Go

Của Thiên Trả Địa  –   Easy Come, Easy Go

Trong khi nhiều người dân nước Mỹ “thèm thuồng” nhìn một công dân ở bang Florida (Mỹ) hồi tháng 5 vừa qua ẵm giải độc đắc Powerball trị giá hơn 590 triệu USD, mức trúng thưởng cao nhất từ trước đến nay, trang tin Business Insider  (Mỹ) đã điểm lại danh sách 10 người từng trở nên siêu giàu nhờ trúng số triệu đô nhưng sau đó lại nhanh chóng lâm vào cảnh túng bấn hoặc tự kết liễu cuộc đời mình.

Trúng số chưa hẳn là may?

1. Gia đình Griffith (Anh)
Giải độc đắc: 2,76 triệu USD
Thời gian từ lúc trúng số đến lúc khánh kiệt: 6 năm

Trước khi trúng giải độc đắc trị giá 2,76 triệu USD hồi năm 2006, hai vợ chồng Lara và Robert Griffith hiếm khi gây gổ.  Họ đã mua một căn nhà trị giá một triệu USD và một chiếc xe Porsche sang trọng sau khi lãnh giải.

Tuy nhiên, vào năm 2012, Robert lái chiếc Porsche bỏ đi sau khi Lara chất vấn chồng về những email cho thấy anh này đang có tình cảm với một người phụ nữ khác.

Thế là cuộc hôn nhân kéo dài 14 năm của họ tan vỡ, rồi một trận hỏa hoạn lớn đã thiêu hủy toàn bộ căn nhà. Giờ thì Lara chẳng còn lại một xu nào từ khoản tiền trúng số đó nữa.

2. Sharon Tirabassi (Canada)
Giải độc đắc: hơn 10 triệu USD
Thời gian từ lúc trúng số đến lúc khánh kiệt: khoảng 9 năm

Vào năm 2004, Sharon Tirabassi, một bà mẹ độc thân phải sống nhờ trợ cấp xã hội tại Canada, trúng độc đắc hơn 10 triệu USD.

Cô này vung tiền trúng số cho việc mua một căn nhà lớn, những chiếc xe sang, quần áo hiệu, những chuyến du lịch đắt giá, tiệc tùng, tặng người thân, cho bạn bè vay.  Kết quả là chưa đến 10 năm sau, Tirabassi giờ đây phải quay lại kiếm sống bằng nghề lái xe buýt, làm thêm giờ và sống trong một căn hộ cho thuê.

May mắn là cô còn để lại được một số tiền cho sáu đứa con của mình với điều kiện chúng chỉ được phép lấy khi tròn 26 tuổi.

Xếp hàng mua vé số Powerball
– Ảnh: Reuters

3. Suzanne Mullins (Mỹ)
Giải độc đắc: 4,2 triệu USD
Thời gian từ lúc trúng số đến lúc khánh kiệt: 8 năm

Khi trúng thưởng khoản tiền 4,2 triệu USD vào năm 1993 tại bang Virginia (Mỹ), Suzanne Mullins quyết định chọn hình thức nhận tiền trúng thưởng hằng năm, thay vì lãnh trọn một lần.

Bà này ban đầu mượn một số tiền trị giá 200.000 USD và dùng những khoản tiền trúng giải hằng năm để thanh toán.

Sau đó, Mullins đã đổi qua nhận tiền thưởng luôn một lần và ngưng không tiếp tục trả nợ, dẫn đến tình trạng nợ nần ngập đầu do lãi mẹ đẻ lãi con.  Các chủ nợ đã đâm đơn kiện và tòa đã yêu cầu bà này nộp 154 triệu USD. Tuy nhiên, bà đã không còn “một xu dính túi”.

4. Evelyn Adams (Mỹ)
Giải độc đắc: 5,4 triệu USD
Thời gian từ lúc trúng số đến lúc khánh kiệt: 15 năm

Evelyn Adams, ngụ tại bang New Jersey (Mỹ), trúng độc đắc đến hai lần, một lần vào năm 1985 và lần thứ hai một năm sau đó, với tổng số tiền là 5,4 triệu USD.

Bà này sau đó đã nướng sạch tiền vào trong các sòng bạc ở thành phố Atlantic. Giờ thì bà đang sống lang thang trong công viên.

5. Jack Whittaker (Mỹ)
Giải độc đắc: 315 triệu USD
Thời gian từ lúc trúng số đến lúc khánh kiệt: 4 năm

Trước khi trúng giải độc đắc trị giá 315 triệu USD của vé số Powerball vào năm 2002, Jack Whittaker đã có một cuộc sống khá giả tại bang West Virginia, với một công ty dịch vụ trị giá hơn 1 triệu USD.

Ông này sau đó đã trích một phần tiền trúng thưởng để xây nhà thờ, bỏ ra 10% để làm từ thiện và thành lập một quỹ từ thiện của riêng mình.  Whittaker có lẽ sẽ không có tên trong danh sách này nếu như vận rủi liên tục đến với ông.

Ông bị trộm cuỗm mất hơn 500.000 USD khi đậu xe bên ngoài một câu lạc bộ thoát y. Ông trở nên nghiện rượu, ly dị vợ và thường xuyên gây gổ với những người xung quanh.  Chỉ trong vòng 4 năm, toàn bộ tài sản của Whittaker đã tiêu tan và ông này từng tuyên bố rằng lấy làm tiếc phải chi mình xé tờ vé số trúng đi.

6. Janite Lee (Mỹ)
Giải độc đắc: 18 triệu USD
Thời gian từ lúc trúng số đến lúc khánh kiệt: 8 năm

Janite Lee, một người nhập cư gốc Hàn Quốc sống tại Mỹ, có một quyết định lạ lùng khi chọn cách chi 18 triệu USD tiền trúng số cho người khác hơn là cho bản thân.

Sau khi trúng số hồi năm 1993, bà này đã dùng phần lớn tài sản mà mình vừa may mắn có được để tài trợ cho các chương trình của chính phủ và cho các tổ chức chính trị.  Lee từng được ăn tối cùng cựu Tổng thống Bill Clinton nhờ những khoản đóng góp kếch xù của mình.  Lee còn cho Đại học Washington (Mỹ) 1 triệu USD để xây một thư viện. Nhà trường đã lấy tên bà để đặt cho thư viện mới này.

Ngoài ra, bà cũng rất mê cờ bạc. Với thói quen chi 347.000 USD/năm, bà nhanh chóng ngập trong nợ nần và phải tuyên bố phá sản vào năm 2001.

7. Michael Carroll (Anh)
Giải độc đắc: 15,5 triệu USD
Thời gian từ lúc trúng số đến lúc khánh kiệt: 8 năm

Vào năm 2002, Michael Carroll, một thanh niên 19 tuổi làm nghề dọn rác, trúng độc đắc khoảng 15,5 triệu USD.Sau khi trở nên giàu có, Carroll bắt đầu vung tiền vô tội vạ, mua quà cho gia đình và bạn bè, hút ma túy, rượu chè, cờ bạc và thường ngủ với bốn gái mại dâm/ngày.

Tám năm sau, anh này quay lại nghề dọn rác.

Mega Millions grows to $640M

8. Billie Bob Harrell Jr. (Mỹ)
Giải độc đắc: 31 triệu USD
Thời gian từ lúc trúng số đến lúc khánh kiệt: 20 tháng

Billie Bob Harrell Jr. trúng giải thưởng độc đắc 31 triệu USD vào năm 1997 khi đang là một người bán hàng rong.  Ban đầu, ông này mua một trang trại, tậu thêm 6 căn nhà và nhiều xe hơi.

Nhưng cũng giống như những người trúng vé số khác, Harrell không thể từ chối những lời cầu khẩn vay tiền từ bạn bè và người thân, để rồi trở nên khánh kiệt chỉ trong vòng 20 tháng.

Harrell tự sát vào năm 1999.

9. Callie Rogers (Anh)
Giải độc đắc: 3 triệu USD 9.
Thời gian từ lúc trúng số đến lúc khánh kiệt: 6 năm

Khi trúng độc đắc 3 triệu USD vào năm 2003, Callie Rogers chỉ mới 16 tuổi. Cô này tung tiền vào mọi thứ, từ quần áo, các chuyến du lịch, tiệc tùng, phẫu thuật thẩm mỹ để tăng kích cỡ vòng ngực và ma túy.

Sáu năm sau, cô lâm vào cảnh nợ nần và đã hai lần tìm cách tự sát. Cuối cùng, Rogers phải đi làm người ở để có tiền nuôi sống bản thân và hai đứa con.

10. Gerald Muswagon (Canada)
Giải độc đắc: 10 triệu USD
Thời gian từ lúc trúng số đến lúc khánh kiệt: 7 năm

Vào năm 1998, Gerald Muswagon trúng độc đắc 10 triệu USD tại Canada. Tuy nhiên, anh này nướng hết tiền vào rượu và tiệc tùng trong vòng vỏn vẹn có 7 năm.

Đến năm 2005, Muswagon tìm đến cái chết bằng cách tự treo cổ trong nhà xe của cha mẹ.

NIỀM TIN CỦA MỘT “DÂN NGOẠI”

NIỀM TIN CỦA MỘT “DÂN NGOẠI”

Tác giả: JM. Lam Thy ĐVD.

Bài Tin Mừng hôm nay lại một lần nữa biểu lộ lời nói và hành động khó hiểu của Đức Giê-su. Miền Tia và Xi-đon vốn được người Do thái coi là dân ngoại. Người đàn bà từ Ca-na-an ở miền ấy tới gặp Đức Ki-tô, xin Người chữa bệnh cho con mình. Lần thứ nhất bà cầu xin, nhưng Đức Ki-tô không trả lời. Không trả lời thì cũng có nghĩa là không đáp ứng lời cầu xin của bà ta. Nhưng với một niềm tin vững vàng, bà vẫn tiếp tục năn nỉ. Các môn đệ có vẻ không hài lòng về bà và xin Đức Ki-tô đuổi bà ấy đi, thì Người lại nói: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi.” (Mt 15, 24). Câu nói này của Đức Ki-tô trái ngược hẳn với thái độ trước đó của Người, đồng thời còn cho biết bà Ca-na-an là dân ngoại và Người được sai đến với họ.

Sự kiện mâu thuẫn không dừng lại ở đây. Người đàn bà vẫn tiếp tục năn nỉ “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” và Đức Ki-tô đã nặng lời với bà ấy: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (Mt 15, 26). Với câu trả lời này, Đức Ki-tô đã ví việc chữa bệnh như đem bánh cho người ta ăn và bánh đó không được cho “lũ chó con” ăn. Bà bị coi như chó và nếu giả thử gặp cỡ các kinh sư hay Pha-ri-sêu chắc chắn sẽ phản ứng rất mạnh. Nhưng bà này vẫn không buồn rầu bỏ đi, mà nhất định ở lại cầu xin cho bằng được. Lời cầu xin quả thật khiêm tốn và tin tưởng: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống” (Mt 15, 28). Tuyệt vời!

Phải nói rằng bà này là típ người thông mình, rất thông mình. Nếu không, bà sẽ thấy lời của Đức Ki-tô không dính dáng gì tới việc bà cầu xin, và sẽ xảy ra 2 trường hợp: Một là thấy người mình cầu xin không hiểu được ý mình. Đã không hiểu được mình, thì cầu xin cũng vô ích, bỏ đi cho rảnh. Trường hợp thứ hai, sẽ cho là Đức Ki-tô không nghe rõ lời cầu xin nên mới nói về bánh, và nếu còn tin tưởng, bà ta sẽ cứ một mực xin Người chữa bệnh cho con mình. Cả 2 trường hợp đều không đúng với bà, vì bà đã hiểu ngay Lời dạy của Người mà bà tin tưởng. Khẳng khái nhận mình là “lũ chó con” (Người Do-thái vẫn coi những dân ngoại như lũ chó con), không dám xin ăn bánh trực tiếp, mà chỉ khiêm tốn xin được ăn những mảnh vụn rơi vãi.

Thêm một đức tính đặc biệt của bà nổi bật lên: Tuyệt đối khiêm nhường! Dù có bị coi là chó, bà cũng xin vâng (“Thưa Ngài, đúng thế!”), vì bà nghĩ rằng Người mà bà đang cầu xin đích thị là Đấng Quyền Năng, là Thiên Chúa. Là Thiên Chúa mà chấp nhận xuống phàm trần làm một con người bình thường như bao người khác, thì mình có bị coi là chó cũng xứng đáng thôi. Đức tình khiêm tốn tuyệt vời ấy chắc chắn không thể có được nơi những thượng tế, những kinh sư, luật sĩ, những Pha-ri-sêu, những con người vẫn luôn miệng nói “Lạy Chúa! Lạy Chúa!” và tự coi mình mới là “hàng nội” chính tông, là con dòng cháu giống của Thiên Chúa; những con người luôn kiêu ngạo tự cho mình là đệ nhất thông minh và chỉ thích được “ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy” thiên hạ. Vậy đó!

Thông minh nhưng khiêm tốn,  người đàn bà Ca-na-an đã khiến Đức Giê-su Thiên Chúa động lòng trắc ẩn, buột miệng khen ngơi: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật”. Và thế là: “Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Từ giờ đó, con gái bà được khỏi” (Mt 15, 28). Quả thực, bài học rút ra được ở đây là đức tính khiêm nhường, đức tính đứng hàng đầu trong bảy đức tính căn bản của Ki-tô giáo. Phải luôn nghĩ rằng tất cả những gì con người có được nơi trần thế đều là ân sủng của Thiên Chúa ban tặng. Những ân sủng đó Thiên Chúa ban cho mỗi người mỗi khác là vì ich chung (1Cr 12, 4-10). Không tự kiêu, tự mãn khi mình có được sự thông minh hơn người, hoặc có được những đặc ân khác những người xung quanh; nhưng cũng không tự ti mặc cảm khi thấy mình không có được những ân sủng như những người khác Tuy nhiên, bài học lớn nhất, bao trùm lên tất cả là đức tin của người đàn bà ở Ca-na-an.

Bà thực sự tin tưởng Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ và bà vững tin rằng Thiên Chúa không thiên vị một ai, không phân biệt “nội hay ngoại”, nếu chân thành cầu xin với một niềm tin vững vàng, thì dù xin gì, Người cũng sẽ ban cho (“Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho.” – Mt 7, 7-8). Bà không chỉ tin ở trên môi miệng, mà chính là ở chỗ đối diện với thử thách nghiệt ngã (bị dân Do thái coi là dân ngoại và chính Người mà bà tin tưởng mãnh liệt nhất lại coi bà và con gái bà là chó), vậy mà bà vẫn trung kiên với niềm tin của mình.

Với một người chưa được coi là Ki-tô hữu, mà đã có một niềm tin sắt đá như vậy, thiển nghĩ cũng rất đáng xấu hổ cho những người đã được coi là Ki-tô hữu (đã nhận lãnh Phép Rửa) mà chỉ hơi chạm đến tự ái, hoặc chỉ mới phỏng đoán mình sẽ bị “thử lửa”, đã vội vàng chối bay chối biến Chúa của mình một cách ngon lành. Hoá cho nên, chính trong cuộc sống đời thường, trong gian truân thử thách, trong tất cả mọi nghịch cảnh, người Ki-tô hữu vẫn sống đức tin một cách chân thực như bà mẹ người Ca-na-an trong bài Tin Mừng, không màu mè sáo rỗng, ấy mới thực sự xứng đáng với danh hiệu mà Đức Giê-su Ki-tô đã ban tặng: Ki-tô hữu (“Thầy không gọi anh em là tôi tớ, mà gọi anh em là bạn hữu” – Ga 15, 15).

