Thoát Trung về kinh tế ngày càng xa vời

Thoát Trung về kinh tế ngày càng xa vời

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-09-05

namnguyen09052014.mp3

000_Hkg9926960.jpg

Thương lái vận chuyển hàng hóa Trung Quốc qua cửa khẩu Lào Cai hôm 9/5/2014.

AFP

Báo chí Việt Nam từng một dạo sôi nổi với vấn đề thoát khỏi lệ thuộc kinh tế Trung Quốc, đặc biệt trong cuộc khủng hoảng giàn khoan Hải Dương 981. Thế nhưng thực tế đang đi ngược lại mong muốn đó, thể hiện qua sự kiện 8 tháng vừa qua nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc tăng gấp ba lần xuất khẩu qua thị trường này.

Sản phẩm chiến lược phụ thuộc nguyên liệu TQ

Trong cuộc phỏng vấn vào tối 4/9/2014, từ Hà Nội chuyên gia Bùi Kiến Thành nhận định:

“Báo chí nói rất nhiều nhưng thực sự có làm được gì đâu. Vấn đề nhập siêu từ Trung Quốc, nhập rất nhiều nguyên liệu để sản xuất thí dụ nguyên liệu về giày dép, may mặc… những cái gọi là sản phẩm chiến lược của Việt Nam phần lớn nhập nguyên liệu từ Trung Quốc về, mình tăng xuất khẩu chừng nào thì tăng nhập khẩu nguyên liệu chừng ấy, đó là nói về công nghiệp.

Sản phẩm chiến lược của VN phần lớn nhập nguyên liệu từ TQ về, mình tăng xuất khẩu chừng nào thì tăng nhập khẩu nguyên liệu chừng ấy, đó là nói về công nghiệp.
-Ô. Bùi Kiến Thành

Ngoài ra về sản phẩm tiêu dùng, biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc như là một biên giới mở, nó vào bao nhiêu qua tiểu ngạch con đường không chính thức và từ những đường chính thức hàng hóa của Trung Quốc vào Việt Nam có ai kiểm soát gì đâu. Nhất là những hàng hóa không chỉ rẻ tiền mà còn độc hại nữa, lương thực, trái cây, chân gà hư thối, thịt hư thịt thối… làm gì có chính sách chặn bớt hàng hóa từ Trung Quốc qua Việt Nam, quan sát của tôi ở Việt Nam chưa hề có chính sách nào để giảm thiểu vấn đề nhập siêu từ Trung Quốc vào từ nguyên liệu cũng như hàng tiêu dùng.”

Các báo điện tử như Tuổi Trẻ, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Đất Việt, Dân Trí những ngày cuối tháng 8 đầu tháng 9 có nhiều tin bài mang tính trình bày sự kiện để dóng lên hồi chuông cảnh báo. Đất Việt và Dân Trí có bài “Chính sách mua rẻ, bán rẻ: Nhập siêu tăng mạnh, lệ thuộc càng nhiều” hoặc Tuổi trẻ Online với bài Nhập khẩu từ Trung Quốc chạm mốc 40 tỉ USD trọn năm 2014. Cán cân thương mại Việt-Trung mất cân bằng ngày càng nghiêm trọng, nhập siêu trên 17 tỉ trong vòng 8 tháng, trung bình mỗi tháng nhập siêu 2 tỷ 160 triệu USD.

Bạn đọc góp ý trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online đặt câu hỏi với các cơ quan chức năng: hàng hóa Trung Quốc độc hại, kém chất lượng ai cũng biết. Nhưng ai quản lý việc này, ai kiểm tra chất lượng? Trong khi đó, xuất khẩu qua Trung Quốc thì gặp nhiều khó khăn mà còn bị Trung Quốc ép muốn dở khóc dở cười. Ai giúp gánh bớt khó khăn cho dân.

Nhà giáo Đỗ Việt Khoa ở Hà Nội, trong tư cách một công dân, một người tiêu dùng góp ý:

000_Hkg9926949-400.jpg

Hai người Trung Quốc qua cửa khẩu Lào Cai hôm 9/5/2014. AFP PHOTO.

“Sau những vụ gây hấn của Trung Quốc và nhìn vào thực lực kinh tế Việt Nam, tôi không kêu gọi tẩy chay hàng Trung Quốc. Bởi vì không thể tẩy chay được, khi mà phụ thuộc nó quá nhiều mặt hàng mà Việt Nam không sản xuất được, từ cái kim sợi chỉ cho đến đồ dùng rất thông thường như bát đũa cũng phải dùng của Trung Quốc, máy móc đồ dùng như đinh ốc cũng vậy rất khó tẩy chay hàng của Tàu.”

Theo nhà giáo Đỗ Việt Khoa, phải đặt vấn đề trách nhiệm của nhà nước khi mấy chục năm thống nhất đất nước mà không phát triển sản xuất hàng tiêu dùng có đủ sức cạnh tranh cả về chất lượng cũng như giá cả. Ông nói:

“Người công dân bình thường như chúng tôi có thể nói là bất bình với chính quyền, trải qua mấy chục năm hòa bình phát triển đất nước nhưng mà tiền thuế của nhân dân họ đã mải mê tham nhũng và đổ đi đâu mà họ không phát triển được những ngành kinh tế chủ chốt cho đất nước. Ngoài việc gia công làm thuê, phát triển nông sản thì ngành công nghiệp của Việt Nam đến giờ là con số không. Công nghiệp chế tạo cơ bản là không làm được gì cả. Vừa rồi có phê bình là ngay đến cái vỏ điện thoại Samsung, con ốc vít chẳng hạn cũng không tìm được doanh nghiệp nào gia công cho, điều ấy là thảm họa. Chúng tôi không phải là con vật chỉ cần ăn no, chúng tôi là con người đòi hỏi đất nước phải khác, phải phát triển nhanh hơn nữa. Chúng tôi có nhu cầu được chứng kiến đất nước vững mạnh về mặt kinh tế, về công nghiệp và đặc biệt mong muốn xã hội dân chủ văn minh.”

Trách nhiệm của doanh nghiệp và người tiêu dùng

Nếu như nhà nước chịu trách nhiệm về tình trạng lệ thuộc hàng hóa Trung Quốc về mặt chính sách chiến lược, thì cộng đồng doanh nghiệp và cả người tiêu dùng cũng góp phần ràng buộc với hàng hóa Trung Quốc. Chuyên gia Bùi Kiến Thành cho rằng doanh nghiệp Việt Nam chạỵ theo thiết bị máy móc và nguyên liệu giá rẻ của Trung Quốc trong khi chính sách của nhà nước thì không rõ ràng. Theo lời ông Việt Nam đang biến thành bãi rác của công nghệ Trung Quốc, doanh nghiệp Việt Nam và nhà nước cũng nên ngồi lại suy nghĩ bàn tính như thế nào để bớt lệ thuộc hàng hóa của Trung Quốc. Ông Bùi Kiến Thành tiếp lời:

Người VN dùng hàng VN nhưng chỉ nói không thì không được. Phải làm sao trong nước có được hàng chất lương tốt giá cả cạnh tranh được với TQ.
-Ô. Bùi Kiến Thành

“Chúng ta không bài ngoại nhưng phải suy nghĩ xem làm như thế nào để Việt Nam có thể có những nguồn nguyên liệu khác, hay những nguồn hàng khác. Việc này cũng chưa thấy thể hiện qua một chính sách nào quyết liệt. Còn đối với dân chúng Việt Nam hàng Trung Quốc giá rẻ dù có độc hại tràn lan từ thành thị tới thôn quê. Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam nhưng chỉ nói không thì không được. Phải làm sao trong nước có được hàng chất lương tốt giá cả cạnh tranh được với Trung Quốc. Không tổ chức được việc này mà chỉ tuyên truyền không. Trong khi người dân cầm một số tiền đi ra chợ người ta đâu có nghĩ mua hàng đắt hơn vì đó là hàng Việt Nam đâu. Nên có một phương án để làm rõ việc giao doanh nghiệp Việt Nam có khả năng sản xuất những mặt hàng nào Việt Nam cần dùng, hiện nay chưa làm được việc ấy.”

Báo chí Việt Nam trích các số liệu từ Bộ Công Thương cho biết, 8 tháng của năm 2014 Việt Nam xuất khẩu qua Trung Quốc hàng hóa trị giá 9,79 tỷ USD trong khi nhập khẩu ngược lại từ nước này tới 27,09 tỷ USD. Khuynh hướng thương mại này có khả năng tiếp diễn đến hết năm 2014. Được biết Việt Nam bán qua Trung Quốc gạo và trái cây, thủy sản, khoáng sản thô với giá rẻ và nhập lại các sản phẩm chế biến và máy móc thiết bị, nguyên liệu phụ liệu dệt may da giày.

TS Lê Đăng Doanh nguyên Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung ương được báo Đất Việt và Dân Trí trích lời nói rằng, thực tế thương mại của Việt Nam với Trung Quốc tiềm ẩn rủi ro. Việt Nam phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc, nếu Trung Quốc sử dụng vụ thế là người xuất cũng như người nhập lớn thì kinh tế Việt Nam sẽ thiệt thòi.

Cũng trên hai tờ Đất Việt và Dân Trí GSTS Đặng Đình Đào, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển Đại học Kinh tế Quốc dân, đặt vấn đề về sự tỉnh táo và sự chuẩn bị để định hướng lại thị trường xuất nhập khẩu và thương mại của Việt Nam. Điều quan trọng theo chuyên gia này là không để hàng hóa Việt Nam bị lệ thuộc vào thị trường của Một nước. GSTS Đặng Đình Đào nhấn mạnh rằng, quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trên biển Đông hiện vẫn đang căng thẳng, cách đối xử của Trung Quốc rất ngang ngược.

Những băn khoăn của GSTS Đặng Đình Đào, TS Lê Đăng Doanh và giới trí thức chuyên gia Việt Nam vẫn cứ là một một vấn đề chưa có lời giải đáp rõ ràng từ người chỉ đạo toàn diện là Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đừng bỏ dở cuộc vận động thoát Trung

Đừng bỏ dở cuộc vận động thoát Trung

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-09-05

09052014-trungquoc-namnguyen.mp3

000_Hkg10094037.jpg

Một cửa hàng tại Hà Nội bán lồng đèn, đồ chơi mùa Trung Thu nhập từ Trung Quốc. Ảnh chụp hôm 05/9/2014.

AFP photo

Phong trào vận động thoát Trung, bớt lệ thuộc về kinh tế với Trung Quốc được làm nóng sau vụ giàn khoan Hải Dương 981, nay có vẻ đang trầm lắng. Phải chăng ảnh hưởng chính trị với Bắc Kinh đang chi phối vấn đề này và làm cho cuộc vận động của giới nhân sĩ trí thức trở nên vô nghĩa. Nam Nguyên tìm hiểu vấn đề này.

Cuộc khủng hoảng giàn khoan Hải Dương 981 và thái độ gây hấn trịch thượng của Trung Quốc với Việt Nam đã làm cho người Việt Nam sực tỉnh và có thêm một cơ hội để đặt vấn đề thoát khỏi ảnh hưởng Trung Quốc, bớt lệ thuộc Trung Quốc về kinh tế.

Khi chủ đề thoát Trung lan đến Quốc hội, Nhà nước Việt Nam trong chừng mực đã để cho giới học giả nhân sĩ trí thức tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm với chủ đề thoát Trung, ít ra là trên lĩnh vực kinh tế và văn hóa, báo chí cũng được đưa tin khá thoái mái về chủ đề này. Tuy vậy sau khi Trung Quốc rút giàn khoan Hải Dương 981 sớm hơn dự định, việc Việt Nam tự nhận lỗi về các cuộc biểu tình bạo động chống doanh nghiệp Trung Quốc và sau chuyến đi cầu hòa Bắc Kinh của ông Lê Hồng Anh, nhân vật đứng hàng thứ 5 trong Bộ Chính trị, Đặc phái viên của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, thì dư luận cho là nỗ lực vận động thoát Trung đã trở nên vô nghĩa?

