TÀU CỘNG: KẺ THÙ RẤT NGUY HIỂM CỦA NHÂN LOẠI VĂN MINH TIẾN BỘ

TÀU CỘNG: KẺ THÙ RẤT NGUY HIỂM CỦA NHÂN LOẠI VĂN MINH TIẾN BỘ !

(Tin lan truyền trên Internet. Tin hay không tùy bạn!) 

Bài dài, ráng đọc, rất quan trọng vì ảnh hưởng đến mạng sống chúng ta!

TRUNG CỘNG ĐẦU ĐỘC CẢ THẾ GIỚI VỚI NHỮNG SẢN PHẨM NGUY HIỂM.

Để trả lời câu hỏi: “Nhưng chết dưới tay Trung Cộng như thế nào?” Tiến sĩ Peter Navarro nói: “Nhiều cách lắm, bằng hàng hóa độc hại, bằng cạnh tranh bất chánh, bằng cách cướp công ăn việc làm của nhiều quốc gia, bằng các hoạt động gián điệp, chiếm tài nguyên thiên nhiên của các nước láng giềng, chiếm lãnh nhiều thuộc địa bằng mặt trận kinh tế, đánh cắp bí mật quốc phòng và tăng đầu tư vào quân đội toàn là những thủ đoạn hiểm độc.”

Câu hỏi khác: “Có biện pháp nào để tránh hiểm họa “Chết dưới tay Trung Cộngkhông?” Tiến sĩ Peter Navarro đáp: “Có chứ! Nhưng, nó đòi hỏi Hoa Kỳ phải có một chánh sách khác và người dân Hoa Kỳ phải hiểu rõ thảm họa lớn nhất thế giới nầy!”. Trong cuốn “Death By China” (Chết vì Tàu cộng) đưa ra một số thống kê tiêu biểu: 1) Trung Cộng hiện cung cấp cho Hoa Kỳ 60% nước táo đặc, 50% tỏi, 70% thuốc trụ sinh Penicillin, 50% aspirin, 33% thuốc, Tylenol và 99% vitamin C; 2) Vật liệu xây dựng “drywall” của Trung Cộng chứa chất Sulfurous gas bốc mùi trứng thối làm cho người cư ngụ bị sưng phổi, ngứa cổ, nghẹt thở mà còn làm hư hỏng các ống nước làm hệ thống HVAC như máy lạnh, máy sưởi không làm việc được. Mỗi năm, hàng ngàn căn nhà của dân Mỹ phải tốn tiền sửa chửa khoảng 15 tỉ USD; 3) Về mặt gián điệp, “Death by China” cảnh báo rằng: mỗi năm có khoảng 750.000 người Hoa ngành tình báo vào Hoa Kỳđánh cắp kỹ thuật quốc phòng đưa về Hoa Lục.

IV. VŨ KHÍ SINH HỌC DƯỚI HÌNH THỨC HÀNG ĐỘC:
Rõ ràng Trung cộng đã và đang dùng “vũ khí sinh học” dưới hình thức “hàng độc” để đầu độc nhân loại và dân chúng Hoa Kỳ, đó là loại vũ khí hủy diệt con người một cách tiệm tiến. Hiện nay, ngành công nghệ sinh học đang nở rộ tại Trung Hoa Lục Địa và phát triển nhanh chóng, các sản phẩm độc hại được xuất khẩu ồ ạt, tràn ngập trên khắp thế giới.

Xin liệt kê vài hàng độc đã được tìm thấy THUỐC TÂY GIẢ:

– Tại PANAMA, hơn 300 người tử vong vì uống thuốc ho Made in China có độc tố gây bệnh là một loại độc tố cao, thường tìm thấy trong nước chống đông đặc của xe hơi.

– Tại HAITI: trên 76 trẻ em, phần lớn dưới 5 tuổi chết vì thận bị hủy hoại một cách kỳ lạ giống như nạn nhân ở Panama. Nhờ sự giúp đỡ của Hoa Kỳ, người ta khám phá ra nạn nhân tử vong vì thuốc trị sốt cho trẻ em có độc chất “Diethylene Glycol” phát xuất từ Xingang và qua công ty giao dịch SinochemInternational.

– Không chỉ trong dược phẩm có chất Diethylene GlycolTàu cộng còn đưa độc chất nầy vào kem giả mạo dưới nhãn hiệu Colgate. Chính quyền Canada khuyến cáo dân chúng ngưng sử dụng kem đánh răng giả mạo độc hại Made in China.Dưới chủ đề “TRUY LÙNG THUỐC CỦA TỬ THẦN”, phóng viên của tạp chí Le Nouvel Observateur kể lại cuộc điều tra của một nhân viên bào chế dược phẩm Thụy Sĩ, hầu tóm cổ những kẻ sát nhân đã giết hại hàng ngàn bệnh nhân bằng thuốc giả đến từ Trung cộng. Cuộc săn lùng chỉ trên địa bàn các quốc gia Cận Đông: Ai Cập, Jordanie, Syrie.Mở đầu bài viết, phóng viên Jean Paul Mari kể lại câu chuyện của ADEL, một người Palestine: Vợ của anh bị ung thư vú, nhờ biết bệnh rất sớm và các bác sỹ lạc quan sẽ chữa được bệnh. Vấn đề là thuốc “Imanitib” rất đắt, giá hộp. Để chữa trị cho vợ, Adel đã huy động gia đình bạn bè giúp đỡ đưa vợ sang Israel điều trị. Thời gian đầu, bệnh của vợ anh có vẻ ổn định. Sau đó, anh đưa vợ trở lại Palestine vào bệnh viện tối tân ở Ramallah. Bác sỹ Baker sử dụng loại thuốc Imanitib nhưng giá thành chỉ bằng một nửa thôi. Sáu tháng sau, vợ của Adel chết vì thuốc sử dụng tại đây là thuốc giả được pha chế chỉ có nước, pha với một ít đường, phẩm màu và một ít aspirine. Giá thành của mỗi họp thuốc nầy là 2 USD.
Điều nầy đã thúc giục JEAN LUC mở cuộc điều tra. Nhân vật trung tâm mạng lưới mà Jean Luc tìm ra được tên WAJEE ABU ODEH, một người Jordanie đến từ Thẩm Quyến Hoa Lục. Tại vùng Cận Đông, mạng lưới do Wajee Abu Odeh điều khiển, chuyên cung cấp thuốc giả cho Jordanie, Ai Cập, Syrie… Họ cung cấp thuốc giả tới 50% thuốc chữa trị ung thư. Không kể các loại thuốc giả chết người nầy tràn lan ở những vùng ngoại ô nghèo và qua nhiều môi giới, nó hiện diện tại những bệnh viện có uy tín ở thủ đô.

. 

TRÀ TÀU TẨM CHẤT ĐỘC CHÌ:
Theo The New Chenese Take Out, Michael E. Telzrow cho biết: Kỹ nghệ sấy khô lá trà tại Trung cộng đã đạt tới trình độ tinh vi chưa từng có: Các hãng sản xuất trà dùng khí thải từ xe ô tô để làm khô lá trà nhanh chóng bằng cách trải lá trà tươi trên sàn của nhà kho rồi lái những xe vận tải vào trong, nổ máy để khí thải từ ống khói xe làm khô lá trà. Vấn đề là xăng pha chì và những chất chì độc hại thoát ra theo khói xe bám trên lá trà. Chất độc chì sẽ ngấm dần dẫn đến việc hủy hoại thận và còn nhiều nguy cơ khác.

NƯỚC TƯƠNG LÀM BẰNG TÓC:Bài viết nầy của GS Tse-Yan Lee, B.H.Sci nhằm trình bày cho độc giả biết về một loại nước tương được sản xuất tại Hoa Lục không an toàn và được bày bán khắp nơi tại Hoa Lục và trên thế giới. Nước tương được chế biến từ đậu nành, gồm có hợp chất protein,carbohydrate không chất béo, dồi dào chất riboflavin (B2) và các chất khoáng như sodium, calcium, phosphorus, sắt, selenium và chất kẽm. Hàng năm, trên khắp thế giới, người ta đã sản xuất ra hàng ngàn triệu tấn nước tương để cung ứng cho thị trường tiêu thụ.
 

Vào năm 2003, tại Trung cộng, người ta sản xuất hàng loạt nước tương mang nhãn hiệu “HONG SHUAI SOY SAUCE”, áp dụng theo phương pháp sinh hóa và kỹ thuật tân tiến bởi một nhà máy chế biến thực phẩm gia vị không theo phương pháp chế biến cổ điển bằng đậu nành và lúa mì nên giá thành rất rẻ và được các nhà hàng và nhà trường sử dụng rất nhiều. Tháng giêng năm 2004, viên quản lý cho một nhóm ký giả của chương trình TV “Weekly Quality Report” biết thành phần của nước tương gồm có “amino acid”, “sodiumhydroxide”, “hydrochloric acid” và mật đường (loại dung dịch phế thải sau khi đã quay ly tâm thành đường cát trắng) và vài chất hóa học khác hòa tan với nước. Nhu cầu chế biến nước tương, hàng tháng nhà máy phải sử dụng đến hàng chục ngàn tấn “amino acid” dưới dạng bột từ một nhà máy sản xuất hóa chất khác. Sau đó các ký giả đã tìm ra nguyên liệu để bào chế ra loại xi-rô amino acid này tại một nhà máy sinh hóa ở tỉnh Hồ Bắc. Họ trả lời các ký giả rằng “amino acid” chủ yếu chế biến từ tóc con người, thu nhặt được từ các tiệm hớt, uốn tóc và từ các đống rác thải ra ở các bệnh viện khắp nơi trong nước rất dơ bẩn và mang nhiều loại vi khuẩn gây nhiều mầm bệnh khác nhau. Tóc con người chứa nhiều loại hóa chất độc hại như thạch tín “arsenic” và chì “lead” sẽ gây phương hại trầm trọng đến hệ thống tiêu hóa, gan, thận, tim mạch, hệ thần kinh và sinh dục. Sau khi tin tức ghê tởm nầy được phổ biến trên toàn thế giới khiến Hiệp Hội Các Quốc Gia Châu Âu, HongKong, Đài Loan, Nhật, Hoa Kỳ,… đã từ chối nhập cảng một số hiệu nước tương và nhiều loại thực phẩm khác sản xuất từ Trung Hoa Lục Địa vì lý do an toàn cho sức khỏe dân chúng.

TỎI BỘT, ỚT BỘT NHIỄM PHÓNG XẠ: Do khả năng công nghệ bảo quản thực phẩm quá kém nên tỏi bột và ớt bột là sản phẩm nổi tiếng của quận Qixian, tỉnh Henan do cơ xưởng Limin sản xuất phải sử dụng chất phóng xạ Cobalt-60 để giữ lâu cho tỏi bột và ớt bột khỏi bị hư hỏng. Ngày 7/6/ 2009, chất Cobalt-60 bị rò rỉ thấm qua quần áo bảo hộ của công nhân và chất phóng xạ Cobalt-60 tuôn ra ngoài không khí, xưởng Limin bị phát hỏa, gây chết chóc cho nhiều người. Có khoảng 800.000 người trong vòng bán kính 50 km đã bỏ của chạy lấy thân. Hàng quán tại Qixian đóng cửa, đường xá vắng tanh như một thành phố chết.

HOA KỲ BÁO ĐỘNG NHIỀU MẶT HÀNG NHẬP TỪ HOA LỤC CÓ CHẤT ĐỘC:
Hoa Kỳ liên tiếp báo động về hàng hóa nhập cảng từ Trung cộng có chứa kim loại Cadmium độc hại tiềm ẩn trong những kiểu trang sức thời trang. Quốc Hội Mỹ đã cấm các sản phẩm chứa chì nhập cảng vào Mỹ dưới dạng nữ trang cho trẻ em nhưng cadmium còn độc hại hơn chì nhiều. Cadmium có thể gây bệnh ung thư. Thượng Nghị Sĩ MarkPryor báo động: “Sẽ có nhiều phụ huynh tức giận khi biết nữ trang nhập cảng như thế có thể làm tổn hại sức khỏe con em họ.”Nhiều sản phẩm may mặc dành cho trẻ em không bảo đảm an toàn, chứa nhiều hóa chất “formaldehyde”, “cadmium” và “chromium” độc hại vượt mức cho phép, gây nhiễm trùng da và đường hô hấp cho trẻ em. Trong khuôn khổ bài báo nầy, chỉ liệt kê những mặt hàng độc có tính cách tượng trưng mà thôi, còn nhiều mặt hàng độc khác như trái cây có tẩm hóa chất bảo quản Carbendazim hoặc còn dính thuốc trừ sâu, đũa ngâm hóa chất…Một khi các hóa chất độc hại nầy bám vào các bộ phận trong cơ thể con người sẽ công phá tiến trình thoái hóa và tăng trưởng tế bào tự nhiên mà sinh ra nhiều TẾ BÀO DỊ HÌNH không cần thiết, dư thừa, đan kết vào nhau, tích tụ lại làm thành bướu độc, cục u… là tiến trình của nguy cơ dẫn đến nhiều căn bệnh ung thư.

 

 

 

Vì thế, tất cả mặt hàng tươi, khô, đông lạnh hoặc đóng gói mang nhãn hiệu MADE IN CHINA là người tiêu thụ rùng mình kinh sợ. Trung cộng thay đổi chiến lược để lừa người tiêu thụ bằng cách thay thế nhãn hiệuMade in Chinabằng nhãn hiệu mới trên các bao bì của thực phẩm hàng hóa là MADE IN P.R.C – viết tắt cụm từ “People Republic of China” (Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc).

Nhưng, nhãn hiệu “Made in P.R.C” đánh lừa giới tiêu thụ không được bao lâu thì bị phát giác làm mức tiêu thụ hàng hóa Trung cộng lại bị thế giới tẩy chaytụt dốc thê thảm. Trung cộng lại giở thói gian manh, tiếp tục đánh lừa người tiêu thụ, không nhận diện được các mặt hàng độc của Trung cộng bằng những phương cách xảo quyệt khác. Một thí dụ điễn hình: WAL-MART là một trong những siêu thị lớn nhất nước Mỹ. Nếu nhập hàng từ Trung cộng do công ty Wal-Mart đặt mua, Trung cộng sẽ ghi “MADE FOR WAL-MART USA” hoặc “PACKAGED IN USA”.Hàng hóa nhập từ Trung Cộng bằng những kiện hàng lớn, được ghi rõ ràng xuất xứ “Made in China” đúng theo qui định của chánh phủ Hoa Kỳ nhưng khi những kiện hàng được tháo ra bán lẽ trên các quày hàng thì mang nhãn hiệu khác như “MADE FOR WALMART USA” hoặc “PACKAGED IN USA” và hàng chữ nhỏ li ti như “Made in China” hoặc “Made in P.R.C” nằm ở góc nào đó rất khó nhìn thấy. Xin hãy cẩn thận khi mua hàng để đừng bị Trung cộng lừa bằng những mánh khóe bẩn thỉu nầy.

BÀI HỌC CỦA ĐÀI LOAN TẨY CHAY HÀNG ĐỘC CỦA TRUNG CỘNG: Một thành phố Đài Loan, thị trấn Chitung, nơi trận bão Morakot ập vào làm 500 người chết trong một vụ lở đất lớn và 700 người phải di tản sau cơn bão nhiệt đới tồi tệ nhất trong vòng 50 năm qua đã xảy ra vào ngày 8/8/ 2009. Chánh quyền địa phương đã từ chối nhận 100 “nhà lưu động” lấp ráp nhanh do Trung Cộng viện trợ vì lo sợ hóa chất độc hại vì những căn nhà nầy có chứa chất “formali”, một loại hóa chất nguy hiểm. Phó Quan Hành Chánh quận tên Chung Chia nói: “Mặc dầu những ngôi nhà là trợ giúp nhân đạo nhưng chúng tôi cần phải đặt an toàn làm ưu tiên hàng đầu.” Ngoài ra, họ cũng từ chối hàng viện trợ của Trung cộng gồm: 10.000 túi ngủ, 10.000 chăn đấp cùng với 176 triệu nhân tệ (26 triệu USD).

 

Người dân Đài Loan đã mất tin tưởng vào hàng hóa Trung cộng từ năm trước khi sản phẩm sữa bột của Trung cộng của một số hãng Trung cộng bị tìm thấy nhiễm melamine làm chết ít nhất 6 trẻ em và khiến hàng chục nghìn trẻ em lâm trọng bệnh. Đây là một cái tát vào mặt bọn lãnh đạo Trung Nam Hải.

V. VIỆT NAM LÀ THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ HÀNG ĐỘC CỦA TRUNG CỘNG

Tất cả mặt hàng độc chết người do Trung Cộng sản xuất bị thế giới tẩy chay vứt vào thùng rác. Những con chó lãnh đạo Trung Nam Hải dùng Việt Nam làm thị trường tiêu thụ những hàng độc nầy vừa để thu lợi nhuận và vừa dùng nó làm vũ khí giết người thầm lặng, không tiếng súng để giết dân Việt Nam chết dần chết mòn. Sách lược dã man nầy được Trung cộng chia ra làm hai giai đoạn:

GIAI ĐOẠN I:Ngày 30 tháng 6 vừa qua, nhiều tờ báo trong nước đồng loạt lên tiếng báo động về hiện tượng nầy, từng đoàn doanh nhân Tàu Cộng vượt biên giới bỏ ngỏ, ào ạt sang Việt Nam từ Bắc vào Nam, tung tiền mua giá cao, vơ vét hàng nông sản, thu hút hàng sạch nhu yếu phẩm từ thủy sản, đường cát, heo, gà, vịt, trứng gà, vịt cũng bị thu mua chất hàng đống. Đặc biệt là vịt sống là sản phẩm bị chiếu cố tận tình nhất, khiến giá mỗi con từ 60.000 đồng/con, tăng vọt lên 120.000 đồng, tức là tăng gấp đôi. Cho đến nay, chiến dịch vét hàng đã lên đến cao điểm nhưng chưa biết chừng nào mới chấm dứt. Hiện tượng nầy khiến vật giá trong nước tăng tốc leo thang không ngừng vì thiếu hàng để bán, làm dân nghèo khốn đốn. Theo nhận định của bà Nguyễn thị Thu Sắc, Phó chủ tịch Hiệp hội Hàng Xuất Cảng Thủy Hải Sản VN (VASEP) nói rằng: những năm trước thương gia Tàu sang Việt Nam thu mua tôm trực tiếp từ các trại nuôi tôm của người Việt mình. Còn bây giờ, họ ra tận bến cá, đón tàu đánh cá vừa từ ngoài khơi vào, tung tiền thu mua trực tiếp, gom sạch các loại hải sản. Các công ty Việt Nam chế biến thủy sản và hải sản thiếu hàng xuất cảng, nâng giá mua lên để cạnh tranh mà vẫn chào thua các doanh nhân Tàu cộng lắm tiền nhiều bạc nầy. Tại miền Trung, các tay thương gia Tàu cộng nầy chiếu cố tận tình. Hậu quả, là giá tôm trắng hồi nằm ngoái chỉ có 57.000 đồng/kí bây giờ vọt lên 90.000 đồng/kí. Bà Sắc báo động: Tình trạng nầy sẽ giết các công ty xuất cảng thủy sản và hải sản trong nước. Từ đầu năm đến giờ đã có 147 công ty loại nầy ở VN đã phải đóng cửa vì không mua được hàng. Bà Sắc cho biết đã đến lúc chánh phủ VN nên bắt chước Indonesia vì quốc gia nầy đã cấm xuất cảng nguyên liệu thủy, hải sản kiểu đó. Việt Nam cần phải bảo vệ thị trường nội địa nhưng, biết bao giờ Đảng và nhà nước CSVN học được bài học khôn nầy?Ngoài ra, các tên thương gia trọc phú nầy còn nhắm vào hồ tiêu. Theo lời ông Đỗ Hà Nam, Chủ tịch Hiệp Hội Tiêu VN (VPN), cho biết: Đã có 20% toàn bộ sản lượng tiêu VN bị thương lái Tàu Cộng thu vét. Cao su cũng vậy, có đến 70% số cao su làm ra ở VN đã vượt biên vào Hoa Lục.

