LỜI CỦA NGƯỜI ĐI (LỄ CÁC ĐẲNG LINH HỒN)

LỜI CỦA NGƯỜI ĐI (LỄ CÁC ĐẲNG LINH HỒN)

Tác giả: Lm. JB Nguyễn Minh Hùng

1. Lịch sử của ngày lễ.

Ngay thời tiên khởi, Hội Thánh đã luôn luôn dạy hãy cầu nguyện cho người chết như một nghĩa cử bác ái. Thánh Augustinô viết, “Nếu chúng ta không lưu tâm gì đến người chết, thì chúng ta sẽ không có thói quen cầu nguyện cho họ”.

Nhưng Thuở ban đầu này, do ảnh hưởng thời tiền Kitô giáo, các nghi thức cầu cho người chết còn chứa nhiều màu sắc dị đoan. Kinh nghiệm của đời sống phụng vụ của Hội Thánh loại trừ dần những cổ hũ ấy. Mãi đến thời trung cổ, nhờ các ẩn sĩ, là những người có thói quen cầu nguyện cho các tu sĩ đã qua đời hàng năm, một nghi thức phụng vụ cầu cho người chết mới được thiết lập.

Giữa thế kỷ 11, Thánh Odilo, Viện Trưởng dòng Cluny, ra lệnh: Mọi tu viện của dòng phải cầu nguyện đặc biệt và hát kinh Nhật Tụng cầu cho người chết vào ngày 2.11, ngay sau lễ các Thánh hàng năm. Truyền thống này càng ngày càng lan rộng trong Hội Thánh. Sau cùng Hội Thánh chấp nhận và đưa vào niên lịch Công giáo Rôma.

Ý nghĩa thần học nền tảng của việc tưởng nhớ và cầu nguyện cho người đã qua đời, là sự thừa nhận bản tính yếu đuối của con người. Vì ít ai đạt được đời sống trọn hảo, nhưng hầu hết đều mang vết tích tội lỗi trong khi qua đời. Đã là con người yếu đuối, nên cần thời gian thanh tẩy trước khi linh hồn được đối diện với Thiên Chúa. Công Ðồng Triđentinô xác nhận lời cầu nguyện, những hy sinh của người sống, khi có ý dành cho người đang ở tình trạng luyện tội, có thể rút bớt thời gian thanh luyện của linh hồn người ấy.

Việc cử hành lễ cầu cho các tín hữu qua đời, ngày nay đã trở thành việc đạo đức quen thuộc, thường xuyên của mọi Kitô hữu. Ngay nay, người ta tổ còn tổ chức đọc kinh cầu nguyện ở nghĩa trang hay đi thăm mộ người thân yêu đã qua đời và quét dọn, trang hoàng nến và hoa.

2. Sứ điệp của ngày lễ.

Trên những phần mộ thường có cây Thánh giá. Cây Thánh giá nói lên niềm tin: Chúa Giêsu đã hy sinh chịu chết trên đó để cứu chuộc con người khỏi vòng liên lụy của tội lỗi. Thánh giá Chúa Giêsu là ơn cứu độ, niềm hy vọng cho con người.

Trên đó cũng thường có tấm bia khắc ghi di ảnh người quá cố với ngày tháng năm cùng nơi sinh ra và ngày tháng qua đời. Cũng trên tấm bia người ta khắc ba chữ: R. I. P. (Viết tắt của câu Latinh: requiescat in pace – Ông, bà, anh, chị, em an giấc ngàn thu).

Có những tấm bia trên phần mộ ghi câu Kinh Thánh hay những lời từ biệt, lời cám ơn. Phải chăng chết đi về thế giới bên kia là hết, là chấm dứt mọi liên đới ?

Chúa Giêsu, trong bữa Tiệc ly, đã nói lời từ giã trước khi tự nguyện hy sinh chịu chết: “Thày đi về cùng Cha Thày!” (Ga 14, 1-14). Lời từ biệt này nói lên mối dây ràng buộc niềm tin và tình yêu vào Thiên Chúa.

Người thân yêu đã ra đi, theo niềm tin của người Công giáo dựa trên chính lời Chúa Giêsu, đó cũng chính là lúc họ về cùng Thiên Chúa Cha. Và cũng như Chúa Giêsu, họ cũng để lại di chúc cho chúng ta và cho mọi người đi sau họ:

– Tôi ra đi bây giờ nằm sâu dưới lòng đất, nhưng tôi tin rằng tôi trở về cùng Thiên Chúa, Ðấng sinh thành ra tôi.

– Tôi nằm sâu trong lòng nấm mồ này, nhưng tôi vẫn hằng hy vọng trông mong Thiên Chúa sẽ cứu độ tôi và sẽ cho tôi sống lại được hưởng đời sống bất diệt như Ngài đã cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết.

– Tôi bây giờ nằm chôn kín trong nấm mồ xây kín bằng ximăng cát đá, nhưng tôi hằng có tâm tình yêu mến Thiên Chúa của tôi, vì Ngài là Cha tôi. Tôi biết Ngài luôn yêu mến tôi.

Ðứng trước nấm mồ người quá cố, tâm tình buồn thương nhớ tiếc làm sống lại những hình ảnh kỷ niệm buồn vui xưa. Thánh Giá Chúa Giêsu và cây nến cháy sáng trên phần mộ tựa như những lời nhắn nhủ của người quá cố nói với người thân còn sống: Tôi đi về cùng Thiên Chúa Cha, về cùng Ðấng là nguồn sự sống và nguồn tình yêu.

Lạy Chúa Giêsu, xin thương đến mọi người quá cố. Xin đón rước và thứ tha cho ông bà, anh chị em, bạn hữu, và mọi người thân yêu, mọi người đã đi qua trong đời này mà nay đã an giấc.

Xin Chúa cũng thương tha thứ và đón nhận chúng con, những người còn lữ hành trên dương thế, được vào nước Chúa, vào một ngày mà Chúa gọi chúng con về trình diện trước Thánh Nhan Chúa. Amen.

Lm. JB NGUYỄN MINH HÙNG

(Trích trong tập sách “Giờ Kinh Gia Đình với Lời Chúa” của giáo phận Phú Cường)

LỄ CÁC LINH HỒN

LỄ CÁC LINH HỒN

Lm Giuse Châu Xuân Báu, CSsR

Theo truyền thống của người dân Hoa Kỳ, hằng năm, vào tối ngày 31 tháng 10 dương lịch, trẻ nhỏ rủ nhau chơi “Đêm Halloween” cũng gọi là trò “Trick or Treat”.  Các em từng tốp mang mặt nạ, đến gõ cửa  mỗi nhà và nói “Trick or Treat” (cho chúng tôi quà bằng không chúng tôi sẽ phá phách)…  Trò chơi này làm cho chúng ta có cảm tưởng như là các linh hồn của những người ở thế giới bên kia hiện về xin bố thí hoặc nhắn nhủ điều gì đó cho những người còn sống trên trần gian.

Tục lệ tối Halloween nầy là dấu vết thời xa xưa còn sót lại của người La-mã dùng để tưởng nhớ người quá cố.  Thuở ấy người La-mã có thói quen đúc mặt nạ của người thân mới qua đời để cất làm kỷ niệm.  Mỗi khi trong gia đình có người chết thì người nhà phải mang tất cả các mặt nạ hiện có trong gia đình, sắp hàng dài đi trước quan tài, để dẫn đưa người vừa quá cố tới nơi an nghỉ cuối cùng.

Nguyên tiếng Halloween, theo truyền thống Công giáo, bởi 3 tiếng  ALL HALOWS’ EVE  hoặc EVE OF ALL HALLOWS ghép lại, có nghĩa là “buổi tối áp lễ các thánh”…  tuồng như các Thánh trên trời đi diễn hành trước mặt chúng ta để nhắc nhở chúng ta tưởng nhớ đến các ngài, nhớ đến công ơn các ngài và thúc giục chúng ta noi gương các ngài trong việc làm con cái Chúa, và một mặt khác nữa là kêu xin chúng ta dâng lời cầu nguyện cho ông bà tổ tiên.


Thật vậy, hằng năm Hội thánh Công giáo Hoàn vũ dâng ngày 01 tháng 11 dương lịch để kính mừng Các Thánh Nam Nữ trên trời và dành riêng trọn tháng 11 dương lịch, bắt đầu từ ngày mồng 02, để cầu nguyện cho Các Linh Hồn trong Luyện ngục.

Công Đồng Trentô dạy rằng các linh hồn ở Luyện ngục là thành phần của Hội Thánh cần nhờ đến lời cầu nguyện và hy sinh của chúng ta, những người còn sống.  Giáo lý của Hội Thánh về Luyện ngục là điều có sức yên ủi lòng ta và tỏ bày lòng thương xót vô cùng của Thiên Chúa đối với chúng ta.  Việc cầu nguyện cho các linh hồn trong Luyện ngục là một việc làm do tình thương thúc đẩy để bù đắp phần nào mối tình và bổn phận phải có đối với các kẻ đã qua đời mà có lẽ khi các ngài còn sống chúng ta đã không chu toàn.

Chứng Tích Về Luyện Ngục:

Những chứng tích về việc các Linh hồn ở Luyện ngục hiện về được Tòa Thánh công nhận thì nhiều lắm.  Ở đây, chúng tôi chỉ xin đơn cử một ít chứng tích, trong nhiều chứng tích, đang được trưng bày tại Thánh đường Đức Mẹ Mân Côi, Nữ Vương Luyện Hình tại Rôma.  Khi có dịp hành hương về Rôma, kính mời quí vị đến kính viếng Vương cung Thánh đường này và ghé thăm phòng triển lãm.

Chứng tích 1: Bạn bè hiện về với nhau

Chúa nhật ngày 05 tháng 3 năm 1871, bà Palmira Rastelli, chị ruột của linh mục Santelli, chánh xứ Thánh Anrê tại Rimini, qua đời ngày 20-11-1870 đã hiện về với bà bạn là Maria Zelanti cũng thuộc giáo xứ Thánh Anrê để xin cầu nguyện và xin nhắn với ông anh linh mục dâng lễ cho mình.  Để cho người còn sống vững tin thì linh hồn hiện về đã in dấu 3 ngón tay của mình trên cuốn sách nguyện của bà Zelanti. Dấu lửa in 3 ngón tay trên trang sách đã không thiêu hủy tờ giấy và cũng không làm mất các hàng chữ trên trang giấy.

Chứng tích 2: Vợ hiện về với chồng

Bà Louise Sénéchal, qua đời ngày 7 tháng 5 năm 1878, đã hiện về với chồng là Louis Sénéchal xin cầu nguyện và xin dâng cho bà 5 thánh lễ.  Bà đã in 5 ngón tay lửa của mình lên chiếc mũ trùm đầu của chồng bà như là một dấu hữu hình để chồng và các con tin.

Chứng tích 3: Nữ tu hiện về với chị em trong tu viện

Nữ tu Clara Schoelers, Dòng Bênêđitô ở Vinnemberg, Westphalie, qua dời năm 1637 đã hiện về với nữ tu Maria Herendorps ngày 30 tháng 10 năm 1696 (59 năm sau).  Để làm bằng chứng, linh hồn hiện về đã in dấu cháy hai bàn tay của mình trên áo khoác làm việc của  nữ tu Maria Herendorps và trên một tấm vải trắng.

Chứng tích 4: Mẹ hiện về với con trai

Bà Leleux, trong đêm 21-6-1789, đã hiện về với người con trai là Joseph Leleux ở Wodecq (Bỉ).  Bà hiện về 11 đêm liên tiếp để nhắc nhở con bà phải xin lễ cho bà, đồng thời bảo con bà phải sửa mình lại vì anh ta đang sống bừa bãi, khô khan nguội lạnh.  Bà cầm tay con và in dấu cháy cả bàn tay bà vào ống tay áo của con. Kết quả là anh đã trở lại sống thánh thiện, lập một hội đạo đức dành cho giáo dân; các hội viên trong hội này đã thi đua nên thánh.  Anh đã qua đời cách thánh thiện ngày 19-4-1825.

Chứng tích 5:  Mẹ chồng hiện về với con dâu

Nhạc mẫu của bà Magarita Demmerlé thuộc giáo xứ Ellinghen, giáo phận Metz, qua đời năm 1785, và 30 năm sau, năm 1815 đã hiện về với con dâu.  Bà buồn bã nhìn con dâu như có ý xin điều gì.  Bà Magarita Demmerlé lên tiếng hỏi thì được mẹ chồng cho biết là mình về để xin con (dâu) cầu nguyện cho, bằng cách đi hành hương lên Đền Đức Mẹ ở Mariental.  Người con dâu đã làm y như lời mẹ chồng xin.  Sau cuộc hành hương ấy bà mẹ chồng hiện về với con dâu một lần nữa và báo cho biết là mình đã được ra khỏi Luyện ngục mà lên Thiên đàng.  Bà Magarita xin một bằng chứng thì bà mẹ chồng liền in cả bàn tay mình lên trang sách Gương Phước đang để mở trên bàn.  Và từ đó bà không còn hiện về nữa.

Hôm nay là dịp để chúng ta nhớ đến linh hồn những người thân yêu mà Chúa đã gởi đến trong cuộc đời như: ông bà, cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, con cái, cháu chắt, bằng hữu…  Ta cũng nhớ đến những linh hồn bị quên lãng không có ai nhớ đến để cầu nguyện cho.

Bà Thánh Monica khi còn sống đã căn dặn con mình là Thánh giám mục Augustinô rằng: “Con ơi, khi mẹ chết rồi, con có thể chôn cất mẹ ở đâu cũng đươc.  Mẹ chỉ xin con một điều là hãy nhớ đến mẹ mà cầu nguyện cho mẹ mỗi ngày khi con bước lên bàn thờ tế lễ Chúa”.  Bà Monica khi còn sống đã đạt tới sự thánh thiện trọn hảo mà còn lo lắng cho thân phận mình sau khi chết như vậy.

Nơi một nghĩa trang ở Rôma, bên nước Ý-đại-lợi, ta đọc thấy hàng chữ này bằng tiếng La-tinh: “Hodie Tibi, Cras Mihi” có nghĩa là HÔM NAY BẠN (Hodie Tibi), NGÀY MAI TÔI (Cras Mihi)… nhắc chúng ta nhớ đến Sự Chết.  Sự Chết không tha cho một ai cả.  Có nhớ đến sự chết, có suy gẫm về sự chết mới biết phải sống thế nào cho đẹp để được chết lành.