Cho đến hôm nay, phần đông người Công Giáo Việt Nam vẫn giữ được đời sống đức tin rất tốt, được cụ thể hóa qua việc tham dự Thánh Lễ cũng như lãnh nhận các bí tích. Tuy nhiên, đời sống đức tin ấy nhiều khi chỉ là những thói quen do ảnh hưởng của gia đình, xứ đạo hơn là một chọn lựa và dấn thân cá nhân. Một đức tin như thế sẽ khó lòng đứng vững trong khung cảnh đô thị hóa và xã hội hóa đang và sẽ diễn ra mỗi ngày một nhanh hơn. Vì thế, cần xây dựng một đức tin mang tính cá vị, hiểu như một chọn lựa tự do và ý thức trước tiếng gọi của Thiên Chúa (Thư Chung của Hội Đồng Giám Mục VN về Năm Tân Phúc Âm Hóa, số 3). Đức tin là lời đáp trả của con người toàn diện trước tiếng gọi của Thiên Chúa. Con người toàn diện ấy bao gồm cả lý trí, tình cảm, ước muốn và hành động. Vì thế, để sống đức tin, người tín hữu không chỉ ngừng lại ở những hiểu biết thuần lý, nhưng phải bước vào hành động – hành động và liên lỉ cầu nguyện – bởi vì “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2, 17).

Xin đừng bao giờ quên Lời Thầy Chí Thánh: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: “Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc”, nó cũng sẽ vâng lời anh em.” (Lc 17, 6); “Thầy bảo thật anh em, nếu anh em tin và không chút nghi nan, thì chẳng những anh em làm được điều Thầy vừa làm cho cây vả, mà hơn nữa, anh em có bảo núi này: “Dời chỗ đi, nhào xuống biển!”, thì sự việc sẽ xảy ra như thế. Tất cả những gì anh em lấy lòng tin mà xin khi cầu nguyện, thì anh em sẽ được.” (Mt 21,21-22). Vâng, nhờ cầu nguyện, chúng ta gặp gỡ chính Đấng mà chúng ta tin. Và niềm tin đích thực được thể hiện qua đời sống hằng ngày là “Căn cứ vào điều này, chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa, đó là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người” (1Ga. 2, 3). Ước được như vậy. Amen.

JM. Lam Thy ĐVD.

KHI NGHỊCH CẢNH ĐẾN, BẠN CÓ THÁI ĐỘ NÀO?

KHI NGHỊCH CẢNH ĐẾN, BẠN CÓ THÁI ĐỘ NÀO?

Jos. Vinc. Ngọc Biển

Trong cuộc sống, rất nhiều người sợ lâm vào khó khăn, nghịch cảnh. Vì thế, họ luôn đặt ra cho mình những câu hỏi như: “Sao mọi thứ lại không trôi chảy?”; “Sao cuộc đời lại đầy rẫy khó khăn, trở ngại?”; “Tại sao điều này lại xảy ra với mình?”; “Tại sao đời bất công đến vậy?”; hay “Tôi đã làm gì để ra nông nỗi này?”. Nhưng nếu suy tư một chút, chúng ta sẽ thấy: nghịch cảnh cuộc đời là điều không thể tránh. Không ai tránh được những bất trắc trong cuộc sống. Thật thế, người thì bị mất việc, kinh doanh thất bại, mất đi người thân, khủng hoảng tài chính, người thì đổ vỡ trong các mối quan hệ, hoặc thậm chí sức khỏe sa sút. Đôi khi những thử thách đó lại nằm ngoài tầm kiểm soát của ta, nên dù cố gắng đến mấy, nó vẫn tan thành mây khói.

Điều đáng bàn ở đây là: chúng ta sẽ phải ứng xử với những nghịch cảnh đó như thế nào cho đúng mực, hầu đem lại hiệu quả tối ưu!

  1. Những thái độ khác nhau khi gặp nghịch cảnh

Thật ra, mỗi khi thử thách đến trong đời, chúng ta thấy có rất nhiều thái độ khác nhau, mỗi người đối diện và phản ứng một kiểu, chẳng ai giống ai. Có người thì quay lưng lại với chúng. Có người lại không dám tiến lên vì sợ thất bại. Lại có người không bao giờ hành động… vì lo không đạt được mục tiêu.

Tuy nhiên, cũng có những người khi thất bại đến, họ coi đó như là một điều kiện cần để tiến đến thành công. Lại có những người coi việc thất bại như là một phần của cuộc sống để làm cho cuộc đời này ý nghĩa, giá trị hơn. Những người đó, họ coi thất bại như là chút mắm, muối, gia vị… để làm cho “tô phở cuộc đời” được mặn mà, thơm ngon hơn. Ralph Waldo Emerson đã nói: “Vinh quang lớn nhất của chúng tôi không phải là không bao giờ thất bại, nhưng tăng lên mỗi khi chúng tôi thất bại”; “Chẳng ai trở nên hoàn hảo và tốt đẹp mà chưa từng mắc lỗi lầm nào cả” (William E. Gladstone).

Thật thế, những người có thái độ tích cực đối với thất bại thì trong đầu họ luôn nghĩ: “Nghịch cảnh không phải là một tảng đá cản lối bước chân bạn. Hãy xem đó như một thềm đá nâng bạn bước cao hơn” (Fanco Molinary).

“Thất bại chỉ là cách chúng ta học hỏi qua phương pháp thử và sai. Chúng ta không chỉ cần chấm dứt ngay nỗi sợ hãi thất bại mà còn cần sẵn sàng chấp nhận thất bại – thậm chí hào hứng đón nhận thất bại. Họ gọi phương pháp đón nhận thất bại này là ‘thất bại để tiến lên’. Bạn chỉ cần bắt tay thực hiện, phạm sai lầm và tiếp tục tiến về phía mục tiêu của mình. Tất cả những kinh nghiệm thu được đều là những thông tin hữu ích bạn có thể sử dụng cho những lần sau” (Jack Canfield – trích trong “những nguyên tắc thành công”). Nghe có vẻ hơi điên rồ, nhưng nếu nhìn lại cuộc đời mình, bạn sẽ nhận ra những món quà quý giá bạn đang tận hưởng trong hiện tại lại “đâm chồi nảy lộc” từ nơi nghịch cảnh bạn phải hứng chịu trong quá khứ.

Tại sao thế? Thưa vì: “Bạn không thể học được ít hơn, bạn chỉ có thể học được nhiều hơn. Tôi có kiến thức sâu rộng chính là bởi tôi đã phạm rất nhiều sai lầm” (Buckínter Fuller – Nhà toán học và triết gia). Thất bại là chậm trễ, nhưng không đánh bại. Đó là một đường vòng tạm thời, không phải là một ngõ cụt.

Tuy nhiên, “nghịch cảnh chỉ mang đến lợi ích trong tương lai nếu bạn giữ được thái độ tích cực, chủ động tìm kiếm những cơ hội mới và không ngừng bước tới. Nếu bạn cho phép nghịch cảnh nhấn chìm bạn vào những suy nghĩ tiêu cực và thôi không phấn đấu thì đương nhiên, chẳng điều tốt đẹp nào đến với bạn cả” (trích trong “3 món quà đến từ nghịch cảnh” đăng trên: http://www.hoclamgiau.vn/skill/1641/mon-qua-den-tu-nghich-canh)

  1. Câu chuyện thành công từ những nghịch cảnh

Có một câu chuyện kể rằng:

Những nông dân ở miền Nam Alabama đã quen trồng chỉ mỗi một thứ là cây bông (dùng để se chỉ, dệt vải).

Một năm kia, những con sâu bọ đã tàn phá cả vùng. Năm sau những người nông dân đem nhà cửa của họ đi cầm cố để có tiền và lại tiếp tục trồng cây bông, hy vọng vào một kỳ gặt hái tốt đẹp. Thế nhưng, khi những cây bông bắt đầu mọc, những con sâu bọ đó lại đến và phá sạch hầu hết các cánh đồng.

Một số ít những người “sống sót” qua 2 năm đó đã quyết định trồng thử một thứ mà trước đây họ chưa bao giờ trồng, đó là cây lạc (đậu phộng). Và kết quả là cây lạc của họ nhanh chóng được thị trường ưa chuộng, đến nỗi lợi tức của năm đó đủ để họ trả hết nợ của 2 năm trước. Kể từ đó họ trồng cây lạc và rất phát đạt.

Và rồi bạn biết những người nông dân đó làm gì không? Họ trích một phần trong tài sản của mình để dựng một đài kỷ niệm ngay giữa trung tâm thành phố để ghi công “những con sâu bọ”. Bởi nếu không vì những con sâu đó họ sẽ không bao giờ khám phá ra cây lạc. Họ sẽ mãi mãi đủ ăn với nghề trồng cây bông từ thế hệ này qua thế hệ khác.

  1. Đứng trước nghịch cảnh, người Công Giáo cần có thái độ nào?

Khởi đi từ nguyên tắc cứu độ của Đức Giêsu trong nguyên lý của hạt lúa mì: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24); rồi chính Đức Giêsu đã đi trên con đường tự hủy đó để cứu độ con người. Đỉnh cao của mầu nhiệm này là cái chết trên thập giá như Ngài đã tiên báo: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại” (Mc 8, 31). Tinh thần này đã được thánh Phanxicô Assisi lựa chọn và sống, ngài viết: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.

Quả thật, con đường này là con đường nghịch lý của thập giá mà chính Đức Giêsu đã lựa chọn. Tuy nhiên, đằng sau sự mục nát của hạt lúa, chúng ta thấy trổ sinh nhiều cây và bông hạt khác. Cũng vậy, nếu không có thập giá hôm nào thì không có sự phục sinh của Đức Giêsu và niềm hy vọng của chúng ta. Chính Tôi Tớ Chúa, Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận cũng đã nói: “Đừng nản lòng vì thất bại. Nếu con tìm ý Chúa thực sự, thì chính sự thất bại đó là thành công. Chúa muốn như vậy. Xem gương Đức Giêsu trên thánh giá”; “ Chỉ có một sự thất bại là không hy vọng vào Chúa. Con đã hy vọng vào Chúa và con sẽ không hổ thẹn đến muôn đời” (ĐHV., số 41. 43).

“Lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Trong hành trình sống đạo, hẳn không thiếu những nghịch cảnh. Tuy nhiên, khi đối diện với chúng, mỗi người chúng ta hãy kiên trì và trung thành với ơn gọi mà mình đã khám phá và cảm nghiệm. Mỗi khi khó khăn thử thách đến với chúng ta, đừng vì thất vọng mà buông xuôi. Nhưng hãy trung thành đến cùng. Nếu bỏ cuộc, chúng ta đã làm việc này việc nọ vì hứng chứ không phải vì lòng yêu mến Chúa.

Tuy nhiên, lòng yêu mến Chúa thì không phải là hứng mà làm, nhưng là vì cảm nghiệm. Khi đã cảm nghiệm thì không còn chuyện bàn tán nên hay không nên, mà tất cả đều có ích cho những người yêu mến Chúa.

Hình ảnh người trộm lành cho chúng ta thấy, anh ta hạnh phúc ngay trong sự thất bại. Anh ta được hạnh phúc là vì anh ta tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu của Thiên Chúa. Còn Giuđa thì thất vọng khi đang sống trong tình yêu nhưng lại nghi ngờ, nên ông đã là người thất bại thê thảm.

Nếu không bền chí thì không phải là người tài đức song toàn. Người tài là người được lớn lên trong thử thách. Người có đức là người bền chí, trung thành và can đảm. Bền chí là dấu hiệu của người đang dồi dào ân sủng.

Nếu thiếu đi hai yếu tố trên thì không phải là mình “hiền” như mình vẫn lầm tưởng, mà là “hèn”. Cần hiểu và phân định rõ rằng: “hiền”“hèn” là hai lối sống và biểu hiện khác nhau.

Nếu không có lòng yêu mến Chúa, thì không thể kiên trì, trung thành được, bởi vì, họ sẽ không thể tìm ra ý nghĩa của đau khổ, thất bại. Họ sẽ không thấy sự sống trổ sinh từ cây thập giá chết. Họ sẽ không thể hy vọng về một tương lai tươi sáng khi đang phải đối diện với tối tăm mù mịt.

Giuđa và Gioan chỉ khác nhau ở lòng mến mà thôi. Trong tâm hồn chúng ta cũng vẫn còn đó hai hình ảnh và hai lối sống lẫn lộn: Gioan và Giuđa. Bao lâu chúng ta còn kiên trung, bền chí, và hy vọng, ấy là dấu chỉ ta theo Gioan để đi trọn con đường tình yêu dưới chân thập giá. Còn giờ phút nào chúng ta nhát đảm, sợ sệt, ham tiền, ham danh, ấy là lúc chúng ta đã chọn Giuđa làm quan thầy và thắp hương tôn thờ vị “quan thầy phản bội”.

Bạn thân mến,

Chúng ta thường than oán mỗi khi rơi vào nghịch cảnh. Thế nhưng, chúng ta quên rằng Chúa là Cha của chúng ta ở trên trời, Chúa luôn yêu thương chúng ta, Ngài biết trước những gì chúng ta cần, vì thế chúng ta nên phó thác trong tay Ngài. Hãy tin tưởng vào Chúa quan phòng (x. Mt 6,25-34). Mỗi khi gặp nghịch cảnh , khó khăn xảy đến, chúng ta đừng quá bận tâm cho câu hỏi tại sao? Mà hãy chú tâm và khám phá ra ý định của Thiên Chúa trong nghịch cảnh đó.

Khi thinh lặng nội tâm, Ngài sẽ cho biết lý do tại sao, hay cần làm gì để chúng ta nhận biết được những hồng ân quý báu Chúa ban cho trong nghịch cảnh đó.

Thật vậy, mọi sự đều trở nên ích lợi cho những người yêu mến Chúa. Vì thế, không còn chuyện than thân trách phận hay buồn bực, chán nản và thất vọng vì những điều không hợp với ý của ta nữa. Các thánh là những người đã sống mầu nhiệm thập giá qua những nghịch cảnh cách xuất sắc. Có những đấng đã xin Chúa cho chịu thật nhiều đau khổ để đến vì tội mình. Lại có đấng sẵn lòng chịu khổ cực thay cho người khác. Và cũng có những đấng đón nhận mọi khổ cực đắng cay, hiểu lầm vì lòng yêu mến Chúa. Các thánh là những người phải chiến đấu với sự yếu đuối bản thân, với những nghịch cảnh từng ngày từng giờ, từng phút, từng giây trong cuộc sống.

Xin hãy nhớ rằng: những điều tốt đẹp ngày hôm nay là kết quả của những thử thách ngày hôm qua.

Để kết thúc, xin bạn cùng với tôi, chúng ta cùng nhau suy ngẫm câu nói sau: ” ‘Khổ’. Đúng vậy. Thương khó, bỏ dễ. Khó mới quí, bỏ là quỉ” (ĐHV., số 60).

Vậy bạn và tôi, chúng ta muốn làm thánh hay là quỷ???

Jos. Vinc. Ngọc Biển

SỨC MẠNH CỦA LÒNG TIN

SỨC MẠNH CỦA LÒNG TIN

LM Ignatiô Trần Ngà

Norman Vincent Peale (1898-1993) là một mục sư danh tiếng trong Giáo Hội Tin Lành Methodist, đồng thời cũng là nhà tâm lý trị liệu danh tiếng ở Mỹ, đã xuất bản nhiều tác phẩm thuộc hạng ăn khách nhất (best-selling books), trong đó có cuốn “sức mạnh của tư tưởng tích cực” (The Power of positive thinking) xuất bản năm 1952, được dịch ra đến 41 thứ tiếng, bán ra hơn 20 triệu cuốn và còn được thu vào băng dĩa để phát hành.

Cuốn sách nầy lôi cuốn được nhiều độc giả đến thế vì nó giúp cho người ta tìm thấy bí quyết tránh thất bại và đạt tới thành công.  Bằng cách nào?  Tác giả cuốn sách viết: người ta thất bại vì người ta thiếu lòng tin, thiếu lòng tin nơi Thiên Chúa và thiếu tin tưởng vào khả năng của mình.  Vậy muốn thành công, hãy gầy dựng cho mình một niềm tin mạnh mẽ.

