Chọc Cải Cách ra mà ngửi

Chọc Cải Cách ra mà ngửi
September 10, 2014
Ngô Nhân Dụng

Nghe tin có cuộc triển lãm về Cải Cách Ruộng Đất tại Hà Nội, tôi đã tìm đọc mấy bài tường thuật trên các báo trong nước và các mạng thông tin. Cảm tưởng chung: Đây chỉ là một trò tuyên truyền rất vụng về, mạo xưng là “lịch sử;” mà nó lại nhạt phèo, chẳng có gì mới mẻ đáng coi. Người ta trưng bày những sập gụ, tủ chè, bát đĩa dùng trong nhà địa chủ; bên cạnh cảnh sống bần hàn của những nông dân. Những người tổ chức cuộc triển lãm chắc hy vọng mọi người xem xong sẽ kết luận: Xã hội thời xưa thật lắm cảnh bất công. Nếu có bát công tức là có bóc lột, đó là cách suy nghĩ đơn giản, dễ khiến người ta tin.

Nhưng người biết suy nghĩ sẽ nhận ra điều này: Thời nay cũng nhiều cảnh bất công không khác gì 60 năm trước. Chỉ cần nhìn vào ngôi nhà của một ông Bí Thư Huỳnh Đức Hòa, tỉnh ủy Lâm Đồng, người ta cũng có thể thấy ông giàu có gấp ngàn lần các địa chủ thời 1946-1957. Trong khi đó thì bao nhiêu người lao động đang sống trong các ổ chuột ở thành phố vẫn chạy ăn từng bữa. Và cảnh sống của đồng bào nghèo tại các vùng nông thôn xa; nếu so sánh nhà cửa của họ với ngôi nhà tồi tàn của người nông dân nghèo khổ, của các bần cố nông thời cải cách ruộng đất, chắc cũng như nhau. Nếu khá hơn cũng chỉ hơn đến gấp đôi, gấp ba là cùng. Hố cách biệt giàu nghèo ngày nay tăng lên gấp trăm, gấp ngàn lần so với thời 1950! Nếu có bất công tức là có bóc lột, thì ngày nay ai bóc lột ai?

Do đó, cuộc triển lãm về Cải Cách Ruộng Đất sẽ gây tác dụng ngược. Thay vì “gây căm thù” đối với các địa chủ ngày xưa, cuộc triển lãm sẽ khiến người đi coi nghĩ tới các đại địa chủ thời nay. Một điều hiển nhiên ai cũng thấy: Sau khi Đảng Cộng Sản cướp ruộng đất từ tay các địa chủ, thì nông dân Việt Nam bây giờ có được làm chủ ruộng đất hay không? Câu trả lời là: Không! Ngày nay tất cả ruộng đất thuộc quyền của “nhà nước.” Nhà nước là tay đại địa chủ, nắm quyền cho dân “cấy rẽ,” cho ai thì người ấy được “quyền sử dụng,” chỉ là quyền sử dụng chứ không phải quyền sở hữu. Nhà nước là một bộ máy khổng lồ vô hình, nhưng đại diện của nó là các quan chức, cán bộ từ tỉnh xuống huyện, xuống xã. Họ nắm toàn quyền, ban bố quyền sử dụng cho đám dân đen. Họ có thể lấy lại quyền sử dụng của nông dân để ban phát cho các nhà tư bản đỏ, bồi thường dân một đồng thì thu lời hàng trăm đồng. Cả bộ máy nhà nước này nằm gọn trong tay Đảng Cộng Sản. Đảng là tay đại địa chủ thời nay. Đảng đưa ra khẩu hiệu “Người cầy có ruộng,” nhưng cuối cùng chỉ có đảng là có ruộng, nông dân Việt Nam vẫn đóng vay tá điền. Thay vì các địa chủ thu tô, ngày nay nông dân sống dưới chế độ đảng thu thuế. Báo chí trong nước vừa so sánh số thuế má, dưới nhiều hình thức, tại một tỉnh Thanh Hóa ngày nay còn nhiều hơn các món thuế nông dân phải đóng trong thời thuộc Pháp.

Một phản ứng ngược khác, là người đi xem triển lãm sẽ bất mãn thêm khi thấy đây chỉ là một trò tuyên truyền cũ kỹ, hoàn toàn không phải là lịch sử, dù được trưng bày tại Viện Bảo Tàng Lịch Sử Quốc Gia. Người biết suy nghĩ sẽ thấy, như Tiến Sĩ Nguyễn Xuân Diện, tại sao một cuộc triển lãm tự xưng là lịch sử mà lại không được trung thực. Ông nói, “… những sai lầm – tội ác do chính quyền gây ra thời đó không được đưa ra, những việc phá tan chùa, đình, miếu, làng, xã…làm phá vỡ những truyền thống đạo lý – văn hóa tốt đẹp của con người Việt Nam qua ngàn năm …” cũng không được trưng bày ra.

Nhưng việc phá tan những miếu mạo, đình chùa cũng không phải là tội ác văn hóa lớn nhất của Đảng Cộng Sản. Ông Nguyễn Tường Thụy, một người làm blog riêng có tiếng ở Hà Nội đã nhắc đến tội ác khác về văn hóa, là cuộc Cải Cách Ruộng Đất “nó tàn phá luân lý đạo đức lúc bấy giờ” với những cảnh “cha tố con, con tố cha, vợ tố chồng, anh em tố nhau …” Và ông nhấn mạnh rằng, “Cải cách ruộng đất là do người Trung Quốc, các chuyên gia Trung Quốc chỉ đạo và cố vấn…” Một blogger khác, J.B Nguyễn Hữu Vinh đã đi xem triển lãm, kể lại, “Đi bên cạnh, cô thuyết minh viên áo đỏ (nói) liên tục: ‘Cải cách ruộng đất xóa bỏ chế độ người bóc lột người, là cách mạng về quan hệ sản xuất và nông dân đổi đời…’ Tôi quay lại nói, ‘Quan chức Cộng Sản ngày nay thì đất đai, nhà cửa, ăn chơi còn gấp trăm lần địa chủ phong kiến trước đây. Mà tất cả là từ tiền tham nhũng của dân, còn địa chủ phong kiến ngày xưa có ăn chơi cũng là tiền của họ. Bây giờ có ông quan hàng trăm ha đất như chủ tịch Bình Dương thì bọn địa chủ sao so được nhỉ?’”

Nguyễn Hữu Vinh trông thấy một nhiếp ảnh gia đi chụp các vật trưng bày trong phòng triển lãm, khi chụp hình xong, anh ta kết luận, “Thôi, cái hay, là chúng nó đưa ra để dân biết rằng cái giai cấp địa chủ, phong kiến ngày xưa chẳng là cái đ. gì so với bọn quan Cộng Sản tham nhũng hôm nay.” Một di họa văn hóa của thời Cải Cách Ruộng Đất vẫn để lại bóng đen lảng vảng trong xã hội Việt Nam: “Cái gọi là ‘thành phần’ xuất hiện trong thời đó, cho đến nay tròn 60 năm sau vẫn ám ảnh trong từng tờ hồ sơ, lý lịch của các em nhỏ đến trường, dù chúng chẳng hiểu “thành phần” nghĩa là cái gì và từ đâu ra.”

Cuối cùng, chỉ vì Đảng Cộng Sản tổ chức cuộc triển lãm tuyên truyền vô duyên này, những người như các ông J.B Nguyễn Hữu Vinh, Nguyễn Tường Thụy, Nguyễn Xuân Diện có cơ hội bày tỏ những suy nghĩ thật của người dân Việt thời nay. Rõ là chỉ làm cho rách việc thêm!

Tại sao Đảng Cộng Sản lại bày ra một trò tuyên truyền gây phản ứng ngược nhiều như vậy? Có thể chỉ vì các cán bộ trong Viện Bảo Tàng Lịch Sử chẳng có việc gì làm cho qua thời giờ, cho nên họ mới bày vẽ ra cái cuộc triển lãm này. Hay là quý ông bà trong ban văn hóa tư tưởng của đảng đang lo khi chế độ sụp đổ thì mình thất nghiệp, nên cố gắng tô thêm son phấn lên mặt đảng một lần chót? Hoặc có thể đưa ra một giả thuyết táo bạo, rằng có người đã xúi giục họ tổ chức triển lãm để khiêu khích tất cả nông dân miền Bắc, những người đã đi biểu tình đòi ruộng, đòi đất trong những năm qua và bị ông đại địa chủ thời nay đàn áp dã man. Đặc biệt, họ muốn khiêu khích tất cả giới thanh niên, trí thức miền Bắc và đặc biệt là dân Hà Nội, xem có ai dám đứng ra “lật mặt nạ” của Đảng Cộng Sản hay không?

Mà việc lột mặt nạ thì không khó gì cả. Người ta không thể tổ chức một cuộc “phản triển lãm” về những tội ác của Đảng Cộng Sản trong vụ Cải Cách Ruộng Đất. Không thể trưng bày cảnh những người bị gán cho danh hiệu địa chủ bị chôn sống, thò đầu trên mặt đất để nhìn thấy lưỡi cầy kéo qua đầu mình cho tới khi chết. Cảnh này đã có thi sĩ Hữu Loan làm chứng, ông đã kể lại cho con cháu khỏi quên chuyện một địa chủ đã cấp gạo cho trung đoàn của ông trong thời kháng chiến bị hành hạ như vậy. Sau đó, tác giả Màu Tím Hoa Sim đã cưới cô con gái nhà địa chủ này, để đền ơn công cha mẹ cô nuôi dưỡng cả trung đoàn.

Không thể tổ chức triển lãm, nhưng giới thanh niên, trí thức Hà Nội có thể làm một cuộc triển lãm trên mạng. Một cuộc “phản triển lãm” đã xuất hiện trên các mạng ở Việt Nam. Blogger Lê Dũng đã chụp lại các bức ảnh trong phòng triển lãm rồi nêu ra những sai lầm, gian dối. Thí dụ, mấy ông già 60 nhận xét thời 1950 “Đũa nhựa và thìa phíp trắng chưa có!” Hoặc nhìn cái áo của “địa chủ” được trưng bày, có người thấy, “Áo trưng bày này là hàng fake [giả] 100 %. Vì “May bằng máy công nghiệp, viền cứng và thô, thời đó không có máy khâu đó. Đặc biệt áo dài thời đó hoàn toàn khâu tay, mũi khéo và mềm mại.” Đến một bức ảnh, “Bần cố nông làm gì có nồi đồng, có chiếu trải ra hè ăn cơm vậy?” một độc giả của Blog Lê Dũng góp ý “thời đó đã làm gì có modern áo đuôi tôm hả mấy ông giời con?” Một độc giả giấu tên khác nói thẳng: “Nói dối mà không biết ngượng sao, hỡi những kẻ lấy tay che mặt trời? Nạn nhân Cải Cách Ruộng Đất vẫn còn đầy rẫy, hoặc con cháu họ sẽ lên tiếng. Hay đợi đấy!” Một độc giả ký tên Mượt viết, “Chết thật, dối lừa mãi thế sao?”

Lê Dũng kết luận, “Tóm lại tay nào sắp đặt cái ảnh này là dân vớ vẩn, không có tí kiến thức gì về lịch sử, am hiểu về đồ vật.” Và anh viết thêm, “Dù sao thì tôi vẫn nói với mọi người cùng xem rằng: việc có cái triển lãm này cũng hay, bọn trẻ sẽ tìm nốt nửa còn lại qua gúc gồ, thế thôi vì một nửa sự thật không phải là sự thật.”