Hôm nay chúng ta cầu nguyện cho người, ngày mai người khác sẽ lại cầu nguyện cho ta: Một sự vay trả, trả vay rất hữu lý.  Hôm nay ta cầu nguyện cho các Linh hồn trong Luyện ngục, ngày mai khi được về hưởng nhan thánh Chúa trên trời, các Linh hồn người lành sẽ đền đáp lại cho chúng ta bằng lời chuyển cầu thần thế của các ngài trước mặt Chúa.

Lm Giuse Châu Xuân Báu, CSsR

From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ Mai gởi

CÁC THÁNH LÀ AI VẬY?

CÁC THÁNH LÀ AI VẬY?

Lễ Các Thánh Nam Nữ

(Mt 5, 1-12a)

Tác giả: Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Hôm nay cùng với toàn thể Giáo hội mừng kính trọng thể Các Thánh Nam Nữ ở trên trời. Có thể nói, hôm nay là ngày hội lớn, ngày vui mừng hân hoan của tất cả mọi thành phần con cái trong đại gia đình Giáo hội. Mừng kính các thánh, nghĩa là mừng kính những người đang sống sự sống của Thiên Chúa, những vị đang hưởng phúc vinh quan tràn đầy trước tòa cao sang của Chúa Ba Ngôi trên thiên đàng.

Hỏi : Thiên đàng là gì ?

Thiên đàng là nơi đầy dẫy những sự vui vẻ vô cùng, mà phúc nhất trên thiên đàng là xem thấy mặt Đức Chúa Trời liên (Sách Bổn Hà Nội tr. 21). Thiên đàng là nơi người ta yêu thương nhau, là nơi chỉ còn tình yêu là đáng kể, nơi có Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em với nhau, nơi không còn chết chóc, chiến tranh, hận thù và nước mắt. Trái lại chỉ có hòa thuận và thương yêu, các thánh là những người đã đạt tới hạnh phúc đó.

Hỏi : Các thánh là ai vậy ?

Là những người không bằng lòng với sự kém cỏi; với những biện pháp nửa vời. Các thánh là những người đói và khát sự công chính, theo ngôn ngữ Kinh Thánh là khát khao sự thánh thiện. Vì khao khát nên Thiên Chúa đã cho các ngài thỏa chí toại lòng đúng như mối phúc trong Tin Mừng tuyên bố :  “Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả” (Mt 5, 6).

Chi tiết trong bài đọc thứ nhất của ngày lễ giúp chúng ta hiểu thêm các thánh là ai. Các thánh là “những người giặt áo và tảy áo trắng trong máu Con Chiên” (Kh 7,14). Như thế, sự thánh thiện mà các ngài có được là từ Chúa Kitô. Trong Cựu Ước, làm thánh có nghĩa là “tách biệt” khỏi tất cả những gì ô uế. Chữ “thánh” có nghĩa chung là  “kitô hữu”, hợp thành cộng đoàn qui tụ chung quanh Đức Giêsu làm thành Dân thánh. Sự thánh tác khỏi sự phàm tục. Các thánh tràn đầy sự thánh, còn người phàm mang đầy sự phàm. Các thánh là những người đã được Thiên Chúa làm gia nghiệp.

Hỏi : Các thánh làm gì trên thiên đàng?

Câu trả lời cũng được tìm thấy trong Bài đọc I: “Họ đứng trước ngai vàng và trước mặt Con Chiên, mình mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô rằng: “Kính lạy Thiên Chúa chúng tôi, Đấng ngự trên ngai vàng, và Con Chiên”. Ca đoàn các ngài được Đức Mẹ Maria hướng dẫn, Mẹ tiếp tục thánh thi ca ngợi của Mẹ trên trời, “ Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa…” (Lc 1, 46). Chính trong sự ca ngợi này mà các thánh gặp được hạnh phúc và niềm vui của, “Thần trí tôi hơn hở vui mừng trong Chúa Đấng Cứu Độ tôi” (Lc 1, 47). Vinh quang và hạnh phúc của Thiên Chúa ngập tràn các ngài.

Hỏi : Các thánh mặc áo gì?

Các thánh mặc áo chùng trắng, giặt áo mình trong máu Con Chiên. Các thánh mạc áo đỏ, mặc áo theo con đường tử đạo của Đức Kitô. Các thánh mạc áo xanh vì đã xây dựng hòa bình, yêu thương và phục vụ công bình đạo lý. Các thánh mạc áo vàng khi tham dự vào chức huy hoàng của Đức Kitô, và hy vọng vào Thiên Chúa.

Hỏi : Các thánh là bao nhiêu?

Sách Khải Huyền nói : “số người được đóng ấn là một trăm bốn mươi bốn ngàn người, thuộc mọi chi tộc Israel” (Kh 7, 4). Tôn chỉ của họ là Tám Mối Phúc Thật. Phúc cho những ai hiền lành, nghèo khó; họ là những người khóc lóc nay tìm được sự ủi an ở nơi Thiên Chúa ; họ là những người biết thương xót người nay được Chúa xót thương ; họ là những người trong sạch nay được nhìn thấy Thiên Chúa; họ là những người xây dựng hòa bìh nên được gọi là con Thiên Chúa; họ là những người bị bắt bớ, “họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến” (Kh 7, 14). Họ là các Tổ phụ, các Tiên tri, các Tông đồ, Tử đạo, Đồng trinh, Hiển tu, Ẩn tu.

Tuy nhiên nếu con số chỉ có thế thôi, thì quả là một điều đáng lo sợ, bởi vì người tín hữu như ta đâu có hy vọng được vào sổ những người đó? Vậy con số đó là thế nào? Số một trăm bốn mươi bốn ngàn là con số biểu tượng cao đầy đủ, chỉ những người được cứu rỗi. Theo hệ thống đếm của người Do thái, một người có thể đếm cao tới mười hai ngàn. Mười hai ngàn nhân với mười hai, thành một trăm bốn mươi bốn ngàn, một con số cao trọn vẹn tuyệt đối, chứ không phải chỉ theo nghĩa đen là một trăm bốn mươi bốn ngàn mà thôi.

Thánh Gioan đã nhìn thấy: “Đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng” (Kh 7, 9). Họ thuộc đủ mọi thành phần và mọi tầng lớp trong xã hội. Ðó là lí do tại sao hôm nay Giáo hội thiết lập ngày lễ các thánh, để mừng kính chung các thánh gồm cả các thánh không tên tuổi, trong đó phải có tổ tiên, họ hàng gần xa của mỗi chúng ta.

Hôm nay Giáo hội mừng kính toàn thể các thánh, có những vị rõ ràng là thánh, những vị được tôn phong hiển thánh, những vị có tên trong kinh cầu các thánh với đỉnh cảo sáng rực. Nhưng cũng nhớ và kính mừng những vị thánh chìm sâu trong lòng đất, trong xác thịt mồ hôi nước mắt của kiếp người. Vì mọi người đều được kêu gọi lên thánh trong Đức Kitô. Các thánh đã đạt tới hạnh phúc đó, giờ đây trên thiên quốc vui mừng hân hoan tận hưởng phần thưởng trọng đại Chúa dành cho các ngài. Đó cũng là niềm hy vọng của tất cả chúng ta đang sống phận lữ hành tiến về quê trời vinh phúc.

Mừng kính các thánh, chúng ta cậy nhờ các ngài nguyện giúp cầu thay cho chúng ta bao lâu còn sống ở đời tạm nay, biết noi gương các ngài sống hiến chương Nước Trời, thực hành Tám Mối Phúc như Chúa Giêsu dạy, để mai sau cũng được Chúa ân thưởng thiên đàng.

Với niềm hy vọng, cùng với gương sáng và sự trợ giúp của các thánh, chúng ta cũng có thể làm thánh, và phải nên thánh bằng cách tự thánh hóa bản thân như các thánh đã làm, tức là sống theo tinh thần và mệnh lệnh của Tin Mừng là : hiền lành, bác ái, hòa thuận, trong sạch, với tâm hồn luôn hướng về những thực tại siêu nhiên, chịu đựng những vất vả, đau khổ tự nhiên hay do người khác mang đến, luôn tìm kiếm Chúa và cố gắng sống phù hợp với thánh ý Chúa.

Được như thế, chúng ta có thể “vui mừng hân hoan vì phần thưởng của chúng ta sẽ trọng đại ở trên trời như Các Thánh hiện nay là những anh em chúng ta đang ca tụng Chúa muôn đời” (Mt 5, 12a).

Lạy Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa, xin cầu cho chúng con. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Việt nam giữa phương Tây và Trung quốc

Việt nam giữa phương Tây và Trung quốc

Kính Hòa, phóng viên RFA
2014-10-29

RFA

10292014-dancin-betwen-giant.mp3

Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng Mỹ, Tướng Martin Dempsey và Tổng tham mưu trưởng quân độ nhân dân Việt Nam, Trung tướng Đỗ Bá Tỵ duyệt hàng quân danh dự tại Bộ Quốc phòng Hà Nội vào ngày 14 tháng 8 năm 2014.

Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng Mỹ, Tướng Martin Dempsey và Tổng tham mưu trưởng quân độ nhân dân Việt Nam, Trung tướng Đỗ Bá Tỵ duyệt hàng quân danh dự tại Bộ Quốc phòng Hà Nội vào ngày 14 tháng 8 năm 2014.

AFP

Một học giả người Nhật bản là ông Yoshiharu Tsuboi có viết một tác phẩm mang tựa đề Nước Đại Nam giữa Pháp và Trung Hoa để mô tả tình thế Việt nam kẹt giữa đế quốc kiểu cổ là Trung hoa với thế giới phương Tây hồi giữa thế kỷ 19. Trong những năm đầu thế kỷ 21 này, Việt nam lại một lần nữa kẹt giữa phương Tây và nước Trung quốc đang lên. Trong bối cảnh đó trong những năm gần đây chính phủ Việt nam đề ra một chính sách gọi là làm bạn với tất cả các nước, mà được gọi nôm na là chính sách đu dây.

Chính trị ngoại giao

Chính sách ngoại giao đu dây của Việt nam thể hiện rõ ràng nhất trong những tháng gần đây. Giữa tháng tám chủ tịch hội đồng liên quân Hoa Kỳ, ông Martin Dempsey đến thăm Việt nam, đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng giữa quân đội hai quốc gia. Sau đó phía Mỹ có tuyên bố là sẽ nới lõng lệnh cấm bán vũ khí cho Việt nam trong dịp Bộ trưởng ngoại giao Việt nam thăm Hoa kỳ vào đầu tháng 10.

Chỉ vài ngày sau, Bộ trưởng quốc phòng Việt nam, Đại tướng Phùng Quang Thanh sang thăm Trung quốc. Trong dịp này những lời lẽ ngoại giao nhẹ nhàng được hai bên đưa ra trong các tuyên bố với báo chí. Hầu như cùng thời điểm đó, Thủ tướng Việt nam Nguyễn Tấn Dũng, trong chuyến thăm châu Âu đã ra tuyên bố rằng dân chủ và nhân quyền là xu thế của thời đại và Việt nam không đi ngoài cái xu thế đó. Lời tuyên bố có vẻ như hợp với những áp lực thường xuyên của Hoa kỳ và phương Tây về những vấn đề dân chủ và nhân quyền.

Hầu như các nhà quan sát chính trị Việt nam đều đồng ý với nhau rằng Việt nam đang đứng giữa một bên là mô hình xã hội tự do mà nhiều người Việt mong muốn để có một cuộc sống tốt hơn, còn bên kia là mô hình độc đảng quen thuộc của đảng cầm quyền, tương đồng với Trung quốc, một cường quốc đang lên và đang mong muốn lan tỏa ảnh hưởng toàn cầu của mình.

” Vấn đề là Việt nam đi tìm sự kết hợp trong mối quan hệ giữa Mỹ và Trung quốc sao cho có lợi nhất cho mục đích của họ. Mà mục đich lớn nhất của họ là bảo vệ chế độ, bảo vệ đảng, cho nên họ vẫn nghiêng về Trung quốc nhiều hơn

Tiến sĩ Vũ Hồng Lâm”

Đánh giá về mối quan hệ tay ba Việt nam Mỹ Trung quốc, Tiến sĩ Vũ Hồng Lâm từ Trung tâm nghiên cứu Đông Nam Á ở Hawaii cho rằng:

Tổng thể những ràng buộc về kinh tế, chính trị, quân sự, về ý thức hệ giữa Trung quốc, Việt nam và Mỹ thì từ xưa tới nay, Việt nam bao giờ cũng nghiêng về phía Trung quốc chứ chưa bao giờ đứng ở giữa. Người ta thường nói là Việt nam đi giây giữa Mỹ và Trung quốc nhưng theo tôi thì cách nói đó không nêu lên thực chất của vấn đề. Vấn đề là Việt nam đi tìm sự kết hợp trong mối quan hệ giữa Mỹ và Trung quốc sao cho có lợi nhất cho mục đích của họ. Mà mục đich lớn nhất của họ là bảo vệ chế độ, bảo vệ đảng, cho nên họ vẫn nghiêng về Trung quốc nhiều hơn.”

Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh thăm Trung Quốc (nguồn mạng Bộ Quốc phòng TQ)

Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh thăm Trung Quốc (nguồn mạng Bộ Quốc phòng TQ)

Về chuyến thăm Trung quốc của Đại tướng Phùng Quang Thanh, ông Vũ Hồng Lâm nói là chuyện đó nằm trong mối quan hệ truyền thống giữa quân đội hai nước kể từ khi chiến tranh lạnh kết thúc.

Ông Vũ Hồng Lâm nói thêm là quan điểm đó của những nhà lãnh đạo Việt nam là phần cơ bản, nhưng ngoài ra quan hệ tay ba Việt Mỹ Trung cũng đang chuyển động, và sự kiện giàn khoan Trung quốc xâm nhập vào thềm lục địa Việt nam làm cho Việt nam nhích gần với Mỹ hơn.

Vào những ngày cuối tháng 11, người có quyền lực cao nhất của ngành ngoại giao Trung quốc là ông Dương Khiết Trì thăm Việt nam. Đây là chuyến thăm Việt nam thứ hai trong vòng năm tháng của ông Dương. Truyền thông thế giới quan tâm tới việc này như là một cố gắng từ phía Trung quốc để làm giảm căng thẳng giữa hai quốc gia. Điều này có thể thấy ở lời lẽ nhẹ nhàng hơn của ông Dương, cũng như vẻ mặt vui vẻ hơn của người tương nhiệm Việt nam Phạm Bình Minh so với lần viếng thăm trước của ông Dương Khiết Trì.

