Làm từ thiện: nên hay không?

Làm từ thiện: nên hay không?

Ts. Nguyễn Đình Thắng

Ngày 11 tháng 9, 2014

http://machsong.org

Trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại thường có sự giằng co giữa 2 khuynh hướng về việc làm hay không nên làm từ thiện ở Việt Nam. Khuynh hướng làm từ thiện chủ trương rằng “máu chảy ruột mềm”, đồng bào khốn khó thì phải cứu giúp. Khuynh hướng ngược lại thì lập luận rằng chế độ thối nát hiện nay chính là nguyên nhân của các vấn nạn xã hội, làm từ thiện chỉ là nuôi mầm bệnh và bệnh trạng sẽ ngày càng trầm trọng. Bên nào nghe cũng có lý.

Quả vậy. Cả hai bên cùng có lý. Trong hoàn cảnh của Việt Nam đó là hai mặt của một đồng tiền. Không thể thiếu một. Mâu thuẫn xẩy ra khi cả hai bên cùng nghĩ rằng đồng tiền chỉ có một mặt: mặt của bên mình.

Làm Từ Thiện Là Bắt Buộc

Một xã hội nhân bản, nơi con người được tôn trọng và hạnh phúc của con người là cứu cánh, phải được xây dựng trên lòng nhân. Trước cảnh khốn khó của con người, đặc biệt là đồng bào, thì lòng nhân ấy thôi thúc chúng ta hành động. Ai đeo đuổi lý tưởng cứu dân, cứu nước mà không động lòng nhân cứu người thì rất đáng ngờ về thực tài và thực tâm – chưa làm việc nhỏ thì không thể làm việc lớn, và nói cứu thế mà không cứu người thì dễ dẫn đến tìng trạng nhân danh lý tưởng viển vông để hại người như đã diễn ra bao lần trong lịch sử nhân loại.

Nhưng không đủ

Trong hoàn cảnh Việt Nam, khổ nạn của đồng bào không chỉ là đơn lẻ mà phủ trùm cả xã hội. Nó mang tính hệ thống. Chế độ thối nát đẻ ra vấn nạn xã hội, như buôn người, bóc lột lao động, băng hoại đạo đức, xuống cấp giáo dục, chênh lệch giàu nghèo, hối lộ tham nhũng… Điều này ai cũng thấy. Điều ít ai để ý là bản chất độc tài của chế độ loại trừ yếu tố quyết định để đối phó hữu hiệu và giải quyết tận gốc các vấn nạn. Đó là yếu tố toàn dân nhập cuộc.

Hãy lấy nạn buôn bán trẻ em và phụ nữ làm ví dụ. Có người cho rằng sự nghèo khổ đẩy trẻ em phụ nữ vào con đường nô lệ tình dục, cho nên tạo cơ hội ăn học và nghề nghiệp là giải pháp. Nghe hữu lý, nhưng ở Việt Nam chỉ hữu lý nếu áp dụng nơi nơi. Còn như chỉ được áp dụng ở một làng, một xã thì dù thành công, thực trạng vẫn y nguyên: Kẻ buôn người sẽ buôn bán trẻ em và phụ nữ ở làng bên, xã bên – nghĩa là khổ nạn được đùn đẩy sang những nạn nhân khác. Đâu lại hoàn đó.

Đó là chưa kể, trước một vấn nạn mang tính hệ thống, nếu không trị tận gốc thì bệnh ngày càng thêm trầm trọng – giúp một người thì thêm trăm hay nghìn người khác vướng mắc. Chẳng khác nào bệnh nội thương mà cấm tuyệt bác sĩ chữa trị và chỉ được phép băng bó ngoài da.

Cách duy nhất là trị tận gốc, thực hiện ở trên toàn xã hội. Và điều này đòi hỏi toàn dân nhập cuộc, một điều đi ngược với bản chất độc tài của chế độ vì nó chính là đòi hỏi dân chủ.

Đấy là nửa kia của đồng tiền: Trong hoàn cảnh Việt Nam, làm từ thiện manh mún thì chỉ là nuôi con bệnh.

Trách nhiệm song hành

Làm từ thiện là bắt buộc nhưng đồng thời phải tranh đấu cho giải pháp căn bản trước vấn đề hệ thống. Lòng nhân thực sự đòi hỏi chúng ta phải làm cả hai: làm từ thiện để cứu một ít người và tranh đấu cho mọi người trong xã hội cũng có quyền làm từ thiện.

Bằng không thì sẽ có nhiều bất cập.

Chẳng hạn, có tổ chức ở hải ngoại được phép vào Việt Nam hoạt động chống buôn người hay xoá nạn thất học, dĩ nhiên chỉ ở một phạm vi địa dư rất hạn hẹp, trong khi các tổ chức tôn giáo có khả năng hoạt động trên địa bàn rộng lớn hay toàn quốc và với kinh phí thấp hơn nhiều thì lại bị cấm cản.

Hoặc, có một số tu sĩ được phép ra hải ngoại quyên góp cho việc xây cơ sở thờ phượng, nhưng những tu sĩ khác lại bị cấm xuất cảnh để vận động bảo vệ tài sản sẵn có của giáo hội đang bị cưỡng chiếm.

Có phải là chính trị?

Nói đến tranh đấu đòi quyền cho dân thì có người cho đó là làm chính trị nên tránh né. Chính trị là hoạt động để thay đổi, tham gia hay nắm chính quyền. Còn đòi cho toàn dân có quyền giải quyết các vấn nạn xã hội là việc chính đáng phải làm. Có người đề nghị dùng chữ “chính sự” cho những việc chính đáng phải làm, để phân biệt với “chính trị”.

Tóm lại, mỗi chúng ta trong hoàn cảnh đất nước hiện nay phải cùng lúc cáng đáng cả từ thiện và chính sự.

Bài Ca Vạn Vật

Bài Ca Vn Vt

Một tác giả nọ đã tưởng tượng ra một cuộc gặp gỡ giữa một nhà trí thức bi quan với Thánh Phanxicô thành Assisi.

Như thường lệ, mỗi lần gặp bất cứ ai, vị sứ giả của Hòa Bình thường cất lên bài ca vạn vật: “Chúc tụng Ðấng Tối cao, Thiên Chúa toàn năng vì anh Mặt Trời, vì chị Mặt Đất, vì anh Lửa, anh Gió, vì chị Chết”.

Nhà trí thức bi quan lắng nghe hết bài ca vạn vật của vị sứ giả Hòa Bình.  Nước mắt lăn dài trên gò má của ông.  Nhưng đây không phải là những giọt nước mắt của cảm động, mà là của căm tức thì đúng hơn.  Không còn kềm hãm được cơn giận của mình nữa, nhà trí thức bi quan trút bỏ trên Thánh Phanxicô tất cả những sôi sục của ông mà ông cũng cho là của không biết bao nhiêu kẻ vô tội khác trên trần gian.

Ông nói với Thánh nhân như sau:

“Hỡi người anh em kỳ diệu với cái nhìn đầy ánh sáng.  Người anh em ca tụng mặt trời.  Người anh em có bao giờ thấy người ta chết vì bị mặt trời thiêu đốt chưa?  Có bao giờ thấy cả một sa mạc nắng cháy khô cằn chưa?  Có thấy người ta chết vì hạn hán không?…

…Người anh em ca tụng nước, nhưng có bao giờ chững kiến cảnh lụt lội, màn trời chiếu đất chưa?

…Người anh em ca tụng Mẹ Ðất.  Hẳn người đã biết run sợ khi chứng kiến cảnh động đất: nhà cửa đổ nát, người người bị chôn vùi.

…Ca tụng lửa, vậy người anh em có bao giờ chứng kiến cảnh núi lửa thiêu rụi núi rừng cây cỏ và con người không?..

…Người anh em ca tụng anh gió.  Có lẽ chưa bao giờ người anh em ra giữa khơi để chứng kiến cảnh chới với của những người đi biển khi gặp cuồng phong? Hằng năm có biết bao nhiêu người chết vì gió bão? Hằng năm có biết bao nhiêu người chết vì thiên tai?”.

Nghe tất cả những lời tả oán ấy của người trí thức bi quan, vị sứ giả của Hòa Bình chỉ mỉm cười…

Ngài gật đầu trả lời:

“Phải, hỡi người anh em, ta nghe và biết tất cả những gì người anh em mới kể ra.  Ta biết rằng tất cả những điều thiện hảo đều có thể trở thành xấu do sự sử dụng không đúng của con người.  Ðó là chân lý mà ai trong chúng ta cũng đều có thể cảm nghiệm được trong cuộc sống mỗi ngày…

…Nhưng điều ta muốn nói: đó là ngay từ những điều xấu, Thiên Chúa có thể biến thành khởi nguồn của những điều tốt đẹp hơn.  Trong bài ca, ta đã nhắc đến Sự Chết và Tội Lỗi là hai điều xấu xa nhất.  Cái chết có thể trở thành nguồn ơn cứu thoát.  Tội lỗi cũng có thể trở thành khởi điểm của hồng ân. Thánh Phaolô há đã chẳng nói: “Nơi nào tội lỗi càng nhiều, nơi đó Thiên Chúa càng ban ơn dồi dào hơn”…

…Thiên Chúa không bao giờ thất vọng và đầu hàng trong việc thi ân cả.  Tất cả những gì Ta muốn nói lên trong Bài Ca Vạn Vật của Ta: đó là mời gọi anh em hãy cố gắng nhìn thấy sự thiện trong mọi sự.”

Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài

: KittyThiênKim & Nguyễn Kim Bằng gởi

Sự thật của cuộc triển lãm ‘cải cách ruộng đất’

Sự thật của cuộc triển lãm ‘cải cách ruộng đất’

An Nhiên, thông tín viên RFA
2014-09-10

09102014-exhi-land-reform.mp3

ccrd-3-622

Hình ảnh một vụ đấu tố trong thời cải cách ruộng đất.

File photo

Chính quyền Hà Nội quyết định cho phép triển lãm những hình ảnh, di vật trong thời gian Cải Cách Ruộng Đất, tuy nhiên cuộc triễn lãm có phản ánh đúng với những gì đã diễn ra trong lịch sử?