Tác giả dùng một câu lời Chúa, trích trong Tin Mừng Mat-thêu làm nên bí quyết để thành công trong cuộc đời, để giành lấy thắng lợi.
Câu đó là:
“nếu bạn có lòng tin thì chẳng có việc gì mà bạn không làm được.” (Mt 17, 20)

Chân lý đó được chứng tỏ qua sự kiện sau đây:

Khi Chúa Giêsu vượt qua biên giới Do-thái qua miền Tia và Xi-đôn, có một người đàn bà xứ Canaan, là người ngoại bang đến gặp Chúa Giêsu và thống thiết nài xin Người: “Lạy Ngài là con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!  Con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!”

Chúa Giêsu lặng thinh không đáp.

Nếu ở trong hoàn cảnh người đàn bà nầy, chắc chúng ta tức tối bỏ đi, thầm oán trách Chúa vô tâm.  Đó là bức tường thứ nhất người đàn bà Canaan đụng phải, nhưng bà không thối lui.

Bà cứ liên lỉ nài van, còn Chúa Giêsu thì cứ tiếp tục lặng thinh.  Bà kêu xin bền bỉ đến độ các tông đồ đi theo chịu hết nổi, nên mới xin Chúa Giêsu đáp lại ước vọng của bà: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi!”

Chúa Giêsu lại từ chối: “Thầy chỉ được sai đến với chiên lạc nhà Israel”.

Sứ mạng của Chúa Giêsu vào thời điểm đó chỉ dành cho dân Israel mà thôi.  Chưa đến lúc, chưa đến giờ đem ơn cứu độ cho mọi dân tộc.

Bị từ chối thẳng thừng, bị đụng vào bức tường thứ hai, nhưng bà không nhụt chí.  Bà vẫn tiếp tục van xin.  Bà bái lạy Người cách thành khẩn: “Lạy Ngài xin cứu giúp tôi”.

Lần nầy, Chúa Giêsu trả lời cách cứng cỏi và quyết liệt: “Không nên lấy bánh của con cái mà cho chó con.”  Thế là bà lại đụng phải bức tường thứ ba, tưởng như còn cao hơn, dày hơn hai bức tường trước.  Vẫn không thoái chí, bà khiêm nhường chấp nhận thân phận thấp hèn của mình và khiêm tốn cầu xin: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.”

Đến đây thì Chúa Giêsu không thể chối từ được nữa và nguyện vọng của người phụ nữ Canaan đã được đáp ứng hoàn toàn.  Con gái bà đã được cứu chữa.

Chúa Giêsu xác nhận rằng bà được như ý bà muốn là nhờ lòng tin: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật.  Bà muốn sao thì sẽ được vậy.”

Vì muốn cho chúng ta biết rằng lòng tin có sức cứu chữa và làm nên phép lạ, nên sau mỗi lần cứu bệnh nhân lành bệnh, Chúa Giêsu không nói: “Ta đã chữa lành con, hãy về bình an,” nhưng Ngài lại nói: “Đức tin của con đã cứu chữa con.”

Tin Mừng Mátthêu cũng nhấn mạnh rằng nếu không có lòng tin, thì người ta chẳng đạt được gì cả, bằng chứng là khi Chúa Giêsu về thăm quê hương Ngài là Nadarét, người đồng hương không tin vào Ngài, nên không có phép lạ nào xảy ra. “Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ không tin” (Mt 13, 58) hay như tường thuật của thánh Máccô: “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó… Người lấy làm lạ vì họ không tin” (Mc 6, 5-6)

Chúa Giêsu khẳng định rằng ai có lòng tin thì có thể làm được bất cứ việc gì.  “Nếu anh em có lòng tin bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi nầy: “rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được.” (Mt 17, 20)

Một sự kiện điển hình chứng tỏ niềm tin làm nên phép lại là khi Phê-rô thấy Chúa Giêsu đi trên mặt nước, ông cũng muốn được như Thầy và đã xin Chúa Giêsu cho ông thực hiện điều đó.  Chúa Giêsu chấp thuận.  Tin vào quyền năng Chúa Giêsu, Phêrô làm nên được điều kỳ diệu: ông đi được trên mặt nước để đến với Thầy.  Thế nhưng khi thấy gió thổi mạnh, ông đâm ra lo sợ và nghi ngờ.  Chính vì mất niềm tin nên ông bị chìm đắm.  Ông hốt hoảng la lên.  Chúa Giêsu nắm lấy tay Phêrô kéo lên và trách ông: “Người đâu mà kém tin vậy!  Sao lại hoài nghi!”  (Mt 14, 22 – 33).

Lòng tin là bí quyết của thành công, đó là bài học quan trọng mà Chúa Giêsu muốn gửi đến chúng ta hôm nay, tiếc thay chúng ta không biết tận dụng bài học đó để thu hoạch những thành quả tốt đẹp trong cuộc đời.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đề cao lòng tin, khen ngợi những người mạnh tin và chê trách các môn đệ yếu lòng tin.  Xin ban thêm Đức tin cho chúng con để nhờ đó, chúng con vững vàng thắng vượt gian nan thử thách và giành lấy những thành tựu tốt đẹp trong cuộc đời.

LM Ignatiô Trần Ngà

Mưa với nắng dẫu chung trời, chung đất,

“Mưa với nắng dẫu chung trời, chung đất,

Mà quanh năm bắt buộc tránh nhau hoài.”

(Dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)

Mt 16: 13-20

Chung trời đất, nhưng cuộc đời nào có chung. Tránh nhau hoài, là tư-thế của người đời thường ứng-xử với nhau trong đời người.

Trong đời người đi Đạo và sống Đạo cũng thế. Cũng có những cảnh người người tránh né nhau, như người dưng nước lã, khó làm thân. Chả thế mà, Đức GIêsu hôm nay cứ lần lữa hỏi đồ-đệ xem người người gọi Ngài là ai? Có biết gì về Đấng Mêsia không? Có biết Ngài là Đấng được gửi đến sống chung đụng, gần gũi trong trời đất, vẫn thương-yêu, gần cận biết bao người, như trình-thuật thánh Mát-thêu còn ghi chép.

Trình-thuật thánh Mát-thêu hôm nay ghi về cung cách sống rất chung đụng của người trần-thế, rất ở đời. Trong đời trần thế, sống đúng tư cách của người đi Đạo là sống cho ra sống. Dù cuộc sống có trần ai/bĩ cực, người tín hữu Đức Kitô vẫn phải sống có căn cước của nhà Đạo. Chứng tỏ căn cước nhà Đạo, là ưu tư của người đi Đạo.

Ở đây, “danh xưng” Kitô-hữu vẫn được coi như một căn cước. Ở đây, “căn cước” người tín hữu, vẫn nói lên cả một hiện tượng, thường xảy ở nhiều nơi.

Tại giáo phận miền quê hôm ấy, xảy ra một vụ nổ lớn về cách thức vị linh mục chánh xứ tổ chức buổi tĩnh tâm cuối tuần, cho các học sinh trung học. Đêm thứ sáu của tuần lễ trầm mặc, là đêm căng thẳng nhất, khi vị linh hướng thông báo với các người trẻ, rằng: họ phải có quyết định dứt khoát, về niềm tin tôn giáo của mình.

Nhiều phụ huynh đã sững sờ, khi biết là đám trẻ nhà mình, đã nhận được tối hậu thư rất gay, có thể dẫn tới hậu quả là chúng sẽ chối bỏ đức tin. Vị linh hướng hôm ấy, còn quả quyết rằng: người trẻ Kitô-hữu vẫn phải có quyết định chọn nghề, chọn lối sống; chọn nơi ăn chốn ở, môn học và các tương quan ở đời thường.

Vị chủ trì buổi tĩnh huấn, còn quả quyết: tôn giáo lâu nay bị đẩy lùi ra ngoài xã hội, và cuộc sống. Và, đây là chuyện khá quan trọng, để giới trẻ nên quan tâm suy nghĩ, hầu có quyết định chọn lựa trước khi bước vào cuộc đời đích thật. Và, nếu không có quyết định dứt khoát về niềm tin tôn giáo, thì Đạo của ta sẽ đắm chìm trong quên lãng. Hoặc, bị phủ vùi trong lớp ẩm mốc, cát bụi; để rồi, cuối cùng cũng làm mồi cho củi lửa, thiêu đốt.

Linh mục ấy còn thêm: đòi hỏi giới trẻ có thái độ như thế, vẫn chưa đủ. Sau 12 năm thấm nhuần nền giáo dục mang tính Kitô-giáo; và sau nhiều năm học hỏi giáo lý, Hội thánh vẫn kêu gọi giới trẻ phải có thái độ đối với niềm tin của mình. Một số người trẻ, đã quyết định một cách có ý thức, dứt khoát tiến bước dấn thân làm thành viên của Giáo hội.

Và, khi quyết định tạo cho mình một nghề đầy lòng tin như thế, nhiều bạn trẻ cho biết: họ đã phải đối đầu cả với Chúa. Họ đã kinh nghiệm trực tiếp giáp mặt với Ngài. Có người đã không ngại ngần phản chống lại Giáo hội, đến độ về sau, họ không thể nào rút lại quyết định của mình, được nữa.

Tiến-trình tĩnh tâm, cũng dựa trên nền tảng được nêu ra trong Tin Mừng, hôm nay: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Đáp lại câu hỏi này, các môn đệ muốn phản ánh kinh nghiệm mình đã sống với Đức Kitô, nên đã đưa ra những giải đáp khác nhau. Duy có Simôn Phêrô, lại quả quyết: Đức Kitô là sự mặc khải của Chúa gửi đến cho con người. Đây là tuyên ngôn nền tảng, mà qua đó Giáo hội của Chúa được thiết lập, chốn gian trần.

Những gì khi xưa là chân lý, nay vẫn là sự thật. Rất hoàn toàn. Có một vài điểm, nếu ta vẫn muốn cho niềm tin chuyển đổi từ lề luật, rất ý niệm hoặc những quan điểm riêng tư, thành những gì ta có thể cảm nghiệm được, thì ta phải gánh vác niềm tin mà Giáo hội hằng nuôi dưỡng ta, mãi đến hôm nay.

Và, phải coi đó như trọng trách hoặc nghề nghiệp, của chính ta. Làm thế, khi giáp mặt Đức Kitô, ta mới thực sự cộng tác vào công cuộc tái tạo Hội thánh, cùng với thế hệ đương đại.

Ý thức tận hiến đời mình, làm thành viên “cộng đoàn Hội thánh”, có lẽ là thách thức lớn Đức Chúa đem đến cho môn đệ, trong Tin Mừng. Như môn đệ xưa, chúng ta được kêu mời làm chứng tá cho tình yêu của Chúa tại nơi mình công tác hay làm lụng.

Hoặc, khi hòa mình sống với bạn bè/người thân trong gia đình. Còn lại, là chuyện nhắc nhớ: chúng ta vẫn đại diện cho Hội thánh. Một Hội thánh duy nhất. Thánh thiện. Mà, tất cả mọi người chúng ta đang giáp mặt, sống chan hòa.

Đường lối ta đeo đuổi, có thể sẽ cột thắt hoặc giải phóng mọi người, sẽ được đo lường bằng niềm tin yêu của ta. Mọi người sẽ nhìn qua ta, để phán đoán xem Hội thánh có còn phản ảnh Đức Kitô, sống với thế giới gian trần, hôm nay không. Mọi người sẽ tìm hiểu xem Hội thánh có còn là căn nhà chung, mọi người chúng ta đang sống.

Và, tất cả đều được coi như thực chất/bản-lề đặt ở câu hỏi gửi đến mỗi người, trong cộng đoàn. Câu hỏi, là: “Thế còn bạn, bạn bảo Tôi là ai?” Cách thức ta trả lời cho câu hỏi, sẽ bộc lộ thật nhiều điều. Và, điều rõ nét nhất, vẫn là:  Đức Kitô có còn lý tưởng ta yêu thích. Có còn là, đối tượng ta mê say, phục vụ, nữa hay không?

Một lần nữa, hỏi tức là trả lời. Một trả lời ở đâu đó, nơi lời kinh/nguyện cầu rất hăng say. Trong cảm-nghiệm về câu trả lời cho tình thương yêu gần cận với Thày, cũng nên ngâm lại lời thơ trên còn bỏ dở, rằng:

“Mưa với nắng dẫu chung trời, chung đất,

Mà quanh năm bắt buộc tránh nhau hoài.

Ta với người bắt buộc phải chia hai,

Làm sao em biết trời đau đớn

Làm sao em lớn bằng ta lớn.

Để chung cùng công việc: đứng than thân…”

(Nguyễn Tất Nhiên – Vài Đoạn Viết Ở Đinh Tiên Hoàng)

Viết ở đâu cũng là viết. Viết về tư thế của mưa với nắng, tránh nhau hoài. Đứng ở đâu, cũng là đứng trong trời đất, mà cứ bắt buộc tránh nhau hoài, thế đó đâu phải là đời người. Chí ít là đời của người đi Đạo và sống Đạo, vẫn có Chúa thương yêu ở chung cùng mình, rất an bình.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch

Đôi chim, là chim ríu rít trên cành,

Đôi chim, là chim ríu rít trên cành,

Em yêu là yêu tiếng gọi

Của Mình là Mình, Mình ơi!

(Diệu Hương – Mình Ơi)

(1Cor 9: 19-23)

Nếu ai đó, hiểu sâu và hiểu xa ý-nghĩa của từ-vựng “Mình” chỉ là “bạn tình” rất thường tình, chứ không là “bạn trăm năm”, thì chắc bạn và tôi, ta sẽ có rất nhiều điều để nói và để bàn, rất không chán.

Chuyện đáng nói và bàn, mà nhiều người cứ tưởng là chuyện trăm-năm-cuộc-tình-đôi-lứa như thế, nhiều lúc thấy cũng rất thường. Thường xảy đến, câu hát buồn từng nối đuôi theo, như:

“Đem qua thức giấc bùi ngùi

Nhìn quanh, là em không thấy mặt người.

Là, người mình thương.”

(Diệu Hương – bđd)

Ý-tưởng, được người viết nhạc diễn-tả ở đây muốn nói đến, có thể là tâm tình của người tình từng có “trăm năm một cõi đi về”, mà thôi. Nếu người đọc, lại diễn rộng thứ tình trăm năm hoặc nghìn năm mây bay thành tình bạn/tình người với mọi người, hẵn rằng lại khác!

Vâng! Sự thật lại rất khác. Cũng sẽ khác, nếu như ta lại cứ hát câu cuối của nhạc bản này và nghĩ đến người-tình-ngàn-năm sẽ thấy khác, cũng rất nhiều như những điều sau đây:

Đôi chim gẫy cánh giữa đường,

Từ nay là em thôi hết được

Gọi Mình là Mình, Mình ơi.”

(Diệu Hương – bđd)

Thế thì, nay có đề-nghị từ một người nghe nào đó, không phải là bần đạo bầy tôi đây, cứ hiểu chỉ một “tình mình” ngàn-năm-mây-bay không là tình bạn đôi lứa mà thôi, hẳn rằng bạn và tôi, ta lại sẽ có cả thiên/cả nghìn vấn-đề đặt ra cho riêng mình, và cho mọi người từ xưa đến nay.

Nói dông nói dài, là để dẫn vào câu chuyện xảy đến với nhà Đạo, rất không lâu. Muốn biết là chuyện gì vừa xảy đến không lâu, xin mời bạn/mời tôi ta đọc tiếp các “mẩu” thông-tin từ nhà Đạo mình, như sau:

“Trong lần gặp gỡ bạn bè xưa/cũ tại nhà thờ Caserta, Đức Phanxicô có nói: ngài biết chắc rằng: một số người đã tỏ ra sửng sốt khi thấy ngài thực-hiện chuyến đi thăm nhóm bạn-hữu thuộc giáo-phái Ngũ Tuần, xưa nay là bạn của ngài.