Chúng tôi nêu câu hỏi này với nhà phản biện TS Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển IDS, một tổ chức tư nhân ở Hà Nội đã tự giải thể và được ông trả lời:

“Tôi nghĩ cũng không phải là vô ích vì đây là một quá trình, những thảo luận bàn luận như thế còn phải bàn luận nhiều nữa. Mình cũng đừng nghĩ rằng khi bàn luận một việc như thế thì nó tìm ra được giải pháp ngay và giả sử có tìm ra một giải pháp mà một số giới nào đó, ví dụ các nhà trí thức chẳng hạn nghĩ rằng đó là giải pháp hay, nhưng chưa chắc đó đã là giải pháp thật hay, cần yêu cầu nhà nước phải thực hiện ngay. Tôi nghĩ quá trình như thế nên tiếp tục và nó có cái lợi của nó. Còn những người nghĩ rằng có cuộc thảo luận như thế rồi chẳng có ý nghĩa gì cả bởi vì nhà nước, nhà chức trách người ta chưa thèm để ý đến. Tôi nghĩ rằng nếu mà phán xét như vậy nó hơi vội và không hiểu đúng tình hình. Bởi vì những người phán xét như thế có thể là những người rất nóng vội mà cuộc sống thì không thể nóng vội được.”

Nhà nước Việt Nam tự hào về mức Tổng sản phẩm nội địa năm 2013 đạt 176 tỷ USD, tổng kim ngạch xuất khẩu hơn 130 tỷ USD. Tuy vậy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam ra thế giới lệ thuộc nguyên liệu, máy móc của Trung Quốc. Không những thế, hàng hóa Trung Quốc cũng tràn ngập thị trường Việt Nam từ thành thị cho tới thôn quê. Hàng tiêu dùng Trung Quốc có giá rất rẻ, dù mang tiếng xấu về tính độc hại vẫn được đại đa số người dân Việt Nam chấp nhận. Dự kiến trọn năm 2014 tổng lượng hàng hóa mà Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc trị giá khoảng 40 tỷ USD. Trong đó chênh lệnh cán cân thương mại hay nhập siêu của Việt Nam với Trung Quốc sẽ ở mức trên dưới 25 tỷ USD.

Không dễ thoát Trung

Theo Giáo sư Vũ Văn Hóa, Phó Hiệu trưởng trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội, Việt Nam phải xây dựng lại nền tảng, cơ sở hạ tầng, tổ chức lại sản xuất và tiêu thụ, nếu muốn thực hiện giảm lệ thuộc về kinh tế với Trung Quốc. Đây là một quá trình có thể kéo dài tới 10 năm. Chừng nào mà Việt Nam chưa thực tế khởi sự một tiến trình thoát Trung thì đích đến lại càng xa vời hơn.

Chuyên gia tài chính Bùi Kiến Thành, hiện sống và làm việc ở Hà Nội phân tích tình trạng thực tế của Việt Nam, khiến cho Việt Nam vẫn phải lệ thuộc kinh tế đối với Trung Quốc:

“Hiện nay từ 2011, 2012, 2013, 2014 doanh nghiệp Việt Nam chết như rơm rạ sau một trận bão, hàng trăm nghìn doanh nghiệp chết thì làm sao nền kinh tế phát triển được. Từ chỗ doanh nghiệp chết thì lấy hàng hóa nào mà bán ra sản xuất hàng hóa gì bây giờ đây. Ngoài ra vấn đề chi phí sản xuất của Việt Nam, một loại chi phí lớn của Việt Nam là chi phí quan hệ chi phí tham nhũng chiếm bao nhiêu phần trăm? có lĩnh vực thì 5%, lĩnh vực thì 10%, có lĩnh vực còn cao hơn nữa. Chi phí quan hệ nó như thế góp vào chi phí sản xuất thì làm sao cạnh tranh với nước ngoài, không riêng gì với Trung Quốc. Việc này Đảng và Nhà nước đưa ra các chính sách gọi là phòng chống tham nhũng, học theo đạo đức Hồ Chí Minh ..v..v.. nói thì nhiều nhưng mà làm chưa được bao nhiêu. Đó là những vấn đề về quản lý nhà nước, vấn đề lãnh đạo.”

Thoát Trung không chỉ là sự mong muốn của giới nhân sĩ trí thức chuyên gia mà còn là của đại đa số người dân Việt Nam. Nhà giáo Đỗ Việt Khoa, hiện sống và làm việc ở Hà Nội góp ý:

“Người dân bình thường nào cũng thấy Việt Nam lệ thuộc vào Trung Quốc quá nhiều. Lệ thuộc vào chính sách, lệ thuộc vào các quyết định chính trị, lệ thuộc cả từng mặt hàng sản xuất nữa. Gần đây phong trào báo chí trả lời người dân phản ánh rất nhiều, người dân mong muốn tìm cách thoát Trung, nhưng mà thoát thế nào khi mà những người đứng đầu quốc gia này không muốn thoát, thậm chí họ lại muốn lệ thuộc chặt hơn nữa thì thoát thế nào?

Theo giới chuyên gia đặt ra vấn đề thoát Trung về kinh tế tất nhiên đi trước phải là giảm lệ thuộc chính trị, tiến tới một thế đứng chính trị độc lập. Việt Nam dù chịu ảnh hưởng ít nhiều từ Trung Quốc nhưng vẫn phải có tư duy độc lập. Có một số ý kiến cho rằng, nếu Việt Nam trở thành một quốc gia giàu mạnh dân chủ văn minh thì sẽ không còn phải đặt vấn đề thoát Trung nữa. Đông đảo người dân Việt Nam từng góp ý trên báo chí do nhà nước quản lý: “Đừng bàn ‘thoát Trung’ nữa mà hãy hành động.”

MỤC ĐÍCH CỦA ĐỜI SỐNG

MỤC ĐÍCH CỦA ĐỜI SỐNG

Lm. MARK LINK, Dòng Tên

Trích EPHATA 624

Vào khoảng 3 giờ sáng ngày 17.9.1999, một trong những trận động đất kinh hoàng nhất đã xảy ra trong lịch sử Thổ Nhĩ Kỳ. Nó đã san bằng hàng trăm công trình kiến trúc và làm thiệt mạng hàng ngàn người. Khi động đất xảy ra, một kế toán viên 40 tuổi người Thổ Nhĩ Kỳ là Yuksel Er vừa mới đi ra từ phòng vệ sinh ở lầu ba trong khu chung cư sáu tầng lầu.

Bỗng dưng, mọi thứ bắt đầu quay cuồng. Chính ông cũng lảo đảo và bị rơi vào dòng thác cuốn của đồ vật. Trong 45 giây tiếp đó tai ông như điếc vì tiếng động mạnh. Và rồi, bỗng dưng mọi sự im lặng một cách ghê sợ.

Khi Yuksel tỉnh dậy, ông thấy mình bị kẹt dưới đống gạch vụn trong một vùng thật tối. Trong khoảng cách nhỏ bé đó, ông không thể nào cựa quậy được, chỉ có thể nằm yên ở đó. Trên mình ông và chung quanh ông là những vụn vỡ của tòa chung cư sáu tầng lầu. Lúc đầu ông tưởng là tận thế. Nhưng khi nghe thấy tiếng rên rỉ ở xa xa, ông biết là một điều gì khác đã xảy ra.

Trong bốn ngày liền, ông không ăn uống gì. Ông dùng thời giờ để cầu nguyện, suy nghĩ về đời sống và tự hỏi đời sống sau khi chết sẽ như thế nào. Lúc đầu, ông còn la lớn kêu cứu. Nhưng thấy vô ích ông im lặng dưỡng sức. Ông bắt đầu nhớ đến gia đình, và nhất là đứa con trai 13 tuổi mà ông vừa mới la rầy nó chỉ vài giờ trước trận động đất – vì nó cứ dành máy computer của gia đình để chơi “game”.

Sau đó vào ngày thứ tư, khoảng một giờ sáng, ông nghe có tiếng gọi quen thuộc. Chỉ trong vài phút, ông nhận ra tiếng của đứa cháu và thằng con 13 tuổi. Chúng đào xới đống vụn để lôi ông lên. Khi đứa con trai lôi được ông ra khỏi đống gạch vụn, điều đầu tiên nó nói là: “Bố ơi, con sẽ không bao giờ làm bố giận nữa”. Ông Yuksel trả lời: “Bây giờ thì chuyện ấy không còn quan trọng nữa, con ơi, vì bây giờ mọi sự đều đã khác trước đây !” ( Ảnh chụp ông Yuksel và con trai ).

Sau này, khi ở trong bệnh viện, Yuksel nói với gia đình và bạn hữu: “Đây là cuộc đời thứ hai của tôi. Tôi sẽ cố gắng tận dụng cuộc đời ấy.” Và rồi ông khóc, khóc y đứa bé khóc lúc mới lọt lòng mẹ. Trước trận động đất, Yuksel sống với những ưu tiên và mục đích, không khác gì những ưu tiên và mục đích của chúng ta. Sau cảm nghiệm ấy, các ưu tiên và mục đích của ông thay đổi cách đáng kể.

Điều này đưa chúng ta đến lời Chúa Giêsu bảo: “Nếu ai trong các con muốn đến với Thầy, phải từ bỏ mình, vác thập giá của con và theo Thầy.” Ở đó chúng ta cũng thấy Chúa Giêsu cảnh cáo các môn đệ về sự ngu dại khi giành được thế gian nhưng đánh mất điều quan trọng nhất trong tất cả: là sự sống vĩnh cửu ở đời sau. Sau cùng, chúng ta cũng thấy Chúa Giêsu nói: “Con Người sẽ thưởng cho họ tùy theo hành động của họ.”

Hãy trở về với câu chuyện của Yuksel. Khởi đầu tưởng rằng là một thập giá nặng nề, nhưng sau cùng lại là một phước lành lớn lao. Nó đã dạy cho ông và thúc giục ông sống thời gian còn lại theo một phương cách xứng hợp với Chúa, và với suy nghĩ của Thiên Chúa chứ không phải của Satan.

Cũng giống như trận động đất đã thay đổi cuộc đời ông Yuksel, bài Phúc Âm hôm nay cũng nhắm đến một kết quả tương tự cho chúng ta – tối thiểu cho một số người trong chúng ta. Có lẽ, như Phêrô, lối suy nghĩ về đời sống của chúng ta trở nên nguy hiểm hơn và càng giống với kiểu cách suy nghĩ của Xatan hơn là của Thiên Chúa.

Có lẽ, giống như Phêrô, chúng ta đang mất dần ý nghĩa của đời sống. Một đời sống không hoàn toàn vì vui thú và không muốn tránh càng nhiều thập giá càng tốt. Đúng ra, đó là một đời sống để được phần thưởng là sự sống đời đời. Đó là lối sống trong những năm còn lại của chúng ta ở đời này để giúp chúng ta gặt được phần thưởng là sự sống vĩnh cửu ở đời sau. Rõ rệt hơn nữa là vác thập giá hằng ngày của chúng ta và chấp nhận các thập giá ấy trong tinh thần mà Chúa Giêu đã chấp nhận thập giá của Người.

Và đây là phần đáng kể. Một khi chúng ta bắt đầu sống như Chúa Giêsu đã dạy, chúng ta sẽ khám phá ra điều mà Yuksel đã tìm thấy. Nó sẽ thay đổi mọi sự, và bỗng dưng, điều tưởng như một thập giá to lớn lại trở nên một ơn sủng lớn lao trong đời này và đời sau.

Hãy kết thúc với câu chuyện để nói lên điều chúng ta muốn nói:

Một vài năm trước đây, Gene Stallings đã huấn luyện đội banh trường đại học Alabama để thắng được 22 trận và được coi là trường đứng hạng hai về “football”. Nhưng không phải biến cố này, mà là một biến cố khác, đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc đời của ông. Đó là việc sinh hạ đứa con trai, Johnny. Khi bác sĩ nói với ông Stallings rằng Johnny sẽ bị hội chứng Down ( chậm phát triển ) và có lẽ không sống lâu hơn bốn năm, ông đã ngất xỉu.