GIAI ĐOẠN II: Sau khi hút hết “HÀNG SẠCH” của thị trường Việt Nam, bọn Trung Nam Hải cho các thương buôn Tàu cộng tuôn “HÀNG ĐỘC” vượt qua biên giới vào Việt Nam bán với giá rẻ mạt vừa túi tiền của đại đa số đồng bào lao động để đầu độc dân Việt Nam trên qui mô cả nước, gây ra hiện tượng “GIÀU ĂN SẠCH, NGHÈO ĂN ĐỘC”. Xin liệt kê một số hàng độc của Trung cộng tượng trưng:

GẠO NHỰA TÀU: Sau khi tung tiền vơ vét cả triệu tấn gạo của VN chở sang Tàu, liền sau đó, “gạo nhựa Tàu” được Trung cộng tung vào VN đã xuất hiện trên thị trường, đó là một loại giả làm bằng khoai lang /khoai tây xay nhuyển rồi trộn với bột nhựa (resin). Gạo nhựa Tàu nấu trên 30 tiếng vẫn không làm hạt gạo nát nhừ, hột cơm vẫn nguyên vẹn và không dính vào nhau. Tất cả các gạo nhựa Tàu đều 

cùng kích thước và màu sắc giống nhau.

 

SỮA ĐỘC MELAMINE: Melamine là hóa chất dùng để sản xuất nhựa, được trộn vào các sản phẩm sữa để chúng trông giàu protein hơn nhằm dánh lừa thị giác giới tiêu thụ khiến các em nhỏ uống vào sẽ mắc bệnh “sạn thận”. Các hãng thông tấn nước ngoài đưa tin scandal về sữa độc melamine làm tử vong 4 em bé và làm hơn hàng trăm ngàn trẻ em khác bị bệnh vào năm 2008. Sau đó, chánh quyền Trung cộng đã tìm thấy và tịch thu 170 tấn sữa bột độc hại nầy. Số 170 tấn sữa độc melamine không được Trung Cộng thiêu hủy và tái phối trí để đưa vào thị trường Việt Nam tiêu thụ với giá rẻ khoảng 62.000 đồng/ký so với sữa bột Tân Tây Lan (New Zealand) rẻ hơn 20.000 đồng /ký. Nguồn tin cho biết, sữa độc melamine tràn ngập ở các chợ biên giới phía Bắc, đưa vào bán ở các chợ đầu mối tại Sài Gòn như chợ Kim Biên, Bình Tây và các đại lý chuyên doanh phân phối thực phẩm.

“Em đến từ trong giấc hỗn mang,”

“Em đến từ trong giấc hỗn mang,”

Lời ca không mở cửa thiên-đường.”

(Dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Mt 13: 44-52

Lm Richard Leonard sj

Thiên đường hạ-giới rày không mở, làm sao đến được từ hỗn mang. Thiên-quốc Nước Trời nay không đóng, người người hân-hoan cứ tiến vào.

Trình-thuật hôm nay, thánh-sử Mát-thêu cũng đề-cập đến thiên-đường là Nước Trời ở trần gian trong đó có kho tàng quý-giá vẫn chôn-giấu nơi ruộng đồng cuộc sống, rất bon chen.

Nơi ruộng đồng cuộc sống, có những thực-tại sờ sờ ngay trước mắt, nhưng con người không nhận ra. Trong đời người đi Đạo, có những chân-lý được Đức Chúa mặc-khải, nhưng các tín-hữu Đạo Chúa lâu nay ra như chưa một lần cảm nghiệm Nước Trời ở trần gian là thực-tại trong chân-lý ấy.

Vào những tháng ngày rất xưa, nhiều vị thừa-sai Đạo Chúa vẫn sử-dụng bài Tin Mừng hôm nay như một bằng-chứng hùng-hồn để giảng-thuyết về thiên-đường. Khi dẫn giải thế nào là Thiên-đường, các ngài có thói quen đưa ví-dụ kho-tàng chôn nơi ruộng đồng và viên ngọc quý-giá làm bằng.

Không những thế, các ngài còn thêm-thắt về hỏa-ngục hầu minh-họa lời mình trần-tình qua ảnh-hình một lò lửa cháy bừng bừng, ở đó toàn những “khóc lóc nghiến răng” đến khiếp sợ. Tất cả các yếu tố nói ở đây đều là chuyện kể hằng ngày, ở huyện nhà.

Đằng khác, một số vị giảng-thuyết làm như thể mình biết rất nhiều điều về địa-ngục bừng cháy rất nóng-nảy. Làm như thể chính các ngài là những cây viết sáng-giá đã từng hơn một lần tham-quan/vãn-cảnh chốn địa-ngục trần-gian, rất nhiều lần. Và, các ngài còn cảnh-giác người nghe lo chuẩn-bị hành-trang để một mai lỡ có một lần trót dại, cũng không sao.

Có dạo nọ, nhân mùa thuyết-giảng ở giáo xứ mình, vị linh-mục đứng bục giảng đã hùng-hồn dẫn-giải cho giáo-dân hiểu/biết thế nào là hỏa-ngục lửa bỏng bằng cột miêu-tả rất khúc-chiết, gẫy gọn. Vị ấy còn khẳng định thêm: “Giả như anh chị em ra khỏi nhà thờ mà không chấm nước thánh và làm dấu thánh kêu tên Cực trọng, thì sẽ bị chết bất đắc kỳ tử và rồi sẽ đáp chuyến tầu suốt đi thẳng vào cõi địa-ngục ngàn đời, cho mà xem!”

Vào cuối bài giảng hôm ấy, người chị họ của chúng tôi đứng cạnh giếng thánh nhà thờ quan-sát thấy mọi người lần lượt tiến ra cửa nhà-thờ làm động-tác chấm chấm rất nhiều lần, rồi cứ thế không ngớt mời chào và nhường bước. Cuối cùng, chị không chấm nước thánh-thiêng, vẫn cứ về nhà mà vẫn chẳng bị đẩy vào chốn hoả-ngục lửa cháy đùng đùng đền tội chi hết.

Những ưu-tư thúc-bách như thế, chẳng làm giảm đi thực-chất của thứ địa-ngục nơi trần-thế. Nhưng, nếu tin vào thiên-đường và ý-chí tự-do cho đúng cách, có lẽ ta phải xác-quyết rằng hỏa-ngục-nơi-con-người vẫn có thật. Và, ta phải minh-xác với những ai từng phản-bác một cách có tự-do hiểu-biết và nghiêm-chỉnh chống lại sự-kiện Thiên-Chúa-là-Tình-Yêu vẫn hiện-diện trong đời mình. Có như thế, ta mới cương-quyết định-đọat số-phận mình cho thế-giới ở đời sau.

Tuy nhiên, vẫn có sự khác-biệt rất lớn giữa các nhận-định của chúng ta, khi trước và vào lúc này, về thiên-đường cùng hỏa-ngục. Chắc hẳn, mọi người đều hiểu-biết ý-nghĩa của truyện kể về kho-tàng giấu nơi ruộng và viên ngọc quý-giá đều là ví-dụ súc-tích về thiên-đường. Các ví-dụ ấy tuyệt-diệu đến độ nó đã để lại những mấu-chốt giúp ta hình-tượng được các ý-niệm mà đầu óc con người không thể diễn-nghĩa được. Về hỏa ngục, cũng thế. Cuối cùng, vấn-đề đặt ra là: làm sao hình-dung được cuộc sống con người, mà lại không bao gồm tình-thương và sự hiện-hữu của Đức Chúa?

Đọc các sách tu đức, ta được hướng-dẫn về thứ hỏa-ngục tô vẽ bằng đường nét chấm-phá quanh-co cốt cho thấy đích-điểm và tình-huống mà trong đó tình thương không thể nào hiện-diện được vào lúc nào hết. Nói một cách xác tín hơn, có lẽ ta nên khẳng-định rằng: hỏa-ngục chính là tình-trạng “vô-thượng” hoặc đối-nghịch với Thiên-Chúa-là-Tình-Yêu rất thương mến người đồng-loại, tức: không còn lòng xót-thương người khác nữa.

Thêm một khác biệt nữa, là: ngày nay ta đã thận-trọng hơn khi trước rất nhiều, không còn tự tiện quyết-đoán xem ai sẽ là người phải vào chốn “khóc lóc và nghiến răng” ấy, trước nhất? Trong khi đó, ta còn phải nhớ lời Đức Kitô luôn khẳng-định rằng: ý-định của Thiên-Chúa là: mọi người đã được cứu rỗi, từ lâu rồi. Ta không thể coi đây là chuyện nghiêm-chỉnh nếu ta cứ muốn  cho người nào khác phải rơi tuột vào chốn “nóng bỏng” ấy, vì họ dám vi-phạm chỉ một lỗi-lầm rất nhỏ nghịch-chống lại lề-luật ta ban ra.

Đọc Tin Mừng của Chúa theo hướng tích-cực, ta có thể dùng bài Phúc Âm hôm nay như bằng-chứng cho thấy Chúa đối-xử với ta vẫn thật tốt. Ngài luôn ban tặng cho ta Nước Trời mà Ngài từng tuyên-hứa. Hiểu như thế, thì: nhân-loại chính là kho-báu được chôn nơi ruộng mà Chúa đã bỏ tất cả mọi sự để mở rộng vòng tay ôm, đón nhận ta vào lòng. Đồng thời, con người phàm-trần chính là viên ngọc quý-giá được Chúa đổi cả thiên-đường lẫn trái đất để nhận lấy cho riêng Ngài. Và, bản thân ta phải được coi như lớp cá chất đầy mẻ lưới tình-thương do Chúa từng thâu gom thành cộng-đoàn đầy mến-mộ.

Chúa của ta, là Đấng dám trở nên con người phàm-trần giống như ta ngang qua và nhờ vào bản-thể Đức Kitô, ngõ hầu ta biết thông-cảm, yêu-mến và phục-vụ Ngài. Đó, là ý-nghĩa đích-thực của Tin Mừng. Đó, mới là điều mà Ngài nhắc nhở: môn đệ nào biết nhìn-nhận các sự việc của thiên-đường thì phải xử-sự như chủ nhà được kể ở dụ-ngôn hôm nay.

Đây là hình-ảnh súc-tích, đầy đủ ý-nghĩa về những người biết yêu thương, trân-trọng. Thời Đức Giêsu sống, chủ nhà phải là người biết thương-yêu đùm-bọc và tạo được an-bình/hài-hoà cùng sự công chính cho hết mọi người.

Lâu nay Đức Chúa vẫn phú ban cho ta mọi thứ tự do ngõ hầu ta có thể quyết-định mọi chuyện. Ngài vẫn trao-tặng ta kho tàng giấu nơi ruộng và viên ngọc quý-giá ấy, hầu giúp ta biết thương-yêu, đùm bọc lẫn nhau; biết tân-tạo an-bình/hài hòa cho nhau; đối xử với nhau vui vẻ, công bằng hơn. Mọi quyết-định đều do ta tự ý chọn-lựa. Một lựa-chọn vẫn được trân trọng, từ trước đến nay. Nhưng, lựa-chọn này bao-hàm sự cốt-thiết sống phù-hợp với Đạo Chúa, bây giờ và mãi mãi.

Đó, mới là thiên-đường. Đó, mới là Nước Trời ở trần gian, đang diễn-tiến trong cuộc sống thường nhật của ta và mọi người.

Trong tinh-thần cảm-nghiệm một sự thật như thế, ta lại sẽ ngâm lên lời ở trên, rằng:

“Em đến từ trong giấc hỗn mang,

Lời ca không mở cửa thiên-đường.

Thời-gian bốn phía nhoà gương mặt,

Ảo-tưởng nghiêng vầng trán khói sương.”

(Đinh Hùng – Gặp Em Huyền Diệu)

Em huyền-diệu gặp được ở Nước Trời trần-gian, vẫn là mộng giấc xưa hỗn mang nay hiện thực. Thiên-đường ấy, nay hiện-thực ở Nước Trời vẫn rộng mở để đón chờ cả người anh lẫn người chị cùng đàn em thương nhớ vầng trán khói sương, không ảo-tưởng. Đó, chính là lời ca ta vẫn hát ở mọi thời, trong Nước Trời.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch

“Muốn một lần tạ ơn với đời,”

“Muốn một lần tạ ơn với đời,”
Chút mặn nồng cho tôi
Có những lần nằm nghe tiếng cười
Nhưng chỉ là mơ thôi.”

(Trịnh Công Sơn – Như Một Lời Chia Tay)

(Lc 6: 21)

Trần Ngọc Mười Hai

“Nằm nghe tiếng cười” rất nhiều lần, mà nghệ sĩ mình lại bảo, đó: “chỉ là mơ thôi”, sao? Chao ôi, phải chăng đấy là thi-ca và âm-nhạc? Hay, ngày nay người mình “có những lần nằm nghe tiếng cười”, lại cứ nghĩ: đó chỉ là mơ/là mộng và còn phán: đó như một lời chia tay.” Rồi cứ thế, nghệ sĩ mình, lại hát tiếp những “lời chia tay” cũng rất buồn, như sau:

“Những hẹn hò từ nay khép lại
Thân nhẹ nhàng như mây
Chút nắng vàng giờ đây cũng vội
Khép lại từng đêm vui
Đường quen lối từng sớm chiều mong
Bàn chân xưa qua đây ngại ngần
Làm sao biết từng nỗi đời riêng
Để yêu thêm yêu cho nồng nàn
Có nụ hồng ngày xưa rớt lại
Bên cạnh đời tôi đây
Có chút tình thoảng như gió vội
Tôi chợt nhìn ra tôi.”

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Hôm nay, bần đạo đây cũng có nằm và có nghe thấy “tiếng cười”; nhưng không là “lời chia tay” và chẳng là “hẹn hò từ nay khép lại, khép lại từng đêm vui”, nhưng “chợt nhìn ra (những) tôi” và tôi. Chính tôi và tôi, là những người vẫn biết cười và/hoặc chỉ những cười là cười. Bởi, cười là “bản tính của người mình” như học giả Nguyễn Văn Vĩnh vẫn cứ bảo: gì cũng cười!

Cười, còn là và vẫn là: điểm son và là sự sống rất tin-yêu của nhà Đạo mình, nữa đấy bạn ạ! Không tin ư? Thế thì, mời bạn và mời tôi, ta quay về với đấng bậc vị-vọng trong Đạo từng quả quyết, qua suy-niệm và sẻ san Lời Chúa ngày hôm ấy, rất “thường niên” Chúa nhật 16 năm A như sau:

“Nghe kể về dụ-ngôn Chúa nhật hôm nay, người người được khích-lệ sống tích-cực điều Chúa dạy. Sống tích-cực, kèm theo nụ cười hạnh-đạo, bởi nơi Lời Chúa nói, vẫn có âm-nhạc được diễn-tả theo điệu kể của thánh Mát-thêu. Đó, còn là cung-cách rất riêng-tây của thánh-nhân khi sử-dụng dụ-ngôn do vị tiền-nhiệm kể, để mọi người thấy được Đức Giêsu đích-thực là người Do-thái đã biết vui tươi, mỉm cười, rất dễ chịu.

Về cung-cách biết mỉm cười trong cuộc sống, cũng nên tìm hiểu xem thế nào là cười mỉm, vui tươi trong sống đời thường-tình, bằng các định-nghĩa ở bên dưới:

-Cười, để học biết chấp-nhận tầm-kích ân-huệ của cuộc sống khó có thể kiểm soát;

-Cười, là ý-nghĩa thần-học của việc mất đi mọi hiểu-biết chính con người mình;

-Cười, là ngày sống có dấu-chỉ của sự đồng-thuận cuối cùng và mãi mãi với thực tại;

-Diễu cợt, là điều để ta cười vào đó, cho bõ kiếp sống này; chỉ những ai làm thế mới là người không áp-đặt mọi thứ vào chính con người mình;

-Cười, là để sống thân-thiện với mọi thứ;

-Cười là niềm cảm-thông huyền-nhiệm với mỗi thứ và mọi thứ trong đời;

-Đứng trước những người biết cười như thế, ai cũng có dịp để đổi thay để ăn nói;

-Chỉ những ai đã yêu và từng biết yêu mới cảm-thông được như thế;

-Cười, khiến cho con người trở thành người đáng yêu;

-Cười, là cung-cách của những người không lo-lắng nhiều về phẩm-cách của mình;

-Cười, là cách gom mọi sự và mọi người vào với nhau để sẽ không mất nhau trong đời;

-Cười, đôi khi khiến ta có nguy-cơ bị người đời coi là hời-hợt, sống ngoài mặt; nhưng

cười, ít ra cũng làm bớt đi những gì tầm-thường, vào mỗi ngày;

-Cười trong đời sống hằng ngày là các cảnh-báo để mình sống tốt trong thực-tế ở đời;

-Cười, giúp ta hướng về tương-lai bằng lòng chấp-nhận có uy-lực về mọi mặt, qua đó người được cứu sẽ nói lời Amen với tất cả những gì mình từng làm;

-Cười, là thành-phần của nghệ-thuật góp mặt với mọi sự;

-Biết cười thực-sự và cười rộn-rã là lối sống khiến người người lướt vượt được khó-khăn và là loại-hình sống cuốn trôi nước mắt và đem những chuyện vui vào con người, dù đang cay đắng, nóng giận.

-Cười phản-ánh rằng con người không còn nghi ngờ những gì mang tính trẻ con hoặc thuộc về con trẻ nữa.” (xem Lm Karl Rahner, The Content of Faith, Crossroad 1994, tr. 148-153)

Vâng. Với nhà Đạo rất chính-tông, chính-cống thì như thế. Với người đời, tiếng cười hay nụ cười được diễn-nghĩa và diễn-tả tùy mỗi tác-giả, rất như sau:

-Với Sách Châm Ngôn Đoạn 15 có câu: “Lòng mừng vui làm hân hoan nét mặt,”

-Với Herbert Samuel thì: “Thế-giới này như thể chiếc gương, nhăn mặt với nó, nó sẽ

nhăn lại với mình; cười với nó, nó sẽ cười lại với mình thôi”.

-Vô-danh:“Cười, là hào-quang chiếu sáng qua cửa sổ tâm-hồn cho biết mình đang ở nhà.”

-Vô danh:“Cười, là hệ thống chiếu sáng diện mạo và là hệ-thống nghe ngóng của con tim.”

-Tác-giả Les Gibbin: “Không sử-dụng nụ cười, bạn chỉ như người có cả triệu đô gửi ngân-hàng nhưng lại không có sổ chi-phiếu.”

-Fran A. Clark: “Hầu hết mọi nụ cười đều do nụ cười nào khác dấy lên.”

-Vô danh: “Khi bạn cười với ai đó, thì 90% người ấy sẽ mỉm cười đáp-lễ bạn và ngày hôm ấy ít nhất có đến hai người đều vui-tươi, chói sáng”.

-Vô-danh: “Thế-giới nay có cả trăm ngôn-ngữ khác nhau, nhưng duy chỉ có mỗi nụ cười là nói đủ hết bấy nhiêu thứ tiếng”.

-Với David Hare, thì: “Cười, là ngôn-ngữ của yêu-đương, hài-hoà”.

-Vô-danh: “Không ai cần nụ cười cho bằng những người chẳng cho ai thứ gì”.

-Mark Twain: “Vết nhăn trên mặt là dấu hiệu nụ cười đã trụ ở đó, rất lâu”.

-Joseph Addison:“Hoa-trái cần ánh sáng thế nào, thì con người cần nụ cười cũng như thế”.

-Dough Horton:“Cười, là thuốc trị-liệu hết mọi bệnh mà không phải trả đến một xu”.

-Với Mẹ Têrêxa Calcutta, thì: “Hãy cười nhiều với nhau và cho nhau! Cười với vợ, với chồng và con cái mà không cần biết người đó là ai. Nội sự việc ấy thôi cũng giúp người và giúp mình tăng-trưởng trong tình yêu lan rộng dần”.

-Wilbur D. Nesbit: “Thứ làm cho con người tiến xa nhất và cho cuộc sống của mọi người đáng sống, vừa ít tốn kém lại làm lợi cho nhiều người nhất, chính là: nụ cười. Nó đầy thần-khí nhưng lại không là thần-linh. Nó nhào-trộn mọi sự tốt-lành của con người. Nó đáng giá cả triệu đô, nhưng lại không mất tiền mua, nhưng vẫn đáng giá”.

Santosh Kalwar: “Hôm qua tôi đã cười, hôm nay tôi đang cười và ngày mai, tôi cũng sẽ cười nhiều hơn nữa, đơn giản, chỉ vì cuộc sống quá ngắn để ta khóc về mọi thứ”.

Charles Chaplin: “Bạn sẽ thấy giá trị thực của cuộc sống, nếu cứ cười”.

Freida Martinez: “Nụ cười nở trên môi, sẽ không bao giờ lịm tắt. Tôi đang cùng nó đứng đây chờ bạn đến ở bên cạnh chúng tôi đấy”.

Bei Maejor: “Bạn sẽ không bao giờ nuối tiếc những gì làm mình mỉm cười”.