Nửa thứ hai của sự thật đã được trình bày từ lâu. Bao nhiêu tác giả đã viết về cuộc Cải Cách Ruộng Đất. Những tác phẩm mô tả tai họa Cải Cách sớm nhất là “Những thiên đường mù” của Dương Thu Hương, “Ác mộng” của Ngô Ngọc Bội. Tiếp theo có “Đêm giữa ban ngày” của Vũ Thư Hiên, tiểu thuyết “Ba người khác” của Tô Hoài. Đặc biệt, cuốn “Đèn cù” của Trần Đĩnh gần đây nhất đã cho thấy vai trò của Hồ Chí Minh trong vụ giết bà Nguyễn Thị Năm, chính ông Hồ đã viết bài đăng báo buộc tội bà. Có thể đăng lại những đoạn văn của các tác giả trên, để “triển lãm cho mọi người được thấy sự thật về tội ác của Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Nhưng trên các mạng đã xuất hiện những câu chuyện thực đau lòng hơn cả những cảnh trong tiểu thuyết. Một độc giả ký tên Lê Tri Điền kể trong Blog Lê Dũng những chuyện xảy ra thời kỳ Cải Cách Ruộng Đất tại xã Định Công, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa; chúng tôi trích vài chuyện: “Có một bà tên Chấn, không hiểu bùa phép nào của đội cải cách mà lên trước ‘ tòa án nhân dân’ nắm râu bố đẻ mà vặt rồi rít lên: Thằng Thể (tên bố bà Chấn)…mày là….mày là…” (bà Chấn sau này ân hận vì tội lỗi với người cha thân yêu của mình nên trở thành người trầm cảm, bà chết vào khoảng năm 1989 trong đói nghèo cô độc). Một chị con gái kể: Tôi thương cha tôi lắm, hắn bắt cha tôi, thúc vô rọ lợn rồi chúc ngược cha tôi đầu cắm xuống đất, tôi lén đem cơm cho cha thấy mặt cha đỏ tím tụ máu sưng tròn như chấy bưởi, cha tôi nói con đi đi! Không du kích biết thì khổ, cha không ăn được cấy chi mô, tôi còn nhỏ quá, chả biết cha có tội chi, thương cha quá mà không dám khóc…” Cuộc phản triển lãm vẫn còn tiếp tục. Dân Hà Nội không để cho người ta khinh thường, bày trò tuyên truyền rẻ tiền trước mắt mình mãi như vậy.

Một người bạn tôi mới trò chuyện với một bà chị lớn tuổi ở Hà Nội qua điện thoại, nhân tiện hỏi, “Chị đi xem cuộc triển lãm về Cải Cách Ruộng Đất tại Bảo Tàng Lịch Sử chưa?” Bà chị trả lời, “Xem làm cái gì? Chúng nó hết khôn dồn ra dại hay sao mà lại đi chọc “c…” ra mà ngửi với nhau như thế hở!”

Đúng là hết khôn dồn ra dại cho nên mới đi chọc Cải Cách ra mà ngửi. Khi một chế độ lâm vào bước đường cùng thì nó mới sinh ra những trò dồ dại, ngớ ngẩn, lung tung beng như vậy.

Triển lãm Cải cách ruộng đất: Làm sao bây giờ?

Triển lãm Cải cách ruộng đất: Làm sao bây giờ?

Nguyễn Tường Thụy/ Blog RFA

Chẳng hiểu ai xui khiến thế nào mà Bảo tàng lịch sử quốc gia tự nhiên đi tổ chức phòng trưng bày về cuộc Cải cách ruộng đất “long trời lở đất” cách đây sáu chục năm, mở cửa vào ngày 8/9/2014.

Phàm những gì họ làm đều có mục đích cả, chứ không phải bày ra để chơi.

Vâng, mục đích là đây: theo Ông Nguyễn Văn Cường, Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quốc gia thì “Bảo tàng muốn hướng tới là những thành tựu của cuộc cải cách ruộng đất đã mang lại cho nhà nước mới được thành lập, cho người dân Việt Nam nghèo khổ đang từ phận nô lệ mất nước được hưởng thành quả cách mạng đó”.

Tuy nhiên, mới qua mấy ngày đầu, mục đích của Bảo tàng có vẻ như không đạt được. Dấu ấn kinh hoàng của Cải cách ruộng đất ở miền Bắc đã ghi quá sâu vào ký ức những người dân Việt Nam. Hẳn là không nhiều người tìm đến phòng trưng bày để xem nông dân Việt Nam được hưởng thành quả của Cải cách ra sao. Có vẻ như người ta không hào hứng về việc này khi chuyện chia ruộng thì ai cũng biết và ai cũng biết sau đó, ruộng đất lại được gom vào HTX. Khi mô hình HTX thất bại, ruộng đất được chia lại để rồi lại tập trung vào quan chức nhà nước và những người giàu có. Người ta đến triển lãm còn vì tò mò, muốn biết xem thái độ của nhà cầm quyền đối với CCRĐ ra sao, họ nhìn nhận thế nào hay hướng người xem nhìn nhận thế nào?

Người xem nhận ra ngay ý đồ của Ban tổ chức (BTC) khi nhìn vào cách sắp xếp hiện vật và số lượng hiện vật cho mỗi khời kỳ. Theo Thanh niên online, trong tổng số 133 hiện vật thì dành cho phần đời sống của nông dân trước cải cách là 45 hiện vật, tức là chiếm 1/3. Điều này cho thấy, bảo tàng muốn nhấn mạnh sự so sánh cuộc sống của nông dân với địa chủ.

Phần đấu tố địa chủ có lẽ là phần khách quan tâm nhất thì Ban tổ chức giấu nhẹm. Được hỏi về cách sắp xếp có chủ ý, ông Cường trả lời đại rằng “Không nhất thiết phải phơi bày toàn bộ những sai lầm của lịch sử” làm cho nhiều phóng viên tỏ ý không hài lòng. Ông đã làm đúng đường lối tuyên truyền của Đảng, nhưng xem ra, lần tuyên truyền này lợi bất cập hại.

Có một điều thú vị là, phần giấu giếm của ban tổ chức đã được báo Vnexpress tìm cách bù đắp bằng bài “Khoảng lặng bên trong triển lãm Cải cách ruộng đất“với việc phỏng vấn khách thăm là những nhân chứng, kể về giai đoạn đau thương ấy và họ “chưa thỏa mãn với những thông tin, hình ảnh, ánh sáng và cách trưng bày. Rất tiếc khi có cơ hội lại không được cung cấp thêm những hiểu biết chân thực về lịch sử, một giai đoạn đau buồn của dân tộc”.

Bài báo cũng dẫn lời nhà sử học Dương Trung Quốc “Với những vấn đề này, chúng ta không nên né tránh để ít nhất nhân dân không nghi ngờ về quá khứ”,

Trên mạng internet, tràn ngập những bài viết kể về một thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử dân tộc, khơi dậy những đau thương mà người ta kìm nén sáu chục năm nay, nay có dịp bùng lên. Phần đấu tố địa chủ – nội dung mà ban tổ chức cố tình ém nhẹm, với lý do như ông Cường đã nói là không cần thiết lại là đề tài bàn luận sôi nổi nhất. Hàng chục bài viết về chủ đề này được đưa lên mạng mỗi ngày. Riêng phần điểm tin sáng trên trang Ba Sàm hôm nay (12/9) đã có tới 34 bài nói về CCRĐ. Blog Tễu còn kỳ công tập hợp đường dẫn tất cả những bài viết về CCRĐ để hầu bạn đọc Những người có cha mẹ ông bà bị đấu tố, bị bắn trong CCRĐ, nỗi uất ức kìm nén bấy lâu nay được dịp bùng lên. Họ kể về nỗi đau mất mát của gia đình, dòng họ, hệ lụy sau đó và không ngần ngại bày tỏ luôn cả lòng căm thù.

Đấu tố, xử tử địa chủ ở Miền Bắc

Có người phát hiện ra có những hình ảnh trưng bày được diễn hoặc đóng lại. Nhiều người tinh quái, tìm ngay ra những hình ảnh tương phản để vô hiệu việc tuyên truyền trong phòng trưng bày. Họ đặt bữa cơm của nông dân hồi ấy cạnh bữa ăn của nông dân hiện nay để cho thấy sáu chục năm qua, đời sống của nông dân hóa ra là… thụt lùi. Trưng bày về ngôi nhà lụp xụp của nông dân so với nhà địa chủ thì họ đưa ra hình ảnh nhà nông dân VN bây giờ cũng lụp xụp không kém và nhà quan chức thì nguy nga tráng lệ gấp nghìn lần nhà địa chủ ngày xưa. Những cảnh đấu tố, bắn giết được đưa lên cùng con số hàng trăm nghìn người bị tố oan, hàng vạn người bị giết để minh chứng cho sự “thành công” của CCRĐ. Nói về thành quả chia ruộng đất cho bần cố nông, thì bị phỏng vấn những câu hóc hiểm, như “ông nghĩ gì về việc ruộng đất hiện nay lại tập trung vào tay quan chức nhà nước và đảng cộng sản”, khiến cho người được phỏng vấn chỉ còn cách lảng.

Bữa ăn của nông dân sau cải cách và hiện nay

Tai hại hơn, nhiều người còn đem cải cách điền địa ở Miền Nam ra so sánh để cho rằng, cải cách điền địa ở miền Nam vẫn là mục tiêu người cày có ruộng nhưng không có cảnh tước đoạt, bắn giết. Nhà nước mua ruộng của địa chủ chia cho nông dân. “Nhiều quan sát viên quốc tế đã cho chương trình “Người Cày Có Ruộng” là một trong những chương trình cải cách điền địa thành công nhất ở các nước hậu tiến. Nó là điểm vàng son của nền Đệ nhị Cộng hòa”. Chương trình này đã tạo ra một tầng lớp tiểu nông đông đảo, thúc đẩy kinh tế hàng hóa trong nông nghiệp phát triển. Nông dân hăng hái sản xuất và năng suất lao động trong sản xuất lúa gạo tăng lên nhanh chóng. Đời sống của nông dân được cải thiện”

Trái phiếu thu mua đất của địa chủ để cấp cho nông dân trong cải cách điền địa ở miền Nam

Cũng là mục tiêu người cầy có ruộng nhưng công hay tội thành công hay thất bại là ở cách làm. Tại sao nông dân vẫn có ruộng nhưng ở Miền Bắc phải cướp đoạt, phải bắn giết, gieo rắc hận thù, làm đảo lộn gia phong còn ở Miền Nam thì không?

Bất ngờ, ngày 12/9, gần trăm dân oan Dương Nội trong đồng phục dân oan kéo nhau đến đòi xem triển lãm. BTC đối phó bằng cách bắt cởi áo dân oan rồi mới được vào. Ai dè họ cũng cởi phắt ra luôn nhưng cũng không vào được vì BTC thông báo tạm thời đóng cửa do sự cố …ánh sáng.

Được biết, phòng trưng bày sẽ mở cửa đến 31/12/2014, nghĩa là tới 4 tháng lận. Thế nhưng mới mở cửa được mấy ngày đã xảy ra sự cố ánh sáng. Không biết thực hư thế nào nhưng nhiều ý kiến cho rằng chẳng qua BTC tìm cách đối phó mà thôi.


