Việt Nam cải thiện nhân quyền để được hợp tác quân sự và thương mại với Mỹ?

Việt Nam cải thiện nhân quyền để được hợp tác quân sự và thương mại với Mỹ?

Chuacuuthe.com

VRNs (10.08.2014) – Sài Gòn – Thượng Nghị Sĩ (TNS) John McCain (Cộng Hoà, Arizona) và TNS Sĩ Sheldon Whitehouse (Dân Chủ, Rhode Island) tới Việt Nam từ ngày 07 đến ngày 10 tháng 8 năm 2014. Chuyến viếng thăm này liền ngay sau ông Phạm Quang Nghị, bí thư thành ủy Hà Nội, thay mặc đảng CSVN đi thăm Hoa Kỳ, khiến nhiều người ngạc nhiên.

Lý giải cho thời điểm hai vị TNS của lưỡng đảng có mặt tại Việt Nam, tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, trên trang Mạch Sống cho rằng: “Các thượng nghị sĩ chỉ có mấy tuần để công du vì Quốc Hội vừa bãi khoá và sẽ trở lại làm việc tuần thứ 2 của tháng 9. Chờ đến kỳ bãi khoá kế, vào cuối tháng 9, thì e quá trễ vì từ đó đến đầu tháng 11 là cao điểm của mùa tranh cử – các dân biểu và thượng nghị sĩ không còn tâm trí đâu để quan tâm đến những gì khác”.

14081000

Điều nhà nước Việt Nam muốn hai vị TNS can thiệp với lập pháp và hành pháp Hoa Kỳ là giải tỏa cấm vận bán vũ khí sát thương cho Việt Nam và chấp thuận cho Việt Nam tham gia Hiệp ước đối tác thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP).

Phát biểu tại Hà Nội, cả hai vị TNS đều cho rằng đã đến lúc xem xét lại lệnh cấm vận bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, nhưng không phải là tháo cởi hết ngay trong lúc này. Việc dỡ bỏ lệnh cấm vận này theo hai ông không liên quan gì đến việc cộng sản Hoa Lục hạt đặt giàn khoan trên Biển Đông. Trong khi đó thì không một thông tin nào về TPP được nhắc đến.

Giới quan sát tình hình chính trị Việt Nam cho biết “phe đảng” đang thắng trong thời gian vừa qua. Họ đã thuyết phục được Hoa Lục rút giàn khoan, đã cử người của mình là Ông bí thư thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị thay Bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh đi Mỹ gặp Bộ ngoại giao Hoa Kỳ. “Phe đảng” lại triển khai thanh tra ông Lê Hòang Quân trong vòng 70 ngày cách đột xuất.

Nhà báo Phạm Thành, từ Hà Nội cho biết: “Người Mỹ dường như bắt đầu cảm nhận rằng, bắt tay với đối thủ [phe đảng] của Thủ tướng thì những yêu cầu cụ thể của Mỹ, đặc biệt là vấn đề nhân quyền được dễ dàng và nhanh chóng được đáp ứng hơn là quan hệ với Thủ tướng. Năm tù nhân lương tâm được thả (Vi Đức Hồi, Đinh Đăng Định, Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Tiến Trung, Nguyễn Thị Minh Hạnh…) là một ví dụ về sự đáp ứng mau lẹ sau chuyến sang Mỹ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang”.

Một thông tin mới được gởi đến gia đình blogger Điếu Cày – Nguyễn Văn Hải hôm 08.08 vừa qua là Giấy Mời đóng án phí cho hai phiên xử sơ thẩm và phúc thẩm của blogger này đã diễn ra tại Sài Gòn vào tháng 09 và tháng 12 năm 2012. Đặc biệt nội dung văn bản này nói rõ việc đóng án phí để “đủ điều kiện xem xét giảm án đặc xá” cho ông Nguyễn Văn Hải.

Thông tin này đến trước đợt đặc xá hàng năm vào ngày 02.09 ba tuần, nên nhiều người cho rằng việc blogger Điếu Cày – Nguyễn Văn hải được trả tự do sẽ xảy ra trong dịp này.

Báo chí nhà nước dẫn nguồn từ Tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Hà Nội cho biết: “Hai ông McCain và Whitehouse sẽ gặp gỡ các lãnh đạo Việt Nam nhằm trao đổi các vấn đề an ninh, thương mại và nhân quyền”.

Một nguồn tin độc lập cho biết, yêu cầu công nhận hoạt động của công đoàn ngoài hệ thống đảng cầm quyền là điều kiện bắt buộc, cùng với một chút cải thiện nhân quyền để có thể đưa Việt Nam vào danh sách các nước đồng sáng lập TPP.

Việt Nam cải thiện nhân quyền để được hợp tác quân sự và thương mại với Mỹ là mơ ước của đại đa số người dân Việt Nam quốc nội, nhưng liệu đó có là sự thật?

PV. VRNs

Đạp trên mọi danh vọng

Đạp trên mọi danh vọng

Chuacuuthe.com

M. Hoàng Thị Thùy Trang.

VRNs (10.08.2014) – Từ tạo thiên lập địa, con người đã phải đối diện với những thách đố của cuộc sống. Nỗi sợ hãi không ngừng vây quanh cuộc sống của họ. Tự bản thân, chẳng ai có thể chống trả được với những thế lực của sự dữ và bóng tối. Nếu không cậy dựa vào Thiên Chúa, con người hoàn toàn buông xuôi trước sức mạnh của quyền lực ác thần.

Câu chuyện trong bài Tin mừng hôm nay là một bằng chứng sống động về quyền năng Thiên Chúa. Chỉ cần có Ngài bên mình, chỉ cần tin vào sức mạnh của Ngài, thì không một quyền lực nào có thể đánh gục, ngay cả việc thể hiện được phép lạ ngoài sức bản thân. Vấn đề không do Thiên Chúa nhưng là con người. Chỉ tại thế giới không chịu tin vào Ngài, không chịu nhìn nhận quyền năng của Ngài, cho nên con người khước từ Thiên Chúa. Nếu như ai đó cũng có thể nghe được chính lời Thiên Chúa nói với mình: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ.” (Mt 14, 27) thì cuộc sống có lẽ sẽ khác hơn. Việc Đức Giêsu đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ hôm nay không chỉ là phép lạ Đức Giêsu tỏ lộ quyền năng của Ngài cho các tông đồ nhưng còn là một mặc khải cho chúng ta về tình yêu Thiên Chúa.

Khổ nỗi, mỗi khi gặp khó khăn, thất bại, gian truân hay thử thách, nhân loại lại tìm đến bói toán, đến cầu cơ hoặc những thế lực của đồng tiền, của ác thần. Loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời mình là điều ngu muội nhất trong thế giới này. Ngày nay, người ta hầu như đã không còn đặt niềm tin vào Thiên Chúa nữa rồi. Phải chăng vì Ngài quá im lặng, những tiếng im lặng quá kì diệu khiến con người không đủ khả năng nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa? Hay vì sức mạnh của đồng tiền đã làm đảo lộn mọi trật tự tâm linh, xã hội?

Hoài nghi, ngờ vực là khó khăn lớn nhất của nhân loại. Chỉ vì kém tin, gặp chút thất bại, thua thiệt là bỏ cuộc… còn đâu kín múc được sức mạnh từ Thiên Chúa. Ở với Thiên Chúa bao lâu, kề cận thân tín với Ngài thế nào, mà ngay cả các môn đệ vẫn không thể nhận ra sự hiện diện của Ngài trong cuộc đời mình: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài.” (Mt 14, 28)

Thách thức Thiên Chúa cũng là một cám dỗ lớn của con người chúng ta. Đặt điều kiện với Thiên Chúa, ra đòi hỏi với Ngài là một trong những tật xấu lớn của nhân loại. Thiên Chúa luôn luôn bao dung, không hà khắc, tính toán với nhân loại, Ngài đã dùng mọi cách để chỉ muốn cho con người nhận biết Thiên Chúa và tin vào Ngài mà thôi. “Cứ đến” (Mt 14, 29). Đang khi đang đi trên mặt nước mà đến với Đức Giêsu như yêu cầu thì môn đệ Phêrô lại ngã lòng, ngờ vực. Khi thấy sóng to, gió lớn thì ông lại hoảng sợ, bắt đầu chìm: “Thưa Ngài, xin cứu con với.” (Mt 14, 30)

Kinh nghiệm của môn đệ Phêrô cũng chính là kinh nghiệm của mỗi người chúng ta, mỗi khi không đặt niềm tin trọn vẹn vào Thiên Chúa. Mỗi khi nắm lấy tay Ngài rồi mà lại vẫn buông ra khi gặp thử thách, gian truân. Con người cứ mãi kêu gào Thiên Chúa ở đâu trong khi Ngài luôn ở bên cạnh mình, cho ta hơi thở, cho ta sự sống.

Lạy Chúa, không tin vào quyền năng Thiên Chúa là một tội lớn, tin mà còn hoài nghi lại là tội lớn lao hơn. Xin giúp con nếu đã tin, thì tin một lần cho đủ, cho trọn và cho dứt khoát. Đừng dùng dằng hoài nghi hay ngờ vực mà mất cả cuộc đời. Xin giúp con hiểu rằng nếu thế giới này đầy dẫy bóng tối và sự dữ, thì quyền năng và sức mạnh của Thiên Chúa cũng luôn hằng mãi ở bên mình. Chỉ cần đừng kém tin, đừng hoài nghi, đừng ngờ vực. Nhân loại cho nhau gian dối, còn Thiên Chúa có thất tín bao giờ. Nếu đã từng khao khát được bảo bọc, chở che cho thoát khỏi quyền lực ác thần, thì chẳng phải con đang thủ đắc nguồn sức mạnh vô song bên mình mãi sao. “Cứ yên tâm, đừng sợ”, xin giúp con luôn mãi an tâm và đừng sợ, chỉ cần tín thác tuyệt đối vào tình thương và lòng nhân hậu của Thiên Chúa, chí ít sẽ có một phép lạ biến đổi hoàn toàn cuộc đời con, không đi trên mặt nước thì cũng đạp trên mọi danh vọng mà đến với tha nhân.

M. Hoàng Thị Thùy Trang.

XIN CHO CON ĐI TRÊN MẶT NƯỚC

XIN CHO CON ĐI TRÊN MẶT NƯỚC

Giữa lúc dân chúng định tôn Đức Giêsu làm Vua, sau khi đã được no nê bánh và cá, thì Ngài lại giải tán họ, và buộc các môn đệ phải chèo thuyền qua bờ bên kia. Yên lặng trở lại với nơi hoang vắng.

Chỉ còn một mình Đức Giêsu cầu nguyện.  Ngài chìm sâu trong gặp gỡ Cha, Đấng sai Ngài.  Nhưng Đức Giêsu không quên các môn đệ.  Ngài biết họ đang vật lộn với sóng gió, một mình.  Kinh nghiệm cam go này thật cần cho họ.

Mãi gần sáng, Ngài mới đi trên mặt nước mà đến.  Các môn đệ tưởng là ma, nên kêu la sợ hãi.  Đức Giêsu trấn an họ: “Hãy yên tâm, Thầy đây, đừng sợ.”

Tuy còn ngờ vực, Phêrô đã dám liều đề nghị: “Nếu quả là Thầy, thì xin cho con được đi trên mặt nước mà đến với Thầy.” Thật là một lời đề nghị làm ta kinh ngạc.

Phêrô có thể chỉ cần nói: Nếu quả là Thầy, thì xin cho sóng gió yên lặng.  Nói như thế dễ hơn nhiều, ít nguy hiểm hơn nhiều.  Nhưng Phêrô đã chấp nhận dấn thân nghiêm túc.

Nếu không phải là Thầy, thì thật là dại dột.

Nhưng nếu đúng là Thầy, thì ông tin mình cũng đi được trên mặt nước như Thầy.

Đức Giêsu chấp nhận đề nghị của Phêrô: “Cứ đến.”

Thế là Phêrô bước ra, đi trên mặt nước, đến với Đức Giêsu.

Thật không thể tưởng tượng nổi, mặt nước trở nên cứng như đá, hay con người có đức tin trở nên nhẹ bổng.

Phêrô đi được bao xa, ta không rõ, nhưng lòng ông thì cứ reo lên sau mỗi bước đi: “Đúng là Thầy rồi!”

Phải tin thì mới dám xin đi trên mặt nước, nhưng phải dám đi trên mặt nước, thì mới tin trọn vẹn.

Cần ngắm nhìn những bước chân của Phêrô, những bước chân của lòng tin mạnh mẽ.

Nhưng khi gió lồng lên dữ dội, nỗi sợ hãi ùa vào, lòng tin bị chao đi với sóng, lúc đó Phêrô thấy mình bị hút xuống lòng biển.  Ông chỉ kịp kêu lên: “Lạy Thầy, xin cứu con”. Bàn tay Chúa đưa ra nắm lấy ông và đưa ông về thuyền.

“Người kém tin, tại sao lại hoài nghi!”

Hoài nghi và sợ hãi đã làm Phêrô trở nên nặng nề, và nhận chìm ông xuống.

Chúng ta chỉ bắt đầu hiểu tin là gì khi phải chịu lênh đênh giữa sóng gió và đêm tối chỉ vì Chúa buộc phải ra đi, khi dám xin đi trên mặt nước dù Chúa chỉ là cái bóng trước mặt.

***********************************************

Lạy Chúa Giêsu,

Con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phêrô, nhưng nhiều khi con cảm thấy sống đức tin giữa lòng cuộc đời chẳng khác nào đi trên mặt nước.

Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn.

Có bao cám dỗ muốn hút con vô vực sâu.

Cả sự nặng nề của thân xác con cũng kéo ghì con xuống.

Đi trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng.  Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.

Xin cứu con khi con hầu chìm.

Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.

Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con, để con trở nên nhẹ tênh mà bước những bước dài hướng về Chúa.  Amen.