Vô danh: “Hãy dùng nụ cười của mình để thay đổi thế giới, chứ đừng để thế giới thay đổi nụ cười của mình”.

Vô danh: “Nụ cười có thể làm bừng sáng một ngày đen tối nhất.

Nylle: “Mỗi người trong ta đều có vết thương lòng, một số người giấu nó trong đôi mắt, người khác lại giấu nó trong nụ cười”.

Vô danh: “Nụ cười, là khoảng cách ngắn nhất giữa hai tâm hồn”.

Maya Angelou: “Nếu bạn có duy nhất chỉ một nụ cười hãy dành nụ cười đó cho người mình yêu thương”.

Vâng. Quả nhiên là như thế. Quả thật là như vậy. Cứ cười nhiều, bất kể nụ cười đó có là cười điệu, cười tiền, cười trừ hoặc vô duyên cũng cứ cười, nhé anh. Nhiều danh-y trên đời từng quả-quyết: cười là liều thuốc bổ không tốn đến một xu. Vậy thì, mời bạn và mời tôi: ta hãy cười. Cười hoài cười mãi, rất khôn nguôi!

Vâng. Ai cũng quyết tâm làm như thế. Nhưng, chữ “nhưng” đây thật vô lối, nhưng lại rất giá-trị, là hỏi rằng: tại sao người nhà Đạo ít cười, không chịu cười nhiều hoặc để mất nụ cười tươi-tắn, cũng đã lâu?

Để trả lời câu hỏi khá “hóc búa” này, lại cũng mời bạn và mời tôi, ta đi vào vườn “thượng-uyển” có giòng chảy tư-tưởng của đấng bậc, rất nhiều vị, để minh-chứng hoặc xác-minh một khẳng-định rất hợp lẽ. Nhưng –(lại chữ “nhưng” cũng hơi kỳ)- là: trước khi tìm đến câu trả lời thật thoả đáng, thiết tưởng ta cũng nên xem thử Kinh Sách từng nói gì về “nụ cười” rất cần-thiết cho nhà Đạo, qua lời khuyên. Lùng tìm cho lung, chỉ thấy mỗi đôi giòng:

“Phúc cho anh em

là những kẻ bây giờ đang phải khóc,

vì anh em sẽ được vui cười.”

(Lc 6: 21)

Nghe thế, chắc hẳn người nghe những tưởng rằng: nụ cười rộn rã chỉ mỗi đến sau khi nhà Đạo mình đã khóc ròng, nhiều ngày. Sự thật thì, không phải thế. Bởi, đời người có khổ đau nhiều như thánh

“Nếu con nói:

con sẽ quên đi lời than thở,

đổi nét mặt mà hớn hở vui tươi.”

(Gióp 9: 27)

Hoặc, đoạn khác:

“Họ chẳng dám tin,

dù tôi có mỉm cười với họ,

nét mặt tôi thay đổi thế nào,

họ chẳng bỏ qua.”

(Gióp 29: 24)

Vâng. Đạo mình, vẫn chỉ như thế. Như thế, tức bảo rằng: trong nỗi buồn cuộc đời dài, người đời cũng sẽ thấy đời mình kết thúc bằng niềm vui tươi, rất muốn cười.

Vâng. Người nhà Đạo mọi thời, vẫn cứ cầu và cứ xin rất nhiều thứ, nhưng lại chẳng bao giờ nguyện và ngắm để mình nhớ mãi việc cần-thiết nhất với người nhà Đạo, là “cho đi”. Cho, những gì mình đã có nhưng người khác vẫn chưa có. Cho, là không nghĩ đến riêng mình mà nhớ nguời khác dù điều cần thiết đó có là niềm vui nho nhỏ, trong đời mình.

Nói theo kiểu nhà Đạo, thì: “cho đi” là bí-kíp sống giúp mọi người vui-tươi, sống tốt-lành/hạnh-đạo trong đời người đi Đạo rất Kitô thôi. Nói theo kiểu người đời rất buồn rười rượi, chắc cũng chỉ nói bằng lời ca/tiếng hát, rất như sau:

“Tình như nắng vội tắt chiều hôm

Tình không xa nhưng không thật gần

Tình như đá hoài nỗi chờ mong

Tình vu vơ cho ta muộn phiền

Tiếng thì thầm từng đêm nhớ lại

Tưởng chỉ là cơn say

Đóa hoa vàng mỏng manh cuối trời

Như một lời chia tay…”

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Giả như nghệ-sĩ ngoài đời cứ say sưa hát nhạc đời, rồi còn gọi đó là cơn say “đoá hoa vàng mỏng manh cuối trời” những muốn cười, suốt một đời, thì: chắc hẳn đời nghệ-sĩ sẽ rất vui, không còn tả oán/vãn than, điều gì nữa.

Giả như người đi Đạo lại cũng mê-say sống đời hạnh-đạo mà “cho đi” rất nhiều điều, chẳng kiếm tìm lợi-lộc gì cho riêng mình, thì đời người và đời mình cũng sẽ khác?

Giả như người ngoài Đạo, vẫn cứ hỏi: người Đạo Chúa cứ mê-say sống đời tìm-kiếm vui-tươi hạnh-phúc, thì sao nhà Đạo mình lại ôm-ấp truyện buồn thập-giá, đấu-tranh, khắc-kỷ, khổ-hạnh và tử-đạo như thế, há nào Đạo Chúa cũng buồn phiền, ít vui tươi?

Và, giả như có người nào đó muốn tìm-hiểu chuyện đời đi Đạo với đấng bậc vị-vọng chuyên suy-tư rao-giảng toàn những chuyện buồn-sầu, chán-ngán hoặc cấm-kỵ, thì nhà Đạo mình nghĩ sao về mục-tiêu của Đạo? Và, trả lời làm sao, khi có người vẫn cứ vấn-nạn về cuộc sống và lời dạy của “Đức Giêsu lịch-sử” bằng đôi giòng vắn gọn, mà thôi không?

Bần đạo bày tôi, thấy mình không có tư-cách trả lời cho vấn-nạn nói trên, như thế, bèn vời đến đấng bậc thày dạy Kinh thánh/thần-học, có được câu trả lời, như sau:

“Theo tôi, mình nên kể về: Đức Giêsu là Đấng từng sống ở đất miền bị ngoại-bang chiếm đóng rất nhiều năm. Ngài sống chung đụng với giới nông-gia lao-động tới mức chỉ đủ sống và Ngài cũng thuộc vào thành-phần dân lành bị ức-hiếp ngày càng tệ. Xứ sở Ngài sống, là thế-giới có qui-chế không công-bằng và chẳng đồng đều. Với thế-giới như thế, Ngài đề ra lối sống thực-thụ mang thị-kiến thật rất khác.

Ngài mời mọi người hãy cùng Ngài chung sống cuộc đời như thế trong cộng-đoàn tự-do có  biết chữa-lành và sẻ-san cho nhau mọi của ăn/thức uống, ngang đồng và giống hệt nhau. Cộng-đoàn Ngài đề-xướng, có quyền-lợi ngang bằng nhau trước mặt Thiên-Chúa cũng như mọi người. Với đám con trẻ cùng nam phụ lão ấu, những người bị phong cùi cả những người cùng-cực, sầu-khổ vì nhiều thứ, Ngài vẫn mời họ cùng một kiểu: hãy đến ngồi cùng bàn ăn uống với Ngài, để được cứu-chữa và lĩnh-nhận những gì mình từng đem cho người khác. Cộng-đoàn Ngài thiết-lập, cũng tương-tự như Vương Quốc Nước Trời của Thiên-Chúa. Và, toàn dân gian cùng thế-giới cũng đều thế. Giả như Chúa, chứ không phải vua quan người phàm, đều trực-tiếp chịu trách-nhiệm. Đó, chính là ý Thiên-Chúa muốn thực-hiện ở dưới đất cũng như nơi Vương Quốc của Ngài.

Vương-quốc của Ngài được định-hình rất đúng cách, nên thế-gian phàm-trần mới là vấn-đề. Chính vì thế, Đức Giêsu không chỉ nói đến mỗi Vương Quốc, nhưng là thực-tại từng-trải cho mọi người. Ngài cắm chặng thị-kiến Vương Quốc vào đất miền của xã-hội do Ngài thiết-lập. Chính vì thế, thiên-hạ mới coi Ngài là nhân-vật lập ra cuộc cách-mạng không theo nghĩa quân-đội nhưng là xã-hội. Và, Ngài đã chết vì thị-kiến Vương Quốc ấy. Dù Ngài thách-thức rất mực sự sắp-xếp thông-thường về thế giới Ngài thiết-dựng cũng đã làm Ngài bị bắt giam bất cứ khi nào. Chỉ mỗi biểu-tượng Ngài đưa ra về việc phá-hủy đền thờ thôi, cũng đủ tạo cớ cho người Do-thái và quan quân La Mã đã xúi-giục dân-quân mọi người chống lại Ngài. Thật cũng khó tưởng tượng trường-hợp một nông-gia không tên tuổi như Đức Giêsu lại bị chà đạp đến nát bẹp ở đền Giêrusalem dưới thời Caipha và Philatô trị vì.

Những chuyện không ngờ như thế vẫn xảy ra vào cuối đời của bậc nông-dân chân-chính người Do-thái là Đức Giêsu vẫn không là đoạn-kết của mọi sự. Những người từng có kinh-nghiệm về quyền-uy của Thiên-Chúa qua cuộc sống với Đức Giêsu, vẫn tiếp tục trải-nghiệm như thế cả sau khi Ngài chết đi, nữa. Nay thì, quyền-uy ấy không bị giới-hạn bởi thời-gian và không-gian, nhưng vẫn được áp-dụng ở bất cứ nơi đâu với những người nhận ra Thiên Chúa sống-động nơi Đức Giêsu. Đó, là lý-do cho thấy: tại sao sử-gia ngoài đời khôn-khéo và trung-lập như Josephus lại đã chép sử vào cuối thế-kỷ thứ nhất, rằng: “Những người từng đến với Ngài đã yêu thương Ngài ngay từ đầu, vẫn không từ-bỏ tâm tình yêu thương Ngài và dân con của Ngài mãi đến hôm nay, không biến dạng”. (x. Richard G. Watts & John Dominic Crossan, Who is Jesus, w.w.w.wjkbooks.com)

Phối hợp đời đi Đạo vui tươi/cười nhiều với cuộc sống của Đức Giêsu lịch-sử, không là chuyện dễ làm. Không dễ, là bởi hai vấn-đề lâu nay chưa được các đấng bậc “bật đèn xanh“ cho phép, nên cũng khó. Khó hơn cả, là chuyện thuyết-phục mọi người trong/ngoài nhà Đạo vẫn vui tươi sống đời đạo-hạnh cách tươi vui/hấp-dẫn, vẫn là chuyện cần-thiết, rất nên làm.

Rất nên làm, không có nghĩa có thể làm được và được làm ngay trong lúc này. Tất cả vẫn phải chờ mình có quyết-tâm chọn lựa cuộc sống giống như thế, hay không. Chọn và lựa, rồi sau đó sẽ cộng thêm vào mình sức mạnh của Thần-khí vẫn yểm-trợ mỗi người và mọi người, trong đời. Nghĩ thế rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta cứ hiên-ngang đứng dậy mà hát lời tâm-huyết, những ca rằng:

“Cười lên đi em ơi!
Dù nước mắt rớt trên vành môi.
Hãy ngước mặt nhìn đời.
Nhìn tha-nhân ta buông tiếng cười.
Ta không cần cuộc đời.
Toàn những chê bai và ganh ghét.
Ta không cần cuộc đời.
Toàn những khoe khoang và thấp hèn.

Cười lên đi em ơi!
Cười để giấu những dòng lệ rơi.
Hãy ngước mặt nhìn đời.
Nhìn đổi thay ta vang tiếng cười.
Ta không thèm làm người.
Thà làm chim trên rừng hoang vắng.
Ta không thèm làm người.
Thà làm mây bay khắp phương trời.”

(Lê Hựu Hà – Cười Lên Đi Em Ơi)

Vâng. Hỡi bạn và hỡi tôi, dù ta không là người “Em” của nghệ-sĩ, hãy cứ cười. Cười, không phải để “che giấu những giọt lệ rơi”, dù không có. Nhưng, là tỏ cho mọi người thấy: mình “không cần cuộc đời, toàn những chê-bai và ganh ghét”, mà chỉ cần nụ cười trong mọi buổi vui. Vui, với mọi người, dù phút chốc có nụ cười góp giọng, trong chuyện đời nhiều lúc cũng đáng cười và rất vui. Vui, như truyện kể ở bên dưới, như sau:

“Hai vợ chồng Giám đốc nọ đang kể với nhau về đủ thứ chuyện trên đời, vui buồn lẫn lộn, bỗng dưng có tiếng chuông điện-thoại reo trên bàn giấy của Giám đốc. Ông bèn chậm rãi lấy tư-thế của một vị Giám đốc, dõng dạc hỏi:

-Ai đó, Giám đốc nghe đây.

Đầu giây bên kia, có tiếng rất trong lại lanh lảnh, hỏi nhỏ chỉ mỗi câu:

-Anh yêu của em đó hả?

Giám-đốc nhà ta thoáng chốc thấy tâm can mình rối bời, nhưng đã tự-chủ mà hỏi lại:

-Alô! Ai đó? Danh-sách khen thưởng công-nhân-viên hả? Có rồi đây!

-Sao anh cứ đùa với em hoài mãi thế, Anh còn thương em nữa không, em hỏi thiệt đó?

-Thứ nhất: Nguyễn Hoài Thương, nhé!

-Em đến với Anh ngay bây giờ được không?

-Thứ hai: Lê Văn Kẹt.

-Hay là, Anh qua đây với em lập tức có được hôông?

-Thứ ba, là: Đỗ Thị Bận.

-Thế thì, khi nào Anh mới đến được với em cứ nói đi!

-Thứ tư: Mai Tấn Tới.

-Thế cũng được, mấy giờ Anh tới được hả Anh?

-Cuối cùng, là: Nguyễn Văn Mười Hai.

Tay này, khi xưa là Giám-đốc hãng nước hoa Thanh-Hương, làm ăn lỗ lã nay về làm với hãng mình đấy. Được cái, hắn cũng chịu khó chịu cực.

Nói đến đó, ông Giám-Đốc quay sang người vợ hiền vừa cười vừa nói: Nhân viên văn-phòng, lúc này làm việc bê bối quá, căn dặn đủ điều là thế mà bọn họ cứ ngồi đùa giỡn nói nói cười cười, suốt cả ngày. Bận như thế mà còn cười được, kể cũng lạ, Anh đành chịu!”

Thế đấy! Quan-niệm của quan-chức ở cấp cao vẫn cứ bảo như thế. Như thế, tức như thể khi đã bận rộn, thì dù có siêng năng làm việc hoặc vui chơi/ca hát, cũng cấm cười.

Thế mới biết, trong cuộc đời bận rộn suốt quanh năm, nhiều người dù có muốn cũng chẳng dám cười. Chí ít, là người đi Đạo và giữ Đạo ở nhà thờ.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn chủ-trương

đi Đạo phải thoải-mái, vui tươi

Vẫn cứ cười.

Thế mới vui.

Trốn Trại (Phần 2)

Trốn Trại ( Phần 2)

Ngoài hai chỉ vàng của chị Đồ cho muợn, vợ tôi đưa luôn chiếc nhẫn cuới đang đeo ở tay đưa cho tôi, như vậy tôi mang luôn hai chiếc nhẫn cuới. Lúc đó cũng khoảng 3,4 giờ sáng, vợ tôi và má của Nghĩa cũng vẫn còn ngồi đâu đó để chờ sáng ra xe chạy. Long ngồi ở ngoài nên có cho tụi tôi biết là vợ tôi và má của Nghĩa khóc nhiều lắm, vì không biết chúng tôi đi làm sao, vì không ai có tiền hay có vàng đem theo, không biết rồi sẽ đi đến đâu. Riêng tôi thì tôi quyết ra đi mặc dầu không biết ra sao, nhưng vẫn còn tốt hơn là ở lại Việt Nam.

Sáng sớm hôm sau xe rời bến để đi Nam Vang, nhìn qua khe ván ở sàn xe trời còn lờ mờ nghe tiếng nguời nói lao xao mới biết là vừa qua khỏi Ngã Tư Bảy Hiền. Khi đến trạm kiểm soát biên giới thì họ chỉ xét qua loa vì đây là chuyến xe công tác chở đồ cho bộ đội VC. Xe chạy càng nhanh đống chiếu trên đầu càng đe nặng, vì cây gỗ chận trên đầu không còn ở nguyên vị trí củ, mà vì sự lúc lắc của chiếc xe đa làm lệch đi và hai đứa tôi phải đưa lưng chống đở sức nặng bên trên đè xuống. Tệ hại hơn nữa là dọc đuờng VC đón xe đi quá giang nên họ ngồi trên đầu chúng tôi. Nghe tiếng họ nói chuyện với nhau thì biết là VC đang ngồi ở ngay trên đầu mình. Chúng tôi phải rán đưa lưng ra chịu đựng, vì chỉ sợ nó sụp xuống thì bị lộ ngay, rất là nguy hiểm. Khi tiểu tiện thì phải đợi lúc xe chạy nhanh rồi mới dám tiểu qua khe hở của ván sàn xe mà phải tiểu từ từ để bên ngoài không thấy không biết.

Đến chiều thì xe tới nơi đậu vào một chổ nào đó mà tôi nghe có tiếng nhạc của những bản nhạc ngày xua. Tôi mừng thầm vì được nghe lại những tiếng hát quen thuộc đầm ấm nồng nàn tràn đầy kỷ niệm của ngày truớc. Tiếng nhạc hòa lẫn tiếng nguời nói chuyện lao xao gần bên cạnh xe. Chúng tôi vẫn nằm im trong xe chờ khi nào có hiệu lệnh của Long thì mới ra đuợc. Một hồi lâu sau khi bên ngoài hoàn toàn im vắng và khi nghe ba tiếng hiệu lệnh của Long thì chúng tôi chui ra. Khi nhảy xuống xe, tôi không thể đứng được vì bị ngồi lâu trong thế co ro nên chân bị tê cứng, mà Long thì thúc hối phải đi khỏi nơi đây ngay vì sợ tài xế và an ninh đoàn xe họ biết, nên tôi và Nghĩa phải cố lết đi ra khỏi xe thật xa.

Nhìn chung quanh, đây là một bồn binh khá lớn ở cuối đại lộ, bên cạnh một sân vận động, xe đậu một đoàn dài chừng vài chục chiếc, tài xế và lơ xe khá đông, có nhiều xe họ mang theo cả gia đinh vợ con với đồ đoàn nồi niêu soong chảo, nên tôi thấy cũng dễ trà trộn ẩn thân. Tối đó tôi và Nghĩa ngủ ở một đám cỏ bên cạnh đường khoảng giữa đoàn xe và không dám gần xe nào cả vì sợ họ báo với an ninh đoàn xe.

Ngay tối hôm sau, tôi bán chiếc nhẩn cuới đuợc 75 đồng Riel, tiền Kampuchia, và nhờ Long môi giới mời một số tài xế lơ xe ra quán nuớc uống cà phê nghe nhạc, để tìm cách lân la làm quen gây cảm tình với họ. Tôi và Nghĩa đóng vai lơ xe, bạn với Long. Vì Nghĩa cũng là lơ xe nên nói chuyện dễ dàng, còn tôi thì cảm thấy hoàn toàn xa lạ, nên trong các câu giao tiếp tôi thuờng cuời nhiều hon là nói vì sợ bị bại lộ tông tích.

Ban ngày thì ra chợ Nam Vang, bữa đầu thì đi bằng xe lôi cho mọi nguời thấy, và vì không biết đường, mấy lần sau thì đi bộ. Đi ngang qua mấy con đuờng rất đẹp với hai hàng cây phủ mát bên đuờng, với những ngôi biệt thự sang trọng kiến trúc theo kiểu villa của Pháp, giống nhu khu đường Duy Tân, Yên Đổ ở bên xứ mình. Mấy ngôi nhà sang trọng đó bây giờ là dinh của VC, treo cờ đỏ sao vàng và có lính canh truớc cổng. Mỗi khi đi ngang qua thấy hơi chùng chân vì sợ nó hỏi giấy tờ bất tử.