Mới chỉ có mấy hôm mà những thông tin về hiệu ứng của triển lãm xem ra theo xu hướng bất lợi so với mục đích ban đầu. Còn những ba tháng rưỡi nữa, không biết rồi sẽ xảy ra những chuyện gì? Kéo dài đến hết năm có vẻ thật là khó. Còn đóng cửa ư? Giải thích với công luận thế nào đây? Lý do về sự cố ánh sáng, điện đóm không thể đưa ra mãi. Dân oan Dương Nội còn “dọa” sẽ tìm cách vào phòng triển lãm cho bằng được.

Hình như khi triển khai dự án này, Ban tổ chức không lường trước được hệ quả. Hướng tới cho người dân về thành quả của CCRĐ đâu không biết, chỉ thấy những phản ứng bất bình.

Rất khó hiểu về cuộc triển lãm này. Thực sự người ta không hiểu nổi họ tính toán ra sao để cho mục đích đạt được. Trao đổi với tôi về việc này, tiến sĩ Nguyễn Văn Khải cho rằng, có gì đâu, nó bày ra để lấy tiền dự án thôi mà. Nhưng cũng có người nói tay nào thầy dùi tổ chức triển lãm này nếu không ngu thì cũng là thằng đểu.

12/9/2014

Phát triển kinh tế tư nhân: khẩu hiệu suông

Phát triển kinh tế tư nhân: khẩu hiệu suông

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-09-13

namnguyen09132014.mp3

000_Hkg10094608.jpg

Một cửa hàng bán sỉ bia và nước giải khát tại Hà Nội hôm 8/9/2014.

AFP PHOTO/HOANG DINH Nam

Những đứa con bị hắt hủi?

Nhà nước Việt Nam vẫn chưa nhận thức đúng vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân, do vậy mọi nguồn lực vẫn ưu tiên cho doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp tư nhân được ví von là phải chịu số phận của những đứa con bị hắt hủi.

Những số liệu về tổng số doanh nghiệp ở Việt Nam khá mù mờ. Theo Bộ Kế hoạch đầu tư tính đến cuối năm 2013, khoảng 650.000 doanh nghiệp có đăng ký thành lập trên cả nước. Tuy vậy có thể chỉ còn khoảng 360.000 doanh nghiệp hoặc ít hơn đang thực sự còn hoạt động.  Theo Tổng Thư ký Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Phạm Thị Thu Hằng phát biểu tại cuộc Hội thảo ngày 9/9/2014 tại Hà Nội, doanh nghiệp tư nhân chiếm hơn 97% tổng số doanh nghiệp ở Việt Nam tính đến năm 2012. Nhưng toàn bộ khu vực kinh tế tư nhân chỉ chiếm 42% tổng nguồn vốn. Tuy bà Hằng không nói ra, nhưng có thể hiểu rằng doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI chỉ chiếm khoảng 2%-3% tổng lượng doanh nghiệp nhưng lại sử dụng phần vốn lớn hơn của nền kinh tế. Thật không ngạc nhiên khi tường thuật cuộc Hội thảo, SaigonTimes Online đã ví von “Khu vực kinh tế tư nhân vẫn chỉ là đứa con bị hắt hủi, cho dù Nhà nước đã có một số chính sách hỗ trợ.”

Sự phân bổ nguồn lực của Việt Nam rất kém hiệu quả và không hợp lý. Khối kinh tế Nhà nước thì thu hút tới 65% tổng tín dụng, nhưng chỉ sản xuất ra được 28% tổng sản phẩm xã hội.
-TS Lê Đăng Doanh

TS Lê Đăng Doanh chuyên gia kinh tế độc lập ở Hà Nội từng có nhận định:

“Một trong những chức năng cơ bản của Nhà nước là phân bố nguồn lực một cách hợp lý, để bảo đảm sự phát triển xã hội và tăng trưởng của nền kinh tế. Nhưng nhìn lại thì thấy sự phân bổ nguồn lực của Việt Nam rất kém hiệu quả và không hợp lý. Khối kinh tế Nhà nước thì thu hút tới 65% tổng tín dụng, nhưng chỉ sản xuất ra được 28% tổng sản phẩm xã hội.”

Trong tư liệu của chúng tôi, TS Lê Đăng Doanh cho rằng, số liệu của Tổng Cục Thống Kê ghi nhận khối kinh tế nhà nước đóng góp tới 34% tổng sản phẩm xã hội là đã gộp luôn cả đóng góp của quốc phòng, của bộ máy hành chính, của thể dục thể thao…

Được biết các số liệu thống kê của cơ quan nhà nước Việt Nam công bố thường có sai biệt lớn với các nguồn độc lập.

Về vấn đề doanh nghiệp tư nhân gặp quá nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh, phải đóng của hàng loạt trong khi nhà nước vẫn chú trọng ưu tiên khu vực doanh nghiệp nhà nước, hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Chuyên gia tài chính Bùi Kiến Thành từ Hà Nội nhận định:

“Hiện trạng bây giờ những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ không có hiệu quả kinh tế. Chỉ số ICOR tỷ lệ đầu tư đưa ra sản xuất rất là tệ, nhưng mà chúng ta vẫn nói đó là chủ đạo thì làm sao được. Vì vậy tư duy của lãnh đạo nhà nước là phải xem lại quan niệm của mình, trách nhiệm của mình đối với nền kinh tế là gì. Trong khi đó phần dân doanh tuy gồm doanh nghiệp nhỏ và vừa nhưng lại thể hiện hơn 50% tổng sản phẩm quốc nội. Bằng chứng là doanh nghiệp dân doanh đã tạo ra bao nhiêu công việc làm mà nhà nước không làm được…”

000_Hkg9758500-400.jpg

Một chi nhánh Ngân hàng Quân đội (MB Bank) ở Hà Nội hôm 25/4/2014. AFP PHOTO / HOANG DINH Nam.

Ông Bùi Kiến Thành cho rằng khu vực kinh tế tư nhân tự bơi một mình, sự tiếp cận tín dụng ngân hàng là cực kỳ khó khăn. Ông nói:

“Chúng tôi cho là không có chính sách ủng hộ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp dân doanh phát triển. Thậm chí có những chuyện hết sức đơn giản, chính sách tiền tệ để tạo nguồn tín dụng cần thiết cho cả nền kinh tế hoạt động chúng ta cũng chưa nắm được…chưa nắm được thể chế cơ bản của chính sách tiền tệ là cái gì… Ngân hàng Nhà nước hiện đương làm gì, có phải là một Ngân hàng Trung ương hay không… Nhà nước có phận sự cung cấp tín dụng đầy đủ cho nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững, dân doanh cũng như quốc doanh không thể nào mà để cho ruộng khô lúa cháy được, cũng không thể nào khi ruộng đang khô như thế mà anh tưới nước nóng vào cho nó chết thêm với lại những loại lãi suất trời ơi đất hỡi… ”

Đối xử không bình đẳng

Trở lại cuộc hội thảo do Bộ Kế hoạch Đầu tư tổ chức tại Hà Nội ngày 9/9/2014, Tổng Thư ký Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Phạm Thị Thu Hằng được SaigonTimes Online trích lời đã nhìn nhận: “Doanh nghiệp vừa và nhỏ dân doanh chưa thực sự được đối xử bình đẳng với khối doanh nghiệp nhà nước và đầu tư nước ngoài… nhiều doanh nghiệp tư nhân không có cơ hội phát triển khi gần đây đã xuất hiện chủ nghĩa thân hữu. Hơn nữa thủ tục hành chính phiền hà vẫn cản trở đối với khu vực kinh tế này…”

Tổng Thư ký Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam không giải thích cũng không đưa ra các ví dụ về chủ nghĩa thân hữu cản trở sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân.

Chủ nghĩa thân hữu là bạn bè thân quen thì anh được sự ưu đãi, anh không bạn bè thì tôi quên anh đi. Bạn bè là cái gì, bạn bè là anh có phong bao phong bì cho tôi hay không.
-Bùi Kiến Thành

Có thể hiểu sự tác động của chủ nghĩa thân hữu như thế nào? Chuyên gia Bùi Kiến Thành phân tích:

“Chủ nghĩa thân hữu là bạn bè thân quen thì anh được sự ưu đãi, anh không bạn bè thì tôi quên anh đi. Bạn bè là cái gì, bạn bè là anh có phong bao phong bì cho tôi hay không, chứ không phải bạn bè ngồi đó nói chuyện chơi với nhau được. Nói chung dùng cái từ ngữ để nói chế độ này nó đương ở trong tình trạng tham nhũng nghiêm trọng. Từ thành thị tới thôn quê từ cấp cao nhất tới cấp thấp nhất của vấn đề quản lý nhà nước. Việc này Nghị quyết Trung ương 4 đã nói rõ từ hai năm nay rồi, vấn đề này nó ảnh hưởng sự sống còn tồn vong của Đảng và của chế độ này. Nghị quyết Trung ương của Bộ Chính trị nói rõ như thế mà chúng ta không làm gì cả, đấy là trách nhiệm của người quản lý nhà nước và quản lý chính trị của đất nước Việt Nam này.”

Theo Ngân hàng Thế giới, khu vực kinh tế tư nhân của Việt Nam chưa được phát triển theo mức cần phải có và hoạt động với nhiều rào cản. Dù vậy hiện nay doanh nghiệp tư nhân sử dụng vốn có hiệu quả hơn hẳn doanh nghiệp nhà nước. Thí dụ mỗi một đơn vị vốn bổ sung thì khu vực doanh nghiệp tư nhân tạo ra doanh thu bổ sung nhiều gấp ba lần so với doanh nghiệp nhà nước.

Ngân hàng Thế giới từng kêu gọi Việt Nam xóa bỏ độc quyền tạo sân chơi bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế. Nếu được như vậy thì khu vực tư nhân sẽ phát triển mạnh và tạo ra nhiều công việc làm hơn nữa góp phần phát triển đất nước.

Dù Hiến pháp 2013 của Việt Nam tiếp tục nhìn nhận sự chủ đạo của kinh tế nhà nước. Nhưng việc Việt Nam hội nhập sâu với thế giới, tham gia nhiều Hiệp định thương mại tự do, lại chính là động lực buộc nhà nước cải cách sâu rộng hơn về pháp luật kinh doanh và đầu tư và chịu nhiều áp lực hơn về xóa bỏ độc quyền, đặc quyền, đặc lợi của tổng công ty doanh nghiệp nhà nước.

CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT

CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT

Trích Ephata 625

Image result for cai cach ruong dat

Mấy hôm nay trên các trang báo, các đài truyền hình, các websites, các blog và facebook nổ tung một lượng thông tin rất lớn về cuộc triển lãm Cải Cách Ruộng Đất ( 1946 – 1955 ) tại Hà Nội, cơn bão thông tin như xới lên vết đau mà lâu lắm rồi, 60 năm tưởng chìm vào quên lãng, chí ít là cũng tạm ngủ yên vì không mấy ai nhắc đến nữa. Bao nhiêu cảm xúc được phơi bày cho thấy, quả thật là một cuộc “cách mạng long trời lở đất” trong quá khứ còn hằn dấu cho đến hôm nay. Phản ứng mạnh và sâu rộng như thế này không biết đến bao giờ biến cố tang tóc này mới lắng xuống và trôi vào dĩ vãng ?

Cuộc cải cách ruộng đất những năm ấy ghi một dấu ấn sâu đậm vào cuộc sống gia đình tôi, cách riêng cha tôi, mà cho đến giờ chết ông vẫn còn chưa nguôi ngoai nỗi đau buồn. Không riêng gì nhà tôi, hầu hết các gia đình ở miền Bắc đa phần đều hứng chịu, người cách này kẻ cách khác, kẻ cả những gia đình đã vào Nam trước nhưng vẫn có liên hệ với họ hàng thân thuộc ở lại miền Bắc.