Không đầy đủ không trung thực

Vào sáng ngày 8/9/2014 tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia Hà Nội khai mạc cuộc triển lãm 150 hình ảnh và các di vật về “cải cách ruộng đất” trong khoảng thời gian từ 1946-1957 trong một không gian rộng khoảng 230m2. Sự kiện đang thu hút rất nhiều sự quan tâm của các nhà sử học và công chúng. Ông Nguyễn Văn Cường, Giám đốc Bảo tàng Lịch sử quốc gia cho biết chủ đề triển lãm tái hiện giai đoạn lịch sử mà Đảng Cộng sản Việt Nam giúp “người cày có ruộng, xóa bỏ giai cấp bốc lột ở nông thôn”, và thành tựu đó có phần đóng góp rất lớn vào trường kỳ kháng chiến giành độc lập tòan dân tộc Việt Nam  – trên bản tin thời sự của VTV vào tối 8/9:

“Chúng tôi muốn công chúng sẽ được tiếp cận một cách nó đa chiều và tòan diện về buổi thực hiện, việc thành tựu nó rất là lớn. Trong buổi triển lãm này nó thể hiện đó là cảnh “người cày có ruộng”, đó là xóa bỏ giai cấp bốc lột.

“Thế nhưng mà với 150 hiện vật được bày ở đó thì nó đưa lại cho tôi cái nhận xét không đúng như là những gì tôi đã đọc được hoặc là tôi đã nghe được trực tiếp từ những nạn nhân của cải cách ruộng đất

Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện”

Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện Phó giám đốc Thư viện Hán Nôm Việt Nam đang công tác tại Hà Nội, hy vọng cuộc triển lãm CCRĐ của chính quyền Hà Nội sẽ đem đến cho công chúng một cái nhìn tương đối tòan diện, tuy nhiên ông đã thất vọng sau khi đi xem và nghe ban tuyên huấn thông báo trên phương tiện truyền thông:

“Thế nhưng mà ở trong đó thấy những tư liệu hoặc là những hình ảnh khác nhau về cuộc cải cách ruộng đất này. Qua đấy để cho những người mà không sống được trong thời kỳ đó, sẽ tìm hiểu được cái cuộc CCRĐ này như thế nào. Thế nhưng mà với 150 hiện vật được bày ở đó thì nó đưa lại cho tôi cái nhận xét không đúng như là những gì tôi đã đọc được hoặc là tôi đã nghe được trực tiếp từ những nạn nhân của cải cách ruộng đất.”

Ông Diện cho biết tiếp không chỉ mình Ông nói rằng cuộc triển lãm CCRĐ này là không trung thật mà còn có nhiều người đã lên tiếng cũng viết trong quyển lưu bút được đặt tại phòng triển lãm, trong đó có người từng là người trong cuộc:

“Tôi đã ghi vào sổ ghi cảm tưởng là tôi đã đến xem triển lãm CCRĐ,  các hiện vật không toát lên sự không trung thật về CCRĐ, cùng ký tên, cùng ở trong cái trang lưu bút đó thì có một người là Tiến sĩ sử học Việt Trần Hoàng cũng ghi trong là cảm nhận sau khi xem triển lãm CCRĐ đây là vấn đề khá nhạy cảm, có triển lãm còn hơn là không có. Tuy nhiên với tư cách là người trong cuộc, tôi không thấy triển lãm đáp ứng được yêu cầu mong mỏi của công chúng từ  khá lâu.”

” Tôi thấy thiếu một điều mà tôi quan tâm nhất đó là phần đấu tố địa chủ, con số bao nhiêu địa chủ bị bắt oan không thấy, tôi cũng muốn xem cái cảnh mà nông dân đấu tố địa chủ mang họ ra tòa án dân nhân đấu tố như thế nào? Trói tay, trói chân sỉ nhục họ ra làm sao? Thì tôi không thấy?

Blogger Nguyễn Tường Thụy”

Sự thật của việc cải cách ruộng đất vẫn được che dấu

Blogger Nguyễn Tường Thụy là người có mặt trong ngày khai mạc triển lãm CCRĐ cũng muốn tìm hiểu sự thật thông tin – hiện vật trong việc CCRĐ, nhưng rồi Ông Thụy cũng thất vọng, cho rằng buổi triển lãm chỉ mang tính thành tích của chính quyền, không nói lên sự thật:

“Hình ảnh hiện vật ít, có thể họ đã chọn lọc, tôi thấy thiếu một điều mà tôi quan tâm nhất đó là phần đấu tố địa chủ, con số bao nhiêu địa chủ bị bắt oan không thấy, tôi cũng muốn xem cái cảnh mà nông dân đấu tố địa chủ mang họ ra tòa án dân nhân đấu tố như thế nào? Trói tay, trói chân sỉ nhục họ ra làm sao? Thì tôi không thấy?”

Ông Thụy tiếp lời:

“Còn ngoài ra trưng bày những cảnh địa chủ, còn nông dân ăn mặc rách rưới, quần áo nông dân thế này…quần áo của địa chủ thế kia, và hình ảnh nông dân hồ hởi theo đảng để ủng hộ CCRĐ thì những hình ảnh ấy rất là nhiều, và cũng đưa ra những hình ảnh trước và sau CCRĐ nông dân được này, nọ thì nó được nâng lên. Nhưng về tòan hoàn cảnh  không được đều, phần nào muốn nhấn mạnh thì nhiều hiện vật hơn, phần nào họ không muốn nhấn mạnh thì ít hiện vật hơn.”

Trong những hiện vật triển lãm cũng nói đến sự sai lầm của Đảng cộng sản trong việc CCRĐ, tuy nhiên những hình ảnh – hiện vật – tài liệu cụ thể thì công chúng không được biết đến một cách rõ ràng, Ông Nguyễn Tường Thùy cho biết:

” Trong cuộc triển lãm này không thấy những hình ảnh đó, nó rất là phiến diện đáng lẽ ra là nói hết được tòan cảnh của việc CCRĐ, nhưng mà khi đến xem cái cuộc triển lãm đó thì chỉ thấy được hình ảnh tưng bừng của nông dân được chia rượu, và là thấy được đời sống xa hoa của địa chủ

Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện”

“Khi mà nói về sửa sai thì cũng trưng bày một số cái văn bản, nói về vấn đề sửa sai một vài hình ảnh, vì dụ như trong hội nghị đại khái là, hội nghị nói về sai lầm trong CCRĐ xảy ra trong năm 1956 hay 1957, thì có một cái ảnh ông Hồ khóc mà khi nhận sai lầm thì cũng không có được trưng ra, bức ảnh đó tôi thấy rất là ấn tượng.”

Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện rất bức xúc khi mà cuộc triển lãm mang tính lịch sử, nhưng không được trung thật, những sai lầm – tội ác do chính quyền gây ra thời đó không được đưa ra, những việc phá tan chùa, đình, miếu, làng, xã…làm phá vỡ những truyền thống đạo lý – văn hóa tốt đẹp của con người Việt Nam qua ngàn năm:

“Trong cuộc triển lãm này không thấy những hình ảnh đó, nó rất là phiến diện đáng lẽ ra là nói hết được tòan cảnh của việc CCRĐ, nhưng mà khi đến xem cái cuộc triển lãm đó thì chỉ thấy được hình ảnh tưng bừng của nông dân được chia rượu, và là thấy được đời sống xa hoa của địa chủ và tầng lớp trên…”

Ông Diện tiếp lời với chúng tôi:

“Cải cách ruộng đất là do người Trung Quốc, các chuyên gia Trung Quốc chỉ đạo và cố vấn đã được thực hiện một cách rất là rầm rộ trong miền Bắc Việt Nam và đã gây ra là biết bao đau thương. CCRĐ là nó đóng thẳng trực tiếp, phá tan kết cấu làng xã Việt Nam, nó tàn phá luân lý đạo đức lúc bấy giờ là cha tố con, con tố cha, vợ tố chồng, anh em tố nhau…Nó tàn phá cái đạo lý luân lý vô cùng, và những người là nạn nhân của thời đó họ nghĩ lại rất thấy kinh hoàng.”

Theo sự quan sát của Ông Nguyễn Tường Thùy, cuộc triển lãm hiện tại Hà Nội, chính quyền Việt Nam muốn hình ảnh – thông tin về việc CCRĐ được khắc phục tốt đẹp trong con mắt của người dân, dẹp những dư luận không tốt về cải cách ruộng đất mà lâu nay công luận, mọi người vẫn thường nhắc đến.

iBook Cải Cách Ruộng Đất:

http://www.rfa.org/vietnamese/people_stories/land_reform-12022013161432.html

Chuyên đề Cải Cách Ruộng Đất:

http://www.rfa.org/vietnamese/SpecialTopic/landreform

Lực lượng vũ trang cần trung thành với ai?

Lực lượng vũ trang cần trung thành với ai?

Anh Vũ, thông tín viên RFA
2014-09-09

RFA

000_Hkg380740.jpg

lượng vũ trang Việt Nam

AFP photo

Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Khẩu hiệu “Trung với Nước – Hiếu với Dân” của ông Hồ Chí Minh liên tục được dùng để giáo dục các chiến sĩ trong lực lượng võ trang trong hàng chục năm qua. Song đến bây giờ, khẩu hiệu đó bị sửa thành “Trung với Đảng – Hiếu với Dân”.

Lực lượng vũ trang (LLVT) là lực lượng chiến đấu của nhà nước có nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, an ninh, quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội.

Quân đội có nhiệm vụ bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền của quốc gia, chống ngoại xâm. Công an, cảnh sát có nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự và bảo vệ pháp luật.

Ông Hồ Chí Minh đã tặng cho Quân đội Nhân dân Việt nam khẩu hiệu truyền thống “Quân đội ta trung với nước, hiếu với dân. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành. Khó khăn nào cũng vượt qua. Kẻ thù nào cũng đánh thắng” và cũng tặng cho lực lượng Công An Nhân dân khẩu hiệu “Công an nhân dân vì nước quên thân, vì dân phục vụ”.