Ông Nguyễn Thanh Giang, một nhà bất đồng chính kiến trong nước, nhận xét về chuyến thăm của ông Dương Khiết Trì, khi được hỏi rằng những biểu hiện trên liệu có phải cho thấy rằng quan hệ Việt Trung đã trở nên nồng ấm hơn hay không:

Tôi không thích dùng chữ nồng ấm, mà tôi nghĩ rằng họ biết điều hơn nên họ xuống thang một cách bất đắc dĩ. Họ thấy được tin thần phản kháng của người Việt nam đối với Trung quốc. Lý do thứ hai là họ thấy sự xích lại của Việt nam với phương Tây, đặc biệt là với Hoa Kỳ. Hoa Kỳ và phương Tây cũng thấy vai trò cần thiết của Việt nam ở Đông nam Á. Trung quốc thấy cái nguy cơ một liên minh với Hoa Kỳ đang được hình thành. Họ phải giả vờ nhún xuống để làm giảm đi cái tình cảm thoát Trung của người Việt nam đối với chủ nghĩa đại Hán.”

” Tôi không thích dùng chữ nồng ấm, mà tôi nghĩ rằng họ biết điều hơn nên họ xuống thang một cách bất đắc dĩ. Họ thấy được tin thần phản kháng của người Việt nam đối với Trung quốc. Lý do thứ hai là họ thấy sự xích lại của Việt nam với phương Tây, đặc biệt là với Hoa Kỳ.

Ông Nguyễn Thanh Giang”

Kinh tế tài chánh

Trong những nổ lực mở rộng quyền lực và ảnh hưởng của mình trên thế giới, Trung quốc cũng dùng khối dự trữ tài chính khổng lồ của mình. Vào ngày 24/10/2014,  21 quốc gia châu Á, trong đó có Việt nam cùng nhau ký một thỏa thuận thành lập Ngân hàng phát triển cơ sở hạ tầng châu Á tại Bắc Kinh, trong đó Trung quốc là quốc gia sẽ cung cấp tín dụng nhiều nhất.

Sự ảnh hưởng của kinh tế Trung quốc lên Việt nam đã được nhiều người nói đến, từ sự nhập siêu của Việt nam, cho đến sự có mặt của hàng ngàn công nhân người Trung quốc ở Việt nam. Khi được hỏi liệu việc Việt nam vay mượn tiền từ ngân hàng phát triển cơ sở hạ tầng này sẽ làm cho Việt nam phụ thuộc hơn nữa vào Trung quốc không, Tiến sĩ Nguyễn Quang A, một nhà hoạt động xã hội dân sự thường có những phản biện đối với chính phủ Việt nam nói rằng ông không bi quan như vậy:

Đối với một nước lớn như Trung quốc thì ảnh hưởng quốc tế và khu vực của họ là một điều khó có thể tránh khỏi. Tôi nghĩ là nếu chúng ta gắn nhiều quá vấn đề chính trị vào kinh tế thì khó có thể hài hòa được trong vấn đề phát triển. Với Việt nam cũng cần khôn khéo để tận dụng tất cả những lợi thế của mối quan hệ của Trung quốc với khu vực.”

Có một sự kiện là các quốc gia phát triển ở vùng châu Á Thái Bình Dương như Nhật bản, Hàn quốc và Úc không tham gia vào sự thành lập ngân hàng này. Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế từ Hà nội cũng có nhận xét rằng sự kiện này đáng chú ý vì sự cạnh tranh địa chính trị của nó, một bên là ngân hàng do Trung quốc chủ xướng thành lập, còn bên kia là các định chế tài chính phương Tây như ngân hàng thế giới, ngân hàng phát triển châu Á. Ông Lê Đăng Doanh nói là Việt nam và các quốc gia Asean khác đang cần vốn để phá triển cơ sở hạ tầng nên tham gia ngân hàng do Trung quốc thành lập.

Trả lời câu hỏi về sự ảnh hưởng mạnh mẽ hơn nữa trong tương lai của Trung quốc lên kinh tế Việt nam Tiến sĩ Lê Đăng Doanh nói:

Việt nam cũng đã ý thức được rất rõ tình hình này nên đã có một quyết định chiến lược là sẽ tham gia hiệp định hợp tác xuyên Thái Bình Dương gọi tắt là TPP. Bằng cách đó thì Việt nam có thể đa dạng hóa được các đối tác về thương mại, bằng cách đó mở cửa ra để thu hút đầu tư nước ngoài, làm cho Việt nam thực hiện được sự đa dạng hóa về quan hệ kinh tế, và bớt phụ thuộc vào một nước cụ thể nào, và đặc biệt là Trung quốc.”

Nhận định chung về quan hệ tay ba Việt Mỹ Trung, nhiều nhà quan sát tình hình Việt nam, trong đó có Tiến sĩ Vũ Hồng Lâm, cho rằng mối quan hệ đó đang vận động, nó phụ thuộc vào sức ép từ Trung quốc trong mối quan hệ của hai đảng cộng sản, sức ép từ phương Tây về những điều kiện dân chủ nhân quyền, và sức ép từ chính nhân dân Việt nam trong cách nhìn Trung quốc như một đế quốc kiểu đại Hán thời trung cổ.

Vì sao một ký giả am tường “chứng cứ lịch sử về Biển Đông của Việt Nam” như Bill Hayton xin visa vào Việt Nam hai lần đều bị Nhà nước từ chối?

Vì sao một ký giả am tường “chứng cứ lịch sử về Biển Đông của Việt Nam” như Bill Hayton xin visa vào Việt Nam hai lần đều bị Nhà nước từ chối?

GS Nguyễn Văn Tuấn đọc cuốn sách Biển Đông: Cuộc đấu tranh quyền lực ở Á Châu (The South China Sea: The Struggle for Power in Asia) công bố ở Hoa Kỳ mới đây cảm thấy ngạc nhiên trước một cây bút người Mỹ mà nắm vững lịch sử chủ quyền biển Đông rành rẽ như Bill Hayton, đồng thời cũng lấy làm lạ về một người có quan điểm gần gũi Việt Nam như ông ký giả này mà hai lần xin visa vào nước ta dự Hội nghị về Biển Đông và tìm kiếm thêm tư liệu cho cuốn sách của mình lại không được nhà nước CSVN chấp nhận.

Chúng tôi thì chẳng lạ gì chuyện đó.

Thưa GS, khi người ta đang sống trong tâm trạng lo lắng thường trực về nguy cơ bị truống khỏi chiếc ghế quyền lực không biết lúc nào (nói là “hệ tư tưởng XHCN lung lay” cho có vẻ to tát, kỳ thực là “độc quyền phe đảng” lung lay, mà “độc quyền phe đảng” thì bảo lưu cho cái ghế mình đã ngồi chễm chệ trong gần suốt 70 năm) thì còn nghĩ được gì về những chữ thiêng liêng như TỔ QUỐC, QUỐC GIA, DÂN TỘC… vốn nằm ngoài hiểu biết và trí tuệ của họ – những kẻ xuất thân từ “khoai sắn: “Ngày xưa khoai sắn sống lang thang / Bãi cát cồn khô mé núi hoang / Không hỏi đòi chi hồn giản dị / Quanh năm bè bạn chị em làng / Một buổi cờ son lên nối ngôi / Sao thiêng nghiêng xuống luống cày tồi / Sắn khoai hăm hở về dinh chiếm / Quyền sống trên miền rối cỏ hôi…” (Tố Hữu) (Nên nhớ các sách ABC chủ nghĩa cộng sản vẫn giải thích cộng sản là vô tổ quốc). Bởi thế, họ làm sao có được cái nhân cách ngời ngời của một Mạc Ngọc Liễn, Thái phó nhà Mạc, vào năm 1594, khi quân lính của Mạc đang thua lụn bại trước sức tấn công vũ bão của phe Trịnh Tùng, biết mình bệnh nặng sắp chết ông vẫn viết thư căn dặn khẩn thiết vua Mạc Kính Cung, dù vương triều Mạc có mệnh hệ gì cũng “nhất thiết chớ mời người Minh vào nước ta, để đến nỗi dân ta phải chịu lầm than. Đó cũng là tội không gì nặng bằng” (Đại Việt sử ký Bản kỷ tục biên, Q.XVII, tờ 48b – 49a).

Không! Họ không có được lấy một phần trăm phẩm chất cao quý con nhà ấy đâu. Nghĩ thế cũng đã là sang trọng cho họ quá! Xuất thân “khoai sắn” thì đi đến đâu chỉ phá phách tanh bành đến đấy theo cung cách “ăn xổi” là đủ – Rồi từ hôm ấy bọc Hoàng cung / Lớp lớp khoai xanh mướt vạn vồng… (Tố Hữu, bài đã dẫn). Đào xới cả vườn ngự lên mà trồng khoai trồng sắn thì làm sao quản lý nổi một đất nước có lịch sử bề thế hàng nghìn năm về cả vật chất lẫn tinh thần, để đến nỗi dẫn đến tình trạng cả một nước tuột dốc không phanh, “nát như tương” về mọi mặt, như cơ sự ngày hôm nay thì đủ rõ (xin xem Chùm bài lên tiếng về công an “bôi lem” đất nước và bài Ngập sâu trong lòng dân… tiếp sau bài này).

Thì ý niệm về “bảo vệ Tổ quốc” cũng trong một chiều hướng như thế đó. “Khoai sắn” cho nên tầm nghĩ chỉ có một mẩu, mới bị dỗ ngọt mà hớt hải kéo nhau đến hội nghị Thành Đô năm 1990. Ngẫu nhiên được thượng lên chiếc ngai vàng, cứ ngỡ là của “trời cho”, phải quyết giữ lấy và cướp thêm cho “toàn vẹn núi sông”, nên kiên trì dốc người dốc của đánh chiếm suốt 20 năm trong nội bộ “người trong một nước”, với cái “cao vọng” “đốt cháy cả rặng Trường Sơn” để giành cho được “một nửa kia” bằng bất kỳ giá nào. Còn khi lâm thế bí với giặc ngoài thì lại vội nghĩ trước sau gì mình cũng là “chư hầu”, bèn lệnh ngay cho quân lính hứng đạn chịu chết chứ không mảy may tự vệ, như ở Gạc Ma năm 1988. Mâu thuẫn mà thống nhất, khôn g có gì là lạ.

Hãy cứ xem dưới đây hình ảnh những kẻ đang toa rập với nhau quyết tiếp tục khấu đầu “4 tốt, 16 chữ vàng” trước bọn bành trướng Đại Hán, ngay giữa tình thế cả nước đang sục sôi vì giàn khoan HD 981của chúng ngang ngược cắm vòi sâu vào hải phận nước ta và làm cả thế giới kinh ngạc – đấy cũng là một kiểu chạy mánh “ăn xổi” chứ còn gì nữa:

Bên hành lang QH ngày 21-5-2014, với đôi mắt lim dim, khuôn mặt thật gợi cảm và cái miệng dẻo, ông Vũ Mão đang cúi đầu trước ngài TBT mà rằng: “Chúng ta nên nói với nhân dân thế nào về phương châm 16 chữ vàng và 4 tốt trong quan hệ đối ngoại hai nước? Tôi cho rằng, 16 chữ ấy có thể có lúc không đạt được nhưng nó vẫn là cái mong muốn muôn thuở”.

clip_image002

Còn vô số những hình ảnh khác nữa, cứ tự do chường ra khắp đó đây, vừa bẽ bàng với quốc tế mà ngay trong nước, hang cùng ngõ hẻm nào cũng phải bàn tán, xì xào. Nhưng thôi, chỉ một hình ảnh ấy cũng đã đủ để giải thích lý do ký giả Bill Hayton hai lần không được cấp phép vào Việt Nam. Có ai dại gì đi cấp phép cho cái anh nhà báo tuy có con mắt nhìn tinh tường về Biển Đông làm lợi cho đất nước mình đấy, nhưng lại cũng không kém sắc sảo để xoi mói đến tận… những chiếc ghế trong thâm cung mà người ta đang cố bám chặt, lâu bao nhiêu hay bấy nhiêu. Nước mất ư? Thì đã có vàng ký gửi trong các ngân hàng Thụy Sĩ và có nhà mua sẵn ở Mỹ đâu đấy cả rồi, lo quái gì.

Bauxite Việt Nam

Từ chối bạn, chào đón kẻ thù

Nguyễn Tuấn

Có lẽ các bạn đã biết kí giả Bill Hayton vừa mới xuất bản một cuốn sách có tựa đề là “The South China Sea: The Struggle for Power in Asia” (Biển Đông: Cuộc đấu tranh quyền lực ở Á Châu). Tôi chưa đọc cuốn sách (và chắc cũng không có thì giờ đọc trong tương lai gần) nhưng có nhận bài điểm sách của David Brown đăng trên Asia Sentinel(1). Đọc bài điểm sách này, tôi thấy sách có lẽ là nguồn thông tin tốt cho những ai còn quan tâm đến chủ quyền biển đảo và sự đe dọa của Tàu cộng đối với Việt Nam.

clip_image003

Trong sách, Bill Hayton chứng minh rằng những yêu sách về chủ quyền ở Biển Đông của Tàu cộng dựa trên chứng cứ lịch sử là rác rưởi. Ông chỉ ra rằng những chứng cứ đó không thể nào đứng vững khi xem xét đến các văn chứng của triều Nguyễn của Việt Nam. Từ 1750, triều Nguyễn đã điều các đội hải quân ra trấn giữ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đội quân triều Nguyễn còn có chức năng cứu vớt thuyền bị nạn, và mỗi chuyến hải hành, họ ghi lại trong sử sách rất cẩn thận.

Ấy thế mà Việt Nam ngày nay ngưng “lải nhải” (chữ của bài điểm sách) về chủ quyền mang tính lịch sử của mình! Thay vào đó, Việt Nam cầu khẩn thế giới tuân thủ theo luật biển UNCLOS (1994). Thái độ đó gián tiếp nói rằng Việt Nam công nhận chủ quyền của Tàu Cộng trên những quần đảo họ đã đánh chiếm bằng vũ lực từ Việt Nam. Còn Tàu Cộng thì họ biết các yêu sách và chứng cứ của họ yếu, nên họ dùng vũ lực và tẩy não. Họ tẩy não người Tàu rằng chủ quyền của Tàu Cộng ở Biển Đông là không thể chối cãi, rằng các nước nhỏ như Việt Nam, Phi Luật Tân, Mã Lai đang chiếm biển đảo của Tàu!