Ba mươi năm sau, Johnny vẫn còn sống. Nói về ảnh hưởng của Johnny trong cuộc đời, ông Stallings cho biết: “Cháu rất đặc biệt ! Tất cả sự yêu thương của cháu thì vô điều kiện. Cháu không đạt thành tích gì. Cháu hoàn toàn vị tha.” Trong rất nhiều dịp, ông Stallings tuyên bố rằng cho dù có thể đảo ngược mọi sự và bắt đầu lại với một đứa con không bị bệnh Down thì ông cũng không muốn như vậy. Ông nói, “Tôi cảm nhận được rất nhiều ơn lành.”

Điều mà ông Stallings nghĩ rằng sẽ là một thập giá lớn lao trong đời thì lại trở nên một ơn sủng lớn lao – cả ở đời này và ngay cả ở đời sau.

Đây là Tin Mừng khi chúng ta vác thập giá của mình và theo Chúa Giêsu, có thể thay đổi cuộc đời chúng ta. Nhưng nó sẽ đem lại một bình an và phước lành mà chưa bao giờ chúng ta tưởng tượng ra hay hy vọng tới – và ngay cả dám mơ tưởng đến.

Lm. MARK LINK, Dòng Tên

Cựu Đệ nhất tình nhân tung hồi ký: Đòn đau cho Tổng thống Pháp

Cựu Đệ nhất tình nhân tung hồi ký: Đòn đau cho Tổng thống Pháp

Bà Valérie Trierweiler cùng với Tổng thống François Hollande tại điện Elysée ngày 07/05/2013.

Bà Valérie Trierweiler cùng với Tổng thống François Hollande tại điện Elysée ngày 07/05/2013.

REUTERS/Charles Platiau/Files

Thụy My

Trong cuốn sách mới ra đời mang tên « Merci pour ce moment » (tạm dịch: « Cảm ơn thủa bên nhau »), sẽ phát hành ngày mai 04/09/2014, bà Valérie Trierweiler, người từng được mệnh danh là Đệ nhất tình nhân đã vẽ ra một chân dung không lấy gì làm đẹp đẽ của Tổng thống Pháp. Theo người tình bị phản bội, ông François Hollande ngày càng thiếu đi tính nhân bản, theo với quá trình vươn lên đỉnh cao quyền lực của ông.

Chính thức chia tay với ông François Hollande từ ngày 25/1, cựu « Đệ nhất tình nhân » trả đũa bằng cuốn hồi ký này, và các tiết lộ trong sách được xem là rất tai hại cho ông. Hôm nay tuần báo Paris Match nơi bà Valérie Trierweiler làm việc và nhật báo Le Monde cho đăng các trích đoạn đầu tiên của cuốn sách được chuẩn bị trong bí mật, có số lượng in lên đến 200.000 bản.

Tác phẩm dày 320 trang được in tại Đức để giữ kín đến phút chót, hứa hẹn sẽ bán rất chạy. Hôm nay tuy chưa chính thức có mặt trên kệ sách, nhưng « Merci pour le moment » đã đứng hàng đầu trong số tựa sách được bán trên trang Amazon tại Pháp. Trong đó bà Trierweiller mô tả : « Ông ta lạnh lùng, không cười. Tôi là vật làm tăng giá trị cho ông ta, nhưng đối với ông tôi chẳng có giá trị gì cả ». « Tôi say đắm một con người mà tôi cảm thấy khi thành công càng trở nên xa cách. Tất cả đều đảo lộn ».

Theo hồi ký, Tổng thống cánh tả Pháp khi có quyền lực trong tay đã mất đi tính nhân văn, và buông thả trong cuộc sống riêng tư. Cựu « Đệ nhất tình nhân » viết : « Tổng thống tự giới thiệu là một người không ưa các nhà giàu nhưng trong thực tế, ông ta không thích người nghèo ».

Ông François Hollande hiện có tỉ lệ ủng hộ ở mức thấp nhất trong các cuộc thăm dò dư luận. Cuốn sách được tung ra lúc này có thể càng làm cho công chúng mất thêm cảm tình với ông. Trước đó cựu Bộ trưởng Gia cư Cécile Duflot cũng đã viết sách mô tả ông Hollande : « Cố gắng làm Tổng thống của mọi người, nhưng ông ta chẳng biết cách trở thành Tổng thống của một ai cả ».

Một người thân cận của ông François Holllande cho rằng : « Về mặt chính trị đương nhiên chẳng tốt lành gì cả, chính trị bị biến thành những chuyện phù phiếm ». Nhân vật này lo ngại hình ảnh của Tổng thống Pháp – một người « không gây ác cảm và cũng không phải là người độc địa » – sẽ bị ảnh hưởng dưới mắt công chúng.

Bà Valérie Trierweiler, người phụ nữ 49 tuổi xinh đẹp, theo phong cách cổ điển, vốn bị người Pháp không mấy ưa vì tính cách của bà. Ngay từ tháng 5/2012, bà vẫn đề cao tự do cá nhân, cho rằng vẫn có thể duy trì công việc viết báo ở tờ Paris Match song song với tư cách đệ nhất phu nhân tại điện Elysée.

Một tháng sau, bà gây tranh cãi dữ dội khi gởi đi tin Twitter ủng hộ đối thủ tranh cử với bà Ségolène Royal, người đã sống chung với ông Hollande gần 30 năm và có với ông bốn mặt con, ngáng đường vào Quốc hội của tình địch.

Ngày 10/01/2014, tuần báo Closer tiết lộ quan hệ lén lút giữa Tổng thống Pháp với nữ diễn viên Julie Gayet, dẫn đến sự chia tay giữa bà Valérie Trierweiler và ông François Hollande 15 ngày sau đó bằng một thông báo ngắn gọn của Tổng thống với AFP. Trong cuốn sách, bà cho biết ông Hollande ban đầu cam đoan là mối quan hệ với diễn viên trên chỉ mới bắt đầu có một tháng, sau nói ba rồi sáu, chín tháng, và rốt cuộc là một năm.

Điện Elysée khẳng định cho đến tối qua vẫn chưa hay biết gì về sự xuất hiện của cuốn hồi ký này, và từ chối mọi bình luận.

 

Ai còn có niềm tin đối với Đảng?

Ai còn có niềm tin đối với Đảng?

Hòa Ái, phóng viên RFA
2014-09-04

  • RFA

Hình minh họa chụp năm 2011 tại Hà Nội.

AFP

000_Hkg4466727-305.jpg

Trong những ngày kỷ niệm mùa thu năm 1945 và 69 năm ngày Quốc khánh, mùng 2/9, một lần nữa, vai trò lãnh đạo của Đảng CSVN được truyền thông tập trung ca ngợi. Thế nhưng niềm tin của dân chúng cũng như của chính các đảng viên có thay đổi hay không sau gần 7 thập niên?

“Lỗi là ở gốc rễ”

Truyền thông trong nước những ngày qua đồng loạt đăng tải thông tin nhắc nhớ về cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 do Đảng CSVN lãnh đạo đã làm nên một trang sử vẻ vang, giải phóng nhân dân VN khỏi chế độ thực dân, phong kiến. Nước VNDCCH được ông Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập vào ngày 2/9/1945 với một Nhà nước của dân và vì dân. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nhấn mạnh trong một bài viết nhân dịp kỷ niệm ngày Quốc Khánh sau 69 năm rằng chỉ sợ nhân dân mất niềm tin vào Đảng chứ không sợ bất cứ một thế lực nào, dù là hung bạo nhất. Ông Trương Tấn Sang còn nhắc lại câu nói của Nguyễn Trãi “làm lật thuyền mới biết sức dân mạnh như nước” cũng như ông Hồ Chí Minh từng nói “dân là gốc” cho nên mối quan hệ máu thịt, sinh tử giữa Đảng với nhân dân phải được chăm lo ở tầm cao mới, chất lượng mới để đất nước phồn vinh và trường tồn.

Một đảng viên Đảng CSVN không muốn nêu tên chia sẻ suy nghĩ của mình sau khi đọc bài viết tâm huyết của vị Chủ tịch nước đương quyền trên Tạp chí Cộng Sản:

” Nói chung niềm tin cũng không còn nhiều vào Đảng nữa nhưng mà bắt buộc người ta vẫn phải ở trong Đảng. Còn nhân dân thì mất niềm tin nhiều hơn đảng viên.
-Một đảng viên”

“Có đến 80% không tin rằng Đảng còn vững mạnh nữa. Nói chung đã trải qua nhiều thứ rồi. Bây giờ bọn mình cứ đọc báo, kệ các ông nói gì nói. Ví dụ đơn giản cái nghị quyết Trung ương 4 mà vẫn cứ phải học nhưng bây giờ một đảng bộ chỉ đi học một nửa, còn lại một nửa chỉ đọc báo. Nói chung niềm tin cũng không còn nhiều vào Đảng nữa nhưng mà bắt buộc người ta vẫn phải ở trong Đảng. Còn nhân dân thì mất niềm tin nhiều hơn đảng viên.”

Nghị quyết Trung ương 4 có tiêu đề “Một số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay” đang được triển khai với kỳ vọng Đảng sẽ có sức mạnh mới xứng đáng với niềm tin của nhân dân.

Trong khi các bộ ngành, địa phương được cho là đang thực hiện nghiêm túc nghị quyết Trung ương 4 thì dân chúng ngày càng đón nhận tin tức có nhiều đảng viên lần lượt tuyên bố ra khỏi Đảng CSVN. Những người tuyên bố ra khỏi Đảng đều giống nhau ở điểm họ không còn lòng tin vì Đảng CSVN mà họ từng thề tuyệt đối trung thành đã không đi theo đúng tôn chỉ, mục đích như lúc ban đầu là đem lại độc lập, tự chủ, hạnh phúc, dân chủ khi Đảng CSVN hình thành cách nay xấp xỉ một thế kỷ. Tiến sĩ – Bác sĩ trung tá quân đội Đinh Đức Long là người vừa công khai ra khỏi Đảng hồi cuối tháng 8 nói với đài RFA “lỗi là ở gốc rễ”.

Nhồi nhét không thực tế

024_138495-250.jpg

Một bức tranh cổ động trên đường phố Sài Gòn, ảnh minh họa chụp trước đây. AFP PHOTO.

Một thầy giáo ở Hà Nội, yêu cầu đài RFA không tiết lộ danh tánh, vừa được trường học nơi mình giảng dạy đề cử đi học lớp “đối tượng Đảng” cho đài ACTD biết trong suốt 1 tuần tham gia, Ban Tuyên giáo và giảng viên trường Đảng nhồi nhét những điều không thực tế. Trong khi công nghệ thông tin phát triển một cách mạnh mẽ mà những “cảm tình viên” phải bị nhồi sọ rằng “yêu Đảng mới đồng nghĩa với yêu Tổ quốc” và “vào Đảng vì mục đích xây dựng tổ chức Đảng, xây dựng đất nước chứ không phải vì mục đích tư lợi cá nhân, vì thăng quan tiến chức” càng khiến cho bản thân mất “cảm tình” với Đảng. Thầy giáo này lên tiếng:

“Thật ra, trước khi đi học, Hiệu trưởng đã dặn 1 câu là ‘người ta có dạy như thế nào cũng cấm cháu không được giơ tay phát biểu. Để cho người ta dạy’. Bởi vì người ta rất hiểu bây giờ thông tin đa chiều nên có nhiều điều người ta nói sai lệch. Có thể cán bộ xã ở vùng sâu vùng xa người ta thích nghe nhưng đối với mình việc nhồi nhét những điều không thực tế, không chính xác vào đầu thì cảm thấy rất là lố bịch. Vào lớp học người ta dạy đúng như một con vẹt. Mình cũng là một giáo viên, dạy thế nào thì phải rất khéo léo. Thời buổi này đâu có thể thích nói hưu nói vượn là được. Mình đi học thì mới biết được trong lớp học là như thế. Chắc chắn là học để biết thôi. Không vào Đảng.”