Năm 1945, khi Việt Minh nổi dậy cướp chính quyền, cha tôi, đang còn là một thanh niên, vội vàng bỏ lại người vợ trẻ và hai đứa con ở miền quê nghèo nàn của mình, trốn lên thành thị để tránh bị ruồng bắt. Cha tôi chẳng làm gì để phải mắc “nợ máu” với nhân dân, nhưng ông bị tìm bắt chỉ vì đã là chánh hội Nam Thanh ( hội Thanh Niên Công Giáo trong Giáo Xứ thời bấy giờ ), bị xem là lực lượng đối kháng với họ. Mẹ tôi kể “Bố vừa thoát ra khỏi nhà ban chiều, lúc sập tối, thì nửa đêm họ ập vào nhà lục soát tra khảo mẹ”.

Sau cái đêm kinh hoàng ấy, mẹ tôi đã tìm cách đưa đứa con trai đầu lòng trốn lên thành Nam theo bố, ông nội tôi thì giữ bằng được đứa con trai thứ hai ở lại quê để “hương khói tổ tiên”. Mẹ tôi sẽ tìm cách trở về làng “đánh tháo” đứa con này của mình, cha tôi sẽ đạo diễn “chiến dịch” ly kỳ ấy, vì không chịu được cảnh “cứ xới cơm lên là mẹ lại khóc vì mất con”.

Cuộc “bắt cóc” đứa con trai được thực hiện đúng ngày lễ Đức Mẹ lên Trời, bổn mạng của Giáo Họ, mọi người vui vẻ tham gia cuộc rước kiệu, ông nội tôi mải mê đọc kinh đi theo kiệu, anh tôi thoát ra sau mật lệnh của thím út, hai mẹ con gặp nhau ở bãi tha ma rồi cắm đầu chạy. Cuộc đào thoát diễn ra ban đêm, hai mẹ con băng qua các cánh đồng chứ không dám chạy trên mặt lộ sợ bị bắt lại. Khi đến được nơi an toàn là bến đò, hai mẹ con xuống núp ở một canô chở chiếu đi buôn. Lúc này mẹ tôi mới phát hiện ra túi bánh kẹo cha tôi mua, dặn trao cho thím út mang về làm quà cho mọi người, vẫn còn đeo nguyên bên người… Sau này, năm 1975, các anh tôi phải đi tù cải tạo xa, nhiều tháng ngày không tin tức, một lần nữa mẹ tôi lại nhiều phen băng rừng tìm con, bà lồng lộn lên như con thú bị mất con, quyết tâm dành lại cho bằng được.

Di cư vào miền Nam rồi, ngày được tin ông nội tôi mất, cả nhà bao trùm một bầu khí thê lương. Bố tôi ngồi rầu rĩ không nói gì, mấy ngày trôi qua trong im lặng đáng sợ, chỉ có tiếng thở dài của bố và của mẹ, thỉnh thoảng các chú tôi đến nhà, mấy anh em lại ngồi vò đầu thở dài với nhau. Mấy ngày sau bố tôi tổ chức phát tang rồi đi dâng lễ ở Nhà Thờ, tối tối đọc kinh trong nỗi buồn hiu hắt. Sau này nhờ Ủy Hội Quốc Tế, các danh thiếp liên lạc Bắc – Nam cho chúng tôi biết rõ hơn về cái chết của ông. Sau 30 tháng 4, chính cô tôi vào Nam kể lại nhiều chi tiết đau xót hơn nữa.

Image result for cai cach ruong dat

Ông tôi, một nông dân nghèo, sở hửu 2 công ruộng, bị xếp loại địa chủ lôi ra đầu tố. Cả cuộc đời chân lấm tay bùn, cày cấy trên chính mảnh ruộng của mình còn không đủ ăn lấy ruộng đâu ra mà cho tá điền làm thuê ? Tính tình ông nhân hậu, cho người hàng xóm mượn vài yến thóc, thế cũng đủ là nguyên nhân để bị kết tội địa chủ. Người ta vin vào việc ông có thóc cho vay, chính người hàng xóm từng được vay thóc đã quay ngược lại vu cáo ông tôi, rồi mấy người trong xóm theo phong trào, nhảy dựng lên mà kể tội, bảo “lắm của nhiều bạc nên mới phè phỡn sáng chiều chỉ mỗi một việc đến nhà thờ đọc kinh” !?!

Tòa Án Nhân Dân quyết định xử tử hình ông tôi. Đêm trước ngày thi hành án, cô tôi nắm một nắm cơm bò vào sân đình nơi nhốt ông tôi để ông ăn đỡ đói, khi bò vào đến nơi trói ông tôi, sờ vào người thì ông tôi đã mất rồi, người cứng đờ không còn biết gì nữa, cô tôi sợ quá không dám phản ứng gì, lẳng lặng bò ra. Hôm sau họ đem xác ông ra vùi ngoài bãi tha ma, đến con ruột cũng không dám thắp nén hương cho bố, mãi sau này mới đem cải táng về chung trong lăng mộ của gia tộc.

Cũng sau năm 75, người hàng xóm từng cầm đầu đám đông đứng lên đấu tố ông tôi tìm vào Nam, ông ta tìm đến thăm gia đình tôi và ngỏ lời xin lỗi, cha tôi lẳng lặng không một lời trách cứ. Sau bữa cơm mời khách, cha tôi bảo mẹ tôi cho họ ít tiền xe.

Khách về rồi, cha mẹ tôi bùng nổ xung đột, khi có khách bà nhịn không nói, khách đi rồi, bà bảo sao lại có thể dọn cơm đãi đằng kẻ đã vô ơn bất nghĩa, đã góp phần làm hại cha của mình cơ chứ. Cha tôi vẫn không một lời, gương mặt ông hằn lên nỗi đau khổ. Sau này khi ông đau nặng, những ngày tôi kề cận bên ông, nghe ông tâm sự, tôi mới hiểu ông bị dằn vặt về tội bất hiếu, đã vắng mặt trong những ngày khốn khổ của cha mình.

Không ai có thể đo được sự tàn phá của một chính sách tàn ác và sai lầm, nỗi đau len lỏi vào tận từng tâm hồn con người nạn nhân, di chứng đến nhiều thế hệ. Cái cách thi hành chính sách “cải cách ruộng đất” làm sụp đổ cả một hệ thống đạo đức xã hội, phá tan tình làng nghĩa xóm, gia đình anh em họ hàng ruột thị, nó cắt nghĩa tại sao tội ác về sau này sẽ hoành hành hung tợn, con người sẽ chém giết nhau không gớm tay.

Người tin vào Chúa đứng trước thách đố vô cùng to lớn, nếu thật sự vững tin vào Chúa, phải chứng minh được rằng Tin Mừng có sức hàn gắn, chữa lành và thay đổi mọi sự. Mỗi người tùy theo lương tâm mách bảo mà dấn thân cho sự sống của dân tộc mình, dấn thân để không chỉ mang lại sự sống, nhưng còn là Sự Sống dồi dào bất diệt ( x. Ga 10, 10 ).

Lm. VĨNH SANG, DCCT, 13.9.2014

 

Làm từ thiện: nên hay không?

Làm từ thiện: nên hay không?

Ts. Nguyễn Đình Thắng

Ngày 11 tháng 9, 2014

http://machsong.org

Trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại thường có sự giằng co giữa 2 khuynh hướng về việc làm hay không nên làm từ thiện ở Việt Nam. Khuynh hướng làm từ thiện chủ trương rằng “máu chảy ruột mềm”, đồng bào khốn khó thì phải cứu giúp. Khuynh hướng ngược lại thì lập luận rằng chế độ thối nát hiện nay chính là nguyên nhân của các vấn nạn xã hội, làm từ thiện chỉ là nuôi mầm bệnh và bệnh trạng sẽ ngày càng trầm trọng. Bên nào nghe cũng có lý.

Quả vậy. Cả hai bên cùng có lý. Trong hoàn cảnh của Việt Nam đó là hai mặt của một đồng tiền. Không thể thiếu một. Mâu thuẫn xẩy ra khi cả hai bên cùng nghĩ rằng đồng tiền chỉ có một mặt: mặt của bên mình.

Làm Từ Thiện Là Bắt Buộc

Một xã hội nhân bản, nơi con người được tôn trọng và hạnh phúc của con người là cứu cánh, phải được xây dựng trên lòng nhân. Trước cảnh khốn khó của con người, đặc biệt là đồng bào, thì lòng nhân ấy thôi thúc chúng ta hành động. Ai đeo đuổi lý tưởng cứu dân, cứu nước mà không động lòng nhân cứu người thì rất đáng ngờ về thực tài và thực tâm – chưa làm việc nhỏ thì không thể làm việc lớn, và nói cứu thế mà không cứu người thì dễ dẫn đến tìng trạng nhân danh lý tưởng viển vông để hại người như đã diễn ra bao lần trong lịch sử nhân loại.

Nhưng không đủ

Trong hoàn cảnh Việt Nam, khổ nạn của đồng bào không chỉ là đơn lẻ mà phủ trùm cả xã hội. Nó mang tính hệ thống. Chế độ thối nát đẻ ra vấn nạn xã hội, như buôn người, bóc lột lao động, băng hoại đạo đức, xuống cấp giáo dục, chênh lệch giàu nghèo, hối lộ tham nhũng… Điều này ai cũng thấy. Điều ít ai để ý là bản chất độc tài của chế độ loại trừ yếu tố quyết định để đối phó hữu hiệu và giải quyết tận gốc các vấn nạn. Đó là yếu tố toàn dân nhập cuộc.

Hãy lấy nạn buôn bán trẻ em và phụ nữ làm ví dụ. Có người cho rằng sự nghèo khổ đẩy trẻ em phụ nữ vào con đường nô lệ tình dục, cho nên tạo cơ hội ăn học và nghề nghiệp là giải pháp. Nghe hữu lý, nhưng ở Việt Nam chỉ hữu lý nếu áp dụng nơi nơi. Còn như chỉ được áp dụng ở một làng, một xã thì dù thành công, thực trạng vẫn y nguyên: Kẻ buôn người sẽ buôn bán trẻ em và phụ nữ ở làng bên, xã bên – nghĩa là khổ nạn được đùn đẩy sang những nạn nhân khác. Đâu lại hoàn đó.

Đó là chưa kể, trước một vấn nạn mang tính hệ thống, nếu không trị tận gốc thì bệnh ngày càng thêm trầm trọng – giúp một người thì thêm trăm hay nghìn người khác vướng mắc. Chẳng khác nào bệnh nội thương mà cấm tuyệt bác sĩ chữa trị và chỉ được phép băng bó ngoài da.

Cách duy nhất là trị tận gốc, thực hiện ở trên toàn xã hội. Và điều này đòi hỏi toàn dân nhập cuộc, một điều đi ngược với bản chất độc tài của chế độ vì nó chính là đòi hỏi dân chủ.

Đấy là nửa kia của đồng tiền: Trong hoàn cảnh Việt Nam, làm từ thiện manh mún thì chỉ là nuôi con bệnh.

Trách nhiệm song hành

Làm từ thiện là bắt buộc nhưng đồng thời phải tranh đấu cho giải pháp căn bản trước vấn đề hệ thống. Lòng nhân thực sự đòi hỏi chúng ta phải làm cả hai: làm từ thiện để cứu một ít người và tranh đấu cho mọi người trong xã hội cũng có quyền làm từ thiện.