Nhưng đoạn tái bút của bài điểm sách mới là thú vị vì liên quan đến cá nhân tác giả. Bill Hayton là phóng viên của đài BBC và từng công tác ở Việt Nam trong thời gian 2007-2008. Dù Bill Hayton có quan điểm và phát biểu có lợi cho Việt Nam trong cuộc đấu tranh duy trì chủ quyền biển đảo, nhưng ông không được Việt Nam chào đón. Thật ra, Chính phủ Việt Nam cấm không cho ông vào Việt Nam! Năm 2012, Hayton xin visa để vào Việt Nam dự hội nghị về biển đảo do Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức, nhưng đơn của ông bị bác. Vài tháng sau, ông lại đệ đơn xin visa vào Việt Nam để phỏng vấn các quan chức cho cuốn sách này, và một lần nữa, Chính phủ Việt Nam không cho ông vào. Hệ quả là ông không có nhiều chất liệu để viết về Việt Nam trong cuộc đấu tranh chủ quyền về biển đảo. Do đó, phần liên quan đến Việt Nam trong cuốn sách này tương đối “mỏng” so với các phần khác.

Phải nói thái độ của Chính phủ Việt Nam thật khó hiểu. Theo suy nghĩ bình thường, trong khi các học giả Việt Nam chưa viết được hay chưa đủ khả năng viết được một cuốn sách như Bill Hayton, thì đáng lẽ phải chào đón một người có quan điểm “gần” Việt Nam như Bill Hayton đến Việt Nam, hay ít ra là cung cấp dữ liệu cho ông ấy. Nhưng suy nghĩ bình thường đó có lẽ không ăn khớp với suy nghĩ của Nhà nước. Nghe nói trong thời gian làm ký giả ở Việt Nam, Hayton đã có những bài làm cho Chính phủ Việt Nam không hài lòng. Nhưng tôi nghĩ việc nào ra việc đó, có thể những bài đó không hợp gu với Chính phủ, nhưng về Biển Đông thì nên sử dụng mọi quan điểm và dữ liệu từ mọi nguồn để đem lại lợi ích cho chủ quyền quốc gia.

Nếu Chính phủ Việt Nam chào đón các học giả Tàu vào Việt Nam tham dự hội nghị (và đó là quyết định hoàn toàn đúng) thì Việt Nam chẳng có lý do gì để từ chối không cho người bạn như như Bill Hayton vào Việt Nam.

N.T.

(1) http://www.asiasentinel.com/book-review/south-china-sea-struggle-power-asia/

Sách “The South China Sea: The Struggle for Power in Asia”, xuất bản bởi Yale University Press, dày 320 trang, giá bán 28 USD.

Nguồn: https://www.facebook.com/drtuannguyen

LỄ CÁC LINH HỒN (2 tháng 11).

LỄ CÁC LINH HỒN (2 tháng 11).

(Kn 3, 1-9; Rm 5, 4-11; Ga 17, 24-26).

Đời sống con người giống như lữ hành trên một chuyến xe lửa với những
trạm dừng và thay đổi tuyến đường. Khi sinh ra, cùng với cha mẹ chúng ta bước
lên xe lửa. Mong rằng cha mẹ chúng ta sẽ cùng đồng hành bên cạnh. Tuy nhiên,
tới một trạm nào đó, cha mẹ phải xuống khỏi xe lửa và rời chúng ta đi trong đơn
côi. Các trạm kế tiếp, có nhiều người bước lên xe lửa. Họ là bạn bè, anh chị
em, thân hữu và cả người yêu trong đời. Xe tiếp tục chạy, sẽ có nhiều người ra
khỏi xe và để lại chỗ trống. Có những người ra đi không ai chú ý và chúng ta
cũng chẳng mấy quan tâm là họ vắng mặt lúc nào. Trên tuyến xe lửa cuộc đời có
nhiều niềm vui, hy vọng, mong chờ, tiếng chào hỏi, tiếng cười, nỗi buồn và rồi
chia tay. Sống ý nghĩa là có được tình liên đới hài hòa với tất cả mọi
người…đòi hỏi chúng ta cống hiến điều tốt nhất của chính chúng ta. Nhiệm mầu
của đời sống là chúng ta không biết trạm nào mình sẽ xuống. Bởi thế, chúng ta
hãy sống tốt lành, yêu thương và biết tha thứ. Thật là quan trọng, chúng ta nên
thực hiện những gì tốt nhất trong đời sống. Khi thời điểm phải ra đi, chúng ta
nên để lại những kỷ niệm và ấn tượng thật đẹp cho những ai sẽ tiếp tục cuộc
hành trình.

Hôm nay, Giáo Hội cho chúng ta cơ hội để kính nhớ tổ tiên và cầu nguyện cho các Đẳng linh hồn. Uống nước nhớ nguồn. Xin lễ, cầu nguyện, kính viếng và thương nhớ đến những linh hồn
đã ra đi trước chúng ta là một nghĩa cử thảo kính, báo hiếu và biết ơn. Ai ai
trong chúng ta cũng có những người thân, thành viên trong gia đình, họ hàng, thân
hữu và các ân nhân đã qua đời. Có biết bao nhiêu thành viên trong cùng một niềm
tin mà chúng ta không biết. Chúng ta cũng chẳng thể nào kể hết ông bà tổ tiên
của chúng ta bao đời đã qua. Thiên Chúa tạo dựng nên con người giống hình ảnh
của Chúa, nên mọi người xưa nay còn sống cũng như đã qua đời, đều có sự liên hệ
tông giống nhân loại. Chúng ta biết rằng mọi người, không phân biệt, đều là loài
thụ tạo cao quý có hồn và xác.

Khi lìa đời, thân xác của con người là vật chất, nên sẽ bị tan rữa và trở về cát bụi. Còn linh hồn
thiêng liêng không thể tan biến. Sách Khôn Ngoan đã diễn tả: Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa (Kn 3, 1). Thân xác con người
đều tan rữa hư nát giống nhau. Chỉ có linh hồn còn hiện hữu trong thế giới vô
hình. Đích cùng, linh hồn người công chính và linh hồn kẻ bất lương sẽ không giống
nhau. Linh hồn người công chính ở trong tay Chúa. Đây là chìa khóa của đời sống
tâm linh con người trên trần thế. Có sự khác biệt vô cùng lớn lao trong cuộc
sống ngày sau, giữa người thánh và ác nhân. Chúng ta nhớ dụ ngôn ông nhà giầu
và Ladarô nghèo khó, sau khi cả hai cùng chết, số phận mỗi người một khác. Ông
Abraham đáp lời ông nhà giầu đang bị khổ đau: Giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được (Lc 16, 26). Mọi người được sinh ra cùng lữ hành, nhưng khác nhau nơi
điểm đến sau cùng. Có người sẽ đến được bến bờ hạnh phúc và có kẻ sẽ chịu hình
khổ đời đời.

Người khôn ngoan là người biết dự liệu cho mình hành trang đi về cuộc sống mai hậu. Nếu cứ mải mê tìm kiếm những thú vui trần đời, chúng ta sẽ dễ bị lạc vào mê hồn trận và tương
lai không biết đi về đâu. Không phải chúng ta chờ đến giây phút cuối đời, rồi cầu
nguyện: “Lạy Chúa, lạy Chúa…mà được vào nước trời”. Chúng ta phải thực hành thánh
ý Chúa Cha. Có nghĩa là chúng ta phải phấn đấu trong gian khổ, tu luyện, trau
dồi đức hạnh, tuân giữ các giới răn và cần được thanh luyện. Tác giả sách Khôn
Ngoan dạy rằng: Thiên Chúa đã tinh luyện họ như người ta luyện vàng trong lò lửa và đón nhận họ như của lễ toàn thiêu (Kn 3, 6). Qua Bí tích Rửa Tội, chúng ta đã nhận lãnh hạt giống đức tin.
Chúng ta đã cùng chết với Chúa Kitô, chúng ta sẽ cùng được sống lại với Người.

Truyện kể: Có một bé trai cứ khóc ròng trong lớp học. Cô giáo hỏi: Điều gì làm em buồn khổ thế. Cậu bé trả lời rằng em gái của cậu đã chết, bởi vì người ta đã chôn em dưới nấm mồ và đã lấp đất lại rồi. Cô giáo dẫn  bé trai tới chỗ cửa sổ, nơi đó có một số bình đựng đất xốp. Vài tuần trước, các em đã gieo những hạt giống trong đất. Cô giáo giải thích rằng các hạt gieo
xuống sẽ không giữ nguyên vẹn. Các hạt giống được trồng trong đất và sau một ít
ngày, các hạt này sẽ nẩy mầm, lớn lên thành cây và trổ hoa. Đó là ý nghĩa mà
các hạt giống sẽ biến đổi. Cô giáo lấy ngón tay moi một hạt giống dưới đất xốp,
hạt đã bắt đầu nẩy mầm non và mọc thêm rễ. Cô giáo giải thích: Hạt giống không
chết. Nó đang thay đổi và bây giờ đang trong tiến trình biến đổi rất ý nghĩa.

Trước khi Chúa Giêsu về trời, Ngài đã hứa với các môn đệ: Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em (Ga 14, 2). Lời của Chúa Giêsu là lời quyền năng chân  thật và là bảo chứng cho niềm tin của chúng ta. Đây không phải là lời hứa xuông, mà là một sự xác tín cho những ai đang mong đợi ngày Chúa đến. Chúa Giêsu đã  cầu nguyện cùng với Cha của Ngài: Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với  con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của Con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương Con trước khi thế gian được tạo thành (Ga 17, 24). Đây là chương trình sáng tạo của Thiên Chúa. Mọi loài thụ tạo đều có cùng đích để
hướng tới. Đặc biệt đối với con người, Thiên Chúa đã muốn chia sẻ tình yêu và
hạnh phúc viên mãn. Khởi đầu thơ gởi Do-thái, tác giả viết: Thuở xưa, nhiều lần và nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dậy cha ông chúng ta qua ngôn sứ, nhưng vào thời sau hết này,
Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng
nên vũ trụ, đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài (Dt 1, 1-2).

Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta về ý nghĩa và sứ mệnh làm người. Trong cuộc lữ hành hướng tới cùng đích là Nước Trời. Chúa Giêsu đã mở cửa Nước Trời ngay tại thế để mời gọi chúng ta gia nhập bước vào. Con đường vào Nước Trời là con đường hẹp. Con đường Chúa
đã đi qua. Chúng ta hãy bước theo gót chân và đi theo lối bước của Chúa. Chúa
là ánh sáng đã đến trong thế gian, ánh sáng soi dọi vào đêm tối để dẫn dắt
chúng ta tới nguồn sáng thật. Chính Chúa Kitô đã ban cho chúng ta lời hằng
sống, bánh trường sinh và sự sống thật. Ngài đã chiến thắng tử thần và sống lại
vinh quang. Chúa đã chết vì tội lỗi của chúng ta để ban lại cho chúng ta sự
sống muôn đời. Thánh Phaolô viết: Thế mà
Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó
là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta (Rm 5, 8).
Tất cả chỉ vì tình
yêu, cả công trình sáng tạo và cứu chuộc của Chúa. Chúa đã chết cho tình yêu để
chúng ta được giao hòa với Thiên Chúa: Chúng
ta còn có Thiên Chúa là niềm tự hào, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng
nay đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa (Rm 5, 11).

Lạy Chúa, cuộc sống này thay đổi chứ không mất đi. Chết không phải là hết, mà là bắt đầu một cuộc sống mới trong Chúa Kitô. Xin cho chúng con biết quý trọng sự sống đời này và
chuẩn bị hành trang cho đời sống mai hậu. Chúng con cầu xin cho tất cả các linh
hồn đã qua đời được chung hưởng hạnh phúc qua lòng từ bi nhân hậu của Chúa.
Chúng con cậy vì danh Chúa nhân từ, cho các linh hồn được lên chốn nghỉ ngơi,
hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Anh chị Thụ Mai gởi

Tâm lý đố kỵ của con người

Tâm lý đố kỵ của con người

Tại sao con họa mi cứ thương hại con chim sẻ phải tự kiếm ăn? Trong khi có thể con chim sẻ cũng đang thương hại cho con họa mi vì cuộc đời tù túng.

Hoonzuco

Hạnh phúc là một trạng thái tình cảm. Mà cái gì đã liên quan đến trừu tượng đều khó nắm bắt. Với tôi, hạnh phúc chưa bao giờ là lựa chọn dễ dàng. Thế nhưng, con người điều khiển trạng thái hạnh phúc/bất hạnh thật kỳ tài.

Đối với nhiều người, hạnh phúc của bản thân họ không phải đến tự bản thân họ mà đến từ người khác, đến theo cách so sánh với người khác. Một người kiếm được nghìn đô một tháng thấy hạnh phúc không phải vì số tiền đó đem đến niềm vui cho họ, mà vì nhiều người xung quanh không có số tiền như thế. Nhưng họ sẽ cảm thấy kém hạnh phúc hơn khi có những người kiếm được nhiều tiền hơn.

Và người ta so sánh cả những thứ khác, như việc lấy vợ chẳng hạn: Người hạnh phúc hơn, vui vẻ hơn khi mình lấy được vợ đẹp hơn, giàu hơn, hay sớm hơn người khác, mà không phải hạnh phúc vì tự họ cảm nhận được.

Nhiều người cảm nhận hạnh phúc như thế, và tệ hơn là họ cũng nghĩ người khác cảm nhận theo cách của họ. Rồi từ đó, tự họ nghĩ rằng những người không có những thứ như mình sẽ không hạnh phúc, không vui vẻ bằng mình! Và từ đấy, họ lại tỏ ra thương hại những người mà họ cho là không hạnh phúc bằng họ. Một kiểu khóc mướn thương vay! Chính sự thương hại đó lại làm tăng thêm cảm xúc hạnh phúc và vui vẻ của họ.

Sự thật là con chim sẻ tung tăng giữa trời tự do sẽ có niềm vui riêng của con chim sẻ. Và con họa mi yên vị trong lồng son cũng có niềm vui riêng của nó. Tại sao con họa mi cứ phải thương hại con chim sẻ phải tự kiếm ăn? Trong khi có thể con chim sẻ cũng đang thương hại cho con họa mi vì cuộc đời tù túng?