Gần đây, 20 tướng lĩnh cao cấp của các LLVT đã có thư kiến nghị với Lãnh đạo Nhà nước, trong đó nêu lên yêu cầu: “Lực lượng vũ trang mang tên Nhân dân phải luôn luôn vì Nhân dân, nên không được huy động Quân đội và Công an vào bất cứ việc gì có hại cho Nhân dân. Vì vậy, để bảo vệ uy tín của Quân đội là lực lượng có nhiệm vụ hiến định “quốc phòng”, tức là bảo vệ Tổ quốc trước ngoại xâm, cần chấm dứt ngay việc huy động Quân đội vào những sự vụ mang tính đối kháng với Nhân dân, như giải tỏa đất đai, ngăn chặn các cuộc biểu tình yêu nước ôn hòa…”

Bình luận về vấn đề này, Nhà báo Võ Văn Tạo, một cựu học viên trường Sĩ quan Lục quân Sơn Tây (Trường Võ Bị Trần Quốc Tuấn) cho biết: theo lịch sử của trường, ngày 26.5.1946, ông Hồ Chí Minh đã trao tặng lá cờ đỏ thêu sáu chữ vàng “Trung với Nước, Hiếu với Dân” nhân dịp đến dự lễ khai giảng khóa đầu tiên của trường tại Sơn Tây.

Từ Nha trang, Nhà báo Võ Văn Tạo nói:

“Lúc học chính trị trong LLVT chúng tôi thuộc câu đầu tiên nằm lòng là “Quân đội ta từ Nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”, bên cạnh đó còn có câu “Quân lệnh như sơn”. Chúng tôi thảo luận và trả lời Chính trị viên nói rằng “Chúng ta từ nhân dân mà ra, do đó không bao giờ được phép bắn vào dân”. Nói như thế để thấy việc sử dụng quân đội đàn áp hay nổ sung vào dân là hoàn toàn trái với bản chất ban đầu của Quân đội”

Song những năm gần đây, quan điểm về LLVT của Đảng CSVN đã thay đổi, khác hẳn với quan điểm của ông Hồ Chí Minh. Cụ thể là khẩu hiệu đó đã bị biến thành “Trung với Đảng, hiếu với dân”  và “Công An Nhân dân còn Đảng còn mình”

Bình luận về sự thay đổi quan điểm này của Đảng CSVN, Thiếu tá Nông Hoàng Thắng ở Cục chính trị Quân khu 1 cho rằng: nếu xem xét kỹ về lịch sử, người cẩn trọng sẽ thấy lời căn dặn “Trung với Nước, Hiếu với Dân” của ông Hồ Chí Minh ra đời vào thời điểm tháng 5-1946. Khi ấy tình hình đất nước rất phức tạp, khiến ông Hồ Chí Minh phải nói tránh việc trung với Đảng thành ra trung với nước.

Thiếu tá Nông Hoàng Thắng nói:

“Trước vô vàn khó khăn và để tập hợp khối đoàn kết toàn dân, thành lập Chính phủ liên hiệp kháng chiến với sự có mặt của đại diện nhiều thành phần, đảng phái, hơn nữa về danh nghĩa Ðảng ta đã tuyên bố tự giải tán; nhưng thực tế là Ðảng rút vào hoạt động bí mật. Ðây là lý do để Bác Hồ không nhắc tới Ðảng trong lời dặn đó. Theo tôi việc hiện nay Đảng sửa các khẩu hiệu là trung với Đảng là việc cần thiết và phù hợp với nhiệm vụ chính trị của giai đoạn cách mạng hiện nay.”

Trả lời thắc mắc cho rằng, trước kia cùng nhạc hiệu chương trình phát thanh Quân đội Nhân dân phát trên đài TNVN, vẫn được phát thanh viên đọc: “Quân đội ta trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Song bây giờ đã được đổi thành “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.”.

Nhà báo Võ Văn Tạo nói:

“Đúng, hồi đó là phát thanh viên luôn đọc là “Quân đội ta trung với nước, hiếu với dân”… và câu đó là lấy từ trong lá cờ của Chủ tịch Hồ Chí Minh – Hiệu trưởng danh dự đầu tiên của trường đã tặng cho trường Võ bị Trần Quốc Tuấn. Theo tôi đây là sự phản bội, sự lợi dụng làm chệnh mục tiêu của cách mạng ban đầu đi, để phục vụ cho lợi ích của cá nhân. Người ta lợi dụng Đảng, các chóp bu lợi ích lợi dụng 3-4 triệu Đảng viên làm bình phong che chắn cho quyền lợi của họ thôi”

Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, cho rằng LLVT phải trung thành với Tổ quốc VN chứ không thể trung thành với một Đảng, điều này đi ngược lại với tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo ông trước đây Hồ Chí Minh đã chỉ rõ quân đội phải trung với nước, hiếu với dân.

Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh nói:

“Thế thì vứt Nước đi đâu mà bảo phải trung thành với Đảng CS là thế nào? Tôi là Đảng viên tôi cũng không tán thành ý kiến đó, bởi vì Nước còn thì Đảng còn, Nước mất thì Đảng không còn. Do vậy phải trung thành với Tổ quốc VN tôi cho là vừa chính xác, vừa đúng với  tư tưởng Hồ Chí Minh. Gọi quân đội là quân đội nhân dân, từ nhân dân mà ra. Cho nên phải trung với nước, hiếu với dân là đúng rồi. Chứ không ai nói là quân đội đảng Cộng sản.”

Hiến pháp Việt Nam Sửa đổi năm 2013 mới nhất cũng ghi rõ “Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế.”

Nhà báo Võ Văn Tạo cho biết suy nghĩ của mình:

“Theo tôi đấy là sự láo xược, sự bậy bạ và sự lừa dối khi cho rằng đây là ý kiến của toàn dân. Đó còn là chưa kể đến họ đã tuyên bố thu thập được 27 triệu ý kiến, thử hỏi họ có bộ máy nào để đọc 27 triệu ý kiến mà họ tổng hợp và trong thời gian bao nhiêu năm. Cái đó là điều hết sức bậy bạ, dân không muốn như thế nhưng họ bảo dân muốn. Tôi cho đó là cuộc bức cung toàn dân ”

Đảng phái chỉ là tập hợp của những người có chung một lý tưởng, không đại diện cho lợi ích của tổ quốc và tuyệt đại đa số dân chúng. Lực lượng vũ trang không phải trung thành với bất kỳ đảng phái chính trị nào, mà trung với nước, hiếu với dân là bổn phận thiêng liêng, một trách nhiệm nặng nề, nhưng cũng là một vinh dự của người chiến sĩ trong lực lượng vũ trang.

May mà còn nước Mỹ để đến

May mà còn nước Mỹ để đến


Đào Như

29.08.2014

Trung tuần tháng 8 vừa rồi, dư luận trong nước xôn xao về việc ông Trần Ngọc Phi Long, 31 tuổi, Phó phòng Hợp tác Quốc tế của sở Ngoại vụ Thành phố Cần Thơ, sau khi tham dự khóa huấn luyên ngắn hạn tại Canada từ 30/6/2014 đã tìm cách trốn sang Mỹ và sẽ ở lại đây để tiếp tục học xong cấp tiến sĩ. Từ Mỹ, ông Long đã viết thư về tổ chức của ông trong nước xin nghỉ viêc vì lý do gia cảnh và sức khỏe. Trong khi đó, theo một nguồn tin khác, bà Tạ Thị Dậu, mẹ ông Long, cho hay ông Long gọi điện thoại từ Mỹ về và nói là “con sẽ ở lại Mỹ để học tiến sĩ vì nhà mình nghèo nên khó chứng minh tài chánh, không được, nên con ở lại Mỹ luôn.” Cũng theo Bà Dậu, hiện ông Long đang theo học lớp chuẩn hóa một số chứng chỉ để năm tới được làm nghiên cứu sinh tiến sĩ. Như thế có nghĩa là ông Long được chính thức thu nhận thường trú tại Mỹ.

Được biết, đây không phải là lần đầu tiên ông Long được chính quyền Cần Thơ ưu tiên cho đi tham dự  khóa đào tạo cán bộ ngành. Nhờ giỏi ngoại ngữ, năm 2007 ông Long đã từng được Sở Ngoại vụ Cần Thơ gửi đi tham dự khóa đào tạo cán bộ quan hệ quốc tế tại Anh, với chi phí tổng cộng $15,000 USD. Theo ông Trần  Phước Sơn, Phó Giám đốc Sở Ngoại vụ Cần thơ, ông Long là một cán bộ có nhiều triển vọng.

Điều lý thú ở đây là nhiều công dân ưu tú của các nước xã hội chủ nghĩa đã bỏ nước ra đi, và vùng đất lý tưởng mà họ đến luôn luôn là nước Mỹ. Từ thế kỷ trước là nhà chí sĩ yêu nước Jose Marti của Cuba, Bác sĩ Lý Chí Tuy của Trung Quốc, nhà thơ Nguyễn Chí Thiện, và đến hôm nay, Cù Huy Hà Vũ, Trần Ngọc Phi Long… và sẽ còn những ai nữa. Theo tiết lộ của báo mạng Nguoi-Viet.com thì “gần đây nhất, đã có hai cán bộ thuộc Bộ Công Thương Việt Nam đã tìm cách trốn ở lại Mỹ  sau nhiệm kỳ công tác.Hai cán bộ này là bà NHG, nguyên Ủy viên Thương mại  tại Mỹ, và ông BNL, chuyên viên Vụ Chính sách Đa biên…”

Nguyên do chung cũng chỉ vì thế giới xã hội chủ nghĩa đã lỗi thời, không còn phù hợp với xã hội toàn cầu hóa hôm nay, không phát huy được tư duy và tài năng con người vì không biết tôn trọng quyền lợi con người và tự do cá nhân, hạt nhân để xây dựng xã hội tiến bộ tốt đẹp hơn. Những người bỏ nước xâ hội chủ nghĩa để đến Mỹ đều có mẫu số chúng là giương cao ngọn cờ nhân quyền, và kêu gọi tự do, dân chủ cho đất nước họ.