Đức Phanxicô có nói với nhóm Ngũ Tuần này, rằng: ‘Chúa Thánh Thần là nguồn-cội của sự đa-dạng trong Hội-thánh. Đa-dạng đây, là đặc-tính phong-phú, tốt lành, hạnh-đạo như mọi đạo. Chúa Thánh Thần là Đấng tạo sự hiệp-nhất hết mọi người. Theo cách này, Hội thánh vẫn là một trong Giáo hội đa-dạng ấy. Và Đức Phanxicô lại nói: ngài yêu-thích từ-vựng rất hay và rất đẹp vẫn được ghi trong Kinh thánh, đó là câu: Tính đa-dạng thực-hiện sự hoà-giải đích-thị là quà tặng của Chúa Thánh Thần.”

Trong buổi này, Đức Phanxicô lại đã dấy lên một đòi hỏi gửi đến cộng-đồng các vị Rao giảng Phúc Âm gốc Ý, là: thời Phát-xít lộng-hành, một số người Công-giáo đã là đồng-phạm trong vụ giết chết rất nhiều anh chị em Tin Lành thuộc phái Ngũ Tuần và Rao Giảng Phúc Âm, ở đây.

Thế nên, với tư-cách là mục-tử Đạo Chúa, tôi mong anh chị em hãy tha thứ cho những người anh/người chị của chúng ta, là những người Công giáo khi xưa vì không biết và do sự dữ cám-dỗ nên đã làm những chuyện xằng bậy mất đoàn-kết như thế…

Đồng thời hôm ấy, Đức Phanxicô cũng đem đến cho các linh-mục vài tư-tưởng về mối quan-hệ giữa người Công-giáo với các anh em Ngũ Tuần khiến mọi người thấy ngạc-nhiên. Đặc biệt là khi, Đức Giáo Hoàng cho biết: nhiều người Công-giáo ở Châu Mỹ La-tinh đã gia-nhập cộng-đồng tín-hữu Ngũ Tuần. Ngài kể lại câu chuyện nữ tín-hữu nọ là người Công giáo có nói: Giáo-hội Công-giáo đã bỏ rơi chị và cả bạn bè của chị theo Công giáo nữa. Chị nói: chị cần có Lời Chúa dẫn-dắt, nên đã phải gia-nhập sinh-hoạt của anh em Tin Lành này…

Để minh-hoạ và cũng kết thúc bài nói chuyện hôm ấy, Đức Phanxicô nhấn mạnh: “Bất cứ ai, dù nam hay nữ, vẫn có thể đem đến cho ta đôi điều làm quà-tặng. Đó, có thể là chuyện đời riêng hoặc tình-cảnh tư-riêng của họ. Dù thế nào đi nữa, cũng nên lắng nghe họ. Và, Chúa Thánh Thần là Đấng khôn-ngoan rất mực, sẽ chỉ dạy cho ta biết cách ăn/nói với người đó.

Đừng bao giờ hãi sợ khi đối-thoại với bất cứ ai. Đối-thoại, không phải để bảo-vệ niềm tin của mình, dù nó có nghĩa là giải-thích những gì mình tin. Và, cũng là cung-cách làm áp-lực để thuyết-phục người nghe gia-nhập Đạo mình. Đức Bênêđíchtô 16 có lý khi nói rằng: “Hội thánh lớn mạnh không do việc khuyến-dụ người khác gia-nhập Đạo mình, mà là ngang qua sự thu hút của mình bằng cuộc sống”. (X. Cindy Wooden, Pope, friends move in the Spirit, The Catholic Weekly 03/8/2014 tr. 7)

Nói gì thì nói, nếu cứ nói và hát theo ca-từ của nhạc-bản trích ở trên, người đọc lại sẽ như bầy tôi đây, sẽ hát những lời bức-bách rất như sau:

“Từ khi, từ khi là Mình bỏ em buồn

Đôi chim lơ láo, quay cuồng là cuồng biếng ăn.

Co ro, co ro tìm một chỗ em nằm,

Phòng không, phòng không là không không chiếu lạnh

Nhện sầu là sầu giăng ngang.”

(Diệu Hương – bđd)

Nếu hiểu chữ “Mình” theo ý của cố Linh mục DCCT người Canada là Lm Gérard Gagnon khi trước vẫn hiểu chữ “Mình” trong câu thơ Kiều: “Nghĩ Mình, Mình lại nên thương nỗi Mình” là Đức Chúa Trời Ba Ngôi hiện-diện nơi mình/nơi người, trong đời, thì hôm nay chữ này còn mang nhiều ý-nghĩa hơn.

Nếu thế thì, xin bạn và tôi, ta cứ tiếp-tục hát thêm câu hát có những chữ “Mình” như sau:

“Mình ơi là Mình, Mình ơi!

Mình đi là đi đi mãi quên lời,

Lời xưa mà ta ước hẹn,

Một đời là một đời sắt son.

Cây xanh, là xanh lá vẫn tươi màu,

Riêng em là em héo tàn.

Nhạt nhoà, là nhoà tình xuân.”

(Diệu Hương – bđd)

Thật ra thì, khi nghe hát những ý/lời có chữ “mình” ở trên, bần-đạo đây lại cứ liên-tưởng đến những chuyện rất khác với ý-tưởng của tác-giả bài hát rất úi chà “Mình ơi, là mình!”

Vâng! Thật sự thì: trong đời mình, lại cũng có những “mình” và “mình” vốn liên-kết với nhau không chỉ ngang qua tình ruột thịt mà còn là tình-thân thương của những con cái Chúa, ở Nước Trời nhà Đạo.

Liên-tưởng đến những gì mang chữ “mình”, bần đạo đây lại bắt gặp những đoạn gọi là “tình mình bây giờ” và khi xưa, những kể rằng:

“Theo các cụ Zelmyra và Herbert Fisher, là cặp phối-ngẫu có 87 năm chung sống với nhau, thì: muốn cho hôn-nhân của mình kéo dài cả đời người, không có gì khó khăn cho lắm. Sau đây là một vài mẹo vặt do hai cụ đề-nghị hầu đảm-bảo cho hôn-nhân của mình được thành-công, toại nguyện:

Ly-dị, không phải là chọn-lựa. Điều này ít được nói đến, nhưng tôi tin chắc là ngày nay, càng có nhiều người tính chuyện ly-dỵ chỉ vì đó là chọn-lựa, ngay trước mắt. Nếu bạn nghĩ rằng ly-dị là chuyện khả-thi, thì nhiều khả-năng là: khi mọi sự đi đến khó-khăn, bạn sẽ “chọn” việc đó như con đường “dễ đi” hơn là làm hết mình để chỉnh-sửa tương-quan mình vẫn có.

Hãy nhớ rằng: hôn-nhân là cuôc “thi-đấu”, đừng bao giờ duy-trì số điểm mình đạt được. Bởi lẽ, bạn ở cùng chung một đội-ngũ quyết giành phần thắng lợi, chứ không chỉ riêng mỗi một mình.

Mẹo kế tiếp, là: Hãy đồng-ý với nhau là mình có thể bất-đồng về nhiều chuyện và chiến-đấu cho những gì thực sự thành vấn-đề. Hãy học cách cúi gập người mình xuống mà đồng-thuận chứ không phải phá đổ mọi sự. Theo tôi thì, những gì đi đến nền tảng của sự việc mình tin-tưởng, thì cũng là điều tốt nếu như người phối-ngẫu với mình ở trên cùng chiều dài của cơn sóng vỗ như mình vậy. Không có gì là xấu xa nếu ta bất-đồng với nhau về cả “chuyện nhỏ”. Thật sự thì, cũng là điều tốt nếu như ta học được nhiều điều từ những người đồng-thuận với mình. Thêm nữa, điều đó cho thấy mình thật sự thoải-mái đối với nhau, có thể trân-trọng ý-kiến/lập-trường của nhau và nhượng bộ nhau, nếu cần.

Mẹo cuối thêm nữa là: điều mà bạn nên có chung với nhau, đó là: hãy thăng-tiến hết mọi sự, bởi ta đều là tín-hữu Đức Kitô và cùng tin vào Chúa. Điều này không có ý bảo rằng: muốn thành vợ chồng thành-công trong hôn-nhân, thì phải là Kitô-hữu.

Không. Không phải thế. Điều này, chỉ muốn nói đến yếu-tố bảo rằng: hầu hết các cặp vợ-chồng hoà-hợp/đoàn-kết với nhau là những người cùng san-sẻ một niềm tin hoặc giá-trị đạo-đức. Tại sao thế? Bởi như thế, họ hiểu nhau hơn, họ có thể giúp đỡ nhau vững chí với niềm tin của họ và như thế sẽ không giáp mặt với những xung-đột lớn lao khi nuôi dưỡng giáo dục đàn con của họ”. (xem Tamara Rajakariar, A Happy Marriage is Simple, MercatorNet 21/5/2014)

Thế đó, cũng chỉ là lập-trường tư-riêng của ai đó. Có thể gọi họ là “các cụ giòng họ Fisher” ở Úc hay Mỹ Quốc. Có thể gọi họ là ông A bà B, rất đáng kể. Nhưng, gọi thế nào thì gọi, nói gì thì nói vẫn cứ nên nói cho có sách và mách cho có chứng. Những chứng cứ được ghi dấu ở Kinh Sách rất như sau:

“Phải, tôi là một người tự do,

không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người,

hầu chinh phục thêm được nhiều người.

Với người Do-thái, tôi đã trở nên Do-thái, để chinh phục người Do-thái.

Với những ai sống theo Lề Luật, tôi đã trở nên người sống theo Lề Luật,

dù không còn phải sống theo Lề Luật nữa, để chinh phục những người sống theo Lề Luật.

Đối với những kẻ sống ngoài Lề Luật, tôi đã trở nên người sống ngoài Lề Luật,

dù tôi không sống ngoài luật Thiên Chúa, nhưng sống trong luật Đức Kitô,

để chinh phục những người sống ngoài Lề Luật.

Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu.

Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người.

Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó,

để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng.”

(1Cor 9: 19-23)

Sống thực tế, là sống với và sống bằng Lời khuyên dạy từ Tin Mừng. Sống, Lời dạy từ Tin Mừng, có là cùng sống và cùng tin với mọi thành-viên Hội-thánh, tức chính Hội thánh. Sống như thế, còn là sống rất thực bằng vào và ngang qua ý-kiến của nhiều người, trong đó có cả các bậc thày-dạy ở trường lớp rất thần-học.

Và hôm nay, bần-dạo bầy tôi lục-lọi xấp bài viết của một trong các bậc thày như thế, đã thấy được như sau:

“Trong mọi hoàn-cảnh, các vị quan-tâm đến nền thần-học của Giáo-hội thường có vấn-nạn trước nhất, hỏi rằng: “Thiên Chúa đang làm gì cho thế-gian?” Câu trả lời căn-bản từ nền thần-học thường vẫn bảo: Thiên-Chúa sống-động vẫn đang tiếp-tục công việc của Ngài nơi nhân-loại, ở mọi thời, để tỏ-lộ sự hiện-diện và quyền-uy của Ngài theo cách kín đáo, và gián-tiếp.

Thế nên, trách-nhiệm tiên-quyết của Giáo-hội, là nhận-thức cho rõ và ngoan-ngoãn ứng-đáp bằng niềm tin-tưởng đối với công-việc của Chúa, ở chốn gian trần. Nhận-thức cho rõ những gì Chúa đang làm và Ngài đã làm được tới đâu, cũng như những gì Chúa gọi mời Giáo-hội biết vâng lời, dù đôi lúc thấy việc ấy cũng không mấy dễ.

Bằng vào trao-đổi với tác-giả Duffy hôm trước từng có nhận xét, là: hiện có một số khá đông tín-hữu Công-giáo vẫn sống cuộc sống kết-hợp hôn-nhân “không theo qui-cách của Đạo”. Dù ta có chấp-nhận vụ việc được kể trong buổi trao-đổi ấy như kết-luận của tác-giả về yếu-tố mục-vụ mang ý-nghĩa như việc châm ngòi cho bom nổ chậm nào đó, thế thôi.

Tuy là thế, điều đó cũng không nhất-thiết cho thấy con số các vụ sống với nhau không theo qui-cách nhà Đạo, như thế, lại là dấu chỉ về đường-lối mà các giá-trị xã-hội lâu nay đặt-định cho sự sống và khả-năng nhận-thức của tín-hữu, hoặc dấu-hiệu hôn-nhân Công-giáo hoặc thể-chế hôn-nhân Công-giáo trên đà đi xuống.

Thật ra, ta cũng có thể đọc các dấu hiệu ấy như dấu chỉ về lời mời gọi hãy liên tục sống kết-hợp hôn-nhân như giao-ước, hoặc đặc-biệt hơn, là dấu chỉ về sự thể xảy đến với người từ-chối tính-cách pháp-lý đối với bí-tích hôn-phối mỗi khi cần có quyết-tâm.

Có lẽ, vấn-đề trên đã bộc-lộ động-lực tạo “kết-hợp sai qui-cách” có thể là việc coi thường Giáo-hội cùng các bí-tích mà Giáo-hội đề ra. Hoặc, để xác-tín rằng việc sống chung-thủy không là vấn-đề và tính thánh-thiêng của hôn-nhân nay đã là chuyện của quá-khứ.

Từ đó, ta kết-luận được rằng: những gì được bộc-lộ, là mô-hình hoặc hình-thức của tội lỗi. Trong trường-hợp này, Hội thánh cũng nên tự biện-hộ cách đúng-đắn về chuẩn-mực đề ra cho hôn-nhân như luật-định, với cái giá mà Giáo hội phải trả cho lập-trường khác biệt cũng biết sống lành thánh/hạnh đạo. Bởi thế nên, việc thích-nghi và chỉnh-sửa chuyện này, tức có đúng qui-cách hay không, cũng đưa đến động-thái không còn biết tin vào Giáo-hội nữa.

Có lẽ, các chuyện do người sống đời hôn-nhân sai qui-cách mà Giáo hội tạo thành luật vẫn có thể là sự thủy-chung đối với Chúa và là đáp-ứng lại ân-huệ lành, ngay trong hoàn-cảnh khó khăn này khác.

Thế nên, cũng có thể Chúa mặc-khải cho Giáo Hội biết nhu-cầu phải nhận ra và ứng-đáp công việc của Chúa trong cuộc sống bằng vào động-thái cho phép các người phối-ngẫu sống như thế được phép hiệp-thông san-sẻ các bí-tích của Giáo-hội.

Ngay Giáo-hội có thể cũng được mời xem xét lại một số điều-khoản “thể-chế hôn-phối” dựng ra lâu nay, vì vẫn chưa làm hài-lòng được nhiều người, hầu củng-cố và đáp-ứng với công-việc của Chúa như từng diễn-lộ nơi đời sống của những người được ơn lành Chúa ban. Trong trường-hợp này, đổi-thay sẽ là cung-cách để Giáo-hội chứng-tỏ mình cũng vâng lời bằng niềm tin ngoan-cường”. (xem thêm Luke Timothy Johnson, Sex, Marriage and the Church, The Corpus Blog, 2011-2012)

Thế mới biết, hễ nói chuyện sống đời hôn-nhân theo qui-cách rất qui-củ ở nhà Đạo, đều không là chuyện dễ nói, dễ làm. Chả thế mà, Đức Giáo Tông nhà mình đã cùng với Hội thánh chuẩn bị rất nhiều tháng, để sẽ có một hoặc hai buổi họp gọi là “Thượng Hội Đồng Giám Mục ở  Rôma” vào những tháng sắp tới, trong năm 2014 và 2015 này.

Thế mới biết, cứ ới gọi nhau qua câu hát “Mình ơi là mình” cũng không dễ, như các câu:

“Đôi chim gẫy cánh giữa đường,

Từ nay là chăn gối ngậm ngùi

Là ngùi tiếc thương.

Hò là hò ơi ới hò,

Mình đi mô mà mình đi miết rứa không về

Rứa để em chứ rứa để em chẳng có ai nằm

Rứa em chẳng có ai nằm kề một bên.”