Bằng không thì sẽ có nhiều bất cập.

Chẳng hạn, có tổ chức ở hải ngoại được phép vào Việt Nam hoạt động chống buôn người hay xoá nạn thất học, dĩ nhiên chỉ ở một phạm vi địa dư rất hạn hẹp, trong khi các tổ chức tôn giáo có khả năng hoạt động trên địa bàn rộng lớn hay toàn quốc và với kinh phí thấp hơn nhiều thì lại bị cấm cản.

Hoặc, có một số tu sĩ được phép ra hải ngoại quyên góp cho việc xây cơ sở thờ phượng, nhưng những tu sĩ khác lại bị cấm xuất cảnh để vận động bảo vệ tài sản sẵn có của giáo hội đang bị cưỡng chiếm.

Có phải là chính trị?

Nói đến tranh đấu đòi quyền cho dân thì có người cho đó là làm chính trị nên tránh né. Chính trị là hoạt động để thay đổi, tham gia hay nắm chính quyền. Còn đòi cho toàn dân có quyền giải quyết các vấn nạn xã hội là việc chính đáng phải làm. Có người đề nghị dùng chữ “chính sự” cho những việc chính đáng phải làm, để phân biệt với “chính trị”.

Tóm lại, mỗi chúng ta trong hoàn cảnh đất nước hiện nay phải cùng lúc cáng đáng cả từ thiện và chính sự.

Bài Ca Vạn Vật

Bài Ca Vn Vt

Một tác giả nọ đã tưởng tượng ra một cuộc gặp gỡ giữa một nhà trí thức bi quan với Thánh Phanxicô thành Assisi.

Như thường lệ, mỗi lần gặp bất cứ ai, vị sứ giả của Hòa Bình thường cất lên bài ca vạn vật: “Chúc tụng Ðấng Tối cao, Thiên Chúa toàn năng vì anh Mặt Trời, vì chị Mặt Đất, vì anh Lửa, anh Gió, vì chị Chết”.

Nhà trí thức bi quan lắng nghe hết bài ca vạn vật của vị sứ giả Hòa Bình.  Nước mắt lăn dài trên gò má của ông.  Nhưng đây không phải là những giọt nước mắt của cảm động, mà là của căm tức thì đúng hơn.  Không còn kềm hãm được cơn giận của mình nữa, nhà trí thức bi quan trút bỏ trên Thánh Phanxicô tất cả những sôi sục của ông mà ông cũng cho là của không biết bao nhiêu kẻ vô tội khác trên trần gian.

Ông nói với Thánh nhân như sau:

“Hỡi người anh em kỳ diệu với cái nhìn đầy ánh sáng.  Người anh em ca tụng mặt trời.  Người anh em có bao giờ thấy người ta chết vì bị mặt trời thiêu đốt chưa?  Có bao giờ thấy cả một sa mạc nắng cháy khô cằn chưa?  Có thấy người ta chết vì hạn hán không?…

…Người anh em ca tụng nước, nhưng có bao giờ chững kiến cảnh lụt lội, màn trời chiếu đất chưa?

…Người anh em ca tụng Mẹ Ðất.  Hẳn người đã biết run sợ khi chứng kiến cảnh động đất: nhà cửa đổ nát, người người bị chôn vùi.

…Ca tụng lửa, vậy người anh em có bao giờ chứng kiến cảnh núi lửa thiêu rụi núi rừng cây cỏ và con người không?..

…Người anh em ca tụng anh gió.  Có lẽ chưa bao giờ người anh em ra giữa khơi để chứng kiến cảnh chới với của những người đi biển khi gặp cuồng phong? Hằng năm có biết bao nhiêu người chết vì gió bão? Hằng năm có biết bao nhiêu người chết vì thiên tai?”.

Nghe tất cả những lời tả oán ấy của người trí thức bi quan, vị sứ giả của Hòa Bình chỉ mỉm cười…

Ngài gật đầu trả lời:

“Phải, hỡi người anh em, ta nghe và biết tất cả những gì người anh em mới kể ra.  Ta biết rằng tất cả những điều thiện hảo đều có thể trở thành xấu do sự sử dụng không đúng của con người.  Ðó là chân lý mà ai trong chúng ta cũng đều có thể cảm nghiệm được trong cuộc sống mỗi ngày…

…Nhưng điều ta muốn nói: đó là ngay từ những điều xấu, Thiên Chúa có thể biến thành khởi nguồn của những điều tốt đẹp hơn.  Trong bài ca, ta đã nhắc đến Sự Chết và Tội Lỗi là hai điều xấu xa nhất.  Cái chết có thể trở thành nguồn ơn cứu thoát.  Tội lỗi cũng có thể trở thành khởi điểm của hồng ân. Thánh Phaolô há đã chẳng nói: “Nơi nào tội lỗi càng nhiều, nơi đó Thiên Chúa càng ban ơn dồi dào hơn”…

…Thiên Chúa không bao giờ thất vọng và đầu hàng trong việc thi ân cả.  Tất cả những gì Ta muốn nói lên trong Bài Ca Vạn Vật của Ta: đó là mời gọi anh em hãy cố gắng nhìn thấy sự thiện trong mọi sự.”

Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài

: KittyThiênKim & Nguyễn Kim Bằng gởi

Sự thật của cuộc triển lãm ‘cải cách ruộng đất’

Sự thật của cuộc triển lãm ‘cải cách ruộng đất’

An Nhiên, thông tín viên RFA
2014-09-10

09102014-exhi-land-reform.mp3

ccrd-3-622

Hình ảnh một vụ đấu tố trong thời cải cách ruộng đất.

File photo

Chính quyền Hà Nội quyết định cho phép triển lãm những hình ảnh, di vật trong thời gian Cải Cách Ruộng Đất, tuy nhiên cuộc triễn lãm có phản ánh đúng với những gì đã diễn ra trong lịch sử?

Không đầy đủ không trung thực

Vào sáng ngày 8/9/2014 tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia Hà Nội khai mạc cuộc triển lãm 150 hình ảnh và các di vật về “cải cách ruộng đất” trong khoảng thời gian từ 1946-1957 trong một không gian rộng khoảng 230m2. Sự kiện đang thu hút rất nhiều sự quan tâm của các nhà sử học và công chúng. Ông Nguyễn Văn Cường, Giám đốc Bảo tàng Lịch sử quốc gia cho biết chủ đề triển lãm tái hiện giai đoạn lịch sử mà Đảng Cộng sản Việt Nam giúp “người cày có ruộng, xóa bỏ giai cấp bốc lột ở nông thôn”, và thành tựu đó có phần đóng góp rất lớn vào trường kỳ kháng chiến giành độc lập tòan dân tộc Việt Nam  – trên bản tin thời sự của VTV vào tối 8/9:

“Chúng tôi muốn công chúng sẽ được tiếp cận một cách nó đa chiều và tòan diện về buổi thực hiện, việc thành tựu nó rất là lớn. Trong buổi triển lãm này nó thể hiện đó là cảnh “người cày có ruộng”, đó là xóa bỏ giai cấp bốc lột.

“Thế nhưng mà với 150 hiện vật được bày ở đó thì nó đưa lại cho tôi cái nhận xét không đúng như là những gì tôi đã đọc được hoặc là tôi đã nghe được trực tiếp từ những nạn nhân của cải cách ruộng đất

Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện”

Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện Phó giám đốc Thư viện Hán Nôm Việt Nam đang công tác tại Hà Nội, hy vọng cuộc triển lãm CCRĐ của chính quyền Hà Nội sẽ đem đến cho công chúng một cái nhìn tương đối tòan diện, tuy nhiên ông đã thất vọng sau khi đi xem và nghe ban tuyên huấn thông báo trên phương tiện truyền thông:

“Thế nhưng mà ở trong đó thấy những tư liệu hoặc là những hình ảnh khác nhau về cuộc cải cách ruộng đất này. Qua đấy để cho những người mà không sống được trong thời kỳ đó, sẽ tìm hiểu được cái cuộc CCRĐ này như thế nào. Thế nhưng mà với 150 hiện vật được bày ở đó thì nó đưa lại cho tôi cái nhận xét không đúng như là những gì tôi đã đọc được hoặc là tôi đã nghe được trực tiếp từ những nạn nhân của cải cách ruộng đất.”

Ông Diện cho biết tiếp không chỉ mình Ông nói rằng cuộc triển lãm CCRĐ này là không trung thật mà còn có nhiều người đã lên tiếng cũng viết trong quyển lưu bút được đặt tại phòng triển lãm, trong đó có người từng là người trong cuộc:

“Tôi đã ghi vào sổ ghi cảm tưởng là tôi đã đến xem triển lãm CCRĐ,  các hiện vật không toát lên sự không trung thật về CCRĐ, cùng ký tên, cùng ở trong cái trang lưu bút đó thì có một người là Tiến sĩ sử học Việt Trần Hoàng cũng ghi trong là cảm nhận sau khi xem triển lãm CCRĐ đây là vấn đề khá nhạy cảm, có triển lãm còn hơn là không có. Tuy nhiên với tư cách là người trong cuộc, tôi không thấy triển lãm đáp ứng được yêu cầu mong mỏi của công chúng từ  khá lâu.”

” Tôi thấy thiếu một điều mà tôi quan tâm nhất đó là phần đấu tố địa chủ, con số bao nhiêu địa chủ bị bắt oan không thấy, tôi cũng muốn xem cái cảnh mà nông dân đấu tố địa chủ mang họ ra tòa án dân nhân đấu tố như thế nào? Trói tay, trói chân sỉ nhục họ ra làm sao? Thì tôi không thấy?

Blogger Nguyễn Tường Thụy”

Sự thật của việc cải cách ruộng đất vẫn được che dấu

Blogger Nguyễn Tường Thụy là người có mặt trong ngày khai mạc triển lãm CCRĐ cũng muốn tìm hiểu sự thật thông tin – hiện vật trong việc CCRĐ, nhưng rồi Ông Thụy cũng thất vọng, cho rằng buổi triển lãm chỉ mang tính thành tích của chính quyền, không nói lên sự thật:

“Hình ảnh hiện vật ít, có thể họ đã chọn lọc, tôi thấy thiếu một điều mà tôi quan tâm nhất đó là phần đấu tố địa chủ, con số bao nhiêu địa chủ bị bắt oan không thấy, tôi cũng muốn xem cái cảnh mà nông dân đấu tố địa chủ mang họ ra tòa án dân nhân đấu tố như thế nào? Trói tay, trói chân sỉ nhục họ ra làm sao? Thì tôi không thấy?”

Ông Thụy tiếp lời:

“Còn ngoài ra trưng bày những cảnh địa chủ, còn nông dân ăn mặc rách rưới, quần áo nông dân thế này…quần áo của địa chủ thế kia, và hình ảnh nông dân hồ hởi theo đảng để ủng hộ CCRĐ thì những hình ảnh ấy rất là nhiều, và cũng đưa ra những hình ảnh trước và sau CCRĐ nông dân được này, nọ thì nó được nâng lên. Nhưng về tòan hoàn cảnh  không được đều, phần nào muốn nhấn mạnh thì nhiều hiện vật hơn, phần nào họ không muốn nhấn mạnh thì ít hiện vật hơn.”