Phải chăng, Hợp Chủng Quốc vẫn là vùng đất hứa của nhân loại tiến bộ? Ở Mỹ, tự do, dân chủ dã trở thành lý tưởng từ lúc khai thiên lập địa của đất nước này. Nữ thần Tự do là biểu tượng của một nước Mỹ tự do, dân chủ hôm nay. Đó là truyền thống đời đời của nước Mỹ. Con tàu Mayflower cùng với những con tàu tỵ nạn sẽ tiếp tục chuyển tải đến nước Mỹ những con người yêu chuộng tư do, dân chủ đến đây để học hỏi, phát triển tư duy, xây dựng sự nghiệp, đồng thời cống hiến, bồi đắp Hợp Chủng Quốc ngày một tươi sáng vẻ vang hơn. Nước Mỹ, bức tranh hài hòa với muộn vàn màu sắc, là bản hợp xướng tuyệt vời của muôn vàn thanh âm khác nhau, là diểm đến lý tưởng cho nhân loại tiến bộ hôm nay.

Việt Nam trong mắt Lý Quang Diệu

Việt Nam trong mắt Lý Quang Diệu


x

Cao Huy Huân

09.09.2014

Trong thế kỷ 21, có những điều mà trong thế kỷ trước không ai nghĩ rằng sẽ có nhiều thay đổi đến vậy. Giờ phút này, một công dân trẻ như tôi ngồi đây, viết những dòng chữ này thì đất nước Việt Nam, nơi tôi đang sống, làm tôi thất vọng về trình độ phát triển. Sáng nay tôi được đọc một bản nói rằng năng suất lao động của người Việt chỉ bằng 1/5 của người Malaysia, 2/5 của người Thái Lan và tệ hơn, chỉ bằng 1/15 của người Singapore.

Singapore, một đất nước nhỏ bé về diện tích, đang ám ảnh những công dân Việt Nam ở thế kỷ 21 này. Những khu dân cư, những trung tâm thương mại, những thành phố mới được xây dựng… tất cả đều được “ăn theo” mô hình và kỹ thuật của Singapore. Nhưng tại sao lại là Singapore? Chẳng phải những mô hình, những kỹ thuật đó Singapore cũng đã học tập từ những quốc gia phương Tây tiên tiến hay sao? Tại sao từ một làng chài kém phát triển trên bán đảo Malay, Singapore đã phát triển thành một quốc gia đứng thứ 2 ở châu Á về mức sống? Câu trả lời có thể dẫn đến nhiều nguyên nhân, nhưng căn nguyên nhất vẫn là yếu tố con người.

Lý Quang Diệu, nhân vật đã thay đổi và biến làng chài nhỏ bị dịch bệnh triền miên trở thành đất nước có nền kinh tế phát triển hàng đầu của châu Á. Singapore là nơi mà những kiến trúc hiện đại cùng chung sống với thiên nhiên chan hòa, nơi cả thế giới ngưỡng mộ về chuẩn mực môi trường xanh sạch, nơi có làn sóng di dân ngược từ châu Âu sang châu Á. Nhưng trong những ngày đầu lập nước vào thập niên 60 thế kỉ trước, Lý Quang Diệu, thủ tướng đầu tiên của Singapore, đã từng nói “hy vọng là một lúc nào đó Singapore sẽ phát triển giống như Sài Gòn”. Thật  đáng kinh ngạc khi có một thời chính nhà lãnh đạo của Singapore đã mơ tưởng và bị ám ảnh về sự phát triển của Sài Gòn.

Còn bây giờ thì sao? Sau hơn 30 năm, chính người Việt Nam đang thèm thuồng được như Singapore  ngày nay. Sau khi Mỹ rút khỏi miền nam Việt Nam, chính Lý Quang Diệu, người từng có tuổi thơ sinh sống tại Biên Hòa, đã nắm ngay lấy cơ hội đó để biến thời cuộc thành lợi ích cho Singapore. Sau năm 1975, tất nhiên Mỹ và phương Tây đóng cửa với Việt Nam, mọi giao thương với châu Á đều dành cho đồng minh của họ. Singapore được Lý Quang Diệu phát triển thành cảng trung chuyển đường biển lớn nhất tại khu vực. Và đúng theo quy luật về thương mại – kinh tế, Singapore được thừa hưởng những đặc quyền của một cảng biển lớn, một cửa ngõ hướng vào Đông Nam Á và cả châu Á.

Lý Quang Diệu cho rằng, cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Mỹ là tiền đề quan trọng cho sự phát triển của những nước phi Cộng sản ở châu Á. Rõ ràng là trước khi tuyên bố như thế, Lý Quang Diệu đã nhanh chóng nắm lấy cái “tiền đề quan trọng” đó để biến Singapore từ một quốc gia non trẻ kém phát triển thành một đất nước giàu có. Lý Quang Diệu nhận định rằng, sau khi Mỹ rút khỏi miền nam Việt Nam, lập tức những đồng minh của Mỹ ở châu Á tranh thủ thời cơ để trở thành 4 con rồng châu Á, và sau này có thêm sự xuất hiện của 4 con hổ Đông Nam Á. Bốn con rồng được nói đến là Singapore, Nam Triều Tiên, Hong Kong và Đài Loan. Bốn con hổ là Malaysia, Thái Lan, Philippines và Indonesia. Vậy Việt Nam đã biến đi đâu trong bản đồ khu vực? Và lý do gì Việt Nam lại tụt hậu một cách nhanh chóng như vậy?

Lý Quang Diệu từng nói rằng lẽ ra vị trí số một ở châu Á phải là của Việt Nam. Theo ông, vị trí địa lý chiến lược, tài nguyên thiên nhiên phong phú là hai yếu tố hàng đầu có thể đưa Việt Nam trở thành người khổng lồ ở châu Á. Ông cho rằng, đất nước Singapore nhỏ bé với diện tích và dân số chỉ xấp xỉ Sài Gòn, hoàn toàn không có tài nguyên thiên nhiên, chỉ có một ít đất để xây dựng và ngay cả nước sinh hoạt cũng phải nhập từ nước bạn Malaysia, nhưng Singapore đã phát triển trở thành đất nước có GDP cao thứ hai ở châu Á chỉ sau Nhật Bản. Lại nói đến Nhật Bản, Lý Quang Diệu cũng chỉ ra những bất lợi của quốc gia này, đó là một quốc gia bại trận sau Chiến tranh thế giới thứ hai, không giàu tài nguyên, quanh năm động đất và sóng thần,  nhưng chỉ vài  năm sau khi chiến tranh kết thúc, Nhật Bản là người khổng lồ châu Á. Lý Quang Diệu cho rằng, sự thành công của một quốc gia bao gồm ba yếu tố: điều kiện tự nhiên (vị trí chiến lược và tài nguyên thiên nhiên), con người và thời cơ. Trong đó, để có yếu tố thời cơ, thì yếu tố con người phải vững và nhanh nhạy. Lý Quang Diệu đánh giá rất cao điều kiện tự nhiên của Việt Nam, nhưng ông không đánh giá cao yếu tố con người trong sự phát triển chậm chạp này. Tôi hay đọc các bài viết trong nước ca ngợi sự thông minh, tính cần cù, chịu khó của người Việt. Xin lỗi, tôi không thấy được sự thông minh và cần cù đó. Xin nhắc lại, năng suất làm việc của người Việt Nam chỉ bằng 1/15 của người Singapore, tức là một người Singapore làm việc bằng 15 người Việt Nam. Dân số Singapore là 5 triệu dân, dân số Việt Nam là hơn 90 triệu dân. Vậy tức là năng suất làm việc của 5 triệu dân Singapore chỉ mới bằng 75 triệu dân Việt Nam, thế nhưng GDP của Singapore là gần 300 tỷ USD, trong khi GDP của Việt Nam là khoảng 170 tỷ USD. Đó chỉ là một so sánh chung chung, chưa tính đến dân số ở độ tuổi lao động của hai quốc gia. Một khi yếu tố con người đã yếu kém như thế thì yếu tố cơ hội cũng sẽ chẳng có nhiều.

Lý Quang Diệu tiếc vì Việt Nam không biết trọng dụng người tài, ông nói rằng người tài ở Việt Nam đã định cư ở nước ngoài hết rồi. Tôi đồng tình với quan điểm này của Lý Quang Diệu. Tôi thường nghe nói về cậu bé thần đồng Đỗ Nhật Nam và cũng thường xem các video thi hùng biện tiếng Anh của em. Báo chí và truyền thông Việt Nam cũng hay đề cập đến em, nhưng tuyệt nhiên không thấy có một động thái nào của chính phủ Việt Nam dành cho Đỗ Nhật Nam. Phải chăng đối với chính phủ Việt Nam, cậu bé ấy không phải là nhân tài cần đầu tư và phát triển? Chưa kể là trong một lần phát biểu về truyện tranh, cậu bé ấy đã bị những người lớn Việt Nam công kích, chỉ vì em không thích đọc truyện tranh mà chỉ thích đọc sách khoa học. Thật trớ trêu. Đỗ Nhật Nam chỉ là một trường hợp thần đồng được báo chí ưu ái, nhưng cũng bị chính phủ thờ ơ. Vậy còn những thần đồng thầm lặng khác ở cái đất nước hơn 90 triệu dân này thì sẽ nhận được hỗ trợ gì từ chính phủ? Trong mọi sự phát triển, yếu tố con người luôn tối quan trọng. Thật đáng tiếc.

Nói thế nào đi chăng nữa, Lý Quang Diệu cũng chỉ là người ngoài, không phải người Việt Nam. Thế nhưng những nhận định khách quan của ông cũng đáng để suy ngẫm về sự phát triển của một quốc gia nhiều thuận lợi như Việt Nam. Tôi thường thấy Việt Nam rất tự hào về lực lượng lao động trẻ với giá nhân công rẻ của minh. Tôi cảm thấy đó là một điều đáng xấu hổ. Giá nhân công rẻ chẳng qua là do trình độ, tay nghề kém nên chẳng thể đòi hòi được trả công cao. Gần đây, quốc gia láng giềng với GDP thấp hơn Việt Nam là Campuchia cũng đã tự chế tạo được xe hơi. Ngược lại, khi hãng điện tử Samsung đưa ra danh sách những mặt hàng có thể đặt gia công với các doanh nghiệp Việt Nam thì mới vỡ lẽ là Việt Nam chưa thể sản xuất nổi cái sạc pin, usb và ngay cả vỏ nhựa cho điện thoại di động. Tất nhiên, Việt Nam đã đánh mất cơ hội gia công cho hãng này. Việt Nam còn sẽ đánh mất nhiều cơ hội như thế cả về quy mô và số lượng nếu cứ tiếp tục tự hào với những cái thuộc về quá khứ và không nhận thức được một cách thấu đáo và nghiêm túc rằng mình đang ở đâu trên bản đồ khu vực và thế giới. Lý Quang Diệu nói phải mất 20 năm nữa Việt Nam mới bằng Malaysia, vậy thì 20 năm nữa Malaysia sẽ phát triển ra sao và mãi mãi người Việt Nam sẽ bị ám ảnh bởi sự thua kém của mình hay sao?