Bản chất của con người là muốn được ngưỡng mộ, được khen và hơn người khác. Bởi vì thế giới tôn vinh những cái hơn người. Thế nên bạn giỏi hơn người khác, giàu hơn người khác hoặc đẹp trai/xinh gái hơn người khác thì tất nhiên, bạn đều có quyền kiêu ngạo. Nhưng tuyệt nhiên, đừng nhìn người khác bằng ánh mắt thương hại. Bởi chưa chắc họ đã để cái hơn người của bạn vào mắt, chưa chắc họ đã ít hạnh phúc hơn bạn.

Hạnh phúc là trạng thái tâm lý, vậy nên, nếu họ không bằng bạn, nhưng họ hài lòng với cuộc sống của mình, không ghen tỵ, đố kị và luôn chăm chăm săm soi vào những người hơn họ như bạn, thì hẳn nhiên là họ đang rất hạnh phúc đấy. Đồng ý rằng việc so sánh với xung quanh giúp con người ta có nỗ lực hơn, không tự huyễn hoặc bản thân rằng mình rất tốt, rất giỏi rồi mà không cần nỗ lực tiếp. Nhưng cái gì cũng cần có mức độ thôi bạn ạ.

Thử nghĩ thế này nhé. Nếu bạn học dốt hơn đứa hàng xóm, bạn luôn bị bố mẹ, bạn bè đem ra so sánh với nó. Và bạn cực kỳ ghét nó, luôn cô gắng để vượt qua nó. Thế nhưng, bạn có nghĩ đến việc cả đời này bạn không vượt qua được nó thì sao? Chẳng nhẽ bạn cứ sống hết đời trong ghen tỵ và thất vọng vì mình kém nó sao? Bạn cũng không thể biến mình thành thông minh hơn nó, chẳng nhẽ lại than trách bố mẹ sinh ra mình không thông minh bằng?

Bất cứ ai, không giỏi mặt này thì cũng sẽ giỏi mặt khác, và kể cả chẳng giỏi bất cứ mặt nào thì cũng không liên quan gì đến hạnh phúc cả. Biết đâu bạn không giỏi gì cả nhưng có gia đình hòa thuận, bố mẹ, bạn bè, người yêu quan tâm, công việc yêu thích, thế thì tuyệt quá đi chứ. Thế nên dù bạn có không bằng bất cứ ai, bạn vẫn có thể hạnh phúc cơ mà.

Vậy nên, thử vứt quách cái thứ tâm lý nhỏ nhen, đố kỵ ấy đi. Nhìn đời bằng con mắt bao dung hơn, rộng lượng hơn thì mở cửa ra, hạnh phúc đã ùa vào rồi đấy.

Trước kia tôi cũng đố kị đủ thứ với đủ người. Từ con bé hàng xóm được nhiều đứa quý hơn do nó cởi mở, dẻo miệng còn tôi thì lầm lỳ ít nói. Từ con bé cùng lớp xinh xắn được một đám con trai theo sau nịnh bợ, thầy cô yêu quý, luôn được tham gia thi múa hát các kiểu còn tôi thì gầy còm xấu xí nên chẳng ai để tâm đến… Nhưng gần đây tôi mới biết, khi đó chúng nó cũng đố kỵ với tôi vậy thôi. Đố kỵ tôi học giỏi hơn, đố kỵ tôi chẳng bao giờ bị bố mẹ đánh… Đấy, quanh cái vòng luẩn quẩn của so sánh, đố kỵ ấy chẳng có ai thật sự hạnh phúc cả.

Sống biết cuộc sống của mình thôi, nhìn chăm chăm vào cuộc sống của người khác để khó chịu khi người ta hơn mình, vui mừng khấp khởi khi người ta khó khăn làm gì. Mệt mỏi ra.

Hạnh phúc giản dị lắm. Nó luôn  bên cạnh ta, chỉ cần  quay mặt sang sẽ thấy. Nhưng đáng tiếc, chúng ta lại luôn nhìn về phía trước.

From: ngocmaidl9 & Anh chị Thụ Mai gởi

NIỀM HY VỌNG HẠNH PHÚC

NIỀM HY VỌNG HẠNH PHÚC

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Những lời Chúa nói hôm nay thật lạ lùng.  Khác hẳn với những gì người đời thường nói.  Nhưng đem đến cho ta biết bao niềm hy vọng.

Trước hết là niềm hy vọng hạnh phúc.  Cuộc sống trần gian có nhiều khổ đau đến nỗi nhiều người gọi trần gian là thung lũng nước mắt.  Ai cũng mơ ước được hạnh phúc.  Nhưng hầu như hạnh phúc luôn ở ngoài tầm tay con người.  Với những lời chúc phúc hôm nay, Chúa cho ta biết Chúa đã dựng nên con người để được hạnh phúc.  Dù hiện nay ta còn phải chịu nhiều đau khổ, ưu phiền, khốn khó, nhưng những đau khổ, ưu phiền khốn khó đó sẽ qua đi.  Vì cuộc sống này chỉ là tạm bợ.  Hạnh phúc Chúa hứa sẽ vĩnh cửu vì cuộc sống đời sau không bao giờ tàn úa.

Tiếp đến là niềm hy vọng Nước Trời.  Hạnh phúc ta được không ở tại đời này, nhưng ở trên Nước Trời.  Trên Nước Trời ta được hạnh phúc vì được làm chủ nhân Nước Trời.  Và trên Nước Trời, ta sẽ được an ủi, được thương xót, được làm con Chúa, được thấy mặt Chúa.  Đó là hạnh phúc tuyệt đối không gì có thể so sánh được.

Sau cùng là niềm hy vọng được chính Chúa.  Qua những lời chúc phúc.  Chúa cho ta hiểu rằng Chúa chính là nguồn mạch sự sống của ta, là tất cả ý nghĩa đời ta, là hạnh phúc của ta.  Được Chúa là được tất cả.  Chúa là sản nghiệp lớn lao sẽ khiến ta trở nên giàu có.  Chúa là niềm an ủi khiến ta không còn sầu khổ.  Chúa là hạnh phúc tuyệt đối khiến ta thỏa chí toại lòng không còn khao khát gì nữa.  Còn gì hạnh phúc hơn khi ta được chiêm ngưỡng Chúa tỏ tường, được làm con Chúa, được Chúa yêu thương.

Tuy nhiên để đạt được Chúa, bản thân ta phải được thanh luyện theo con đường Tám Mối Phúc.  Chính Chúa Giêsu đã đi vào con đường đó.  Người đã sống nghèo, đã sống hiền lành khiêm nhường, đã chịu giết hại vì rao giảng Tin Mừng.  Người đã mở đường đi về hạnh phúc.

Các thánh là những người đã đi theo Chúa Giêsu trên con đường thanh luyện.  Các ngài đã giặt áo trong máu Con Chiên nên áo của các ngài trắng như tuyết.  Các ngài được hưởng hạnh phúc Nước Trời vì các ngài đã chịu thanh luyện trong cuộc sống trên trần gian.  Các ngài được chính Chúa vì các ngài đã từ chối không ham mê dính bén những của cải trần gian.

Vì thế, lễ các thánh là lễ của niềm vui.  Chúng ta vui mừng vì các thánh chính là thân nhân của chúng ta, là tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn bè chúng ta.

Lễ các thánh là lễ của niềm hy vọng.  Các thánh là người như chúng ta với tất cả những thiếu thốn, những yếu hèn.  Các ngài đã đạt tới hạnh phúc Nước Trời.  Như thế chúng ta hy vọng cũng sẽ được hạnh phúc Nước Trời như các ngài.  Chúng ta còn hy vọng hơn nữa, vì Chúa đã hứa cho ta được hạnh phúc Nước Trời làm sản nghiệp.  Lời hứa của Chúa là niềm hy vọng của chúng ta.

Nhưng lễ các thánh cũng là lễ của phấn đấu.  Con đường dẫn ta tới Nước Trời là con đường Tám Mối Phúc.  Đó là con đường phấn đấu từ bỏ mình, từ bỏ những ham hố tranh dành, chiếm hữu, thống trị.  Phấn đấu sống khiêm nhường và nhất là yêu thương xây dựng hòa bình.  Khi phấn đấu sống như thế, ta xây dựng Nước Trời từ trần gian, biến trần gian thành nơi hạnh phúc, biến mọi người thành anh em. Khi phấn đấu xây dựng Nước Trời như thế, ta góp phần xây dựng hòa bình trên trần gian.

Lạy các thánh nam nữ ở trên trời, xin cầu cho chúng con.

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ Mai gởi

Hậu quả tai hại của Hội nghị Thành Đô’

Hậu quả tai hại của Hội nghị Thành Đô’

Dương Danh Dy Nhà nghiên cứu Trung Quốc

Các ông Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười

…Hơn 20 năm sau Hội nghị Thành Đô, nay có dịp nhìn lại vấn đề, người ta sẽ thấy “ngộ” ra được một số điều mà ngay từ khi được phổ biến kết quả của Hội nghị, những người quan tâm đến tình hình đất nước lúc đó đã ít nhiều biểu thị sự không đồng tình.

Bước đầu, xin mạnh dạn công khai một số yếu kém của phía chúng ta, cũng như xin thẳng thắn đề cập tới một vài tác hại của những “quyết đoán” sai lầm khi đó đối với đất nước.

Nêu ra một số việc, không phải là muốn truy cứu trách nhiệm chính trị, hoặc nhằm bôi xấu, hạ thấp uy tín của một ai mà chỉ nhằm một mục đích: nếu không thấy hết những dại khờ, non yếu của chúng ta, không vạch trần những mưu ma chước quỷ của kẻ mà cho đến tận giờ phút này trong chúng ta vẫn còn có không ít ngưòi lầm tưởng họ là những đồng chí cộng sản, những người đang cùng chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội thì sẽ là một nguy hại to lớn, lâu dài, tiềm ẩn đối với dân tộc.

Ngoài những nhân nhượng vô nguyên tắc về Campuchia như đã trình bày ở bài trước, phía Việt Nam đã không hề (hay không dám) đề cập tới nguyên nhân tạo ra bất đồng trong quan hệ Việt Trung trong hơn 10 năm qua nhất là cuộc Chiến tranh Biên giới tháng 2 năm 1979 do Ban lãnh đạo Bắc Kinh cố tình, chủ động gây ra.

Phía Việt Nam đã hoàn toàn cho qua vấn đề sau khi nghe Giang Trạch Dân nói trong diễn văn: quan hệ hai nước từ nay “hãy gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”.

Đó là những điều ngưòi viết bài này thu nhận được sau khi đã hỏi kỹ đồng chí phiên dịch và nói chuyện nghiêm túc nhiều lần với đồng chí Hồng Hà khi đồng chí còn sống tại một số cuộc họp và tại phòng làm việc của đồng chí tại số 2 Nguyễn Cảnh Trân và tại nhà riêng của tôi do đồng chí chủ động tới gặp.

Không dám hé một lời

Chúng ta không đòi Trung Quốc phải bồi thường chiến tranh trong khi đã nêu vấn đế Mỹ bồi thường chiến tranh

Chúng ta không đòi Trung Quốc phải bồi thường chiến tranh trong khi đã nêu vấn đế Mỹ bồi thường chiến tranh là điều kiện tiên quyết để bình thường hoá quan hệ hai nước nhưng tại sao trong đàm phán bí mật lại không dám nói dù chỉ là một lời với Trung Quốc về cuộc chiến tranh tàn ác đó và buộc họ chí ít phải nói ra câu ‘lấy làm tiếc’ về hành động phi nghĩa của mình?

Nhượng bộ vô nguyên tắc này của Việt Nam đã làm cho Trung Quốc dường như giành được ‘vị thế chính nghĩa’ trước dư luận quốc tế và nhất là trong đông đảo nhân dân Trung Quốc dù họ mang hơn 60 vạn quân chính quy xâm lược, giết hại nhiều đồng bào ta, tàn phá nhiều cơ sở vật chất của ta tại vùng sáu tỉnh biên giới Việt Nam.

Làm cho một bộ phận người trên thế giới cho rằng những vu cáo bịa đặt của Trung Quốc: ‘Việt Nam xua đuổi người Hoa’, ‘Việt Nam xâm lược Campuchia’… là đúng, việc thế giới ‘lên án, bao vây cấm vận Việt Nam’ là cần thiết, việc Trung Quốc ‘cho Việt Nam một bài học’ là phải đạo…trong khi chính chúng ta mới là ngườì có công lớn trong việc đánh tan bọn Khơme Đỏ, cứu nhân dân Campuchia khỏi nạn diệt chủng. Tóm lại là đã làm cho khá nhiều người trong thời gian khá dài hiểu lầm, ác cảm với Việt Nam.

Cho tới khi đặt bút viết những dòng này mặc dù đã mất nhiều công sức tìm hiểu, người viết vẫn chưa biết ai là người đề xuất chủ trương cấm không được nói lại chuyện cũ với Trung Quốc, khiến cho trong hơn 20 năm qua, trên các phương tiện truyền thông của Việt Nam không hề có một tin tức nào động chạm tới Trung Quốc. Ngay cả tên tuổi, nghĩa trang của các liệt sĩ hy sinh trong cuộc đấu tranh yêu nước thần thánh trên cũng bị cố tình lảng tránh không dám công khai nói tới, thậm chí bị lãng quên.

Cuộc Chiến tranh Biên giới năm 1979 bị quên đi

Cần phải nói ra đây một sự thực là trong khi đó, báo, mạng chính thống của Trung Quốc vẫn ra sức tung hoành, không hề bị một sự cấm đoán, hạn chế nào, ngày ngày tìm hết cách để bôi xấu, xuyên tạc Việt Nam về mọi mặt, đến nỗi phần lớn người dân Trung Quốc bình thường khi được hỏi về Việt nam cũng thốt lên, Việt Nam là ‘vô ơn bội nghĩa, là kẻ ăn cháo đá bát’…

Theo tài liệu chính thức của Trung Quốc trong một cuộc điều tra công khai, đã có tới “80% dân mạng Trung Quốc – tức khoảng 300 triệu ngưòi-chủ yếu là thanh niên và người có học – tán thành dùng biện pháp vũ lực với Việt Nam tại Biển Đông.