Uống nuớc phong tên ở gần đó, ăn cơm thì mua của mấy gánh bán hàng rong, cơm một dĩa 10 đồng Riel. Ra ngoài chợ thì đi lòng vòng coi nhìn cái này cái nọ cho hết thì giờ, thỉnh thoảng công an chạy ruợt đuổi bắt người ở trong chợ, làm mình cũng sợ giật mình. Tôi thì có ý định tìm mua một quyển sách địa lý để coi bản đồ vùng Battambang, Siem Rệp, vùng biên giới Thái Lan. Họ bày bán sách cũ rất nhiều nhưng đều là tiếng Miên. Tôi lựa xem mấy cuốn sách có hình bản đồ rồi mua một quyển. Nhưng vì tôi không biết tiếng Miên mà mua sách Miên trong đó có hình bản đồ địa lý, nên họ có ý nghi ngờ. Mua xong tôi lật đật đi bộ về chổ đậu xe vì sợ họ báo với công an chợ. Sau khi nghiên cứu bản đồ để biết địa thế, đường đi nuớc buớc, cũng như khoảng cách bao xa. Tôi cố học thuộc lòng vùng Battambang, Siem Rep, vùng gần biên giới Thái Lan, rồi xé bỏ quyển sách đó ngay.

Lúc bấy giờ bên Miên hoàn toàn do VC kiểm soát, thỉnh thoảng có mấy tên lính Miên trẻ mặt còn non choẹt, mang khẩu AK dài đụng tới đất. Ở đây họ mắc loa phóng thanh cứ sáng sớm và chiều tối là nghe tiếng nhạc Miên, một âm điệu đều đều nghe buồn não ruột, nghe nhớ nhà, nhớ vợ nhớ con, nhớ quê hương mình vô cùng. Cuộc đời tôi cũng không ngờ lại lưu lạc đến noi đây, xứ lạ quê nguời, rồi cũng không biết ngày mai sẽ ra sao. Nghĩ lại thân phận mình, lêu bêu bình bồng, mà cảm thấy buồn vô hạn.

Tôi lân la mấy quán nuớc làm quen hỏi chuyện để tìm đuờng đi, thì đuợc biết là xe lửa chạy từ Nam Vang lên Battambang đã bị giật mìn không còn chạy nữa, bây giờ chỉ còn đuờng xe, nhưng VC đặt rất nhiều nút chận kiểm soát để chận bắt đào binh, nên rất khó mà lọt qua đuợc. Tôi ra phía đầu thành phố đường đi về huớng Battambang để xem trạm kiểm soát họ xét ra sao. Tôi thấy rất ít xe đi về phía đó và họ kiểm soát rất kỹ. Xe thì không thấy loại xe đò chở khách, mà toàn là xe chở hàng hay xe quân sự. Vả lại tôi không biết tiếng Miên nên rất ít hy vọng thoát qua đuợc, giá mà còn xe lửa thì tốt hơn.

alt

Ở đây đuợc ba ngày thì nghe tin đoàn xe được lệnh đi xuống hải cảng Kompong Som tức là Sihanoukville. Tôi không biết hải cảng này ra sao, nhưng nghe nói ở đó có tàu ngoại quốc ra vào. Trước đó tôi có dọ hỏi đuờng lên Battambang, thì họ nói là phải có nguời dẫn đuờng và phải trả bằng vàng, ít nhứt là hai lượng.  Trong mình tôi chỉ đuợc hai chỉ vàng thì làm sao mà đi và hơn nữa chúng tôi không biết tiếng Miên nên rất khó khăn, thành ra tôi đã bỏ ý định đi lên Battambang. Bây giờ nghe tin đi xuống hải cảng Kampong Som thì tôi thấy cứ đi đại xuống đó rồi sẽ tính sau, dầu sao ở hải cảng cũng còn có hy vọng hơn.

Buổi trua hôm đó tôi và Nghĩa ra chợ mua một nải chuối, lên chùa Năm Tháp gần đó để cúng Phật, để cầu xin Đức Phật Từ Bi độ trì đưa đuờng dẫn lối cho chúng tôi thoát ra đuợc khỏi nạn cộng sản. Sau khi quỳ lạy cầu nguyện Đức Phật xong, khi đứng lên là không còn thấy nải chuối đâu hết, mà trong lúc chúng tôi quỳ lạy thì có nguời tới chớp nải chuối đi mất thật là nhanh.

Đêm đó suy tính cách theo xe để đi, vì Long bảo phải tìm xe khác mà đi, chứ không được đi theo xe cũ vì sợ tài xế biết. Trong thời gian mấy ngày ở đó tôi cũng đã quen biết nhiều nên họ nhận cho tôi đi theo. Đoàn xe đi đến trạm kiểm soát thì ngừng lại để xét truớc khi ra khỏi thành phố, nhưng vì đoàn xe này có sự vụ lệnh đi công tác xuống hải cảng để chở hàng cho bộ đội VC nên không bị lục soát hay hỏi han gì và qua trạm kiểm soát này một cách dễ dàng.

Trên đuờng đi VC đóng đồn dọc theo đường, thỉnh thoảng đón xe quá giang, nhưng tôi ngồi phía trước chung với tài xế và lơ xe, nên rất là yên tâm. Trên xe bác tài có khoe một khẩu súng AK47 đuợc phát cho mỗi xe, nhưng chưa chắc là bác tài đã biết sử dụng. Tôi nhớ bữa đó trời mua tầm tả và xe bị hư máy phải dừng lại để sửa chữa, nhưng bác tài rất rành nghề chỉ sửa một chút là xong ngay, nhưng phải câu một bình xăng phụ ở bên ngoài. Đến chiều thì xe đến hải cảng Kampong Som, xe dừng trước cổng trên con đường lộ đá dẫn vào hải cảng. Khi xe vừa đến nơi thì tài xế và lơ xe đi vô cổng một cách tự nhiên mà không bị hỏi giấy tờ gì hết, nên tôi, Long và Nghĩa cũng đi theo vô trong hải cảng một cách dễ dàng.

Hải cảng này ở xa khu dân cư, có mấy lớp hàng rào kẻm gai bao bọc chung quanh, và một trạm kiểm soát tại cổng chính ra vào, với một số công an biên phòng VC canh gác. Đóng trên một ngọn đồi gần đó là một đồn công an biên phòng. Bên trong hải cảng là một bến đá, xây bằng đá tảng, để tàu cặp bến. Tôi cố nhìn thật kỹ quanh bến tàu để tìm xem có chiếc tàu nào của nuớc tự do, nhưng tôi chỉ thấy toàn cờ đỏ búa lìềm, toàn cờ cộng sản, thật là thất vọng vô cùng. Gần bến tàu là hai nhà kho rất lớn bằng sắt cất theo kiểu tiền chế của Mỹ. Có một đuờng rầy xe lửa, và ở phía trong xó góc có vài toa xe lửa bỏ không, không thấy nguời lai vãng, gần đó có một phong tên nuớc. Ở phía ngoài cổng bên cạnh con đuờng lộ đá là một cái ao khá lớn, mà thỉnh thoảng thấy có công an đến câu cá. Chiều tối đó tôi trở ra xe để ngủ qua đêm.

Sáng sớm hôm sau xe vô đậu truớc nhà kho lớn để chất hàng lên. Họ chất lên những bao bắp hột do nhân đạo quốc tế viện trợ để cứu đói cho dân Kampuchia, nay thực phẩm đó đuợc dùng để nuôi ăn cho bộ đội VC. Tôi chỉ còn bửa nay để đi lại thong thả trong hải cảng này, đến sáng mai khi đoàn xe đi rồi thì tôi không còn chuờng mặt ra đây đuợc nữa, vì bọn công an thấy sẽ biết ngay.

Chúng tôi đang lân la trong hải cảng thì bỗng có một chiếc tàu tuần của công an biên phòng VC vào cặp bến để lấy nước ngọt ở cái phong tên nuớc. Khi đó họ có hỏi tụi tôi, có muốn mua mấy món đồ lậu như ruợu, thuốc lá, đồng hồ, máy radio cassette v.v….Chúng tôi làm bộ nhận chịu, nhưng hẹn với họ ngày mai sẽ gom tiền cho nhiều để mua một lần cho tiện. Họ nghe nói thế tuởng là trúng mối to. Sau khi lấy nuớc xong là họ đi, truớc khi rời bến họ rủ chúng tôi lên tàu. Long nhanh chân nhảy lên truớc, tôi còn đang luỡng lự ngần ngừ, vì không biết họ đi đâu và đi làm cái gì, họ không nói gì cả, chỉ rủ lên tàu để đi thế thôi. Long đã ở trên tàu rồi nên thúc hối tôi lên tàu. Khi tàu mở dây cột tàu sắp chạy và vì sự thúc hối của Long nên tôi cũng nhảy lên theo, còn Nghĩa thì không đi.

Tàu chạy ra ngoài, nghe họ kể về những chuyện đi bắt ghe tàu vuợt biên. Họ đã bắt rất nhiều ghe tàu vuợt biên và lên giọng rất là sắt máu. Nguyền rủa những nguời vuợt biên là bọn phản quốc, chạy ra nuớc ngoài, bám chân đế quốc để ăn bơ thừa sữa cặn v.v… Tôi thầm nghĩ đến những chiếc ghe tàu vuợt biên nếu bị chiếc tàu tuần này bắt, thì coi như là thân tàn ma dại. Có những chuyến ghe tàu vuợt biên bị công an VC xả súng tàn sát mặc dầu họ biết đa số là đàn bà con trẻ.

Họ dẫn chúng tôi xuống hầm tàu để quảng cáo mấy món hàng mà chúng tôi hứa sẽ mua. Tàu chạy một lúc rồi cặp bến vô đậu trong căn cứ hải quân của chúng, rồi bảo chúng tôi lên bờ. Tôi cứ tuởng là tàu trở lại bến cũ cho mình lên, ai dè lại vô căn cứ VC nên cũng hơi ngại ngại. Hai đứa tôi đi ra cổng và đi theo con đuờng lộ đá dẫn vô bờ. Căn cứ này nằm xa bờ chừng vài chục thuớc, có con đuờng lộ đá làm bằng những tảng đá núi mà xe loại lớn có thể chạy đuợc.

Vô tới bờ đi bộ nguợc trở về hải cảng, dọc theo bờ biển thấy có một xóm chài, có một số tàu đánh cá, hai đứa tôi vô hỏi thăm. Lên một chiếc tàu thì gặp một nguời có mang một khẩu súng AK47, lỡ rồi nên tôi làm bộ hỏi để mua cá. Anh này nguời Miên gốc Việt nên nói được tiếng Việt. Anh ta ngó tới ngó lui rồi hỏi tụi tôi có muốn vuợt biên không. Chắc có lẽ họ thấy bộ dạng mình vô đây là định tìm đuờng vuợt biên nên mới hỏi thẳng như vậy. Thấy anh ta có súng thì hơi sợ, nhưng trong bụng thì muốn tìm cơ hội để đi, nên tôi cũng trả lời lưng chừng là bây giờ mà tính chuyện vuợt biên đâu phải dễ, tụi tôi ở đoàn xe vận tải đang đi công tác ở hải cảng. Ông ta tiếp thêm là nếu muốn vuợt biên thì ba ngày nữa trở lại đây rồi họ sẽ đưa ra hải đảo, ở đó họ sẽ chuyển qua tàu đánh cá Thái Lan, mỗi nguời hai lượng vàng, ba ngày nữa tàu sẽ ra khơi, nếu muốn đi thì lại đây. Nói xong ông ta cho một con cá to và hối tụi tôi đi ngay, vì ở đây lâu không tiện dễ bị nghi ngờ.

Tôi và Long trở về hải cảng, trên đuờng đi thỉnh thoảng gặp các toán tuần tiểu của công an biên phòng, họ đi tuần tra dọc theo bờ biển. Chúng tôi giả vờ mò cua bắt cá trong các hóc kẻ đá, khi họ đi qua khỏi rồi thì tiếp tục đi. Đi bộ một đoạn đường khá xa chừng vài cây số. Khi về đến chỗ đậu xe thì thấy có gánh bán cơm, tôi đổi cho họ con cá để lấy hai dĩa cơm. Sau khi ăn xong, tôi bàn với Long và Nghĩa là tối nay phải vô ngủ ở trong hải cảng, vì sáng sớm đoàn xe sẽ chạy trở về Nam Vang, khi đó thì mình không còn có chỗ ẩn thân ở bên ngoài đuợc. Long và Nghĩa thì có ý định trở lại Nam Vang, rồi trở về Việt Nam kiếm thêm tiền, vàng rồi trở qua đây, để đi theo mấy ghe tàu đánh cá. Riêng tôi thì tôi quyết tâm ở lại, kiếm chỗ ẩn náu quanh đây, may ra có dịp tìm đường đi, chớ quay trở lại Việt Nam thì không thể đuợc. Tôi quyết tâm là sẽ đi tới mãi chớ không quay lui. Riêng Long và Nghĩa đều là lơ xe nên chuyện đi hay trở về đều không có gì là nguy hiểm cả. Sau khi bàn tính một lúc thì Long và Nghĩa đồng ý ở lại vì thấy tôi quá quyết tâm. Chúng tôi mua ba ỗ bánh mì và lấy theo một bình nuớc rồi vô trong hải cảng ngay, truớc khi trời tối.

Tôi đã để ý từ truớc thấy có mấy goong xe lửa bỏ không ở một xó góc không có nguời lui tới. Vì vậy chúng tôi đợi đến khi trời tối, kín đáo lẻn vô trong toa xe đó và trốn luôn trong đó. Ngồi trong goong xe nhìn qua khe ván thấy đồn công an canh gác ở cổng cũng không xa lắm, vì vậy chúng tôi phải giữ gìn thật hết sức im lặng, đề phòng thật kỹ luỡng. Trong những lúc nguy hiểm tôi thuờng cảnh giác thức suốt đêm, quan sát nghe ngóng mọi động tịnh bên ngoài. Sợ khi ngủ hết, lỡ mà có nguời nào ngủ mớ la hoảng hay phát ra tiếng ngáy thì nguy hiểm lắm.

Khi trời sáng hẳn, tiếng đoàn xe rời hải cảng để trở về Nam Vang. Lúc bấy giờ bên ngoài không còn nguời lui tới, không còn thấy bóng dáng tài xế hay lơ xe nữa, vì vậy chúng tôi phải ẩn mình cho thật kỹ.  Chúng tôi nằm im trong toa xe lửa đó, buổi trưa trời nóng như thiêu, chúng tôi cởi trần, nhờ khe ván hở nên cũng không đến đỗi nào. Tôi chỉ sợ nếu có nguời muốn sử dụng goong xe này, họ đến kéo đi thì rất là nguy, chúng tôi sẽ bị phát giác ngay.

Cho đến chiều thì may quá có một đoàn xe khác xuống cùng vào đậu ở phía cổng như truớc. Tôi mừng quá vì lại có dịp ra ngoài trà trộn với đám tài xế lơ xe mà không ai để ý. Và cũng vào khoảng  4 , 5 giờ chiều hôm đó, bỗng đâu xuất hiện một chấm đen từ ngoài biển khơi đang tiến dần vô bờ, càng lúc càng lớn dần và sau cùng hiện rõ ra một chiếc tàu đang huớng vô hải cảng, rồi từ từ cặp vào bến đá. Một chiếc thương thuyền quá lớn mang tên PEP STAR, đặc biệt là lá cờ trên tàu không phải là cờ đỏ búa liềm, chắc chắn không phải là tàu cộng sản. Hơn nữa chữ PEP STAR có vẻ là tiếng Anh hơn là tiếng Nga.

alt

Sau khi tàu cặp bến xong xuôi, thấy có nhiều nguời đi lại gần chiếc tàu, khi đó tài xế và lơ xe ra vô tấp nập. Trời đã tối chúng tôi chui ra khỏi chỗ trốn và tìm cách lại gần chiếc tàu. Lúc đó có nhiều công nhân nguời Miên đang lên tàu, tôi liền hỏi nguời thủy thủ trên tàu họ cho biết là tàu của nuớc Đan Mạch, mà Đan Mạch là một nuớc ở Âu Châu, nên tôi yên trí chắc chắn không phải là một nuớc cộng sản, tôi mừng quá vì có thể xin tị nạn đuợc.

Trong bóng tối chúng tôi ngồi ở xa xa nhìn lên chiếc tàu thấy công nhân nguời Miên lên xuống theo chiếc cầu sắt cặp sát bên hông tàu. Ở trên tàu ngay chỗ đầu cầu lên xuống có hai tên công an đang đứng canh gác kiểm soát mọi nguời lên xuống rất là kỹ lưỡng. Tôi tập trung quan sát mọi hoạt động trên tàu để tìm cách lẻn trốn lên tàu, nhưng rất là khó khăn vì hai tên công an đang canh gác quá kỹ. Nếu lở lên tàu mà chúng bắt tại trận thì hết đuờng chối cãi chỉ có nuớc vô tù, mà riêng tôi thêm tội trốn trại nữa thì chắc chúng sẽ không tha.

Kể từ khi chui ra khỏi hàng rào ở trại tù Tống Lê Chân cho đến bây giờ là tôi đã vuợt đuợc một quảng đuờng khá xa, đã ra khỏi nuớc và ra đến biển và con đuờng duy nhất là phải lên cho bằng đuợc chiếc tàu này.  Nhìn lên trên tàu mà thèm thuồng uớc gì mình đuợc trốn vô nằm trong chiếc thuyền cấp cứu đang treo lủng lẳng đong đưa trên đó thì quá kín đáo. Tôi cứ nhìn hoài, tàu này chở những chiếc xe truck, chỉ có phần đầu máy với cái suờn phía sau. Đây là những chiếc xe viện trợ nhân đạo của Liên Hiệp Quốc. Cần trục trên tàu đang hoạt động liên tục đang bốc hàng xuống, mỗi lần một chiếc xe, cho nên rất là nhanh. Theo tôi nghĩ thì trong đêm nay sẽ bốc hàng xong và ngày mai tàu sẽ đi, mà tàu của các nuớc Âu Châu thì hiếm khi vào hải cảng của nuớc cộng sản này.

Trời tối dần mà Long và Nghia thì cứ hối thúc hoài, định leo đại theo dây cột tàu mà ra tàu. Nhưng đèn pha chiếu sáng khắp tứ phía thì làm sao mà leo ra đuợc, mà làm sao thoát hết đuợc ba đứa. Rồi Long lại tính đuờng nhảy xuống nuớc bơi qua bên kia thành tàu rồi tìm cách leo lên tàu. Tàu thì cao sừng sững đâu có dễ gì leo lên được, mà chung quanh đèn chiếu sáng choang, vừa nhảy xuống nuớc là bị bắn liền chứ đừng nói gì tới bơi ra tàu.

Tôi cứ chờ đợi dịp thuận tiện, mắt tôi cứ dán sát vào hai tên công an đang đứng gác trên tàu, một tên mang súng AK47, còn một tên mang K54 có lẽ là cán bộ. Quan sát theo dõi họ thật kỹ để mong tìm một chút sơ hở, nhưng mỗi lần có ai lên tàu là nó chận lại xét hỏi rất kỹ càng. Với lại mình không biết tiếng Miên, không giống nguời Miên, nên khó qua mặt đuợc nó.

Bỗng dưng trời xui đất khiến hai tên công an này đồng lúc rời bỏ vị trí buớc vô trong cabin tàu. Tôi vụt chạy lên tàu tức khắc kéo theo Long và Nghĩa. Khi lên đuợc trên tàu chúng tôi chạy băng qua bên kia thành tàu và tìm chỗ ẩn trốn, thì khi đó hai tên công an lại trở ra canh gác như cũ, nhưng chúng chỉ nhìn về phía cầu thang lên xuống, chứ không để ý gì về phía chúng tôi. Tôi nhìn quanh quất không thấy có chỗ nào để ẩn thân, không thể chui vô đống dây luột hay đống cây gỗ bên cạnh đó, vì dấu đầu lòi đuôi không thể che dấu hết ba nguời. Nhìn xuống hầm tàu thì thấy nhân công Miên đang làm ở duới đó và không thể lẫn quẫn ở đây lâu đuợc vì thủy thủ hay công nhân Miên bất chợt họ thấy họ sẽ nghi.

Ở trên tàu có hai cần trục một cần trục ở phía bên kia đang hoạt động liên tục, còn một cần trục phía gần bên tôi thì không hoạt động. Ở phía trên là phòng điều khiển bằng kiến, ở bên duới là phòng máy, có một lỗ tròn vừa nguời chun vô, tôi liền thử chui vô rồi kéo Long và Nghia vô theo. Tôi cố ép sát nguời vô trong để vừa đủ chỗ cho ba đứa ẩn mình. Lần lần tôi dọn dẹp các lon dầu, đồ đạt dụng cụ để chui sâu vào trong. Nếu có ai bất chợt đi ngang qua thì sẽ không thấy chúng tôi đuợc, nhưng nếu ló đầu vô trong thì sẽ thấy ngay. Hơi yên tâm một chút, lúc đó chắc cũng vào khoảng 11, 12 giờ đêm.