Putin và bài học cho Việt Nam

Putin và bài học cho Việt Nam

Vương Trí Dũng

Không có nước Nga, chỉ có người Nga

Chúng ta không bình luận đến vấn đề đúng sai. Điều đó thuộc vào góc nhìn của từng người. Nhưng thông điệp đá tảng mà Putin gửi đến cho tất cả rất rõ ràng, không dấu giếm, và không hai nghĩa: Biên giới nước Nga mở rộng đến nơi nào có người Nga sinh sống.

Lời nói và hành động của Putin đã làm cho NATO phải thay đổi. Chẳng thế mà NATO đã phải vội vã nhóm họp để có những biện pháp thích nghi cần thiết. Riêng tổng thống Obama còn phải vội vã bay đến Estonia để trấn an các đồng minh Estonia, Latvia và Lituanie, là các quốc gia thuộc Liên Xô trước đây có nhiều người Nga sinh sống.

Bài học cho Việt Nam

Yêu hay ghét Putin, bênh vực hay phê phán Putin, đó không phải là chủ đề và đó không phải là quan trọng. Điều quan trọng là từ thông điệp và hành động của Putin, nhất thiết phải rút ra những bài học cho Việt Nam. Có thể cô đọng ở mấy điểm chính sau đây.

1. Dân tộc là tối thượng

Putin nói rằng: “Không có nước Nga, chỉ có người Nga”. Còn Obama thì tuyên bố: “ Chúng ta là khác biệt”. Phát biểu của hai người đứng đầu hai cường quốc thế giới đương thời đã nói lên tất cả.

Nhưng Mao Trạch Đông còn vượt xa cả Putin lẫn Obama về dân tộc chủ nghĩa. Từ tháng 10 – 1959 tại hội nghị Quân ủy Trung ương, Mao Trạch Đông đã nói: “Chúng ta phải chinh phục trái đất. Đó là mục tiêu của chúng ta”. Nước Mỹ chỉ mới hơn hai trăm năm. Nước Nga chưa đủ mười thế kỷ. Còn dân tộc chủ nghĩa của đế chế Trung Hoa thì đã tồn tại chí ít cũng hơn bốn ngàn năm.

Không có tình đồng chí đồng giai cấp đồng minh nào bằng tình máu mủ. Tình máu mủ đồng bào là sản phẩm của tạo hóa. Bởi vậy dân tộc là tối thượng.

2. Không để tồn tại các phố xá người Hoa

Nước Nga chỉ có một Crưm, một Donbas. Vì người Nga sống ở Crưm mà Putin đã lấy gọn Crưm về Nga. Vì người Nga sống ở Donbas mà Putin đã tách Donbas thành nước Nga mới. Chúng ta không đề cập đến lý do, không bàn đến đúng sai. Chúng ta chỉ nói đến sự kiện thực tế tồn tại.

Nhưng China Town thì hằng hà sa số. “Nạn Hoa kiều” đã là một trong những cớ để Đặng Tiểu Bình mang 60 vạn quân tiến đánh Việt Nam ngày 17-2-1979. Điều đáng sợ nhất là chính quyền Việt Nam hiện nay đang tạo nên cơ hội thuận lợi chưa bao giờ có cho sự phát triển các phố xá người Hoa tại Việt Nam. Dân tộc Nga và Ucraina có quan hệ cả ngàn năm chung sống, nhưng ở Ucraina người Nga chỉ sinh sống chủ yếu ở phía Đông Ucraina, còn phía Tây là người Ucraina. Còn ở Việt Nam hiện nay, người Hoa đã có mặt từ Bắc chí Nam, từ Đông sang Tây, khắp cả hang cùng ngõ hẻm.

Một “Nạn Hoa kiều” có thể tạo dựng ra bất cứ lúc nào. Lúc đó không như Crưm, không như Donbas ở Ucraina, khắp mọi nơi trên đất Việt Nam đều là Crưm, đều là Donbas. Cũng không cần đến “Nạn Hoa kiều”, khi Trung Quốc dấy binh thì khắp mọi nơi trên đất Việt Nam đều có nội ứng người Hoa.

Một số người cầm quyền ở trung ương và địa phương ngây thơ tin rằng, khi hết hạn hợp đồng là đưa được lao động Trung Quốc về nước. Họ không biết rằng người Trung Quốc đã kịp lấy vợ khi vừa đặt chân đến đất Việt Nam. Họ cũng không ngờ rằng nhà cầm quyền Trung Quốc bí mật cho tiền những kẻ bất lương tội phạm ra nước ngoài sinh sống, một kiểu lưu đày trá hình trong thời đại tích hợp toàn cầu.

Hãy chặn đứng ngay việc đưa người Hoa sang Việt Nam buôn bán làm việc. Đừng mang họa về cho dân tộc.

3. Các cường quốc sẽ tránh đối đầu

Ngày 29-8-2014 trong cuộc gặp mặt với thanh niên ở hồ Seliger Putin nói: “ Nước Nga sẽ không can dự vào các đụng độ lớn… Và ơn Chúa, chắc cũng không có ai có ý định phát động một cuộc xung đột lớn với Nga. Nga là cường quốc hạt nhân hàng đầu. Đây là sự thật”.

Việc Mỹ và NATO không ủng hộ mạnh Ucraina trong vấn đề Đông Ucraina cũng chính là tránh đối đầu trực diện với Nga. Và có thể nhận thấy ngay rằng NATO sẽ không mặn mà với việc kết nạp Ucraina là thành viên NATO. Nga sẽ làm mọi biện pháp có thể để ngăn chặn điều này. Và như thế sẽ dẫn đến sự đối đầu trực diện giữa Nga và NATO. Kết quả là Ucraina sẽ hoàn toàn bị chia rẽ. NATO chỉ có thể giúp đỡ Ucraina bằng tiền bạc, vũ khí, phương tiện kỹ thuật, và chuyên gia huấn luyện; nhưng sẽ không có quân đội NATO đến Ucraina để tham chiến chống lại Nga. Thảm họa hạt nhân và sức mạnh của vũ khí hủy diệt là lý do căn bản buộc các cường quốc phải né tránh đối đầu.

Các cường quốc cũng sẽ không vì các quốc gia khác mà đi đến đối đầu. Không chỉ không phát động xung đột, ngay cả khi bị ràng buộc bởi một cam kết liên minh quân sự, các cường quốc cũng phải tìm cách không cho leo thang, giảm dần căng thẳng để thoát ra khỏi hoàn cảnh đụng độ. Khi xẩy ra chiến tranh, các nước nhỏ sẽ phải tự chiến đấu bằng chính con người của nước mình.

Bởi vậy ngoài liên minh ra, nhất thiết phải xây dựng được một Việt Nam giàu mạnh tự cường.

4. Việt Nam phải đối mặt với đế quốc Đại Hán còn đáng sợ nhiều lần hơn các đế chế khác

Sự phản ứng của nước Nga cũng là điều tự nhiên. NATO đã tiến sát đến sườn nước Nga. Không chỉ thế, phương Tây bắt đầu chọc vào da thịt người Nga khi động đến Ucraina, một trong ba bộ tộc Slavo gần gũi nhất: Nga, Bạch Nga và Ucraina.

Nước Nga quẫy mạnh vì bị đâm vào sườn. Còn đế chế Đại Hán từ mấy ngàn năm luôn mang gươm đi xâm chiếm nước khác mà không cần bất cứ lý do nào. Số phận đã buộc Việt Nam phải sống cạnh một đế chế ngang ngược đáng sợ nhất trong lịch sự phát triển nhân loại.

5. Hãy hành động cương quyết vì quyền lợi dân tộc

Thống kê xã hội cho thấy Putin đang có uy tín cao trong nhân dân Nga. Tại sao vậy? Đơn giản là Putin đang làm sống lại một đế chế Nga. Điều mà nhiều người Nga rất mong mỏi.

Nhiều người Hoa cũng sẽ rất phấn khích khi lãnh đạo Trung Quốc tiến hành một chính sách bá quyền. Nếu lãnh đạo Trung Quốc làm cho đế chế Đại Hán bành trướng lớn mạnh, thì họ sẽ được nhiều người Hoa ủng hộ, bất chấp các biện pháp mà giới lãnh đạo Trung Quốc tiến hành.

Bởi vậy, bất cứ lúc nào khi liên quan đến dân tộc thì phải suy nghĩ kỹ nhưng lại phải hành động kịp thời và rất cương quyết, không do dự, không nhu nhược, không đớn hèn. Sức mạnh dân tộc sẽ truyền vào người ra quyết định, hợp thành một sức mạnh nối dài vô địch.

Putin thì rất cương quyết rất tiến công. Còn lãnh đạo Việt Nam thì ngược lại. Vai trò lãnh tụ rất quan trọng cho sự phát triển của một quốc gia. Chừng nào Việt Nam chưa có phương thức dân chủ thực sự để chọn ra được những người lãnh đạo xứng đáng thì chừng đó số phận dân tộc còn long đong.

Bài học từ Putin dễ thấy nhưng lại khó học.

V.T.D.

CÁM ƠN MẸ – LỄ SINH NHẬT ĐỨC MẸ

CÁM ƠN MẸ – LỄ SINH NHẬT ĐỨC MẸ

Linh mục Giuse Nguyễn Hữu An

Lễ Sinh nhật Đức Mẹ, ngày 08 tháng 9; đúng 9 tháng sau lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, ngày 08 tháng 12.  Ngày Đức Trinh Nữ Maria chào đời là khởi đầu cho mùa cứu rỗi, như bình minh báo hiệu một ngày tươi sáng cho nhân loại.  Mẹ như “sao mai” dẫn lối loài người, như “rạng đông” báo hiệu mặt trời.