Trong những hiện vật triển lãm cũng nói đến sự sai lầm của Đảng cộng sản trong việc CCRĐ, tuy nhiên những hình ảnh – hiện vật – tài liệu cụ thể thì công chúng không được biết đến một cách rõ ràng, Ông Nguyễn Tường Thùy cho biết:

” Trong cuộc triển lãm này không thấy những hình ảnh đó, nó rất là phiến diện đáng lẽ ra là nói hết được tòan cảnh của việc CCRĐ, nhưng mà khi đến xem cái cuộc triển lãm đó thì chỉ thấy được hình ảnh tưng bừng của nông dân được chia rượu, và là thấy được đời sống xa hoa của địa chủ

Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện”

“Khi mà nói về sửa sai thì cũng trưng bày một số cái văn bản, nói về vấn đề sửa sai một vài hình ảnh, vì dụ như trong hội nghị đại khái là, hội nghị nói về sai lầm trong CCRĐ xảy ra trong năm 1956 hay 1957, thì có một cái ảnh ông Hồ khóc mà khi nhận sai lầm thì cũng không có được trưng ra, bức ảnh đó tôi thấy rất là ấn tượng.”

Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện rất bức xúc khi mà cuộc triển lãm mang tính lịch sử, nhưng không được trung thật, những sai lầm – tội ác do chính quyền gây ra thời đó không được đưa ra, những việc phá tan chùa, đình, miếu, làng, xã…làm phá vỡ những truyền thống đạo lý – văn hóa tốt đẹp của con người Việt Nam qua ngàn năm:

“Trong cuộc triển lãm này không thấy những hình ảnh đó, nó rất là phiến diện đáng lẽ ra là nói hết được tòan cảnh của việc CCRĐ, nhưng mà khi đến xem cái cuộc triển lãm đó thì chỉ thấy được hình ảnh tưng bừng của nông dân được chia rượu, và là thấy được đời sống xa hoa của địa chủ và tầng lớp trên…”

Ông Diện tiếp lời với chúng tôi:

“Cải cách ruộng đất là do người Trung Quốc, các chuyên gia Trung Quốc chỉ đạo và cố vấn đã được thực hiện một cách rất là rầm rộ trong miền Bắc Việt Nam và đã gây ra là biết bao đau thương. CCRĐ là nó đóng thẳng trực tiếp, phá tan kết cấu làng xã Việt Nam, nó tàn phá luân lý đạo đức lúc bấy giờ là cha tố con, con tố cha, vợ tố chồng, anh em tố nhau…Nó tàn phá cái đạo lý luân lý vô cùng, và những người là nạn nhân của thời đó họ nghĩ lại rất thấy kinh hoàng.”

Theo sự quan sát của Ông Nguyễn Tường Thùy, cuộc triển lãm hiện tại Hà Nội, chính quyền Việt Nam muốn hình ảnh – thông tin về việc CCRĐ được khắc phục tốt đẹp trong con mắt của người dân, dẹp những dư luận không tốt về cải cách ruộng đất mà lâu nay công luận, mọi người vẫn thường nhắc đến.

iBook Cải Cách Ruộng Đất:

http://www.rfa.org/vietnamese/people_stories/land_reform-12022013161432.html

Chuyên đề Cải Cách Ruộng Đất:

http://www.rfa.org/vietnamese/SpecialTopic/landreform

Lực lượng vũ trang cần trung thành với ai?

Lực lượng vũ trang cần trung thành với ai?

Anh Vũ, thông tín viên RFA
2014-09-09

RFA

000_Hkg380740.jpg

lượng vũ trang Việt Nam

AFP photo

Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Khẩu hiệu “Trung với Nước – Hiếu với Dân” của ông Hồ Chí Minh liên tục được dùng để giáo dục các chiến sĩ trong lực lượng võ trang trong hàng chục năm qua. Song đến bây giờ, khẩu hiệu đó bị sửa thành “Trung với Đảng – Hiếu với Dân”.

Lực lượng vũ trang (LLVT) là lực lượng chiến đấu của nhà nước có nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, an ninh, quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội.

Quân đội có nhiệm vụ bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền của quốc gia, chống ngoại xâm. Công an, cảnh sát có nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự và bảo vệ pháp luật.

Ông Hồ Chí Minh đã tặng cho Quân đội Nhân dân Việt nam khẩu hiệu truyền thống “Quân đội ta trung với nước, hiếu với dân. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành. Khó khăn nào cũng vượt qua. Kẻ thù nào cũng đánh thắng” và cũng tặng cho lực lượng Công An Nhân dân khẩu hiệu “Công an nhân dân vì nước quên thân, vì dân phục vụ”.

Gần đây, 20 tướng lĩnh cao cấp của các LLVT đã có thư kiến nghị với Lãnh đạo Nhà nước, trong đó nêu lên yêu cầu: “Lực lượng vũ trang mang tên Nhân dân phải luôn luôn vì Nhân dân, nên không được huy động Quân đội và Công an vào bất cứ việc gì có hại cho Nhân dân. Vì vậy, để bảo vệ uy tín của Quân đội là lực lượng có nhiệm vụ hiến định “quốc phòng”, tức là bảo vệ Tổ quốc trước ngoại xâm, cần chấm dứt ngay việc huy động Quân đội vào những sự vụ mang tính đối kháng với Nhân dân, như giải tỏa đất đai, ngăn chặn các cuộc biểu tình yêu nước ôn hòa…”

Bình luận về vấn đề này, Nhà báo Võ Văn Tạo, một cựu học viên trường Sĩ quan Lục quân Sơn Tây (Trường Võ Bị Trần Quốc Tuấn) cho biết: theo lịch sử của trường, ngày 26.5.1946, ông Hồ Chí Minh đã trao tặng lá cờ đỏ thêu sáu chữ vàng “Trung với Nước, Hiếu với Dân” nhân dịp đến dự lễ khai giảng khóa đầu tiên của trường tại Sơn Tây.

Từ Nha trang, Nhà báo Võ Văn Tạo nói:

“Lúc học chính trị trong LLVT chúng tôi thuộc câu đầu tiên nằm lòng là “Quân đội ta từ Nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”, bên cạnh đó còn có câu “Quân lệnh như sơn”. Chúng tôi thảo luận và trả lời Chính trị viên nói rằng “Chúng ta từ nhân dân mà ra, do đó không bao giờ được phép bắn vào dân”. Nói như thế để thấy việc sử dụng quân đội đàn áp hay nổ sung vào dân là hoàn toàn trái với bản chất ban đầu của Quân đội”

Song những năm gần đây, quan điểm về LLVT của Đảng CSVN đã thay đổi, khác hẳn với quan điểm của ông Hồ Chí Minh. Cụ thể là khẩu hiệu đó đã bị biến thành “Trung với Đảng, hiếu với dân”  và “Công An Nhân dân còn Đảng còn mình”

Bình luận về sự thay đổi quan điểm này của Đảng CSVN, Thiếu tá Nông Hoàng Thắng ở Cục chính trị Quân khu 1 cho rằng: nếu xem xét kỹ về lịch sử, người cẩn trọng sẽ thấy lời căn dặn “Trung với Nước, Hiếu với Dân” của ông Hồ Chí Minh ra đời vào thời điểm tháng 5-1946. Khi ấy tình hình đất nước rất phức tạp, khiến ông Hồ Chí Minh phải nói tránh việc trung với Đảng thành ra trung với nước.

Thiếu tá Nông Hoàng Thắng nói:

“Trước vô vàn khó khăn và để tập hợp khối đoàn kết toàn dân, thành lập Chính phủ liên hiệp kháng chiến với sự có mặt của đại diện nhiều thành phần, đảng phái, hơn nữa về danh nghĩa Ðảng ta đã tuyên bố tự giải tán; nhưng thực tế là Ðảng rút vào hoạt động bí mật. Ðây là lý do để Bác Hồ không nhắc tới Ðảng trong lời dặn đó. Theo tôi việc hiện nay Đảng sửa các khẩu hiệu là trung với Đảng là việc cần thiết và phù hợp với nhiệm vụ chính trị của giai đoạn cách mạng hiện nay.”

Trả lời thắc mắc cho rằng, trước kia cùng nhạc hiệu chương trình phát thanh Quân đội Nhân dân phát trên đài TNVN, vẫn được phát thanh viên đọc: “Quân đội ta trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Song bây giờ đã được đổi thành “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.”.

Nhà báo Võ Văn Tạo nói:

“Đúng, hồi đó là phát thanh viên luôn đọc là “Quân đội ta trung với nước, hiếu với dân”… và câu đó là lấy từ trong lá cờ của Chủ tịch Hồ Chí Minh – Hiệu trưởng danh dự đầu tiên của trường đã tặng cho trường Võ bị Trần Quốc Tuấn. Theo tôi đây là sự phản bội, sự lợi dụng làm chệnh mục tiêu của cách mạng ban đầu đi, để phục vụ cho lợi ích của cá nhân. Người ta lợi dụng Đảng, các chóp bu lợi ích lợi dụng 3-4 triệu Đảng viên làm bình phong che chắn cho quyền lợi của họ thôi”

Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, cho rằng LLVT phải trung thành với Tổ quốc VN chứ không thể trung thành với một Đảng, điều này đi ngược lại với tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo ông trước đây Hồ Chí Minh đã chỉ rõ quân đội phải trung với nước, hiếu với dân.

Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh nói:

“Thế thì vứt Nước đi đâu mà bảo phải trung thành với Đảng CS là thế nào? Tôi là Đảng viên tôi cũng không tán thành ý kiến đó, bởi vì Nước còn thì Đảng còn, Nước mất thì Đảng không còn. Do vậy phải trung thành với Tổ quốc VN tôi cho là vừa chính xác, vừa đúng với  tư tưởng Hồ Chí Minh. Gọi quân đội là quân đội nhân dân, từ nhân dân mà ra. Cho nên phải trung với nước, hiếu với dân là đúng rồi. Chứ không ai nói là quân đội đảng Cộng sản.”

Hiến pháp Việt Nam Sửa đổi năm 2013 mới nhất cũng ghi rõ “Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế.”

Nhà báo Võ Văn Tạo cho biết suy nghĩ của mình:

“Theo tôi đấy là sự láo xược, sự bậy bạ và sự lừa dối khi cho rằng đây là ý kiến của toàn dân. Đó còn là chưa kể đến họ đã tuyên bố thu thập được 27 triệu ý kiến, thử hỏi họ có bộ máy nào để đọc 27 triệu ý kiến mà họ tổng hợp và trong thời gian bao nhiêu năm. Cái đó là điều hết sức bậy bạ, dân không muốn như thế nhưng họ bảo dân muốn. Tôi cho đó là cuộc bức cung toàn dân ”

Đảng phái chỉ là tập hợp của những người có chung một lý tưởng, không đại diện cho lợi ích của tổ quốc và tuyệt đại đa số dân chúng. Lực lượng vũ trang không phải trung thành với bất kỳ đảng phái chính trị nào, mà trung với nước, hiếu với dân là bổn phận thiêng liêng, một trách nhiệm nặng nề, nhưng cũng là một vinh dự của người chiến sĩ trong lực lượng vũ trang.