Cảm tình, ấn tượng tốt đẹp của đa số nhân dân Trung Quốc về một nước Việt Nam anh dũng trong chiến đấu, cần cù trong lao động, hữu nghị với Trung Quốc trước đây dường như không còn nữa. Hậu quả tai hại này chưa biết bao giờ mới xoá bỏ được.

Chấp nhận yêu sách trắng trợn của phía Trung Quốc gạt bỏ mọi chức vụ trong và ngoài đảng đồng chí Nguyễn Cơ Thạch, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam, rồi lợi dụng mọi cơ hội đế đến Đại hội 8 Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức làm được việc đó khi đồng chí là một trong số rất ít người lãnh đạo có tư duy sáng tạo, am hiểu tình hình quốc tế, có sức khoẻ dồi dào, có uy tín quốc tế, nhất là đối với các nước Phương Tây là một việc làm thể hiện sự yếu kém về bản lĩnh và sự tha hoá về tình nghĩa cộng sản, là một việc làm dại dột “vác đá tự ghè chân mình”…

Có thể nói mà không sợ quá mức rằng, nếu Nguyễn Cơ Thạch còn trong ban lãnh đạo cấp cao Đảng ta một nhiệm kỳ nữa thì việc bình thường hoá quan hệ Việt Mỹ và việc Việt Nam gia nhập Asean chắc chắn không phải mãi đến năm 1995 mới thực hiện, chậm hơn việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc tới gần 5 năm.

Ban lãnh đạo Bắc Kinh các thế hệ, lo sợ ảnh hưởng của Nguyễn Cơ Thạch tới mức, mặc dù ông buộc phải nghỉ hưu và mất đã khá lâu mà hơn hai mươi năm sau ngày bình thưòng hoá quan hệ Việt Trung, tại Đại hội lần thứ XI ĐCSVN tháng 1 năm 2011 họ còn không muốn để con trai ông làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam (lời nguời lãnh đạo đảng ta lúc đó nói, tôi được nguyên đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Nguyễn Trọng Vĩnh trực tiếp cho biết)

Cần nói thêm, việc ngoan ngoãn chấp hành yêu sách gạt bỏ đồng chí Nguyễn Cơ Thạch đã tạo điều kiện để từ sau đó, Bắc Kinh can thiệp ngày càng sâu hơn vào công tác cán bộ, nhân sự chủ chốt của đảng và nhà nước ta qua mấy kỳ đại hội Đảng (IX, X, và XI) nhằm có người thân Trung Quốc trong cơ cấu lãnh đạo cấp cao.

Quan hệ Việt – Trung đ̣ã trải qua nhiều bước thăng trầm

Việc tỏ ý không muốn thấy con trai đồng chí Nguyễn Cơ Thạch nêu trên chỉ là một ví dụ gần đây nhất.

Đây là việc chưa từng có trong Đảng ta. Chúng ta đều biết thời Bác Hồ, trong Đảng ta tuy có người này kẻ kia thân Liên Xô, thân Trung Quốc nhưng ngưòi nào cũng phải nghiêm chỉnh chấp hành đường lối của Đảng, thời đồng chí Lê Duấn là người lãnh đạo chủ yếu đã không duy trì được nếp chung sống đó, nhưng bất kể là ai hễ thân Liên Xô, thân Trung Quốc trong đảng đều bị loại trừ.

Có thể nhận định thế này thế nọ về hiện tượng trên nhưng có một điều có thể khẳng định, thời đó nước ngoài và nhất là Trung Quốc, không thể trực tiếp thò tay can thiệp vào nội bộ Đảng ta nhất là vê công tác nhân sự tổ chức.

Nhưng từ năm 1991 đến nay, việc Trung Quốc can thiệp vào nội bộ ta đã hầu như đã diễn ra thường xuyên và chưa hề bị lên án. Phải chăng đã xuất hiện ‘Nhóm lợi ích thân Trung Quốc’ trong Đảng ta? Không giải quyết được tình trạng này thì hậu hoạn khôn lường.

Bài học bị dắt mũi nhớ đời

Không thể dùng các từ ngữ thông thưòng để đánh giá các hậu quả trên mà phải dùng từ “cái giá phải trả bằng xương máu” mới phản ánh đúng bản chất của vấn đề.

Hội nghị Thành Đô đã, đang và sẽ còn mang lại cho đất nước chúng những hậu quả to lớn, cay đắng, nhục nhã…

Vì vậy một vấn đề cũng quan trọng không kém mà người viết xin mạnh dạn khởi đầu trước: từ những cái giá phải trả đó chúng ta cần rút ra những bài học gì? Cần ghi nhớ những bài học nào?

1. Những ngưòi lãnh đạo chủ chốt của Đảng ta lúc đó hầu như không nắm được những thay đổi, những diễn biến lớn trên trường quốc tế, nhất là về các nước XHCN Đông Âu, tình hình Liên Xô, tình hình Mỹ cũng như tình hình đối thủ trực tiếp của mình lúc đó là Trung Quốc. Từ đó đã có những nhận định rất sai lầm để rồi đưa ra những quyết định rất sai lầm.

Lãnh đạo Việt Nam đã nhận định sai về vị thế quan hệ Trung – Xô

Thắng lợi của Công đoàn Đoàn kết tại Ba Lan, sự kiện Bức tường Berlin bị nhân dân Đức xoá bỏ, việc Yeltsin giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tại Liên bang Nga, Gorbachev từ bỏ chủ nghĩa xã hội và đảng cộng sản… đã không làm cho một số ngưòi trong ban lãnh đạo chúng ta thấy rằng chủ nghĩa xã hội đã không còn được nhân dân ở chính ngay những nước đó ưa thích, theo đuổi, sự sụp đổ của họ là lẽ tất nhiên.

Trong tình hình như thế mà lại chủ trương ‘bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc để bảo vệ chủ nghĩa xã hội, chống đế quốc’, ‘Mỹ và Phương Tây muốn cơ hội này để xoá cộng sản’.

“Nó đang xoá ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xoá cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng là nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải tìm đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc.” (trích Hồi ký Trần Quang Cơ)

Cần thấy rằng, trước đó Liên Xô là chỗ dựa về nhiều mặt của Việt Nam, tuy vậy phải nói thẳng ra rằng, so với Cuba thì Việt Nam tương đối ít lệ thuộc hơn. Thế nhưng trong khi Cuba phụ thuộc nặng nề vào Liên Xô, lại ở ngay sát nách Mỹ đã không tỏ ra hoảng hốt khi Liên Xô tan rã, và các bạn ấy vẫn hiên ngang đứng vững từ đó đến nay, Mỹ không dám can thiệp… thì Việt Nam đã phải vội vã quay sang tìm đồng minh ngay với kẻ đang là đối thủ nguy hiểm trực tiếp của mình chỉ vì cái đại cục chung chung, chỉ vì sợ mất chỗ dựa, sợ có thể mất chủ nghĩa xã hội, mất Đảng.

Không thấy hết những khó khăn trong ngoài nước của Trung Quốc lúc đó. Trong nước họ vừa xảy ra sự kiện Thiên An Môn, Triệu Tử Dương bị cách chức Tổng Bí thư, nội bộ lãnh đạo cấp cao bất đồng sâu sắc, một bộ phận nhân dân bất mãn với Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Do đàn áp đẫm máu học sinh sinh viên, Trung Quốc bị các nước Phương Tây chủ yếu cấm vận về chính trị, kinh tế, quân sự, có hạng mục như xuất khẩu kỹ thuật cao trong quân sự đến nay vẫn chưa huỷ bỏ.

Họ ở vào thế không có lợi nhiều mặt khi bình thường hoá quan hệ với ta, nhưng do mấy nhà lãnh đạo chúng ta lúc đó đánh giá không đúng tình hình nên không những không sử dụng được lợi thế của mình, mà còn bị Trung Quốc ‘dắt mũi’ kéo theo, thiệt đơn thiệt kép trong xử lý quan hệ cũ và trong giai đoạn bình thường quan hệ mới, cho tới tận bây giờ và cả trong tương lai nữa.

Lãnh đạo Đảng năm 1990 đã đánh mất bản lĩnh và trở nên sợ địch

Không thể không đề cập tới một vấn đề nữa là trong hơn 10 năm đối kháng, nhà nước Xã hội chủ nghĩa Trung Quốc, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã không từ thủ đoạn nào trong đối xử với nước ta, không những thế thái độ của họ trong đối xử với Liên Xô, trong đối xử với nước Ấn Độ láng giềng đồng tác giả với họ trong đề xướng 5 nguyên tăc chung sống hoà bình những năm trước đó.

Chẳng lẽ Ban lãnh đạo Việt Nam lúc đó lại không thấy chút nào?

2. Bằng những thoả thuận tại Hội nghị Thành Đô, mấy nhà lãnh đạo chủ yếu của Đảng ta lúc đó đã tự đánh mất bản lĩnh kiên cường, bất khuất, không sợ địch mà nhiều thế hệ lãnh đạo đã nêu cao, để sẵn sàng nhận sai về phần mình trước kẻ thù, tuỳ tiện đổ lỗi cho người tiền nhiệm.

Người viết bài này không hiểu vì sao, người đại diện cho Đảng ta, một nhân vật có tinh thần sáng tạo lớn với ý chí kiên cường đã tích cực phát triển đường lối cải cách và Đổi mới và chỉ đạo toàn Đảng toàn dân thu được những thành tích to lớn rất quan trọng bước đầu, thế nhưng trước đối thủ Trung Quốc hình như chỉ còn là chiếc bóng, mất hết cảnh giác cách mạng gật đầu tin tưởng và làm theo mọi đề xuất mang đầy chất lừa bịp ‘vì chủ nghĩa xã hội’, ‘vì đại cục’ của Trung Quốc, thậm chí chấp nhận để họ can thiệp vào công việc nhân sự cấp cao của đảng ta.

Bài học này, cần được phân tích sâu sắc trong toàn Đảng, toàn dân, một mặt để thấy rõ sai lầm quá khứ, một mặt để ngăn chặn, phá tan những âm mưu, mánh khoé mới của ngưòi ‘láng giềng bốn tốt’, của ‘những đồng chí’ luôn rêu rao ’16 chữ vàng’ đang không ngừng vận dụng những thành quả cũ vào trong quan hệ với Việt Nam chúng ta hiện nay và trong tương lai.

Vấn đề Hỏa Ngục

Vấn đề Hỏa Ngục

TRẦM THIÊN THU

Hỏa Ngục có thật, không là chuyện mơ hồ hoặc bịa đặt để hù dọa. Hỏa Ngục như một Biển Lửa, lửa-của-các-loại-lửa, cực mạnh và vô cùng khủng khiếp, không như lửa bình thường ở thế gian này. So với Lửa Hỏa Ngục và Lửa Luyện Hình, lửa thế gian chỉ như “gió mát” mà thôi. Đừng cứng lòng mà phải khốn nạn đời đời!

Bài chia sẻ này gồm vài chứng cớ mạnh mẽ và khủng khiếp mà các thánh nhân đã được mặc khải và trực tiếp cảm nghiệm thực tế về nơi ở ngùn ngụt lửa của ma quỷ. Các mặc khải này đã được Giáo hội chuẩn nhận vì hoàn toàn phù hợp với các giáo huấn trong Phúc Âm. Kitô hữu không buộc phải tin các mặc khải tư, nhưng các mặc khải về Hỏa Ngục này khả dĩ giúp chúng ta suy nghĩ nghiêm túc hơn và sâu sắc hơn về sự bí ẩn và thực tế của Hỏa Ngục.

Tháng Mười Một, tháng cầu cho các linh hồn nơi Luyện Hình, là dịp thuận tiện để chúng ta cùng kiểm tra và xác định lại đức tin của chính mình. Hãy chú ý các “bí quyết” mà ma quỷ áp dụng để cám dỗ và khiến chúng ta phạm tội. Mưu ma chước quỷ thật đáng sợ!

1. THÁNH TIẾN SĨ TERESA ÁVILA (1515–1582)

Thánh nữ Teresa Ávila là nhà thần bí, tiến sĩ Giáo hội. Bà cho biết:

“Một hôm, khi tôi đang cầu nguyện, tôi thấy chính mình trong một lúc, không biết thế nào, rõ ràng chìm vào Hỏa Ngục. Tôi biết đó là Ý Chúa muốn tôi thấy nơi mà ma quỷ đang sẵn sàng đối với tôi, tôi đáng như vậy vì tội của tôi. Thời gian kéo dài một lúc, nhưng có vẻ như tôi không thể quên được dù tôi còn sống nhiều năm sau đó. Lối vào có vẻ hẹpdài, giống như lò lửa, rất tối tămchật chội. Nền như đầy nước, bùn lầy, hôi thối, kinh tởm, và đầy sâu bọ gớm ghiếc. Phía cuối là khoảng trống rỗng như khoang trống ở trên vách tường, tôi thấy mình bị nhốt giam ở đó. Không có gì khoác lác trong lời tôi nói đâu”.

“Với những gì tôi cảm thấy lúc đó, tôi không biết bắt đầu từ đâu nếu tôi phải diễn tả nơi đó. Rất khó giải thích. Tôi cảm thấy lửa trong linh hồn tôi nhưng tôi không thể diễn tả. Đau khổ thể lý của tôi không thể chịu nổi. Tôi chịu các đau khổ nhất trong đời, như các thầy thuốc diễn tả là teo gân khi tôi bị tê liệt, không thể so sánh với các dạn bệnh khác, ngay cả những gì tôi nói, Satan bắt tôi phải chịu. Nhưng những điều đó chẳng là gì so với những gì tôi cảm thấy lúc đó, nhất là khi tôi thấy không có sự tạm ngưng hoặc kết thúc cực hình”.

“Các cực hình đó không là gì so với nỗi thống khổ của linh hồn tôi, một cảm giác áp bức, ngột ngạt, đau nhói, cùng với cảm giác vô vọng và tàn khốc, tôi không biết mô tả như thế nào. Nếu tôi nói rằng linh hồn tiếp tục bị xé ra khỏi thân xác thì cũng chưa chính xác, vì điều đó ngụ ý nói sự hủy diệt sự sống bằng tay của người khác, nhưng ở đây, chính linh hồn tự xé ra từng mảnh. Tôi không thể mô tả lửa hoặc nỗi vô vọng trong lòng, hơn cả mọi sự giày vò và đau khổ. Tôi chưa thấy ai bị hành hạ như tôi, tôi cảm thấy mình đang cháy và bị xé ra từng mảnh. Tôi lặp lại rằng đó là lửa trong lòng, và nỗi vô vọng là cực hình khủng khiếp nhất.