(Diệu Hương – bđd)

“Chim gẫy cánh giữa đường”, chăn gối ngậm ngùi”, “tiếc thương” cũng vẫn là những ý-tưởng và tư-tưởng về một thứ hạnh phúc nào đó trong sống đời chăn gối. Sống, với cả nhà Đạo định ra chuyện chăn gối với con dân mình, rất tận tình.

Tất cả vẫn cứ là những nhận-thức và lãnh-nhận ơn-huệ lành thánh Chúa tặng ban cho mọi người. Cả những người đã và đang hoặc cũng từng sống đời chăn gối theo qui-cách đạo-hạnh của nhà Đạo, lẫn người bình thường ở đời, rất khơi khơi.

Tất cả, chỉ là hành-trình kiếm tìm hạnh-phúc có bài-bản hay không, có nhờ vào sự dẫn-dắt của Hội-thánh hoặc cơ-quan, đoàn-thể nào đó ở đời, hay không.

Tất cả, sẽ qui vào và về một cung-cách kiếm tìm nào đó, giống như nhận-định sau đây:

“Nếu hạnh phúc là thứ tìm có thể thấy thì có lẽ con người chẳng phải nếm mùi khổ đau nhiều như vậy nhỉ.

Nếu hạnh phúc là thứ ẩn nấp để cùng con người tham gia trò trốn tìm thì cuộc sống này liệu có còn thời gian cho yêu thương?

Vì thế, hãy dừng cuộc tìm kiếm hạnh phúc ấy lại bởi nó không phải là đích đến mà nó là thứ luôn hiện hữu song hành bên ta, chỉ vì ta quá bận rộn với cuộc sống bộn bề mà ta quên mất nó đấy thôi.

Nếu đến đây mà bạn vẫn không thể tìm thấy hạnh phúc của mình ở nơi đâu thì tôi chỉ bạn nhé.

Hạnh phúc nằm ở đôi môi của bạn đấy.

Một đôi môi biết mỉm cười và biết nói lời yêu thương chính là cửa ngõ dẫn đến hạnh phúc an nhiên của con người.

Nếu bạn chỉ biết than vãn, chỉ biết oán trách những trớ trêu của cuộc đời, chỉ biết dùng lời nói để chê bai, mỉa mai, công kích người khác thì đừng hỏi “Vì sao tôi không thấy hạnh phúc“.

Hãy nói về những yêu thương tốt đẹp, hãy mỉm cười với cuộc sống xung quanh, hãy dành những lời ngọt ngào cho những người bạn yêu quý và bạn sẽ thấy hạnh phúc nảy nở từ đôi môi.

Hạnh phúc nằm ở sự tha thứ.

Chẳng có ai ôm trong lòng mối hận thù mà cảm thấy vui vẻ và thoải mái cả. Có thể, họ đã làm tổn thương bạn, họ đã phản bội lòng tin và hằn trong lòng bạn một vết thương sâu hoắm và nhức nhối nhưng hãy đặt tay lên ngực mình và dặn với chính mình “Cuộc đời này vốn không đủ dài để yêu thương thì tại sao lại phí hoài nó cho hận thù”.
Vì thế, bằng cách này hay cách khác, hãy quên đi những vết thương và quên đi người để lại vết thương ấy. Một khi bạn cho đi sự tha thứ thì cũng chính là cách bạn tự cho chính mình một món quà chứa đầy hạnh phúc và an nhiên.

Tôi không chắc chúng ta có thể lại tin, lại yêu người ấy như chưa có chuyện gì nhưng chỉ cần bản thân tha thứ được thì ta sẽ lại có thể mỉm cười khi giáp mặt nhau.

Như vậy, không phải sẽ tốt hơn sao.

Hạnh phúc nằm ở chữ Cho chứ không phải chữ Đòi.

Hãy cho đi những thứ bạn muốn nhận rồi cuộc đời sẽ trả lại cho bạn những điều mà bạn muốn, có thể nó không đến từ người bạn cần nhưng chắc chắn rằng trong dòng đời sau này, sẽ có người cho bạn lại những điều như thế.

Đừng đòi hỏi điều gì khi bản thân không làm được. Sự hụt hẫng khi điều mình muốn không được đáp lại rất dễ đẩy bạn vào hố sâu của thất vọng.

Vì thế, đừng tự giết cảm xúc của mình chỉ vì những đòi hỏi cho thỏa mãn cảm xúc của bản thân, hãy học cách cho đi thật nhiều, cuộc sống này, không để bạn chịu thiệt thòi đâu.

Hạnh phúc là khi bạn biết Đủ.

Nói theo kiểu dân gian là “cái gì quá cũng không tốt”.

Yêu thương quá sinh ra gò bó, quan tâm quá sẽ khiến mất tự do, ghen tuông quá cũng mất vị tình yêu và cái gì cũng thế, chạm đến chữ Đủ sẽ chạm được hạnh phúc tròn vị.

Đừng chạy theo cái gì quá hoàn chỉnh và cũng đừng ép bản thân phải trở nên quá hoàn hảo, yêu thương vừa đủ, ấm áp vừa đủ, quan tâm vừa đủ và bên nhau vừa đủ có lẽ sẽ hạnh phúc hon.

Và hạnh phúc chẳng nằm ở đâu xa, nó nằm ngay trong trái tim của chính ta, khi bản thân chông chênh mệt mỏi, hãy đặt tay lên tim và tự nỏi “Rồi mọi thứ sẽ ổn”.

Khi nỗi buồn xâm chiếm tâm trí và cô đơn thống trị lấn át hạnh phúc, hãy tìm một khoảng không gian riêng với những bản nhạc ta yêu, những món ăn ta thích và tự nói với lòng “Hết hôm nay thôi nhé, ngày mai ta sẽ lại mỉm cười”.
Đừng gắng gượng, hãy đối diện và tìm cách giải tỏa nỗi buồn và mang hạnh phúc quay về.
Hạnh phúc của ta nên tự ta xây lấy, đừng chạy theo người khác để thỏa mãn lòng họ và mang về thứ hạnh phúc ảo sẽ chết theo thời gian.”
(trích điện-thư bươm bướm trên mạng)

Điện-thư nhận-định như trên có thể là và vẫn là cung-cách sống của ai đó, có bài-bản hay không đó mới là vấn-đề. Và vấn-đề còn lại, vẫn xin dành cho bạn/cho tôi, là những người có quyết-định và quyết-tâm về đời mình. Cho chính mình.

Trần Ngọc Mười Hai

Và những đề-nghị cỏn con

Đề ra cho tôi và cho bạn

Để cho vui mà thôi.

Thoát văn hóa Trung Quốc dễ hay khó?

Thoát văn hóa Trung Quốc dễ hay khó?

Mặc Lâm, BTV RFA
2014-08-15

image-600.jpg

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đến tham dự một cuộc họp của thanh niên Việt Nam và Trung Quốc tổ chức tại Hà Nội hôm 22/12/2011.

AFP photo

Trong những lúc gần đây nhân sĩ trí thức Việt Nam đang cố vươn tới điều mà Nhật Bản và Hàn Quốc đã từng làm cách nay nhiều thập niên đó là nỗ lực thoát ra khỏi ảnh hưởng văn hóa lâu đời của Trung Quốc. Liệu đây là nỗ lực có tỷ lệ thành công ra sao và vai trò nhà nước trong vận động này là gì?

Khi nói về văn hóa không những chỉ có yếu tố tích cực mà còn những tiêu cực, do hoàn cảnh lịch sử khiến cả một dân tộc trong nhiều thế kỷ phải theo đuổi một cách mù quáng đôi khi miễn cưỡng một triết thuyết do tập đoàn cầm quyền hay chế độ phong kiến muốn áp đặt cho dễ dàng trong việc cai trị.

Lệ thuộc văn hóa Trung Quốc đến từ đâu?

Văn hóa Trung Quốc thâm nhập vào Việt Nam đã hơn 1.000 năm, tại sao giờ này mới nảy sinh ý định thoát ra khỏi nó và hoàn cảnh Việt Nam hiện nay liệu có khác gì với Nhật Bản và Hàn Quốc hay không?

Ngoài nguyên nhân văn hóa, hệ thống chính trị của Trung Quốc đã làm cho Việt Nam không thể độc lập tự chủ, ít nhất trong các quyết sách chính trị mà lý tưởng cộng sản là kim chỉ nam cho mọi đường lối. Nguyên nhân ấy ăn sâu vào từng con người trong nội bộ đảng cộng sản Việt Nam khiến mọi nỗ lực thoát Trung gần như tuyệt vọng trong một giai đoạn kéo dài gần một thế kỷ.

Nhà văn Hoàng Hưng, một trong những người tổ chức buổi tọa đàm có tên “Thoát Trung về văn hóa” vừa diễn ra tại Hà Nội cho biết quan điểm của ông:

Nguyên nhân của mọi nguyên nhân chính người lãnh đạo đã đưa ra lý tưởng sống, lý tưởng cộng sản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa Mác Lê nin gì đó để truyền bá trong xã hội này và đến nay vẫn cứ kiên trì tuyền bá nó.
-Nhà văn Hoàng Hưng

“Nguyên nhân của mọi nguyên nhân chính người lãnh đạo đã đưa ra lý tưởng sống, lý tưởng cộng sản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa Mác Lê nin gì đó để truyền bá trong xã hội này và đến nay vẫn cứ kiên trì tuyền bá nó. Họ đưa vào điều lệ đảng, đưa vào hiến pháp các thứ.

Trong xã hội thì ai cũng biết rằng bản thân người lãnh đạo Việt Nam cũng như Trung Quốc đều đang tìm cách để thoát dần dần ra khỏi nó. Thí dụ như về kinh tế thì rõ ràng họ đã thoát ra và chấp nhận kinh tế thị trường chứ không còn chấp nhận cái đuôi Xã hội chủ nghĩa, cái cách mà nhà nước nắm quyền chi phối. Nếu mà nói đúng thì nó phải là một nền chuyên chính vô sản của công nhân, của nông dân. Thế nhưng ai cũng biết công nhân và nông dân hiện nay là tầng lớp khổ nhất trong xã hội. Đất đai không được ai bảo vệ, nghèo khổ bị đàn áp. Cái được gọi là chủ nghĩa Mác Lênin thực chất chỉ là cái vỏ đễ giữ lại nội dung chuyên chính độc tài toàn trị của một giới đặc quyền nắm quyền cai trị. Cái giả dối lớn nhất là giả dối về lý tưởng rao truyền trên xã hội. Những điều giả dối như vậy thì làm sao xã hội không giả dối theo trên tất cả mọi lãnh vực?”

Khổng giáo và ý thức nữ quyền

Nhà báo Lê Phú Khải nhìn nguyên nhân ở một góc độ khác: sự lệ thuộc Khổng Mạnh một cách mù quáng đã khiến xã hội Việt Nam rơi vào quỹ đạo mà vua quan phong kiến thiết lập ra cho dễ bề thao túng quyền con người, đặc biệt là ở người phụ nữ:

“Khổng giáo nó ngấm vào mạch máu, nó ngấm vào từng con người và người ta xem đó là chân lý. Chẳng hạn người ta nói người phụ nữ chồng chết thì phải theo con. Tại sao phải theo con mà không lấy chồng khác? Nhưng người phụ nữ Việt Nam lại xem đó là chân lý, là lẽ phải. Trinh tiết, tiết tháo, thủy chung với chồng. Những chân lý mà người ta tiếp thu giống như người khát nước mà lại uống thuốc độc để giải khát. Cái nguy hiểm của văn hóa Khổng Mạnh tức là anh khát nước mà lại uống thuốc độc để giải khát. Điều này nó ngấm vào tiềm thức của xã hội Việt Nam và rất khó cho phép con cãi lại cha. Cha có thể sai chứ? Cấp trên có thể sai chứ? Thứ văn hóa bầy đàn mà chúng ta không thể thoát ra vẫn đi theo con đường toàn trị. Cho nên cái gốc của nó là như thế.”

Giáo sư Ngô Đức Thọ, người nghiên cứu văn hóa Trung Quốc trong hàng chục năm trời cho biết kinh nghiệm của ông về nguyên nhân chính khiến Việt Nam lệ thuộc vào văn hóa Trung Quốc là do nhà cầm quyền cố ý tránh né sự thật lịch sử Việt Nam bị nô lệ hàng ngàn năm từ cái gọi là giao lưu văn hóa hai nước:

035_pau501998_05-305.jpg

Một chi nhánh của Viện Khổng tử Trung Quốc quảng bá văn hóa tại thành phố Blagoveshchensk, Nga hôm 22/5/2011.

“Ba cuộc chiến tranh dẫn đến thời kỳ Bắc thuộc thì mọi người Việt Nam học lịch sử đều thuộc cả, ta gọi là ba lần Bắc thuộc. Chính xác phải là 13 thế kỷ hơn 1.300 năm. Như vậy nó là một trang sử rất u tối của chúng ta. Nói đến 1.000 năm Bắc thuộc thì mọi người nói rất nhiều mà sử sách thì viết không biết được bao nhiêu phần trăm? Lướt qua một cách thoải mái.

Thực ra trong một nghìn năm đó lịch sử Việt Nam đau thương vô cùng mà lớp trẻ bây giờ không rõ. Trong sách Quốc văn Giáo khoa thư của chính phủ Trần Trọng Kim thời trước khi chúng tôi còn đi học thì người ta vẽ một vài tấm tranh trong thời kỳ đó rất tang thương. Những ngôi mộ thời Đường như thế nào, cảnh hoang tàn của quân Nam Chiếu ở trên Vân Nam nó tàn sát như thế nào. Thế hệ bây giờ thì không có nữa, rõ ràng là rất thiếu. Cứ nghiên cứu trên quan niệm là giao lưu văn hóa giữa Việt Nam với Trung Quốc nên mới có chuyện người Việt học chữ Hán…

Rất nhiều lĩnh vực của xã hội đen tối dưới thời Bắc thuộc, tội ác của những thái thú đối với người dân Việt Nam thế nào trong suốt hơn 1.000 năm Bắc thuộc đấy tàn sát bao nhiêu vụ? bóc lột thu thuế má vượt sản như thế nào, bắt quân dịch các đợt như thế nào …nhưng lịch sử chính thức của nước ta bây giờ hỏi số liệu đó thì hoàn toàn không có, không một trang nào viết cả, đó là một thiếu sót rất lớn.”

Nô bộc chính trị

Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai khẳng định tính chất nô bộc chính trị của lãnh tụ đã biến Việt Nam thành một nước lệ thuộc nặng nề vào Trung Quốc. Sự coi thường văn hóa nước nhà đã gây ra hậu quả ngày nay:

“Có một thời gian dài mình đã gửi cái hồn phách cho Tàu còn cụ Hồ thì nói là gửi hồn sang Mạc Tư Khoa thì đều không đúng. Vấn đề là phải gửi gấm cái hồn dân tộc vào văn hóa của mình vào lòng người, vào văn hóa. Đấy là những cái mà chúng tôi muốn nói đến. Hai nữa văn hóa nó phải bồi đắp cho một sức sống mới của một dân tộc cho nên vấn đề quốc văn quốc sử phải xem xét lại. Vấn đề quốc sử chẳng hạn: hiện nay có một điều là giới sử học, chính trị thì đã đành rồi, nhưng giới sử học ngay vấn đề lịch sử ¼ thế kỷ của Việt Nam Cộng Hòa chả ai nghiên cứu cả mặc dù nó là một thực thể lịch sử, nó có cái hay, cái dở, cái đúng cái sai nhưng trong ¼ thế kỷ ấy không có nghiên cứu, tức là một khoảng trống của một nửa nước.

Và bây giờ rõ ràng về mặt chính trị người ta muốn thừa kế nó thì phải thừa nhận tính chính thống trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo của mình nhưng các mặt khác thì mình có thừa kế không và làm sao bỏ nó đi được?”