Trích trong ‘Manna’

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

‘Trăm năm trồng người…’

‘Trăm năm trồng người…’
August 03, 2014

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Một bản tin ngắn, rất tầm thường ở Việt Nam, không chắc làm cho bạn quan tâm, đau lòng, đó là bản tin từ Hà Nội, cho biết nạn bẻ kính chiếu hậu xe hơi bắt đầu tràn lan. Chỉ với một chiếc Porsch Panamera giá $200,000 đã được quân gian chiếu cố, chỉ trong hai năm, đã bị bẻ kính bảy lần. Ngay một sinh viên trường Cao Ðẳng Văn Hóa-Thể Thao Hà Nội, Ðặng Huy Việt, trước đây cũng từng là thủ phạm loại ăn cắp vặt này. Theo tôi, trong cái thời buổi tệ mạt này, rõ ràng là chuyện “trăm năm trồng người” đã có kết quả hay hậu quả đau lòng.

Một trong những “danh ngôn” của Hồ Chí Minh được CSVN ca tụng nhất là câu: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người,” nhưng trẻ em “quàng khăn đỏ” ít đứa nào biết tới ông Quản Trọng bên Trung Quốc là tác giả chính hiệu danh ngôn này, đã bị “bác” bứng nguyên cây về trồng trong vườn nhà “bác.” Câu này lấy từ ý của Quản Trọng trong sách Quản Tử, nguyên văn là: Nhất niên chi kế, mạc như thụ cốc, thập niên chi kế, mạc như thụ mộc, chung thân chi kế, mạc như thụ nhân. (Kế sách cho một năm, lấy việc trồng lúa làm đầu; kế sách cho mười năm, lấy việc trồng cây làm đầu; kế sách cho trăm năm, lấy việc trồng người làm đầu).

Những gì “bác” đã gieo giống, chăm sóc, tưới nước bón phân, ngày nay rõ ràng là đã có kết quả. Sách Minh Tâm Bảo Giám, chương Kế Thiện, có câu: “Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu. (Chủng qua đắc qua, chủng đậu đắc đậu). Không ai gieo hạt chanh chua mà lại hái được giống cam ngọt, nói đơn giản, gieo nhân nào thì gặt quả nấy!

Hạt giống độc địa ấy từ ngày được Hồ Chí Minh mang về gieo trong khu vườn nhà đã như là “loài cỏ dại, mọc trên hoang tàn của chiến tranh; là loài trùng độc, sinh sôi nảy nở trên rác rưới của cuộc đời” như câu nói của Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, Tây Tạng, khi nhận xét về chủ nghĩa cộng sản. Sau ngày cộng sản chiếm miền Nam Việt Nam, nơi Bắc Việt gọi là vùng tạm chiếm, tệ nạn xã hội càng ngày càng gia tăng, làm băng hoại đạo đức xã hội, luân thường đạo lý, như những chuyện băng đảng nhóm xã hội đen, cướp của giết người, mại dâm, ma túy, cờ bạc, hiếp dâm trẻ em, loạn luân, lừa gạt, chiếm đoạt tài sản.

Lúc đầu, nói về tình hình trật tự xã hội, đề cập đến những điều xấu xa đầy rẫy này, đảng cộng sản tránh né trách nhiệm, đổ lỗi cho đó là hậu quả, tàn dư của chế độ cũ để lại, chỉ đích danh là Mỹ, Ngụy, nhưng rõ ràng là sau hơn 39 năm “làm chủ” đất nước, thực tế ngày nay không thể còn đổ lỗi cho ai.

Sau nữa là cả nước từ 60 năm nay, dưới sự cai trị của đảng, do chủ trương của đảng, là “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh!” Vậy thì những gì được ghi nhận hôm nay là thành quả chiếu sáng từ tấm gương ấy, đó là chân lý, mà chân lý này không bao giờ thay đổi. Không ai dám hỏi Hồ Chí Minh thực sự có đạo đức hay không, và cả đất nước mù quáng tin theo những gì đảng nhồi nhét từ những đứa trẻ, làm đông đặc đầu óc thanh niên, bắt người ta tin vào những chuyện không có thật.

Hậu quả là ngày nay cả nước nói dối như cuội.

Hậu quả là ngày nay cả nước ai cũng gian dối để sống.

Hậu quả là ngày nay, lý tưởng của cuộc sống là đồng tiền.

Ở xã hội ấy cái gì cũng mua được bằng tiền, cái gì cũng được đem bán, và người ta sẵn sàng bán đi những cái gì quý nhất.

Ở xã hội ấy, người ta không biết hổ thẹn vì nhân cách, nhưng cảm thấy hổ thẹn khi thua sút những người chung quanh vì cái nhà, cái xe, cái điện thoại, cái xách tay…

Ở xã hội ấy, ai cũng muốn bỏ đi, những ai còn ở lại là không đi được, hay đang còn kiếm được tiền để chuẩn bị đi hay lo cho những người đã đi.

Con người là vốn quý như ai đó đã từng nói, nhưng một mạng người không đáng giá bằng một con chó!
Con người là vốn quý, nhưng người ta coi rẻ sinh mạng của nhau, cầm dao giết nhau chỉ vì một cái nhìn, một chuyện tranh cãi hay để cướp đoạt tài sản của người khác.

Con người là vốn quý, nhưng công an, thế lực của chế độ, sẵn sàng đánh chết dân vì dân không chịu nhận tội mình không làm.

Xã hội chủ trương mình sống vì mọi người, nhưng người vá xe sẵn sàng rải đinh trên đường để cho tiệm mình đông khách, thêm lợi nhuận.

Xã hội chủ trương mình sống vì mọi người nhưng bọn phục vụ cho dân, ăn gian, làm dối, sống chết mặc bay.

Cộng sản đã từng ca tụng: “Chủ Nghĩa Xã Hội là đỉnh cao trí tuệ loài người!” Hà Nội là lương tri của nhân loại! Báo Quân Ðội Nhân Dân đã ca tụng “đỉnh cao của khí phách và trí tuệ Việt Nam,” nhưng ngày nay nhân dân Việt Nam đi đến đâu đều được mọi người có những cái nhìn thiếu thiện cảm. Nhật, Thái Lan, Nam Hàn, Singapore… kết án người Việt trộm cắp, ăn tham, xả rác, bán dâm… khiến hình ảnh Việt Nam đang dần trở nên xấu xa. Cả nhân viên nhà nước cũng buôn lậu, ăn cắp, hối lộ, vậy người Việt ra nước ngoài còn dám ngẩng mặt nhìn ai?

Ở trong nước dân Việt đã bày tỏ dân trí bằng cách ẩu đả, chửi bới nhau để chen lấn mua bánh Trung Thu ở Hà Nội, giành giật đạp lên nhau để giành được kiếm một miếng sushi miễn phí ở một cửa hàng mới khai trương, hỗn loạn trèo lên đầu nhau lên nhau để mua bằng được lá ấn trong lễ khai ấn đền Trần, hôi của khi có tai nạn qua đường như rơi tiền, đổ bia… Người ngoại quốc và các tòa đại sứ ở Việt Nam thì bắt đầu “sợ” dân Việt khi những cây anh đào được đem từ Nhật đến bị đám đông nhào đến vặt sạch, chính phủ Hòa Lan tổ chức phát 3,000 chiếc áo mưa cho dân chúng để tỏ tình hữu nghị thì đám đông ào ạt, hung dữ nhào lên sân khấu cướp từ tay các tình nguyện viên và nhân viên đại sứ quán.

Chính giới trí thức trong nước, như Giáo Sư Nguyễn Thanh Giang đã viết rằng, “Phải nói rằng kể từ khi đưa Chủ Nghĩa Mác vào Việt Nam thì con người Việt Nam bấy giờ còn tha hóa hơn con người Việt Nam hồi thời phong kiến. Và tư chất, đạo lý của con người Việt Nam bây giờ còn thua cái thời Pháp thuộc. Cho nên điều đó là do ảnh hưởng của chế độ chính trị và của tổ chức xã hội. Tổ chức xã hội mà chủ yếu đẩy con người vào tình trạng không cạnh tranh lành mạnh, không cạnh tranh dựa trên đạo lý, không dựa trên pháp luật, mà bằng phe nhóm, ỷ thế, ỷ quyền, ỷ vào giai cấp, ỷ vào thành phần lý lịch, ỷ vào con ông cháu cha. Hơn nữa, kể từ khi đưa cái Chủ Nghĩa Mác vào, lấy chuyên chính vô sản vào, thì người ta không tôn trọng pháp luật nữa. Cho nên người ta sẵn sang giẫm đạp lên pháp luật, lên đạo lý, từ đấy ảnh hưởng đến tâm tính của con người Việt Nam. Rồi đời sống không cần đạo lý, không cần pháp luật. Thì đó là cái tội của chế độ chính trị và tổ chức xã hội này.”

Ai đưa Chủ Nghĩa Mác vào Việt Nam, phải chăng là công ơn “bác Hồ,” cho nên hôm nay, chưa đến một trăm năm, mà việc trồng người của “bác” đã có kết quả “khả quan,” đưa đất nước vào chỗ lụn bại, tha hóa. Muốn gieo lại hạt giống tốt thì phải quét sạch, khai quang, đào xới lại cả khu vườn, thay đất mới, và phải mất trăm năm nữa, con người hôm nay mới trở lại được cái tử tế, văn hóa, chỉ mong được tương đối như người miền Nam trước 1975, hay nói xa hơn là cả cái thời Pháp thuộc.

Chúng ta phải thẳng thắn nhìn vào sự thật đau lòng, đừng mang ảo tưởng quê hương giàu đẹp, văn minh, trí tuệ, có ai đụng vào thì giãy lên như đỉa phải vôi, kêu la là chống phá tổ quốc, tay sai ngoại bang, thù nghịch với nhân dân.

Tại sao người Việt Nam vô cảm?

Tại sao người Việt Nam vô cảm?

Theo Triết Học Đường Phố

Gần đây, báo chí và những người trên mạng chỉ trích lẫn nhau, và phê phán những người trẻ khá nhiều về chuyện vô cảm, vô tâm, thờ ơ với thời cuộc, người xung quanh, xã hội. Họ nói như thể đấy là một đặc tính cố hữu của người Việt Nam, và cũng như mọi khi, chỉ trích chỉ để mà chỉ trích, tức là không phân tích tại sao lại như thế, cũng không nói phải làm thế nào để thay đổi. Tất cả cứ như một dàn đồng ca, thi nhau xỉa xói rằng người Việt vô tâm, người Việt lạnh lùng đến tàn bạo. Các bác người lớn đĩnh đạc trong nhà nước thì thường nói, giới trẻ ngày nay biến thái, vô cảm vì ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, của văn hóa phương tây, của các trang mạng xã hội độc hại, những câu các bác lải nhải bao nhiêu năm qua mà có khi cũng chẳng hiểu mình đang nói gì. Bản chất của cái việc phê bình mà không đưa ra nguyên do đấy khiến mình khó chịu không kém việc phải chứng kiến những biểu hiện của việc vô cảm kia.

Theo mình thì việc người ta thờ ơ, không dám lên tiếng khi chứng kiến cái xấu, không dám quan tâm khi nhìn thấy người bị nạn, bịt mắt trước những tổn thương của người khác, có mấy nguyên do thế này.

Thứ nhất, ngay từ bé, người ta đã không được phép quan tâm. Một đứa trẻ dám hỏi những câu mà cô giáo không biết sẽ bị quát bắt ngồi xuống, thay vì được khuyến khích hỏi tiếp. Một đứa trẻ dám thắc mắc khi nhìn thấy người lớn đưa bó hoa kẹp phong bì sẽ bị kéo đi, thay vì được trả lời. Có quá nhiều thứ một đứa trẻ lớn lên ở thành phố trong xã hội Việt Nam hiện đại (đối tượng bị phê phán chủ yếu, mấy người nông dân làm ruộng hoặc công nhân may chảy máu ngón tay có thấy bị chê là vô cảm bao giờ đâu), phải học cách hiểu và chấp nhận trong im lặng.

Từ cấp một lên cấp ba, mình bao nhiêu lần phải ngồi chép mỏi tay những bài thi tìm hiểu pháp luật, tìm hiểu Đoàn gì gì đó đơợc phát động mà không hiểu tí gì mình đang chép, chỉ biết là phải nộp cho xong. Rồi một đứa làm chi đội trưởng, liên đội trưởng, trong Đội Thiếu Niên Tiền Phong (đội ngũ kế cận của Đoàn, tức đội hậu bị của Đảng) cũng biết cách bịa đặt từ bé để ghi vào sổ những buổi sinh hoạt chi đội không diễn ra. Lúc đầu cô tổng phụ trách đọc cho viết, sau này đã quen thì tự bịa ra dựa vào các tháng trước. Tất cả những việc không đúng sự thật đó diễn ra như nước thấm dần, có thể đứa trẻ cắc cớ hỏi một hai lần, nhưng rồi nó cũng sẽ nhanh chóng học được cách im lặng. Mà để im lặng trước những điều không hiểu, không hợp lý, thì người ta phải lờ đi, phải giả như không biết, không nghĩ đến, lâu dần sẽ quen.

Đó là chưa kể sức ép phải giống như mọi người của một xã hội đã hàng nghìn năm vận động theo mô hình làng bản, tức là “lệ làng” là quyền uy tối thượng. “Phép vua” – tức là pháp luật quy chuẩn của nhà nước phải thua, thì tất nhiên cái tôi cá nhân bị đè bẹp dúm. Nếu lệ làng là nhìn thấy người ăn xin phải quay mặt đi, xua tay, thì ai không làm như thế sẽ bị coi là kỳ dị. Lệ làng là đi ngoài đường phải chen vào bất cứ khoảng trống nào, nếu không chen mà cứ nhường thì sẽ chôn chân mãi ở một chỗ. Mình nhớ hồi mới từ Canada về, quen thói lịch sự giữ cửa cho mọi người qua, không những không có ai nói câu cảm ơn mà tất cả mọi người cắm đầu đi qua, mình cứ đứng giữ mãi cuối cùng đành bỏ ra để cắm đầu đi giống mọi người.