Cần trục bên kia vẫn còn đang tiếp tục hoạt động, độ một giờ sau thì chấm dứt. Sau đó công nhân lần luợt rời khỏi tàu, duy chỉ còn hai tên công an vẫn đi tới đi lui canh gác bên kia thành tàu. Sau đó nắp hầm tàu đuợc đóng lại, nắp hầm tàu làm bằng những lá sách bằng sắt nó chạy từ trong ra ngoài nghe rền vang. Sau khi nắp hầm tàu đậy xong, bây giờ chúng tôi có thể chui vô sâu thêm nằm truờn mình trên nóc hầm tàu và mọi sự trở lại vắng lặng hoàn toàn.

Tôi suy nghĩ, truớc khi tàu rời bến chắc chắn công an biên phòng và quan thuế sẽ kiểm soát rất kỹ, cho nên tôi phải tìm chỗ trốn khác kín đáo hơn, chớ không thể trốn ở đây đuợc. Lúc còn ở duới nhìn kỹ mọi hoạt động trên tàu, tôi thấy thỉnh thoảng có thủy thủ lên xuống ở phía truớc mủi tàu, như vậy phải có cầu thang lên xuống ở mũi tàu.

Đợi đêm thật khuya vắng lặng, tôi dặn dò Long và Nghĩa từng nguời một lần luợt chui ra và phải chờ khi nào công an quay lưng lại thì mới cho chui ra. Bò theo thành tàu, bò ra phía truớc mũi tàu để tìm cầu thang đi xuống hầm tàu. Trên tàu rất trống trải mà đèn thì sáng choang, do đó phải bò thật thấp để không thấy lộ hình lên trên nền trời. Sau cùng tôi đợi khi tên công an vừa xây lưng lại là tôi chui ra sau cùng, bò dọc núp duới thành tàu đến gần mủi tàu thì thấy có một cửa nhỏ, tôi mở chốt cửa rồi chui vào trong, có một cầu thang bằng sắt hình khu ốc, tôi lần theo xuống.

Xuống đến hầm tàu thì tôi thấy Long và Nghĩa nằm dài ở đó. Đây là khoang tàu nơi chứa hàng, sau khi hàng bốc đi rồi thì trống trơn không có chỗ nào để ẩn thân, mấy cây cột bằng sắt cũng không lớn đủ để che thân. Tôi thấy trốn ở đây không đuợc vì sẽ bị lộ ngay. Tôi lần theo cầu thang khu ốc để đi xuống nữa, thì khi xuống duới đáy hầm tàu, tôi thấy có một đống cây gỗ ở ngay mũi tàu, tôi mừng quá vì tìm đuợc chỗ trốn tốt. Tôi sắp lại đống cây gỗ để chừa ra một lỗ trống, đủ chỗ để cho ba đứa chui vào, xong rồi kéo thanh gỗ đậy lại, trông giống như cũ, không có dấu vết gì khả nghi. Lúc đó chắc khoảng 3, 4 giờ sáng, tôi nằm im trong đó, không dám ngủ và dặn kỹ Long và Nghĩa phải giữ thật im lặng, không được thở mạnh hay ho hen.

Độ khoảng 6 giờ sáng, tôi nghe tiếng lộp cộp đi xuống cầu thang, họ quét đèn lên trên đống cây, nhưng không thấy gì khả nghi, họ bỏ đi trở lên. Một lúc sau nữa tôi nghe tiếng còi tàu hụ lên ba tiếng, tôi mừng quá vì “tàu souffler ba là tàu ra cửa biển”. Một hồi sau tôi nghe tiếng sóng nước rào rào ở mủi tàu, tôi chợt biết là tàu đã chạy. Vì đang ở mủi tàu nên tôi không nghe tiếng máy tàu, mà chỉ nghe tiếng sóng nước đập vào thân tàu nghe rào rào và càng lúc càng mạnh. Đến một hồi nữa nghe ầm ầm, tôi biết là tàu đang chạy nhanh, đang rẽ sóng ra khơi. Một hồi sau chúng tôi chui ra khỏi đống cây gỗ.

Tôi định chờ một ngày một đêm rồi mới lên trình diện vì sợ nếu còn trong hải phận Kampuchia hay Việt Nam, thì họ có thể kêu tàu tuần đến bắt chúng tôi. Nhưng đến chiều thì Long bị ói mửa vì say sóng, càng lúc càng nặng, mặc dù trong bụng không còn thức ăn, chỉ ói ra nuớc, ói ra mật xanh. Sau cùng Long năn nỉ tôi phải lên trình diện, nếu không sẽ chết. Lúc đó tôi nghĩ là tàu đã chạy đuợc khoảng 8, 9 tiếng đồng hồ, chưa được xa lắm, chắc là còn trong hải phận Việt Nam, nhưng vì Long năn nỉ quá, nên sau cùng tôi đành phải lên trình diện.

Một mình tôi lên truớc, theo cầu thang khu ốc để lên và khi vừa chui ra khỏi cửa ở mủi tàu nhìn lên phía phòng lái bằng kính, tôi thấy nguời hoa tiêu đang nhìn xuống phía chỗ tôi, chỗ mũi tàu. Tôi tức tốc tìm cách đi thật nhanh lên đó ngay, vì sợ họ kêu tàu tuần đến bắt. Tôi đi thật nhanh, leo lên cầu thang lên tầng trên cùng và đi thẳng vô phòng lái.

Thấy tôi vừa buớc vô phòng hoa tiêu, ông ta nỗi giận dậm chân đùng đùng, bấm còi báo động. Ông hỏi tôi là ai, làm gì vô đây. Tôi liền trả lời tôi là sĩ quan Việt Nam trốn từ trại tù ở Việt Nam sang Kampuchia và trốn xuống tàu hồi đêm qua, tôi xin được tị nạn. Nhờ tôi nói bằng tiếng Anh, mặc dù không được trôi chảy, nhưng cũng hiểu đuợc phần nào. Lúc đó quần áo mặt mày tôi lem luốt dính đầy dầu nhớt, mạt cưa trông không giống ai. Tôi nói tiếp tên họ số quân của tôi và tôi đã học khóa Bộ Binh Cao Cấp tại truờng Fort Benning, tiểu bang Georgia, Hoa Kỳ và xin ông vui lòng liên lạc với tòa đại sứ Mỹ nào gần đây thì sẽ xác đinh đuợc lý lịch của tôi. Tôi xin ông một điều là nếu ông không nhận cho tôi tị nạn, thì xin ông bỏ tôi xuống biển, chớ đừng gọi tàu tuần đến bắt tôi, vì họ sẽ giết tôi.

Sau khi nghe tôi trình bày sự việc, tình hình bắt đầu lắng dịu, tôi liền nói thêm là hiện còn có hai nguời nữa còn đang trốn duới hầm tàu. Ông ta lại nỗi giận lên, kêu nguời đi xuống dẫn Long và Nghĩa lên. Long và Nghĩa đuợc dẫn lên ngồi trong góc, trông rất thãm não, mặt mày xanh xao, quần áo lem luốc bẩn thỉu. Xong rồi ông Thuyền truởng gọi báo về công ty, một lúc sau thì công ty chấp nhận cho chúng tôi tị nạn. Tôi mừng quá đỗi, coi như được sống lại và tôi có hỏi ông là hiện giờ tàu đang ở đâu, có còn trong hải phận Việt Nam không, thì ông chỉ cho tôi thấy một hòn đảo trông mờ mờ từ xa đó là đảo Thổ Chu của Việt Nam và ông cũng nói thêm rằng là kể từ bây giờ không ai có quyền lên tàu này để bắt chúng tôi lại, vì đây là tàu của Đan Mạch là đất nuớc Đan Mạch.

Một số thủy thủ đứng chung quanh, nghe thấy, dần dần họ có cảm tình với chúng tôi, họ đưa cho quần áo giày dép rồi dẫn chúng tôi đi tắm. Cho chúng tôi vô ở trong một căn phòng, đây là phòng của một ông kỹ sư đã đi phép. Trên giường nệm có hai tấm nệm tôi lấy một tấm đặt xuống sàn nằm ngã lưng xuống một cách thoải mái tuyệt trần. Một lúc sau chúng tôi được dẫn đi ăn, một bửa ăn thật tuyệt diệu trong đời, trong đó có cơm chiên dương châu và mấy khúc cá thu hấp rất thơm ngon chưa từng có. Đây là một bửa ăn tuyệt diệu nhất, tự do nhất, thoải mái nhất, mà tôi cảm thấy như đuợc sống lại sau bao nhiêu ngày trốn tránh lang thang vất vả căng thẳng tột cùng, có đôi khi gần nhu tuyệt vọng.

Sau khi ăn xong bửa cơm tuyệt diệu đó, chúng tôi đuợc dẫn đi thăm viếng tàu. Truớc hết đến phòng ông thuyền truởng, ông rót ruợu uống mừng cho chúng tôi đã thoát nạn cộng sản và chụp hình lưu niệm. Sau đó đi tiếp qua các phòng và được biết trên chiếc tàu này có nhiều nguời thuộc quốc tịch khác nhau như Hòa Lan, Đan Mạch, Ba Tây, Phi Luật Tân v.v….Các thủy thủ trên tàu cho chúng tôi xem hình ảnh gia đình của họ và chuyện trò rất là thân mật, thật là hết sức lịch sự và đầy tình nhân ái. Nghĩa có mang theo một số tiền Việt Nam không còn xài được nữa, nên mới đưa cho các thủy thủ. Họ rất tốt bụng đã cho lại chúng tôi mỗi nguời 20 US dollars và chọn cho chúng tôi mỗi đứa một bộ đồ vừa vặn đẹp đẽ để mặc khi lên bờ.

Chúng tôi được cho lên phòng hoa tiêu để ngắm nhìn hoàng hôn trong buổi chiều tàn, nhìn mặt trời lặn trong cảnh nuớc trời bao la, thật là tuyệt đẹp, mà tuởng chừng như trên chốn bồng lai tiên cảnh nào vậy, trong khi con tàu đang luớt sóng thật êm đềm. Đây là một chiếc thương thuyền rất lớn nên chạy thật là êm ái, khác xa với cảnh tuợng của những chiếc ghe vuợt biên bé nhỏ, chở đầy nguời, bập bềnh trên biển cả mênh mông, sóng gió hãi hùng, và còn phải lo sợ bị hải tặc hảm hiếp, cuớp của giết nguời thật là ghê rợn.

Buổi tối hôm sau tàu tiến vô một hải cảng với muôn ngàn ánh đèn rực rỡ, trong một vùng vịnh bao la, với vô số thương thuyền tàu bè đủ loại, trông thật hùng vĩ huy hoàng tráng lệ. Đó là hải cảng Singapore. Theo thủ tục của luật di trú thì chúng tôi phải vô trong phòng và thuyền truởng sẽ khóa cửa lại, để giử chúng tôi trong đó. Tuy nhiên nếu có cần gì thì cứ gọi, thỉnh thoảng có nguời đến thăm chừng, thật là hết sức lịch sự tử tế và chu đáo vô cùng.

Chừng vài tiếng đồng hồ sau thì có hai nhân viên của sở di trú Singapore đi xuồng máy ra lên tàu và mở khóa cửa phòng, thẫm vấn chúng tôi và làm thủ tục giấy tờ, xong rồi họ đi ngay. Sau đó thì có một phái đoàn của Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, UNHCR, xuống phỏng vấn và làm thủ tục. Tôi trình bày bằng tiếng Anh, nhưng bất ngờ nguời đó trả lời bằng tiếng Việt và bảo tôi cứ nói bằng tiếng Việt Nam đuợc rồi. Tôi mừng quá vì đuợc gặp nguời đồng hương, sau này tôi đuợc biết đó là cô Bích làm việc trong văn phòng Cao Ủy Tị Nạn ở Singapore. Khi làm thủ tục giấy tờ, và trong nguyện vọng xin đi định cư nuớc nào, thì tôi xin đuợc đi Mỹ, vì hiện tôi có một đứa em đang ở Mỹ, và tôi cũng đã từng du học ở Mỹ, nên nghĩ rằng sẽ đuợc cứu xét dễ dàng hơn. Chúng tôi ngủ thêm một đêm trên tàu và sáng hôm sau thì có nguời của Cao Ủy Tị Nạn ra đón ba đứa tôi lên bờ, tôi còn nhớ đó là cô Robin, nguời nuớc New Zealand.

Sau một thời gian 22 ngày đêm vuợt thoát từ trại tù Tống Lê Chân, nay tôi được đặt chân lên một đất nuớc tự do là nuớc Singapore vào ngày 27 tháng 6 năm 1980. Chúng tôi đuợc đưa về tạm trú ở khách sạn YMCA. Ở đây hiện có chừng muời nguời Việt Nam tị nạn cũng mới đến chừng vài ngày truớc và họ giao nhiệm vụ cho tôi làm thông dịch viên. Điều đầu tiên là tôi ra Bưu điện để đánh điện tín về Việt Nam cho gia đình tôi biết tin. Vì có tiền 20 dollars nên tôi gọi taxi ra Bưu điện và gởi điện tín về cho vợ tôi với nội dung nhu sau: “Đã giải phẩu xong bình an” , đó là câu mật hiệu để cho vợ tôi biết là tôi đã thoát nạn và đã đến nơi an toàn. Điện tín này đã đến nhà tôi vào ngày 30 tháng 6 năm 1980. Vợ tôi hết sức vui mừng khi nhận đuợc điện tín này, phân vân không biết Singapore là nước nào ở đâu. Vợ tôi liền đi xuống Mỹ Tho để báo tin mừng và vô Trung Lương, nơi đất hương quả mồ mã tổ tiên để cúng tạ.

Chúng tôi ở khách sạn YMCA vài ba ngày để làm thủ tục. Buổi chiều rỗi rảnh chúng tôi dắt nhau ra chợ Tàu. Đi bộ chừng 15 phút là đến, một dãy kios quán ăn rất là đông vui và ngon miệng. Long biết nói tiếng Tàu nên rất dễ giao tiếp. Ở Singapore 80% là người Hoa, còn lại là nguời Ấn và người Mã Lai.

Sau đó chúng tôi đuợc đưa vào Trại Tị nạn Sambewang, còn gọi là trại Hawkins. Khi vừa buớc vô văn phòng trại tị nạn, tôi chợt thấy lá cờ vàng ba sọc đỏ thật lớn treo trên tường mà lòng hân hoan vui mừng quá độ. Tôi và nhóm nguời mới tới đều vui mừng sung suớng đến rơi nuớc mắt, đuợc hôn lên Lá Cờ  Quốc Gia Dân Tộc và biết chắc rằng mình đã thật sự thoát khỏi ngục tù cộng sản và đã đến đuợc bến bờ tự do.

Chúng tôi đuợc lãnh tiền trợ cấp mỗi nguời 2.50 đồng một ngày, một đồng Singapore lúc đó trị giá vào khoảng 0.8 dollar Mỹ. Ngoài ra còn đuợc phát mỗi nguời một chiếc chiếu, và cứ 6 nguời thì đuợc phát một cái lò nấu ăn. Đây là một trại lính với nhiều tòa nhà có hai tầng khang trang, trại viên trải chiếu trên sàn gạch rất mát mẻ sạch sẽ, không có ruồi muỗi. Phía ngoài là sân cỏ, đuợc giử gìn chăm sóc cắt xén rất đẹp như một tấm thảm xanh.

Cuộc sống ở trại tị nạn này rất là thoải mái, có khu chợ nhỏ ngay trong trại, đa số là nguời Ấn độ, bán đủ loại thực phẩm, rau cải, trái cây, đặc biệt là trái sầu riêng ở đây có rất nhiều. Ở ngoài vòng rào và cách trại chừng vài trăm thuớc, có một con rạch rất lớn, có nhiều cá, nhứt là cá rô Phi. Có nguời chui rào ra, luới đuợc rất nhiều cá, đem về bán chui qua các nhà.

Những nguời đuợc đưa về trại này thuờng là chỉ đuợc tạm trú ở đây khoảng 3 tháng, để làm thủ tục đi định cu, hoặc là những nguời từ trại đảo Galang đưa đến chờ máy bay để đi định cư. Hàng ngày công việc của trại là theo dỏi tin tức phát thanh trên loa, để biết khi nào đuợc gặp phái đoàn để đuợc phỏng vấn và khám sức khỏe.

Khi mới đến trại khai hồ sơ lý lịch, vì tôi đã từng du học bên Mỹ nên được Ban Chỉ huy trại giao nhiệm vụ làm Thông dịch viên. Công việc thường ngày của tôi là giúp thông dịch nếu có phái đoàn vô trại. Còn không thì phải đưa người đi ra các toà Đại Sứ Anh, Mỹ, Úc v.v…Hoặc đưa người đi bệnh viện, để khám sức khỏe để đi định cư. Ở trong trại cũng có bệnh xá để điều trị các bệnh nhẹ thông thường như ho, đau bụng, nhức đầu, nóng lạnh v.v…Lúc đó có Bác sĩ Rạng trách nhiệm bệnh xá, ông cũng là người tị nạn và trước kia ông từng là bác sĩ của Bệnh viện 3 Dã chiến ở Phú lợi Bình Dương.

Ở trong trại tôi thấy có nhiều hoàn cảnh rất là thương tâm. Có nhiều nguời mất vợ mất con mất cha mất chồng trên đường vượt biển. Như có một ông bác sĩ, tôi nhớ mang máng tên là Phùng, Bác sĩ Phùng, ông bị khủng hoảng tinh thần gần như điên loạn, vì cả gia đinh vợ con đều bị chết. Tôi thấy ông cứ đi lang thang nói nhảm suốt cả ngày.  Vì ông mắc bệnh tâm thần như vậy nên không được phái đoàn nào phỏng vấn, rồi không biết sau này ra sao.

Sau khi đến trại đuợc một tuần, tôi liền gởi gói quà nhỏ đầu tiên về cho gia đình, trong đó có vài thước vải đen, chai dầu xanh và kẹo bánh. Ba tháng sau vào tháng 10 năm 1980 thì tôi được đi định cư qua Mỹ. Long và Nghĩa thì được định cư ở Đan Mạch.

Với lòng tri ơn sâu xa, tôi xin ghi lòng tạc dạ công ơn cứu tử của thuyền trưởng và toàn thể thủy thủ đoàn trên chiếc thương thuyền Pep Star, thuộc công ty hàng hải của nước Đan Mạch, đã cứu vớt tôi và giúp cho tôi thoát khỏi ngục tù cộng sản và cho tôi đến được bến bờ tự do. Đây quả là một công ơn quá lớn lao mà suốt đời tôi không bao giờ quên đuợc.

Tôi cũng không bao giờ quên nghĩa cử cao đẹp, đầy lòng nhân đạo của Cơ quan Tị nạn Liên Hiệp Quốc UN/HCR và dân tộc các nuớc trên thế giới, đã mở rộng vòng tay cứu vớt, trợ giúp và cưu mang chúng tôi, những người tị nạn trốn chạy khỏi chế độ cộng sản bạo tàn phi nhân bản.

Sau khi đến Hoa Kỳ được một năm thì tôi đuợc vào quy chế thường trú, năm năm thì đuợc vào quốc tịch. Ngay khi đến Hoa Kỳ, tôi lo ngay việc nạp đon xin bảo lãnh gia đình qua chương trình ODP và 9 năm sau thì vợ tôi và ba đứa con đã đến được Hoa Kỳ. Sau hơn 14 năm xa cách kể từ ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày miền Nam rơi vào tay cộng sản, nay gia đinh tôi đuợc đoàn tụ lại như xưa, đã thoát khỏi gông cùm cộng sản và được sống trên quê hương mới đầy lòng nhân ái bao dung.

Đây quả như là một phép lạ do Ơn Trên ban phuớc cho./.

Nguyễn Ngọc Thạch, K20

Từ Nguyễn C. Hoà gởi

Sách vở và hạnh phúc!

Sách vở và hạnh phúc!
July 13, 2014 4

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Tôi có một người bạn rất yêu văn chương, suốt cuộc đời ông, tuy là một người lính trận, tay súng tay viết, ông viết văn làm thơ. Yêu văn chương tất nhiên là phải yêu sách vở. Lúc về già, ra hải ngoại, ông hết mình bỏ công sức sưu tập tài liệu về văn học và tự xây dựng một nhà in bỏ túi, tự in lấy sách mình và của bạn bè. Ông có một cái tên do cha mẹ, kỳ vọng nơi con sẽ là người yêu sách, tên ông là Trần Quí Sách. Lớn lên khi biết yêu văn chương, thích sách vở, ông đặt bút hiệu cho mình là Trần Hoài Thư theo chí hướng “quí sách” của đấng sinh thành đã kỳ vọng nơi ông.