Ngay từ thế kỷ VI, cả Giáo Hội Đông phương cũng như Tây Phương đã cử hành lễ mừng kính sinh nhật Đức Mẹ.  Đến thế kỷ X, lễ mừng được phổ biến khắp nơi và trở thành một trong các lễ chính mừng kính Đức Mẹ.  Vào thế kỷ XII, lễ này còn kéo dài thành tuần bát nhật, theo lời hứa của các Đức Hồng Y họp mật nghị để bầu giáo hoàng.  Các ngài hứa sẽ thiết lập tuần bát nhật để tạ ơn Đức Mẹ nếu có thể vượt qua được các chia rẽ vì cuộc vận động của vua Frédéric và sự bất mãn của dân chúng.  Đức Giáo hoàng Célestinô V đắc cử, cai quản có 18 ngày, nên chưa thực hiện được lời hứa.  Giữa thế kỷ XIII, Đức Innocentê đã hoàn thành lời hứa này.

Giáo Hội hân hoan mừng ngày sinh nhật của Đức Trinh Nữ Maria.  Chúc tụng, cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho nhân loai một người Mẹ tuyệt mỹ, là Đức Maria.  “Ngày hôm nay bà Anna hiếm muộn vỗ tay reo mừng, trái đất bừng sáng, các vua hát mừng, các tư tế hân hoan chúc lành, toàn thể vũ trụ vui mừng, vì ngài là hoàng hậu và là nàng dâu tinh khiết của Chúa Cha đã nẩy sinh từ gốc Jesse” (phỏng theo Kinh Nhật Tụng của Ðông Phương).

Đức Maria “là con ông thánh Gioakim và bà thánh Anna.  Cả hai ông bà đều bởi dòng dõi vua Đavít, và gia đình thầy cả thượng phẩm Aaron.  Thiên Chúa đã cho hai ông bà sinh được một người con quý báu trên đời là để thưởng công đức của hai ông bà.  Nếu việc Đức Maria sinh ra làm cho thế gian vui mừng, thì cũng biết là gia đình ông thánh Gioakim vui sướng biết chừng nào.  Sau khi sinh con được tám ngày, theo thông lệ, ông bà song thân đã đặt tên con gái là MARIA, nghĩa là Sao Biển” (Sách hạnh các thánh).

Một bé gái được sinh ra ở ngôi làng Nadarét, thuộc vùng Galilê, nước Do Thái, cách đây hơn hai mươi thế kỷ.  Trong một xã hội trọng nam khinh nữ, điều ấy đâu có gì là quan trọng!  Nhưng dưới mắt Thiên Chúa, em bé này thật là một kiệt tác, bởi lẽ tất cả những gì tốt đẹp nhất làm được thì Ngài đã làm cho em.

Ngay từ khi em còn trong bụng mẹ, Thiên Chúa đã chuẩn bị em cho một sứ mạng hết sức lớn lao, sứ mạng trở nên Mẹ của Đấng Cứu Thế, Mẹ của Ngôi Lời nhập thể.  Em bé ấy tên là Maria. Ngày bé gái Maria chào đời, Thiên Chúa chan chứa mừng vui và hy vọng.  Maria vừa là quà tặng tuyệt vời của Thiên Chúa cho nhân loại, vừa là đại diện của nhân loại để đón nhận ơn cứu độ từ trời cao.  Thiên Chúa cần một người mẹ xứng đáng cho Con Một của mình.  Ngài muốn Con của mình được sinh ra từ cung lòng của một phụ nữ, để Người Con chí thánh ấy thực sự là người trọn vẹn.  Maria được chọn để làm người mẹ ấy, dù chẳng có công chi.  Vì thế ngay từ giây phút đầu tiên, khi thai nhi Maria còn trong bụng mẹ, Thiên Chúa đã ưu ái ban dồi dào ơn thánh, đã bao bọc em trong tình yêu.  Em được gìn giữ khỏi những vết nhơ của tội nguyên tổ.  Nhưng những ơn siêu phàm của Thiên Chúa không bóp chết tự do, không cưỡng ép Maria phải chấp nhận một định mệnh có sẵn, dù Thiên Chúa đã dành cho Maria một chỗ trong chương trình cứu độ.

Bé gái Maria đã lớn lên, đã thành một thiếu nữ, đã đính hôn với Giuse.  Maria đã đi con đường tự nhiên của các thiếu nữ Do Thái.  Ơn Chúa tuy không làm cho Maria mang bề ngoài khác hẳn mọi người, nhưng vẫn âm thầm hoạt động mãnh liệt nơi tâm hồn.  Maria đã mềm mại để Thiên Chúa thì thầm với mình về dự định của Ngài.  Dự định ấy có thể làm đảo lộn những gì Maria ước mơ.  Khác với bà Evà, Maria tự nguyện buông đời mình để Chúa sử dụng.  Cả tình yêu và hôn nhân với Giuse, bây giờ cũng mang ý nghĩa mới.  Maria tin tưởng để Thiên Chúa dắt mình đi vào những lối chưa tường (Mana).  Cuộc đời của Mẹ như một bài ca bất tận: “Phần con đây,con tin cậy vào tình thương Chúa, được Ngài cứu độ, lòng con sẽ vui mừng.  Con sẽ hát bài ca dâng Chúa,vì phúc lộc Ngài ban” (Tv 12).  Mẹ được Thiên Chúa yêu thương với muôn vàn ân lộc: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả…” (Lc 1,49).

Hôm nay, mừng sinh nhật Đức Mẹ là dịp để mỗi người con cảm ơn người mẹ sinh thành của mình.

Cám ơn mẹ đã cưu mang và sinh hạ ra con.

Cám ơn mẹ đã nuôi dưỡng và bảo bọc che chở cuộc đời con.

Cảm ơn mẹ đã cho con sự cân bằng trong cuộc sống.

Cảm ơn mẹ đã dạy con tình thương mẫu tử là bất diệt.

Cảm ơn mẹ đã dạy con giá trị của sự cần cù.

Cảm ơn mẹ đã dạy con chiêm ngưỡng vẻ đẹp của muôn vật.

Cảm ơn mẹ đã dạy con biết tôn trọng mọi loài.

Cảm ơn mẹ đã cho con biết nuôi dưỡng những cảm xúc.

Cảm ơn mẹ đã dạy con rằng cuộc sống luôn biến chuyển đổi thay.

Cảm ơn mẹ cho con phương thế để trưởng thành.

Cảm ơn mẹ đã dạy con biết nhìn mặt sáng của sự việc.

Cảm ơn mẹ đã dạy con sống mạnh mẽ dịu dàng.

Cảm ơn mẹ đã dạy con biết trắc ẩn cảm thông.

Cảm ơn mẹ đã dạy con giá trị hợp tác trong công việc.

Cảm ơn mẹ đã dạy con biết quý trọng trời nắng và cả cơn mưa.

Cảm ơn mẹ đã dạy con biết ẩn nhẫn mà không chịu khuất phục.

Cảm ơn mẹ đã cho phép con sáng tạo.

Cảm ơn mẹ đã dạy cho con sống trung thực.

Cảm ơn mẹ đã mở mắt cho con trước vũ trụ bao la.

Cảm ơn mẹ đã dạy con biết trân quý những điều đơn giản.

Cảm ơn mẹ đã dạy con tin vào chính mình.

Mẹ là tuyệt tác tình yêu mà Thiên Chúa đã ban cho con.  Không có mẹ, con đâu cảm được vị ngọt của tình yêu “như chuối ba hương, như xôi nếp mật, như đường mía lau”.  Không có mẹ, con đâu có “lớn nổi thành người”.

Không có gì trên đời này cao quý hơn tình yêu của người mẹ.

Không có tình mẫu tử nào cao quý hơn tình yêu của Mẹ Maria.  Mẹ Maria chính là bảo ngọc châu báu mà Thiên Chúa trao ban cho nhân loại.

Lạy Mẹ Maria, chúng con cám ơn Mẹ.

Xin Mẹ che chở, gìn giữ hồn xác chúng con trong tình thương của Mẹ.

Xin cho chúng con được nép mình trong vòng tay từ ái của Mẹ.  Amen!

Linh mục Giuse Nguyễn Hữu An

CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU THƯƠNG CÁC CON!

CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU THƯƠNG CÁC CON!

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Martine và Jean Cauchon là đôi vợ chồng người Canada. Họ thật hạnh phúc và yêu nhau đằm thắm. Họ hăng say dấn thân điều động các buổi tĩnh tâm dành cho các đôi vợ chồng tại ”Nhà GIÊSU Thợ – Maison Jésus-Ouvrier” ở thành phố Québec, nước Canada.

Tuy nhiên, để đạt được tháng ngày hạnh phúc, đôi vợ chồng đã trải qua khó khăn, bất bình, đổ vỡ rồi ly thân. Cuộc sống lứa đôi và gia đình tưởng như bị tan vỡ từ đó, sau 12 năm chung sống không hạnh phúc tràn đầy thử thách và đắng cay. Đó cũng là thời kỳ ông bà sống ngoài vòng tôn giáo, nghĩa là hai vợ chồng đều không sống đạo chút nào hết.

Phải đợi biến cố đứa con gái đầu lòng đến tuổi Xưng Tội Rước Lễ lần đầu. Cuộc sống ly thân của Ba Má làm đau khổ những đứa con vô tội. Nay dịp may xảy đến, mời gọi cả hai vợ chồng hòa giải và trở về chung sống bên nhau.

Ông Jean Cauchon. Đứa con gái chúng tôi ước muốn cả Ba lẫn Má giúp bé dọn mình xưng tội và rước lễ lần đầu. Chúng tôi bị đặt trong tình thế chẳng-đặng-đừng. Dầu muốn dầu không, chúng tôi phải cùng nhau giúp con vì lòng thương con. Ngày đó chúng tôi đâu ngờ rằng biến cố rước lễ lần đầu xem ra tầm thường ấy lại là biến cố đổi đời đối với hai vợ chồng chúng tôi

và mang lại kết quả tốt đẹp không lường trước được! Để giúp con chuẩn bị, chúng tôi trở về với việc đọc kinh cầu nguyện. Giờ đây chúng tôi cảm động ghi nhận rằng:
– THIÊN CHÚA nhân từ dùng các trẻ bé thơ để biểu lộ sự hiện diện và Tình Yêu của Ngài!