Cũng là hồi mới về, mình hay có cảm giác khá khó chịu là thấy mọi người như đang di chuyển trong một quả bóng trong suốt, không ai tchạm vào ai. Có lẽ cảm giác đấy đến từ quá nhiều những xét nét (đi xe đạp thì sẽ không dám vào cửa hàng mua quần áo, mặc quần ngố thì không dám vào cửa hàng buffet) mà mọi người phải giữ kẽ để sống cho đúng khuôn khổ của nhau, và từ việc không ai dám quan tâm đến những điều có vẻ khác thường.

Nguyên nhân thứ hai của sự vô cảm (vô thưởng vô phạt) là do thiếu thông tin. Những thông tin đáng bàn nhất, đáng để gây tranh cãi nhất, đáng lẽ ở nước khác có thể gây ra bao nhiêu cuộc bút chiến hay khẩu chiến sâu sắc, thì ở nước ta đều bị bưng bít. Ví dụ như chẳng ai được phép nói về việc dân ở chỗ này chỗ kia đang khởi kiện chính quyền vì thu đất không đúng, dân đang vật vã bệnh tật vì nhà máy sản xuất xả chất thải công nghiệp vào nguồn nước mà kêu không ai xử lý, dân bị đàn áp, dân bị mất mùa vì tính toán sai của những doanh nghiệp thu mua nguyên liệu nhà nước, dân đánh cá đang bị Trung Quốc bắn tỉa.

Tất cả những vấn đề không thể được nói đến đó đương nhiên tạo ra một khoảng trống lớn trên báo đài, và những cơ quan này lại phải lấp vào bằng những tin chẳng ảnh hưởng đến ai, những vụ việc mà dù có đấu khẩu hăng hái cỡ nào cũng không gây nguy hại cho nhà cầm quyền. Nào là ngực to ngực khủng, thằng bé này tí tuổi mà hợm hĩnh, con bé kia dám viết sách bịa đặt, anh ca sĩ nọ diễn trò trên sân khấu. Người dân bị dắt mũi bởi truyền thông, cũng cứ thế là đâm đầu vào bới móc, mổ xẻ, hăng hái tranh đấu vì ý kiến của mình, trong khi những tin tức thật sự cần tranh luận, phản biện, thì hoàn toàn vắng bóng.

Sự bưng bít thông tin này, mà thường là những thông tin đa chiều, dẫn đến việc người dân không có khả năng và thói quen nghĩ ngược lại với những gì mình được dạy, hay còn gọi là tư duy phản biện. Chính vì không thể nghĩ ngược, nên khi gặp cái gì không quen, họ không nghĩ, ngại nghĩ, sợ nghĩ, vì thế lảng tránh để khỏi phải nghĩ. Sự vô cảm là thói quen, vì từ bé đã không được dạy cách lên tiếng, cách thể hiện suy nghĩ cá nhân, và cũng là kết quả của sự bất lực, vì không biết làm thế nào để suy nghĩ độc lập. Vì các thông tin đều phập phù như thế, biết hay không biết cũng chẳng ảnh hưởng gì đến tình hình xã hội, hôm nay có thằng bé to mồm này để dân tình chửi bới thì mai phải có con bé ngu xuẩn khác để bà con lên án cho xôm.

Mình rất thích TED, nhưng khi TED về đến Việt Nam, tất nhiên không dám vơ đũa cả nắm, nhưng qua những video youtube mình xem các bạn quay lại các sự kiện đã tổ chức, thì mình khá thất vọng. TED ở Việt Nam không khác gì những sự kiện diễn thuyết các bạn trẻ tổ chức, mời một số người nổi tiếng nói những bài dài lê thê, không có trọng tâm, thậm chí nhạt nhẽo. Mình cứ tự hỏi nếu những người, tạm coi là có tầm ảnh hưởng đến công chúng, được quyền nói những thông tin có thể làm ảnh hưởng đến uy tín của nhà nước, mà không bị kiểm duyệt, được bàn luận về những cái xấu và cái tốt của bộ máy cầm quyền một cách tự do, được đưa ra chính kiến của họ mà không bị bỏ tù, thì liệu các bạn trẻ đang lắng nghe hau háu kia có học được cách suy nghĩ độc lập và nhìn sự việc từ nhiều phía, để từ đó bớt vô cảm hơn được không?

Cuối cùng, nguyên nhân gốc rễ của cả hai nguyên nhân trên, mình nghĩ là do thể chế chính trị. Nếu có sự đối thoại trong nhà nước, thì cũng sẽ có sự đối thoại trong nhân dân. Nếu người dân cảm thấy rằng họ có quyền chất vấn, và thật sự có khả năng xoay chuyển tình thế, họ sẽ quan tâm nhiều hơn. Những nước phương Tây người dân của họ phê phán chính phủ rất nhiều, họ sẵn sàng phản đối khi có điều gì không vừa lòng, tại sao nước họ vẫn mạnh, vẫn giàu? Còn ở nước mình, quyền phê phán của người dân chỉ gói gọn trong mấy bộ ngực và mấy nhân vật vô thưởng vô phạt, mỗi lần túm được vụ việc nào là báo chí không chịu để nguôi ít nhất vài tuần vì có thứ để giật tit, câu view; thì nước vẫn yếu, vẫn nghèo?

Mình không tin có cái gọi là “tính cách cố hữu” của người Việt Nam. Mọi thứ là do thể chế và cách tổ chức xã hội mà ra. Như Hàn Quốc và Triều Tiên, cùng một dân tộc, tiếng nói, văn hóa, tại sao một nước giàu có thịnh vượng, một nước nghèo dân đói đến mức phải ăn thịt người? Những sự bất lực, thờ ơ, vô tâm, đều có căn nguyên sâu xa của nó. Bạn mình bảo cứ về Việt Nam là thấy không khí ngột ngạt và bi quan, thấy người ta không chịu hành động, chỉ ngồi một chỗ than thở và nêu ra các lý do mình không thể làm được cái mình muốn. Ở một xã hội không khuyến khích sự khác biệt và tính phản kháng, mọi người khuyên nhau “lo cho cái thân mình yên ấm đã” hoặc tự nhủ “có cố cũng chẳng khác được gì, con vua rồi lại làm vua.”. Chẳng phải chính Marx, người mà đi vào phòng họp của các UBND đều thấy đang ngồi sừng sững trên bệ, đã viết là “không có mâu thuẫn thì không có phát triển” sao?

Mâu thuẫn bị bóp chết, thành ra cái gì cũng xam xám, nhờ nhờ, trôi đi vô nghĩa, kể cả những người đang sống trong xã hội này.

Thuốc Lá

Yên tĩnh tạm thời và nguy cơ thì càng nặng nề hơn

Yên tĩnh tạm thời và nguy cơ thì càng nặng nề hơn

Song Chi –

Theo FB Song Chi

Khi giàn khoan HD-981 còn đang sừng sững cắm sâu trong vùng biển thuộc lãnh hải của VN, nhà văn lão thành Nguyên Ngọc có nói một câu đại ý: Sợ nhất là giàn khoan lẳng lặng rút đi và mọi chuyện chìm, lại rơi trở lại trạng thái cũ.

Và bây giờ, quả thật, khi giàn khoan của Tàu Cộng tạm thời rút đi, từ nhà cầm quyền cho đến báo chí, người dân… “xẹp” hẳn xuống, tưởng như không hề có sự cố Trung Cộng công khai xâm phạm chủ quyền VN nghiêm trọng vừa qua, tưởng như “biển Đông lại trở vể yên tĩnh, không có gì mới”. Và tất nhiên, chuyện của ta mà ta còn cố quên đi thì thế giới, với bao nhiêu sự kiện nóng hơn đang xảy ra, lại càng quên.

Trong khi đó thì Trung Cộng vẫn tiếp tục lẳng lặng thực hiện chiến lược của họ, tiếp tục xây cất các công trình dân sự và quân sự trên những quần đảo đã chiếm được của VN, đặc biệt là Hoàng Sa, theo chủ thuyết “chủ quyền thực tế”, đặt các bên liên quan trước “sự đã rồi”, tiếp tục xua hàng ngàn hàng vạn tàu cá ra chiếm lấy biển Đông, đầu tư càng ngày càng lớn vào quốc phòng, nhất là hải quân, đóng thêm các giàn khoan khủng khác… Mặt khác, tiếp tục mua chuộc lẫn khống chế nhà cầm quyền VN bằng kinh tế và những đe dọa về quân sự để VN không dám thoát ra khỏi quỹ đạo của họ và hướng về phương Tây…

Chưa bao giờ và sẽ không bao giờ từ bỏ giấc mộng chiếm hữu biển Đông, bành trướng sức mạnh ra bên ngoài, việc rút giàn khoan vừa rồi của Trung Cộng chỉ là tạm lùi một bước để rồi sẽ quay trở lại bất cứ khi nào có thể. Còn VN, nếu vẫn không tự cải cách thể chế, không thể hùng mạnh hơn về kinh tế, không thể so sánh với Trung Cộng về sức mạnh quốc phòng, cũng vẫn không có những thay đổi trong đường lối ngoại giao để có thêm đồng minh thì sự yên tĩnh trên biển chỉ là tạm thời, mối nguy cơ mất biển, mất nước vẫn còn nguyên. Và khi Trung Cộng trở lại với những giàn khoan khủng mới, những chiến lược mới, nhà cầm quyền VN chỉ còn nước bó tay đầu hàng. Mà thực tế qua vụ HD-981 vừa rồi thì họ đã đầu hàng rồi đó thôi!

Song Chi

 

Trên Biển Đời

Trên Biển Đời

Tác giả: Lm Nguyễn Hữu An

Trong cuộc xuất hành của dân Do thái từ Ai cập về Đất Hứa, có một phép lạ lớn lao trên biển. Đó là phép lạ vượt qua Biển đỏ. Khi dân Do thái rời bỏ Ai cập đến Biển Đỏ thì quân Ai cập đuổi theo sát phía sau lưng. Được lệnh Thiên Chúa, ông Môsê giơ tay trên biển làm cuồng phong nổi lên, nước biển liền rẽ ra làm hai để lộ đất khô ráo, dân Do thái đi vào lòng biển khô cạn, quân Ai cập đuổi theo. Đến sáng, khi người Do thái cuối cùng đi sang bờ bên kia. Thiên Chúa ra lệnh cho Môsê giơ tay trên biển, nước trở lại như cũ. Quân Ai cập bị nhấn chìm trong biển, chết không còn một ai sống sót. Ngày đó, Thiên Chúa đã cứu dân Do thái thoát khỏi dân Ai cập. Đó là một phép lạ lớn lao Thiên Chúa đã làm trên biển.

Phúc Âm hôm nay kể một phép lạ Chúa Giêsu làm trên biển. Đó là biển hồ Galilê.

Biển hồ Galilê có hình bầu dục dài 21km rộng 12km, còn được gọi là hồ “Giênêzarét” (Lc5,1). Thánh kinh cựu ước gọi là biển “Kinnerét” (Ds 34,11; Gs 12,13) hay còn gọi là “biển Tibêria” (Ga 6,1). Tibêria hiện nay là một thành phố sầm uất ở Galilê, nằm trên bờ tây nam biển hồ. Nằm về hướng bắc Giêrusalem 100Km, biển hồ Galilê là nơi mà dòng sông Jordan đổ vào trước khi chảy qua biển Chết. Thung lũng và sông Jordan mang một sắc thái địa lý rất đặc biệt, duy nhất trên thế giới vì thấp hơn mực nước biển:208 mét tại biển hồ Galilê và 300 mét tại biển Chết. Thực vật ở đây thuộc dạng nhiệt đới, chung quanh biển hồ núi non bao phủ, lẫn vào con sông Jordan, thời tiết bất thường ở miền đất từ miền nam đến biển Chết, đó là những yếu tố hình thành những vùng gió giật và giông bão xảy ra bất ngờ trên biển hồ (Mt 8,23-27; 14,22-23).

Đối với Tân ước, biển hồ Galilê được nói đến nhiều vì là một trong những trung tâm hoạt động của Chúa Giêsu. Rất nhiều biến cố đã xảy ra tại đây: Bão tố ngừng lại (Mt 8,24-26), Mẻ lưới kỳ diệu (Lc 5,4-14), Đức Giêsu rảo trên thuyền (Mc 4,1), đi trên biển (Ga 6,16-21). Những thành ven bờ hồ như Khôrazin, Bếtsaiba, Caphanaum, Magđala là những nơi Chúa Giêsu thường lui tới, qua nhiều thế kỷ, biển hồ Galilê được gọi dưới nhiều tên: Hồ Kinnêzét, hồ Giênêsarét, và biển hồ Tibêria.

Biển hồ và những vùng lân cận, có rất nhiều di tích liên hệ đến cuộc đời của Chúa và các môn đệ Ngài. Galilê là vùng có núi đồi khô cằn, nhưng các thung lũng phì nhiêu trải dài từ biển Địa trung Hải cho đến biển hồ Galilê. Chính trong các thung lũng này đã hình thành nhiều đồn điền trái cây nổi tiếng đem lại nguồn lợi xuất khẩu. Vào năm 1960, biển hồ là điểm xuất phát cho ngày quốc gia tưới tiêu, chính quyền Israel cho đào một con kênh lớn dẫn nước từ tận biển hồ đến sa mạc Negew. Công trình thuỷ lợi mang lại nguồn lợi kinh tế to lớn cho một nước mà địa dư, khí hậu đa phần được xem là không mấy thuận lợi. Nhiều nước trên thế giới đã gởi người tới học tập.