May mà còn nước Mỹ để đến

May mà còn nước Mỹ để đến


Đào Như

29.08.2014

Trung tuần tháng 8 vừa rồi, dư luận trong nước xôn xao về việc ông Trần Ngọc Phi Long, 31 tuổi, Phó phòng Hợp tác Quốc tế của sở Ngoại vụ Thành phố Cần Thơ, sau khi tham dự khóa huấn luyên ngắn hạn tại Canada từ 30/6/2014 đã tìm cách trốn sang Mỹ và sẽ ở lại đây để tiếp tục học xong cấp tiến sĩ. Từ Mỹ, ông Long đã viết thư về tổ chức của ông trong nước xin nghỉ viêc vì lý do gia cảnh và sức khỏe. Trong khi đó, theo một nguồn tin khác, bà Tạ Thị Dậu, mẹ ông Long, cho hay ông Long gọi điện thoại từ Mỹ về và nói là “con sẽ ở lại Mỹ để học tiến sĩ vì nhà mình nghèo nên khó chứng minh tài chánh, không được, nên con ở lại Mỹ luôn.” Cũng theo Bà Dậu, hiện ông Long đang theo học lớp chuẩn hóa một số chứng chỉ để năm tới được làm nghiên cứu sinh tiến sĩ. Như thế có nghĩa là ông Long được chính thức thu nhận thường trú tại Mỹ.

Được biết, đây không phải là lần đầu tiên ông Long được chính quyền Cần Thơ ưu tiên cho đi tham dự  khóa đào tạo cán bộ ngành. Nhờ giỏi ngoại ngữ, năm 2007 ông Long đã từng được Sở Ngoại vụ Cần Thơ gửi đi tham dự khóa đào tạo cán bộ quan hệ quốc tế tại Anh, với chi phí tổng cộng $15,000 USD. Theo ông Trần  Phước Sơn, Phó Giám đốc Sở Ngoại vụ Cần thơ, ông Long là một cán bộ có nhiều triển vọng.

Điều lý thú ở đây là nhiều công dân ưu tú của các nước xã hội chủ nghĩa đã bỏ nước ra đi, và vùng đất lý tưởng mà họ đến luôn luôn là nước Mỹ. Từ thế kỷ trước là nhà chí sĩ yêu nước Jose Marti của Cuba, Bác sĩ Lý Chí Tuy của Trung Quốc, nhà thơ Nguyễn Chí Thiện, và đến hôm nay, Cù Huy Hà Vũ, Trần Ngọc Phi Long… và sẽ còn những ai nữa. Theo tiết lộ của báo mạng Nguoi-Viet.com thì “gần đây nhất, đã có hai cán bộ thuộc Bộ Công Thương Việt Nam đã tìm cách trốn ở lại Mỹ  sau nhiệm kỳ công tác.Hai cán bộ này là bà NHG, nguyên Ủy viên Thương mại  tại Mỹ, và ông BNL, chuyên viên Vụ Chính sách Đa biên…”

Nguyên do chung cũng chỉ vì thế giới xã hội chủ nghĩa đã lỗi thời, không còn phù hợp với xã hội toàn cầu hóa hôm nay, không phát huy được tư duy và tài năng con người vì không biết tôn trọng quyền lợi con người và tự do cá nhân, hạt nhân để xây dựng xã hội tiến bộ tốt đẹp hơn. Những người bỏ nước xâ hội chủ nghĩa để đến Mỹ đều có mẫu số chúng là giương cao ngọn cờ nhân quyền, và kêu gọi tự do, dân chủ cho đất nước họ.

Phải chăng, Hợp Chủng Quốc vẫn là vùng đất hứa của nhân loại tiến bộ? Ở Mỹ, tự do, dân chủ dã trở thành lý tưởng từ lúc khai thiên lập địa của đất nước này. Nữ thần Tự do là biểu tượng của một nước Mỹ tự do, dân chủ hôm nay. Đó là truyền thống đời đời của nước Mỹ. Con tàu Mayflower cùng với những con tàu tỵ nạn sẽ tiếp tục chuyển tải đến nước Mỹ những con người yêu chuộng tư do, dân chủ đến đây để học hỏi, phát triển tư duy, xây dựng sự nghiệp, đồng thời cống hiến, bồi đắp Hợp Chủng Quốc ngày một tươi sáng vẻ vang hơn. Nước Mỹ, bức tranh hài hòa với muộn vàn màu sắc, là bản hợp xướng tuyệt vời của muôn vàn thanh âm khác nhau, là diểm đến lý tưởng cho nhân loại tiến bộ hôm nay.

Việt Nam trong mắt Lý Quang Diệu

Việt Nam trong mắt Lý Quang Diệu


x

Cao Huy Huân

09.09.2014

Trong thế kỷ 21, có những điều mà trong thế kỷ trước không ai nghĩ rằng sẽ có nhiều thay đổi đến vậy. Giờ phút này, một công dân trẻ như tôi ngồi đây, viết những dòng chữ này thì đất nước Việt Nam, nơi tôi đang sống, làm tôi thất vọng về trình độ phát triển. Sáng nay tôi được đọc một bản nói rằng năng suất lao động của người Việt chỉ bằng 1/5 của người Malaysia, 2/5 của người Thái Lan và tệ hơn, chỉ bằng 1/15 của người Singapore.

Singapore, một đất nước nhỏ bé về diện tích, đang ám ảnh những công dân Việt Nam ở thế kỷ 21 này. Những khu dân cư, những trung tâm thương mại, những thành phố mới được xây dựng… tất cả đều được “ăn theo” mô hình và kỹ thuật của Singapore. Nhưng tại sao lại là Singapore? Chẳng phải những mô hình, những kỹ thuật đó Singapore cũng đã học tập từ những quốc gia phương Tây tiên tiến hay sao? Tại sao từ một làng chài kém phát triển trên bán đảo Malay, Singapore đã phát triển thành một quốc gia đứng thứ 2 ở châu Á về mức sống? Câu trả lời có thể dẫn đến nhiều nguyên nhân, nhưng căn nguyên nhất vẫn là yếu tố con người.

Lý Quang Diệu, nhân vật đã thay đổi và biến làng chài nhỏ bị dịch bệnh triền miên trở thành đất nước có nền kinh tế phát triển hàng đầu của châu Á. Singapore là nơi mà những kiến trúc hiện đại cùng chung sống với thiên nhiên chan hòa, nơi cả thế giới ngưỡng mộ về chuẩn mực môi trường xanh sạch, nơi có làn sóng di dân ngược từ châu Âu sang châu Á. Nhưng trong những ngày đầu lập nước vào thập niên 60 thế kỉ trước, Lý Quang Diệu, thủ tướng đầu tiên của Singapore, đã từng nói “hy vọng là một lúc nào đó Singapore sẽ phát triển giống như Sài Gòn”. Thật  đáng kinh ngạc khi có một thời chính nhà lãnh đạo của Singapore đã mơ tưởng và bị ám ảnh về sự phát triển của Sài Gòn.

Còn bây giờ thì sao? Sau hơn 30 năm, chính người Việt Nam đang thèm thuồng được như Singapore  ngày nay. Sau khi Mỹ rút khỏi miền nam Việt Nam, chính Lý Quang Diệu, người từng có tuổi thơ sinh sống tại Biên Hòa, đã nắm ngay lấy cơ hội đó để biến thời cuộc thành lợi ích cho Singapore. Sau năm 1975, tất nhiên Mỹ và phương Tây đóng cửa với Việt Nam, mọi giao thương với châu Á đều dành cho đồng minh của họ. Singapore được Lý Quang Diệu phát triển thành cảng trung chuyển đường biển lớn nhất tại khu vực. Và đúng theo quy luật về thương mại – kinh tế, Singapore được thừa hưởng những đặc quyền của một cảng biển lớn, một cửa ngõ hướng vào Đông Nam Á và cả châu Á.

Lý Quang Diệu cho rằng, cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Mỹ là tiền đề quan trọng cho sự phát triển của những nước phi Cộng sản ở châu Á. Rõ ràng là trước khi tuyên bố như thế, Lý Quang Diệu đã nhanh chóng nắm lấy cái “tiền đề quan trọng” đó để biến Singapore từ một quốc gia non trẻ kém phát triển thành một đất nước giàu có. Lý Quang Diệu nhận định rằng, sau khi Mỹ rút khỏi miền nam Việt Nam, lập tức những đồng minh của Mỹ ở châu Á tranh thủ thời cơ để trở thành 4 con rồng châu Á, và sau này có thêm sự xuất hiện của 4 con hổ Đông Nam Á. Bốn con rồng được nói đến là Singapore, Nam Triều Tiên, Hong Kong và Đài Loan. Bốn con hổ là Malaysia, Thái Lan, Philippines và Indonesia. Vậy Việt Nam đã biến đi đâu trong bản đồ khu vực? Và lý do gì Việt Nam lại tụt hậu một cách nhanh chóng như vậy?

Lý Quang Diệu từng nói rằng lẽ ra vị trí số một ở châu Á phải là của Việt Nam. Theo ông, vị trí địa lý chiến lược, tài nguyên thiên nhiên phong phú là hai yếu tố hàng đầu có thể đưa Việt Nam trở thành người khổng lồ ở châu Á. Ông cho rằng, đất nước Singapore nhỏ bé với diện tích và dân số chỉ xấp xỉ Sài Gòn, hoàn toàn không có tài nguyên thiên nhiên, chỉ có một ít đất để xây dựng và ngay cả nước sinh hoạt cũng phải nhập từ nước bạn Malaysia, nhưng Singapore đã phát triển trở thành đất nước có GDP cao thứ hai ở châu Á chỉ sau Nhật Bản. Lại nói đến Nhật Bản, Lý Quang Diệu cũng chỉ ra những bất lợi của quốc gia này, đó là một quốc gia bại trận sau Chiến tranh thế giới thứ hai, không giàu tài nguyên, quanh năm động đất và sóng thần,  nhưng chỉ vài  năm sau khi chiến tranh kết thúc, Nhật Bản là người khổng lồ châu Á. Lý Quang Diệu cho rằng, sự thành công của một quốc gia bao gồm ba yếu tố: điều kiện tự nhiên (vị trí chiến lược và tài nguyên thiên nhiên), con người và thời cơ. Trong đó, để có yếu tố thời cơ, thì yếu tố con người phải vững và nhanh nhạy. Lý Quang Diệu đánh giá rất cao điều kiện tự nhiên của Việt Nam, nhưng ông không đánh giá cao yếu tố con người trong sự phát triển chậm chạp này. Tôi hay đọc các bài viết trong nước ca ngợi sự thông minh, tính cần cù, chịu khó của người Việt. Xin lỗi, tôi không thấy được sự thông minh và cần cù đó. Xin nhắc lại, năng suất làm việc của người Việt Nam chỉ bằng 1/15 của người Singapore, tức là một người Singapore làm việc bằng 15 người Việt Nam. Dân số Singapore là 5 triệu dân, dân số Việt Nam là hơn 90 triệu dân. Vậy tức là năng suất làm việc của 5 triệu dân Singapore chỉ mới bằng 75 triệu dân Việt Nam, thế nhưng GDP của Singapore là gần 300 tỷ USD, trong khi GDP của Việt Nam là khoảng 170 tỷ USD. Đó chỉ là một so sánh chung chung, chưa tính đến dân số ở độ tuổi lao động của hai quốc gia. Một khi yếu tố con người đã yếu kém như thế thì yếu tố cơ hội cũng sẽ chẳng có nhiều.