Ðộc giả đọc sách trong một nhà sách ở Hà Nội, Việt Nam. (Hình: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)

Tôi lớn lên trong buổi giao thời của Hán-Nôm và chữ quốc ngữ. Sách vở thời ấy còn hiếm và đắt, không phải ai cũng có sách trong tay, học sinh đến trường có được một vài cuốn sách giáo khoa đã là quý. Theo quan niệm cổ lỗ của bà nội tôi, sách là tư tưởng của thánh hiền phải đem lòng kính trọng, những trang sách chữ Hán không dùng thì đem đốt trong lò hương (khác với dùng để nhúm lò hay làm đóm thuốc lào) hay tốt hơn hết là nhai rồi nuốt vào bụng!

Thời “cách mạng,” sách là nọc độc. Sách Tây sách Anh là sản phẩm đế quốc, sách tiếng Việt là tàn dư của văn hóa đồi trụy, không thì cũng là của “bọn biệt kích văn hóa.” Cộng Sản Bắc Việt bắt chước bạo chúa Tần Thủy Hoàng, đốt sách và cầm tù kẻ sĩ. Sách đốt không hết thì xé vụn đem cân ký lô hay dấm dúi bán rẻ cho bà bán xôi, bán mắm phục vụ quần chúng. Ðó là thời sách vở tan nát dưới bàn tay bạo chúa, nhân dân phải chịu ngu dốt một thời gian mói phục hồi được trí tuệ, do đó mấy người biết yêu quí sách vở, thứ văn hóa đó khó mà gột rửa.

Nếu hoa hậu Singapore, Pilar Carmelita Arlando, hiện là sinh viên đại học ngành du lịch, vừa bị gán biệt danh là “óc bã đậu” khi trả lời sai ngay cả những kiến thức sơ đẳng về đất nước mình, thì thí sinh tham dự Hoa Hậu Ðại Dương của Việt Nam với câu trả lời ngô nghê: “Em muốn người Trung Quốc hãy… mở giàn khoan đó ra… để cho đất nước Việt Nam của em ngày càng xinh đẹp hơn!” làm thiên hạ cười lăn. Nếu nhà báo, nhà văn, sinh viên, đảng viên hay viên chức chính phủ coi thường sách, chúng ta cũng nên thông cảm vì ở đời có nhiều thứ quý hơn sách, như điện thoại đời mới, xe đắt tiền, chỗ làm thơm, gái đẹp, đô la. Ðến như hoa hậu, thì đâu còn cần đến sách, họ cần y phục, phấn son, tước vị, đại diện cho các công ty mỹ phẩm và… đại gia.

Mới đây, lại có chuyện liên hệ giữa sách và hoa hậu. Số là một bức ảnh chụp cảnh đạo diễn Lê Hoàng và hoa hậu các dân tộc Việt Nam, Triệu Thị Hà, ngồi đối thoại với nhau trên hai chiếc ghế kê bằng các cuốn sách lộ ra ngoài, khiến khán giả “yêu sách” cảm thấy bất bình. Hoa hậu thì phân bua không có trách nhiệm (đương nhiên) vì quá vội vàng, vì sau đó phải bay đi Hà Nội, rồi để sau đó về Cao Bằng thăm nhà (hoa hậu nào trên trái đất này mà không bận rộn). Ông đạo diễn thì ngụy biện “đây chưa phải là thành phẩm, chưa phát hình mà chỉ như một bản nháp (nghĩa là chưa được edit, cắt xén) thì không thể phán xét, phê bình.

Nghĩa là ông có thể ngồi xổm lên sách vở, miễn là trước khi đoạn phim đem ra trình làng, không ai thấy cảnh ấy là được! Như vậy, nghĩa là chúng ta có thể làm bất cứ điều gì, miễn là đừng cho ai trông thấy.

Không ai trông thấy thì không có gì phải hổ thẹn. Dư luận lên án họ là “vô học,” “vô văn hóa,” “vô đạo đức”… rất nhiều bình luận phẫn nộ nhắm vào hành động dùng sách thay cho cục gạch kê bốn chân ghế.

Lẽ cố nhiên các cuốn sách này không phải là của các tác giả làm trong đài truyền hình, mà của các nhà văn cầu cạnh muốn gửi sách đến cho đài, để đài giới thiệu hay tặng cho nhân viên trong đài, không phải nơi và là đối tượng để tặng sách, cuối cùng không có giá trị bằng một cục gạch, nhân viên đài truyền hình dùng để đệm ghế cho hoa hậu ngồi. Kinh nghiệm này giúp cho các tác giả thận trọng khi hạ bút ký sách tặng cho đài phát thanh, truyền hình, đạo diễn, ca sĩ, xướng ngôn viên và nhất là các hoa hậu.

Khổng Tử nói, “Quân tử ba ngày không đọc sách, soi gương mặt mũi đáng ghét, nói chuyện nhạt nhẽo khó nghe,” nhưng thời nay, cỡ hoa hậu son phấn che lấp, dung nhan kiều diễm, nói nhăng nói cuộc cũng lắm người nghe!

Báo Công An Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của Ðảng Ủy Công An Trung Ương và Bộ Công An, đã viết một câu nguyên văn như sau, “Ðội tuyển Anh là đội bóng mà tôi rất yêu thích. Thế nhưng, cái cách mà đội tuyển Anh thi đấu, lại khiến tôi nhớ đến câu nói rất cũ của người Trung Hoa: “Quân tử ba ngày không đọc sách, lời nói đã nhạt. Quân tử ba ngày không soi gương, mặt mũi đáng ghét.” Ban biên tập này cũng là loại chê sách hay loại viết càn, không chịu tra cứu, phịa lời Không Tử là “ba ngày không soi gương, mặt mũi đáng ghét.” Như vậy, theo lời khuyên của Ðảng Ủy Công An Trung Ương, hoa hậu chỉ cần soi gương mỗi ngày, đâu có cần đọc sách!

Thực tế là theo thống kê của Petrotimes Việt Nam, thì người Việt mỗi năm không đọc nổi được một cuốn sách. Cụ thể, dựa trên báo cáo hàng năm của các thư viện gửi về Bộ Văn Hóa, Thể Thao và Du Lịch, trung bình người Việt đọc 0.8 cuốn sách mỗi năm trong khi đó ngay tại các thư viện công cộng tỷ lệ này cũng chỉ đạt 0.38 cuốn.

Nhưng sách vở mà làm chi, sách đôi khi là kẻ thù của chế độ.

Theo Trần Thành Nam trên Blog Danlambao, thì lý do dân ít đọc sách do nhà nước: “Chỉ hơn nửa thế kỷ qua chính quyền này đã làm hỏng dân tộc ta, đã tạo ra xã hội rẻ rúng sách, dị ứng sách như hiện nay.”

Người Việt càng lười đọc sách, chế độ ta hôm nay càng an toàn. Cũng như, vì chúng ta ít đọc sách mà xã hội ta đã có chỉ số hạnh phúc cao nhất thế giới đó thôi?

Ðọc sách đòi hỏi tư duy. Tôi tư duy nên tôi tồn tại. Chúng ta có tư duy không nhỉ? Có, chúng ta đang phải và được phép tư duy trung bình với tốc độ 0.8 lần trong một năm!

Người Việt sẽ giữ vững ngôi đầu bảng hạnh phúc trên thế giới vì tốc độ tư duy đó. Mỗi năm chỉ cần phải tư duy gần một lần thôi, còn lại là chúng ta hạnh phúc!

Thì ra không đọc sách, cuộc đời này hạnh phúc biết mấy! Càng ngu si lại càng hưởng thái bình!

 

Bánh Vẽ & Áo Giấy

Bánh Vẽ & Áo Giấy

RFA

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Cái chính tức là nhà trường hiện nay truyền sang học trò tinh thần thi nhau cạnh tranh để giành mọi loại danh hiệu.

Vương Trí Nhàn

Bốn mươi năm trước, khi luận về chuyện “Chúng Ta Qua Tiếng Nói,” nhà văn Võ Phiến đã có lời bàn:

“Chúng ta chỉ lấy làm quan trọng những ghi nhận của giác quan bằng những hình dạng màu sắc v.v. Mũi thì gọi là cái mũi, nhưng mắt lại là con mắt; trâu thì lúc nào cũng là con trâu, nhưng kiến thì có thể là cái kiến. Một bên linh động, một bên không linh động; một bên là giọng bình thường, một bên bị khinh thị: những ghi nhận như thế chúng ta không bỏ qua…

Chúng ta nói tiếng nói của giác quan, mà cũng là tiếng nói của tình cảm nữa.

Lão thợ rèn, gã thợ rèn, ông thợ rèn, bác thợ rèn…, tất cả đều là người thợ rèn. Nhưng mỗi người đặt trong một quan hệ tình cảm khác nhau đối với kẻ nói … Chúng ta không nói một cách ‘khách quan’. Chúng ta nói đến một người nào là đồng thời nói luôn cả cái tình cảm của mình đối với người ấy.

Thái độ ấy không khỏi làm ngỡ ngàng người ngoại cuộc. Hãy tưởng tượng cái tình cảnh khốn đốn của một người Pháp, người Anh học tiếng Việt, mỗi lần ậm è cân nhắc giữa những gã, lão, ông, bác v.v. để chọn lựa một tiếng thích hợp. Hễ động nói đến ai cũng phải khai trình minh bạch liên hệ tình cảm, sao mà khổ sở quá vậy?


Đã từ hai nghìn năm nay, chúng ta được biết một đức Khổng Tử. Hồi đầu năm 1974 này, có 48 chiến sĩ Việt Nam bị quân đội Trung Cộng bắt từ quần đảo Hoàng Sa đem về Quảng Châu giam giữ. Tại đây, lần đầu tiên họ nghe nói đến một tên Lâm Bưu với một thằng Khổng Tử! Họ sững sờ.”

Bốn mươi năm sau, sau những giây phút “sững sờ” thì bối rối là tâm cảm chung của người dân miền Nam – nơi mà người ta quen gọi nhau là ông đạp xích lô hay bà lão ăn mày – khi nghe nói đến đủ thứ tên hay thằng như thằng Ken-nơ-đi, thằng Gion-xơn, thằng Ních-xơn, thằng Diệm, thằng Thiệu, thằng Kỳ…  Ai vẫn cứ gọi theo thói quen là ông Kennedy, ông Johnson, ông Nixon, ông Diệm, ông Thiệu, ông Kỳ…  (dám) sẽ bị lôi thôi ngay, và (không chừng) còn bị qui chụp là đã “chao đảo” về “lập trường chính trị!”

Cùng lúc, dân chúng ở vùng đất vừa được giải phóng lại được biết thêm một số người cầm lái vĩ đại (những vị lãnh tụ kính yêu của toàn thể nhân dân vô sản trên toàn thế giới) qua hình ảnh tràn ngập khắp nơi, cùng với cách gọi hết sức thân thương – nghe cứ y như thể là bà con ruột thịt trong nhà vậy: bác Hồ, bác Mao, bác Kim, bác Lê-nin, bác Xít-ta-lin, bácPhiđen Cát-xtơ-rô …

Các bác không chỉ được nhắc nhở qua những bản tin, hay cuốn phim thời sự mà còn qua thơ văn nữa:

Bác Mao chẳng ở đâu xa

Bác Hồ ta đó chính là Bác Mao

Nói chung, quí bác đều được xưng tụng như thần thánh hay những giáo chủ. Còn tín đồ cũng không phải loại quần chúng vớ vẩn, bình thường mà toàn thuộc thành phần chọn lọc.

Họ đều thuộc “diện” nông dân giác ngộ, công nhân tiên tiến, chiến sĩ thi đua, tư sản tiến bộ, trí thức yêu nước, nghệ sĩ nhân dân, nhà giáo ưu tú… Họ cũng đều xuất thân từ những gia đình có công với cách mạng, gia đình thuộc diện chính sách, gia đình văn hóa… Và tất cả đều đang phục vụ trong những ban ngành, hay đơn vị xuất xuất sắc, luôn luôn sản xuất đạt tiêu chuẩn và vượt chỉ tiêu.

Trong một thời gian dài, những danh hiệu vừa nêu được mặc nhiên coi như là phần thưởng tinh thần để bù đắp (ít nhiều) vào đồng lương khiêm tốn, cùng với những thiếu thốn thương trực trong cuộc sống hàng ngày – khi mà “khó khăn là hoàn cảnh chung của cả nước” nên cũng không có chi để so bì, và cũng chả có ai để mà so sánh.

Cho đến lúc cuộc chiến tàn, bên thắng cuộc mới nhìn thấy được tận mắt thấy cảnh “phồn vinh giả tạo” của phe bại trận, và được nhấm nháp chút hương vị thực sự của cuộc đời – thay vì chỉ là danh hiệu, hay khẩu hiệu – qua những sản phẩm tiêu thụ hàng ngày ở bên kia chiến tuyến.

Từ đây, mới bắt đầu có hiện tượng Samit nói ít hiểu nhiều. Ba Con Năm (555) vừa nằm vừa ký. Qua đến thời kỳ đổi mới, rồi hội nhập với thế giới thì cả nước cùng lăn xả vào những bữa tiệc đời, chưa thấy bao giờ  – trước đó.

Giới lãnh đạo ở Việt Nam hiện nay (những vị mà chữ ký có thể mang về số tiền lại quả cỡ hàng triệu Mỹ Kim) ăn uống, chia chác ra sao là chuyện thuộc lãnh vực an ninh quốc gia và bí mật quốc phòng nên rất ít người được biết đến. Đụng tới họ là tù tội tức thì.

Còn cách “hưởng thụ” của quần chúng thì đã được “phản ảnh,” dù  tận nước ngoài – nơi có treo những tẩm biển nhắc nhở, đại loại như: XIN VUI LÒNG ĂN BÂY NHIÊU LẤY BẤY NHIÊU.

Hay những tấm bảng CẢNH CÁO VỀ TỘI PHẠM TRỘM CẮP:

Ngày 17 tháng 6 năm 2014 vừa qua, trên trang mạng Stomp(Singapore)  xuất hiện một bản tin ngắn, cùng hình ảnh, về một phụ nữ Việt Nam bị bắt vì tội móc túi, và bị làm nhục giữa chợ – ở Mã Lai.

Nguồn ảnh: singaporeseen.stomp

Sự kiện này khiến cho nhiều bậc thức giả phải suy nghĩ và băn khoăn không ít. Blogger Nguyễn Hoàng Đức … kêu trời:

“Còn nghĩ gì ư? Một nỗi nhục đã hiển hiện ra như thế mà vẫn còn nghĩ quanh co để lẩn trốn nỗi xấu hổ ư? Là người Việt chắc chúng ta chẳng lạ gì con người và quê hương, vì đấy là máu thịt giống nòi của ta, nó thân quen như quả cà với bát tương… nhưng thử ôn một tí kẻo chúng ta quên: mới đây Nhật cảnh báo số vụ ăn trộm của người Việt chiếm 40% các vụ trộm cắp ở Nhật.

Trời ơi, có một rúm người Việt trên đất Nhật mà ăn cắp bằng gần một nửa cả thế giới cộng lại… như vậy có phải người Việt ăn cắp thường trực không? Ăn cắp đã thế còn gian tham thì ở cỡ nào? Mới đây một cô gái Việt bị treo biển làm nhục giữa chợ trên đất Malaxia, sao cô ta lại không phải là người nước khác nhỉ?

Các nước Bắc Âu đã từng đặt camera theo dõi các công nhân Việt Nam, thấy họ ăn cắp thường trực mọi lúc mọi nơi, và đã đặt một cái tên “Không thể làm ăn với Việt Nam”. Một người Nhật mới đây nói thẳng “người Việt mãi mãi hèn khổ vì gian vặt, ăn cắp vặt, một mét dây cao cấp giá dăm triệu, bị người Việt cắt vụn ăn cắp bán có vài trăm, thế thì bao giờ mới giầu mạnh được?”

Nhạc sĩ Tuấn Khanh cũng phải bầy tỏ đôi lời cảm thán:

“Người Việt đã trãi qua nhiều khốn khó, sự kiện một phụ nữ Việt ăn cắp bị bắt, làm nhục tại Kepong, Baru nhắc lại những điều chúng ta đã đổ vỡ, nhắc những điều chúng ta cần làm nhưng chưa thể…

Giờ phút chúng ta nhìn lại, giữ lại cho dân tộc mình đã đến. Giờ phút đó gõ cửa từng nhà và nhắc rằng chúng ta là một dân tộc có 4000 năm văn hiến. Giờ phút buộc chúng ta nhớ lại rằng lịch sử cha ông không xấu xí như hôm nay, lịch sử của một dân tộc hiền hòa biết kính trên, nhường dưới, thương trẻ mến già.

Cuộc sống có đúng sai, nhưng không có chỗ của cái ác mà chúng ta nhìn thấy ở đám đông người Hoa tại Malaysia. Việt Nam có thể một người ăn cắp nhưng Việt Nam không tiếc sức để tìm kiếm những người Malaysia, người Hoa không quen biết trên chiếc máy bay MH-370 bị mắc nạn trên đại dương. Trong những dòng tin nhắn mà tôi nhận được, ghi rằng “thật xấu hổ cho người phụ nữ Việt Nam này, nhưng còn xấu hổ hơn nữa cho đất nước Malaysia”.

Chuyện còn “đáng xấu hổ hơn nữa” của “đất nước Malaysia” (nói thiệt) tôi không dám lạm bàn. Tôi cũng chưa bao giờ có được những ý nghĩ sâu sắc như những tác giả thượng dẫn.

Dòng chữ  nhắc nhở (“ĂN KHÔNG HẾT SẼ BỊ PHẠT”) hay hình ảnh những phi công hoặc tiếp viên hàng không Việt Nam bị bắt giữ vì tình nghi có liên quan đến hàng hoá trộm cắp chỉ khiến tôi nhớ đến đoàn người rồng rắn trước mấy cửa hàng quốc doanh (để chờ mua mấy cân thịt hay vài mét vải) cùng những bức tường nhà treo tá lả đủ thứ bảng danh hiệu, giấy khen, giấy chứng nhận, giấy ghi công, bằng tuyên dương, bằng tưởng thưởng … ở cái đất nước khốn khổ của mình.

Tại vì dân Việt đã sống thiếu thốn quá lâu, hay vì chúng ta đã bị ép mặc áo giấy và ăn bánh vẽ quá nhiều nên khó có thể “cầm lòng” khi được nhìn thấy thực phẩm hay hàng hoá bầy ê hể bầy ra trước mắt?

Có lẽ tại cả hai!

Bằng khen, huân chương của một mẹ Việt Nam anh hùng. Nguồn ảnh và chú thích: baomoi

Và tất cả đều là những chuyện đã rồi. Trong tương lai, người Việt (e) vẩn sẽ có kẻ bị bắt và bị làm nhục giữa chợ – ở xứ người – nếu nhà nước hiện hành vẫn cứ tiếp tục cho người dân ăn bánh vẽ (làm bằng danh hiệu) như đã chủ trương và thực hiện (vô cùng) bền bỉ từ gần hai phần ba thế kỷ qua!

 

Gái miền Tây lưu lạc xứ người

Gái miền Tây lưu lạc xứ người

Nhóm phóng viên tường trình từ VN
2014-07-18

TTVN07182014.mp3

Prostitution_2-305.jpg

Ảnh chỉ mang tính minh họa chụp tại Sài Gòn năm 2011.

RFA

Nỗi buồn cho gái miền Tây

Những cô gái miền tây trôi dạt từ Lục Tỉnh lên Sài Gòn rồi lại theo thời gian, theo tuổi đời, trôi dạt ra Trung, ra Bắc với thân phận của gái giang hồ rày đây mai đó, đời không biết sẽ trôi về đâu. Cũng có nhiều cô sinh con đẻ cái trên đường lưu lạc, cũng có cô sống mãi độc thân với nghề gái gọi, cave, cho đến lúc tuổi già bóng xế, không còn đủ nhan sắc để nương náu qua ngày, lại phải đi ăn xin qua ngày đoạn tháng nơi xứ người. Thiên hình vạn trạng nỗi buồn cho gái miền Tây.