” Có thể cán bộ xã ở vùng sâu vùng xa người ta thích nghe nhưng đối với mình việc nhồi nhét những điều không thực tế, không chính xác vào đầu thì cảm thấy rất là lố bịch.
-Một thầy giáo”

Khi đề cập đến Đảng CSVN, hơn bao giờ hết, đại đa số người dân trong nước đều cho rằng đó là tập hợp của một nhóm người “ăn trên ngồi trước”. Những người tham gia vào Đảng ngày nay thường vì mục tiêu tư lợi cho bản thân, dễ dàng trong con đường quan lộ hơn là thực tâm cống hiến và phục vụ cho xã hội, cho nhân dân như lý thuyết vốn dĩ ban đầu được đề ra của Đảng CSVN. Trong thời gian gần đây, Đảng CSVN được dư luận đánh đồng với “lợi ích nhóm”.

Câu hỏi đặt ra có phải nhiều đảng viên của Đảng CSVN vào Đảng đúng theo như nhận xét của công luận? Người đảng viên không muốn nêu tên cho đài RFA biết thêm:

“Cái này nói chung không phải mình mà rất nhiều. Người ta tham gia thì có rất nhiều yếu tố, như cho tương lai. Như bọn mình có thẻ Đảng thì nhiều cái có lợi hơn trong công việc hay có một lý lịch sạch, chẳng hạn. Đơn giản vậy thôi.”

Lời bộc bạch này không đại diện cho tất cả đảng viên Đảng CSVN. Tuy nhiên, nỗi lo sợ niềm tin của người dân đối với Đảng bị đánh mất mà Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đề cập đến không phải là không có cơ sở. Trong bài viết “Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch” của ông Trương Tấn Sang nhấn mạnh Nhà nước của dân, do dân và vì dân được toàn dân ủng hộ nhưng Chủ tịch nước đã không bàn đến phương hướng chuyển đổi mà lòng dân đang trông đợi thì con thuyền chở 90 triệu dân VN do Đảng CSVN lèo lái chắc chắn sẽ chìm vì thời đại nào sức dân cũng mạnh như nước.

Bước đường cùng

Bước đường cùng
Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

“Bạn ơi, nguồn thảm sầu kia bởi
Số phận hay do chế độ này!”
(Vú Em-Tố Hữu)

Ngày 15 Tháng Tám, Bộ Thông Tin và Truyền Thông Việt Nam ra quyết định đình bản 3 tháng báo điện tử Trí Thức Trẻ và phạt 207 triệu đồng vì ngày 12 Tháng Tám báo này đã đăng một bài có tựa đề là “Gái miền Tây và 3 chữ ‘N’ nổi danh thiên hạ” của tác giả Trai Toàn Cầu.


Một cô gái quảng cáo bia Anchor của Singapore tại Hà Nội. (Hình minh họa: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)

Ba chữ N đó là Ngoan, Ngon và Ngu. Bài này xem như đã vi phạm luật báo chí và chính ban biên tập đã ngỏ lời xin lỗi độc giả vì đã “gây nên sự tổn thương sâu sắc cũng như tạo cảm giác xúc phạm tới nhiều phụ nữ Việt Nam.”

Thật ra chuyện Ngoan, Ngon và Ngu không lạ gì với lời nói ngày xưa dùng để khuyên những người đi chọn vợ.

Ngoan nói về tính tình, ai lại không thích có một người vợ ngoan.

Ngon nói về thể chất và hình dáng bên ngoài, trắng da dài tóc, có nhan sắc, vì không ai muốn chọn vợ xấu.

Ngu nói về kiến thức. Phải ngu hơn chồng mới phục chồng, và không lấn lướt muốn dạy chồng. Không gì chán bằng cảnh ông chồng mới mở miệng phát biểu một câu thì vợ đã nói, “Chuyện này em biết rồi!” Vậy thì nên chọn một người vợ “ngu” hơn mình.

Nhưng ở đây bài báo lại dùng chữ “ngu” để vơ đũa cả nắm, cho con gái miền Tây ngây ngô và ngu muội, “não ngắn,” thiếu văn hóa. Tác giả cho rằng, “Về độ ‘ngon,’ độ ‘ngoan’ thì tôi dám quả quyết không gái miền nào địch được gái miền Tây. Nhưng còn về độ ‘ngu’ thì phần lớn gái miền Tây cũng là những cô gái ‘ngu dốt’ vô đỗi!”

Không phải bây giờ, mà trước đây báo chí Việt Nam đã có những bài báo chỉ trích cay nghiệt con gái “Bắc Kỳ,” và rồi nay, những người “phụ nữ miền Tây” bị tổn thương vì sỉ nhục là ngu đần!

Cộng sản coi là đã thống nhất được đất nước nhưng lòng người thì ly tán, nhất là sau cuộc đổi đời 30 Tháng Tư, 1975, dân miền Bắc ồ ạt vào Nam lập nghiệp, được ưu tiên nâng đỡ trong việc lập nghiệp, chiếm đất, phá rừng, bây giờ ở Việt Nam đi đâu mà không nghe tiếng nói Bắc Kỳ 75. Người miền Nam chẳng ưa gì dân Bắc vào Nam trong tư thế kẻ thắng trận chiếm đóng, người miền Bắc tuy coi miền Nam là vùng tạm chiếm, bị bóc lột, nhưng gần như ganh tỵ vì choáng ngợp trước cảnh đời sống an nhàn, sung túc của dân Nam.

Người miền Trung và miền Bắc thường có quan điểm cho rằng người miền Nam là hời hợt, nông nổi, thiếu sâu sắc, không có căn bản văn hóa, mối giềng ràng buộc với họ hàng, làng nước. Ðiều này dư luận thường dùng để làm câu giải đáp cho việc “lấy chồng Ðài Loan” của con gái Việt Nam mà các thiếu nữ miền Tây đã dẫn đầu trong vài chục năm qua.

Những nhận xét về “gái miền Tây” lâu nay khá nặng tay. Một cán bộ của Ðại Học Tôn Ðức Thắng nhận định… “nhiều người dân ở vùng này chây lười nên không nhận thấy tầm quan trọng của tri thức!” Một bài khác trong Vnexpress cho rằng, “… đàn bà con gái chỉ biết đi làm gái tiếp thị bia, massage!” Và chỉ nội cái nhan đề trong Vitalk.vn, “Gái miền Tây lười, ít học và muốn một bước lên bà chủ!” cũng đủ là một điều xúc phạm chung cho cả một tập thể.

Vì đâu nên nỗi?

Người đổ lỗi tại văn hóa, hoàn cảnh thiên nhiên ưu đãi mà không hề ai dám nói đến cơ chế xã hội và những gì là trách nhiệm của kẻ cầm quyền trong bao nhiêu năm nay. Một ông trưởng khoa trưởng một đại học lớn như Ðại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn đã xác định … “nền giáo dục ở Ðồng Bằng Sông Cửu Long còn quá yếu, đặc biệt với phụ nữ, đã đưa đến những hệ lụy trên!” Vậy thì thưa ông, chủ trương này từ đâu đến và sao không nghe ông than trách việc khách sạn, sân golf, nhà hàng đặc sản hay cho ngoại nhân cho thuê đất để đẩy dân vào chỗ khốn cùng để con gái họ phải thoát ra cảnh nghèo, vươn qua biên giới để mong mỏi có một đời sống tươm tất hơn.

Cũng không nghe ai nói, trước Tháng Tư, 1975, con gái miền Tây toàn là dân đi bán bar, làm sở Mỹ hay làm điếm hay đi lấy chồng Ðài Loan. Ðiều gì đã biến đổi đất nước nói chung và con gái miền Tây lâm thảm cảnh này.

Có quý vị trí thức nào bỏ ra chút thời giờ để nghiên cứu xem xứ nào đàn ông Việt Nam đầu quân đi bán sức lao động xứ người, và vì sao Nghệ Tĩnh và Quảng Bình lại lắm người bỏ ruộng bỏ vườn “đăng ký” đi làm thuê để thoát khỏi cảnh nghèo đói. Không lẽ quý vị lại đổ tội cho chây lười, ít học hay chối bỏ quê hương nghèo khổ, truyền thống của mảnh đất này là thích đi làm “bồi,” hay sợ phạm đến mảnh đất “thiêng” mà không dám nói.

Một sự thật đau lòng là nhạc sĩ Tuấn Khanh, ở trong nước, trong blog của ông đã nói lên một điều, đáng lý phải làm cho chính quyền trong nước đỏ mặt. Các hội gọi là phụ nữ, các tổ chức nhân quyền vẫn thường có thói quen báo cáo tốt, đề cao thành tích, vẽ vời hình tượng người phụ nữ Việt Nam, nhưng có đất nước nào đã ở trong thời kỳ hòa bình, độc lập mà thân phận phụ nữ bọt bèo, trôi giạt khổ đau như người con gái Việt Nam?

Sự thật là trong xã hội này, người phụ nữ bị đánh giá thấp, không hề được bảo vệ, che chở bởi công lý.

Những vụ án có liên quan về phụ nữ từ trước đến nay, phần đông phụ nữ đều bị thiệt thòi vì các loại đàn ông bên nguyên hay bên bị đều là loại nô bộc trung thành với đảng và nhà nước, và phụ nữ Việt Nam được xem không hơn một món đồ chơi.

Khi nói chuyện về đời sống của các cô gái miền Tây đi lấy chồng xứ người, blogger Tuấn Khanh được biết một sự thật rất là chua chát, nếu còn chút lương tri, hẳn các hội phụ nữ ở Việt Nam và cả cái cơ chế công an, cảnh sát xã ấp phải hổ thẹn. Khi hỏi về chuyện chồng Ðài Loan đánh đập, một cô gái đã cười hồn nhiên nói, “Không phải ai cũng bị như vậy, báo chí nói quá. Nhưng nếu như có bị đánh ở Ðài Loan, tụi em còn được báo chí xứ đó lên tiếng giùm, chứ ở Việt Nam, lấy một ông chồng say xỉn rồi bị đánh chết cũng không ai lo cho mình.”

Ở đây chúng tôi không nhắc đến một loại kỷ luật chỉ có trong xã hội Việt Nam là cấp lãnh đạo thông tin, một loại “Ông Kẹ” mang hơi hướng “đảng,” có thể làm tình, làm tội bất cứ cơ quan truyền thông nào khi họ cảm thấy bất như ý. Bài báo “ba N” có thể gây phẫn nộ cho quần chúng, thậm chí có thể ký giả bị bao vây hay tòa soạn bị đốt nhưng không thể vì lý do gì mà chính quyền phạt tiền hay đình bản. Phải chăng đây chỉ là một thái độ khúm núm, sợ mất lòng, vì trong Bộ Chính Trị hiện nay có bao nhiêu vị có mẹ, có em, có con là “gái miền Tây!”

Lên án ai đó là một công việc dễ dàng, nhưng đi tìm nguyên nhân mà và sự thật là một việc khó! Không dễ dàng như một vị tiến sĩ xã hội học, đảng viên CSVN, đã nhận định rằng do ít ý thức về đức hạnh mà phụ nữ Nam Bộ thường hay lấy chồng ngoại (TK). Vậy thì ở Hà Nội, hoa hậu, sinh viên đại học có tên trong đường dây “gái gọi,” tan trường là lên giường, chắc không phải lý do là đức hạnh!

Ba chữ Ngoan, Ngon và Ngu chưa đủ yếu tố để đưa người con gái miền Tây vào hoàn cảnh mà các “đạo đức gia” hay “đạo đức…giả” tha hồ bới móc, nói xấu. Quý vị cũng không nên quên một chữ N nữa, là chữ Nghèo khiến cho phụ nữ miền Tây phải lâm vào cảnh đi lấy chồng xa, hay chỉ biết đi làm gái tiếp thị bia, massage. Dân nghèo mạt, nhặt rác mỗi ngày không kiếm nổi tới $2, trong khi cán bộ công quyền giàu bạc triệu đô la, ăn xài huy hoắc bạc tỉ là ưu điểm của một chế độ XHCN chăng?