Trở lại bài Phúc âm, Thánh Matthêu kể chuyện: trên Biển hồ Galilê, khi có trận cuồng phong từ thung lũng Baka thổi vào thì tất cả các ngư phủ vốn quá quen đi thuyền ngang dọc trên biển hồ cũng phải sợ hãi. Các ngài là những ngư phủ trên biển hồ Galilêa này, và có thể nói là đã quen thuộc với những cơn sóng to gió lớn. Vậy mà đêm hôm đó họ đã trải qua một phen hải hùng, sóng to nổi lên, gió lớn thổi ngược, phải chống chèo rất vất vả các ông mới giữ vững được con thuyền.

Và rồi đã xảy ra một sự kiện bất ngờ. Chúa Giêsu đi trên mặt nước đến với các môn đệ. Vốn đã khiếp đảm vì biển động sóng gió, các môn đệ nay hoảng sợ la lên vì họ tưởng là gặp ma. Thế nhưng khi nghe tiếng nói quen thuộc trấn an : “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ”, các ông mới nhận ra Chúa, lập tức Phêrô xin phép đi trên mặt nước đến gặp Chúa. Chúa bằng lòng. Phêrô bước ra khỏi thuyền đến với Chúa, nhưng đức tin của ông còn yếu kém, ông hồ nghi và lo sợ nên bị chìm dần xuống nên kêu xin Chúa cứu giúp. Chúa đưa tay cầm lấy tay ông và trách nhẹ : “Người đâu mà kém tin vậy, sao lại hoài nghi ?”. Khi Chúa và Phêrô đã lên thuyền, sóng gió liền yên lặng và mọi người tuyên xưng : “Quả thật Thầy là Con Thiên Chúa”.

Tuần vừa rồi, tôi đi thăm các gia đình giáo dân trong giáo xứ. Tôi đi với hai ông trong hội đồng mục vụ. Đến cổng một gia đình, có con chó to sủa lớn xông ra như muốn vồ lấy. Chúng tôi hoảng sợ đứng im. Bé Hoa 6 tuổi từ trong nhà chạy ra, bé nạt con chó: lu lu, đi vô mau. Con chó to hung dữ bỗng ve vẫy đuôi, trở lại hiền lành chạy vào nhà. Con chó to vậy mà nghe lời cô gái nhỏ vì bé Hoa là chủ của nó. Còn tôi và mấy ông tuy to con nhưng không phải chủ nó nên nó chẳng sợ mà còn định nhảy vào cắn. Hôm đó tôi miên man nghĩ về câu chuyện Phúc âm Chúa nhật này. Các môn đệ sợ hãi trước sóng to gió lớn bão tố sấm sét. Chúa Giêsu ra lệnh: hãy im đi, tức thì sóng yên biển lặng. Chúa Giêsu có quyền trên mọi sức mạnh thiên nhiên vì Người là Thiên Chúa sáng tạo, là chủ muôn loài.

Cả hai phép lạ: vượt qua Biển đỏ, Chúa Giêsu đi trên biển có một điểm giống nhau, đó là quyền năng Thiên Chúa trên mọi sức mạnh thiên nhiên.

Trên biển đời, có biết bao bão tố phong ba bủa vây, tin vào Thiên Chúa toàn năng, Đấng tạo dựng vũ trụ và muôn loài, chúng ta sẽ sống bình an trước mọi giông bão cuộc đời. Hãy vững tin và tín thác nơi Chúa Giêsu.

1- Sự hiện diện của Chúa Giêsu, nguồn bình an

Sau khi Chúa Giêsu lên thuyền, gió bỗng yên lặng. Sự hiện diện của Người đủ sức mang lại yên tĩnh và chế ngự phong ba bão táp. Biển theo nghĩa Kinh thánh tượng trưng cho quyền lực của sự ác. Đi trên biển chứng tỏ quyền năng và sự chiến thắng của Chúa Giêsu trên sự dữ, nguồn gốc của bất an, chia rẽ, đau khổ.

Nhiều người Kitô hữu thờ phượng Thiên Chúa nhưng vẫn còn lo lắng, sợ hãi tà thần ma quỷ, nhiều khi còn mê tín dị đoan nữa. Hãy tin tưởng rằng: quyền lực của bóng tối không có gì đáng sợ khi Chúa đã hiện diện và hoạt động trong đời sống và công việc làm của chúng ta. Nếu biết lắng nghe, trong giông bão cuộc đời, chúng ta sẽ nhận ra tiếng Chúa “Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ”. Nếu chúng ta tin tưởng vào lời Chúa hứa thì sự hiện diện của Chúa sẽ làm bão tố êm dịu và khủng hoảng được giải quyết (Pl 4,13).

Nơi đâu có Chúa Giêsu, ở đó có bình an. Cuộc đời người Kitô hữu không thể tránh khỏi những phong ba giông bão của cuộc sống. Cần phải đến với Chúa Giêsu. Nếu biết đặt Người ở trung tâm đời mình thì sẽ tìm kiếm được an bình nội tâm, cho dù có gặp biết bao gian truân thử thách.

Chúa Giêsu hiện diện ngay trong cuộc sống của Kitô hữu nếu mọi người biết đến với Người qua việc nghe, thực thi lời Người, đón nhận Mình Máu Thánh Người và siêng năng cầu nguyện với Người.

2. Tín thác cuộc đời trong tay Chúa Giêsu

Các môn đệ vì sợ hãi sóng gió bủa vây nên không nhận ra Chúa Giêsu, ngộ nhận Người là ma. Chúa Giêsu trấn an họ: “Thầy đây, đừng sợ”. Hơn cả một lời trấn an, đây còn là một mạc khải : sự hiện diện của Chúa sẽ xua đi mọi nỗi sợ hãi; hãy tín thác cuộc đời trong tay Người.  Khi Người xuất hiện thì gió yên biển lặng ; khi Người có mặt thì có sự bình an. Chính vì thế mà các môn đệ đã thờ lạy Người : Thầy quả thật là Con Thiên Chúa. Lời tuyên xưng này đồng thời cũng là lời biểu lộ một sự tín thác nơi Người. Tất cả mọi người trên thuyền cùng tuyên xưng một đức tin, cùng chung một lòng trông cậy. Một tỉ lệ thuận ngàn năm bất biến: tín thác vào Chúa, bình an tâm hồn.

Trong cuộc sống của mỗi người, niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô cần được thanh luyện và minh chứng qua thử thách gian nan. Nếu biết yêu mến và tín thác vào Chúa, thì càng khó khăn vất vả, càng vươn lên mạnh mẽ trong đức tin, luôn có được bình an nội tâm. Mọi gian nan thử thách đều trở nên tốt đẹp, hữu ích cho những ai yêu mến Chúa.

Lạy Chúa Giêsu,

Con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phêrô, nhưng nhiều khi con cảm thấy sống đức tin

giữa lòng cuộc đời chẳng khác nào đi trên mặt nước.

Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn.

Có bao cám dỗ muốn hút con vô vực sâu.

Cả sự nặng nề của thân xác con cũng kéo ghì con xuống.

Đi trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng. Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.

Xin cứu con khi con hầu chìm.

Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.

Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con, để con trở nên nhẹ tênh mà bước những bước dài hướng

về Chúa. Amen (Mana).

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Sàigòn ơi, tôi đã mất người trong cuộc đời

“Sàigòn ơi, tôi đã mất người trong cuộc đời,”

Sàigòn ơi, thôi đã hết thời-gian tuyệt vời.

Giờ còn đây, những kỷ-niệm sống trong tôi,

Những nụ cười nát trên môi, những giọt lệ ôi sầu vắng.”

(Nam Lộc – Sàigòn ơi vĩnh biệt)

(Mt 10: 34-35)

Tác giả: Trần Ngọc Mười Hai

Nói lời vĩnh-biệt, mà sao anh lại cứ hát: “Sàigòn ơi, tôi xin hứa rằng tôi trở về!”. Hát thế rồi, anh còn cam kết: “Người tình ơi! Anh xin giữ trọn mãi lời thề…” Những lời như thế, đã được ca-sĩ Khánh-Ly hát thay cho tác-giả Nam Lộc khi cả hai vị đều có mặt vào buổi diễn ở hội-trường sân-khấu có tên gọi rất “Belle Vue” ở Bankstown, Sydney hôm 21/6/2014 vừa qua. Nhạc sĩ Nam-Lộc điều-khiển chương-trình nhạc-hội tối hôm đó, đã tuyên-bố: anh viết bài này, cho riêng anh và gia-đình, mà thôi.

Viết cho ai thì viết, chỉ cần biết là: anh đã hứa và đã xin “giữ trọn lời thề”, rất như thế. Riêng bần-đạo bầy tôi đây, trước đó chừng tuần lễ, cũng được đấng bậc vị-vọng là đương-kim Giám mục phó quản-cai giáo phận Vinh có ngỏ ý mời về thăm quê-hương cũ để chứng-kiến xứ sở mình, nay đâu còn những “giọt lệ ôi sầu vắng”, lại vẫn là “thời-gian tuyệt vời” trên cả mức tuyệt-diệu từ xưa nay.

Được lời như cởi tấm lòng, bần-đạo đây chợt nhớ Sàigòn rất “hoa-lệ” của mình và của người vào những ngày thành-phố này được gọi là “Hòn ngọc Viễn-Đông”, nhưng không phải là “Nước mía Viễn-Đông” bên hông Bộ Công Chánh thuở trước cạnh đại-lộ Lê Lợi, lúc mà quán xá chiều hôm cứ bày bán những là phá-lấu với bò bía, gỏi bò khô… thôi thì đủ mọi món hàng ở gần bên.

Sở dĩ bần-đạo dài giòng nhắc lại địa điểm vẫn gợi nhớ dễ như thế, là vì: bản thân mình cũng đã hai lần “rồi đến rồi đi, tôi vẫn xin tạ ơn đời, tạ ơn người, tạ ơn ai đã cho tôi “một thời để nhung nhớ.

Vâng! Đã hai lần, bần đạo từng đến với Sàigòn-hoa-lệ rất “Hòn Ngọc Viễn-Đông” một thời thuở ấy. Lần đầu, là cùng với thân-phụ ghé bến Sàigòn năm 1949 để cụ làm việc vài năm với Nhà Giây Thép Tân Định, rồi sau đó lại đã ra đi trở về Hànội vào năm 1952 khi cụ thân-sinh qua đời. Lần thứ hai, lại cùng thân-mẫu và gia-đình lại đến với Sàigòn năm 1954, để rồi lại đã rời xa Sàigòn dấu yêu vào năm 1991, thật rất nhớ.

Vâng. “Rồi đến/rồi đi” như thế những 2 lần, nên lần này dù được đấng bậc vị vọng ở xứ “Trời Đất đầy Vinh…Quang Chúa” khẩn-khoản mời da diết như thế, bần-đạo chỉ mỗi cười trừ rồi hát tiếp:

“Dù thời-gian có là một thoáng đam mê,

Phố phường vạn ánh sao đêm,

Nhưng tôi vẫn không bao giờ quên.”

(Nam Lộc – bđd)

Vâng. Chính là như thế! Rồi đến rồi đi” tuy rất nhiều lần, nhưng làm sao quên được một “Sàigòn-Hoa-Lệ” rất diễm-lệ nhưng lại không đầy những lệ châu rơi lã chã, bao giờ cả.

Vâng, làm sao có thể hết quên rồi hát lời ca đầy hứa-hẹn, những là: “Sàigòn ơi, tôi xin hứa rằng tôi trở về”, rồi còn chêm thêm câu tiếp theo, thật ai-oán là câu: “Người tình ơi! Tôi xin giữ trọn mãi lời thề” được, khi mà ngày mai đây, tôi và bạn lại cũng chẳng biết được mình sẽ ra sao? Có còn “những nụ cười nát trên môi”, hoặc “những giọt lệ ôi sầu đắng…” đi chăng nữa.

Vâng. Cũng thật khó nói lắm, giời ạ! Bởi, bần-đạo đây, bây giờ, cũng giòng giống như tác giả bài ca ai oán ở trên, lại vẫn hát câu âu sầu, tiều-tụy rằng:

“Tôi giờ như con thú hoang lạc-đàn,

Từng ngày qua, từng kiếp sống quên thời gian

Kiếp tha hương lắm đau thương, lắm chua cay,

Tôi gọi tên ai mãi thôi…”

(Nam Lộc – bđd)

Vâng. Đúng ra, thì cũng y như thế. Nghĩa là: tâm-trạng của bần-đạo không khác là bao cùng một tâm-trạng của tác-giả là nhạc-sĩ Nam Lộc, có viết nhiều nhạc-bản hoặc có làm thật nhiều câu thơ thật hay, cũng chỉ để viết cho riêng mình. Tức: một mình mình hiểu, một mình mình vui, mà thôi. Hoạ hoằn, được ai thân-thương thông-cảm, cũng coi đó như ân-huệ Trời cho rất to đùng, oai hùng như biển Đông, đáng ghi nhớ.

Vâng. Bần-đạo đây vẫn nhớ như in, rằng: hôm ấy chính mình còn chẳng dám hát hoặc nói lời gì để đời như: “Sàigòn ơi! Tôi xin hứa rằng tôi trở về” với đấng bậc vị vọng là Đấng vị vọng rất Giám mục ở trên, mà chỉ dám cười trừ rồi lắc lư cái đầu như thể “lắc lư con tầu đi”, đi mãi không biết có ngày nào đó đến được bến bờ đại dương có “hòn ngọc viễn đông” năm nào, hay không nữa. Có cười trừ hay thêm vào lời hát nhái, hát đại và hát mãi hay không, cũng chẳng nhớ. Chỉ nhớ có mỗi điều như người viết nhạc từng viết những điều khi xưa đầy nhung nhớ, như:

“Sàigòn ơi, nắng có còn vương trên đường?

Đường ngày xưa, mưa có ướt ngập lối đường về.

Rồi mùa thu, lá còn đổ xuống công viên?

Bóng gầy còn bước nghiêng nghiêng?

Hay đã khóc thương cho người yêu?”