Sau khi giao hòa và đoàn tụ gia đình trở lại, Martine và Jean Cauchon cùng nhau vai kề vai tiến bước.

Bà Martine tâm sự. Cuộc sống vợ chồng chúng tôi cũng giống bao cặp vợ chồng khác. Chúng tôi luôn tìm kiếm và khao khát hạnh phúc. Khó khăn vẫn luôn hiện diện trong cuộc sống lứa đôi. Chỉ có điều khác với trước kia, ngày nay chúng tôi biết nhẫn nhục dành thời giờ để giải bày cho nhau rõ những hiểu lầm hoặc những bất đồng ý kiến. Và điều quan trọng là chúng tôi không bao giờ nghi ngờ tình yêu đối với nhau. Trước kia chúng tôi chỉ thấy cuộc sống vợ chồng toàn màu đen. Ngày nay chúng tôi biết cùng nhau tận hưởng niềm vui và chia sẻ nỗi khổ.

Ông Jean. Tình yêu vợ chồng là một bảo đảm cho những ngày về già. Chúng tôi cảm thấy được nâng đỡ và ủi an. Tuổi càng cao, tình yêu càng biến đổi, nghĩa là càng sâu đậm và chín mùi hơn. Nhất là khi nhìn những cặp vợ chồng cao niên âu yếm thương yêu nhau, khuyến khích chúng tôi cùng nhau can đảm tiến bước trong an bình và trìu mến.

Tuy nhiên, để đạt được cuộc sống lứa đôi quân bình và hạnh phúc, cả hai ông bà Martine và Jean Cauchon đều đặc biệt chú ý đến khía cạnh siêu nhiên của cuộc đời. Chẳng hạn, mỗi tối trước khi ngủ, mỗi người giơ tay vạch hình Thánh Giá trên trán bạn đời và nói: ”THIÊN CHÚA dùng em để yêu anh” hoặc ”THIÊN CHÚA dùng anh để yêu em”. Còn gì hạnh phúc hơn, nhất là cảm thấy được tha thứ, trước khi bước vào giấc ngủ bình an sau một ngày lao nhọc.

Bà Martine tâm sự. Cầu nguyện và tha thứ là hai điều kiện quan trọng giúp cuộc sống vợ chồng thành công và hạnh phúc. Chính nhờ ơn thánh Chúa, qua bí tích hôn phối, vợ chồng chúng tôi may mắn giải hòa và trở lại sau 12 năm chung sống và đưa đến đổ vỡ. Ngày nay chúng tôi thâm tín THIÊN CHÚA không bao giờ phân rẽ điều gì Ngài đã kết hợp.

Ông Jean Cauchon không ngần ngại đi xa hơn khi quả quyết:
– Sỡ dĩ chúng tôi đạt đến hạnh phúc trong cuộc sống vợ chồng là vì hôn nhân chúng tôi không phải 2 mà là 3: Đức Chúa GIÊSU KITÔ, hiền thê tôi và tôi.

… ”Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Gioan 15,12-15).

(”Je Crois”, 5/1994, trang 28-30)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Rơi Lệ Ngày Quốc Khánh

Rơi Lệ Ngày Quốc Khánh

Alan Phan

2 Sep 2014

“Không ai có thể chạy trốn khỏi những hệ quả từ lựa chọn của mình – Nobody ever did, or ever will, escape the consequences of his choices – Alfred Montapert “

Tôi quay về lại Saigon vào ngày đại lễ 2/9 của Việt Nam. Mặc cho những lố nhố của đám đông, tôi vẫn tìm ra một nơi yên tĩnh để đọc emails, lướt Net đọc tin, và đọc xong chương cuối của cuốn tiểu thuyết về Brasil thời hiện đại. Một người bạn gởi 1 bài viết của tác giả Nguyễn Hoa Lư về “ngậm ngùi rơi lệ” đăng trên báo Tuổi Trẻ (tiếc là đã bị rút xuống). Tôi gần làm rớt chiếc IPad khi đọc đến đoạn này,

“Một quan chức cao cấp của Ban Tuyên giáo T.Ư, ông Vũ Ngọc Hoàng, đã có một phát biểu gây ấn tượng mạnh [1] :“Cách đây bốn, năm mươi năm, VN và Hàn Quốc có trình độ phát triển tương đương. Sau mấy mươi năm, tôi rà lại tư liệu thì thấy Hàn Quốc hiện có khoảng 90.000 người sống tại VN và VN cũng có 90.000 người sống ở Hàn Quốc. Chỉ khác nhau ở chỗ hầu hết người Hàn Quốc tại VN làm ông chủ, làm quản lý, còn người VN ở Hàn Quốc thì chủ yếu làm ôsin. Nghe mà xót lòng”.

Đây là lần đầu tiên tôi nghe một quan chức Việt không nổ về những thành tựu vĩ đại qua những con số vĩ đại thực hiện bởi những con người vĩ đại…nói nôm na là tại sao mỗi ngày chúng ta phải tự hào …vì cả nhân loại đều phải công nhận là người Việt hạnh phúc nhất thế giới. Ngay cả trong chiến tranh, cái loa tuyên giáo đã rỉ rả cả chục năm về hiện tượng một ông Mỹ nào đó (tượng trưng cho đa số người Mỹ) vừa ngủ dậy là …mơ ước được làm người Việt Nam.

Đây là lần đầu tiên một quan chức Việt…rơi lệ. Sau 1 chục năm lui tới nơi đây thường xuyên, sau gần 40 năm “chờ sáng”, sau khi đọc về lịch sử Việt cận đại qua 70 năm…tôi cũng ..rơi lệ theo ông.

Thực ra, chuyện làm ô sin của người Việt không chỉ giới hạn ở Hàn Quốc. Nếu ông quan chức tính sổ toàn diện con số người Việt đang được xuất khẩu lao động (kể cả tại nhiều nước nghèo tệ hại ở châu Phi) hay số người bán thân làm vợ cho các ông nông dân Đài Loan, Trung Quốc… hay số người Việt vượt biên trái phép qua các tổ chức xã hội đen tại Nga, Đông Âu…cái “xót lòng” của ông chắc còn lớn lao hơn nhiều. Theo Mác Lê, chúng ta có thể biện bạch là mục đích sau cùng của những công nhân này là “tìm đường cứu nước” hay “xuất khẩu cách mạng” như chiến lược do Đệ Tam Quốc Tế đề xuất từ thời 1940’s. Nhưng liệu các đồng chí của chúng ta ở những quốc gia này có tin hay họ chỉ cười rũ rượi?

Tôi còn nhớ vào khoảng 1997, tôi đại diện cho một tập đoàn đa quốc thực hiện một phi vụ khá lớn với cơ quan truyền thông trung ương của Trung Quốc. Tất cả các sếp lớn nhỏ của Bộ đều đồng thuận và chỉ chờ chữ ký của ông Trưởng Cơ Quan. Ông này viện dẫn đủ lý do để hoãn binh; nhưng rồi cũng ký sau khi cho tôi chờ hơn 9 tháng.

Vài tháng sau, khi đã làm việc và quen nhau hơn, tôi tò mò hỏi ông về lý do chần chừ? Ông nói,” Trong tất cà các dân tộc trên thế giới, tôi ghét nhất là người Việt Nam. Khi họ báo cáo về gốc Việt Nam của anh, tôi đã cố gắng giết dự án bằng đủ cách”. “Nhưng ông đổi ý?” “ Gặp anh nhiều lần sau đó, tôi thấy anh là một thằng Mỹ con toàn diện, nên tôi OK”. Tôi biện bạch,” Luôn luôn có người Mỹ tốt và xấu, người Trung tốt và xấu, người Việt tốt và xấu chứ?”

“Các dân tộc khác thì đúng vậy. Nhưng người Việt là một bầy chuột. Một con chuột tốt là một con chuột chết.” Tôi im lặng chuyển đề tài. Và suy nghĩ về những lần qua Việt Nam chơi trước đó. Phần lớn các quan chức, đại gia, COCC…đang nhìn Trung Quốc với cặp mắt khâm phục, ngưỡng mộ và thèm thuồng. Mao Chủ Tịch là một thánh nhân Trời cho xuống để ban phước lộc cho nhân loại và Đặng Tiểu Bình là thần tượng của 99% người Việt. Cho đến ngày hôm nay, tôi nghĩ rằng 95% đảng viên vẫn thề trung thành với 16 cái tốt vàng gì đó về ông láng giềng.

Albert Camus nói, “ Life is a sum of all your choices”. Có lẽ vì chúng ta luôn luôn xứng đáng với lựa chọn của mình.

Tôi không biết ông Vũ Ngọc Hoàng giữ chức vụ gì trong Ban Tuyên Giáo? Tôi cũng không biết các lãnh đạo cao cấp của Việt Nam suy nghĩ thế nào về lời nói của ông? Tuy nhiên, nhận xét này của ông cũng cho tôi và các bạn BCA một tia hy vọng nhỏ nhoi. Rằng nếu một người biết thì mười người sẽ biết. Dần dà, cả triệu người sẽ biết. Sau một giác ngủ dài, lúc nào cũng sảng khoái khi vừa thức giấc.

Tuy nhiên, tôi cũng biết rõ gần như là một nguyên lý ở Việt Nam: ở đây, thất vọng nhiều gấp triệu lần hy vọng.

Alan Phan

Thói quen liên tưởng

Thói quen liên tưởng
August 31, 2014

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Nghĩ lại, giờ này tôi có thể hiểu vì sao, những anh chàng cán bộ cộng sản thuở chống Mỹ cứu nước, ngàn năm mới có dịp được đề cử ra ngoại quốc, đi tham quan, du học, du khảo, luôn luôn cố gắng khi trở về nước, ngoài chuyện phải viết một báo cáo về việc “thu hoạch” việc học hành, lại phải cố gắng viết một vài đoạn hồi ký, làm một bài thơ, kết hợp chuyến đi của mình với công ơn của Bác, đảng để biểu diễn “lập trường.”