Miền Tây “gạo trắng nước trong” ngày nay như thế nào? Báo Hậu Giang đưa tin: “Dân khổ vì ‘ba không.’ Người dân tại các tuyến dân cư trên những con kênh mới hình thành ở xã Vĩnh Tường, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang, đang sống trong tình trạng 3 không: không nước sạch, không điện, không đường bộ. Trẻ em đến trường rất khó khăn, vậy thì sao cho là dân kém học vấn. Dân Hậu Giang còn nghèo, chỉ mỗi ấp 8 xã Vĩnh Viễn, huyện Long Mỹ, đã có 87 hộ nghèo có hoàn cảnh khó khăn, trong đó có 28 hộ nghèo không có đất sản xuất.” Vậy thì động lực nào đã xô đẩy hàng vạn cô gái miền Tây đi lấy chồng ngoại, nên câu nói “không có tiền thì ‘cạp đất’ mà ăn,” đâu có gì là quá đáng?

Ở đâu có câu chuyện bà Phạm Thị Lài, 52 tuổi, cùng con gái là Hồ Nguyên Thủy, 33 tuổi, với thân thể trần truồng không một mảnh vải che thân, phản đối chính quyền đã cướp đất để bán cho một công ty ngoại quốc trong dự án “Khu dân cư Hưng Phú,” sau khi chồng và cha của họ đã vì quá phẫn uất uống thuốc rầy tự tử! Hai mẹ con bà Lài “đã bị đám vệ sĩ lôi trên cát, bãi cỏ và các đống vật liệu trong tình trạng khỏa thân dưới cái nắng gay gắt.” Ðó chính là câu chuyện “hổ thẹn” nhất của đất nước trong năm 2012 xảy ra tại miền Tây, nơi mà một tờ báo “vô đạo” ngày nay đã lên án là cái xứ lười, ngu và con gái chỉ muốn đi bán bia, hay hành nghề massage.

Hổ thẹn không phải nơi hai mẹ con đã phơi bày cái chỗ đáng giấu của đàn bà, vũ khí yếu đuối cuối cùng phải đem ra để tấn công vào khuôn mặt quá dày, trâng tráo của chế độ, mà xấu hổ rơi về phía cường quyền, đã toa rập với xã hội đen, các thế lực đồng tiền, với sự trợ thủ của ngành công an đẩy người dân vào bước đường cùng.

Xin các nhà nghiên cứu văn hóa, các khoa bảng, trí thức hiện đang giữ các vai trò quan trọng trong các trường đại học hay trung tâm nghiên cứu, thích chuyên bố, rao giảng thứ kiến thức cổ lỗ, xin đừng ôm mãi cái não trạng mà danh từ hiện nay, người Việt trong nước đang dùng là “não ngắn,” đi tìm và đổ lỗi cho văn hóa, địa dư và những nguyên nhân xa cho cái “nghèo,” cái “ngu” của gái miền Tây, hầu hết là để biện minh cho tình trạng hư đốn của chế độ.

Thân “vú em” năm xưa làm sao nhục nhã, khốn khổ bằng chuyện con gái Việt Nam đi làm gái mại dâm mười phương bây giờ, nên chưa lúc nào tôi thấy hai câu thơ của Tố Hữu thấm thía như hôm nay:

“Bạn ơi nguồn thảm sầu kia bởi
Số phận hay do chế độ này!”

Chúng tôi muốn biết

Chúng tôi muốn biết

clip_image001

Tự do ngôn luận liên quan chặt chẽ tự do tiếp cận thông tin. Mỗi người dân đều có quyền tiếp cận những thông tin từ nhà nước như chính sách quốc gia, hoạt động của chính khách nhà nước và/hoặc đảng cầm quyền trên mọi lĩnh vực: giáo dục, môi trường, y tế, an sinh xã hội… đến chủ quyền quốc gia. Đó là một trong những quyền hết sức cơ bản của người dân.

Cung cấp thông tin chính xác, minh bạch và có trách nhiệm là bổn phận của nhà nước.

Ngược lại, quyền tiếp cận thông tin từ nhà nước giúp người dân có thể tiếp thu, đánh giá, lên tiếng phê bình hay ủng hộ. Đây là yếu tố nền tảng của dân chủ. Động thái phớt lờ quyền cơ bản đó chỉ có ở những thể chế phản dân chủ, độc tài.

Đã bao giờ bạn đặt câu hỏi: người dân có quyền được biết những thỏa thuận, những ký kết có liên quan đến chủ quyền quốc gia hay không?

Tháng 5/2014 vừa qua, khi Trung Cộng đem giàn khoan HD-981 xâm lấn vùng biển Việt Nam, lần đầu tiên Công hàm 1958 liên quan đến chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa do thủ tướng Phạm Văn Đồng ký đã được đề cập công khai trên truyền thông nhà nước. Và rất nhiều người Việt Nam sửng sốt, kinh ngạc về cái công hàm vô cùng tai hại này.

Dù biện bạch thế nào, Công hàm 1958 được ký với nội dung tán thành Công bố của chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về chủ quyền và lãnh hải (bao gồm Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam) khiến người dân quan tâm, lo lắng đến vận mệnh đất nước phải đặt câu hỏi: Tại sao những thỏa thuận ký kết liên quan đến chủ quyền Tổ quốc Việt Nam lại bị ém nhẹm suốt hơn nửa thế kỷ? Và những thông tin này nhà nước Việt Nam chỉ bất đắc dĩ công bố khi Trung Cộng trưng ra như bằng chứng về cái gọi là quyền “sở hữu” của Trung Quốc đối với Hoàng Sa & Trường Sa.

Quyền được thông tin là cơ sở để người dân thực hiện quyền làm chủ đất nước. Trong trường hợp này, mỗi chủ nhân của nước Việt Nam phải nắm bắt thông tin, mới có thể chung sức hữu hiệu bảo vệ quyền lợi chính đáng của chính họ, cũng là của cả dân tộc Việt Nam.

Trên thực tế, mối quan hệ giữa chóp bu lợi ích nhóm trong hai đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc luôn che lấp những thông tin liên quan đến chủ quyền, nhân quyền, các vấn đề kinh tế – xã hội – văn hóa ở Việt Nam.

Hậu quả của “vùng tối” này là gì?

Nhân dân Việt Nam thường bị động trước các động thái gây hấn, lúng túng trước các thông tin do Trung Cộng đưa ra. Trong khi đó, nhà nước Việt Nam lại chủ trương đàn áp những ai muốn bạch hóa cái “hố đen” đó, khi người dân lên tiếng đòi hỏi hoặc tìm mọi cách để biết sự thật những gì đã và đang diễn ra.

Một trong những ký kết có liên quan đến vận mệnh quốc gia Việt Nam là “mật” ước Thành Đô 9-1990. Cho đến nay, gần một phần tư thế kỷ đã trôi qua, không có bất kỳ thông tin nào liên quan đến hội nghị này được nhà nước Việt Nam chính thức công bố.

Mọi người lo ngại trước viễn cảnh Việt Nam sắp biến thành xứ sở phiên thuộc của Trung Quốc qua những thông tin rò rỉ.

Đã có những cá nhân, tập thể yêu cầu nhà nước Việt Nam công bố thông tin này. Đáp lại, đang là động thái “mũ ni che tai”, phớt lờ trịch thượng, vô trách nhiệm.

Vận nước đang nguy nan, đòi hỏi người dân phải được biết và có quyền được biết những thỏa thuận ký kết trên lưng người dân, 24 năm trước, giữa các yếu nhân hai đảng và nhà nước, gây phương hại nền độc lập của Việt Nam từ đó đến nay và tương lai.

Chúng tôi có quyền được biết, và chúng tôi muốn biết những gì đã và đang diễn ra.

Các bạn – những người dân Việt Nam nặng lòng yêu nước, với trách nhiệm trước cha ông và hậu thế, hãy cùng chúng tôi cương quyết tranh đấu và kiên trì đòi hỏi trên cơ sở quyền được biết này.

Hãy bắt đầu từ nội dung Hiệp ước Thành Đô 9-1990.

Chúng Tôi Muốn Biết

Nguồn: mangluoiblogger.blogspot.com

Tại sao người Công giáo xưng tội

Tại sao người Công giáo xưng tội

Chuacuuthe.com

TRẦM THIÊN THU

0409142

VRNs (04.09.2014)- Sài Gòn- Nhiều người không hiểu tại sao người Công giáo lại xưng thú tội mình với linh mục. Thực ra đó là làm theo tiền lệ trong Kinh Thánh.

Sau khi sống lại, Chúa Giêsu hiện ra và nói với các môn đệ: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em”. Nói xong, Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20:21-23). Người Công giáo tin rằng Chúa Giêsu đã trao quyền tha tội cho các Tông đồ (các linh mục đầu tiên) và những người kế vị, nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần.

XƯNG TỘI LÀ BÍ TÍCH TRAO BAN ÂN SỦNG

Giáo hội Công giáo dạy rằng bí tích là dấu chỉ bề ngoài, do Chúa Giêsu thiết lập, để ban ân sủng. Xưng tội, gọi là Bí tích Hòa giải hoặc Cáo giải, ban cho chúng ta ân sủng để chống lại bản chất tội lỗi. Đó là bí tích chữa lành.

Giáo lý của Giáo hội Công giáo (GLCG) cho biết: “Những ai tới gần bí tích Sám hối, sẽ nhận được từ lòng từ bi Thiên Chúa ơn tha thứ về sự mình đã lỗi phạm đến Ngài, đồng thời họ được hoà giải với Giáo Hội mà tội lỗi của họ đã gây thương tích: chính Giáo Hội đã lo cho họ trở lại nhờ đức bác ái, nhờ gương sáng và những lời cầu nguyện” (GLCG, số 1422).

XƯNG TỘI LÀ CHÚNG TA ĐỐI DIỆN VỚI TỘI LỖI

Rất khó đến với một người mà chúng ta đã làm tổn thương và xin họ tha thứ. Cần can đảm và khiêm nhường nhìn nhận mình sai trái, nhất là cần biết rằng người đó vẫn có thể buồn giận. Cũng vậy, người Công giáo phải can đảm và khiêm nhường bằng cách nói cho linh mục biết tội lỗi của mình. Chúng ta phải đối mặt với tội lỗi và nhận mình sai trái. Dĩ nhiên, linh mục bị buộc bởi “ấn tòa giải tội” và không được tiết lộ hoặc nói với bất cứ ai về tội của người khác.

XƯNG TỘI LÀ ĐƯỢC SẠCH TỘI

Sau khi xưng tội, người Công giáo tin rằng linh hồn họ được sạch tội, không tì vết như thuở ban đầu, và được trang bị bằng sự bảo vệ để không tái phạm. Thường xuyên xưng tội thì chúng ta sẽ được thêm nhiều ân sủng và được nhắc nhở về việc chịu trách nhiệm về mọi hành vi của mình.

TỘI LỖI KHÔNG RIÊNG TƯ

Tội của chúng ta có ảnh hưởng người khác, dù chúng ta cho đó là “tội riêng”. Đó là sự liên lụy hoặc liên đới tội lỗi. Các tội như vậy có thể có vẻ nhỏ nhật, nhưng chúng vẫn làm chúng ta thay đổi. Có thể chúng ta ích kỷ vì các tội này, nhưng rồi sự ích kỷ của chúng ta sẽ ảnh hưởng người khác. GLCG nói: “Nhiều tội đã gây thiệt hại cho tha nhân. Vậy phải làm hết sức mình để đền bù (như trả lại những gì mình đã ăn trộm, phục hồi thanh danh cho người mình đã vu khống, bồi thường những thương tích mình đã gây cho tha nhân). Nguyên đức công bằng cũng đòi buộc như thế. Nhưng ngoài ra, tội lỗi còn làm bị thương và làm mất sức chính tội nhân, cũng như đã gây tổn thương cho những liên hệ giữa tội nhân với Thiên Chúa và với tha nhân. Ơn tha tội xoá tội lỗi, nhưng không sửa lại được tất cả những xáo trộn mà tội lỗi đã gây nên (x. CĐ Trentô, DS 1712). Được tha thứ tội lỗi, được chữa lành, tội nhân còn phải lấy lại đầy đủ sức khoẻ tinh thần. Vậy người đó phải làm một cái gì để đền bù tội lỗi mình: người đó phải “đền tội” cách thích hợp, tức phạt tạ các tội lỗi mình. Đó là việc đền tội” (GLCG, số 1459).