Thói quen theo đuôi hữu nghị

Mình học nó quá nhiều, mình bắt chước nó quá nhiều! Mình bắt chước cả thói xấu như chợ luận án, thuê người viết luận văn, quan chức phải có bằng Ph.D, mua bán bằng cấp, mua bán chức danh giáo sư nữa … tất cả điều đó tôi qua Tàu và thấy hết, nhưng nó xảy ra trước mình!
-GS Nguyễn Văn Tuấn

Từ Úc châu, Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn cho biết những quan sát của ông về thói bắt chước một cách mù quáng của lãnh đạo Việt Nam đã khiến đất nước này biến thành một phiên bản của Bắc Kinh từ ngôn ngữ hành chánh cho tới sinh hoạt khoa học và thậm chí trong cả lãnh vực quốc phòng, ông nói:

“Những motif về tham nhũng, phong trào các quan lớn có bồ nhí… tất cả đều xuất phát từ bên Tàu, Việt Nam chỉ rập khuôn theo Tàu mà thôi. Nếu xem lại các tàu kiểm ngư của Việt Nam mình thì sẽ thấy nó có màu trắng có vẽ mấy cái gạch xéo xéo xanh đỏ trên sườn tàu. Nếu nhìn những cái gạch đó của tàu cảnh sát biển Việt Nam và cảnh sát biển Trung Quốc thì giống y chang nhau! Hóa ra trước đó có mấy ông cảnh sát biển của Tàu nó qua giao lưu với Việt Nam và 4 tuần sau thì xảy ra xung đột.

Trong khoa học, khi qua thăm Trung Quốc trong mấy năm gần đây mình thấy Việt Nam quan tâm tới vấn đề như phòng thí nghiệm trọng điểm hay các chương trình có những con số như 322 này nọ… khi mình qua Tàu mình thấy cũng y như vậy. Nó cũng có chương trình trọng điểm, những chương trình khoa học 917 …như vậy thì mình học nó quá nhiều, mình bắt chước nó quá nhiều! Mình bắt chước cả thói xấu như chợ luận án, thuê người viết luận văn, quan chức phải có bằng Ph.D, mua bán bằng cấp, mua bán chức danh giáo sư nữa … tất cả điều đó tôi qua Tàu và thấy hết, nhưng nó xảy ra trước mình!”

000_Hkg9837260-305.jpg

Phó Chủ tịch Việt Nam Nguyễn Thị Doan (trái) và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Thượng Hải vào ngày 21 tháng 5 năm 2014 (hình ảnh minh họa).

Nguyên nhân dẫn đến sự lệ thuộc chính trị kéo theo sự bất động của cả nước trước sự xâm lấn văn hóa của phương Bắc ngày càng trầm trọng. Nỗ lực thoát ra khỏi những hệ lụy ấy đang là đầu đề của các buổi thảo luận căng thẳng đầy khó khăn.

Câu hỏi đặt ra trước mắt:

Thoát Trung, phải thoát điều gì?

Nhà văn Hoàng Hưng cho biết những suy nghĩ của ông trước câu hỏi hóc búa này:

“Khi ta bàn thoát Trung về Văn hóa là phải thoát cái gì. Tôi nghĩ rằng có một nét văn hóa tồi tệ vì giới cầm quyền Maoist của Trung Quốc đã xây dựng trên xã hội của họ và truyền sang xã hội Việt Nam do quan hệ được gọi là môi răng. Một nền văn hóa mà tôi đặt là “văn hóa giả dối”. Bây giờ nó đã thành một cái nạn rất là tệ hại, nghiêm trọng đối với toàn bộ đời sống tinh thần của tất cả các tầng lớp trong xã hội từ quan cho đến dân. Về lâu dài tôi cho nó là một tội ác. Nó phá hoại nền tảng tinh thần của Việt Nam rất là nguy hiểm. Tôi cho đó là một trong những tội ác lớn nhất của chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa Mao và nó gây hại cho dân tộc Việt Nam.”

Văn hóa quỳ lạy

Nền “văn hóa giả dối” ấy theo nhà báo Lê Phú Khải cần phải nâng lên một tầng nấc khác, đó là “văn hóa quỳ lạy” do Khổng Mạnh cấy vào xã hội Trung Hoa từ hàng ngàn năm về trước. Sự quỳ lạy mà cộng đồng ngấm ngầm chấp nhận và thực hiện như một ước mơ đã tạo ra hàng trăm thế hệ hư đốn mà không nhận ra sự nô dịch của mình. Văn hóa quỳ lạy ấy đã tràn sang Việt Nam và nở rộ như nấm dưới mưa trong thời đại cộng sản:

“Văn hóa nào thì nó chọn cái chính trị đó. Văn hóa Khổng Mạnh là văn hóa quỳ lạy tức là anh chí thú đi học để làm quan, để quỳ lạy trước nhà vua, để được hậu thưởng bổng lộc và chỉ có vua là đúng còn tất cả bàng dân đều là số không. Chỉ có anh ta đúng thôi. Ý vua là ý trời! Trong khi đúng vào cái thời kỳ đó thì ở phương Tây Aristos nói rằng có tranh luận, có đi tìm chân lý thì mới có chân lý.

Thoát Trung là thoát khỏi văn hóa Khổng Mạnh của Trung Quốc, ảnh hưởng giới trí thức Việt Nam. Căn bản nhất là phải thoát khỏi cái văn hóa chỉ có trên đúng còn dưới thì sai. Chỉ có vâng lời không có đối thoại. Tôi cho cái đó là quan trọng nhất.”

Chủ nghĩa cộng sản

Giáo Sư Ngô Đức Thọ trong khi công tác tại Viện Hán Nôm ngoài kinh nghiệm về lịch sử giữa hai nước, ông phân tích sự lệ thuộc một cách mù quáng của lãnh đạo cao nhất Việt Nam đã bất cứ giá nào để đạt được mục đích ngay cả phải hy sinh con người trong những phong trào đấu tố diệt chủng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắm mắt theo lời Stalin để cải cách ruộng đất và từ đó đất nước thấm đẫm oan khiên. Lịch sử này nếu không thoát ra hôm nay liệu Việt Nam còn có cơ hội nào khác nữa?

“Về mặt tư tưởng ta phải thoát Trung. Thoát Trung là gì? Đó là thoát tư tưởng đấu tranh giai cấp, tư tưởng Mao Trạch Đông, những tư tưởng này rất ảnh hưởng đến Việt Nam. Chúng ta đã biết những tư tưởng này là cách mạng chuyên chính của Mao được các cán bộ tầm cỡ của ta mang về từ Diên An. Kể cả Đề cương Văn hóa của đồng chí Trường Chinh viết năm 1943 cũng đậm màu sắc Trung Quốc trong đó văn học đại chúng không khác gì các đề cương văn hóa của Trung Quốc ở Diên An cả. Cuộc nói chuyện của Mao Trạch Đông tại Diên An  gần như được mô phỏng trong đề cương Văn hóa Việt Nam, tôi ví dụ như vậy.

Cái tư tưởng này là gì thì mọi người đều biết rồi. Tư tưởng của anh Tàu rất tai hại. Theo tôi nghiên cứu tài liệu thì trước đây chỉ có mỗi Tàu nhưng sau này đọc lại thì thấy cũng ảnh hưởng quốc tế cộng sản từ Nga. Vấn đề “Cải cách ruộng đất” không hẳn của Tàu, chính Stalin chỉ thị cho Chủ tịch Hồ Chí Minh về Việt Nam cải cách ruộng đất còn nếu không làm cải cách thì không công nhận đảng Cộng sản Việt Nam, cho nên đảng cộng sản ra đời phải thực hiện cuộc cải cách ruộng đất này. Những người lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam tưởng rằng thời gian rồi nó sẽ qua, lấy thời gian làm vũ khí nhưng vũ khí thời gian không nghĩa gì cả bởi vì tai nạn này, kiếp nạn này là rất lớn.”

Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn nhấn mạnh sự lệ thuộc về văn hóa từ mỗi cá nhân do tác động từ các việc làm của hệ thống chính trị. Cá nhân phải tự thân ý thức sự lệ thuộc văn hóa Trung Quốc của mình có hại cho quốc gia dân tộc như thế nào mới may ra cải đổi khuôn mặt văn hóa Tàu trong lòng từng người như hiện nay:

“Muốn hay không muốn thì văn hóa của Việt Nam chịu ảnh hưởng của Tàu rất lâu. Một ngàn năm bị đô hộ, sống chung với họ thì rất là khó để mình gột rửa nét văn hóa của họ đặc biệt dưới sự cai trị khắc nghiệt như thế này thì nó lại càng khó hơn. Cả Việt Nam mình hiện nay nó như một phiên bản của Trung Quốc, rập khuôn Tàu trên tất cả mọi lãnh vực từ chính trị cho đến tổ chức xã hội, kinh tế, khoa học và khá là ngạc nhiên vì tôi mới phát hiện nhiều cái rập khuôn về khoa học nữa. Thậm chí có những cái tên nhiều khi mình không để ý. Những cái tên mình đang dùng hiện nay cũng là bắt chước, xuất phát từ Tàu.

Nếu muốn thoát Trung Quốc thì không phải chỉ thoát về hệ thống chính trị hay các thiết chế và tổ chức xã hội mà còn phải thoát từ trong tư tưởng của mỗi người, thậm chí thoát những cái bắt chước từ Trung Quốc. Tôi nghĩ nó không phải bắt đầu từ chính quyền mà bắt đầu từ mỗi cá nhân. Mỗi cá nhân cần phải gột rửa những ý tưởng, những cách hành xử mà lâu nay mình tưởng là của truyền thống văn hóa Việt Nam nhưng là của Tàu.”

Nhà văn Thùy Linh, người luôn có mặt trong các cuộc biều tình chống Trung Quốc cho biết quan sát của bà về vấn đề này mà theo nhà văn chính Khổng giáo là nguyên nhân sâu xa nhất nhưng được nhà cầm quyền hiện nay muốn nó tồn tại để dễ dàng thao túng:

000_Hkg9637658-250.jpg

Ảnh chụp tại Hà Nội hôm 24/03/2014. AFP PHOTO.

“Đời sống văn hóa Việt Nam sau năm 1945 đến giờ gần như đã bị chính trị hóa cho nên không còn đời sống văn hóa thật sự nguyên bản. Ngay cả tín ngưỡng dân gian cũng đã bị chính trị hóa. Đầu tiên người ta dẹp bỏ và cho đấy là mê tín dị đoan nhưng sau khi mở cửa thì tất cả những tín ngưỡng dân gian đều bị biến màu. Không có cái gì trong đời sống văn hóa mà không bị ảnh hưởng trong đời sống chính trị. Chính trị Việt Nam và Trung Quốc thời gian gần đây, cận hiện đại, hai nước có sự giao thoa ảnh hưởng rất sâu sắc, nhưng lui về trước nữa thì đạo Khổng ảnh hưởng rất lớn đến đời sống xã hội Việt Nam.

Chính Khổng giáo làm méo mó nhân cách, méo mó tất cả đời sống tự nhiên của con người và Việt Nam bị ảnh hưởng trong cái vòng ảnh hưởng đó. Sau khi chủ nghĩa cộng sản nắm quyền thì đạo Khổng rất có lợi cho sự tồn tại của họ. Mới đầu thì họ chống ở một chừng mực nào đó nhưng thật ra họ bị ảnh hưởng của Khổng giáo mà chính họ không biết bởi vì nó ăn vào trong máu. Hiện tại Khổng giáo đang làm cho chính quyền hưởng lợi chính vì vậy việc thoát Trung tại Việt Nam hết sức cam go.”

Câu hỏi đặt ra, nếu sự lệ thuộc văn hóa Trung Quốc sẽ làm đất nước trì trệ, lạc hậu và không có cơ hội phát triển như các nước lân cận liệu chính quyển có đủ can đảm từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa nay đã mịt mùng cộng với sự mê đắm vào Khổng giáo làm mê muội trí thức hầu củng cố quyền lực của mình hay không?

Nhật hay Hàn, bài học nào cho Việt Nam?

Nếu cho rằng thoát Trung là một ý tưởng hoàn toàn không thể thực hiện được người lạc quan có ngay một motif để chứng minh ngược lại, đó là sự thành công của hai nước lân cận với Trung Hoa là Nhật Bản và Hàn Quốc. Họ không những đã thoát được vòng kểm tỏa của văn hóa Khổng Mạnh mà còn vượt ra khỏi hủ lậu của cả Châu Á nữa là đằng khác.

Nhật Bản có lẽ là nước sâu sát với Trung Quốc hơn ai hết nhưng sau thế chiến thứ II nước này ý thức được muốn đứng lên bằng đôi chân của mình phải chịu đau đớn rời bỏ hai thanh nạng mà Trung Quốc ép vào tay trong suốt hàng ngàn năm qua chủ thuyết Khổng Mạnh mà nói theo nhà báo Lê Phú Khải là văn hóa quỳ lạy.

Tinh thần Samurai không cho phép người Nhật quỳ lạy dù bất cứ trước thần tượng nào để đổi lấy miếng đỉnh chung như triết lý Khổng Mạnh của người Trung Quốc. Thiêng Hoàng của Nhật được thần dân kính trọng và tôn sùng như thần thánh vì là hiện thân của con cháu Thái Dương Thần Nữ trong phạm trù tín ngưỡng và sự tôn sùng ấy vẫn được gìn giữ cho tới ngày nay.

Ngược lại, Nhật Hoàng luôn tỏ ra là một minh quân hết lòng chăm lo cho dân chúng đã khiến niềm tin của người dân thêm được củng cố. Khổng Mạnh không chiếm giữ được văn hóa Nhật Bản mặc dù chủ nghĩa này được du nhập rất sớm vào xứ sở Phù tang.

Việc du nhập văn hóa văn minh phương Tây và chủ trương các trường quốc học Kokugaku là nỗ lực thành công thoát ra khỏi quỹ đạo văn hóa Trung Quốc vào cuối thế kỷ 17 đã mang Nhật đến gần hơn niềm mơ ước tự lực tự cường.

Nam Bắc Triều và Hà Nội- Sài Gòn

Hàn Quốc gần với tình trạng Việt Nam hơn nhưng họ vượt qua được cũng từ ý chí muốn đất nước thoát ra nghèo đói và nhục nhã.

Thoát Trung nảy sinh trong lòng người dân Hàn Quốc phát sinh từ sự phân ranh Nam Bắc mà phía bên kia là Trung Quốc, một thế lực lớn lao công khai ủng hộ, giúp đỡ cho Bình Nhưỡng chống lại Seoul. Hoàn cảnh lịch sử này ngược lại với Việt Nam khiến người dân và chính phủ Hàn Quốc ý thức rõ rằng, thoát nền văn hóa Trung Quốc là tiền đề cho việc bảo vệ chủ quyền đất nước.

Lý do thứ hai làm cho thoát Trung thành một sự hiển nhiên là sự vận động dân chủ của Hàn Quốc đã tới mức cao nhất có thể. Một đất nước có dân chủ thật sự sẽ không thể chịu nổi bản chất độc tài đảng trị mà thể chế cộng sản theo đuổi. Không ai bỏ căn nhà tiện nghi của mình để chấp nhận vào hang động trú thân nhằm tìm cho ra chủ nghĩa xã hội là gì như Việt Nam đang lần mò trên con đường vạn dặm.

Nhà văn Thùy Linh tự hỏi không biết Việt Nam rồi đây sẽ làm gì và bằng cách nào có thể theo chân hai nước đồng văn đồng chủng với Trung Quốc này:

“Nhật hay Hàn quốc họ cũng bị ảnh hưởng của Khổng giáo nhưng tại sao họ thoát được? Họ phải xây dựng một nền văn hóa thoát được Khổng giáo, họ xây dựng được một bản sắc rất độc đáo vậy thì tại sao chúng ta không làm được điều đó? Gần đây chúng ta mới đặt ra việc thoát Trung, chặng đường ấy tôi nghĩ rất dài nhưng chúng ta phải làm. Việt Nam bị ảnh hưởng Trung Quốc gần như một số phận khiến chúng ta phải ở cạnh một đất nước như thế nhưng không có nghĩa là chúng ta không thể thoát nỗi sự ảnh hưởng của gã khổng lồ đó. Muốn phát triển phải có con đường đi riêng giống như Hàn Quốc hay Nhật.”