Hiền, tên tục là Bé Hiền, năm nay 27 tuổi, theo giới nhà nghề chân dài miền Tây thì tuổi này đã bắt đầu ngấp nghé bước vào tuổi xế chiều của nghề buôn hương bán phấn, chia sẻ:“Mùa này hết mùa rồi, đi làm này làm khác sống chứ đâu có làm cái nghề đó nữa. Thu nhập bèo quá, ở nhà nhiều hơn đi làm, thì cứ làm chực này kia để sống chứ có làm gì đó đâu…”

Theo Hiền nói thì cô quê ở Bến Tre, tuy mới 27 tuổi đời nhưng đã có mười hai năm làm nghề buôn hương bán phấn ở khắp ba miền đất nước. Năm cô mười lăm tuổi, bị cha dượng chiếm mất phần trong trắng của cuộc đời và đánh đập, xua đuổi ra đường. Buồn bã lên Giồng Trôm, cô gặp một đàn chị mười sáu tuổi, đã có hai năm thâm niên bán dâm, đàn chị này nhận Hiền làm em kết nghĩa và chỉ dạy cho cách tồn tại cũng như các chiêu thức mời khách của một cô gái bán dâm thứ thiệt.

Mùa này hết mùa rồi, đi làm này làm khác sống chứ đâu có làm cái nghề đó nữa. Thu nhập bèo quá, ở nhà nhiều hơn đi làm, thì cứ làm chực này kia để sống chứ có làm gì đó đâu…
-Cô Hiền

Hiền theo đàn chị này vào bưng cà phê ở một quán phố huyện với mức lương 300 ngàn đồng mỗi tháng, nhờ vào việc bưng cà phê và dựa vào chỗ trọ dành cho nhân viên phục vụ quán, Hiền và đàn chị đã tìm được khá nhiều khách để hẹn hò và hành lạc theo kiểu ăn bánh trả tiền. Nhưng chẳng bao lâu, các nhóm bảo kê bắt đầu chú ý hai cô gái này và đòi trả tiền bảo kê. Hai cô lại tiếp tục lên thành phố Sài Gòn để phục vụ trong một tiệm massage ở quận Gò Vấp.

Và khi lên đến Sài Gòn, cuộc đời của Hiền giống như con cá được ra đến biển lớn, có muôn vàn thứ hấp dẫn để Hiền mãi mê bán dâm kiếm tiền mua sắm, khách làng chơi ở Sài Gòn cũng chơi sộp hơn so với khách ở Bến Tre. Các cô gái ở đây phải cạnh tranh, phải có tôn chỉ và đóng thuế cho các má mì, bảo kê. Nhưng bù vào đó, khoản tiền kiếm được đủ để khám phá mọi thứ, kể cả việc hút chích tốn kém và đắt đỏ.

MG_2355-250.jpg

Ảnh minh họa chụp tại TPHCM năm 2011. RFA PHOTO.

Và cũng ở Sài Gòn, Hiền biết được thế nào là luật chơi cũng như cách phân loại khách làng chơi. Đương nhiên là trong năm loại khách làng chơi, từ hạng long, hạng nhẹ, hạng trung, hạng nặng đều đã qua tay Hiền, nghĩa là từ hạng thanh niên loi choi cho đến quan chức cấp tỉnh đều đã từng qua đêm với Hiền.

Nhưng ở những hạng siêu nặng và ngoại hạng, nghĩa là quan chức cấp bộ và cỡ trên bộ thì Hiền không dám mơ sẽ được phục vụ vì ngoài yếu tố nhan sắc, còn phải đòi hỏi sự ngây thơ, trong trắng và có lý lịch tương đối đỏ. Những thứ này Hiền không có được nên cơ hội đổi đời của một cô gái làm tiền như Hiền là hoàn toàn không có giữa đất Sài Gòn. Nhưng dẫu sao, cô vẫn tự hào với nguyên tắc không bao giờ phục vụ Tàu khựa của mình cho dù phải lưu lạc về tận miền Trung khỉ ho cò gáy như hiện tại.

Quyết không bán dâm cho TQ

Một cô gái miền Tây khác, yêu cầu giấu tên, chia sẻ: “Nếu mà có chút trình độ hoặc chút khôn khéo thì khi còn chút nhan sắc thì vớ lấy anh nào đấy rồi về vườn, bỏ nghề chứ nếu không thì cứ theo nghiệp này luôn thì cũng sẽ có những hoàn cảnh nào đó, như họ nuôi con, hoặc hoàn cảnh họ đặt vào như vậy hoặc họ bị lừa, làm má mì, cáo già thì làm má mì, hoặc người họ kiếm ít vốn rồi họ về quê họ lấy chồng, lập nghiệp hoặc họ nuôi con… Cái nghề đó mà nếu nhiễm bệnh thì do họ thiếu kiến thức, cũng như cái xui rủi, tai nạn nghề nghiệp.

Tại ở Việt Nam chưa có công nhận mại dâm nên người ta nhìn họ với góc độ là làm công việc bẩn thỉu, không có tốt nhưng đó là quy luật cung cầu, nó phải có. Thì họ làm cái nghề đó có gì đâu mà xấu, vì có người mua mới có người bán. Tại vì hiện tại so với hệ thống pháp luật, chiếu theo đó thì họ làm công việc phạm pháp, không có được bảo vệ về sức khỏe, danh dự và nhiều thứ khác. Em mong rằng đến một lúc nào đó nước mình nhìn nhận vấn đề này là một sự thật và nếu không ngăn chặn được thì phải quản lý nó.”

Tại ở Việt Nam chưa có công nhận mại dâm nên người ta nhìn họ với góc độ là làm công việc bẩn thỉu, không có tốt nhưng đó là quy luật cung cầu, nó phải có.
-Một cô gái miền Tây

Theo cô gái này cho biết, thời gian gần đây, giống như một thông điệp ngầm nhằm chống bành trướng Trung Quốc, tất cả các cô gái làng chơi đều quyết tâm không phục vụ khách Trung Quốc cho dù giá thành có đắt cỡ nào. Và bất kì cô gái nào chấp nhận phục vụ cho khách Trung Quốc, mà theo cách gọi của giới giang hồ là bọn Tàu khựa thì xem như kẻ phản động và trong chốc lát sẽ bị tống khứ ra khỏi làng chơi và có thể bị rút thẻ đỏ vĩnh viễn ở các làng chơi Sài Gòn.

Nhưng đáng tiếc là vẫn không thiếu những cô gái làng chơi thuộc nhóm sắp hết hạng vẫn lén lút bắt khách Trung Quốc rồi tìm ra những nhà trọ vùng ngoại ô hoặc các bụi rậm ở gần cư xá Thanh Đa hoặc làng đại học Thủ Đức để hành lạc. Và hành vi này nằm ngoài khả năng quản lý của giới giang hồ yêu nước.

Nhưng nói đi thì như vậy, nếu đặt ngược vấn đề để thẩm định giá trị giữa một cô gái giang hồ chấp nhận bán thân cho Tàu khựa vì chén cơm manh áo lúc tuổi đã mãn hạn nhan sắc với một quan chức với đầy đủ quyền lực và tiền bạc trên tay vẫn chấp nhận làm thân trâu ngựa cho kẻ ngoại bang Trung Quốc để thêm phần vinh thân phì gia… Thì cô gái giang hồ vẫn còn một chút giá trị để so sánh và vẫn có nhiều thứ để thông cảm, thấy đáng thương hơn kẻ làm quan theo kiểu Lê Chiêu Thống kia.

Và, đó cũng là nỗi niềm, là dấu hiệu của sự tàn tạ đang đến gần ở những cô gái miền Tây trôi dạt xứ người, có cô về Sài Gòn, có cô ra Hà Nội, Lào Cai, Đà Nẵng, Nha Trang, thậm chí có cô trôi dạt sang tận Trung Quốc với thân phận nô lệ tình dục và đường về nhà quá ư xa lắc xa lơ. Ngày về dường như không tìm thấy. Tất cả họ là nỗi đau của một bộ phận người bị đẩy xuống tầng lớp đáy của xã hội bởi nghèo khổ và không được ăn học đến nơi đến chốn.

Trong câu chuyện về các cô gái miền Tây trôi dạt, ở bài tường trình này, chúng tôi chưa nhắc đến một số cô bị mắc phải HIV/AISD và những cô bị mắc bệnh nan y, họ gặp những thảm cảnh lúc tuổi xuân đã tàn có thể nói là quá thê thảm và không còn gì đau khổ hơn. Nhưng, nhìn chung, hình như cuộc đời các cô gái miền Tây trôi dạt đều có một mẫu số chung là nghèo khổ, không có học vấn và ước mơ thoát thân để cứu gia đình.

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

Sống tích cực

Sống tích cực

Tác giả: ANNE MATTOS-LEEDOM

Ngày nay, chúng ta cảm thấy cuộc sống có gì đó bấp bênh. Có những nỗi lo sợ vô cớ, vì thế chúng ta cần biết cách xử lý để có thể duy trì sự tích cực trong đời sống hằng ngày.

Các cảm xúc dâng cao khi cuộc sống gặp khủng hoảng và khi thế giới có vẻ bất ổn. Cần phải phát triển một kỹ năng xử lý mới. Mọi thử thách mà bạn phải đối đầu đều là cơ hội tiềm ẩn để tạo cách sống mới đầy những điều có thể và có giá trị mà trước đó không có.

Đây là 10 chiến lược giúp bạn thấy tiềm năng niềm vui, sự an toàn và hiện thực ước mơ dù gặp khó khăn gì.

1. Tái lập quyền ưu tiên

Đa số chúng ta được dạy phải có kế hoạch cho tương lai, lâu dài và an toàn,… Ngày nay, thái độ mới là điều quan trọng. Tập trung vào việc ưu tiên cho gia đình, sức khỏe và quản lý tài chính là điều cần thiết. Hoạch định một tương lai tích cực giúp chúng ta tạo những điều mới để hướng tới, “sống một ngày mới” là cách tốt nhất để quên quá khứ buồn để có thể có cuộc sống tốt hơn. Không lúc nào quan trọng bằng lúc này.

2. Giao tiếp với người tích cực

Hằng ngày luôn có những người ở bên chúng ta, rất đa dạng, hãy chú ý những người lạc quan và phấn khởi. Hãy tìm những cách mới có thể tác động trong cộng đồng và hãy nối kết với những người có “nét lạ” mà bạn chưa thấy. Có thể bạn có ít bạn bè, nhưng cần có người khả dĩ “nâng cấp” và gợi hứng cho bạn hằng ngày.

3. Mở rộng viễn cảnh

Hãy cố gắng tìm ra cách sống lý tưởng. Có hàng ngàn tấm gương trên thế giới, họ đã đau khổ nhiều nhưng vẫn sống tuyệt vời. Họ dạy chúng ta những bài học sống giá trị. Nếu bạn không thể tìm ra tấm gương sống trong những người bạn gặp, hãy tìm trong sách báo, tài liệu, internet,…

4. Làm việc ưa thích

Ai cũng có sở thích riêng, nó có thể giúp bạn bớt nhàm chán trong cuộc sống. Với tôi, nhạc và thơ văn có thể “cứu” tôi. Nghe nhạc, dù là nhạc buồn, vẫn có thể bạn cảm thấy thanh thản hơn, khi cõi lòng lắng đọng là lúc bạn thấy mình cần sống tốt hơn, khiêm nhường và nhiệt thành hơn. Hãy chọn thứ gì không đòi hỏi bạn phải nỗ lực nhiều, đơn giản là làm sao bạn cảm thấy vui. Điều đó sẽ làm bạn hưng phấn, nhờ đó có thể vượt qua những gian khó của cuộc sống.

5. Sẵn sàng vì người khác

Dù có chuyện gì không hay xảy ra trong cuộc đời bạn, hãy cứ dành thời gian và cách thức bạn có thể làm cho người khác. Những người nghèo khổ có thể được an ủi nhiều từ động thái của bạn. Điều đó cũng làm cho bạn cảm thấy mình hữu ích và thuộc về cộng đồng nhân loại. Tự tách mình ra khỏi cộng đồng là làm tê liệt cuộc đời mình. Hãy nối kết và trao tặng theo khả năng của mình. Phục vụ người khác khiến bạn giảm bớt căng thang, thêm hy vọng, và thêm sức sống.

6. Tự giữ kỷ luật

Khi gặp khó khăn hoặc bất trắc, chúng ta rất dễ chán nản, thất vọng, thậm chí là bất cần đời. Bạn là người thích đọc sách báo, nghiên cứu, sáng tác, gặp gỡ bạn bè,… nhưng giờ đây cũng vô nghĩa. Hãy cố gắng bình tĩnh, đừng để bất cứ thứ gì làm đảo lộn cuộc sống của bạn. Hãy khó với chính mình, nhưng đừng khó với người khác. Hãy tự tổ chức cuộc sống và giữ đúng nguyên tắc sống. Sau cơn mưa, trời lại sáng. Hãy tái lập trật tự cuộc sống để hướng phía trước, dù không ai biết tương lai ra sao. Cứ để cho ngày mai lo cho ngày mai.

7. Vận động

Thụ động là… tự sát. Thể dục luôn tốt cho sức khỏe, thân thể khỏe mạnh thì tinh thần mới hăng hái và trí óc mới minh mẫn. Nghiên cứu cho thấy rõ ràng rằng vận động thể lý giúp sản sinh các hóa chất tốt để đề kháng trầm cảm và bệnh tật. Tập thể dục nhẹ hoặc đi bộ cũng có thể kích thích và giúp bạn hưng phấn.

8. Tự giải thoát

Thấy điều gì không xuôi xắn theo kế hoạch thì “gỡ” mình ra, đừng đeo bám mãi. Hãy tìm cơ hội khác, cuối đường hầm vẫn có ánh sáng. Đa số các thử thách của cuộc đời đều có tiềm năng mới kỳ diệu mà chúng ta không thể thấy trước. Nếu bạn có khả năng tự giải thoát khỏi quá khứ để tìm dịp khác, bạn có thể có cơ hội còn tốt hơn trước.

9. Cứ là chính mình

Hãy kết bạn với những người có thể động viên bạn. Người thân và bạn bè luôn sẵn sàng giúp đỡ nếu bạn gặp khó khăn và bạn cần họ, và họ có thể nâng đỡ bạn bằng nhiều cách. Nhưng hãy cứ là chính mình chứ đừng “đánh mất” mình vì ảnh hưởng của người khác.

10. Thích nghi với thực tế

Có nhiều thứ khiến bạn phải chịu đựng và bị căng thẳng – công việc, tài chính, gia đình, các mối quan hệ, con người, nơi chốn,… Đôi khi chính sự mất mát nào đó lại là dịp tốt để bạn thay đổi cách sống. Hãy nhìn đời bằng “lăng kính lạc quan”. Chúng ta không thể làm chủ cuộc sống nhưng chúng ta có thể kiểm soát cuộc sống bằng việc trải nghiệm. Hãy tập trung vào cách bạn cảm giác và những người mà bạn đánh giá tốt, kể cả những gì xảy ra đối với bạn. Rồi bạn sẽ cảm thấy niềm vui sống hằng ngày.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Positivity of Life)

Nói về đức tin với người không tin

Nói về đức tin với người không tin

EMILY STIMPSON

ĐGH Phanxicô đã và đang thể hiện “phong cách nghèo khó” của Thánh Phanxicô Assisi, báo giới gọi đó là “hiện tượng Phanxicô” hoặc “hệ quả Phanxicô”. Quả thật, Giáo hội Công giáo đang “thay da, đổi thịt” nhờ Đức Phanxicô.

Đối với người Công giáo, gặp người không có niềm tin là dịp nói về đức tin, là cơ hội loann báo Tin Mừng – ở công sở, trường học, chợ búa,… Nói chung là cần “nắm bắt” mọi cơ hội, vì Chúa Giêsu đã truyền lệnh cho tất cả chúng ta: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16:15).

1. CƠ HỘI

Khi có dịp loan báo Tin Mừng, người Công giáo thường nghĩ rằng chẳng ai muốn nghe nói về Chúa. Nhưng theo bà Sherry Weddell, tác giả cuốn “Forming Intentional Disciples: The Path to Knowing and Following Jesus” (Đào tạo các Tông đồ có Chủ tâm: Con đường Nhận biết và Đi theo Chúa Giêsu) và là người cùng điều hành Viện Thánh Catherine Siena, điều đó không thành vấn đề: “Một phần tư số người trưởng thành đều tích cực tìm kiếm hoặc thụ động lướt tìm cách lựa chọn. Điều đó không hiếm thấy. Người ta càng cố tìm cơ hội thì càng dễ tìm thấy.

Đôi khi dễ có các cơ hội này. Dịp tình cờ nói về Chúa có thể làm cho cuộc nói chuyện thú vị hơn. Mới đây, đồng nghiệp của tôi có dịp may nói về ân sủng và phước lành. Tuy nhiên, các cơ hội tốt không phải lúc nào cũng có sẵn. Nếu bạn thụ động chờ đợi thì chẳng có đâu. Đó là lý do mà Rob Corzine, phó chủ tịch chương trình phát triển của Trung tâm Thánh Phaolô về Thần học Kinh Thánh, khuyên chúng ta đừng chờ đợi.

Ông nói: “Không có những khoảnh khắc hoàn hảo. Không ai chờ đến lúc thuận tiện mới nói về tình yêu. Người Công giáo cũng không nên chờ dịp thuận tiện mới nói về đức tin. Cứ để nó xảy ra tự nhiên trong những cuộc nói chuyện bình thường, chứ biết lúc nào và nơi nào thuận tiện để nói về đức tin? Không phải lúc nào cũng nói, nhưng đừng e ngại!”.

2. NIỀM TIN

Trước khi đưa ra những điểm về sự biến thể (transubstantiation) và Chúa Ba Ngôi (Tam Vị Nhất Thể, Trinity), bạn cần có mối quan hệ với người đối thoại. Weddell giải thích: “Nền tảng của lòng tin phải là sự bình an. Dù họ không tin Thiên Chúa, họ vẫn có thể tin bạn. Chính bạn là nhịp cầu đấy.

Điều đó không có nghĩa là bạn phải biết người đó từ lâu, 5 hoặc 10 năm, trước khi bạn nói tới Chúa. Người ngồi kế bạn trên một chuyến xe hoặc chuyến bay có thể là người mà Chúa muốn bạn chia sẻ về đức tin. Nhưng như vậy cũng không có nghĩa là bạn cần nói về các vấn đề khác trước khi vào vấn đề chính là đức tin.

Cũng vậy, khi bạn gặp ai đó vài phút, bạn cần tỏ ra quan tâm họ với tư cách một con người, chứ không phải là đối tượng để loan báo Tin Mừng. Terry Barber, người sáng lập Hội Truyền Thông Thánh Giuse và tác giả cuốn “How to Share Your Faith with Anyone: A Practical Manual for Catholic Evangelization” (Cách Chia sẻ Đức Tin với Người khác: Hướng dẫn Thực hành về Loan báo Tin Mừng của Công giáo), giải thích: “Người ta không cần bạn biết nhiều hay ít cho đến khi nào họ biết bạn quan tâm”.

Họ cũng không cần biết bạn nói gì nếu hành động của bạn không phù hợp với lời bạn nói. Terry Barber nói thêm: “Bạn phải thoải mái. Cười. Nhiệt tâm. Đạo đức. Ngăn cản lớn nhất đối với việc loan báo Tin Mừng ngày nay là làm gương xấu. Cách sống của chúng ta sẽ chứng tỏ chính chúng ta.

3. THẨM VẤN

Người ta nghĩ rằng họ đã có câu trả lời về Thiên Chúa, nhưng cuộc sống và ý nghĩa của mọi thứ thường không mở ra đối với những dịp nói về đức tin. Dù cách trả lời của Giáo hội đối với các vấn đề lớn của cuộc sống có hay, có mạnh mẽ và hấp dẫn thế nào thì cũng chẳng làm cho người ta quan tâm, nếu không có người đặt vấn đề với họ. Corzine nói: “Như thế, truyền giáo cái gì? Hãy hỏi họ. Nhưng không cần trả lời nếu họ không hỏi. Nếu họ không hỏi, vậy là họ chưa muốn nghe”.

Weddell nói: “Cách tốt nhất để gợi tính tò mòđặt câu hỏi. Nếu bạn đọc Kinh Thánh, bạn sẽ thấy đó là điều mà Chúa Giêsu rất thường làm”. Câu hỏi có thể có nhiều dạng: “Đời sống có ý nghĩa gì?”, “Tại sao chúng ta hiện hữu?”, “Có sự thật không?”, “Tại sao bạn tin điều bạn tin?”, “Thiên Chúa ở đâu khi chúng ta quyết định?”, “Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta bằng cách nào?”,… Rất đa dạng. Thiên Chúa muốn mọi người nhận biết Ngài và làm môn đệ của Ngài. Curtis Martin, chủ tịch Hội Ái hữu Sinh viên Công giáo (FOCUS – Fellowship of Catholic University Students), nói: “Bạn sẽ ngạc nhiên nếu bạn đặt câu hỏi, cuộc nói chuyện có thể tiếp diễn”.