“Khi vào nơi khủng khiếp đó, không còn hy vọng được thoải mái, tôi không thể ngồi hoặc nằm, không có khoảng trống nào hết. Tôi như bị đặt vào khoảng không trên vách tường, nhìn mình rất khủng khiếp, xung quanh tôi là những tiếng rên la. Tôi không thể hít thở. Không có ánh sáng, chỉ có bóng tối dày đặc. Tôi không biết mô tả nó như thế nào. Dù không có ánh sáng, nhưng mọi thứ có thể gây đau khổ bằng cách bị thấy mà vô hình”.

“Lúc đó, Đức Mẹ không cho tôi thấy Hỏa Ngục nữa. Sau đó, tôi có một thị kiến khủng khiếp nhất, trong đó tôi thấy hình phạt của các tội lỗi. Các hình phạt nhìn rất khủng khiếp, nhưng vì tôi không còn đau đớn nữa, nỗi kinh hoàng của tôi cũng không còn ghê gớm…”.

“Tôi quá đỗi hoảng sợ khi thấy thị kiến đó, nhìn như nơi mà tôi thấy sáu năm trước, sức nóng tự nhiên của cơ thể khiến tôi rùng mình mỗi khi tôi nghĩ tới nó. Vì thế, trong mọi đau khổ mà tôi có thể phải chịu, tôi luôn nhớ rằng mọi đau khổ trên thế gian này không là gì cả. Có vẻ chúng ta than phiền vô cớ. Tôi lặp lại rằng thị kiến này là một trong các điều thương xót của Thiên Chúa. Đó là điều tuyệt vời nhất đối với tôi, vì điều đó đã hủy diệt nỗi lo sợ của tôi về sự rắc rối và sự mâu thuẫn của thế gian, vì điều đó đã làm tôi đủ mạnh mẽ để chống lại, tôi tạ ơn Đức Mẹ là Đấng giải thoát tôi khỏi những nỗi đau khổ kinh khủng và lâu dài như vậy”.

2. NỮ TU JOSEFA MENENDEZ (1890–1923)

Nữ tu Josefa Menendez, người Tây Ban Nha, qua đời năm 1923 ở tuổi 33, là một trong các nhà thần bí “nổi tiếng” của thế kỷ XX. Nữ tu này có cuộc đời ngắn ngủi nhưng chịu nhiều đau khổ, và được mặc khải trong đa phần cuộc đời, gom lại trong cuốn “The Way Of Divine Love” (Cách Thức của Tình Chúa). Bà đã được đưa tới Hỏa Ngục để chứng kiến và cảm nhận nỗi thống khổ. Nữ tu Josefa buộc lòng phải viết về Hỏa Ngục, vì bà làm vậy chỉ là làm theo ý muốn của Chúa. Đây là chứng cớ:

“Linh hồn tôi rơi vào vực thẳm, rộng bao la, không thấy đáy… Rồi tôi bị đẩy vào một hồ lửa, giống như ở giữa các tấm ván đang cháy, các đinh nhọn sắc và các thanh sắt nóng đỏ như muốn đâm vào da thịt tôi. Tôi cảm thấy như thể chúng muốn tuốt lưỡi tôi ra nhưng không thể. Cực hình này khiến tôi đau đớn đến nỗi mắt tôi như không còn nhìn thấy. Tôi nghĩ đó là vì lửa cháy, bừng cháy… Không móng tay nào của tôi không đau đớn, người ta không thể nhúc nhích dù chỉ một ngón tay để cho bớt đau nhức, không thể thay đổi tư thế, vì cơ thể có vẻ như bị dát mỏng và bị gấp đôi lại. Các âm thanh khó phân biệt và lời phỉ báng không ngừng, dù chỉ trong một thoáng. Mùi hôi thối kinh tởm làm ngột ngạt và làm hư hại mọi thứ, như thể mùi thịt thối rữa bị cháy, pha lẫn với mùi hắc ín (nhựa đường) và lưu huỳnh… Đó là sự pha tạp mà không thể so sánh với bất cứ mùi gì khác trên thế gian này… Mặc dù các cực hình này rất rùng rợn, không thể chịu đựng nổi, không thể mô tả được… Nhữ gì tôi viết ra đây chỉ là bóng mờ nhạt của những gì mà linh hồn phải chịu, không lời nào có thể mô tả nỗi đau khổ khốc liệt như vậy” (ngày 4-9-1922).

“Đêm nay, tôi được đưa tới một nơi hoàn toàn tăm tối Xung quanh tôi có bảy hoặc tám người. Tôi chỉ có thể thấy họ qua ánh lửa. Họ ngồi nói chuyện với nhau. Một người nói: Chúng ta phải rất cẩn thận kẻo bị phát hiện, vì chúng ta dễ bị phát hiện lắm”.

“Ma quỷ nói: Hãy xúi giục họ bất cẩn… nhưng hãy ở phía sau để không bị phát hiện… cứ dần dần rồi họ sẽ chai lì, chúng ta sẽ kéo nó về phía xấu xa. Hãy cám dỗ những người khác tham lam, ích kỷ, giàu có mà không cần làm việc, dù đúng luật hay không. Hãy kích thích người ta khoái nhục dụcham vui. Hãy làm cho thói xấu làm mờ mắt họ… Với những người khác… hãy vào trái tim họ… nên biết khuynh hướng của tâm hồn họ…! Hãy làm cho họ yêu thích… yêu thích say đắm…! Hãy làm việc hết sức… đừng nghỉ ngơi… đừng thương hại! Cứ để họ say mê ăn uống! Như vậy sẽ dễ cho chúng ta… Hãy để họ tiếp tục tiệc tùngchè chén. Ham vui là cửa ngõ để chúng ta đến với họ…” (ngày 3-2-1923).

“Tôi thấy vài linh hồn sa Hỏa Ngục, trong số đó có một em gái mới 15 tuổi, nó nguyền rủa cha mẹ đã không dạy nó kính sợ Thiên Chúakhông cho nó biết có Hỏa Ngục. Nó cho biết rằng đời nó ngắn ngủi nhưng đầy tội lỗi, vì nó đã chiều theo mọi thứ mà thể xác và đam mê đòi hỏi…” (ngày 22-3-1923).

“Hôm nay, tôi thấy rất nhiều người phải vào lò lửa… Họ có vẻ như người trần gian và một quỷ hét lớn: Thế giới đã chín muồi cho ta thu hoạch…! Ta biết rằng cách tốt nhất để bắt giữ các linh hồn là khuấy động lòng ham vui của người ta… Hãy ưu tiên tôi… Tôi trước mọi người… không có sự khiêm nhường đối với tôi! Hãy cứ để tôi vui thỏa… Với dạng này chắc chắn chúng ta chiến thắng… và chúng sẽ xuống Hỏa Ngục” (ngày 4-10-1923).

3. THÁNH NỮ FAUSTINA (1905–1938)

Nữ tu Faustina, người Ba Lan, được Giáo hội tuyên thánh ngày 30-4-2000, đã được Chúa cho thấy Hỏa Ngục năm 1936. Chị ghi trong Nhật Ký số 741:

“Hôm nay, tôi được thiên thần dẫn tới vực thẳm Hỏa Ngục. Đó là nơi tra tấn dữ dội, rất khủng khiếp và rộng lớn! Các cực hình tôi thấy: Cực hình thứ nhất tạo thành Hỏa Ngục là mãi mãi xa cách Thiên Chúa; cực hình thứ hai là lương tâm cắn rứt đời đời; cực hình thứ ba là tình trạng mãi mãi bất biến; cực hình thứ tư là lửa thiêu đốt mà không hủy diệt linh hồn – đau khổ khủng khiếp, vì đó là lửa tinh thần (không như lửa thường), đốt lên bởi cơn giận của Thiên Chúa; cực hình thứ năm là bóng tối dầy đặcngột ngạt khủng khiếp, mặc dù tối tăm, ma quỷ và các linh hồn vẫn thấy nhau, thấy người khác và thấy chính mình; cực hình thứ sáu là đời đời ở với Satan; cực hình thứ bảy là tuyệt vọng, căm thù Thiên Chúa, với các lời phỉ bángnguyền rủa hèn hạ. Các linh hồn hư mất phải cùng nhau chịu các cực hình này, nhưng đó không là chấm dứt đau khổ. Có các loại cực hình đặc biệt dành cho các linh hồn cá biệt. Có các cực hình của ngũ quan. Mỗi linh hồn chịu những nỗi đau khổ khủng khiếp, không thể diễn tả nổi, liên quan những gì họ đã phạm tội. Có các hang động và hầm hố có các cực hình khác nhau. Hẳn là tôi đã chết giấc khi nhìn thấy các cực hình này nếu Thiên Chúa không nâng đỡ tôi. Hãy cho các tội nhân biết rằng họ sẽ chịu cực hình đời đời theo các giác quan mà họ đã dùng để phạm tội.

“Tôi viết điều này theo lệnh của Thiên Chúa, để không linh hồn nào có thể viện cớ gì mà nói rằng không có Hỏa Ngục hoặc không có ai ở đó, vì thế không ai có thể nói như vậy. Tôi là Nữ tu Faustina, theo lệnh của Thiên Chúa, đã được thăm Hỏa Ngục để tôi có thể nói cho các linh hồn biết về Hỏa Ngục và làm chứng về sự hiện hữu của Hỏa Ngục”.

“Tôi không thể nói về Hỏa Ngục bây giờ, nhưng tôi đã được lệnh của Thiên Chúa viết về Hỏa Ngục. Ma quỷ rất căm thù tôi, nhưng chúng phải vâng lời tôi theo lệnh của Thiên Chúa. Những gì tôi viết chỉ là bóng mờ nhạt của những gì tôi thấy. Nhưng tôi chú ý một điều: Đa số các linh hồn ở đó là những người đã không tin có Hỏa Ngục. Khi tôi tới đó, hầu như tôi không thể hồi phục vì hoảng sợ. Các linh hồn chịu cực hình ở đó thật khủng khiếp! Cuối cùng, tôi cầu nguyện tha thiết hơn để xin ơn hoán cải cho các tội nhân. Tôi không ngừng cầu xin lòng thương xót của Thiên Chúa tuôn đổ trên họ. Lạy Chúa Giêsu của con, thà con chịu khổ cực cho đến tận thế, giữa các đau khổ nhất, còn hơn con phản nghịch Ngài vì tội nhỏ nhất.

4. FATIMA – BA TRẺ THẤY HỎA NGỤC

Năm 1917, trong thời gian Thế Chiến I, Đức Mẹ đã hiện ra với ba trẻ nhỏ tại Fatima, Bồ Đào Nha, vào các ngày 13 từ tháng Năm tới tháng Mười. Trong lần hiện ra ngày 13-7-1917, Đức Mẹ đã cho ba trẻ em này thấy Hỏa Ngục. Đây là chứng cớ:

“Đức Mẹ xòe tay ra, những tia sáng như xuyên thấu thế gian, chúng tôi thấy như là biển lửa. Chìm trong biển lửa đó là ma quỷ và các linh hồn trong dáng vóc con người, như than hồng trong suốt, mọi thứ như đồng đen hoặc hoặc bóng lộn, lơ lửng trong lửa cháy, lửa bốc cao đưa người ta lên như đám khói, rồi lại rơi xuống như những đốm lửa trong ngọn lửa lớn, không trọng lượng hoặc mất thăng bằng, ở giữa những tiếng la hétkêu thanđau khổtuyệt vọng, điều đó làm chúng tôi sợ hãi và phát run vì hãi hùng. Cảnh tượng đó khiến chúng tôi bật khóc, như thể người ta nghe được vậy”.

Ma quỷ có thể phân biệt bằng cách nhìn chúng giống như những con vật lạ lẫm, gây hoảng sợ, cự tuyệt, đen đủi và trong suốt như những cục than hồng. Chúng tôi sợ hãi và xin Đức Mẹ cứu giúp, Đức Mẹ nói với chúng tôi bằng giọng buồn: “Các con đã thấy Hỏa Ngục, nơi các linh hồn tội lỗi phải vào. Như vậy, khi các con đọc Kinh Mai Côi, hãy đọc câu này sau mỗi chục kinh: Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con, xin cứu chúng con cho khỏi Hỏa Ngục, xin đem các linh hồn lên Thiên Đàng, nhất là những linh hồn cần đến Lòng Chúa Thương Xót hơn.

Chúng ta cùng sám hối và chân thành cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài” [Tv 50 (51):3-6]. Từ vực thẳm, con kêu lên Ngài, lạy Chúa, muôn lạy Chúa, xin Ngài nghe tiếng con. Dám xin Ngài lắng tai để ý nghe lời con tha thiết nguyện cầu. Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng? Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài” [129 (130):1-4].

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ all-about-the-virgin-mary.com)

From: bichlanthivu & Anh chị Thụ Mai gởi

Việt Nam tiến tới báo chí tư nhân trong giới hạn?

Việt Nam tiến tới báo chí tư nhân trong giới hạn?

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-10-25

RFA

namnguyen10252014.mp3

000_Hkg7508717-305.jpg

Một sạp báo ở Hà Nội, ảnh minh họa chụp hôm 26 tháng 6 năm 2012.

AFP

Báo chí tư nhân và tự do báo chí là những vấn đề gây dị ứng với Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam. Tuy rằng Hiến pháp 2013 và các Hiến pháp trước đó đều xác định người dân có quyền tự do báo chí. Trước xu thế hội nhập thế giới, Việt Nam có thể nới lỏng ở chừng mực nào đó đối với vấn đề cho phép tư nhân hoạt động báo chí hay không?

Một hướng đi mới?

Ít người tin là Việt Nam sẽ có thể sớm có báo chí tư nhân, chưa nói đến tự do báo chí. Nhưng báo cáo giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về báo chí của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội cho thấy đang hé mở một hướng đi mới.

Thời báo Kinh tế Việt Nam bản tin trên mạng ngày 10/10/2014 trích nội dung báo cáo theo đó, Điều 25 Hiến pháp 2013 qui định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình”. Tuy vậy, cho đến nay báo chí tự nhân không được thừa nhận ở Việt Nam và một Chỉ thị của Thủ tướng ban hành vào năm 2006 khẳng định: “Kiên quyết không để tư nhân hóa báo chí dưới mọi hình thức.”