(Nam Lộc – bđd)

Vâng. Có nói nhiều và hát mãi hát dài dài như thế, bần đạo đây thật chỉ muốn nhắn với bạn và tôi rằng: khó có thể hứa điều gì, trong lúc này, vì nhiều lý-do. Thành thử, cứ thế này đi. Thế này, là: cứ để lòng mình rộng mở để Thánh Thần dẫn đưa con tầu mình về chốn nào tuỳ ý Ngài. Nói thế rồi, nay xin trở về với “chuyện phiếm” về cõi đời của người và mình vẫn còn đó rất nhiều vấn-đề.

Đời mình, thì đã có vấn-đề là như thế. Còn đời người, thì như: còn có những vấn-đề đặt ra rất thời-thượng như sau:

“Cách nay không đầy một năm, tên tuổi của con người nổi tiếng mang tên Nigella Lawson từng tạo ánh nhìn khá quyến rũ với giới thưởng ngoạn chương-trình truyền-hình thuộc hạng sang gửi đến khán-giả thích nấu-nướng hầu tạo cho gia đình cuộc sống hài hoà, êm ả rất đáng sống.

Nay thì vấn-đề tạo nguyên-nhân cho để cô ly-dị người chồng nổi tiếng với kỹ-nghệ quảng-cáo là trùm khuyến-mại có tên là Charles Saatchi được lên ảnh phổ biến khắp thế-giới với hàng chữ dùng làm đề-tựa khiến mọi người sửng sốt đến chết ngạt, như: “Saatchi và đôi tay xiết chặt cổ họng người đẹp Negelia”, đã làm cô chết lặng, chẳng nói được một lời.

Chết lặng hơn cả, là tập phim truyện truyền-hình nói nhiều về các nhóm người vẫn còn đang chiến đấu chống lại cảnh bạo-hành trong gia-đình. Những điều lâu nay còn ẩn- tàng bên dưới lớp sương mù ảnh hình không để lộ cho khán-giả biết nhiều về những điều mà lâu nay thiên hạ cứ cho rằng: bạo-hành trong gia-đình là chuyện của xã-hội trọng nam khinh nữ cứ để đàn ông xài xể phụ nữ hoặc những người thuộc phái yếu…

Vừa qua, một chuyên-gia lão luyện trong địa hạt nghiên-cứu khảo-sát có dấy lên một cao-trào để mọi người ở Úc thấy được rằng vấn-đề bạo-hành trong gia-đình không chỉ là vấn-đề của phụ-nữ hay thành-viên nào đó trong cộng-đoàn nhỏ thôi, nhưng còn là chuyện của hết mọi người, nam cũng như nữ. Và, tác-giả nhấn mạnh rằng: thật ra nạn-nhân lại chính là nam-nhân nhiều hơn nữ-giới…

Tác-giả đưa ra lời xác chứng với nhận-định, rằng: lâu nay các nghiên-cứu khảo-sát đều không ngừng cho thấy đa phần thì phụ-nữ là nạn-nhân của bạo-hành trong một xã-hội gồm các đàn ông chuyên thống-lĩnh. Nói như thế, hẳn người đọc tin cứ đinh-ninh là như vậy rồi vội tin. Nhưng, sự thật không thế. Bạo-hành xảy đến với người phối-ngẫu không chỉ nghiêng về phía phụ-nữ hoặc về một giới tính, mà ngay đến phụ-nữ cũng từng sách-nhiễu nam-giới cũng rất nhiều. Các khảo-sát mới đây ở Úc cho thấy có khoảng một phần ba nạn-nhân của các vụ này là đàn ông, con trai.

Dự án có tên là Nhận-thức Sách-nhiễu Người Phối Ngẫu viết tắt là PASK thực hiện với 1700 người ở Mỹ, do tạp-chí mang tên The US Journal Partner Abuse cho biết trong thời gian từ tháng Tư năm 2012 đến tháng Tư năm 2013, cho thấy hầu hết các vụ sách-nhiễu này là do phụ-nữ là thủ phạm và hầu hết nam giới mới là nạn-nhân. Kết quả được tóm-tắt như sau:

– 24% cá-nhân những người bị người phối-ngẫu bên kia tấn công ít nhất một lần trong đời mình (23% do phụ nữ chủ chốt và 19.3% do nam-giới gây ra).

– 25.3% trong số những người sách-nhiễu người phối-ngẫu của mình, thì tỉ-số phụ nữ vi-phạm nhiều hơn nam-giới.

– 80% những người có kinh-nghiệm bị sách-nhiễu về tình-cảm và chủ-động đáp trả mọi khiêu-khích hoặc có chiến-thuật khống-chế hoặc đe-doạ người phối-ngẫu của mình. Qua nghiên cứ/khảo sát, thì 40% là phụ-nữ (trong sách-nhiễu cảm-xúc) còn phía nam-nhân chỉ đếm được có 32% thôi. Về sách-nhiễu mang tích miễn cưỡng thì 41% thuộc phái nữ và 43% thuộc phái nam.

– Đa số các vụ bạo-hành đều tương-tác cả hai phía. Nếu tính các nước có số dân đông đúc, thì việc bạo-hành giữa vợ-chồng được tường-trình là có đến 57% về cả hai phái nam/nữ. 41% chỉ một phái bị và trong số này thì 13.8% là do nam-giới chủ-động đối với nữ-giới, 28.3% do nữ-giới chủ-động đối với nam-giới.

– Cả hai phái nam lẫn nữ đều là thủ-phạm chủ-động trong các cuộc bạo-hành trong gia-đình là do cùng một động lực như nhau, trước nhất thường là về cảm-xúc do bị căng-thẳng thần-kinh hoặc ghen tương; hoặc do cảm-xúc tức-giận và những lý do nào khác mà tự họ không thể dùng lời nói hoặc cách-thức trao-đổi cùng đối-thoại để kéo sự chú ý của người phối-ngẫu phía bên kia.

Các khám phá từ khảo-sát/nghiên-cứu này đều nói cách chung chung rất rộng nghĩa, nhưng cũng đủ để thách-đố các nhận-định thông-thường cho thấy nam-giới là thủ-phạm trong các baọ-hành ở gia-đình. Thế thì, tại sao không kể về những cái tát tai, đấm vào mặt hoặc bắt nạt về tâm-lý do phụ-nữ đối-xử với phái nam, trong cuộc sống. Lý-do là vì phụ-nữ thường bị thương-tích nhiều hơn nam-giới trong các vụ cãi cọ, ẩu đả xảy ra trong gia-đình, đến độ phải đi nhà thương cấp-cứu. Nói tóm lại, khảo-sát này chú trọng nhiều đến nạn-nhân các vụ bạo hành-trong gia-đình hơn lý-lẽ bênh-vực phái này hoặc phái khác…” (x. Carolyn Monahan, The Fearful Symmetry of Family Violence, (MercatorNet 23/5/2014).

Thật ra thì, ý-kiến trên đây về bạo-hành trong gia-đình, không cần đặt lại xem ai là nạn nhân ai là thủ-phạm, ai chịu nhiều thiệt-thòi, vv. Là của tác-giả bài viết dẫn ở trên, chứ không của bần-đạo, đâu đấy. Bởi lẽ, đặt vấn-đề về bạo-hành trong gia-đình hoặc nội-bộ cộng-đoàn mình chung sống, là bàn về những điều không hay và không phải. Hoặc, như người nghệ-sĩ vẫn cứ gọi đó bằng câu hát: “Tôi đã mất người trong cuộc đời”, hoặc “thôi đã hết thời gian tuyệt vời”, rồi lại hát: “Tôi như con thú hoang lạc đàn…”

Hoặc ít nhất cũng là: “Những kỷ niệm sống trong tôi”, nay không còn “những nụ cười nát trên môi” , hoặc “những giọt lệ ôi sầu đắng.” Sầu và đắng, là bởi những người đang sống trong cảnh bạo hành ở nhà hoặc trong cộng-đoàn, nay cảm thấy “Kiếp tha hương, lắm đau thương, lắm chua cay…” để rồi: “Tôi gọi tên ai mãi thôi…!”

Sầu và đắng, trong cuộc sống ở cộng đoàn nhỏ là gia-đình xào xáo, cãi tranh, tranh giành này nọ đã khiến nguời người lại nhớ lời vành Kinh Sách từng loan báo:

“Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất;

Thầy đến không phải để đem bình an,

nhưng để đem gươm giáo.

Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ

giữa con trai với cha,

giữa con gái với mẹ,

giữa con dâu với mẹ chồng.

Kẻ thù của mình chính là người nhà.”

(Mt 10: 34-35)

Lời Chúa báo động thì như thế. Nhưng, vấn-đề đặt ra để bạn và tôi, ta suy-tư vào những ngày trời đẹp hoặc mây mù u ám vây quanh có những câu hỏi được bạn Đạo đưa ra về việc sống thực Lời Chúa, ghi nhận như sau:

“Hỏi: làm sao thày lại đoan quyết rằng: lời thánh-sử viết Tin Mừng không có ý trích-dẫn Lời Chúa nói như sự thật đã hoặc sẽ xảy ra? Vậy thì ý của thánh-sử khi viết thì thế nào?

Đáp: Có lẽ người đọc Tin Mừng các thánh Mát-thêu, Mác-cô, Luca và Gioan viết, hầu hết vẫn nghĩ rằng những gì được viết ra là sự-kiện hoặc câu chuyện hoặc lời nói có thật từ Đức Giêsu theo tính lịch sử. Đọc Tin Mừng, ta cần hiểu rõ, rằng: tín-hữu Đạo Chúa thời tiên-khởi từng trải-nghiệm rằng Đức Giêsu vẫn có mặt ở giữa họ cả sau khi Ngài chết đi. Nói như thế, phải hiểu ý-nghĩa về sự có mặt liên-tục của Chúa đã tạo cho người chuyển-giao truyền-thống Phúc Âm một thứ tự-do rất sáng-tạo. Các tác-giả không viết nhiều về Đức Giêsu từng sống thế nào mà chỉ viết về Đức Giêsu đang sống với ta.

Viết như thế, không để diễn-tả xem Đức Giêsu từng nói và từng làm những gì, mà là Ngài đang nói gì và làm gì cho ta và với ta. Thành thử, các tác-giả Phúc Âm đều thấy lúng-túng khi diễn-tả lời nói và hành-xử của Đức Giêsu theo cách ăn-khớp với nhu-cầu tư-riêng của thời đại và cộng đoàn trong đó các ngài từng sống.

Nói như thế, tôi không có ý chối bỏ giá-trị của Phúc Âm như vẫn có. Điều tôi muốn nói là: các truyện được kể trong Kinh Sách không phải là chuyện lịch-sử, cũng không là tiểu-sử được kể lại, nhưng là lối chú-giải về thời buổi, địa điểm và cộng-đoàn nào đó, cách riêng. Thế nên, muốn biết xem Đức Giêsu lịch-sử, phải xem xét những gì tác-giả Tin Mừng muốn nói đến bên sau các chú-giải ấy, mới hiểu được”. (x. Richard G. Watts & John Dominic Crossan, Who is Jesus, Westminster John Knox Press Louisville Kentucky 1996 tr. 6-7)

Xem thế thì, sống Lời Chúa là phải sống như thế nào? Có phảo là: sống như thể giữ cho đúng nghi-thức phụng-vụ các ngày lễ trọng-đại mà quên trở về với cuộc sống bình thường và thông-thường ở đời không? Để trả lời, cũng nên nghe thêm lời diễn-giải của đấng bậc thày dạy trong Đạo, có những lời sẻ-san như sau:

“Sống trong đời dù chỉ gặp những điều tầm-thường về “sự việc” hoặc “sự thể” đơn giản chỉ nói về “nó” hoặc “cái đó” thôi cũng là điều tốt, bởi Thiên-Chúa tạo-dựng theo cách như thể để cho ta và Ngài chúc lành cho tất cả, bằng cả đặc-tính tích-cực của Ngài, nữa. Quả là, Thiên-Chúa vui-thích những thứ “đó” và Ngài muốn ta cũng vui-hưởng mọi điều ở trong “đó”. Theo cách này, ta sẽ cảm-nghiệm rằng: ta đang thực-sự triển-nở và đó chính là ý-định của Thiên-Chúa đối với ta, để ta sống.

Thật ra, thánh Mát-thêu biết rằng: có những điều và nhiều điểm không được tốt cho lắm, nhiều lúc còn tồi tệ nữa là đằng khác. Và, cũng có sự việc thật cũng đáng chán như chiếc máy rửa chén. Mọi người đều biết thế, nên vẫn chấp-nhận sống với “nó”. Thế nhưng, thánh-sử Mát-thêu lại để Đức Giêsu kể huỵch-toẹt cho ta biết rằng: ngay vào lúc và nơi chốn có sự thể đáng chán ngán, lại thấy nảy-sinh những khoảnh-khắc rất đáng yêu. Thành thử, ta cũng nên tìm-hiểu xem để biết “nó” như thế nào, mà cảm-kích và vui-thích rồi cảm-tạ ơn Chúa về những thứ Ngài ban cho ta.

Đọc Tin Mừng các thánh, nhất là do thánh Mát-thêu viết, đôi lúc ta vẫn thấy ra như tác-giả cũng rất thích âm-nhạc. Thánh-nhân từng viết về thứ âm-nhạc rền-vang lời vãn-than, trổi lên cùng lúc với nhạc nền của cuộc đời ta đang sống. Và, thánh-nhân lại nhấn mạnh rằng, cùng với Đức Giêsu, vẫn xảy đến các khoảnh-khắc đích-thực có loại nhạc rất trữ-tình. Đó là lúc ta nghiệm ra thế nào là đến với người khác, hăng say/tử-tế, chữa lành nhiều việc. Và Thiên-Chúa vẫn luôn có mặt để hỗ-trợ ta. Và, khi hoạt-động hăng say/năng-nổ, thì đó là lúc ta quên hết những gì đáng chán ở phần nền.