4. LẮNG NGHE

Trong quá trình loan báo Tin Mừng, đặt câu hỏi không chỉ là dạng tu từ để làm người ta tự đặt câu hỏi cho họ, đó còn là cách duy nhất để bạn có thể biết bắt đầu câu chuyện từ đâu. Corzine nói: “Nếu bạn muốn nói chuyện về Công giáo, cần có một trình tự mà bạn muốn diễn tả. Nhưng khi nói, vấn đề tâm lý quan trọng hơn trình tự. Nếu người đó có câu hỏi, đó là điểm bạn bắt đầu. Thông tin người ta cần là điều bạn nên nói với họ. Nhưng bạn cần lắng nghe để biết rõ”.

Barber nói: “Bạn cần gãi đúng chỗ ngứa của họ. Một số người có vấn đề đối với giáo huấn Giáo hội về Đức Maria. Một số người lại không đồng ý về Luyện hình. Một số người lại cảm thấy khó khăn về đức tin. Bạn cần nói chủ đề mà họ quan tâm nhất.

Tuy nhiên, lắng nghe không chỉ cho bạn biết cần gãi vào chỗ ngứa nào, mà còn cho bạn biết khi nào nên ngừng gãi. Martin nói: “Chúng ta không nên hối thúc. Đừng ép người ta. Đó là lúc việc loan báo Tin Mừng thâm nhập. Nếu họ nói họ không muốn nói chuyện về vấn đề nào đó hoặc họ cảm thấy không thoải mái, bạn đừng nói nữa, hãy thể hiện sự cảm thông và yêu thương đối với họ lúc đó”.

5. KỂ CHUYỆN

Martin giải thích: “Không ai có thể tranh luận về câu chuyện của bạn. Điều đó làm tổn hại tính tương đối”. Vời điều kiện là câu chuyện phải bắt đầu bằng sự hiểu biết. Weddell, Corzine, Barber và Martin đều đồng ý rằng người Công giáo nào cũng cần biết cách “đối thoại ba phút” – cách mà người ta mới gặp Đức Giêsu thì họ liền quý mến và đi theo Ngài ngay. Mọi người Công giáo cần có vài câu chuyện để làm “vốn” – chuyện về Chúa tác động trong cuộc đời chúng ta, được ơn lành và kéo chúng ta đến gần Chúa hơn,…

Weddell cho biết: “Người ta thích điều gì đó sống động thật – chuyện cầu nguyện rồi được ơn và kinh nghiệm về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Nếu chúng ta có thể kể chuyện một cách tự nhiên, thoải mái, người ta sẽ dễ nhớ. Có thể họ không phản ứng ngay, nhưng họ sẽ ghi nhớ và suy nghĩ”.

Ngoài ra, bạn cũng cần biết rõ chuyện đời Chúa Giêsu. Nghĩa là bạn cần biết về lịch sử cứu độ và nhớ rõ vài câu chuyện trong Kinh Thánh. Weddell nhận định: “Đa số người ta phải biết rõ Chúa Giêsu là ai, làm gì và có ý nghĩa gì đối với họ rồi họ mới quyết định. Hãy giúp họ “tiếp cận” với các câu chuyện đó. Hãy cho họ cơ hội “vật lộn” với chính họ”.

6. CẦU NGUYỆN

Muốn có kết quả tốt đẹp của việc loan báo Tin Mừng thì phải bắt đầu và kết thúc bằng việc cầu nguyện. Corzine nói: “Mục đích của việc loan báo Tin Mừng là tâm hồn được biến đổi. Đó là công việc của Chúa Thánh Thần, chứ không là của con người. Chúng ta chỉ như một kẻ ăn xin nói cho kẻ ăn xin khác biết chỗ nào có đồ ăn mà thôi. Mục đích của chúng ta là hợp tác với Chúa Thánh Thần. Chúng ta cần chia sẻ và nói vấn đề mà họ đưa ra, nhưng bắt đầu bằng những cuộc tranh luận có thể lật ngược thế cờ”.

Bà giải thích thêm: “Chúng ta phải luôn cầu nguyện cho những người khác trên hành trình tâm linh và cầu nguyện cho những cuộc hẹn của Thiên Chúa. Có những người ở đâu đó mà chúng ta không biết, nhưng Chúa biết, và chúng ta cầu xin Chúa đem họ đến với chúng ta. Khi họ đến, chúng ta đồng hành với họ một đoạn đường trên hành trình đức tin mà chúng ta có thể, rồi bạn trao phó họ cho Thiên Chúa”.

Về việc cầu nguyện, Corzine đưa ra nguyên tắc “độc đáo” này: “Hãy luôn nói chuyện với Chúa về bạn bè và gia đình của bạn nhiều hơn là nói chuyện với họ về Chúa”.

7. HÀNH ĐỘNG

Tiếp theo là những cớ để người ta không loan báo Tin Mừng: Không hợp thời, không đúng lúc, sợ nói sai, việc này không là việc của tôi,… Cuối cùng, viện cớ như vậy là tự ngăn cản mình chia sẻ đức tin, có thể đó là sai lầm lớn nhất của người Công giáo khi loan báo Tin Mừng.

Corzine nói: “Chúng ta được trao quyền và có trách nhiệm loan báo Tin Mừng khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy và Bí tích Thêm sức, đó là loan báo Tin Mừng bằng lời nói và hành động. Người Công giáo nghĩ rằng khó có thể đưa người ngoại giáo vào Giáo hội, hoặc cứ để cho mọi chuyện bình thường. Chúng ta quên rằng Chúa sẽ tận dụng mọi thứ một cách kỳ diệu, nếu chúng ta cho Ngài có cơ hội.

Martin nói thêm: “Theo thống kê, chúng ta đầu có lúc gặp người ở ngoài Giáo hội (chưa có đức tin) hoặc người rời bỏ Giáo hội (bội giáo), nhưng ai sẽ biết nắm bắt thời cơ? Mọi hành trình đều bắt đầu bằng bước đi thứ nhất. Bây giờ là lúc thuận tiện để bạn bắt đầu”.

TRẦM THIÊN THU

(Lược dịch từ CatholicEducation.org)

Sống hạnh phúc hơn

Sống hạnh phúc hơn

Tác giả: Trầm Thiên Thu

Hạnh phúc là điều ai cũng cần. Đời sống hằng ngày là cuộc hành trình đi tìm hạnh phúc, không chỉ mong có được niềm hạnh phúc, mà còn là hạnh phúc hơn. Có nhiều cách giúp chúng ta hạnh phúc, có thể có cách xem chừng “ngớ ngẩn”, nhưng lại không phải vậy. Chúng ta mơ xa quá nên không nhận thấy hạnh phúc có khi đang ở xung quanh mình.

Đây là một số “bí kíp”. Tùy bạn hợp với (các) cách nào đó, miễn sao (các) điều đó có thể làm cho bạn cảm thấy hạnh phúc là được.

1. Nếu bạn lo lắng về điều có thể sẽ xảy ra nhưng nó không xảy ra, bạn đã lo lắng vô ích. Mà nếu điều đó xảy ra, bạn phải lo lắng gấp đôi. Như vậy, thay vì lo lắng, hãy cầu xin Chúa giúp!

2. Hãy đi ngủ đúng giờ, và thức dậy đúng giờ. Cố gắng loại bỏ những thứ không thực sự cần thiết, nếu không thì chính những thứ đó sẽ làm tổn hại sức khỏe tinh thần của bạn.

3. Hãy ủy thác công việc cho người có khả năng, đừng ôm đồm! Hãy  “gỡ bỏ” những gì không cần thiết để làm “thông thoáng” cuộc sống. Chất lượng quan trọng hơn số lượng.

4. Hãy làm việc, nhưng cũng hãy dành thời gian để sắp xếp cuộc đời. Hãy tự bước đi trên đôi chân của mình – tức là tự lập và độc lập. Người ta không chỉ đi bằng đôi chân, mà quan trọng hơn là đi bằng cái đầu.

5. Lo lắng khác với quan tâm. Lo lắng làm người ta sợ. Quan tâm làm người ta cố gắng. Hãy tìm xem Chúa muốn bạn làm gì, và đừng quá lo lắng. Nếu bạn không thể làm gì để thay đổi tình huống, hãy quên nó đi. Đừng lo lắng về thẻ tín dụng, ví tiền, chi phí cái này hoặc cái nọ, tiền điện, tiền nước, tiền xăng,… Lo cũng chẳng được!

6. Hãy áp dụng quy luật LIM (Lặng-Im) – và đừng nói những gì khiến bạn phải hối tiếc. LIM có thể giúp bạn tránh được nhiều phiền toái.

7. Ngay hôm nay, hãy làm điều gì đó cho người thân, đặc biệt là cho con cái – nếu bạn đã lập gia đình.

8. Hãy đem theo cuốn sách, đặc biệt là sách đạo đức, để đọc khi bạn ngồi uống cà-phê một mình, khi chờ mua hàng, chờ lấy vé,… Mệt thì nghỉ. Đừng ráng. Và hãy cân bằng chế độ ăn uống.

9. Nghe nhạc là cách tốt giúp cải thiện chất lượng sống. Hằng ngày, hãy dành thời gian để thinh lặng và suy tư. Và hãy viết ra những ý tưởng “lạ” của bạn.

10. Bạn có vấn đề ư? Hãy tâm sự với Thiên Chúa. Hãy cố gắng cầu nguyện liên lỉ, ở bất cứ nơi nào và lúc nào. Đừng đợi tới lúc ở nhà thờ hoặc lúc sắp đi ngủ.

11. Hãy kết bạn với những người đạo đức, hiền lành, khiêm nhường. Chiếc cầu ngắn nhất bắc qua sự thất vọng và niềm hy vọng là nói lời “Tạ ơn Chúa”. Lời cầu nguyện này đẹp nhất!

12. Hãy nghiêm túc nhưng đừng khó tính. Hãy phát triển thái độ tha thứ, vì ai cũng cần tha thứ. Và tha thứ là món quà vô giá.

13. Hãy tử tế với người không tử tế với mình. Hãy đè bẹp “cái tôi” của mình xuống. Nói ít, nghe nhiều. Sống chậm.

14. Hãy tự nhắc nhở rằng mình không là người tổng quản lý vũ trụ, thậm chí chỉ là “đầy tớ vô dụng” (Lc 17:10).

15. Hằng ngày, hãy nghĩ về điều bạn phải biết ơn mà lại chưa cảm ơn – với Thiên Chúa và tha nhân. Thiên Chúa có cách biến chuyển mọi chuyện cho chúng ta: “Vậy còn phải nói gì thêm nữa? Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta?” (Rm  8:31).

Với 15 gợi ý này, chắc chắn có một hoặc vài điều phù hợp với bạn. Hãy cố gắng thực hiện!

Tác giả Thánh Vịnh đặt vấn đề: “Ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc?” (Tv 16:2). Chắc chắn không thể có được. “Còn những ai ẩn náu bên Người, thật hạnh phúc dường bao!” (Tv 2:12). Noi gương tác giả Thánh Vịnh, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin khứng nhận lời tán tạ con dâng và dạy con biết những quyết định của Ngài. Mạng sống này luôn lâm vòng nguy hiểm, song luật Ngài, con vẫn không quên” (Tv 119:108-109).

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ beliefnet.com)

Tất cả là hồng ân

Tất cả là hồng ân

ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.

Dụ ngôn cỏ lùng là một trong những dụ ngôn hiếm hoi được chính Chúa giải thích rõ ràng. Giải thích của Chúa giúp ta có những hiểu biết hữu ích cho đời sống đạo. Dụ ngôn nhắc nhớ ta về sư hiện diện của ma quỷ. Ma qui hiện hữu. Chúng luôn có mặt để gieo rắc sự xấu. Chúa đã chuần bị những thửa ruộng tốt. Những thửa ruộng đó là thế giới, là Giáo hội, là tâm hồn mỗi người. Chúa đã gieo những hạt giống tốt. Hạt giống đó là Lời Chúa, là ơn Chúa, là những thiện chí, những ý hướng cao đẹp trong tâm hồn con người. Nhưng ma quỷ lén gieo vào những hạt cỏ xấu.

Chúa gieo vào thế giới hạt giống khát vọng hoà bình. Đẹp biết bao nếu mọi dân tộc nắm tay nhau xây dựng một thế giới huynh đệ tươi thắm tình người. Nhưng buồn thay, cánh đồng hoà bình tươi xanh đã bị những ngọn cỏ tham vọng, ích kỷ, ác độc làm hoen ố. Lịch sự thế giới được ghi bằng những trang buồn vì không ngày nào không có chiến tranh. Thế giới sẽ đẹp biết bao nếu tất cả trí thông minh, tất cả tài nguyên, tất cả năng lực đều góp phần xây dựng. Nhưng buồn thay, rất nhiều trí thông minh, rất nhiều tài nguyên, rất nhiều năng lực đã tiêu tốn trong việc huỷ hoại, tha hoá, nô lệ hoá con người. Ngay trong bản thân mỗi người, không thiếu những sáng kiến, những hoạt động ban đầu xem ra tốt đẹp, nhưng dần dà vị vẩn đục vì những biến tướng nặng mùi trần tục như khoe khoang, tìm hư danh, tìm lợi lộc. Đó là những hạt cỏ xấu ma quỷ lén lút gieo vào ruộng lúa tốt.

Tuy nhiên, dụ ngôn cho thấy sự kiên nhẫn và lòng bao dung của Chúa. Chúa đợi cho đến ngày tận thế mới thu lúa cùng với cỏ lùng. Chúa kiên nhẫn đợi chờ vì hi vọng những người tội lỗi ăn năn sám hối. Chúa bao dung tha thứ không nỡ phạt người tội lỗi tức khắc. Chúa yêu thương, tin tưởng người xấu sẽ có ngày nên tốt. Nếu phạt ngay nhưng người tội lỗi thì ta đâu còn cơ may được chiêm ngưỡng ông thánh trộm lành. Nếu Chúa thẳng tay thì ta đâu có thánh nữ Madalêna, Tông đồ của các Tông đồ, thánh Augustinô, Tiến sĩ lừng danh, thánh Phaolô, vị Tông đồ dân ngoại. Nếu Chúa chấp tội thì bản thân ta sẽ là người bị phạt đầu tiên, vì trong ta cũng đầy những tội lỗi, những sự xấu. Trong tâm hồn ta cỏ lùng vẫn mọc xen với lúa tốt.

Sau cùng, dụ ngôn cho ta hiểu tất cả là hồng ân của Chúa. Có sự lành để ta hiểu biết và yêu mến sự tốt lành của Thiên Chúa. Có sự dữ để ta gớm ghét tránh xa và càng thêm gắn bó với sự lành. Có sự lành để ta được hưởng niềm an ủi ngọt ngào của Chúa. Có sự dữ để ta phấn đấu vượt qua, chứng minh lòng trung tín của ta với Chúa. Có thuận lợi tiến bước trên đường thánh thiện. Có khó khăn để ta rèn luyện thêm đức.

Mọi sự đều nên tốt cho kẻ lành. Thật vậy, việc cấm đạo là sự dữ. Nhưng nhờ đó mà Giáo hội có được những chứng nhân anh hùng. Đau khổ và bệnh tật là những khiếm khuyết trong cuộc sống, nhưng lại giúp con người được thông phần đau khổ với Chúa. Thánh Nữ Têrêsa đã nhìn thấy tất cả là hồng ân của Chúa. Sự lành cũng như sự dữ. Hạnh phúc cũng như đau khổ. Thành công cũng như thất bại. Tất cả đều góp phần rèn luyện, vun đắp và thăng tiến người lành.

GỢI Ý CHIA SẺ

1.    Khi gặp những người xấu trong xứ đạo, trong hội đoàn, bạn có muốn khai trừ người đó ngay tức khắc không?

2.    Trong con người bạn có những khuyết điểm, những bệnh tật, bạn có phấn đấu khắc phục những khuyết điểm, vượt qua bệnh tật để thăng tiến bản thân không?

3.    Chúa đã khoan dung, kiên nhẫn đợi chờ bạn ăn năn hối cải. Bạn có biết kiên nhẫn với người khác?

 

 

CUỘC SỐNG LUÔN CÓ HAI ĐÁP ÁN…

CUỘC SỐNG LUÔN CÓ HAI ĐÁP ÁN…

Trích EPHATA 619

Hãy quay về hướng mặt trời,
và bạn sẽ không thấy bóng tối
( Helen Keller ).

Thầy tôi là một người rất đặc biệt, trước mỗi vấn đề của cuộc sống thầy luôn đưa ra hai đáp án khác nhau.

Ví dụ: đối với những học sinh xuất sắc, thầy nói rằng: “Học kỳ này em thi đạt thành tích nhất lớp cũng không có gì tự hào lắm, vì học kỳ sau em chưa hẳn đạt được như vậy. Nhưng nếu học kỳ sau em lại đứng nhất nữa cũng không có gì hãnh diện, vì thi vào đại học em chưa chắc đỗ thủ khoa. Nhưng nếu đạt thủ khoa cũng không có gì xuất sắc lắm, bởi vì sau này ra làm việc ngoài xã hội không nhất định em phải luôn đứng hàng đầu”.

Và đối với những học sinh yếu kém khác thì thầy có cách nói ngược lại: “Nếu học kỳ này em thi không đạt kết quả tốt cũng không có gì quá lo ngại vì còn có học kỳ sau. Nhưng nếu học kỳ sau đã cố gắng nhưng vẫn không tốt thì cũng đừng quá buồn lo, vì thi vào đại học em không hẳn lại như thế. Và nếu có thi hỏng đại học cũng chẳng có gì đáng xấu hổ bởi còn có các trường đời mở rộng cửa đón em. Thành tài và thành người không chỉ có ở con đường thi cử…”

Thầy còn kể cho chúng tôi nghe câu chuyện ngụ ngôn về kiến và dế:

“Mùa thu đến đàn kiến vất vả từ sáng đến tối lo kiếm thức ăn chuẩn bị cho mùa đông sắp tới, mà dế thì ngược lại ẩn trong đám cỏ xanh tươi cất tiếng hát vang. Mùa đông đến gần, kiến có thể ở trong hang ấm áp từ từ thưởng thức những món ăn ngon do mình kiếm được, còn dế thì nằm chết dần ngoài hang và mạng sống của chúng chỉ được vỏn vẹn 3 tháng…”

Kể ngụ ngôn ấy rồi, thỉnh thoảng hễ có dịp thầy lại hỏi đám học sinh chúng tôi: “Các em nên học theo cách sống của kiến hay của dế ?” Chúng tôi đồng thanh trả lời: “Thưa thầy, học theo kiến ạ”. Thầy vui vẻ gật đầu nói: “Đúng ! Chúng ta nên học tập từ kiến, cần cù làm việc, tự mình tạo hạnh phúc cho mình bằng chính đôi tay của mình, bất luận thế nào cũng không nên học theo cách sống của dế, chỉ biết vui chơi mà không lo cho cuộc sống tương lai”.

Nhưng không lâu sau đó trong lớp chúng tôi có một học sinh nữ bị bệnh ung thư, các bác sĩ coi như bó tay nan y, lúc đó thầy dẫn chúng tôi cùng đến bệnh viện thăm cô bé. Và một lần nữa, thầy kể lại câu chuyện ngụ ngôn lúc trước, khi kể gần xong, như biết ý thầy thế nào cũng hỏi, cô bé liền nói: “Thưa thầy, em cũng nghĩ sẽ làm như kiến vậy”. Không ngờ thầy nói: “Không em ạ, em nên làm như dế, tuy rằng cuộc sống của chúng có ngắn ngủi, nhưng nó biết đem lời ca hay, tiếng hát đẹp để lại cho đời, biết cống hiến và góp niềm vui cho muôn loài muôn vật. Còn kiến tuy cả ngày vất vả với công việc nhưng xét cho cùng chúng chỉ lo cho cái ăn của chính chúng mà thôi”.

Nghe xong, cô bạn đáng thương của chúng tôi đã hiểu ra ý thầy muốn nhắn nhủ, cô bé mỉm cười thật rạng rỡ. Từ đó, theo lời kể của gia đình và bạn bè, cô bé đã cố gắng làm nhiều việc tốt trong những ngày đời còn lại, và cô bé đã đi đến điểm cuối cùng của cuộc sống mà không âu sầu bi thương…

Tác giả khuyết danh, bản dịch của Như Nguyện
Ephata biên tập thêm 7.2014