Tôi nghĩ sẽ phải thay đổi bởi vì xu hướng thế giới không thể chấp nhận mập mờ về chuyện tự do báo chí được.
-Nhà báo Thanh Thảo

Sự tréo cẳng ngỗng này giữa qui định của Hiến pháp và thực tế đời sống pháp luật ở Việt Nam được Luật sư Trần Quốc Thuận, nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội từ Hà Nội giải thích:

“Bây giờ Việt Nam có một qui trình không bình thường, Hiến pháp thì bị luật treo, luật thì bị nghị định thông tư treo, cứ treo, kéo dài. Vấn đề đặt ra ở đây, những Luật gọi là nhân quyền ở Chương II của Hiến pháp phải triển khai mà bây giờ triển khai rất chậm, kể cả Luật Biểu tình cũng nói đi nói lại mãi cũng không có; Luật Lập hội cũng treo ở đó, rồi quyền được cung cấp thông tin rồi tự do báo chí… Tất cả những thứ đó nếu được triển khai trong một thể chế như thế này mà người dân có được những quyền đó thì dĩ nhiên cũng có được những phương tiện rất tốt để góp phần bóc tách những người tham nhũng, tham ô, thiếu năng lực ra khỏi bộ máy công quyền…”

Việt Nam hiện có 900 cơ quan truyền thông, báo chí với 40.000 nhân viên và 30% các nhà báo ở Việt Nam là đảng viên. Về nguyên tắc tất cả báo, đài đều thuộc quyền quản lý nhà nước. Theo báo cáo giám sát của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội: “Hiện nay mới có 277 trong số 838 cơ quan báo in tự cân đối thu chi tài chính. Còn lại đại bộ phận cơ quan báo chí được Nhà nước bao cấp toàn bộ hoặc một phần về nhân sự, trụ sở, trang thiết bị, in ấn và được phát hành tới các đơn vị hành chính, các tổ chức chính trị, xã hội cũng bằng ngân sách nhà nước.”

baochi-305.jpg

Một sạp báo ở Sài Gòn

Đối với vấn đề mở rộng làng báo nhà nước để có thêm thành phần tư nhân, Nhà báo Thanh Thảo báo Thanh Niên từ miền Trung Việt Nam phát biểu:

“Tôi nghĩ sẽ phải thay đổi bởi vì xu hướng thế giới không thể chấp nhận mập mờ về chuyện tự do báo chí được. Việt Nam muốn hội nhập sâu hơn với thế giới thì bắt buộc cũng phải thế thôi, có điều nó thay đổi chậm hay nhanh. Trong thực tế lại là một chuyện khác, họ vẫn để hình thức tư nhân núp bóng mù mờ, những ai trong cuộc mới hiểu chứ bên ngoài chẳng ai để ý cứ tưởng báo nhà nước nhưng không phải. Nhất là báo trên mạng thì nhà nước ít thôi còn là tư nhân núp bóng, nhà nước cũng biết thừa nhưng vẫn để cho hoạt động bình thường. Thế thì tại sao lại không có qui chế để cho chính danh, nếu họ làm sai thì phạt xử nó chuẩn hơn, có luật đàng hoàng chứ không phải ra ngoài.”

Tạp chí của tổ chức tư nhân?

Bên cạnh tình trạng núp bóng để hoạt động báo chí như nhà báo Thanh Thảo vừa nêu, ở Việt Nam đang có một thực tế là đã có một dạng báo chí in ấn và trang mạng điện tử không mang tính núp bóng nhưng lại sai về hình thức chủ quản và cũng có những tạp chí được xem là của tổ chức tư nhân.

Trong thực tế lại là một chuyện khác, họ vẫn để hình thức tư nhân núp bóng mù mờ, những ai trong cuộc mới hiểu chứ bên ngoài chẳng ai để ý cứ tưởng báo nhà nước nhưng không phải.
-Nhà báo Thanh Thảo

Báo cáo giám sát của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội cho biết, do sự thay đổi cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước một số cơ quan cấp tổng cục đã chuyển thành tập đoàn kinh tế hoạt động theo mô hình doanh nghiệp, nhưng những đơn vị này vẫn tiếp tục xuất bản những ấn phẩm báo chí chuyên ngành của các tổng cục nhà nước trước đây. Thí du như Tổng Công ty Hàng không Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp than và khoáng sản Việt Nam.

Thời báo Kinh tế Việt Nam trích nội dung báo cáo giám sát còn ghi nhận một thực tế là đã có khoảng 10 trường đại học dân lập đã xuất bản tạp chí. Việt Nam hiện có hơn 80 trường đại học tư thục, trường đại học có vốn đầu tư nước ngoài và hàng chục viện, trung tâm nghiên cứu do tư nhân thành lập. Các tổ chức như thế có nhu cầu xuất bản tạp chí để thông tin, công bố và trao đổi về kết quả nghiên cứu.

Trong tương lai Luật Báo chí sẽ phải sửa đổi để thực thi Hiến pháp 2013, Ủy ban Giáo dục Thanh thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội khuyến nghị mở rộng đối tượng được thành lập cơ quan báo chí, bên ngoài các đối tượng theo qui định của luật hiện hành. Vẫn theo thông tin này, quan điểm của Ủy ban là khá thoáng, theo đó ngay cả những tổ chức xã hội nghề nghiệp của Việt Nam hoạt động hợp pháp tại Việt Nam cũng được thành lập cơ quan báo chí hoạt động rộng rãi trong mọi lĩnh vực thông tin, kể cả thông tin chính trị-xã hội.

Theo một số nhà phân tích, có báo chí tư nhân chưa chắc sẽ có tự do báo chí, đặc biệt dưới các chính thể độc tài. Nhưng báo chí tư nhân lại là điều kiện cần để thực hiện tự do báo chí và trong trường hợp Việt Nam cởi một gút thắt nhỏ mở rộng số đối tượng được phép ra báo cũng sẽ là một tín hiệu vui.

Nhà báo Anh: Bằng chứng đường 9 đoạn của TQ là vô căn cứ

Nhà báo Anh: Bằng chứng đường 9 đoạn của TQ là vô căn cứ

Hoài Vũ, phóng viên RFA
2014-10-25

RFA

hoaivu10252014.mp3

Hayton_305.jpg

Nhà báo Anh Bill Hayton tại Washington DC, Mỹ. Ảnh minh họa chụp năm 2010.

Screen capture

Nhà báo Anh Bill Hayton, một trong những chuyên gia nghiên cứu Biển Đông, khẳng định bằng chứng lịch sử về đường chín đoạn của Trung Quốc về chủ quyền tại vùng biển này là vô căn cứ. Ông đưa ra phát biểu trên trong buổi giới thiệu cuốn sách mới về Biển Đông có tên: The South China Sea: The struggle for power in Asia tại đại học Georgetown ở Washington DC, Mỹ, hôm 23/10.

Đơn phương tuyên bố chủ quyền

Trung Quốc lâu nay đơn phương tuyên bố chủ quyền gần như toàn bộ khu vực Biển Đông. Một trong những bằng chứng lịch sử mà họ đưa ra là bản đồ gồm đường 9 đoạn, hay còn gọi là đường lưỡi bò, ôm gần như trọn Biển Đông, bao gồm cả Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam. Đường lưỡi bò này còn chồng lấn lên vùng biển chủ quyền trong khu vực đặc quyền kinh tế tính theo luật pháp quốc tế của một số nước Đông Nam Á.

Tuy nhiên, độ chính xác của đường 9 đoạn này ra sao? Theo nhà báo Bill Hayton vào thập niên 30 khi tàu chiến Pháp cập cảng ở Trường Sa và bắn 21 phát súng tuyên bố chủ quyền ở đây, Trung Quốc do không thể điều quân ra khu vực này nên đã tìm đến các nhà làm bản đồ để khẳng định chủ quyền.

Bill Hayton cho biết đến tận năm 1933, Trung Quốc còn không biết có những đảo gì, tên gì ở Biển Đông. Vào năm 1935, Trung Quốc mới bắt đầu đặt tên cho 132 đảo lớn nhỏ ở khu vực này và phần lớn là dịch ra từ tên tiếng Anh trên bản đồ quốc tế.

Lần đầu tiên vào năm 1936, đường 9 đoạn được đưa ra. Bản đồ đó sinh ra là hoàn toàn do hiểu lầm.
-Nhà báo Bill Hayton

Người đưa đoạn lưỡi bò hình chữ U đến với Trung Quốc là một người có tên là Bạch Mi Sơ. Bill Hayton cho hay ông Bạch là một nhân sĩ yêu nước và ham mê địa lý. Năm 1930, Bạch Mi Sơ từng vẽ bản đồ miêu tả lại điều được gọi là “sự sỉ nhục quốc gia” của Trung Quốc, trong đó chỉ ra những phần lãnh thổ của nước này đã bị đánh cắp. Vào năm 1936, ông Bạch vẽ bản đồ với đường lưỡi bò ôm trọn gần như toàn bộ Biển Đông. Ông Bạch từng nói rằng khu vực nằm trong đường lưỡi bò là “những nơi mà ngư dân của Trung Quốc kiếm sống và hiển nhiên là nó thuộc về chủ quyền của chúng ta”.

Nhà báo Bill Hayton phát biểu: “Lần đầu tiên vào năm 1936, đường 9 đoạn được đưa ra. Bản đồ đó sinh ra là hoàn toàn do hiểu lầm.”

Bill Hayton cho rằng sở dĩ có bản đồ như trên cũng như các bản đồ về sự sỉ nhục quốc gia mà Trung Quốc đưa ra là do sự hiểu lầm về quan hệ giữa Trung Quốc và các nước Đông Nam Á trước đó. Ông nói các học giả Trung Quốc thời đó đánh đồng việc các nước thiết lập quan hệ thương mại với việc cống nạp với tư cách là nước chư hầu cho Trung Quốc.

001_GR368325.jpg

Bản đồ Biển Đông với đường lưỡi bò do TQ đơn phương công bố nhằm chiếm trọn Biển Đông, vị trí dàn khoan HD 981 và dàn khoan thứ hai do TQ thiết lập hồi tháng 6 năm 2014.

Nhà báo Hayton lấy ví dụ về ghi chép liên quan tới quan hệ giữa Trung Quốc và Hà Lan. Theo ghi chép của Trung Quốc thì Hà Lan khi đó là một vương quốc và phải cống nạp cho vương triều Trung Quốc và nhún nhường trước nhà vua ở đây. Tuy nhiên, thực tế là Hà Lan là một nước cộng hoà và việc cống nạp thực chất là trao đổi để được quyền giao thương ở quốc gia đông dân và rộng lớn là Trung Quốc.

Hayton từ đó đặt câu hỏi, có lẽ các nhà học giả Trung Quốc hiểu lầm rằng các nước Đông Nam Á là chư hầu của họ khi cũng phải “cống nạp” cho vương triều.

Đường lưỡi bò được chính quyền Trung Hoa Dân Quốc đưa lên bản đồ vào năm 1947. Lúc này, nó có 11 đoạn. Qua thời gian, hai đoạn được bỏ đi. Nó chứng tỏ Trung Quốc không hề có một cơ sở pháp lý cụ thể nào cho đường lưỡi bò này. Về pháp lý mà nói, đường 9 đoạn không định nghĩa biên giới trên biển của Trung Quốc.

Vậy đường 9 đoạn có ý nghĩa gì? Bill Hayton giải thích:

“Một học thuyết đường chín đoạn chỉ ra những hòn đảo nào thuộc về Trung Quốc và cũng có một lý giải khác là đường chín đoạn là biên giới vùng biển chủ quyền của Trung Quốc, có nghĩa là bao gồm gần như toàn bộ Biển Đông.”

Biển Đông thuộc về bên nào?

Để hoàn thành cuốn sách về Biển Đông, Bill Hayton đã mất hơn hai năm rưỡi đào sâu các tài liệu lịch sử. Theo ông, người đầu tiên tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông là một người Anh, khi đó là để khai thác phân chim. Ngoài Trung Quốc, các nước như Việt Nam, Malaysia, Đài Loan, Philippines cũng tuyên bố một phần chủ quyền ở Biển Đông, tuy nhiên không nước nào đi xa như Trung Quốc trong việc khẳng định quyền sở hữu khu vực thậm chí chồng lấn lên hải phận của nước khác theo luật quốc tế.

Câu hỏi đặt ra cuối cùng là, vậy Biển Đông thuộc về bên nào. Câu trả lời là không ai biết cả.

Liệu có cách nào giải quyết vấn đề tranh chấp ở Biển Đông hay không? Bill Hayton cho rằng khó có thể có một giải pháp hợp lý cho tất cả các bên, vì rằng không một bên nào chịu nhượng bộ hoặc đưa ra những khẳng định có bằng chứng rõ ràng. Cũng không bên nào sẵn lòng thống nhất về một quy chuẩn về pháp lý. Trung Quốc, một bên lớn trong xung đột này chỉ muốn đối thoại song phương trong khi các nước khác muốn đối thoại đa phương.

Bill Hayton cho rằng xung đột ở Biển Đông thỉnh thoảng sẽ lại căng thẳng song ông bác bỏ ý kiến về một cuộc chạy đua vũ trang lớn trong khu vực này. Theo nhà báo, Trung Quốc đã bỏ xa các đối thủ về lĩnh vực vũ khí.

Bill Hayton cũng có một cuốn sách khác về Việt Nam có tên Vietnam – the rising dragon. Cuốn sách mới về Biển Đông của ông vừa được xuất bản. Bill Hayton gia nhập BBC News từ năm 1998. Ông có một năm làm báo ở Việt Nam và gần đây nhất, ông ở Myanmar trong một năm vào năm 2013.

Cuốn sách “The South China Sea: The struggle for power in Asia” tuy còn nhiều điều cần bàn luận thêm nhưng ít ra cũng cho thấy ngày càng nhiều hơn sự quan tâm của quốc tế, đặc biệt trong lĩnh vực truyền thông. Theo nhà báo Bill Hayton thì ông rất vất vả khi tìm nguồn tư liệu từ Việt Nam do đó khó khăn này đã cản trở ông rất nhiều khi viết cuốn sách.

Có lẽ nhà nước Việt Nam nên xem xét việc cung cấp thông tin cho bất cứ ai muốn tìm hiểu về chủ quyền Biển Đông nhằm tránh sự đáng tiếc vì không nắm bắt cơ hội chứng minh chủ quyền của mình trước quốc tế.