TƯ VẤN TÂM LINH

Dù điều này không luôn xảy ra khi chúng ta đi xưng tội, nhưng  đôi khi hối nhân có thể nhận được lời tư vấn từ linh mục. Hãy nhớ rằng linh mục là “kênh” chuyển sức mạnh của Chúa Thánh Thần qua Bí tích Hòa giải, và linh mục có thể hướng dẫn tâm linh cho hối nhân. Việc tư vấn này có thể rất có lợi đối vối việc phát triển tâm linh và đổi mới, đồng thời có thể giúp phát triển mối quan hệ với Chúa Ba Ngôi.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Beliefnet.com)

Lễ Thánh GH Gregory, Tiến sĩ Giáo hội, 3-9-2014

 

Đưa Người Ta Không Đưa Sang Sông

Đưa Người Ta Không Đưa Sang Sông

RFA

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Tôi thấy trong cuộc đời của chị Thắng, chị không mang tai tiếng gì. Vẫn là con người trong sạch.

Hạ Đình Nguyên

Thay vì một vòng hoa, một nén nhang, hay một lời ai điếu, tôi xin mượn một câu thơ của Thâm Tâm để đưa Võ Thị Thắng về nơi an nghỉ cuối cùng. Hoa hoè, nhang khói, điếu văn này nọ (e) không thiếu trong tang lễ “trọng thể” dành cho chị – theo như tường trình của VOV:

“Vào lúc 7h30 sáng nay (25/8), tại Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng thành phố Hồ Chí Minh, Lễ truy điệu bà Võ Thị Thắng, nguyên Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, nguyên Tổng Cục trưởng Tổng Cục du lịch đã được tổ chức trọng thể.”

Bộ trưởng Bộ VH-TT-DL Hoàng Tuấn Anh đọc điếu văn. Ảnh:VOV

“Đọc điếu văn tại lễ truy điệu, trong niềm tiếc thương sâu sắc, ông Hoàng Tuấn Anh, Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch, Trưởng ban lễ tang xúc động ôn lại cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vẻ vang của bà Võ Thị Thắng, người con của Nam Bộ thành đồng với ‘nụ cười chiến thắng’ đã trở thành một trong những biểu tượng cao đẹp cho thế hệ anh hùng trong cuộc kháng chiến giành độc lập – tự do – thống nhất đất nước. Tinh thần Võ Thị Thắng là tấm gương sáng cho các thế hệ noi theo.

Tôi sinh ra đời sau Võ Thị Thắng khá lâu nên không biết chi nhiều về “cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vẻ vang” của chị. Do tìm hiểu thêm cũng biết được ba điều bốn chuyện, xin được chia sẻ với mọi người.

Theo vnexpress:

Bà Thắng sinh ra tại xã Tân Bửu, huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Năm 9 tuổi, bà bắt đầu bước chân vào con đường cách mạng bằng việc tham gia đưa thư, mang cơm cho cán bộ trong hầm bí mật. Năm 13 tuổi, bà thi đậu vào trường công lập Gia Long Sài Gòn (nay là trường Nguyễn Thị Minh Khai); 16 tuổi là thành viên Mặt trận dân tộc giải phóng huyện Bến Lức – Long An và khi 17 tuổi, được tổ chức điều về Sài Gòn hoạt động trong phong trào thanh niên – sinh viên – học sinh…

Đất nước thống nhất, người phụ nữ với nụ cười chiến thắng năm nào bước sang chính trường khi tham gia công tác tại Thành đoàn, rồi ở Hội Liên hiệp phụ nữ TP HCM, sau đó được giao nhiệm vụ Phó Chủ tịch thường trực Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, được trúng cử vào Ban chấp hành Trung ương Đảng Khoá VIII và Khóa IX; Đại biểu hội các khóa IX, X và XI, rồi Tổng cục trưởng Du lịch, Chủ tịch Hội hữu nghị Việt Nam – Cu Ba.

Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ VN Nguyễn Thiện Nhân trao Huân chương Độc lập hạng nhì cho bà Võ Thị Thắng. Ảnh: Đời Sống Pháp Luật

Phóng viên Nguyễn Thị Nhi, tạp chí Hướng Nghiệp, cũng cho biết thêm đôi nét về quá trình hoạt động cách mạng của Võ Thị Thắng:

“Chị được giao nhiệm vụ điều tra quy luật hoạt động của tên Trần Văn Đỗ và tổ chức ám sát hắn. Trần Văn Đỗ là Trưởng phường Phú Lâm, quận 6 Sài Gòn nhưng thực chất là tên mật vụ chỉ điểm có nhiều nợ máu với nhân dân. Ngày 27-7-1968, sau khi nắm tình hình địch, chị cải trang để đột nhập vào nhà tên Đỗ cùng với hai đồng chí yểm trợ vòng ngoài.

Hôm đó khác với thường lệ, tên Đỗ đi ngủ sớm, chị tiến thẳng đến giường tên Đỗ lên đạn bắn hai lần nhưng cả hai phát súng đều không nổ. Thấy động, tên Đỗ tỉnh dậy, chị bắn lần thứ ba nhưng không trúng. Cảnh sát ập đến bắt chị. Suốt đêm đó và mấy ngày sau chúng tra tấn chị một cách dã man bằng nhiều cách: tra điện, đóng đinh vào ngón tay nhưng chị quyết không khai báo.

Ngày 2-8-1968, chúng đưa chị ra tòa và kết án 20 năm tù khổ sai về tội chủ mưu giết người. Đứng trước tòa, khi nghe phán xét, chị Thắng cười và nói: ‘Tôi chỉ sợ chính quyền của các ông không tồn tại để thi hành bản án về tôi’. Một phóng viên nước ngoài đã chụp được nụ cười của chị Võ Thị Thắng trong giây phút đó. Bức ảnh với tên gọi ‘Nụ cười chiến thắng’ đã trở thành biểu tượng cho khí phách anh hùng của phụ nữ Việt Nam.”

Nói cho chính xác thì tội danh của chị Võ Thị Thắng là “khủng bố,” chứ không phải là “chủ mưu giết người.” Ông Trần Văn Đỗ, may mắn, thoát chết nhưng nhiều người khác thì không.

Cùng với những loạt đạn pháo kích từ ngoại ô vào trung tâm thành phố, Lực Lượng Vũ Trang Nội Thành của chị Thắng và đồng đội đã gieo kinh hoàng cũng như tang tóc cho không ít người dân miền Nam – trong một thời gian không ngắn. Chỉ xin ghi lại vài ba trường hợp để rộng đường dư luận:

Báo Dân Việt, số ra hôm 30 tháng 4 năm 2011, có bài viết (“Tôi Ám Sát Người Sắp Làm Thủ Tướng Sài Gòn”) của ông Vũ Quang Hùng:

Trưa 10.11.1971. Một tiếng nổ long trời tại ngã tư Cao Thắng – Phan Thanh Giản khiến ông Nguyễn Văn Bông – Giám đốc Học viện Quốc gia Hành chính, người chuẩn bị nắm chức thủ tướng (ngụy) chết tại chỗ…

Tôi nhớ dặn dò của đồng chí Tám Nam – Phó ban An ninh T4 (tức khu vực Sài Gòn-Gia Định): “Để bảo đảm bí mật, chúng ta sẽ đặt cho mục tiêu bí số G.33. Cần giữ bí mật đến phút chót và theo tin tức tình báo, G.33 đang chuẩn bị lên nắm ghế thủ tướng. Nếu G.33 đã nắm chức, sẽ rất khó hành động vì khi ấy việc bảo vệ ông ta sẽ khác hẳn. Và nếu tình huống này xảy ra, cách mạng có thể gặp khó khăn hơn bởi Nguyễn Văn Bông là một trí thức có uy tín và chính quyền ngụy chuyển từ quân sự sang dân sự mọi diễn tiến sẽ có lợi cho địch.

GS Nguyễn Văn Bông năm 1967. Ảnh AP. Nguồn Flickr

Giáo sư Nguyễn Văn Bông không phải là người “trí thức có uy tín” đầu tiên, hay duy nhất, bị cách mạng … trừ khử bằng chất nổ và lựu đạn. Hai năm trước đó, G.S.  Lê Minh Trí cũng bị giết chết theo cùng một cách.

Bộ Trưởng Giáo Dục Lê Minh Trí bị ám sát năm 1969. Ảnh: Minh Đức

Một nạn nhân khác nữa là nhà báo Từ Chung. Cái chết của ông được cậu con trai 12 tuổi kể lại như sau, theo bản tin của nhật báo Chính Luận, số ra ngày 1 tháng 1 năm 1966:

“Cháu nghe thấy tiếng còi ô tô của bố cháu. Cháu chạy ra đứng phía trong cửa để chờ bố, cháu thấy bố cháu xuống xe rồi mở thùng xe đằng sau để lấy cái gì đó. Thế rồi có hai người đi gắn máy dừng lại, cháu nhìn rõ xe hiệu Goebel sơn màu xanh. Một người xuống xe tay cắp cặp da, mặc quần mầu xanh màu da trời, áo xanh lạt có sọc, trạc độ 26 tuổi. Người ấy mở cặp da lấy ra một khẩu súng và tiến lại gần bố nhắm bắn luôn mấy phát liền. Bố cháu gục xuống.”

Vẫn theo bản tin thượng dẫn:

Từ Chung đỗ tú tài tại Hà Nội, vào Nam, ông được học bổng du học tại Thụy Sĩ năm năm và đậu bằng Tiến Sĩ Kinh Tế tại Fribourg năm 1961. Về nước, ông được Linh Mục Cao Văn Luận, Viện Trưởng Viện Ðại Học Huế mời giảng dạy tại trường Luật, và sau đó được mời làm ủy viên trong Hội Ðồng Cố Vấn Kinh Tế nhưng ông từ chối vì yêu nghề viết báo.

Từ Chung viết rất nhiều thể loại, từ điểm sách, văn chướng, văn hóa đến chính trị, kinh tế v.v… nhưng nổi tiếng nhất là các bài xã luận về kinh tế. Từ Chung là người Việt Nam đầu tiên đã giản dị hóa môn học khô khan khó hiểu là kinh tế học, đưa môn học này về gần với quần chúng bình dân.

Những bài xã luận của Từ Chung về kinh tế được độc giả thuộc mọi trình độ khác nhau, từ các ông giáo sư đại học, các chuyên viên kinh tế thượng thặng đến các cậu sinh viên, các bà nội trợ đều thấu hiểu tường tận những biến chuyển kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp đến mình. Những bài viết xã luận về kinh tế của ông thường được một số trí thức gọi đùa là “mục kinh tế chợ” đã có ảnh hưởng rất lớn đến mọi tầng lớp giai cấp và thế hệ độc giả khác nhau. Về dịch thuật, Từ Chung có dịch cuốn “Bí Danh” (Secret Name) của Lâm Ngữ Ðường.

Dù không phải là thầy bói, tôi vẫn đoán chắc (như bắp) là cả ba nhân vật thượng dẫn đều có chung tội danh: thuộc thành phần phản động. Với tội danh này thì không chỉ vài ba mà (có lẽ) phải đến năm bẩy triệu người Việt đã bỏ mạng vì bom đạn, mã tấu, hay cuốc xẻng.

Cái giá để tạo dựng cái Chính Quyền Cách Mạng mạng hiện nay – rõ ràng – không rẻ nhưng thành quả thì rất đáng ngờ, và vô cùng đáng ngại! Nó cũng đáng ái ngại như cái cách mà truyền thông của Đảng và Nhà Nước Việt Nam xưng tụng “nụ cười chiến thắng” của chị Võ Thị Thắng gần nửa thế kỷ qua.

Ảnh:VOV

Trong một cuộc phỏng vấn dành do BBC, hôm 23 tháng 8 năm 2014, ông Hạ Đình Nguyên (nguyên Chủ Tịch Ủy Ban Phối Hợp Hành Động Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn, một tổ chức có liên hệ với các lực lượng chính trị, quân sự của miền Bắc Việt Nam, hoạt động ở Sài Gòn trước 1975) phát biểu: “Tôi thấy trong cuộc đời của chị Thắng, chị không mang tai tiếng gì. Vẫn là con người trong sạch.”