Hãy giải phóng chính mình

Nhà báo Lê Phú Khải cổ vũ cho một tư duy độc lập trước khi có được một thái độ độc lập đối với sự cai trị nếu muốn thoát Trung như Nhật và Hàn Quốc đã làm:

“Như Nhật Bản, Hàn Quốc chẳng hạn họ còn muốn thoát Á nữa. Nó đã dân chủ, văn minh rồi tại sao vẫn muốn thoát Á? Bởi vì nó muốn thoát hẳn cái văn hóa Khổng Tử, cái văn hóa không có tranh luận, văn hóa bầy đàn mà họ muốn phải giải phóng cá nhân. Giải phóng cá nhân rất quan trọng. Mỗi một con người đều là một tiềm năng nếu giải phóng được thì giống như phản ứng hạt nhân còn không có nó thì không có sức mạnh của cả dân tộc. Con số 1 đứng trước 6 con số 0 thì thành hàng triệu nhưng nếu mất con số 1 rồi thì 6 số không kia cũng vô nghĩa. Nhưng nếu con số 0 ấy là số 1 thì nó không cần ai chăn dắt cả.”

Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai khẳng định một chính sách đứng đắn của nhà nước tạm gọi là “quốc chính” phải được đặt ra nếu muốn thoát Trung. Tấm gương của Hàn Quốc rất rõ trong trường hợp này, ông cho biết:

“Quốc chính” là một nền chính trị để nó cầm nhịp cho bước phát triển mới tiến bộ nhân văn…thế nhưng hiện nay nền quốc chính của ta có nhiều điều rất lạc hậu. Một đội ngũ công chức đáng lẽ là lực lượng cầm nhịp cho sự phát triển xã hội thì tham nhũng là chính, hành dân là chính, làm sao mà đưa dân tộc phát triển được, đấy là các vấn đề phải đặt ra. Khi nói văn hóa mà quên đi vấn đề làm sao đưa giá trị văn hóa để cho nền chính trị của đất nước nó tử tế hơn lên, làm thăng hoa giá trị con người. Nhân văn, nhân ái, tình thương, dân chủ, tôn trọng con người….những vấn đề ấy văn hóa phải đóng góp và sửa đổi sớm những lệch lạc của cái được gọi là nền quốc chính, tức là nền chính trị của đất nước.”

Những ý kiến tư duy cũng như trăn trở cho một tương lai đất nước vẫn đang được nhiều người, nhiều giới hưởng ứng, đồng tình. Tuy nhiên nếu mọi cố gắng thoát văn hóa Trung Quốc này không được nhà nước quan tâm kể như 3 phần 4 câu chuyện sẽ không có hồi kết thúc.

Thiệt Là May Phước Cho Ông Nguyên Ngọc

Thiệt Là May Phước Cho Ông Nguyên Ngọc

RFA

Cụ Hồ nói: “Các chú các cô không sợ người ta kêu mình kém trí thức, ít lý luận. Họ kêu thì bảo họ rằng tôi lú nhưng chú tôi khôn. Chú tôi là Stalin, Mao Trạch Đông…”

Đèn Cù

Hôm 28 tháng 7 vừa qua, trên trang Mõ Làng có bài viết “Tọa đàm ‘Tư tưởng Phan Chu Trinh và Việt Nam 2014’: Nhà văn Nguyên Ngọc bị nghi ngờ là thành viên “Việt Tân“. Chỉ mới bị “nghi ngờ”  thôi nhưng “nạn nhân” đã bị đám dân phòng (trên mạng) đã thi nhau ném đá tơi bời, hoa lá:

Hoa Sen09:11 Ngày 28 tháng 07 năm 2014

Ông Nguyên Ngọc gần đây có những biểu hiện suy thoái về trí tuệ nên không loại trừ khả năng làm cho Việt Tân.

Đừng Anh09:15 Ngày 28 tháng 07 năm 2014

Nhiều người không chịu được đã nói thẳng vào mặt Nguyên Ngọc những lời nặng nề vì những việc làm không hay của nhà văn già này thời gian gần đây.

ngố nguyễn00:02 Ngày 31 tháng 07 năm 2014

Nếu như tôi gặp con người này thì tôi cũng sẽ sẵn sàng nói thằng vào nhà văn Nguyên Ngọc những lời lẽ từ tận đáy lòng, tuổi thơ tôi đã từng biết đến nhà văn như một người tài, nhưng giờ nhà văn lại quay lưng lại với đất nước, quay lưng lại với dân tộc thì đáng xấu hổ quá

Bé Ngủ09:19 Ngày 28 tháng 07 năm 2014

Tội nghiệp Nguyên Ngọc, chắc già quá thành ra lẩm cẩm, thích thể hiện khác đời.

Lan Phương09:24 Ngày 28 tháng 07 năm 2014

Ông Nguyên Ngọc thích được tung hô vớ vẩn chứ tinh khôn không ai làm thế.

Thành Trần09:30 Ngày 28 tháng 07 năm 2014

Già rồi thích tỏ ả nguy hiểm để có người nể sợ. Suy nghĩ rất chi là trẻ con, vớ vỉn.

Chicago Phan09:41 Ngày 28 tháng 07 năm 2014

Gọi là tọa đàm cho có vẻ sang chứ thực ra túm 5 tụm 3 nói chuyện bất mãn. Có ngày chết oan đó em

Chi Mai09:51 Ngày 28 tháng 07 năm 2014

Việt Tân Việt teo gì không biết, nhưng già rồi mà còn ham hố công thần thì không ra gì cả.

Chả phải Việt Tân, ông này muốn lổi nên thích tham gia vào những trò nhí nhố gây sự chú ý.

Bí Đao09:56 Ngày 28 tháng 07 năm 2014

Nguyên Ngọc đã bị mua chuộc rồi sao? Chả có nhẽ!

na na00:17 Ngày 31 tháng 07 năm 2014

Tình hình như thế này thì chúng ta có thể khẳng định con người Nguyên Ngọc không ai là không phủ nhận tài năng của ông, nhưng nhân cách của ông thì chúng ta phải suy nghĩ lại. Một người đang khởi đầu tốt bỗng dưng vì nhân cách thèm tiền mà giờ đây như thế này

Chậm tiến quá! Lão Nguyên Ngọc thành đồng nát từ lâu rồi

linh thuy00:11 Ngày 31 tháng 07 năm 2014

Như vậy là đã rõ, dù ông tay làm cho tổ chức nào đi nữa, Việt Tân hay không thì giờ ông ta cũng không còn là người mà nhân dân dất nước Việt Nam yêu mến và kính nể nữa rồi. Một kẻ chạy theo giặc, giờ muốn quay lại phá hoại nhà nước ư? Đừng có mơ điều đó thực hiện được đi

lung linh anh sang00:24 Ngày 31 tháng 07 năm 2014

Đây mới chính là con người thật của Nguyễn Nguyên Ngọc sao? Từ giờ trở đi con người này sẽ là kẻ thù của nhân dân sao? Đáng thất vọng thật đấy, từ một con người nổi tiếng trong nền văn học của đất nước, nhưng mà bản chất tham lam giờ đây già rồi mà vẫn tỏ ra vì tiền.

Bị “nghi ngờ là thành viên Việt Tân” là điều tuy không vinh dự hoặc hay ho gì cho lắm nhưng cũng (vẫn) hơn bị tình nghi là … Việt Quốc:

Dân làng bỗng ngã ngửa ra rằng: bác Chắt Kế bị nghi là phản động!

Cái cớ người ta vin vào để bác bị người ta cảnh giác thật là đơn giản.

Những ngày mệt mỏi, nghỉ việc, bác mở lò rèn làm nghiệp dư để khuây khoả tâm trí. Bác rèn đủ thứ: dao, mác, liềm, lưỡi hái và sửa chữa súng bắn chim. Bác không rèn để đem ra chợ bán, bà con trong làng trong xã đến nhờ thì bác làm với một giá rất rẻ. Có mấy người thích đi bắn chim thường quây quần ở nhà bác, nhỡ không may súng hỏng là bác chữa ngay, bác còn sản xuất cả đạn ria. Khi bắn được con cò con vạc, họ thường sum họp ăn uống và trò chuyện vui vẻ. Bác bị tình nghi bằng nhiều câu hỏi ba lăng nhăng tại một cuộc họp nông hội:

– Rèn dao, mác để làm gì?

– Sản xuất súng đạn để làm gì?

– Cung cấp cho ai?

– Tiền thu được bỏ vào quỹ Quốc dân đảng!

– Tại sao từ xưa đến nay không mở lò rèn, nay lại mở? Ông ta học nghề rèn để làm gì?

– Đích thị là lò sản xuất vũ khí cho bọn phản động…

Chẳng cần đọc lệnh của một cơ quan pháp luật nào, mấy dân quân làng vào tóm cổ bác, điệu bác đến “nhà giam” – gọi là nhà giam, chứ thật ra đó là ngôi nhà rách nát của một cán bộ xóm. Họ không dùng cực hình tra tấn bác như những “tội phạm” khác, nhưng bác cũng bị hành hạ đến cơ khổ. Đêm ngủ không được nằm giường, mà trải manh chiếu nằm co quắp trên nền đất, không có màn.

Thỉnh thoảng bác bị anh dân quân đánh cho một tát rơi vỡ kính cận. Khi mỏi lưng, bác ngồi dựa vào cột, liền bị dân quân quát: “Ngồi thẳng lên! ”. Lúc đau bụng, bác xin viên thuốc cũng bị dân quân mắng: “Đau thì phải chịu. Thoát chết là may”. Một lần người nhà mang cơm đến, đặt lên chiếc chõng tre, bác định cầm đũa ăn, bị cô dân quân cản lại: “Không được để lên chõng! Đặt cơm xuống đất mà ăn!” (Võ Văn Trực. Chuyện Làng Ngày Ấy. California: Tạp Chí Văn Học, 2006).

Cùng ngày, ngày 28 tháng 7 năm 2014, bài “Tọa đàm ‘Tư tưởng Phan Chu Trinh và Việt Nam 2014’: Nhà văn Nguyên Ngọc bị nghi ngờ là thành viên “Việt Tân”   cũng đã được đăng lại trên trang Dân Luận – với lời dẫn nhập (nghe) chua cay thấy rõ:

“Những lập luận trong bài viết này cho thấy sự bế tắc về tư duy của những dư luận viên, những người đang tìm cách bảo vệ Đảng CSVN đang rễu rã cả về nhân sự và tư tưởng hiện nay. Một hội thảo bàn về tư tưởng khai dân trí và đấu tranh bất bạo động của Phan Chu Trinh cũng bị coi là ‘kích động cho một cuộc bạo động và đòi thay thế chế độ hiện tại’ thì không còn gì để nói. Một nhà văn dù tuổi đã cao nhưng vẫn đau đáu về vận mệnh của dân tộc, của đất nước bị nghi ngờ là thành viên ‘Việt Tân’ thì đảng Việt Tân quả là có uy tín và thu hút được nhân tài! Viết như vậy khác nào quảng bá cho Việt Tân không?”

Qua hôm sau, hôm 29 tháng 7 năm 2014,  trang Mõ Làng có ngay bài hồi đáp (“TẤT CẢ ĐANG LÀ ‘NGHI NGỜ’ THƯA”DÂN LUẬN“) với cái kết luận “khách quan” hết sức:

“Thử hỏi rằng, với một cuộc Tọa đàm mà trong thông báo lại cho rằng: ‘Điểm cơ bản của Phong trào Duy Tân do ông khởi xướng là bất bạo động và công khai hoạt động, nhắm tới cải tổ xã hội, giáo dục tinh thần tự do, xây dựng những cá nhân độc lập và có trách nhiệm, phổ biến các giá trị văn minh phương Tây như pháp quyền và dân quyền’ (Trích ‘Thông báo Tọa đàm ‘Tư tưởng Phan Châu Trinh và Việt Nam 2014’) thì có nên hiểu đó là ‘kích động cho một cuộc bạo động và đòi thay thế chế độ hiện tại’ và nếu có một ý tưởng nào hơn thì xin được chỉ giáo.

Cuối cùng như đã khẳng định ở trên, tất cả chỉ đang là ‘nghi ngờ’ và người viết cũng rất khách quan khi đưa ra những cứ liệu để nghi ngờ. Đừng mặc định đó là những điều đã là của hiện thực để đưa ra những lời thắc mắc đến vô vị như vậy.

Xin cảm ơn!!!!”

Mõ Làng thiệt là “rất khách quan” và cung cách (“xin chỉ giáo”) cũng rất đáng trân trọng. Quả là khác hẳn với không khí cuồng nhiệt và thái độ cuồng điên trong Chuyện Làng Ngày Ấy:

Vì tinh thần cảnh giác quá cao nên ông Khang mới trở thành thủ qũi của bọn phản động nước ngoài giữ những năm tỉ dô la, chú xã thọ nghèo rớt mùng tơi đến làm thuê cho ông Khang cũng trở thành đảng viên trung kiên của Quốc Dân Đảng…

Hãy nghe một người đàn bà kể tội chú xã Thọ:

– Một hôm tao thấy mi từ nhà bà Đoan ra, tay cầm một gói cà. Mi có nhớ là mi gói cà bằng cái gì không? Bằng ảnh                 của Mao chủ tịch. Mi có tư tưởng nhạo báng lãnh tụ cộng sản quốc tế. (Sđd trang 126-127).

So với Chuyện Làng Ngày Ấy thì chuyện bị “nghi ngờ là thành viên Việt Tân” hôm nay của đám mõ làng, rõ ràng, chỉ là chuyện nhỏ. Buổi toạ đàm được tổ chức vào hôm 19 tháng 6 năm 2014 mà tới bữa nay nhà văn Nguyên Ngọc vẫn còn được sống yên lành (và vẫn còn nguyên vẹn) chứ chưa bị “treo lên xà nhà” như những nạn nhân bị nghi ngờ là Việt Quốc hồi đầu thập niên 1950:

Ba anh dân quân mang đại đao xồng xộc tới, buộc dây thừng vào hai cổ chân ông Khang rồi trèo lên xà nhà kéo ngược dây.Ông Khang vội vàng van xin:

– Tôi xin khai, tôi xin khai hết

Họ lại buông dây xuống để ông Khang đứng nói:

– Tôi có tội với dân với nước. Từ nay tôi không làm phản động nữa!

Dân quân A:

-Mi làm phản động với ai?

Dân quân B:

-Mi đã chỉ điểm cho giặc mấy lần?

Dân quân C:

-Mi đã nhận mấy tỉ đô la của Quốc Dân đảng?

Bị hỏi dồn dập, ông Khang không biết trả lời thế nào. Chủ tọa liền ra lệnh:

-Thằng này ngoan cố, treo ngược lên xà nhà!

Sau khi vài chục ngàn mạng đã bị treo ngược lên xà nhà thì thánh đế bỗng hồi tâm. Năm 1956, Người đã nhỏ lệ trước quốc dân cùng với lời xin lỗi vì chủ trương “thà giết lầm còn hơn bỏ sót” của Đảng và Nhà Nước.

Ba mươi năm sau, năm 1986, Đảng và Nhà Nước lại dũng cảm đổi mới và sửa sai thêm lần nữa. Tuy tiến rất chậm nhưng ta tiến chắc. Nhờ vậy, đám dân phòng trên mạng – xem ra – ôn hoà và đỡ sắt máu hơn bọn dân quân ngày trước thấy rõ.

Cụ Hồ khóc sau đấu tố NVGP và CCRĐ 1957.

Ảnh và chú thich: Diễn Đàn Thế Kỷ

Thiệt là may phước cho nhà văn Nguyên Ngọc!

Đả hổ diệt ruồi” hay “phục hổ- hàng long”?

Đả hổ diệt ruồi” hay “phục hổ- hàng long”?