Lý Quang Diệu tiếc vì Việt Nam không biết trọng dụng người tài, ông nói rằng người tài ở Việt Nam đã định cư ở nước ngoài hết rồi. Tôi đồng tình với quan điểm này của Lý Quang Diệu. Tôi thường nghe nói về cậu bé thần đồng Đỗ Nhật Nam và cũng thường xem các video thi hùng biện tiếng Anh của em. Báo chí và truyền thông Việt Nam cũng hay đề cập đến em, nhưng tuyệt nhiên không thấy có một động thái nào của chính phủ Việt Nam dành cho Đỗ Nhật Nam. Phải chăng đối với chính phủ Việt Nam, cậu bé ấy không phải là nhân tài cần đầu tư và phát triển? Chưa kể là trong một lần phát biểu về truyện tranh, cậu bé ấy đã bị những người lớn Việt Nam công kích, chỉ vì em không thích đọc truyện tranh mà chỉ thích đọc sách khoa học. Thật trớ trêu. Đỗ Nhật Nam chỉ là một trường hợp thần đồng được báo chí ưu ái, nhưng cũng bị chính phủ thờ ơ. Vậy còn những thần đồng thầm lặng khác ở cái đất nước hơn 90 triệu dân này thì sẽ nhận được hỗ trợ gì từ chính phủ? Trong mọi sự phát triển, yếu tố con người luôn tối quan trọng. Thật đáng tiếc.

Nói thế nào đi chăng nữa, Lý Quang Diệu cũng chỉ là người ngoài, không phải người Việt Nam. Thế nhưng những nhận định khách quan của ông cũng đáng để suy ngẫm về sự phát triển của một quốc gia nhiều thuận lợi như Việt Nam. Tôi thường thấy Việt Nam rất tự hào về lực lượng lao động trẻ với giá nhân công rẻ của minh. Tôi cảm thấy đó là một điều đáng xấu hổ. Giá nhân công rẻ chẳng qua là do trình độ, tay nghề kém nên chẳng thể đòi hòi được trả công cao. Gần đây, quốc gia láng giềng với GDP thấp hơn Việt Nam là Campuchia cũng đã tự chế tạo được xe hơi. Ngược lại, khi hãng điện tử Samsung đưa ra danh sách những mặt hàng có thể đặt gia công với các doanh nghiệp Việt Nam thì mới vỡ lẽ là Việt Nam chưa thể sản xuất nổi cái sạc pin, usb và ngay cả vỏ nhựa cho điện thoại di động. Tất nhiên, Việt Nam đã đánh mất cơ hội gia công cho hãng này. Việt Nam còn sẽ đánh mất nhiều cơ hội như thế cả về quy mô và số lượng nếu cứ tiếp tục tự hào với những cái thuộc về quá khứ và không nhận thức được một cách thấu đáo và nghiêm túc rằng mình đang ở đâu trên bản đồ khu vực và thế giới. Lý Quang Diệu nói phải mất 20 năm nữa Việt Nam mới bằng Malaysia, vậy thì 20 năm nữa Malaysia sẽ phát triển ra sao và mãi mãi người Việt Nam sẽ bị ám ảnh bởi sự thua kém của mình hay sao?

Putin và bài học cho Việt Nam

Putin và bài học cho Việt Nam

Vương Trí Dũng

Không có nước Nga, chỉ có người Nga

Chúng ta không bình luận đến vấn đề đúng sai. Điều đó thuộc vào góc nhìn của từng người. Nhưng thông điệp đá tảng mà Putin gửi đến cho tất cả rất rõ ràng, không dấu giếm, và không hai nghĩa: Biên giới nước Nga mở rộng đến nơi nào có người Nga sinh sống.

Lời nói và hành động của Putin đã làm cho NATO phải thay đổi. Chẳng thế mà NATO đã phải vội vã nhóm họp để có những biện pháp thích nghi cần thiết. Riêng tổng thống Obama còn phải vội vã bay đến Estonia để trấn an các đồng minh Estonia, Latvia và Lituanie, là các quốc gia thuộc Liên Xô trước đây có nhiều người Nga sinh sống.

Bài học cho Việt Nam

Yêu hay ghét Putin, bênh vực hay phê phán Putin, đó không phải là chủ đề và đó không phải là quan trọng. Điều quan trọng là từ thông điệp và hành động của Putin, nhất thiết phải rút ra những bài học cho Việt Nam. Có thể cô đọng ở mấy điểm chính sau đây.

1. Dân tộc là tối thượng

Putin nói rằng: “Không có nước Nga, chỉ có người Nga”. Còn Obama thì tuyên bố: “ Chúng ta là khác biệt”. Phát biểu của hai người đứng đầu hai cường quốc thế giới đương thời đã nói lên tất cả.

Nhưng Mao Trạch Đông còn vượt xa cả Putin lẫn Obama về dân tộc chủ nghĩa. Từ tháng 10 – 1959 tại hội nghị Quân ủy Trung ương, Mao Trạch Đông đã nói: “Chúng ta phải chinh phục trái đất. Đó là mục tiêu của chúng ta”. Nước Mỹ chỉ mới hơn hai trăm năm. Nước Nga chưa đủ mười thế kỷ. Còn dân tộc chủ nghĩa của đế chế Trung Hoa thì đã tồn tại chí ít cũng hơn bốn ngàn năm.

Không có tình đồng chí đồng giai cấp đồng minh nào bằng tình máu mủ. Tình máu mủ đồng bào là sản phẩm của tạo hóa. Bởi vậy dân tộc là tối thượng.

2. Không để tồn tại các phố xá người Hoa

Nước Nga chỉ có một Crưm, một Donbas. Vì người Nga sống ở Crưm mà Putin đã lấy gọn Crưm về Nga. Vì người Nga sống ở Donbas mà Putin đã tách Donbas thành nước Nga mới. Chúng ta không đề cập đến lý do, không bàn đến đúng sai. Chúng ta chỉ nói đến sự kiện thực tế tồn tại.

Nhưng China Town thì hằng hà sa số. “Nạn Hoa kiều” đã là một trong những cớ để Đặng Tiểu Bình mang 60 vạn quân tiến đánh Việt Nam ngày 17-2-1979. Điều đáng sợ nhất là chính quyền Việt Nam hiện nay đang tạo nên cơ hội thuận lợi chưa bao giờ có cho sự phát triển các phố xá người Hoa tại Việt Nam. Dân tộc Nga và Ucraina có quan hệ cả ngàn năm chung sống, nhưng ở Ucraina người Nga chỉ sinh sống chủ yếu ở phía Đông Ucraina, còn phía Tây là người Ucraina. Còn ở Việt Nam hiện nay, người Hoa đã có mặt từ Bắc chí Nam, từ Đông sang Tây, khắp cả hang cùng ngõ hẻm.

Một “Nạn Hoa kiều” có thể tạo dựng ra bất cứ lúc nào. Lúc đó không như Crưm, không như Donbas ở Ucraina, khắp mọi nơi trên đất Việt Nam đều là Crưm, đều là Donbas. Cũng không cần đến “Nạn Hoa kiều”, khi Trung Quốc dấy binh thì khắp mọi nơi trên đất Việt Nam đều có nội ứng người Hoa.

Một số người cầm quyền ở trung ương và địa phương ngây thơ tin rằng, khi hết hạn hợp đồng là đưa được lao động Trung Quốc về nước. Họ không biết rằng người Trung Quốc đã kịp lấy vợ khi vừa đặt chân đến đất Việt Nam. Họ cũng không ngờ rằng nhà cầm quyền Trung Quốc bí mật cho tiền những kẻ bất lương tội phạm ra nước ngoài sinh sống, một kiểu lưu đày trá hình trong thời đại tích hợp toàn cầu.

Hãy chặn đứng ngay việc đưa người Hoa sang Việt Nam buôn bán làm việc. Đừng mang họa về cho dân tộc.

3. Các cường quốc sẽ tránh đối đầu

Ngày 29-8-2014 trong cuộc gặp mặt với thanh niên ở hồ Seliger Putin nói: “ Nước Nga sẽ không can dự vào các đụng độ lớn… Và ơn Chúa, chắc cũng không có ai có ý định phát động một cuộc xung đột lớn với Nga. Nga là cường quốc hạt nhân hàng đầu. Đây là sự thật”.

Việc Mỹ và NATO không ủng hộ mạnh Ucraina trong vấn đề Đông Ucraina cũng chính là tránh đối đầu trực diện với Nga. Và có thể nhận thấy ngay rằng NATO sẽ không mặn mà với việc kết nạp Ucraina là thành viên NATO. Nga sẽ làm mọi biện pháp có thể để ngăn chặn điều này. Và như thế sẽ dẫn đến sự đối đầu trực diện giữa Nga và NATO. Kết quả là Ucraina sẽ hoàn toàn bị chia rẽ. NATO chỉ có thể giúp đỡ Ucraina bằng tiền bạc, vũ khí, phương tiện kỹ thuật, và chuyên gia huấn luyện; nhưng sẽ không có quân đội NATO đến Ucraina để tham chiến chống lại Nga. Thảm họa hạt nhân và sức mạnh của vũ khí hủy diệt là lý do căn bản buộc các cường quốc phải né tránh đối đầu.

Các cường quốc cũng sẽ không vì các quốc gia khác mà đi đến đối đầu. Không chỉ không phát động xung đột, ngay cả khi bị ràng buộc bởi một cam kết liên minh quân sự, các cường quốc cũng phải tìm cách không cho leo thang, giảm dần căng thẳng để thoát ra khỏi hoàn cảnh đụng độ. Khi xẩy ra chiến tranh, các nước nhỏ sẽ phải tự chiến đấu bằng chính con người của nước mình.

Bởi vậy ngoài liên minh ra, nhất thiết phải xây dựng được một Việt Nam giàu mạnh tự cường.

4. Việt Nam phải đối mặt với đế quốc Đại Hán còn đáng sợ nhiều lần hơn các đế chế khác

Sự phản ứng của nước Nga cũng là điều tự nhiên. NATO đã tiến sát đến sườn nước Nga. Không chỉ thế, phương Tây bắt đầu chọc vào da thịt người Nga khi động đến Ucraina, một trong ba bộ tộc Slavo gần gũi nhất: Nga, Bạch Nga và Ucraina.

Nước Nga quẫy mạnh vì bị đâm vào sườn. Còn đế chế Đại Hán từ mấy ngàn năm luôn mang gươm đi xâm chiếm nước khác mà không cần bất cứ lý do nào. Số phận đã buộc Việt Nam phải sống cạnh một đế chế ngang ngược đáng sợ nhất trong lịch sự phát triển nhân loại.

5. Hãy hành động cương quyết vì quyền lợi dân tộc

Thống kê xã hội cho thấy Putin đang có uy tín cao trong nhân dân Nga. Tại sao vậy? Đơn giản là Putin đang làm sống lại một đế chế Nga. Điều mà nhiều người Nga rất mong mỏi.

Nhiều người Hoa cũng sẽ rất phấn khích khi lãnh đạo Trung Quốc tiến hành một chính sách bá quyền. Nếu lãnh đạo Trung Quốc làm cho đế chế Đại Hán bành trướng lớn mạnh, thì họ sẽ được nhiều người Hoa ủng hộ, bất chấp các biện pháp mà giới lãnh đạo Trung Quốc tiến hành.

Bởi vậy, bất cứ lúc nào khi liên quan đến dân tộc thì phải suy nghĩ kỹ nhưng lại phải hành động kịp thời và rất cương quyết, không do dự, không nhu nhược, không đớn hèn. Sức mạnh dân tộc sẽ truyền vào người ra quyết định, hợp thành một sức mạnh nối dài vô địch.

Putin thì rất cương quyết rất tiến công. Còn lãnh đạo Việt Nam thì ngược lại. Vai trò lãnh tụ rất quan trọng cho sự phát triển của một quốc gia. Chừng nào Việt Nam chưa có phương thức dân chủ thực sự để chọn ra được những người lãnh đạo xứng đáng thì chừng đó số phận dân tộc còn long đong.

Bài học từ Putin dễ thấy nhưng lại khó học.

V.T.D.