Thế đó, “nó” mới hay. Thế đó, là “sự việc” rất tuyệt-vời. Thế thì, cuộc sống mới đáng sống. Và, Thiên-Chúa cũng thế. Ngài cũng giống như ta, nghĩa là Ngài rất phấn-kích khi ta vui sống. Và, ta vẫn đang sống với và sống cùng Ngài, theo kiểu ấy.

Ở Tin Mừng ta đọc hôm nay, thánh Mát-thêu viết về bốn thứ nhạc tuyêt-vời nơi Đức Giêsu.

Thứ nhất, Chúa nói đến nhạc-điệu an-vui trong đó có: người mù được thấy, người què đi được, người phung được sạch, người điếc nghe được, và người nghèo đói/ thấp hèn được nghe/biết Tin Vui An Bình. Đức Giêsu mừng kính sự sống giống như thế, ở Galilê. Đó là thứ âm-nhạc tuyệt-cú ta gặp được nơi “sự việc” yêu thương người nghèo-khó, có nhu-cầu.

Loại nhạc thứ hai, Chúa có thưa: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi-khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn-ngoan thông-thái biết những điều này, nhưng lại mặc-khải cho những người bé-mọn” (Mt 11: 25). Xem thế thì, Đức Giêsu mừng kính sự sống an-lạc cho người bình-thường sống bên dưới những người mà chẳng ai đoái-hoài nhìn ngó, ngoại trừ Chúa. Chúa cũng nói: cuộc sống, thật ra là làn gió mát cho những người như thế, cả khi bị các cấp ở bên trên đối-xử với mình thật không phải. Và, họ nhận ra sự tử-tế, giống Chúa, nằm khuất ở bên dưới, mọi “sự việc”.

Loại nhạc thứ ba, là khi Chúa bảo: “Những ai đang vất-vả mang gánh nặng-nề hãy đến cùng Tôi, Tôi sẽ cho nghỉ-ngơi, bồi dưỡng” (Mt 11: 28). Nói thế, tức là: Ngài rất bén-nhạy cảm-thông với mọi người và tạo cho họ khả-năng sống cuộc-sống của chính mình, cho thật sống. Chúa mừng kính sự tốt-lành Ngài tạo ban cho những người vẫn lây-lất kéo dài cuộc đời từ ngày này qua tháng nọ, nhưng không chán: bởi nơi đó, có giòng nhạc xuất-phát từ nhạc-bản tươi-vui, an-hoà.

Và giòng nhạc cuối, có Chúa nói: “Anh em hãy mang lấy ách của Tôi, và hãy học với Tôi, vì Tôi có lòng hiền-hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ-ngơi, bồi-dưỡng. Vì ách tôi êm-ái, và gánh tôi nhẹ-nhàng” (Mt 11: 29-30). Nói thế, còn có nghĩa: Chúa trân-trọng mừng sự gần-cận với những ai cùng mang “ách” dịu-hiền của Ngài. Mọi người sẽ thấy được niềm an-vui trong tháng ngày dài cuộc đời gặp đầy phiền-toái, oan khiên.

Vâng. Giữa giòng nhạc tươi-vui/êm-đềm, Lời Chúa nói, vẫn có tiếng trống làm nền cho thứ âm-nhạc dịu-nhẹ, hoà-vang, êm-ái. Những người cùng khổ/cật-lực cần được ta đến cảm-kích niềm vui chung. Và, mỗi khi ai đó trổi nhạc vui rồi múa nhảy, hẳn cũng có những người không buồn dời gót ngọc để chung vui với người đó. Một số người sống như thế, cũng chẳng buồn đáp-ứng lại giòng nhạc buồn vào buổi tiễn-đưa người quá-cố, nữa.

Lại có người, vẫn cứ chê-bai chỉ-trích ta, là những người dễ kích-động khi khám-phá ra rằng: cuộc sống cũng tốt đẹp như khi Đức Giêsu và tác-giả Tin Mừng thánh Mát-thêu từng công-nhận như thế. Ta cứ đặt để những lời như thế vào hậu-trường cuộc sống sẽ rất mừng, là: những điều như thế chỉ xuất-hiện ở hậu-trường, mà thôi. Vì, sự thể an-vui/tươi-tắn thực ra ở đâu đó, và những người như thế cũng chẳng thể nào lấy khỏi nơi ta niềm an vui, hài-hoà được.

Đến đây, tưởng cũng nên nói thêm, rằng: khi ta bảo: trong đời, có những sự và những việc vẫn suy-tưởng về Chúa và với Chúa. Tựa hồ như, khi Đức Giêsu trả lời câu hỏi “ai đó” của thánh Phêrô những tưởng Ngài là “ma trơi”, thì Ngài nói: “Đó là tôi!” Và, khi ta thưa với Chúa: Có những sự và những việc con muốn sẻ-san với Ngài, ôi lạy Chúa!, là có ý nói: ta cũng sẻ-san những sự và những việc rất tầm-thường với Đức Chúa.

Thế nên, khi ta nói: cuộc sống có nghĩ về Thần-Tính-An-Vui, là Thánh Thần đem lại sự sống tràn đầy, đến cho ta, là ta hỏi: Chúa nay thế nào rồi? Sự việc Chúa đến với ta, rày ra sao?  Thì đó là lúc ta nên vui-hưởng cuộc sống tràn đầy Đức Kitô. Cuộc sống rất “Kitô”, là như thế”.(x. Lm Kevin O’Shea CSsR, Suy Tư Tin Mừng Chúa nhật 14 thường niên năm A, vietcatholicsnet 27.06.2014, ở cột Phụng vụ)

Xem thế thì, hãy cùng người nghệ-sĩ nhớ đến “Sàigòn-hoa-lệ” thuở nào, rồi cùng hát:

“Nguời tình ơi! Tôi xin giữ trọn mãi lời thề,

Dù thời gian có là một thoáng đam-mê,

Phố-phường một ánh sao đêm,

Nhưng tôi vẫn không bao giờ quên.”

(Nam Lộc – bđd)

Vâng, chính thế. Dù Sàigòn là cuộc sống của tôi và của bạn có là một thoáng đam mê, ê-chề, nhiều bứt rứt, cũng chớ bao giờ quên. Không quên, “Hòn Ngọc Viễn Đông” đầy diễm lệ, cũng không quên cả đến Lời Vàng đấng thánh nhân-hiền từng viết nhiều và viết mãi về sự hiện-diện của Đấng Bên Trên luôn ở cùng và ở mãi với ta và với người.

Quyết thế rồi, nay ta đi vào khung trời truyện kể cũng rất “phiếm” để làm nhẹ bớt nỗi niềm suy-tư về cuộc đời có những lời nhung nhớ, hoặc “giọt lệ sầu buồn” hoặc “nụ cười nát trên môi”, để thưởng-thức.

“Truyện rằng:

Xe lửa bắt đầu chuyển bánh. Gandhi nhảy vội lên tàu. Một chiếc giày của ông rơi xuống. Gandhi không thể nào nhảy xuống để nhặt nó trong khi tàu chạy càng lúc càng nhanh. Trước sự sững sờ của mọi người, Gandhi…đã tháo luôn chiếc giày còn lại và ném về phía chiếc giày kia.

Hành khách trên tàu lấy làm lạ về hành động kỳ quặc của ông. Gandhi mỉm cười và giải thích: “Nếu có một người nghèo nào lượm được chiếc thứ nhất, họ có thể tìm thấy chiếc thứ hai và sẽ xài được đôi giày của tôi”.

Truyện kể vỏn vẹn chỉ có thế. Không dài giòng văn-tự cũng chẳng ngắn ngủi đến độ không hiểu nổi. Thế nhưng, để người đọc thấm thía hơn về ý-nghĩa của cuộc sống rúr ra từ câu chuyện “Chiếc giày đánh rơi của Ghandi”, người kể lại cứ thêm, đôi lời bàn rất “Mao Tôn Cương” như sau:

“Chúng ta thường ít nghĩ đến người khác mà chỉ nghĩ về bản thân mình. Khi chúng ta bị mất mát vật gì, thì điều đầu tiên ta nghĩ đến là: những thiệt thòi và bất hạnh của mình. Chúng ta mất quá nhiều thì giờ vào những tiếc nuối, thở than, chán nản, thậm chí còn bẳn gắt và bực bõ vì những rủi ro có thể xảy đến. Mahatma Gandhi đã có hành động thật cao quý bởi trong mất mát vật tuỳ thân như thế, ông vẫn có thể nghĩ đến người khác.

Hành động của Gandhi từng chứng tỏ: việc nghĩ đến người khác đã trở-thành một phần trong tư tưởng và nguyên tắc sống của ông. Giả như, trong cuộc sống an-bình và thành-đạt mà ta còn không mấy quan-tâm lo-lắng cho những kẻ bất hạnh hơn mình, thì liệu khi gặp khó khăn, mất mát, ta có làm được điều đó hay không?

Quanh ta có biết bao nhiêu người sống khó khăn, cực khổ đang cần sự giúp đỡ của ta. Những gì họ thiếu thốn có khi không là vật chất, mà đôi lúc chỉ cần một lời động viên an ủi, thật cũng đủ.

Thế giới của ta sẽ hạnh phúc biết mấy, nếu mỗi người và mọi người trong ta không chỉ chăm lo cho lợi-ích riêng-tư của mình, mà cần phải chăm lo lợi ích của người khác nữa.” (câu truyện và lời bàn trích từ điện-thư bạn bè gửi hôm 27/6/2014, không ghi tên tác-giả)

Lời bàn về chuyện âu sầu, buồn khổ, mất mát gặp phải trong cuộc đời và những gì còn diễn tiến ở phía sau đường đời, cũng nên dùng làm kết-đoạn cho “chuyện phiếm” rất đáng chán ở đây, hôm nay.

Kết thế rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta cứ thong-dong hát lên lời lẽ đầy nhung nhớ về một “Sàigòn-hoa-lệ” nào đó, của mỗi người. Hát, là cứ hát những lời sau đây:

“Sàigòn ơi! Tôi đã mất người trong cuộc đời.

Sàigòn ơi! Tôi đã hết thời-gian tuyệt-vời.

Giờ còn đâu, những kỷ-niệm sống trong tôi,

Những nụ cười nát trên môi,

Những giọt lệ ôi sầu đắng…

Sàigòn ơi, nắng có còn vương trên đường?

Đường ngày xưa, mưa có ướt ngập lối đường về.

Rồi mùa thu, lá còn đổ xuống công viên?

Bóng gầy còn bước nghiêng nghiêng?

Hay đã khóc thương cho người yêu?”

(Nam Lộc – bđd)

Hôm nay đây, những mong rằng “Sàigòn” của bạn và của tôi vẫn cứ còn giọt nắng lẫn giọt mưa vương trên đường đời, đầy những nụ cười nở mãi trên môi, của mỗi người và mọi người.

Trần Ngọc Mười Hai

Với niềm hy vọng

Trải dài mãi trên anh trên tôi,

Trên mọi người.

ở đời.

Ở đây châu báu vô tri hết,

đây châu báu vô tri hết,”

Pho sách quần phương lộ ý nhiều.”

(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Mt 14: 22-33

Tác giả: Mai Tá

Châu báu vô tri của nhà thơ, nay lộ ý nhiều ở pho sách quần phương, rất lộ ý. Trân châu báu vật của nhà Đạo, lâu nay vẫn thể-hiện nơi tình người đi Đạo, rất chân phương, thân tình, nhiều ý-nghĩa

Tình người chân-phương/thân tình, nay diễn-tả ở trình-thuật được thánh Mát-thêu ghi rõ, đã thấm-nhuần nhiều truyện dân-gian đời thường, rất được ưa chuộng. Dân-gian truyện đời thường hôm nay, lại thấy có câu truyện về vai-trò của nữ-lưu phụ-trách công-cuộc mục-vụ ở tôn-giáo bạn, cũng là tôn-giáo đặt nặng Tình Chúa rất thương-yêu con người,

Tại làng chài vùng ven nọ, các anh em trong Giáo hội Tin Lành luôn cố gắng kiếm tìm cho được một chủ chăn mới thay cho vị mục sư cao-niên đã đến cõi. Sau nhiều chống đối từ các tín-đồ trong đó có Jimmy trong vai người chủ chốt. Cuối cùng thì, Hội thánh sở tại lạ đã mời được vị nữ-lưu tên Gayle phụ-trách vai-trò chủ chăn rất sáng-giá.

Nữ chủ chăn tên là Gayle lúc đầu hơi ngỡ ngàng, nhưng sau nhiều tuần quen dần với công-tác mục-vụ, cũng dễ dàng. Mùa nghỉ đã đến, thành-viên cộng-đoàn do anh Tom điều động, đã tổ chức chuyến đi câu nhằm mục-đích mời vị chủ-chăn tham quan, có dịp thư giãn cùng thưởng-ngoạn niềm an vui, rất mục-vụ.

Jimmy được yêu-cầu cho mượn xuồng để bà con có dịp thăm viếng miền sông nước. Jimmy rất đồng ý, nhưng Anh ra điều-kiện đòi làm hướng-dẫn-viên cho buổi vui này. Và thế là, mọi người lên xuồng, để ra đi. Đi được một quãng ngắn, bà con chợt nhận ra là mồi câu còn để trên bờ. Có người đề nghị quay trở lại lấy mồi.

Nhưng, chủ chăn là chị Gayle không đồng ý. Chị bước xuống khỏi xuồng, bỏ đi vào bờ. Jimmy thấy vậy, anh cũng chẳng ngạc-nhiên chút nào về khả-năng lội bộ của vị chủ chăn tên Gayle, bèn nói mau: “Quý vị thấy chưa, tôi đã nói là mình không nên nhờ bà ấy lo việc mục-vụ cho giáo-đoàn mình, mới phải. Bà ta nào biết bơi, nên mới thành chuyện.”

Thành thử, bỏ bạn bè đồng cảnh ở lại chơ vơ trên thuyền, lại cũng là kinh nghiệm khó nghĩ, khó xử cần suy tư nhiều, để tìm hiểu.