Là Ủy Viên Trung Ương Đảng, và cũng là Đại Biểu Quốc Hội liên tiếp ba khoá (IX, X và XI) rồi là Tổng Cục Trưởng Du Lịch mà “không mang tai tiếng gì” thì chị Võ Thị Thắng – rõ ràng – là một đảng viên nhưng … tốt!

Dưới bài phỏng vấn ông Hạ Đình Nguyên, đọc được trong trang FB của BBC, độc giả Lê Bích Đào cũng đã biểu đồng tình một cách ngắn ngọn và thi vị: “Chị VTT là người sống trong sạch’ gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.” Thiệt là qúi hoá hết sức!

Dù vậy, tôi chỉ có đôi chút suy nghĩ lăn tăn. Hay nói theo ngôn ngữ của thi ca là vẫn (nghe) “sao có tiếng sóng ở trong lòng.” Chúng ta có nhất thiết phải đốt cả dẫy Trường Sơn, phải hy sinh đến cái lai quần, và hàng chục triệu mạng người – thuộc mấy thế hệ kế tiếp nhau – chỉ để tạo nên một đống bùn bẩn thỉu nhầy nhụa như hiện tại không?

Việt Nam với nhất nguyên và đa nguyên

Việt Nam với nhất nguyên và đa nguyên

Nguyễn Quang Duy

Gửi tới BBC từ Úc

Thứ tư, 3 tháng 9, 2014

Ông Võ Văn Kiệt từng đề nghị đổi ‘tập trung dân chủ’ thành ‘dân chủ tập trung’

Sau 30 tháng 4 năm 1975, những trại cải tạo, những khu kinh tế mới, những chiến dịch cải tạo xã hội… cũng nằm trong sách lược biến miền Nam thành một xã hội nhất nguyên.

Nhưng hoạch định của những người cộng sản đã không bao giờ đạt được.

Hàng triệu người miền Nam bỏ nước ra đi, những người ở lại vẫn tự xem mình có trình độ phát triển xã hội và dân chủ cao hơn miền Bắc.

Người miền Nam theo cộng sản quan sát xã hội miền Bắc bắt đầu phủ nhận chủ nghĩa Marx và con đường cộng sản.

Người miền Bắc tự chuyển biến tư tưởng khi tiếp xúc với xã hội đa nguyên miền Nam.

Ngay trong Bộ Chính Trị đảng Cộng sản các tư tưởng đa nguyên chính trị cũng đã hình thành.

Ông Võ Văn Kiệt đặt vấn đề cần chuyển “tập trung dân chủ” thành “dân chủ tập trung”, tôn trọng và bảo vệ ý kiến của thiểu số, chấm dứt việc “đảng hóa” xã hội và sự lạm quyền của Bộ Chính Trị.

Theo ông Kiệt mọi chính sách thay vì từ Bộ Chính Trị đưa xuống, phải phát xuất từ Trung Ương Đảng hay từ đa số đảng viên đưa lên. Khi đã có dân chủ trong đảng sẽ mở rộng dân chủ ngòai dân.

Ông Trần Xuân Bách có một tầm nhìn chính trị rõ hơn:

“Dân chủ không phải là ban ơn, không phải là mở rộng dân chủ (mở rộng). Đó là quyền của dân, với tư cách là người làm nên lịch sử, không phải là ban phát, do tấm lòng của người lãnh đạo này hay người lãnh đạo kia. Thực chất của dân chủ hóa là khơi động trí tuệ của toàn dân tộc để tháo gỡ khó khăn và đưa đất nước đi lên kịp thời đại.”

Ông Trần Xuân Bách cũng cho rằng hai lãnh vực chính trị và kinh tế phải được phát triển nhịp nhàng, không chân trước chân sau, không tấp tểnh đi một chân.

“Thực chất của dân chủ hóa là khơi động trí tuệ của toàn dân tộc để tháo gỡ khó khăn và đưa đất nước đi lên kịp thời đại”

Trần Xuân Bách

Tiếng kêu hai ông Võ Văn Kiệt và Trần Xuân Bách là những tiếng kêu lẻ loi từ phía bên trên của thể chế nhất nguyên đảng trị.

Đa Đảng hình thức

Trước năm 1986, đảng Dân Chủ và đảng Xã Hội được đảng Cộng sản lập ra để tô điểm cho thể chế nhất nguyên.

Đứng trước đổi mới kinh tế và đòi hỏi đa nguyên, hai đảng này trở thành nỗi đe dọa cho giới cầm quyền nên đều bị giải tán.

Tại Trung Quốc, ngoài Đảng Cộng sản vẫn còn tám đảng hay tổ chức “chính trị”. Các tổ chức này không giữ vai trò đối lập.

Như các tổ chức trong Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, họ chỉ góp ý đường lối do Đảng Cộng sản đề ra.

Về đa đảng đối lập, Giáo sư Nguyễn văn Bông (1929-1973) đối lập chính trị cần có ba đặc điểm:

Trước nhất, đối lập phải có sự bất đồng về chính trị, có chiến lược và chính sách đối lập.

Thứ hai, đối lập chỉ có khi nào sự bất đồng chính kiến mang tính cách tập thể và biểu hiện qua hành động có tổ chức: chính đảng đối lập.

Thứ ba, đối lập phải hoạt động trong vòng pháp luật. Các chính đảng dùng võ lực hay phải hoạt động âm thầm trong bóng tối thì chỉ được xem là những hành động đối kháng.

Dựa trên ba đặc điểm vừa nêu ra Giáo sư Bông giải thích:

“…đối lập phát sinh ở sự thực hành chính trị và liên quan đến lịch trình biến chuyển của chế độ Đại Nghị. Nói đến đối lập tức là nói đến cái gì ở ngoài đa số, ngoài chính phủ. Đối lập là khía cạnh nghị viện của vấn đề…”.

“Chữ ‘chúng ta’ ông Sang dùng là để trao đổi với các phe cánh trong đảng cầm quyền”

Còn về phe phái trong Đảng Cộng sản, thì khi một đảng đã thâu tóm hết quyền lực và quyền lợi thì người gia nhập đảng đa phần cũng chỉ vì lợi ích cá nhân.

Từ lợi ích cá nhân mới sinh ra lợi ích nhóm tạo ra các phe cánh trong đảng.

Trong dịp 2 tháng 9 năm nay, ông Trương Tấn Sang gởi một thông điệp nhìn nhận:

“Chúng ta không sợ bất cứ một thế lực nào, dù là hung bạo nhất. Chúng ta chỉ sợ nhân dân mất niềm tin vào Đảng, Nhà nước, chế độ ta.”

Chữ “chúng ta” ông Sang dùng là để trao đổi với các phe cánh trong đảng cầm quyền.

Đại Hội 12 cận kề, thực tế cho thấy các phe cánh chưa thể thu xếp lại quyền lực và quyền lợi.

Họ cũng chưa thể thống nhất quan điểm và phương cách giải quyết nhiều vấn đề cả đối nội lẫn đối ngọai.

Vì thế họ mới tố nhau phe lợi ích, phe bảo thủ, hay tự xưng phe cải cách, nhưng các phe đều cùng chung mục đích là bảo vệ độc quyền đảng trị và chống lại diễn biến hòa bình.

Ngày 16 tháng 8 vừa qua, ông Nguyễn Tấn Dũng đã nhắc nhở Lực lượng công an:

“Các thế lực thù địch, phản động chưa hề từ bỏ âm mưu, hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam; ráo riết thực hiện diễn biến hòa bình, triệt để lợi dụng xu thế toàn cầu hóa, dân chủ hóa, hội nhập quốc tế để tác động, chuyển hóa nội bộ, hỗ trợ, kích động chống phá nhằm gây mất ổn định chính trị, xã hội.”

Những tuyên bố, những nghị quyết, những bài báo, những tài liệu chống diễn biến hòa bình, cho thấy đây chính là nỗi quan tâm hàng đầu của những người cầm quyền Việt Nam.

Nhưng đó cũng là dấu hiệu cho thấy đa nguyên chính trị có cơ hội bộc phát từ bên trong Đảng Cộng sản và có thể sẽ dẫn đến thay đổi thể chế chính trị một cách hòa bình.

Phát triển xã hội đa nguyên

Càng ngày Đảng Cộng sản càng mất dần khả năng kiểm sóat các tổ chức dân sự, gồm cả các tổ chức do đảng lập ra, các tổ chức bị bắt buộc tham gia Mặt Trận Tổ Quốc và tổ chức dân sự độc lập.

“Khi thể chế nhất nguyên còn tồn tại, các tổ chức chính trị, các tổ chức dân sự độc lập không thể xem là tổ chức hay lực lượng đối lập”

Các tổ chức dân sự độc lập là các tổ chức đang đấu tranh để giành lại những quyền tự do, như quyền tự do tín ngưỡng, quyền tự do báo chí, quyền tự do nghiệp đoàn, quyền tự do chính trị… những quyền cơ bản được Quốc Tế công nhận.

Các tổ chức dân sự độc lập khác với các đảng chính trị có mục đích rõ ràng là đấu tranh giành quyền lực với đảng cầm quyền cộng sản.

Khi thể chế nhất nguyên còn tồn tại, các tổ chức chính trị, các tổ chức dân sự độc lập chỉ là những tổ chức đấu tranh chính trị, không thể xem là tổ chức hay lực lượng đối lập.

Các tổ chức đấu tranh chính trị đang đóng góp xây dựng ý thức dân chủ cho xã hội cũng như sẽ vận động xã hội tham gia các sinh họat chính trị, tham gia bầu cử, tham gia ứng cử khi thể chế đa nguyên đa đảng đã được hình thành.

Nếu ý thức dân chủ của xã hội chưa đầy đủ, thể chế nhất nguyên cộng sản có thể sẽ được thay bằng một thể chế nhất nguyên độc tài khác.

Vì thế vai trò của các tổ chức đấu tranh chính trị vô cùng quan trọng.

Nói tóm lại đa nguyên chính trị là khởi đầu và cũng là nền tảng cho tự do dân chủ.

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của ông Nguyễn Quang Duy từ Canberra, Úc. Mời quý vị xem thêm ‘Bấm Chủ nghĩa xã hội thực sự là gì‘ của ông Trần Xuân Bách.

HÌNH ẢNH MẸ TÊRÊXA ĐỐI VỚI TÔI

HÌNH ẢNH MẸ TÊRÊXA ĐỐI VỚI TÔI

Cố GS Trần Duy Nhiên


“Một suy nghĩ hướng đến tha nhân.  Cách thức mà chúng ta thinh lặng, lắng nghe, tha thứ, nói năng và hành động.  Đấy là những giọt dầu chân chính giúp cho ngọn đèn chúng ta cháy mãi suốt cuộc đời mình.” Mẹ Têrêxa.

Ngày 5 tháng 9 năm 1997, một vĩ nhân đã ra đi….. Vâng, Mẹ Têrêxa thành Calcutta đúng là vĩ nhân của thế kỷ XX nếu ta nhớ lại rằng Mẹ đã nhận được Giải Nobel Hoà Bình năm 1979, và ngày qua đời Mẹ được một vinh dự mà chưa một vĩ nhân nào có được: ba nước trên thế giới chịu quốc tang, đó là Ấn Độ, Anbani và Hoa Kỳ.

Mẹ có dịp qua Việt nam hai lần, năm 1994 và năm 1995, và hai lần đó, tôi được may mắn tiếp kiến mỗi lần gần một giờ.  Lạ lùng thay, hình ảnh Mẹ để lại trong tôi không có gì là của một vĩ nhân cả, mà của một người khiêm nhường đến độ quên đi bản thân mình.  Tôi không còn nhớ Mẹ đã nói gì với tôi, nhưng Mẹ để lại hai hình ảnh vẫn còn theo tôi cho đến ngày hôm nay.

Điểm đầu tiên gây ấn tượng là cảm thức về Thiên Chúa nơi Mẹ.  Khi đến Việt nam, Mẹ tạm trú trên lầu 3, tại 38 Tú Xương.  Người ta dành một phòng cho Mẹ và một phòng cho ba nữ tu theo Mẹ (trong số đó có vị Bề Trên tổng quyền hiện nay là Sr Nirmala Joshi).  Thế nhưng Mẹ đã biến phòng của mình thành nhà nguyện với sự hiện diện của Mình Thánh Chúa, rồi cùng chia sẻ với ba chị em phòng còn lại.  Mẹ đã hẹn anh chị Soi và tôi đến gặp Mẹ lúc 11 giờ trưa.