Du thuyền chở du khách trên sông Seine, Paris. (Hình: Huy Phương cung cấp)

Tâm trí những người này rõ ràng là luôn luôn mang nặng cái ân huệ đảng đã ban cho mình, để được ra khỏi đáy giếng hẹp, có dịp thấy trời cao đất rộng. Dù ở Moscow, Bắc Kinh hay Paris, họ vẫn luôn luôn ám ảnh bởi những con mắt vô tình đang theo dõi mỗi bước chân của họ, hạch hỏi họ đang nghĩ gì, tình cảm thế nào, nhớ đến ai?

Chúng ta phải nghiêng mình khâm phục cái khả năng liên tưởng kỳ quái của một tên đảng viên trung kiên, Ðỗ Quý Doãn, phút chót đã leo đến chức ủy viên Ban Cán Sự Ðảng, thứ trưởng Bộ Thông Tin và Truyền Thông đã có lần đi “Giữa Mạc Tư Khoa” mà “nghe câu hò Nghệ Tĩnh,” có nghĩa ở ngay giữa một nước Ðông Âu xa xôi, mà đảng viên này vẫn không quên nổi âm thanh xứ Nghệ, quê hương của Bác.

“Chiều Mạc Tư Khoa…rừng dương như trầm lặng…
mà nghe câu dặm…rằng hết giận rồi thương…”

Ðây là người đã lên án “Bên Thắng Cuộc” của Huy Ðức là: “Chống lại nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam; gây phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân; tuyên truyền chiến tranh xâm lược; gây hận thù, mâu thuẫn giữa các dân tộc, sắc tộc, tôn giáo; tuyên truyền, kích động…”

Chế Lan Viên, tay bồi bút có hạng, thì dù ở Paris, London hay Moscow, luôn luôn nghĩ đến Bác, nói một cách khác là bị ám ảnh bởi hình ảnh ông Hồ, hay ông giả vờ bị ám ảnh, ghi lại trên giấy mực hay biểu diễn trước con mắt của cấp lãnh đạo văn nghệ:

“Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê
Một viên gạch hồng Bác chống lại cả mùa Ðông băng giá
Và sương mù thành Luân Ðôn có nhớ
Giọt mồ hôi người nhỏ giữa đêm khuya.
…Tuyết Mát Cơ Va sáng ấy lạnh trăm lần
Trông tuyết trắng như đọng nghìn nước mắt.”

Trần Hoàn, một thời làm bộ trưởng Văn Hóa và Thông Tin. Thời mới đi kháng chiến, ông là tác giả bài Sơn Nữ Ca nổi tiếng, về sau càng lên chức, ông càng để lộ ra bản chất nịnh bợ lãnh tụ, với những câu thơ quái đản: đi “giữa Mạc Tư Khoa nghe câu hò ví dặm…” Lố bịch hơn nữa là Trần Hoàn trong bài “Lời Bác dặn trước lúc đi xa…” đã bịa một câu chuyện khác hẳn sự thật: “Chuyện kể rằng trước lúc Người ra đi, Bác muốn nghe một câu hò xứ Huế. Nhưng không gian vẫn bốn bề lặng lẽ, Bác đành nằm im…”

Nhưng theo tường thuật của Vương Tinh Minh, nữ y tá trưởng bệnh viện Bắc Kinh, thành viên tổ bác sĩ Trung Quốc sang Việt Nam chữa bệnh cho ông Hồ, Tháng Tám, 1969, trên báo Quân Ðội Nhân Dân, thì:

“Chiều hôm đó sức khỏe của Bác đã có chuyển biến tốt lên một chút, Bác nói muốn nghe một câu hát Trung Quốc. Các đồng chí đề nghị tôi hát. Tôi nói thật là hát cũng không tốt lắm, nhưng để vui lòng Bác, vì tình hữu nghị Trung-Việt, tôi đã hát một bài hát mà nhiều người thuộc và hát được, bài hát có nội dung chính là ra khơi xa phải vững tay chèo. Bác nghe xong rất vui, Bác nở nụ cười hiền từ. Bác nắm nhẹ tay tôi, tặng tôi một bông hoa biểu thị cảm ơn. Ðó là lần thứ ba tôi thấy Bác cười. Và đó cũng là nụ cười cuối cùng của Người.”

Dù miền Nam sau khi ông Ngô Ðình Diệm về nước chấp chánh, đã có phong trào suy tôn ông “bao nhiêu năm từng lê gót nơi quê người…” nhưng thời ấy cũng có người được cử đi du học, tham quan, cũng có nhiều người đến New Jersey, New York và Chicago…là những nơi ông Diệm đã ghé qua, nhưng không nghe ai liên tưởng hay nhớ đến ông. Ðó là những việc không cần phải làm hay vì sợ mà làm!

Ở miền Nam, chúng ta thường tìm thấy không khí Ðường thi trong văn thơ trước ngày chia cắt đất nước, với những bờ sông Tương (Tương Giang đầu- Tương Giang Vỹ) những đêm trăng lặn quạ kêu (Nguyệt lạc ô đề) những chiều khói sóng trên sông (Yên ba giang thượng…), nhưng những năm sau ngày phong trào di cư đưa hàng triệu người bỏ quê hương miền Bắc di cư vào Nam, cùng với sự đổi mới văn học, những người ở phương Tây về mang theo hình ảnh của ghế đá công viên, tóc vàng sợi nhỏ, bờ sông Seine, mùa Thu lá đỏ và cả cái ga Lyon đèn vàng chưa ai biết tới mà thanh niên Sài Gòn đã mê mệt cảm nhận rất nhanh.

Hoàng Anh Tuấn, Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng… là những người đã mang không khí Paris lại cho thanh niên miền Nam trong thời gian này, nhất là năm 1957, khi chàng sĩ quan không quân Cung Thúc Cần mang cái hình ảnh “ga Lyon đèn vàng,” chút “tuyết rơi mỏng manh buồn” về với Sài Gòn, và tập thơ Tình Ca, phối hợp giữa thơ Cung Trầm Tưởng, nhạc Phạm Duy và minh họa của Ngy Cao Uyên ra đời, thì không ai là người không biết đến bài thơ Tiễn Em. Vào thời gian ấy, Sài Gòn cũng có phong trào các phòng trà ca nhạc ra đời “đêm đêm tiếng hát phòng trà” với Kim Ðiệp, Anh Vũ, Hòa Bình…mở ra những giọng hát khởi sắc như Thanh Thúy, Lệ Thanh, Bích Chiêu…nhưng phải nói Lệ Thanh, gầy guộc, mỏng manh trong bộ y phục màu trắng, mỗi đêm xuất hiện với “Tiễn Em” là một thần tượng khó quên. Sài Gòn đèn xanh đèn đỏ, vẫn hừng hực nóng, nhưng những người chưa bao giờ được thấy tuyết vẫn thích nghĩ đến không khí “tuyết rơi mỏng manh buồn…” và “trời mùa Ðông Paris, suốt đời làm chia ly…” và tha thiết: “khóc đi em, khóc đi em!”

Bây giờ trở lại Paris, chúng tôi vẫn hình như nghe văng vẳng bên tai những câu thơ của Nguyên Sa và âm điệu của Ngô Thụy Miên gần như bất hủ:

“Paris có gì lạ không em,
Mai anh về giữa bến sông Seine!”

Và nếu có sự liên tưởng thì từ mối tình Paris, Nguyên Sa nghĩ đến một món ngon quê hương, cũng tượng trưng cho sự gắn bó của tình yêu. Hai câu thơ sau đây được xem là nhưng câu thơ hay nhất của văn học Việt Nam:

“Vẫn hỏi lòng mình là hương cốm
Chả biết tay ai làm lá sen?”

Nói như Mặc Lâm, “Ông (Nguyên Sa) đem ánh đèn vàng Paris nơi có những nhà ga là nguồn cảm hứng vô tận cho những cuộc chia tay. Ông mang theo hơi hám của sông Seine của nhà thờ Notre Dame về lại Sài Gòn nơi mà nhiều thế hệ thanh niên chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Pháp…”

Bây giờ trở lại hay ghé qua Paris, nếu có sự liên tưởng thì không thể nào không liên tưởng đến lời thơ của Nguyên Sa, nghe như còn bàng bạc nơi đây. Từ Paris đi về phía Nam, xuống Nice, chúng tôi phải qua ga “Lyon đèn vàng” của nhà thơ Cung Trầm Tưởng. Bây giờ đã đến tuổi già, không khỏi không nhớ đến câu thơ của ông: “…nói chi cũng muộn màng..”

Ðến Paris, tôi nhớ đến Nguyên Sa, người đã mất. Tôi nhớ đến ông Cung Trầm Tưởng của Lyon đèn vàng. Và Lệ Thanh, bây giờ ở đâu?

Kể cũng lạ, làm sao khỏi liên tưởng cảnh với người, hiện tại và quá khứ, Paris với Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng, cả với Phạm Duy và Lệ Thanh của một thời, đã xa lắm, mà hình như vẫn còn lẩn khuất ở đâu đây!

 

TA ĐÒI MÁU NÓ BỞI TAY NGƯƠI.

TA ĐÒI MÁU NÓ BỞI TAY NGƯƠI.

Ed 33, 7-9

Lm. Vinh Sơn Phạm Trung Thành, C.Ss.R.

Ta đã làm cho ngươi trở nên người lính canh nhà Israel:

vậy khi nghe lời miệng Ta nói,

ngươi hãy thay Ta loan báo cho chúng .

“Hỡi kẻ gian ác, mi sẽ phải chết”;

nếu ngươi không chịu nói để kẻ gian ác bỏ đường lối mình,

thì chính kẻ gian ác sẽ chết trong sự gian ác của nó,

nhưng Ta đòi máu nó bởi tay ngươi.

Còn khi ngươi loan báo cho kẻ gian ác bỏ đường lối nó,

nếu nó không chịu bỏ đường lối nó,

thì nó sẽ chết trong sự gian ác của nó,

nhưng ngươi cứu được mạng sống ngươi.

Thế giới chung quanh đầy rẫy sự gian ác,

mỗi ngày sự gian ác bày ra trên các phương tiện truyền thông,

mỗi ngày sự gian ác tung hoành ngay trước mắt mọi người.

Hỡi tôi, người lính canh được Chúa kêu gọi,

tôi sẽ lặng thinh mãi cho đến bao giờ ?

Lm. Vinh Sơn Phạm Trung Thành, C.Ss.R.

Chúa nhật XXIII TN.A