Việt-Long, RFA
2014-08-14

vtgtt081314.mp3

xi-jinping

TBT, Chủ tịch nước TQ Tập Cận-Bình

Courtesy of chinadailymail.com

Mục đích chính trị hay tư pháp?

Hôm thứ ba 12 tháng 8, 2014, lại có tin một tướng lãnh cựu phó chủ tịch quân ủy trung ương Trung Quốc,  Thượng tướng Quách Bá Hùng, bị câu lưu để điều tra như môt nghi can tham nhũng. Họ Quách cũng bị bắt về cùng một tội danh giống như cấp trên của ông là Thượng Tướng Từ Tài Hậu: “nhận hối lộ để cho hàng loạt sĩ quan quân đội thăng cấp”.

Tin hôm qua mới là tin chính thức, vì báo Hoa ngữ hải ngoại Bác Tấn đã loan tin từ một tháng trước, nói là họ Quách có thể đã bị bắt. Tướng Bá-Hùng là người thân cận với thượng tướng Từ Tài Hậu, và cũng có quan hệ thân thiết với nhân vật được gọi là trùm tham nhũng của Trung Quốc, cựu Ủy viên thường trực Bộ chính trị Chu Vĩnh Khang. Những người này còn là những người rất thân thiết về chính trị với cựu Bí thư Trùng Khánh đã bị thanh trừng là Bạc Hy Lai, và tất cả đều phục tùng một người cao hơn nữa.

guo-boxiong-trong

Thương tướng Quách Bá Hùng với TBT Nguyễn Phú Trọng tại Hà Nội, 13 tháng tư, 2011

Cả ba nhân vật trong nhóm đảng viên cao cấp nhất của đảng Cộng sản Trung Quốc, trong đó có một ủy viên thường vụ bộ chính trị, điều khiển công an và tình báo Chu Vĩnh Khang,  hai cựu phó chủ tịch quân ủy trung ương Từ Tài Hậu, Quách Bá Hùng, ngoài những điểm chung về tham nhũng và thân thiết với ông Bạc Hy Lai đã đành, họ còn là những người thân tín của ông Giang Trạch Dân, do ông Giang đưa vào Quân Ủy trung ương dưới thời chủ tịch Hồ Cẩm Đào là người lãnh đạo Đảng vào lúc đó. Ông Giang Trạch Dân làm như vậy để giữ ảnh hưởng quyền lực quân sự và chính trị.

Vì thế vụ thanh trừng cấp cao của đảng Cộng sản Trung Quốc không khỏi liên quan đến vấn đề chính trị trong Đảng. Rõ ràng ông Tập Cận-Bình vẫn tiếp tục thanh toán phe cánh của Bạc Hy Lai, cựu bí thư Trùng Khánh đã bị hạ bệ cùng với vợ là Cốc Khai Lai. Nhưng đối tượng sau cùng có thể là chính người bảo kê cho những con hổ này.

Một chiến dịch tư pháp chống tham nhũng phải do hệ thống tòa án và an ninh quyết định mục tiêu và hành động.  Ở đây việc quyết định bắt ai và chừa lại những ai chỉ do hai người, là Chủ tịch Tập Cận-Bình và người thân tín nhất của ông, Trưởng ban kỷ luật trung ương Đảng Vương Kỳ Sơn.

Ngoài những nhân vật cao cấp có ảnh hưởng chính trị và quyền bính, hay nói rõ hơn là trong cuộc đấu tranh quyền lực trong giới lãnh đạo tối cao ở Bắc Kinh, chiến dịch còn nhắm đến tất cả viên chức ở mọi cấp, chính trị cũng như chuyên viên, dính líu vào tham nhũng từ trước đến nay. Vài khuôn mặt điển hình mới nhất trong giới này là Đào Ly-Minh, cựu giám đốc Ngân hàng tiết kiệm quốc doanh Bưu điện Trung Hoa, bị bắt hôm 13 tháng 8, hay Vương Tôn Nam, cựu tổng giám đốc công ty thực phẩm quốc doanh lớn nhất của Trung Quốc ở Thượng Hải, bắt hôm 12 tháng 8. Ngoài ra trong hai tháng nay còn có hằng chục viên chức, đảng viên cỡ đó bị câu lưu và điều tra, chưa kể trên 30 viên chức cấp thứ trưởng trở lên đã là mục tiêu thanh trừng.

Điều này chứng tỏ hành động vá trời lấp biển của ông Tập Cận-Bình nhắm cả hai mục tiêu chính trị lẫn tư pháp, chống tham nhũng,

Sờ gáy cựu chủ tịch ?

Chỉ riêng vụ Chu Vĩnh Khang và Từ Tài Hậu bị thanh trừng đã được mô tả là trận động đất lớn trong tầng lớp lãnh đạo tối cao của Trung Quốc, nay nếu tới lượt Giang Trạch Dân bị sờ gáy thì đúng là trận đại hồng thủy của nền chính trị Trung Quốc do đảng Cộng sản lãnh đạo.

Tuy nhiên trước Giang Trach Dân, nếu có thể kể tới ông này, người ta đã chú ý đến cựu phó chủ tịch nước Tăng Khánh Hồng, có thể đang trong tầm ngắm của chủ tịch họ Tập và các đồng chí thân tín.

Được coi là nhân vật từng chống lưng cho Chu Vĩnh Khang. Tăng Khánh Hồng năm nay 75 tuổi, từng là Ủy viên bộ chính trị cùng với Ôn gia bảo, Giả Khánh lâm, Ngô Bang Quốc cùng 4 người khác và Hồ Cẩm Đào lãnh đạo nền chính trị quân sự Trung Quốc, sau thời Giang Trach Dân và Chu Dung Cơ.

Tăng Khánh Hồng cũng giống như Chu Vĩnh Khang, từng công tác hơn 30 năm trong ngành dầu khí, và đều được cựu Bộ trưởng dầu khí–năng lượng Trương Đường Khắc đề bạt, sau đó thăng tiến nhanh chóng và trở thành nhân vật mà dư luận người Hoa ngoài nước gọi là “chưởng môn nhân bang dầu khí”.  Tăng Khánh Hồng còn được xưng tụng là “đầu rồng” của “bang dầu khí” giàu có này. Nhưng lúc con hổ Chu Vĩnh Khang sa lưới cũng là lúc bang hội dầu khí giàu có ngất trời này bắt đầu lâm nạn. Tờ Minh Báo cho biết đã có hơn 120 quan chức từ cấp sở trở lên bị điều tra. Nhiều người trong số đó từng có quan hệ trên mức thân thiết với Tăng Khánh Hồng và Chu Vĩnh Khang.

Tướng lãnh bất tuân

jiang

Cựu TBT, chủ tịch nước Giang Trạch-Dân – Courtesy of english.sina.com

Về Giang Trạch-Dân, người ta phải mở lại hồ sơ Chu Vĩnh Khang, Từ Tài Hậu, Ôn Gia Bảo, Hồ Cẩm Đào.

Đầu tiên cần nhằc lại rằng Chu Vĩnh Khang là một trong đôi ba nhân vật có quyền lực cao nhất ở Bắc Kinh, được giới quan sát gọi là “Sa Hoàng” ngành an ninh tình báo của Trung Quốc, một cơ chế không lồ lâu đời quản lý đời sống chính trị và an ninh của tất cả hơn 1 tỷ người Trung Quốc, có ngân sách tương đương hay lớn hơn ngân sách của quân đội.

Từ Tài Hậu là phó chủ tịch quân ủy trung ương vào thời Hồ Cẩm Đào là chủ tịch đảng, chủ tịch nước và chủ tịch quân ủy. Tuy nhiên người ta cho rằng vị chủ tịch quân ủy trung ương này chẳng khác gì bù nhìn, khi họ Từ và một phó chủ tịch kia chỉ nghe lệnh Giang Trạch-Dân, khi đó đã về  hưu, bàn giao chức vụ cho họ Hồ.

Giới quan sát được biết là sau trận động đất ở Văn Xuyên, Tây tạng năm 2008, thủ tướng Ôn Gia-bảo đến thị sát tại chỗ, nhưng quân đội bầt tuân lệnh của ông khiến nhiều người đã mất cơ hội quý giá để được cứu sống.

Họ Ôn thúc đẩy công cuộc cứu cấp, ra lệnh khẩn cấp khai thông ngay lập tức con đường đếnVăn Xuyên bằng mọi giá. Các đơn vị quân đội tỏ ra cố tình trì hoãn thi hành, có đơn vị còn dám từ chối đưa quân tới giúp, với lý do “thời tiết chưa tốt”. Thủ tướng họ Ôn hét lên trong điện thoại với một tướng lảnh “Tôi không cần biết lý do, nhân dân trả lương cho anh, việc đó tùy anh” và dập mạnh chiếc điện thoại xuống.

Tướng Từ Tài Hậu điều khiển quân đội trong 10 năm. Không rõ vì sao thời gian đó Giang Trạch-Dân vẫn nắm giử quyền lãnh đạo quân sự dù ông đã nghĩ hưu. Người ta chỉ thấy chủ tịch đương nhiệm Hồ Cẩm Đào không có quyền hành gì với quân đội, vì các tướng chỉ huy đều là người do họ Giang đề bạt, và chỉ nghe lệnh Giang Trạch-Dân.

Tướng Trần Bình Đức, Tổng tham mưu trưởng quân đội thời đó, phổ biến một báo cáo cho biết sau khi động đất ở Văn Xuyên 72 giờ đồng hồ hai ông Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo vẫn không thể điều động được quân đội tới nơi, vì Giang Trạch-Dân giữ quyền chuẩn thuận mọi hành động quân sự.

Nhà nghiên cứu, cựu Giám đốc xuất bản của Đại học quốc phòng Trung Quốc Tân Tử Lăng nói với đài VOA rằng Hồ Cẩm Đào chỉ có quyền ban lệnh cho cấp Thiếu tướng trở xuống, từ trung tướng trở lên chỉ nhận lệnh của Giang Trạch-Dân. Họ Tân còn nói Hồ Cẩm Đào “không thể nói” được quân đội.

(Nhà nghiên cứu Tân Tử Lăng là tác giả quyền “Mao Trạch Đông, ngàn năm công, tội” (Thông tấn xã Việt Nam dịch và in năm 2009, bản điện tử do “Mõ Hà Nội” đưa lên mạng, http://www.viet-studies.info/kinhte/MaoTrachDong_NganNamCongToi.htm))

Hẳn nhiên ông Tập Cận-Bình không thể không rõ về những sự kiện đó.

Đầu tháng 7 vừa qua, bốn “con hổ lớn” được coi là “đệ tử” của Giang Trạch-Dân cùng bị trục xuất khỏi Đảng và đi tù cùng một lúc. Đó là: Từ Tài Hậu, Lý Đông Sanh, Tưởng Khiết Mẫn và Vương Vĩnh Xuân.

Trước đó nữa là vụ Bạc Hy Lai. Họ Bạc nhanh chóng thăng tiến ở Đại Liên và Liêu Ninh, Trùng Khánh cũng nhờ được Giang Trạch-Dân chiếu cố. Mối quan hệ khởi đầu từ năm 1999 khi Bạc Hy Lai đi Bắc Kinh mời họ Giang thăm Đại Liên trong lễ kỷ niệm 100 năm tuổi của thành phố. Ông Giang Trạch-Dân đã rất hài lòng khi thấy bức chân dung khổng lồ của mình được treo trên quảng trường trung tâm thành phố. Từ đó sự nghiệp của họ Bạc lên như diều gặp gió, một phần cũng do tài lãnh đạo và quản lý của ông.

bo-xilai-xu-caihu

Bạc Hy-Lai và Từ Tài Hậu, tại Bắc Kinh 2012

Bạc Hy Lai và Từ Tài Hậu đều là những trợ thủ rất đắc lực của Giang Trạch-Dân khi họ Giang khởi sự chiến dịch tiêu diệt Pháp Luân Công từ 1999.

” Phục Hổ, Hàng Long”?

Hiển nhiên Tập Cận-Bình đã nhắm bắn hạ toàn những tay chân trong vòng thế lực của cựu TBT, Chủ tịch nước Giang Trạch-Dân.

Tăng Khánh Hồng cũng nằm trong phe nhóm đó. Vì thế rất đông trong giới phân tích về Trung Quốc đang nóng lòng chờ đòn phản công của Giang Trạch-Dân cùng những tay chân còn lại, hay cảnh họ Giang lên xe “bảo hộ” để đi trả lời trước hệ thống kỷ luật của đảng Cộng sản và tòa án.

Chưa có tin chính thức về việc này, nhưng chỉ với việc cựu phó chủ tịch nước họ Tăng xuất hiện trong tầm ngắm của nhà thợ săn “đả hổ diệt ruồi” Tập Cận-Bình, người ta chuẩn bị phong tặng ông họ Tập danh hiệu “hàng long phục hổ” nhờ thành tích nắm đuôi những con rồng họ Tăng, hay họ Giang.

Thời Giang Trạch-Dân và Chu Dung Cơ có lần Thủ tướng họ Chu đã lên án tập đoàn Thiên Thành thuộc Tổng Cục chính trị, bộ Tổng tham mưu hoạt động buôn lậu, có sĩ quan cao cấp bảo kê và can thiệp, bắt giam cả phái viên của Thủ tướng đến điều tra. Chuyện tham nhũng và xa hoa trụy lạc động trời của nhiều sĩ quan cao cấp trong quân đội nhân dân Trung Hoa đã được lôi ra ánh sáng từ khi đó, nhưng mãi đến nay những con hổ lớn mới sa lưới vì cả hai lý do phe phái chính trị và hành vi tham nhũng, phạm pháp hình sự.

Liệu nhà thợ săn “tráng sĩ hàng long phục hổ” có trở thành “liệt sĩ” về sự nghiệp và thanh danh không?

Dư luận có nghĩ đến chuyện đó, và nhớ lại vài ngày trước khi xảy ra vụ Chu Vĩnh Khang vào ngày 30 tháng 6, ông Tập Cận-Bình tuyên bố trong một buổi họp tối mật của Bộ chính trị, nguyên văn được chép lại, rằng :”Hai đạo quân tham nhũng và chống tham nhũng đang trong thế đối đầu bế tắc”

Một tờ báo nhà nước ở vùng đông bắc Trung hoa thuật lại tin này, cho biết thêm ông Tập còn nói :”Trong cuộc tranh đấu  chống tham nhũng, tội không cần biết sống chết, cũng không lo thanh danh hủy hoại”. Một số báo chí Nhà nước trích lại tin này nhưng sau đó đều bị kiểm duyệt gỡ xuống khỏi mạng.

Tuy nhiên đến nay đã hai tháng qua, ông họ Tập đã nhốt được hai con hổ cựu phó chủ tịch quân ủy trung ương Chu Vĩnh Khang, Quách Bá Hùng, chứng tỏ ông đã báo động tình hình như vậy để đòi hỏi sự ủng hộ, yểm trợ của bộ chính trị, và đã thành công.

Người Việt ta có mong Việt Nam sắp có một tráng sĩ Hàng Long Phục Hổ như Tập Cận-Bình, nếu không thành công thì cũng thành nhân, hay chăng? Mong quý vị trả lời câu hỏi này trong mục “Ý kiến bạn đọc” ở cùng trang.

Câu trả lời của Mặc Lâm, RFA, là “Võ Tòng đả hổ có quốc tịch Trung hoa, không phải người Việt Nam!”

Tuy nhiên Mặc Lâm đã quên rằng nước Đại Việt cũng có dũng sĩ Lê Văn Khôi, con nuôi Tả Quân Lê Văn Duyệt, biểu diễn tay không đấm chết hổ trong buổi Tả Quân khao tiệc sứ thần Xiêm La.

Sau khi Lê Tả Quân qua đời và bị vua Minh Mạng truy án, Khôi khởi binh chiếm thành Phiên An (Sài Gòn) và các thành lân cận, nhưng sau cùng bị vây trong thành và chết vì bệnh phù thủng.