Đúng hẹn, chúng tôi lên lầu 3.  Vì không có chỗ tiếp khách, Sr. Nirmala mời chúng tôi ngồi ở hành lang và Mẹ ra tiếp chúng tôi tại đấy.  Sau nụ cười chào đáp, Mẹ chỉ ngay vào nhà nguyện và bảo: “Chúa kìa”, với một thái độ tự nhiên giống như một bà mẹ bảo con mình chào ông ngoại khi đi đâu về.  Mẹ vào quì trước Thánh Thể với chúng tôi một vài phút trước khi bắt đầu câu chuyện.  Và cuối buổi nói chuyện, Mẹ cũng chỉ vào nhà nguyện bảo chúng tôi chào Chúa trước khi ra về.  Thái độ mẹ đơn sơ như thể Chúa luôn có mặt bằng xương bằng thịt ở bên Mẹ.  Cái cảm thức về Chúa nơi Mẹ rõ rệt đến độ tôi có cảm giác rằng nó hùng biện hơn bất cứ bài giảng nào của bất cứ ai nói về sự hiện hữu của Thiên Chúa và sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Thánh Thể.

Điểm thứ hai gây ấn tượng là cách nói chuyện của Mẹ.  Mẹ không nói chuyện với ba người, mà nói với từng người một.  Mẹ cúi mình xuống và nhìn lên với cái nhìn thật trân trọng, cứ như là Mẹ muốn tiếp thu một bài học nào đó từ người đối thoại mà quên mất mình là ai.  Nói chuyện với Mẹ mà trong đầu tôi cứ lờn vờn hình ảnh của Chúa Giêsu quì xuống rửa chân cho môn đệ mình.  Qua thái độ lắng nghe và ánh mắt, Mẹ đã cho người đối thoại thấy rằng mình vô cùng giá trị…  Có những cái nhìn đè bẹp người người đối thoại và làm cho họ trở nên nhỏ bé và đầy mặc cảm; có những cái nhìn làm cho người đối diện lớn lên và tự hào về giá trị của mình: Mẹ Têrêxa là người có cái nhìn thứ hai đó.

Mẹ Têrêxa thành Calcutta! Một danh xưng đem tự hào về cho Giáo Hội, cho các quốc gia của Mẹ, cho toàn thể nhân loại.  Thế nhưng qua hai lần gặp gỡ, tôi không bị choáng ngộp vì một vĩ nhân, mà chỉ đọc được nơi Mẹ một Kitô hữu điển hình: một người “đã hóa mình ra không” trước mặt Thiên Chúa và trước mặt anh chị em nhân loại, dù cho người ấy có thấp hèn đến đâu.
Ngày 19 tháng 10 năm 2003, Mẹ được nâng lên hàng chân phước.  Mẹ là người được phong chân phước nhanh nhất trong lịch sử giáo hội: vỏn vẹn 6 năm sau ngày qua đời.  Tuy nhiên, Giáo Hội chỉ chính thức hóa một điều mà mọi người gặp Mẹ đã công nhận từ lâu:  Mẹ quả là hình ảnh sống động của Chúa Kitô trên thế gian này.

Giờ này Mẹ đã về bên Chúa, tôi bỗng nghĩ đến 4690 nữ tu Thừa Sai Bác Ái đang tiếp tục sống đời sống ,”Kitô hữu mẫu mực” của Mẹ tại 710 nhà trong 132 nước trên thế giới.  Bất giác tôi nhớ lại lời Mẹ dặn: “Con hãy cảm tạ Chúa cùng với Mẹ, vì Việt Nam là nước thứ 100 mà các Thừa Sai Bác Ái hoạt động và nhà tại Việt Nam là nhà thứ 500 của họ”.  Tôi không biết sau 2 năm hiện diện tại Việt Nam, các Nữ Tu Thừa Sai Bác Ái của Mẹ Têrêxa có được gia hạn giấy phép hoạt động hay không.  Nếu không được thì kể cũng xót xa cho Giáo Hội tại Việt Nam đấy.  Nhưng dù các con của Mẹ có hoạt động công khai hay âm thầm, thì Mẹ vẫn còn sống mãi trong họ để tiếp tục khẳng định cho mọi người mà họ gặp gỡ: Chúa đang sống cạnh bạn và Ngài tôn trọng bạn với trọn vẹn trái tim yêu thương của Ngài.

Để kết thúc những cảm nhận này, tôi ghi lại đây một chuyện nhỏ.  Khi trao đổi danh thiếp với nhau, Mẹ cho biết rằng mình không bao giờ có danh thiếp.

Sr. Nirmala trình cho Mẹ ‘danh thiếp’ sau đây với những lời vàng ngọc của Mẹ.  Mẹ cầm bút viết lời chúc phúc, rồi trao cho tôi như một kỷ vật:

(1) Ghi chú: Trên “danh thiếp” có hàng chữ viết tay God Bless you (Xin Chúa chúc lành cho con) và chữ ký của Mẹ.  Tác giả cũng đã dịch những hàng chữ trên ra tiếng Việt như sau:

The fruit of SILENCE is Prayer
The fruit of PRAYER is Faith
The fruit of FAITH is Love
The fruit of LOVE is Service
The fruit of SERVICE is Peace.
( Hoa quả của THINH LẶNG là Cầu Nguyện
Hoa quả của CẦU NGUYỆN là Ðức Tin
Hoa quả của ÐỨC TIN là Tình Yêu
Hoa quả của TÌNH YÊU là Phục Vụ
Hoa quả của PHỤC VỤ là Bình An )

(Kỷ niệm 6 năm ngày Mẹ Têrêxa Calcutta về thiên quốc)

Trần Duy Nhiên

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Căng thẳng vẫn âm ỉ giữa Việt Nam-Trung Quốc

Căng thẳng vẫn âm ỉ giữa Việt Nam-Trung Quốc

Chuyến đi Bắc Kinh của ông Lê Hồng Anh đã gây ra những suy đoán là Việt Nam và Trung Quốc đang tiến tới trong những nỗ lực nhằm cải thiện quan hệ sau nhiều tháng căng thẳng leo thang.

Chuyến đi Bắc Kinh của ông Lê Hồng Anh đã gây ra những suy đoán là Việt Nam và Trung Quốc đang tiến tới trong những nỗ lực nhằm cải thiện quan hệ sau nhiều tháng căng thẳng leo thang.

Marianne Brown

01.09.2014

HÀ NỘI—

Tuần trước, một viên chức cấp cao của đảng Cộng Sản Việt Nam đã đến Bắc Kinh để tìm cách xoa dịu những mối căng thẳng phát sinh từ vụ tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc ở Biển Đông. Theo tường thuật của thông tín viên Marianne Brown của đài VOA tại Hà Nội, căng thẳng giữa đôi bên vẫn còn âm ỉ, 3 tháng sau khi Trung Quốc hạ đặt một giàn khoan khổng lồ ở ngoài khơi Việt Nam.

Chuyến đi Bắc Kinh của một viên chức cấp cao của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã gây ra những sự suy đoán là hai nước đang tiến tới trong những nỗ lực nhằm cải thiện quan hệ sau nhiều tháng căng thẳng leo thang.

Ông Lê Hồng Anh đã về nước hôm thứ tư sau chuyến đi hai ngày ở Trung Quốc, nơi ông hội kiến Chủ tịch Tập Cận Bình.

Theo Tân Hoa Xã, tại cuộc gặp gỡ này ông Tập Cận Bình nói rằng “không thể xua đuổi láng giềng đi nơi khác và hai người láng giềng đối xử tốt với nhau là phù hợp với lợi ích của đôi bên.”

Việt Nam và Trung Quốc sẽ tiếp tục thúc đẩy quan hệ theo chiều hướng “phát triển ổn định”, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Lê Hải Bình cho biết như thế tại cuộc họp báo thường lệ hồi tuần trước.

“Việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan hồi tháng 5 tại vùng biển mà Việt Nam cũng tuyên bố có chủ quyền đã làm tăng mạnh sự xích mích giữa đôi bên vì vụ tranh chấp lâu năm ở Biển Đông. Hành động đó của Trung Quốc làm bùng ra những vụ biểu tình chống Trung Quốc tại nhiều nơi ở Việt Nam. Một số khu công nghiệp đã có những vụ bạo động gây chết người.”

Đến ngày 15 tháng 7, Trung Quốc đã rút giàn khoan đi nơi khác trước kế hoạch đã định, trong lúc một cơn bão lớn sắp kéo đến.

Giáo sư Carl Thayer, một nhà quan sát tình hình Việt Nam của Đại học New South Wales ở Australia, cho rằng chuyến đi của ông Lê Hồng Anh là phần đầu của cuộc “vật tay” giữa hai nước về vấn đề Biển Đông.

“Chuyến viếng thăm của ông Lê Hồng Anh đã mở ra các kênh liên lạc. Chúng tôi thấy những nhân vật cấp thấp hơn đang tìm kiếm cơ hội giao tiếp. Trung Quốc đã nhận lời xin lỗi. Chúng tôi thấy cả hai bên đang tìm cách để có thể khắc phục vấn đề này mà không phải nhượng bộ quá nhiều.”

Một số chuyến viếng thăm Việt Nam của các giới chức cấp cao của Mỹ, kể cả Chủ tịch Ban Tham mưu Liên quân Martin Dempsey, gây ra những sự suy đoán là Việt Nam muốn thắt chặt quan hệ với Mỹ để tìm cách đương cự với người hàng xóm khổng lồ ở phương bắc. Ngoại trưởng Aán Độ mới đây đã tới thăm Việt Nam và theo lịch trình Tổng thống Pranab Mukherjee sẽ đến Hà Nội vào tháng 9.

Trong chuyến viếng thăm Việt Nam hồi tháng trước, Thượng nghị sĩ Mỹ John McCain cho biết ông tin là có sự ủng hộ đối với đề nghị nới lỏng các hạn chế về việc bán vũ khí sát thương cho Việt Nam.

Theo giáo sư Jonathan London, một chuyên gia về Việt Nam của Đại học Thành phố Hồng Kông, nếu kế hoạch bán vũ khí sát thương được xúc tiến thì đó là một biểu tượng của sự thay đổi thật sự trong các mối quan hệ Việt-Mỹ. Ông nói thêm như sau.

“Tôi nghĩ có một điều không nên xem thường là Việt Nam sẽ có được những lợi ích đáng kể từ những thông tin tình báo và kiến thức chuyên môn của Mỹ về những vấn đề hải dương.”

Giáo sư Thayer cho rằng Việt Nam đang cố gắng đa phương hóa như một cách để “mặc cả” với Trung Quốc.

“Trung Quốc không ngớt cảnh báo Việt Nam chớ nên xích lại quá gần với Mỹ, nhưng điều đó không ngăn được Việt Nam xích lại gần hơn với Nhật, là điều mà họ đã làm rồi, và với Ấn Độ nếu họ sẵn sàng tham gia cuộc chơi.”

Trong lúc một số người tỏ ý hoan nghênh chuyến đi thăm Bắc Kinh của ông Lê Hồng Anh, đa số các nhà quan sát vẫn có thái độ dè dặt. Giáo sư London cho biết ông tin là không ai ở Việt Nam nghĩ rằng tình hình hiện nay của quan hệ Việt-Trung là tốt đẹp và không thể nào có thể nói chắc là quan hệ đang được cải thiện.

“Nói cho cùng, ông Anh là đại diện của Tổng bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam chứ không phải đại diện Việt Nam, và cách làm việc của Trung Quốc là nói một đàng làm một nẻo và người Việt Nam hiểu rõ như vậy.”

Ông London cho biết một đặc tính quan trọng của mối quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc là những cuộc thảo luận được tiến hành sau những cánh cửa khép kín, cho nên không thể biết được là công việc giữa hai nước thật sự là như thế nào.