Những ai từng xem phim Shrek nhiều tập, hẳn cũng đều đồng ý là bộ phim này có nhiều điều rất hay và rất tuyệt, nhưng nhiều chỗ có hơi khó hiểu. Các nhà phê-bình kịch-bản để làm phim, phải cắt-nghĩa là: tác-giả đã dùng cung-cách được gọi là “nguyên-bản tương-tác” lấy sự-kiện nguyên-bản ở chỗ này, rồi khéo-léo đưa vào bản-văn ở chỗ khác để ông có thể tiếp-tục kể nốt cốt-truyện làm nên cho bộ phim. Làm thế, mới đưa ra được cái hay/cái đẹp của bộ phim.

Trong phim này, có một số điều được rút từ nhiều điển-tích cổ xưa, rất cố-hữu. Thành thử, muốn biết rõ bản-chất mỗi nhân-vật, người xem cần hiểu/biết các điển-tích tuy xưa/cổ đã hàm-ẩn, ở trong phim. Đôi lúc, người thưởng-ngoạn lại có cảm-tưởng là cốt truyện đã bị đảo-ngược không còn giống câu truyện vào lúc ban đầu nữa.

Tuy nhiên, những chuyện như thế đã không làm cho bộ phim nhiều tập Shrek mất đi tính ăn khách, thích thú cần đem đến với người xem. Cuối cùng thì, mọi người vẫn đổ xô, rủ rê nhau xem cho đủ hết mọi tập, dù truyện phim có quá nhiều điển-tích, nhiều chỗ cũng khó hiểu.

Truyện kể về việc Thần Khí Chúa bay là là trên mặt nước cũng tạo yêu-tố gây kinh-ngạc không ít, giống hệt tập phim truyện Shrek. Trong mười một đoạn văn Tin Mừng do thánh Mát-thêu ghi, nhiều chỗ cũng được rút từ nhiều điển-tích rất cổ xưa có sẵn trong Cựu Ước.

Thánh Mát-thêu lại đã đem một số điển-tích ấy vào thể-văn riêng của ngài và diễn-giải thêm cho phù-hợp nhân cách Đức Giêsu Kitô. Ngày hôm nay, đọc trình-thuật của thánh-nhân theo cảm-nghĩ của người đương-thời, hẳn nhiều người sẽ thấy lạc lõng, bơ vơ, không đồng bộ. Họ thưởng thức mỗi cốt truyện, chứ không nắm-bắt được cốt-lõi của bản văn. Thật ra, tín-hữu cộng-đoàn thời tiên-khởi không như thế. Mỗi khi thánh Mát-thêu diễn-giải điều gì ở trình thuật, ai cũng hiểu mọi ý-nghĩa đã kể trong truyện.

Nơi Cựu Ước, tín-hữu kỳ-cựu như ông Giób vẫn thấy văn-bản trình-thuật diễn-tả trọn vẹn ý-nghĩa sự việc Chúa hiện-diện cả trong cơn phong-ba, sóng dồn, vốn là ảnh-hình nói lên các hiểm-họa gặp thấy ở trong đời. Ảnh-hình về “thuyền con” trong trình thuật, là biểu-tượng về Hội-thánh cũng đã gặp nhiều phong-ba/sóng dồn, vào thuở đầu.

Với thánh Mát-thêu, các môn-đệ Chúa đều có mặt trong tình-cảnh đó. Hình ảnh Đức Kitô bay là trên mặt nước, là âm-vang cố-hữu về họat-động của Thần-Khí Chúa trong trình-thuật tiên-khởi ở sách Khởi nguyên. Ngay đến việc Đức Kitô từng khiến cho sóng êm, biển lặng cũng để tiếp-nối công-việc mà ngôn-sứ Giô-nah đã làm vào khi trước.

Thành thử, người đọc nào những muốn say-mê tìm-hiểu Kinh-thánh, sẽ thấy nhiều biểu-tượng vẫn đồng-bộ, ăn khớp với các điển-tích được ghi nhiều trong sách Cựu-Ước, vào thời trước.

Trình thuật hôm nay cũng thế, thánh Mát-thêu đã chứng-tỏ biệt tài viết lên Tin Mừng cách độc-đáo qua ngôn-ngữ riêng-tư của chính ông. Đi vào chi tiết, ta sẽ còn thấy thánh-nhân chú-trọng nhiều đến thông-điệp mang tính thần-học hàm-ẩn như sau: Đức Kitô, là Người Con Độc Nhất của Thiên-Chúa-là-Cha, là Chúa tể mọi Tạo dựng, vẫn trung-kiên với đồ-đệ của Ngài. Chẳng cần biết sông/biển có vỡ ào, sóng nước có dồn dập, hoặc dân con/người phàm có khiếp-sợ nguy-cơ tai-biến đến thế nào đi nữa, Chúa vẫn cứu, đem họ về với công-trình tái tạo-dựng nên người mới, vẫn rất mới.

Cũng hệt thế, Hội-thánh Chúa thừa-nhận rằng Ngài đã hoàn-tất công-trình tạo-dựng mà lâu nay toàn-dân Israel hằng trông đợi nơi Ngài. Họ mong được mục-kích và ôm giấc mộng ấy vào trong lòng. Vẫn cảm-thông với công-cuộc cứu-vớt của Đức Chúa, dù đôi lúc nhận thấy nhiều biểu-tượng và điển-tích cũng không mấy dễ hiểu.

Vấn đề là: hôm nay đây, tất cả các truyện cổ, cùng điển-tích ấy có đem đến cho ta điều gì tốt đẹp, nhiều hay không?

Quả thật, chúng ta đều là kẻ kế-thừa lòng tin của thánh sử Mát-thêu, từng tỏ rõ. Hôm nay đây, vốn có mặt trong buổi Tiệc thánh này, là vì ta tin rằng Đức Giêsu, Người Con Độc Nhất của Thiên-Chúa-là-Cha, Đấng đã cứu-vớt ta ra khỏi chính thân-phận người phàm chốn gian-trần của mình, để sẽ không còn bị lớp phong-ba bão-táp cùng sóng dồn ở cuộc đời những miệt mài, đầy hủy hoại là thế.

Đằng khác, thông-điệp thánh-sử chuyển đến cho ta hôm nay, còn nói lên rằng: trong mọi phong ba bão táp từng đe dọa con thuyền cuộc sống của ta, phải chăng ta vẫn gặp được may dù không biết bơi vì Đức Giêsu chẳng bao giờ học-hỏi để biết bơi, hết?

Cảm-nhận được sự thể như thế, ta lại sẽ ngâm lên lời thơ đang ngâm dở, rằng:

“Ở đây châu báu vô tri hết,

Pho sách quần phương lộ ý nhiều.

Hãy tìm cho được hoa cung cấm,

Xem thử trong hoa có mỹ miều?”

(Hàn Mặc Tử – Nhớ Thương)

Châu báu vô-tri ở trong sách, và hoa cung-cấm có mỹ-miều, lại cũng là những thứ ta có thể tìm ra được trong cuộc sống vẫn rất đẹp, “lộ ý nhiều”. Ý rất lộ, được thánh-sử diễn-tả bằng hình-tượng dân-gian đằm thắm, rất mỹ-miều, vẫn không thiếu ở chốn nhân-gian tình người, rất chân-phương.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch

Tư thục hóa nền giáo dục Việt Nam

Tư thục hóa nền giáo dục Việt Nam

Chuacuuthe.com

VRNs (09.08.2014) – Melbourne Úc Đại Lợi – Ngành giáo dục đã trải qua ba lần cải cách, nhưng vì vẫn điều hành lối cũ nên càng cải cách càng rơi vào khủng hỏang. Từ góc nhìn kinh tế muốn tạo cạnh tranh, tạo công bằng và hiệu quả giáo dục cần được tư thục hóa.

140807013

Giáo Dục Là Công Việc Nhà Nho

Tổ chức giáo dục thời xưa được học giả Đào Duy Anh ghi lại trong quyển Việt Nam Văn Hóa Sử Cương như sau:

Ở mỗi huyện có quan Huấn đạo, mỗi phủ có quan Giáo thụ, dạy Tứ Thư Ngũ Kinh cho học trò khá. Ở mỗi tỉnh có quan Đốc học dạy các sinh đồ cao đẳng. Ở Kinh đô có trường Quốc tử giám. Các vị học quan kể trên đều ở dưới quyền giám đốc của bộ Lễ hoặc bộ Học. Trong dân gian thì xưa nay việc học vẫn hoàn toàn tự do. Thầy học thì có thầy khóa, thầy đồ, thầy tú dạy trẻ con, cho đến bậc đại khoa không xuất chính, hay các quan trí sĩ, có người dạy đến trăm nghìn học trò.

Giáo dục có thể xem như là công việc của nhà nho hơn là của quốc gia. Trường học thì phần lớn là nhà riêng của thầy nho, hoặc ở chùa, đình, miễu hay nhà một người giàu có trong làng. Các thầy nho hòan tòan độc lập với công quyền. Họ không được tài trợ và cũng không bị kiểm soát đôn đốc bởi bất cứ cơ quan nào.

Sang Thời Pháp Thuộc

Giáo dục thời Pháp nhằm đào tạo một số người biết tiếng Pháp, biết Quốc Ngữ, có đôi chút hiểu biết để ra làm công chức, làm thông dịch phục vụ cho người Pháp. Mục tiêu xa là đồng hóa người bản xứ biến họ thành những người Pháp về phương diện văn hóa.

Để thực hiện các mục tiêu nêu trên, người Pháp đã mở rộng 1 hệ thống giáo dục công lập rộng khắp Đông Dương. Đồng thờitừ mục tiêu truyền giáo một số trường tư do giáo hội Thiên Chúa Giáo cũng đã xây dựng và điều hành.

Sau năm 1930 một số tư thục do tư nhân mở ra ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn và ở một vài tỉnh lỵ lớn đa số là các trường bậc Tiểu Học.  Bậc Cao Đẳng Tiểu Học chỉ có ở Hà nội, Huế và Sài gòn. Bậc Tú Tài chỉ có ở Hà Nội và Sài Gòn.

Nhà nho vẫn được tiếp tục vai trò giáo dục. Nhưng theo quyết định của Toàn Quyền Paul Beau năm 1906-07 thì các thầy đồ, thầy khóa ở xã thôn, các quan giáo huấn, đốc học ở phủ, huyện, tỉnh, ngoài việc dạy chữ Hán phải dạy thêm chữ Quốc Ngữ.

Khi Đông Kinh Nghĩa Thục được thành lập, người Pháp đã không ngăn cấm hoạt động. Người Pháp chỉ giải tán khi biết được đằng sau Nghĩa Thục là phong trào chống lại thực dân.

Tư Thục Trong Nền Giáo Dục Miền Nam

Giáo dục miền Nam nhằm đào tạo những công dân tốt có khả năng phụng sự xã hội. Vì vậy vai trò của chính phủ là làm sao tạo được sự công bằng và hiệu quả trong việc đầu tư cho giáo dục.

Chiến lược giáo dục miền Nam đựơc nêu rõ trong Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa: (1) Quốc Gia công nhận quyền tự do giáo dục, (2) nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí, (3) nền giáo dục Đại Học được tự trị, (4) những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn và giáo dục, và (5) một ngân sách thích đáng phải được dành cho việc phát triển văn hóa giáo dục.

Để thực hiện những mục tiêu trên chính phủ miền Nam đã chia sẻ trách nhiệm với các thành phần khác trong xã hội. Những con số dưới đây có thể nói lên được phần nào sự phát triển của hệ thống tư thục trước đây.

Năm 1964 có chừng 435 ngàn học sinh tiểu học chiếm 28 phần trăm tổng số học sinh tiểu học đã được giáo dục tại các trường tư thục. Đến năm 1970 con số tăng lên 452 ngàn nhưng tỉ lệ đã giảm xuống chỉ còn 18 phần trăm.

Ở bậc trung học cả tỉ lệ lẫn số lượng học sinh đều liên tục gia tăng. Nếu năm 1964 các trường tư thục thu nhận 181 ngàn học sinh hay 62 phần trăm tổng số học sinh, thì đến năm 1970 con số tăng gần ba lần lên đến 484 ngàn học sinh chiếm tỉ lệ 78 phần trăm tổng số học sinh trung học.

Về giáo dục đại học, 6 Viện đại học tư thục cũng đã được thành lập với chừng 40 ngàn sinh viên tốt nghiệp.

Nhận thức giáo dục cơ bản mang lại công ích xã hội cao nhất nên chính quyền miền Nam đã tập trung ngân sách quốc gia cho giáo dục tiểu học. Học sinh công lập được hòan tòan miễn phí. Ở bậc tiểu học học sinh còn được ăn bánh mì và uống sữa miễn phí. Sách giáo khoa bậc tiểu học cũng được phát không.

Các trường tư nhờ cạnh tranh nên học phí thấp và phẩm chất giáo dục cũng không mấy chênh lệch. Bởi thế đa số trẻ em miền Nam đều được đến trường ăn học.

Nhờ chia sẻ trách nhiệm với tư nhân, phía chính phủ đã chu cấp một đời sống căn
bản cho giáo chức và các công chức trong ngành giáo dục. Nhờ đó miền Nam đã xây dựng được một nền giáo dục có giá trị ngang tầm quốc tế.

Đến năm 1975, hằng ngàn trường tư thục và các viện đại học đã bị tịch thu và nhập vào hệ thống giáo dục Xô Viết. Hệ thống này đến nay cũng không mấy thay đổi vẫn độc quyền và chính trị hóa giáo dục.

Trường Công Đã Biến Thành Trường Tư

Ngân sách cho giáo dục hiện nay đã lên đến 20 phần trăm tổng ngân sách quốc gia. Nhưng vì phải trải rộng cho tòan ngành, thiếu cạnh tranh và hiệu quả, nên các cơ sở học đường đều nghèo nàn, xuống cấp, lương giáo viên không đủ sống, có địa phương thiếu lương trả giáo viên,… chưa kể đến tình trạng tham nhũng tràn lan khắp ngành giáo dục.

Các trường công lập cũng thâu học phí và nhiều khỏan phí khác gây không ít khó khăn cho phụ huynh học sinh. Trường công đã trở thành trường tư.

Một vài trường tư được thành lập nhưng vì thiếu môi trường cạnh tranh lành mạnh, thiếu học sinh, nên học phí quá cao. Gia đình trung lưu cũng không đủ khả năng cho con em theo học.

Theo thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định số 49/2010/NĐ-CP, kể từ ngày 15/7/2014 các học sinh tiểu học công lập sẽ không phải đóng học phí. Thông tư không nói các lệ phí khác có được miễn hay không? Không thu được học phí, ngân sách lấy gì bù đắp và thực tế sẽ ra sao?

Tư thục hóa nền giáo dục Việt Nam

Các sinh viên đại học sau vài năm theo học sẽ có công ăn việc làm. Họ sẽ có lợi tức và có khả năng hòan trả các chi phí giáo dục. Người có giáo dục đại học lại thường dễ thay đổi nghề nghiệp và có nhiều khả năng xuất ngọai.

Vì thế một nước chậm phát triển như Việt Nam thay vì đầu tư cho giáo dục Đại Học nên để các khỏan ngân sách cho việc đầu tư vào giáo dục bậc tiểu học.

Cuộc hội thảo về cải cách giáo dục Đại Học do Nhóm đối thoại giáo dục và Lãnh sự quán Hoa Kỳ vừa tổ chức cho thấy việc tự trị đại học được xem như là giải pháp để thúc đẩy việc cải cách giáo dục đại học Việt Nam. Có điều các diễn giả không nói rõ tự do chính trị và tự do giáo dục chính là căn bản của một nền đại học tự trị.

Quyền tự trị đại học đã được nêu rõ trong Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa. Miền Nam không có Bộ Đại Học. Bộ Giáo dục chỉ có một thứ trưởng đặc trách giáo dục đại học, công việc của vị này chủ yếu là lo thực thi những chính sách và ngân sách giáo dục đại học.

Đại học tự trị về học vụ, tài chính và điều hành. Các hội đồng ở cấp viện đại học và cấp trường đại học (hay phân khoa) có quyền thảo luận và quyết định mà không phải trình báo hay xin chỉ thị từ bất cứ ai. Các Khoa trưởng không do Bộ Giáo dục bổ nhiệm mà do các giáo sư của Hội đồng Khoa bầu lên.

Khi Đại Học chưa được quyền tự trị thì khó có sự cạnh tranh công bằng giữa đại học công và tư. Một bên đã có nhà nước bảo hộ phía bên kia cần lợi nhuận để tiếp tục duy trì và phát triển. Thiếu cạnh tranh thì khó có thể nâng cao được phẩm chất của nền giáo dục.

Cũng trong thời gian qua, tranh chấp diễn ra tại đại học tư thục Hoa Sen xoay quanh việc ai quyết định chiến lược và thành quả của chiến lược thuộc về ai? Cuộc tranh chấp nhằm chọn giữa hai phương cách quản lý đại học: vụ lợi hay vô vụ lợi.

Tổ chức vô vụ lợi (phi lợi nhuận) họat động không vì lợi nhuận nhưng về lâu dài việc quản lý cũng cần có thặng dư để tái đầu tư và phát triển. Ở các nước Tây Phương các tổ chức vô vụ lợi họat động trong ngành giáo dục được khuyến khích bằng cách miễn thuế lợi tức. Các cá nhân hay công ty đóng góp cho các tổ chức giáo dục vô vụ lợi cũng được khai giảm thuế lợi tức hằng năm.

Để khuyến khích phát triển giáo dục tư thục, ngòai việc chính phủ cấp học bổng hay ngân sách cho đại học cả tư lẫn công, có quốc gia còn cho các sinh viên vay tiền học phí và chỉ hòan trả lại khi họ đã có công ăn việc làm vững chắc.

Nhiều quốc gia miễn thuế cho các dịch vụ thuộc về giáo dục. Có quốc gia còn khấu trừ thuế lợi tức các chi tiêu cá nhân hay công ty đầu tư cho việc giáo dục và đào tạo.

Chính phủ cũng cần tạo mọi cơ hội để các trường đại học tư thục được sự giúp đỡ của chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế, các công ty liên quốc, các cộng đồng hải ngọai và các mạnh thường quân quan tâm đến giáo dục.

Dựa trên căn bản chiến lược, chính sách và luật pháp quốc gia, các trường đại học tư thục có tòan quyền quyết định giữa tổ chức quản lý đại học bằng cách vụ lợi hay vô vụ lợi.

Các trường tiểu học và trung học tư thục, việc điều tài chính và quản lý tùy thuộc vào
Ban Quản Trị nhà trường. Bộ Giáo Dục chỉ quy định chương trình và giám sát phẩm chất giáo dục các trường.

Ngày nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đã tư thục hóa nền giáo dục của họ. Nhiều nước như Úc còn xem giáo dục như mặt hàng xuất khẩu chiến lược.

Trong khi ấy nền giáo dục Việt Nam vẫn lệ thuộc vào tư tưởng giáo dục kiểu Xô Viết trước đây, khi tự do chính trị và tự do giáo dục chưa có, mọi cải cách đều không mang lại kết quả, nền giáo dục càng ngày càng suy thóai, dẫn đến khủng hỏang xã hội.

Năm 1945, chỉ trong vòng vài tháng chính phủ Trần Trọng Kim đã hòan thành cuộc cách mạng giáo dục lần thứ nhất chuyển chương trình giáo dục từ Pháp ngữ sang Việt ngữ. Xây dựng giáo dục trên ba nguyên tắc: dân chủ, dân tộc, khoa học và lấy lý tưởng phụng sự quốc gia làm tôn chỉ.

Giáo dục gắn liền với phát triển quốc gia, bởi thế muốn đưa đất nước đi lên chúng ta cần sửa sọan tư tưởng sẵn sàng lấy việc tư thục hóa làm nền tảng cho cuộc cách mạng giáo dục lần này.

Nguyễn Quang Duy

—-

Bài liên quan:

Nguyễn Quang Duy (3-2014) Giáo dục Việt Nam: cố sửa hay trở về gốc?

Nguyễn Quang Duy (4-2014) Ưu việt của giáo dục miền Nam

Nguyễn Thanh Liêm, Nền giáo dục ở miền nam 1954-1975

 

Vì sao phải thoát Trung?

Vì sao phải thoát Trung?

Thứ năm, 7 tháng 8, 2014

httpv://www.youtube.com/watch?v=_2Ei-qKbErI

BBC Tiếng Việt mở tọa đàm xung quanh các thảo luận về ‘thoát Trung’ nhân những tranh luận gần đây về vấn đề này.

Tọa đàm được phát trực tiếp trên Bấm Google+ và kênh YouTube của BBC từ 19:30 tới 20:00 giờ Việt Nam ngày 7/8/2014.

Tham gia có các nhà quan sát Việt Nam từ Hà Nội, Hong Kong, Geneva và Berlin.

Cựu quan chức ngoại giao Đặng Xương Hùng, một trong các khách mời, bình luận trên Facebook của ông sau khi Trung Quốc rút giàn khoan:

“Hầu hết đều mong mỏi, khi đã được bình tâm, giới lãnh đạo sẽ đánh giá lại toàn bộ sự kiện, điều chỉnh chính sách để có được những quyết sách phù hợp, đưa Việt Nam ra khỏi vòng luẩn quẩn 25 năm thời kỳ đô hộ kiểu mới của Trung quốc. Đây là một cơ hội.

“25 năm sau lựa chọn ‘giải pháp đỏ’ Thành Đô, giàn khoan đã cho một cơ hội, cơ hội cho những ai dù kém cỏi nhất cũng nhìn ra bộ mặt thật của mưu đồ Đại Hán.

“Nói đúng ra, Trung Quốc đã không còn giấu tham vọng bành trướng của mình. Quan sát cách mà lãnh đạo cấp cao Việt Nam đánh giá lại tác động của Thành Đô, xem xét lại cách đối xử với Trung Quốc, chúng ta có thể phán đoán tương lai của đất nước sẽ đi về đâu,” ông Hùng viết.

‘Canh bạc đã thua’

Nhiều người Việt đòi xem xét lại quan hệ với Trung Quốc

Vị cựu quan chức, nguyên phó vụ trưởng và cựu tham tán ở Geneva, bình luận thêm:

“Chưa bao giờ lãnh đạo đảng và nhà nước Việt Nam đứng trước áp lực cần phải thay đổi lớn như hiện nay.

“Mọi thay đổi phải bắt nguồn từ thay đổi tư tưởng, thay đổi cách suy nghĩ và đánh giá sự việc. Liệu các nhà lãnh đạo hiện nay có đủ nghị lực để chiến thắng được chính mình, chiến thắng được ràng buộc về lợi ích cá nhân, phe nhóm. Có đủ can đảm để đưa ra công khai những thỏa thuận sai lầm trong quá khứ.

“Một khi đã nhận sai lầm, minh bạch hóa nó, không phải bỏ công để che dấu và bao bọc nó.

“Chưa bao giờ lãnh đạo đảng và nhà nước Việt Nam đứng trước áp lực cần phải thay đổi lớn như hiện nay. “

“Canh bạc đã thua, càng ham gỡ, càng thua. Hãy từ bỏ nó, chơi một cuộc chơi mới. Một bài toán phải giải theo cách khác mới có một kết quả mới khác trước.”

Bình về quan hệ với Bắc Kinh và Washington, ông Hùng viết:

“Hãy từ bỏ trò chơi cân bằng trong quan hệ với Mỹ và Trung Quốc. Ta chỉ đủ khôn lỏi, chứ không đủ khôn ngoan và không đủ lực để tiếp tục đánh đu trong quan hệ với hai nước lớn này.

“Không dễ gì đạt được TPP và không có cải thiện dân chủ và nhân quyền trong nước. Không dễ gì lúc nào cũng muốn hưởng sự bao che của Trung Quốc mà không phải trả giá của sự lệ thuộc nhẫn nhịn. Hãy chìa tay ra để dựa vào sự hỗ trợ rất nhân bản của nước Mỹ đưa đất nước dần một đi lên và lúc đó câu chuyện quan hệ với ông láng giềng bất hảo phương Bắc sẽ dễ đi rất nhiều.”

“Bài học Miến Điện là bài học dễ học nhất,” ông Hùng viết.

 

Ngôn Ngữ Của Tình Yêu

Ngôn Ngữ Của Tình Yêu

Có lẽ cái tên của Helen Keller, một cô gái câm điếc người Mỹ, đã trở thành bậc khoa bảng, không còn xa lạ với chúng ta nữa.

Vừa được 19 tháng, sau một cơn đau màng óc, cô gái bất hạnh này trở thành mù lòa và câm điếc.  Thế giới của âm thanh và màu sắc đã khép hẳn cánh cửa lại với cô.

Làm thế nào để truyền thụ kiến thức cho một người đã câm điếc lại còn mù lòa?

Cha mẹ của cô bé dường như muốn bó tay.  Nhưng có một cô giáo tên là Anne Sullivan đã không muốn bỏ cuộc.  Hy vọng duy nhất mà cô giáo này còn đó là có thể truyền thông và liên lạc với cô gái mù lòa và câm điếc này qua việc tiếp xúc với bàn tay của cô.

Chỉ có thể tiếp xúc với thế giới bằng đôi tay, nhưng Helen Keller đã có thể học xong Ðại Học.  Helen là người mù, câm và điếc đầu tiên tốt nghiệp Tiến sĩ, trở thành văn sĩ và là người nổi tiếng trên thế giới về ý chí học hỏi và quyết tâm của một người tàn tật tiếp cận được với thế giới bình thường.

Cho người mù lòa và câm điếc chạm vào một sự vật và viết lên tên gọi của sự vật ấy: đó là phương pháp của cô giáo Anne Sullivan.  Dạy về những sự vật cụ thể như cái bàn, cuốn sách, cành cây, con chó… xem ra không hẳn là điều khó.  Nhưng làm thế nào để diễn tả cho Helen hiểu được những ý niệm trừu tượng như tình yêu chẳng hạn?

Ngày kia, cô giáo Anne Sullivan đã viết lên tay của Helen Keller hai chữ “Tình Yêu” rồi ôm chầm lấy cô bé hôn lấy hôn để với tất cả sự thành thật và nhiệt tình của cô.  Lần đầu tiên trong đời, cô gái câm điếc mù lòa bỗng cảm thấy tim mình đập mạnh và cô hiểu được thế nào là Yêu Thương.

Ngôn ngữ của Tình Yêu là những hành động cụ thể.

·      Ánh mắt trìu mến, những âu yếm vuốt ve của người mẹ đối với đứa con mới lọt lòng có giá trị hơn bất cứ một quyển sách biên khảo nào về tình yêu.

·      Những mồ hôi và nước mắt, những hy sinh hằng ngày của người cha giúp con cái hiểu được thế nào là Yêu thương hơn bất cứ lời dẫn giải nào về tình yêu.

·      Và có lẽ cũng thừa thãi để bảo rằng khi hai người yêu nhau thì sự thinh lặng và những cử chỉ âu yếm có sức mạnh hùng hồn hơn những lời nói hoa mỹ, những trống rỗng.

Thiên Chúa là Tình Yêu.  Ngài tỏ tình, Ngài bộc lộ tình yêu với con người không chỉ bằng những lời nói suông, mà bằng cả lịch sử của những can thiệp, những thể hiện cụ thể.  Một tình yêu không được chứng tỏ bằng những hành động cụ thể là một tình yêu giả dối, lừa bịp.

Ðạo Kitô của chúng ta là Ðạo của Tình Yêu.

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi