Đèn Cù ‘giải ảo Hồ Chí Minh’

Đèn Cù ‘giải ảo Hồ Chí Minh’

Thứ bảy, 20 tháng 9, 2014

Cuốn Đèn Cù của Trần Đĩnh

Cuốn Đèn Cù của Trần Đĩnh là một ‘quả bom’ nổ vào những sự thực bị che đậy.

Cuốn sách ‘Đèn cù’ xuất bản ở hải ngoại của tác giả Trần Đĩnh đã ‘lột mặt’ của chế độ và nhiều huyền thoại cách mạng của Đảng Cộng sản ở Việt Nam theo nhà báo Bùi Tín từ Paris.

Trong khi đó, một sử gia trong nước, Vũ Quang Hiển, nói với BBC rằng cuốn sách ‘có hư cấu, xuyên tạc’.

Trao đổi với BBC hôm 20/9/2014, cựu Đại tá cộng sản, nguyên Phó Tổng biên tập Báo Nhân dân, Bùi Tín, cho rằng cuốn sách của Trần Đĩnh có tác động như một ‘quả bom’ đánh vào những gì mà chính quyền lâu nay muốn ‘che đậy, giấu diếm’.

Ông Bùi Tín nói: “Lột mặt, hay lật mặt cũng như thế, tức là những anh hùng hảo hớn ghi tên đường phố, thì rõ ràng người ta phải đánh giá lại, bởi vì cả một chế độ đánh giá những giá trị sai, cho nên bây giờ phải đánh giá lại tất cả những giá trị của từng người một bằng những nhận thức của mỗi người.

“Mỗi người có một cái đầu, có những suy nghĩ của mình, làm sao cho mỗi người có một suy tư độc lập, không bị ảnh hưởng.

“Do đó mà cuốn sách là quả bom, nổ từ những nhân vật cao nhất. Nói thẳng ra là tác phẩm của Trần Đĩnh cũng như cuốn hồi ký trăng trối của Trần Đức Thảo (Trần Đức Thảo – Những Lời Trăn Trối) là đụng đến ông Hồ Chí Minh.”

Theo nhà báo Bùi Tín, tuy tác giả viết một cách ‘nhẹ nhàng’, sự ‘đụng chạm’ vào các huyền thoại, thần tượng cách mạng của Đảng lại không phải là ‘nhẹ’.

Ông Bùi Tín là nhân vật bất đồng chính kiến đã nhiều năm tị nạn chính trị ở Pháp và nay là một nhà vận động cho dân chủ và nhân quyền của Việt Nam ở hải ngoại

“Tôi muốn nói rõ một điểm: tôi gửi in ở ngoài vì ở trong nước không ai in và phát hành cho tôi, không phải tại vì sách có nhiều bí mật. Hai lý do khác nhau”

Tác giả Trần Đĩnh

Ông Bùi Tín bình luận tiếp: “Ông viết một cách nhẹ nhàng, nhưng đụng mạnh lắm, có thể nói là cái phi thần thánh hóa, cái giải ảo, giải một lầm lẫn cực lớn, bởi vì người ta vẫn đề ra là ‘Học tập đạo đức của ông Hồ Chí Minh’, thế nhưng cuốn sách này, nói không nhiều lắm, nhưng chi tiết rõ đến như thế.

“Tức là ông Hồ Chí Minh cũng chuyên đóng kịch thôi. Ông Hồ Chí Minh nói không thể cải cách ruộng đất bắn chết người phụ nữ đầu tiên được, và đối với phụ nữ không thể đánh ngay cả bằng một nhánh hoa, thế mà chính ông bịt râu, ông dự cuộc đấu đó để mà đem bắn bà Nguyễn Thị Năm.”

Theo cựu Phó Tổng Biên tập Báo Nhân dân, bài ‘Địa chủ ác ghê’ được cố lãnh tụ của Đảng ký tên là CB, mà theo ông Tín: “lúc bấy giờ ở báo Nhân Dân, tất cả những bài nào đề chữ “CB” là “Của Bác”, là coi như thiêng liêng, là phải in ngay ở trang một, ở ngay dưới măng-séc, không được sai một dấu chấm, dấu phẩy nào”.

Nhà báo Bùi Tín nói: “Và ai cũng biết đấy là của bác, tức là của ông Hồ Chí Minh. Ông ấy viết bài ‘Địa chủ ác ghê’ kể tội bà Nguyễn Thị Năm một cách kinh khủng đến mức như thế và đưa ra bắn chết.

“Mà chính ông lại đi xem, đi dự cuộc đó, thế mà ông còn nói đạo đức là ông sẽ hứa với ông Hoàng Quốc Việt là sẽ can thiệp với cố vấn Trung Quốc để không thể bắn bà Năm được.”

‘Không ai phát hành’

Cố chủ tịch Hồ Chí Minh

Ông Trần Đĩnh có dịp gần cận nhiều lãnh tụ, cán bộ lãnh đạo của Đảng ở An toàn khu.

Trong một trao đổi gần đây với BBC, tác giả cuốn ‘Đèn Cù – Truyện tôi’ giải thích thêm với BBC vì sao cuốn sách đã phải xuất bản ở nước ngoài.

Ông Trần Đĩnh chia sẻ: “Tôi muốn nói rõ một điểm: tôi gửi in ở ngoài vì ở trong nước không ai in và phát hành cho tôi, không phải tại vì sách có nhiều bí mật. Hai lý do khác nhau.”

Về khả năng cuốn sách có thể được chấp nhận cho xuất bản ở Việt Nam hay không, nhà báo Bùi Tín nhận định: “Hiện nay thì chắc chắn họ không dám xuất bản rồi. Quyển sách của Trần Đĩnh và cuốn sách mới nhất của nhà triết học Trần Đức Thảo cũng thế, cuốn Hồi ký Trăng trối, là không thể xuất bản ở trong nước.

“Bởi vì nó đụng chạm ghê quá, bởi vì chế độ ở trong nước dị ứng với sự thật. Họ rất sợ sự thật. Cho nên những cuốn sách nói lên sự thật, tất cả là sự thật nguyên vẹn như thế thì họ không thể chịu được.

“Đây là quả bom rất mạnh nổ vào tất cả những lừa dối, những cái che dấu đấy, cho nên tôi thấy cuốn sách của Trần Đĩnh cũng như cuốn sách của Trần Đức Thảo là hai của quý của tự do, của những ngòi bút tự do, của những người có lương tâm trong sáng.”

“Tôi có đọc qua cuốn sách…, nhưng tôi không hào hứng, vì nhiều chỗ viết thô tục quá, không ra báo, không ra văn, cũng không ra lịch sử. Có cái gì đó bất mãn”

PGS. TS. Vũ Quang Hiển

Theo ông Bùi Tín, điểm đáng quý ở Trần Đĩnh là sau gần như cả đời phải làm phận ‘viết thuê’, viết ‘theo lệnh của trên’ nhưng vẫn giữ nguyên trong lòng được ‘sự thật’ để cống hiến trong cuốn “Đèn Cù”.

‘Xuyên tạc’

Hiện ở trong nước, báo chí và truyền thông chính thức chưa có bình luận, đánh giá chính thức về cuốn sách, thế nhưng trong một trao đổi với BBC, một sử gia chuyên về Lịch sử Đảng của Đại học Quốc gia Hà Nội nêu nhận xét:

“Tôi có đọc qua cuốn sách…, nhưng tôi không hào hứng, vì nhiều chỗ viết thô tục quá, không ra báo, không ra văn, cũng không ra lịch sử. Có cái gì đó bất mãn. Nhiều chỗ viết theo cái nghe được đâu đó, như kiểu vô tuyến truyền mồn, thông tấn xã vỉa hè; có hư cấu, xuyên tạc, bịa đặt”, Phó Giáo sư Vũ Quang Hiển nhận xét.

“Về khoa học thì không thể chấp nhận nhiều chỗ, ví dụ việc lập Đảng Cộng sản Việt Nam là do Quốc tế Cộng sản chỉ đạo. Hoàn toàn không phải, vì Quốc tế Cộng sản chỉ đạo thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, chứ không chỉ đạo thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam; đây là 2 vấn đề hoàn toàn khác nhau.

Tư liệu Đèn cù

Trần Đĩnh không hề ‘phiến diện, thiên kiến’ khi trình bày các sự thực lịch sử, theo ông Bùi Tín.

“Năm 1943 Quốc tế Cộng sản giải thể rồi, làm sao mà đến năm 1950 hay 1953 còn lãnh đạo cách mạng Việt Nam?”

‘Mặt tối, mặt sáng’

Hôm thứ Bảy, khi được hỏi liệu cuốn sách có nên đề cập tới những điều được cho là chi tiết đời tư của một số nhân vật, quan chức, cựu quan chức, lãnh đạo các cấp trong Đảng hay không, nhất là khi nhiều người trong số đó đã qua đời nên không thể có điều kiện tự bảo vệ hay biện minh, ông Bùi Tín nói:

“Tôi thấy rằng, những người lãnh đạo đối với quốc gia, thì không có gì có thể được coi là riêng tư được nữa hết. Tất nhiên có một nguyên lý là đời tư của người công dân thì không nên đụng đến. Tư là tư, công là công.

“Nhưng cũng có một quy luật nữa là gì: là những người lãnh đạo cao nhất, người ta có quyền đòi hỏi những người đó phải gương mẫu, cả trong cuộc sống chung, cuộc sống công và cuộc sống tư.”

“Tôi nghĩ rằng có nhiều cuốn sách, nhiều tác giả, mỗi tác giả có quyền tự mình đề cập đến cái mức nào, ví dụ như Trần Đĩnh, ông có nói rõ ông có những tôn trọng, quý hóa đối với ông Hồ Chí Minh cơ mà, ông cũng có cái coi ông Trường Chinh là bậc thầy cơ mà, chứ có phải là cách viết một chiều đâu”

Nhà báo Bùi Tín

Còn khi được hỏi liệu cuốn sách, có bị ‘phiến diện’, ‘thiên kiến’ chỉ nghiêng về ‘góc tối’, ‘u ám’ khi nói về chế độ, các lãnh tụ và nhiều cán bộ cốt cán, lãnh đạo của Đảng, nhà nước ở các cấp hay không, cựu Phó Tổng biên tập Báo nhân dân nêu quan điểm:

“Tôi nghĩ rằng có nhiều cuốn sách, nhiều tác giả, mỗi tác giả có quyền tự mình đề cập đến cái mức nào, ví dụ như Trần Đĩnh, ông có nói rõ ông có những tôn trọng, quý hóa đối với ông Hồ Chí Minh cơ mà, ông cũng có cái coi ông Trường Chinh là bậc thầy cơ mà, chứ có phải là cách viết một chiều đâu.

“Tất nhiên ông có quyền đưa ra những chi tiết tiêu cực, những mặt tối, nhưng mà ông cũng đưa ra những mặt sáng đấy chứ, và ông cho rằng ông đã viết những mặt sáng đã đủ rồi, bởi vì chính Trần Đĩnh là người đã viết lên cuốn Tiểu sử chính thức của ông Hồ Chí Minh.

“Chính ông là người đã viết ra và ông Hồ Chí Minh chữa lại, được in, coi như tài liệu chính thức về cuộc đời, tiểu sử chính thức, được dịch ra hơn mười thứ tiếng,” cựu Đại tá Bùi Tín nói với BBC.

Đứng đầu – đứng chót?

Đứng đầu – đứng chót?

Chuacuuthe.com

VRNs (20.09.2014) – Tin Mừng Chúa nhật 25TN Năm A – Mt 20,1-16a

Ở miền Bắc nước ta hiện nay, những nông dân/công nhân không có việc làm, thường ra đứng ở các ngã đường để chờ người cần mướn, đến gọi đi làm công việc cho họ.

Thời Chúa Giêsu, ở các chợ Do thái cũng có hoàn cảnh tương tự. Thế nên bài Tin Mừng hôm nay Thánh Matthêô tường thuật lại việc ông chủ vườn nho đi ra chợ, gọi các người đứng ở đó vào làm vườn cho ông.

Kể từ khi nước ta mở cửa “kinh tế thị trường”, các công ty/doanh nghiệp mọc lên khá nhiều. Trước khi làm ăn hoặc mua bán với công ty/doanh nghiệp, thường thì đối tác phải làm bản hợp đồng/thỏa thuận với chủ. Phần nhiều trong các hợp đồng/thỏa thuận của đôi bên, có những công ty/doanh nghiệp đưa ra những hợp đồng/thỏa thuận “tràng giang đại hải”, với những từ chuyên môn khó hiểu, thậm chí còn cố ý làm cho đối tác hiểu nhầm. Và nếu không xem kỹ bản hợp đồng/thỏa thuận, thì coi chừng: bút đã sa và gà… sẽ chết! Luôn luôn phần thiệt thòi thuộc về người làm công hoặc kẻ đi mua.

Còn trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa kể về ông chủ vườn nho cũng làm hợp đồng/thỏa thuận, nhưng đơn giản hơn nhiều: chỉ “thỏa thuận” bằng miệng. Tuy đơn giản là thế, nhưng rồi ông chủ đã trả tiền sòng phẳng theo như “thỏa thuận”, lại còn cho phần thêm với những người khác, phần lợi hơn thuộc về người làm công. Ở đây Chúa muốn nói đến lòng yêu thương, quảng đại của ÔNG CHỦ trên trời, nhất là đối với những người “thất nghiệp”, kẻ “đến sau”.

Nhưng cũng chính vì chỗ “cho thêm” này, đã làm cho những người làm vườn lúc “vừa tảng sáng” ganh tị. Và thế là họ “đâm ra ghen tức”.

Có chuyện kể rằng: Chị A và chị B cùng kinh doanh một mặt hàng, ở trong cùng một khu phố. Chị A thấy chị B bán đắt hàng chừng nào, thì chị càng ganh ghét chừng đó. Chị cứ ước mong sao mình phải giàu có, sung sướng hơn chị B mới thỏa lòng.

“Cầu được ước thấy”. Một hôm Bụt hiện ra bảo chị A: “Nghe nói con hằng ước ao giàu có sung sướng lắm phải không?” – “Dạ phải” – “Ta sẵn sàng ban cho con tất cả những điều con ước, nhưng chỉ với một điều kiện”. Chị ta mừng quá, nhanh nhảu: “Dạ thưa Bụt, điều kiện gì?” – “Đơn giản thôi, những gì con ước ta sẽ ban, nhưng cô B ở cùng phố với con sẽ được gấp đôi điều con ước. Thí dụ, nếu con ước được nhiều vàng bạc thì cô ta sẽ được gấp đôi số vàng bạc của con. Nếu con ước có nhà lầu, cô ta sẽ có 2 nhà lầu. Nếu con ước có xe hơi, cô ta sẽ được 2 chiếc….” Nghe vậy chị ta buồn lắm, không được, không thể được! Suy nghĩ mãi, nhưng rồi cuối cùng chị ta cũng đã nghĩ ra được một điều đắc ý và cười to! Đợi lâu, Bụt giục: “Ước gì thì nói mau lên kẻo ta đổi ý đấy!” – “Dạ thưa Bụt, con ước ngay đây” – “Ước gì?” – “Con xin Bụt cho con bị đui một mắt” (!)

Bụt há hốc miệng thật to, trợn tròng mắt và… hô biến.

Thiệt là…hết thuốc chữa!

Con người mình đa phần là thế! Chỉ muốn mình phải luôn luôn hơn người khác, không thể ai hơn được. Thậm chí, những người nghèo khổ, thất nghiệp “không ai mướn” như trong bài Tin Mừng hôm nay, được ông chủ “cho thêm” họ cũng tỏ ra ganh tị và ghen tức.

Lòng ganh tị và ghen tức, chỉ nghĩ cho mình mà thôi đã làm cho con người ra độc ác, phi nhân như câu chuyện vừa nêu. Người Việt mình có câu “Cái khó ló cái khôn”, còn ở câu chuyện trên: lòng ganh tị và ghen tức đã làm cho con người “ghen quá hóa ác nhân”!

Trở lại bài Tin Mừng, đặt vào vị trí của những nhân vật trong Dụ ngôn, bạn và tôi có cần phải suy nghĩ:

  • Nếu tôi là ông chủ, tôi có minh bạch, sòng phẳng, trả lương đầy đủ cho người làm công của tôi không? Tôi có lợi dụng quá đáng sức lao động của họ không? Tôi có biết rằng, nếu không có họ thì dù tôi có tài giỏi đến đâu, công ty/doanh nghiệp của tôi cũng không thể hoạt động được không? Tôi có lưu tâm, ưu tiên tuyển chọn những người nghèo đói, thất nghiệp, “không ai mướn” vì không có “hậu duệ, tiền tệ, quan hệ, trí tuệ” vào làm cho tôi không? Hay tôi làm ngược lại? Tôi có chủ trương gầy dựng một “quỹ xã hội” ở công ty/doanh nghiệp của tôi, để nhờ đó có thể “cho thêm” những công nhân có hoàn cảnh nghèo đói, thương tâm như ông chủ vườn nho đã làm hôm nay không?
  • Nếu tôi là người làm công, tôi có làm hết mình hết trách nhiệm vì đồng lương được trả không? Hay tôi ỷ mình vì vào làm “vừa tảng sáng”, “làm việc nặng nhọc cả ngày”, “bị nắng nôi thiêu đốt” nên cứ tà tà cách thụ động, miễn sao cuối tháng có lương đầy đủ là được? Ông chủ dưới đất, nhất là ÔNG CHỦ trên Trời lại càng “quý hồ tinh bất quý hồ đa” nên ông sẽ đối xử sòng phẳng, tôi có biết không? Tôi có tỏ ra ghen tức khi thấy ông chủ đối xử tốt với đồng nghiệp hơn tôi, chỉ vì họ nghèo khổ hơn tôi, làm việc cật lực hơn tôi với tinh thần trách nhiệm cao hơn tôi không?

Chúng ta – những người đã theo Chúa, phải sống làm sao để đừng rơi vào trường hợp như Chúa phải cảnh báo hôm nay:

Những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót”(Mt 20,16a) !

Đôi lúc chúng ta cũng đã từng tự hào mình là “đạo gốc, đạo dòng” và xem thường những anh em “đạo theo, đạo mới”. Coi chừng, câu nói trên Chúa dành cho chúng ta đấy!

Bạn và tôi, chúng ta có muốn phải bị xếp vào hàng cuối cùng không?

Micae Hữu Liên

Sài Gòn, còn hay mất?

Sài Gòn, còn hay mất?
September 14, 2014

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Mấy tuần này, hải ngoại xôn xao vì chuyện Sài Gòn sắp xóa Thương Xá Tax (hay Charner) trên đại lộ Lê Lợi, để xây một cao ốc 40 tầng với số tiền lên đến hàng trăm triệu đô la.

Chúng ta đã được xem nhiều bài báo và hình ảnh trong nước hàm ý tiếc nuối một cơ sở mang nhiều kỷ niệm của những người Sài Gòn thuở trước, nay sẽ không còn nữa. Một vị nữ độc giả gửi thư cho tôi yêu cầu tôi viết một bài và vận động làm sao để giữ lại được Thương Xá Tax, không bị phá bỏ. Quả là một yêu cầu quá đáng với thời thế và sức con người cũng như chúng ta nên xét lại sự suy nghĩ về chuyện mất, còn trong thế gian này. Ngay ở Sài Gòn, một số cư dân thành phố làm kiến nghị yêu cầu chính quyền ngưng ngay việc này, nhưng chắn chắn đây là những “lời nói gió bay.”

 

Những chiếc Vespa của Sài Gòn xưa nay được tân trang lại. (Hình: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)

Ngày 30 Tháng Tư, 1975, cả miền Nam sụp đổ, mất trắng vào tay Cộng Sản cũng không ai làm được gì để cứu vãn tình hình, bây giờ mất thêm một chuyện nhỏ trong câu chuyện lớn, là lẽ thường tình. Có người đã nói “mất nước là mất tất cả!” Chúng ta thường nghĩ rằng chúng ta đã mất Sài Gòn, mất tên, mất cả nhân dáng hình hài.

Chúng ta thật sự đã mất rất nhiều, không phải những chuyện nhỏ của Sài Gòn như chiếc Taxi Renault 4 CV sơn hai màu xanh trắng, chiếc xích lô máy nổ giòn giã, khói mù mịt trong đêm Sài Gon hay chiếc Velo Solex màu đen lượn lờ trên đường Nguyễn Huệ ngày cũ. Có người nhớ quán La Pagode, nhưng cũng có người nhớ đến một quán cóc cà phê nào đó, nhóm bếp lửa bập bùng vào lúc Sài Gòn chưa tỉnh ngủ. Có người nhớ đến tiếng lóc cóc của chiếc xe thổ mộ mang hoa và rau cải vào thành phố lúc hừng sáng, nhưng cũng có người nhớ mãi tiếng rao quà ngọt ngào của Sài Gòn ngày trước. Có người ra đi nhớ mãi những âm thanh của Sài Gòn ngày cũ nhưng cũng có người mang theo bao nhiêu hình ảnh của những góc phố, con đường, con kinh, bờ rạch. Chắc cũng có người nhớ đến mùi vị của Sài Gòn, ly nước mía Viễn Ðông ngọt ngào, miếng bò bía chấm tương đen, hay miếng mực khô đẫm chút tương đỏ cay đầu lưỡi.

Sài Gòn những ngày chiến tranh với những đêm thấy hỏa châu soi sáng một vùng nào đó ở ngoại ô, nghe ì ầm tiếng của đạn pháo vọng về, hay nghe tiếng xe cứu thương hụ còi tất tả trong đêm vắng. Rồi Sài Gòn với những ngày câm nín, tàn phai, chia lìa vội vã. Con mắt đèn xanh đỏ nhấp nháy thâu đêm, lo lắng, sầu muộn. Những điều này quả là quá đơn sơ, nhỏ nhoi trong cuộc sống như dòng sông mải miết chảy, không bao giờ dừng lại.

Phải chăng những cái gì mất đi chúng ta mới thấy tiếc nuối. Có người bỏ Sài Gòn ra đi vội vã, đẫm những dòng nước mắt, trên không phận hay trong dòng sông giữa hai bờ dừa nước. Cũng có người trở lại Sài Gòn lần đầu, con mắt đỏ hoe.

Nhưng có phải chăng bây giờ tất cả đã xóa mờ như vết thương đã thành sẹo, cát bụi đã chôn vùi, xóa hết vết tích của Sài Gòn ngày cũ.

Không! Sài Gòn hôm nay đã đổi tên, cái tên này, hiện diện trên những văn bản của chính quyền, nó sẽ chẳng bao giờ có chỗ đứng trong lòng người. Cái tên dài dòng này đã đảo lộn cách nói thông thường của người dân, ở Rạch Giá, Cần Thơ, người ta nói “lên thành phố,” trong khi nơi họ sống đã là “thành phố” rồi! Những công ty thương mãi, những dịch vụ, nhà hàng, không ai muốn phiền phức, ngớ ngẩn đến nỗi phải mang cái tên “bác” trên bảng hiệu.

Tôi thường gửi tiền về giúp bà con ở Sài Gòn nhưng tuyệt đối khi viết địa chỉ không dùng tên hiện nay, nếu ai có chê tên Sài Gòn xin trả lại tiền cho tôi. Nếu ba triệu người Việt ở hải ngoại khi viết thư, gửi tiền, điện thoại về nhà mà không dùng tên hiện nay thì Sài Gòn vẫn còn đó. Nếu cả nước vẫn gọi thủ đô của VNCH bằng cái tên ngày cũ thì đừng lo Sài Gòn mất.

Không phải như những đất nước khác, cả miền Nam yêu mến Sài Gòn, đó là cửa ngõ của những ngày ra đi và sẽ là nơi trở về. Chúng ta đã mang theo Sài Gòn trong cuộc hành trình bỏ nước ra đi, và ở mỗi nơi dừng chân mà chúng ta nhận là quê hương thứ hai, có những “Sài Gòn Nhỏ” được thành hình.

Cái tên mới kẻ trên những bích chương hay bảng hiệu màu đỏ máu sẽ còn tồn tại bao lâu nữa?

Thời sùng bái nhân vật Joseph Stalin, lãnh đạo của Liên Bang Xô Viết, từ năm 1925, thành phố Volgograd được đặt tên là Stalingrad. Khi chế độ Cộng Sản sụp đổ, thần tượng tiêu ma, thành phố Volgograd trở lại mang tên cũ từ năm 1956. Ðài VOA loan tin, ngày 10 Tháng Chín năm nay, Hội Ðồng Thành Phố Volgograd thông báo chấp nhận cho tên Stalingrad (chỉ) được dùng lại cho sáu ngày một năm vào các dịp kỷ niệm kết thúc Thế Chiến 2, nhưng cũng trong ngày này, tất cả báo Sài Gòn (Công An, Thanh Niên, Báo Mới…) lập lờ chạy tin Volgograd sẽ được phục hồi lại tên Stalingrad, để lừa dân Việt Nam, làm như hồn ma Cộng Sản ở các nước Ðông Âu đang bắt đầu đội mồ sống dậy!

Năm 1924, sau khi Lenin qua đời, Saint Petersburg được đổi tên thành Leningrad. Cùng với số phận Stalin, theo chế độ Cộng Sản, tượng Lenin cũng đã bị giật sập đổ nhào, và năm 1991, tên Lenin cũng đã được xóa bỏ để Saint Petersburg vẫn là Saint Petersburg ngày cũ.

B4INREMOTE-aHR0cDovLzQuYnAuYmxvZ3Nwb3QuY29tLy1EdkR2dWlqR0R1QS9Vc01zTnVWa1ZnSS9BQUFBQUFBQWI4SS9FaWNtclY0a2J2NC9zNjQwL0hUMjUuanBn

Thêm tượng Lenin ở Ukraine bị kéo đổ

Bốn mươi năm chưa phải là một thời gian dài, những thần tượng Karl Marx, Stalin, Lenin đã lần lượt bị sụp đổ chôn vùi ở các nước Cộng Sản đã tan rã, liệu những nhân vật Hồ Chí Minh, Mao Trạch Ðông, và chế độ Cộng Sản ở đây còn tồn tại được bao ngày?

Vài năm về trước, Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ, một nhà hoạt động chính trị ở New Zealand, đã phát động phong trào “đòi lại tên Sài Gòn,” mà tôi cho là không cần thiết, vì khi chế độ Cộng Sản Việt Nam sụp đổ, không những cái tên Hồ Chí Minh đã bị xóa mà cái lăng ở Ba Ðình cũng bị san bằng.

Tuy hiện nay, một số người còn bám víu lấy cái hình tượng Hồ chí Minh “vĩ đại,” “ đạo đức,” để “học tập,” “noi gương,” nhưng qua thời gian, tượng đất đã tróc lột hết lớp sơn phết, đổ nát thành một đống bùn nham nhở, để cho dân tộc thấy rõ con người vô đạo, bất lương, khát máu đã đẩy dân tộc Việt Nam tới chỗ chết chóc, khốn cùng.

“Vĩ đại” vì sự thần hóa qua kinh nhật tụng Ðảng Cộng Sản, kiên cố trên hình thể “xi măng-cốt sắt,” Stalin, Lenin cuối cùng cũng đã bị lịch sử lật nhào úp mặt xuống bùn, thứ “xi măng-cốt tre” của những thần tượng Việt Nam thì đi đến đâu!

Trong tâm trạng thương nhớ Sài Gòn, trân trọng gọi Sài Gòn bằng “Người,” ông Nguyễn Ðình Toàn đã viết, “Ta mất Người như Người đã mất tên!” Ông tin tôi đi. Tên Sài Gòn vẫn còn, và Sài Gòn sẽ mãi mãi của chúng ta, không mất đâu!

httpv://www.youtube.com/watch?v=DLZ7pWtyLCY

Một Chút Hiểu Lầm

Một Chút Hiểu Lầm

RFA

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Một người thuộc giai cấp nào đó không có nghĩa rằng người đó đã có một khối tài sản nhất định. Điều đó càng đúng đối với chế độ cộng sản: sở hữu mang tính tập thể. Ở đây muốn trở thành chủ sở hữu hay đồng sở hữu thì cần phải len được vào hàng ngũ của bộ máy quan liêu chính trị.

Milovan DjilasGiai Cấp Mới

Thời gian gần đây, gần như là hằng đêm tôi đều mơ thấy mình vẫn đang sống trong một khung cảnh nào đó – ở Việt Nam. Cứ như thể là tôi chưa bao giờ rời khỏi đất nước này, dù chỉ một ngày.

Khỏi cần phải đọc Freud hay Jung gì ráo trọi, tôi cũng biết được rằng tự tiềm thức của mình đang có một thôi thúc khác – khác với sự chọn của ý thức từ bấy lâu nay – tuy sâu kín nhưng mạnh mẽ, cái sức mạnh của một định luật tự nhiên: lá rụng về cội! Nhờ thế, tôi (chợt) hiểu tại sao hai ông Phạm Duy và Nguyễn Cao Kỳ nằng nặc phải trở lại cố hương bằng mọi giá – kể cả cái giá phải “hy sinh” luôn tính tự trọng (tối thiểu) và lòng liêm sỉ.

Thường dân cỡ tui thì đi mới khó, chớ về thì dễ ợt. Chả sợ điều tiếng chi, và cũng khỏi ngại chuyện mấy chú công an canh chừng hay thăm hỏi gì. Chỉ ngặt có chút xíu (xiu) là tôi không biết rồi sẽ làm sao để mưu sinh, ở quê nhà.

Già cũng phải sống chớ bộ, cũng phải có nơi ăn chốn ở, phương tiện đi lại, và chăm sóc y tế tối thiểu – khi cần. Mà tui thì suốt đời không có đồng xu dính túi (tiền vừa tới tay là tui đã sài liền, hoặc cho mẹ nó rồi) nghề nghiệp thực dụng để có thể kiếm việc ở V.N cũng không luôn, còn thân bằng quyến thuộc thì toàn là những người khốn khó và thuộc thành phần… phản động không hà!

Mà cố hương (than ơi!) cho dù ở góc bể chân trời, hay châu lục nào chăng nữa thì cũng đều chia chung một định luật bất thành văn: không đâu, và không ai, hân hoan đón chào những kẻ trở lại với … hai bàn tay trắng. Thôi thì đành bỏ xác quê người, chớ về làm chi/cho má nó khi.

Tôi đã có dự tính nhẩy cầu Golden Gate thì có  tin vui giữa giờ tuyệt vọng, từ một giới chức cao cấp ở Việt Nam – Bộ Trưởng Chủ Nhiệm Ủy Ban Dân Tộc Giàng Seo Phử. Ông vừa hân hoan cho biết: “Bán vé số ở Việt Nam có thu nhập cao.”

Bán ngày không đủ phải tranh thủ bán ban đêm.

Ảnh và chú thích: Uyên Nguyên, RFA

Bán tin, bán nghi, tôi liền vào net tìm hiểu thêm và biết được rằng hiện nay (ở Việt Nam) bán vé số được coi là một nghề nghiệp đàng hoàng tử tế, của một giới người riêng biệt, không những có “thu nhập cao” mà còn có nhiều chuyện may mắn bất ngờ và rất thú vị nữa kià – theo như tường thuật của phóng viên Hữu Danh, báo Dân Việt:

Dư luận Long An đang xôn xao với thông tin một người bán vé số nghèo đưa cho khách 10 tờ vé số trúng thưởng 6,6 tỷ đồng để nhận lại 200 ngàn đồng tiền xổ số, dù khách chỉ “mua thiếu qua điện thoại.

Khoảng 16 giờ ngày 15.11, còn hơn 20 vé bị ế nên chị gọi điện thoại cho mối quen là anh Đỗ Ngọc Tuấn, 41 tuổi, ngụ khu phố 2, đường Bà Chánh Thâu, thị trấn Bến Lức, huyện Bến Lức – hành nghề chạy xe ba gác – nài nỉ mua dùm. Anh Tuấn đồng ý mua 20 tờ, gồm ba số khác nhau. Gọi là “mua” nhưng chỉ là nói qua điện thoại, anh Tuấn cũng chưa trả tiền.

Chiều cùng ngày, lốc vé 10 tờ của công ty XSKT tỉnh Bến Tre mang dãy số đuôi X91207 trúng đặc biệt 4 tờ, trúng an ủi 6 tờ. Nhiều đồng nghiệp bán vé số bảo người mua chưa trả tiền, coi như chưa mua và nói chị Lành toàn quyền định đoạt “số phận” 10 tờ vé số với trúng thưởng với giá trị lên đến gần 7 tỷ đồng này.

Tuy nhiên, chị Lành gạt phăng và cho rằng anh Tuấn là một trong những khách hàng thường xuyên mua vé số ủng hộ chị. Rất nhiều lần anh mua qua điện thoại và dù không trúng lần nào nhưng anh vẫn trả tiền sòng phẳng. Do đó, không thể vì tiền mà chị đánh mất chữ tín.

Ngay lập tức, chị bấm điện thoại gọi anh Tuấn đến quán cà phê để bàn giao số trúng. Cảm kích trước lòng tốt của người bán vé số, anh Tuấn đã tặng 1 tờ trúng giải đặc biệt cho người bán vé số nghèo.

Theo tìm hiểu của Dân Việt, vợ chồng chị Lành trước đây sống cùng mẹ ruột là bà Phạm Thị Thèm trong một căn nhà cũ nát rộng chỉ 27m2, dựng nhờ trên đất của một người thân ở xã Long Khánh A, huyện Hồng Ngự, Đồng Tháp.

Hai người anh trai của chị Lành, một người bị tâm thần, một chết sớm trong khi các chị dâu lại bỏ đi, để lại đến 6 đứa bé côi cút cho bà Thèm và chị Lành nuôi dưỡng. Do bà Thèm đau ốm liên miên lại không có đất sản xuất nên vợ chồng chị Lành đang tính tới phương án đưa đại gia đình lên Bến Lức hành nghề bán vé số.

Đoạn văn thượng dẫn có hai hạn từ mà tôi tự ý cho in đậm: “đồng nghiệp” và “phương án.” Chị Phạm Thị Lành là một con người cao cả, đã đành, và cái nghề bán vé số số hiện nay cũng đã tạo nên một giới người vô cùng cao qúi theo như ngôn ngữ đương đại của giới truyền thông hiện nay – ở Việt Nam – như vừa trích dẫn!

Họ “lập phương án” đi bán vé số đàng hoàng, chớ không phải bạ đâu làm đó đâu nha.  Họ cũng  gọi nhau là “đồng nghiệp” nữa đó (lịch sự hết biết luôn) nghe cứ y như cái cung cách xưng hô (qúi phái) của qúi vị bác sĩ hay luật sư ở giữa toà, hoặc ở giảng đường của trường đai học y khoa vậy.

Thiệt là quá đã, và … quá đáng!

Rõ ràng là cách mạng Việt Nam đã tạo ra thêm một … Giai Cấp Mới (nữa). Khác với giai cấp mới đỏ au – phát sinh cùng thời – những người bán vé số hôm nay dù hành nghề có “phương án” (cẩn thận) và vẫn thường gọi nhau là đồng nghiệp (tử tế) nhưng họ lại rất đen đủi, lam lũ và đông đảo hơn mức cần thiết rất nhiều.

Nếu đã có lúc dân Việt cứ bước ra ngõ là gặp anh hùng thì nay họ lại gặp những người chào mời vé số, theo như tường trình của  thông tín viên RFA:

Chỉ riêng thành phố Sài Gòn, lượng người bán vé số đông lên cả vài ngàn người, họ đến từ thập phương, cũng có người xuất thân là công nhân nhà máy, xí nghiệp, vì tai nạn lao động hoặc vì mất sức lao động, bệnh tật, phải nghỉ việc và chuyển sang bán vé số kiếm cơm độ nhật. Ngồi quán cà phê vỉa hè 58 – Trần Quốc Thảo, quận 1, trong vòng nửa giờ đồng hồ, đã đếm được 16 người bán vé số đến mời, già có, trẻ có, bệnh tật có, nhưng xót xa nhất vẫn là những em bé tuổi chưa đầy 15, học hành dở dang hoặc vừa đi học vừa bán vé số kiếm tiền phụ giúp cha mẹ.

Ngành kinh doanh vé số được đánh giá là ngành siêu lợi nhuận…Trung bình, mỗi tỉnh có từ 20 đến 30 đại lý, mỗi đại lý có từ 30 dến 40 người đi bán, mỗi ngày, một đại lý tiêu thụ trung bình 2000 tờ vé, như vậy, doanh thu trung bình mỗi ngày là 600 triệu đồng.

Trẻ em bán vé số thay vì đến trường học.

Ảnh và chú thích: Uyên Nguyên, RFA

Với mức thu nhập bình quân mỗi ngày từ vài chục ngàn đồng cho đến một trăm ngàn đồng. Mức một trăm ngàn đồng là mức may mắn của người bán vé, hiếm khi họ kiếm được số tiền lãi này, vì để có nó, người bán phải bán được 100 tấm vé giá 10 ngàn đồng cho một ngày. Nhưng đây là con số rất khó đạt được, chỉ có những người bán vé cho ngày mai ngay trong buổi chiều hôm nay mới có cơ may kiếm được số lượng này.

Nghĩa là buổi sáng, họ thức dậy lúc 5h, ăn uống qua loa và lên đường, lang thang hết quán cà phê này sáng quán ăn nọ để chào mời vé số, 4 giờ chiều trả vé, lấy tiếp vé ngày mai đi bán cho đến 9 giờ tối. Đương nhiên, để kiếm được chén cơm, manh áo, họ phải chấp nhận sự khó chịu, thậm chí những lời thóa mạ của khách vì bị quấy rầy, mời mọc trong lúc đang ăn. Nhưng nếu nhìn kĩ, người bán vé số cũng không có cơ hội mời chào khác ngoài việc đi từ bàn ăn này đến bàn ăn khác hoặc từ bàn cà phê này đến bàn cà phê khác để mời.

Ngành kinh doanh vé số được đánh giá là ngành siêu lợi nhuận, chi phí in ấn một tờ vé số không bao giờ vượt tới mức giá 500 đồng, chi phí trả cho người phát hành vé số, từ đại lý cấp 1 cho đến người bán là 1.300 đồng, trong đó, đại lý được hưởng 3% trên giá vé số, người bán được hưởng 10%. Như vậy, tổng số tiền lãi công ty nhận trên một tờ vé số sẽ là 8.200 đồng. Trung bình, mỗi tỉnh có từ 20 đến 30 đại lý, mỗi đại lý có từ 30 dến 40 người đi bán, mỗi ngày, một đại lý tiêu thụ trung bình 2000 tờ vé, như vậy, doanh thu trung bình mỗi ngày là 600 triệu đồng, khấu trừ 13%, con số còn lại vẫn ở mức 492 triệu đồng.

Riêng về khoản tiền thuế đóng cho ngân sách nhà nước, con số này không ổn định và cũng không minh bạch do sự co giãn giữa mối quan hệ ăn chia, thân bằng quyến thuộc trong bộ máy cầm quyền và chỉ số thuế qui định đã được phù phép cho nhỏ lại… Cũng chính vì lẽ này, phần đông nhân viên và ban bệ trong ngành xổ số kiến thiết đều là đảng viên Cộng sản và có người thân làm quan chức cấp cao trong bộ máy nhà nước.

Tôi e rằng mình, cùng nhiều người khác, đã hiểu lầm câu nói (“bán vé số ở Việt Nam có thu nhập cao”) của ông Giàng Seo Phử. Khi phát biểu như trên, ông Bộ Trưởng chỉ có ý muốn đề cập đến những đại lý bán vé số của những người có “mối quan hệ ăn chia, thân bằng quyến thuộc trong bộ máy cầm quyền” thôi. Họ cũng “đều là đảng viên Cộng sản và có người thân làm quan chức cấp cao trong bộ máy nhà nước” hết trơn hết trọi. Chớ đâu phải là cái thứ thường dân dấm dớ, cỡ  tui,  cha nội!

Ảnh: Tuổi Trẻ Online

Thiệt là một sự hiểu lầm tai hại, chết người, chớ không phải giỡn. Mà đời về chiều, và đã đến nước này rồi thì tui cũng đành phải chết thôi. Thôi thì nhẩy mẹ nó xuống cầu Golden Gate, ở San Francisco, chết quách cho rồi. Chớ lặn lội về tới cố hương rồi đi chào mời vé số – từ  5 giờ sáng đến 9 giờ tối – chỉ để kiếm được vài ba Mỹ Kim thì chắc chỉ chừng hai ngày sau là tui sẽ nhẩy cầu Rồng, hay cầu Bình Lợi thôi hà.

Tôi chờ đợi lớn lên cùng giông bão

“Tôi chờ đợi lớn lên cùng giông bão,”

Hôm nay tuổi nhỏ khóc trên vai (2).

Tìm cánh tay nước biển,

Con ngựa buồn lửa trốn con ngươi!”

(Phạm Đình Chương/Thanh Tâm Tuyền – Bài Ngợi Ca Tình Yêu)

(Mt 5: 21-24)

Trần Ngọc Mười Hai

Ca-từ ở bài này, nghe qua thấy cũng hơi vô lý, đến là thế. Nhưng nghe đi nghe lại nhiều lần, vẫn thấy lạ. Lạ hơn cả, là khi bần đạo đây nghe người trẻ Anthony Trần chia sẻ vào đêm nhạc Hát Cho Nhau ở Sydney hôm ấy, ngày 5/7/2014, nói rõ như sau:

“Qua các tài-liệu em đọc được, thì khoảng năm 1972, tổng thống Ngô Đình Diệm có mời một nhà nghiên-cứu âm-nhạc và cũng là nhạc-trưởng nổi tiếng ở nước ngoài đến Việt Nam xem có nhận-xét gì về nhạc Việt không. Ông có nói: “Nếu ta coi nhạc Việt như những món ăn dọn trên bàn tiệc, thì dường như người Việt mình chỉ thích ăn các món khai vị chứ không muốn chờ món chính. Trong khi các món khai vị hoặc ăn chơi, chỉ để đưa về món ăn chính, tức: trong âm-nhạc, ta phải tiến lên tầm mức có những giai-điệu khó-khăn hơn, cao vút hơn như một số giòng nhạc của thế-giới đang tiến tới.

Nhận-xét này, lúc ấy, có một số nghệ-sĩ đã thử-nghiệm, trong đó có nhạc-sĩ Phạm Đình Chương, hoặc nhạc sĩ Cung Tiến hay ai khác…cũng đã thử. Riêng, “Bài Ngợi Ca Tình Yêu” là nhạc-bản được phổ từ thơ Thanh Tâm Tuyền, và tiếp đó là bài “Dạ Tâm Khúc” cũng của ông đã ra đời trong chiều-hướng như thế. Tuy nhiên, loại nhạc khó hát và khó nghe như loại nhạc cổ-điển không được ưa-chuộng cho lắm, thế nên sau đó, nhạc sĩ Phạm Đình Chương đã ngưng, thôi không sáng-tác loại nhạc này nữa, chỉ còn mỗi nhạc sĩ Cung Tiến là vẫn tiếp tục với các bài như: Mắt Biếc, Thuở Làm Thơ Yêu Em, Hoàng Hạc Lâu… Và, dường như nay ít ai để ý đến những sáng-tác về sau của nhạc-sĩ Cung Tiến, theo chiều-hướng này nữa…” (trích lời dẫn của Anthony Trần Đàm Việt Quốc về khuynh-hướng sáng-tác loại nhạc khó, ở thời trước)

À thì ra, là như thế. Như thế nghĩa là, việc ca ngợi tình-yêu của mỗi người và mọi người, đâu thể nào giống cùng một kiểu. Không chỉ mỗi giới nghệ-sĩ mới thấy khó thế thôi ư? Thế còn, nhà Đạo ta mỗi khi ngợi-ca Thiên-Chúa-Là-Tình-Yêu, thì thế nào? Có khó lắm không? Hoặc, có bỏ cuộc giữa đường như nhạc sĩ Phạm Đình Chương vào thời đó? Trả lời cho câu này, bần đạo thấy còn khó hơn là viết nhạc theo giai-điệu khúc-mắc, rối bời, như vừa nói .

Thôi thì, ta cứ coi nhạc-bản ở trên tuy khó khăn, lăn tăn nhưng hãy cứ nghe thêm câu tiếp:

“Đất nước có một lần tôi ghì đau thương trong thân thể,
Những giòng sông, những đường cày, núi nhọn.
Những biệt ly, những biệt ly rạn nứt lòng đường.
Hút chặt mười ngón tay, ngón chân da thịt
Như người yêu, như người yêu từ chối vùng vằng.
Những giòng sông, những đường cày, núi nhọn.”

(Phạm Đình Chương/Thanh Tâm Tuyền – bđd)

Đấy! Hỡi bạn và tôi, ta đều thấy đấy: cái khó, nó không nằm ở giòng nhạc có giai-điệu lạ, nhưng khó hơn cả, là ở chỗ: ý/lời của bài thơ tự-do mà nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, đã cố đặt ra thế. Thi-sĩ Thanh Tâm Tuyền có cố ý không, ta hãy cứ nghe thêm một đoạn nữa, hạ hồi sẽ hiểu:

“Những biệt ly, những biệt ly rạn nứt lòng đường.
Tôi chờ đợi cười lên sặc sỡ,
la qua mái ngói thành phố ruộng đồng,
Bấu lấy tim tôi thành nhịp thở
Ngõ cụt đường làng cỏ hoa cống rãnh
Cây già đá sỏi bùn nước mặn nồng chảy máu tiếng kêu.”

(Phạm Đình Chương/Thanh Tâm Tuyền – bđd)

À thì ra, tình-yêu con người ở ngoài đời, chỉ thấy toàn những: “khóc trên vai”, rồi lại: “tôi ghì đau-đớn trong thân-thể”. Và dễ nể hơn nữa, người nghệ-sĩ còn hát thêm câu: Những biệt ly, những biệt-ly rạn-nứt lòng đường”, rồi lại: “Bấu lấy tim tôi, thành nhịp thở”, hoặc: “sỏi bùn nước mặn, nồng chảy máu tiếng kêu”. Chao ôi, những ngôn và ngữ ở đời, rất thi ca.

Thế còn, ngữ-ngôn nhà đạo độ này ra sao? Nhà Đạo, cũng có những lời thơ hoặc lời thư đậm nét tâm-tư như đấng thánh nhân-hiền từng tỏ lộ:

“Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí,

hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến,

thì cũng chẳng ích gì cho tôi.4

Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu,

không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc,5

không làm điều bất chính,

không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù,6

không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật.7

Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả.8

Đức mến không bao giờ mất được.”

(1Cor 13: 3-8)

Vâng. Thế đó, là khẳng-định của đấng thánh nhân-hiền, cột trụ của Hội thánh. Và đây là: ý/lời nhà Đạo ở đời thường, cũng không khác mấy? Và, một câu hỏi khác: Đâu là lập-trường người đi Đạo, khi vinh-thăng “Lòng mến” vẫn có cái gì đó, khá độc đáo, chân-phương, bình dị như đời người đi Đạo, thôi.

Để hỗ-trợ tư-tưởng này, thiết-tưởng cũng nên quay về với ý/lời của người trẻ khác tên là Emma Quinn ở báo Úc, như sau:

“Đôi lúc, tôi trộm nghĩ: ta cũng nên để ra đôi chút cố-gắng mà làm điều hay/điều phải cho phải lẽ. Như bậc mẹ cha này khác ở đây đó, từng lo-lắng/đắn đo nhiều chuyện, hoặc như các cô/cậu học-trò ngoài “lề phải”; hoặc như thiếu-nữ tuy còn nhỏ cũng đã ưu-tư/khắc-khoải, nên mới “ới gọi” Đức Thánh Cha Phanxicô giúp cô vượt lên trên lớp sóng phủ đầy những thách-đố trong đời mình, bằng lá thư sau đây. Trước nhất, là thư một bà mẹ còn rất trẻ có tên là Janice, như sau:

Trọng kính Đức Thánh Cha,

Con đang sống trong tình-trạng tuyệt-vọng, nên cần người chỉ dạy, cho con.  Con có đứa con gái ở độ tuổi 14, 15 thôi, nhưng cháu đã bắt đầu khó bảo. Đêm nào, cháu cũng bỏ nhà ra phố chợ mà đàn đúm, vui chơi với lũ bạn choai choai tại các hộp đêm, của nguời lớn. Hết nhảy nhót, hát hò thâu đêm suốt sáng, rồi còn say sưa, chè chén, hút sách. Áo quần cháu mặc nay cũng biết theo đuôi chúng bạn cứ là: hở hang, lỗ mãng đến mắc cở, chẳng còn biết coi ai ra gì. Con nghĩ, nay như cháu đã đi trệch đường rày rồi, không còn biết thế nào là “công dung ngôn hạnh”, nữa Đức Cha ơi…

Con chẳng hiểu sao cháu lại ra nông nỗi thế. Con cũng không biết thế nào mới gọi là theo đúng chức-năng người mẹ. Xin Đức Cha giúp con với!

Ký tên,

Janice ở Úc

Và, lời thư hồi-đáp, cũng không hiểu từ ai đó, có những điểm để ta xét, rất như sau:

Janice thân mến,

Tuổi niên-thiếu vẫn là tuổi đời đầy khó khăn. Nhưng, những khó-khăn như thế sẽ không kéo dài suốt đời, đâu. Ta đây, vẫn thường bảo nhiều người, rằng: tuổi “teen” rồi cũng trôi mau và sẽ được gìn-giữ ở vườn thú cùng loài khác, cho đến khi chúng qua được thời-kỳ nổi-loạn của tuổi đang lớn. Nghiêm-túc hơn, đây là lúc để con bước ra khỏi khu vực thoải mái mà giáp mặt với con gái mình. Hãy giữ lằn ranh ngăn-cách tuy có thiết-lập rõ qui-luật nhấn mạnh và củng-cố nhiều về hệ-quả, nhưng vẫn khích-lệ hành-xử cách đúng-đắn. Hãy nhớ: con là một người mẹ, trước khi là bạn của con gái cưng của mình.

Cần hơn cả, là con phải tạo sự thân-mật gần gũi giữa con và các con của con. Hãy luôn để mắt đến con gái mình xem cháu thường giao-du nơi nào và rồi, sẽ cho cháu thấy rõ là con vẫn hỗ- trợ cháu. Hãy để nhiều thì giờ ra với con gái của con, có lẽ cũng nên chọn môn giải-trí nào đó mà cả hai mẹ con cùng chung vui, thêm phần  gần gũi thân-thương/mật-thiết, như: tập thể-dục chung với nhau, cùng nhau nấu ăn/mua sắm, vv. Phải can đảm giáp mặt/đối đầu với những vấn-đề gai góc, mọi sự rồi cũng sẽ qua đi, nhưng chúng vẫn đáng để con bỏ công ra mà thực-hiện quyết-tâm vào lúc này. (Xem Emma Quinn, Ask Papa Frank, Australian Catholics số Spring 2014, tr. 12-13)

Và, thêm thư khác, cũng gửi đến Đấng-bậc Bề Trên cao tít, như sau:

“Trọng kính Đức Thánh Cha,

Trong lớp của con, có nhỏ bạn nọ từng bị đám học-trò cùng lớp cứ bắt nạt/chọc ghẹo suốt ngày này qua tháng nọ. Từ lúc đó, cô không còn dám lân-la gần-gủi một ai, hết. Không chỉ có mỗi thế, bọn kia ngày càng lấn-át bắt chẹt cô ta đủ điều. Tệ đến độ, cô ta không còn muốn đến trường nữa. Con đây, nhiều lúc cũng tự hỏi: không biết có nên xen vào chuyện người khác hay không? Hay là, tốt hơn hết, mình cứ im lặng/làm ngơ để khỏi bị liên-lụy. Cha có ý-kiến gì giúp bọn con không?

Nay kính,

Joe.

Và thư trả lời, cũng từ đâu đó, chắc gì của Đức thánh là Cha Phanxicô, như sau:

Joe thân mến,

Thật ra thì, cuối cùng rồi cũng có 3 chọn-lựa để con suy-tính. Nhưng ba chọn-lựa này đều đòi hỏi con phải can-đảm hơn lên, và nhất là con phải có nghị-lực mới có thể vượt thắng được chuyện ấy. Thật ra thì, chẳng có giải-pháp dễ ăn giả như con thật tình muốn chấm-dứt chuyện bắt nạt ở trường-học, hết.

Trong ba chọn lựa này, thì thứ nhất là: “chính mình ra mặt đối đầu với chuyện bắt nạt và đứng về phía nạn-nhân. Đây không là vị-thế dễ làm, đối với những người cả nể hoặc dễ ngất xỉu, bởi nó là công-việc rất đáng ngại. Đây, cũng không là phương-cách quay lại làm hại hoặc tỏ ra dữ-tợn với người chuyên bắt nạt trẻ nhỏ, nhưng là tạo cho nạn-nhân có tiếng nói vươn cao mà vượt thoát.

Chọn lựa thứ hai, là: hãy cứ lẳng lặng đi báo cho thày/cô hoặc người lớn nào đó đáng tin cậy về trường-hợp người bạn cùng lớp/cùng trường đang bị bọn xấu bắt nạt đủ điều. Nghĩa là: con cũng cứ ra tay hành-động, nhưng hành-động của con là dám vượt lên trên vấn-đề bức-bách đang xảy đến.

Chọn-lựa khác nữa, là: mời người bị bắt nạt tức nạn-nhân ngồi xuống với con vào giờ ăn trưa. Hai cái đầu vẫn hơn một khối óc để ta giáp mặt với những kẻ chuyên bắt nạt người yếu thế. Được nhiều người chung quanh hỗ-trợ, sẽ càng bổ-sức cho bạn ấy niềm tự tin và từ đó, càng làm cho ta yên chí rằng: bạn vẫn còn có những người thương yêu mình trong cuộc đời.

Và có lẽ, ngay cả việc quyết đẩy lùi/loại bỏ chuyện bắt nạt/làm khó ra khỏi môi-trường mình sinh-hoạt đến thế nào đi nữa, cũng hãy nhẹ nhàng nói lên tiếng nói hoặc mời người nào ngoại-cuộc đi vào vòng yểm-trợ mà con cần đến, hầu có can-đảm mà giải-quyết.

Chúc con thành công.

Và lại có trường-hợp khác cũng khó khăn, tiêu-biểu để ta xem xét:

Trọng kính Đức Thánh Cha Phanxicô,

Con hiện có cảm-giác là: gia-đình con đang có cái gì đó đã đổi-thay. Chừng như quan-hệ giữa ba mẹ con rày đã khác. Ngay giữa Ba con và con, nay cũng đã có đấu-tranh như chưa bao giờ. Gia-đình con không còn ra ngoài trời hoặc tìm nơi giải trí/giải khuây, vui thú nữa. Tối nào, trong nhà con cũng thấy mọi người ngồi trước cái hộp truyền thanh/truyền-hình, cứ lặng như tờ, đôi lúc chỉ lẩm bẩm vài câu chúc nhau ngủ ngon, thế thôi. Con chỉ muốn cho gia-đình trở lại như trước. Có thể nào, với tư-cách là gia-đình, bọn con làm được gì để giải-quyết chuyện này không, thưa Đức Cha?

Ký tên

Con của Cha,

là Mary.

Và sau đây là thư hồi-âm, âm-thầm nhưng rõ nét, cũng chẳng biết từ ai, nữa;

“Mary thân mến,

Có can-đảm lắm, con mới nhận ra là gia-đình của con đang có vấn-đề!

Có một số việc mà con có thể cứ thử làm để gia-đình con trở lại như khi trước. Trước hết và trên hết, tất cả mọi người trong nhà con cần giao-tiếp với nhau theo cách nào đó cho tốt đẹp. Hãy ngồi xuống mà tỏ-bày quan ngại của con và đề-nghị một nơi để nói chuyện cho an-toàn, thoải mái. Con cần lòng quả-cảm để bày-tỏ tính chân-phương, thật thà, bởi đó là tính-chất rất sống còn hầu tạo cho gia-đình mình thấy được sự cần-thiết trong quan-hệ. Thế nên, hãy đưa mọi chuyện lên mặt bàn mà đặt thành vấn-đề.

Hãy tìm cách bảo-bọc và chấp-nhận các khác-biệt của nhau. Tất cả chúng ta đều có quan-niệm và tầm-nhìn khác biệt nhau về mọi sự. Có thể, chúng ta cũng sẽ không đồng ý với nhau về nhiều thứ, nhiều sự, thế nên ta cứ phải mở rộng lòng ra với những khác-biệt ấy.Sao cả nhà không đặt ra một kế-hoạch ra khỏi nhà mà đi chung với nhau? Hãy tái tạo sao đó để sự vui tươi trở lại với cuộc sống gia-đình. Hãy thử rủ nhau đi ra rạp xem phim, đi du-ngoạn ngoài trời, cùng đạp xe đạp, tập-luyện ngoại-hình. Những việc như thế, sẽ nhắc nhở mọi người trong gia-đình là: tại sao con thương gia-đình và tiếc nuối cái bầu khí tốt đẹp trong gia-đình biết là chừng nào!

Nếu chuyện này vẫn chưa giải-quyết được, thì điều hay nhất cho gia-đình con là: tìm một chuyên-gia nào đó có tay nghề  để giúp đỡ. Đôi lúc, ta cũng cần có người ngoài xem xét sự thể ở mọi việc bằng một cái nhìn khác-biệt. Dĩ nhiên, đây là bước nhảy khá táo-bạo và lớn lao, vì nó đòi ta phải có mức độ can-đảm thật lớn lao. Gia đìng quan-trọng là thế, nên cũng xứng-đáng để ta cùng nhau tìm cách giải-quyết các vấn-đề chung cùng nhau, của nhau.

Chúc con và gia-đình thành-công tốt đẹp.

Người cha vẫn ở xa, nên không làm gì được cách cụ-thể.” (xem Emma Quinn, bđd ở trên)

Theo như nội-dung/bài bản của những bức thư trần-tình/hội-ý giống như trên, đã cho thấy: người đi Đạo thời hôm nay, dù còn trẻ hay đã hết trẻ rồi, vẫn có vấn-đề về sự chín-chắn, trưởng-thành làm người lớn. Làm người lớn, thật ra không khó cho lắm, nhưng nó vẫn có những qui-tắc hoặc luật-lệ qui-định để, nếu ta không theo nổi hoặc không thích làm thế, sẽ thấy khó thực hiện.

Mới đây, bạn đạo ở nhiều nơi có gửi về nhắc nhở bần đạo đôi ý-kiến của đấng bậc vị-vọng trong nhà Đạo từng ghi chú về qui-luật trở thành người lớn như sau:

“Làm người lớn có nghĩa là gì?

Người lớn đây, đang học cách lãnh trách-nhiệm về đời mình. Người lớn cứ học-hỏi rồi nói: “Chính tôi đã làm điều đó” hoặc “Tôi có sơ-xuất nên mới làm thế!” hoặc “Tôi thật rất sai!” Người lớn, không là người cứ trách-móc người khác về vấn-đề hỏi rằng: “tôi đang ở vị-thế nào, trong cuộc sống?”

Người lớn, không là người cứ bỏ nguyên ngày ra làm việc rồi cười hi hí về chuyện này/chuyện khác. Người lớn lãnh trách-nhiệm về những gì mình và cần để mắt hầu tự kiểm soát rồi tiến về phía trước.

Người lớn không dùng người khác mà yểm-trợ cho bản-ngã của mình đang sa-sút.

Người lớn, là người biết để ý đến người khác để rồi chúc mừng cùng hỏi thăm và khẳng-định mà không cần đến việc hướng câu chuyện về phía mình. Ngay cả những người luôn phỉ-báng chính mình, cũng làm được những việc như thế bằng nỗ-lực chú-tâm vào chính mình họ.

Người lớn, là người nới rộng hành-vi của mình đặt lên người khác. “Nếu tôi không đạt đích-điểm bằng dự-án của tôi, thì làm sao tôi có thể gây ảnh-hưởng lên các thành-viên khác trong đội-ngũ mình?”

Người lớn, là người biết chú-tâm đến thời-khoá-biểu của người khác, thay vì cứ liên-tục đi trễ rồi còn bảo: tôi coi trọng việc tôi làm hơn việc các anh chị cứ chờ tôi”.

Người lớn, là người quyết làm đến cùng, nên mới nói với người khác: “Tôi sẽ gọi điện cho anh/chị”. “Tôi sẽ nhớ anh/chị trong lời cầu”. “Tôi sẽ mang trả cuốn này, ngay lập tức”.

Anh em có làm thế đến cùng được không?

Mọi người có biết là: khi ta hứa gọi điện cho ai, tức là dứt-khoát ta sẽ gọi cho họ, đúng thế không?

Có ai biết rằng khi ta nói: “Nào, anh em mình cùng đi ăn trưa đi!” tức mình nói một cách nghiêm-chỉnh, chứ?

Hoặc, mọi người có biết rằng: ít khi nào ta đi đến cùng đích về mọi chuyện, hoặc rất quyết tâm khi mình đã nói ra miệng, chứ? Hôm trước, tôi có dịp ghé thăm một người bạn. Anh kể cho tôi nghe về tình bạn hỗ-tương anh có với bạn khác là người từng bảo anh, rằng: “Ta cùng nhau đi ăn tối đi!” Khi ấy, bạn tôi bảo: Tôi biết rõ lần đó là lần cuối cùng tôi nghe thế, ngoại trừ khi tôi có sáng-kiến mời anh ta trước. Bởi, anh ta là người luôn nói thế, nhưng chả bao giờ thực-hiện”. (xem Lm Kevin O’Shea, Sống Đời Đạo Đức có Ánh-Sáng Cứu-Chuộc soi rọi, www.giadinhanphong.blogspot.com 05.09.2014)

Nói cho cùng, thì: sống cho đúng chức-năng của mỗi người trong đời, dù đó có là đời đi Đạo hoặc đời thường ở xã-hội, vẫn là sống có nguyên-tắc/chức-năng đúng vị-thế của mỗi người. Còn có nghĩa, là: sống cho phải Đạo, dù là Đạo Chúa hay đạo làm người, ở đời cũng vậy.

Sống cho phải đạo làm người còn phải noi theo những điều được đấng bậc đề nghị như sau:

“Mười điều Chúa không đòi hỏi khi gặp ta:

1.  Chúa sẽ không hỏi ta đang lái xe nhãn-hiệu gì, nhưng Ngài cứ hỏi xem ta đã chở được bao nhiêu người không có phương-tiện di-chuyển.

2.  Chúa sẽ không hỏi xem căn hộ ta sống lớn/nhỏ ra sao, nhưng Ngài sẽ hỏi ta từng đón tiếp bao nhiêu khách mời đến ở với ta.

3.  Chúa sẽ không hỏi ta có bao nhiêu bộ áo quần trong tủ đựng, nhưng Ngài sẽ hỏi ta giúp được bao nhiêu người rách rưới có áo mặc.

4.  Chúa sẽ không hỏi lương tiền ta kiếm cao đến cỡ nào, nhưng Ngài sẽ hỏi ta có mất phẩm-chất để được số tiền đó hay không.

5.  Chúa sẽ không hỏi chức-vụ của ta cao-cả thế nào, nhưng Ngài sẽ hỏi rằng: ta có làm hết sức mình cho công việc không.

6.  Chúa sẽ không hỏi ta có được bao nhiêu người bạn, nhưng Ngài sẽ hỏi ta đã làm bạn được với bao nhiêu người.

7.  Chúa sẽ không hỏi ta đang sống ở khu vực nào giàu/nghèo ra sao, nhưng Ngài sẽ hỏi ta đối xử với hàng xóm có tốt đẹp hay không.

8.  Chúa sẽ không hỏi màu da của ta đậm đặc thế nào, nhưng Ngài sẽ hỏi về tâm-tính của ta khi xử-thế.

9.  Chúa sẽ không hỏi tại sao ta quá chậm chạp khi tìm ơn cứu-chuộc, nhưng Ngài sẽ vui vẻ đem ta về lâu đài tình ái trên Thiên-quốc chứ không dẫn ta đến cửa ngõ hoả ngục.

10. Chúa sẽ không hỏi ta trao những câu này đến được bao nhiêu người, nhưng Ngài sẽ hỏi tại sao ta cứ do dự hoặc xấu hổ khi làm thế. (trích Sean Kealy, Varieties of American Experience, Doctrine and Life, 2006, 40-41)

Lại xin hỏi thêm lần nữa: những sự và những thứ ở trên như thế, có thực là lỗi hoặc tội không? Ta có đưa ngôn-ngữ, ẩn-dụ, huyền-thoại, ý-nghĩa diễn-giải rất đúng về “lỗi/tội” vào các ví-dụ cụ-thể nào như thế không???

Trong cùng một chiều-hướng như đấng-bậc ở Đạo Chúa nói trên, có lẽ cũng nên để ý đến nhận-định của đấng-bậc khác, rất nổi tiếng, tuy khác đạo về mặt lễ-giáo, nhưng lại cùng chung một kiểu cách của “đạo làm người”, với ý-tưởng không khác mấy. Ý-tưởng đây là những ý rất đúng đắn như sau:

“Sức mạnh của trẻ thơ là tiếng khóc. Sức mạnh của đàn bà là phẫn nộ. Sức mạnh của người ăn trộm là vũ khí. Sức mạnh của vua chúa là quyền uy. Sức mạnh của kẻ ngu là áp đảo. Sức mạnh của bậc hiền trí là cảm hóa. Sức mạnh của người đa văn là thẩm sát. Sức mạnh của sa môn là nhẫn nhục.”

Bởi chúng ta không thể thay đổi được thế giới xung quanh, nên chúng ta đành phải sửa đổi chính mình, đối diện với tất cả bằng lòng từ bi và trí huệ”

“Ra đời hai tay trắng. Lìa đời trắng hai tay. Sao mãi nhặt cho đầy. Túi đời như mây bay.”

Thành thật đối diện với mâu thuẫn và khuyết điểm trong tâm mình, đừng lừa dối chính mình”.

“Sự khác biệt giữa con người là do mức tiến hóa khác nhau qua các kiếp sống. Có khi nào ta thù ghét một kẻ kém ta đâu? Suy luận rằng: “vạn vật đồng nhất”, ta sẵn sàng tha thứ cho kẻ khác, vì họ không hiểu biết, không ý thức hành động của mình, vả lại họ và ta nào có khác nhau đâu. Khi ta hiểu rằng: “nhất bổn tám vạn thù”, ta nhìn vạn vật như chính mình, từ loài người qua loài thú, thảo mộc, kim thạch, và ý thức rằng mọi vật đều có sự sống, đều có Thượng đế ngự ở trong, ta sẽ cởi bỏ thành kiến, mở rộng lòng thương đến muôn loài”.

Là con Trời Phật, nếu không nói được những gì Trời Phật nói, hãy im lặng như chánh pháp, đừng nói những lời ác, xuyên tạc, bịa đặt, vu khống, làm tổn hại kẻ khác, nếu không làm được những gì Phật làm, hãy im lặng và lắng nghe, quán sát, học hỏi những thiện tri thức, đừng vọng động làm những điều thương tổn đến tha nhân”.

“Ác khẩu, mãi mãi đừng để nó thốt ra từ miệng chúng ta, cho dù người ta có xấu bao nhiêu, có ác bao nhiêu. Anh càng nguyền rủa họ, tâm anh càng bị nhiễm ô, anh hãy nghĩ, họ chính là thiện tri thức của anh”.

“Người mà trong tâm chứa đầy cách nghĩ và cách nhìn của mình thì sẽ không bao giờ nghe được tiếng lòng người khác”.

“Khi trong tay anh nắm chặt một vật gì mà không buông xuống, thì anh chỉ có mỗi thứ ấy, nếu anh chịu buông xuống, thì anh mới có cơ hội chọn lựa những thứ khác. Nếu một người luôn khư khư với quan niệm của mình, không chịu buông xuống thì trí huệ chỉ có thể đạt đến ở một mức độ nào đó mà thôi.” (sưu tầm về ý-tưởng của Đức Đạt Lai Lạt Ma)

Vâng. Bậc thày giảng-dạy có hỏi hoặc có dạy thì học trò hay người đọc vẫn cứ nghe và sẽ quyết-tâm làm như thế. Làm thế, tức: sẽ cố gắng sống đúng chức-năng của mỗi người trong đời, hoặc trong nhà Đạo. Có, có thể cũng là ý-nguyện của bạn và của tội, hôm nay và suốt đời.

Trần Ngọc Mười Hai

Xưa rày vẫn quyết-tâm

Và sẽ còn tâm-huyết

Ra như thế.

Nắng xuân nào long lanh trong mắt bé

“Nắng xuân nào long lanh trong mắt bé,”

Linh hồn anh, từ đó ướp trầm hương”.

(Dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)

Mt 21: 28-32

Xuân long lanh trong mắt ai đi nữa, vẫn ướp tâm hồn người, mà sao anh không thấy được động-lực thúc đẩy anh ra đi giúp mọi nguời? Nắng nội-tâm nói ở trình-thuật, vẫn gợi ý nơi anh và em nhiều tâm tình Chúa giải-thích, cũng nên nghĩ mà xem.

Trình-thuật hôm nay, thánh-sử Mát-thêu đã giải-thích tâm-trạng của hai người con, rất khác tính. Khác tâm-trạng, khi đặt mình trước mặt người Cha thương-yêu. Trình-thuật, nay còn kể về tình-cảnh hai người con được yêu-cầu làm một việc, nhưng câu đáp-trả của hai người lại vẫn khác. Và, điểm khác biệt còn ở chỗ: người này không làm nhưng vẫn nói. Còn, người kia không nói nhưng vẫn làm.

Kể về dụ-ngôn hôm nay, thánh-Mát-thêu muốn đặt nặng đường-lối huấn-đức, hầu ca-tụng những người nói ít nhưng vẫn chịu làm. Và, thánh-nhân hạ phẩm-chất của những người chỉ dám nói chứ không dám làm. Thời Chúa sống, câu truyện dụ-ngôn vẫn được dùng để gây thiện-cảm với những người con bé nhỏ, thấp hèn, bỏ rơi bị coi như ngang hàng với đám tệ-nạn, cùng đinh, dân thu thuế.

Thời thánh Mát-thêu sống, truyện dụ-ngôn còn được kể là để hỗ-trợ dân thường ngoài Đạo, quyết chống lại kiểu sống đạo hợm-hĩnh, cao ngạo vẫn dẫy đầy nơi người Do-thái. Kiểu sống như thế, lại được người thời nay đưa vào câu truyện kể bằng cách này hay cách khác, cốt đề-cao hoặc chê-trách người nào đó.

Người thời nay, cho thấy: có lúc cùng một người, lại có cả hai tâm-tính đối-chọi nhau. Nghĩa là: cũng nói nhưng không làm; và đôi lúc, cũng làm sau khi nói tiếng “không” chẳng có nghĩa.

Chuyện này làm ta nhớ lại một nhân-vật trong phim tập truyền hình “Vicar of Dibley” qua đó, bao giờ nhân-vật ấy cũng bắt đầu nói: “Không, không và không!” Nhưng sau đó, lại đã kết-thúc bằng hành động mang nghĩa “có, có và có”. Có hợp-tác. Có đồng-thuận. Hệt như thể, trong cuộc sống, ta cũng thấy nhiều người từng nói “, có và có đấy!”, nhưng cuối cùng lại cũng “Không! không! Không làm gì hết”, tức: “có” cả hai thứ, cùng một lúc.

Lại có trường-hợp cũng hơi khác thường, là: trên thực-tế, nhiều lúc lại giống như thể: “không có” hết cả hai. Nghĩa là: ta thấy chuyện ấy không mấy thích-thú để nói được là “có” hay “không”, hoặc: chắc-chắn sẽ làm hoặc sẽ không làm chuyện đó, bao giờ hết. Chuyện được kể, xem ra cũng không mấy liên-quan đến ta, cách gần gũi hoặc quen thuộc.

Hôm trước, có linh-mục nọ kể lại là: sau buổi lễ, ông ra ngoài nhà thờ nói chuyện với giáo-dân và bất chợt bảo một người: “Tuần sau anh/chị vẫn tiếp-tục đi lễ chứ?” Phần đông nghe hỏi, ai cũng trả lời: “Thưa cha, dĩ nhiên là có!” Tuần sau đó, chẳng biết vì sao không ai thấy người ấy đến nhà thờ.

Một số người trong chúng ta nghe hỏi thế, có thể đã phản-ứng trái-nghịch lại, bèn thú thật: “Thưa cha: không! Tuần sau con bận!” Nhưng, sau đó nghĩ lại, anh phấn-đấu một hồi rồi cũng đến. Tuy nhiên, nhiều người thấy linh-mục hỏi thế cũng hơi kỳ. Bởi, ngày nay, không ai muốn đả động đến chuyện ấy, hết.

Nhiều cuộc khảo sát trước đây, cho thấy: thế-hệ trẻ hôm nay có khuynh hướng chọn ngồi hàng ghế cuối, để không bị cha/cố lưu ý hỏi điều gì công-khai trước mặt mọi người. Những người như thế, thường cũng chẳng muốn ai để mắt đến mình. Họ chỉ âm-thầm “rồi đến rồi đi”, đi nhà thờ để “xem lễ” rồi ra về, thế thôi. Nghĩa là, vẫn muốn yên-vị trong tầm riêng tư, chẳng muốn ai động đến mình, hết.

Cách đây nhiều năm, trong Giáo-hội ta cũng thấy có phe/nhóm khác nhau. Người, thì chủ-trương phóng-khoáng. Kẻ, lại theo nhóm phái bảo-thủ, rất cổ-hủ. Ngày nay, ít ra ta còn dám bảo: các phe/nhóm như thế này cũng bớt dần; hoặc: nhiều người, nay không còn thích đưa chuyện chính-trị vào hội-thánh, nữa. Nhiều vị, không còn thích chuyện ly-kỳ mộng-ảo như chuyện về “điềm báo mộng” từ các thánh; hoặc chuyện: quay về với truyền-thống cũ…

Giới trẻ hôm nay, đặc-biệt không còn thích dính-dự vào các trò chơi chính-trị, phe đảng, phân-hoá hàng ngũ, hoặc theo phe/nhóm này khác. Họ nhận ra rằng: thế giới của họ nay không còn những chuyện như thế,nữa. Nơi thế-giới họ sống, tất cả đều rõ ràng, đầy dẫy thông-tin mang nghĩa tuỳ-thuộc, như: cả trong công ăn việc làm mà họ vốn có, họ luôn ở vào vị-thế có trách-nghiệm.

Nói theo cách nào đó, thì: giới trẻ ngày nay, là những người còn biết đến “lẽ thường”. Họ vẫn tự hỏi lòng mình xem: nên ăn làm sao, nói làm sao. Và thực tế, họ đã thôi không còn ăn nói linh-tinh nhiều thứ, nếu ai đó đến hỏi ý-kiến họ về các nhóm người được coi là nhóm tiêu-biểu rất tinh-túy cả ở trong hội-thánh lẫn ngoài chính-trường.

Nếu có linh-mục nào đến hỏi người trẻ, xem: chiều thứ sáu này, có đến dự chầu lượt hoặc nguyện/ngắm “Lòng Chúa Xót Thương” không? Thì: họ cứ lẳng lặng quay về hướng khác, như thể bảo: “Thưa cha, cha nên quay về với thế-giới của riêng cha thì tốt hơn.” Hoặc, không nói cũng không làm, cũng chẳng phản-đối gì hết, chỉ việc tránh sang một bên, rồi đi thẳng. Nhưng, nếu có ai khác đến nhắn nhủ rằng: “Tuần tới, Anh/chị nhớ tham gia biểu-tình chống chính-phủ về vụ cắt-giảm ngân-sách y-tế, giáo-dục, vv.” thì có lẽ, họ sẽ cùng nhìn về một hướng, ở phía trước.

Về với câu Chúa hỏi ở dụ-ngôn: “Các ông nghĩ sao?” (Mt 21: 28). Hỏi thế, không có nghĩa là Ngài yêu-cầu ta bắt chước những người nói nhiều hơn làm, hoặc: làm nhiều hơn là cứ nói. Ngài không tuyên-dương bên nào hết. Ngài cũng chẳng giải-thích tại sao người con trai kia vẫn không làm mà chỉ nói; hoặc: có làm mà không nói, dù có nhắn có hỏi thế nào đi nữa.

Sau khi kể dụ-ngôn, Đức Giêsu cũng chẳng nói tại sao hai người con trai kia không chọn cho mình tư-thế nào, hết. Phải chăng anh ta chọn như thế vì lười biếng? hoặc: anh ta có kế-hoạch khác hoặc đang ở vào hoàn-cảnh khó đoán trước chuyện gì sẽ xảy đến. Có thể, vì anh quên sót hoặc ngu-muội không biết việc mình làm sẽ ra sao. Có khi, anh cũng chẳng biết chuyện ấy có được dân-chúng tôn-trọng hay không. Trong chuyện này, Đức Giêsu chỉ hỏi có mỗi câu: “Các ông nghĩ sao về chuyện ấy?” thôi.

Suy chuyện này, đôi lúc ta cũng nghĩ về tình-thế “Giáo-hội mình đang đi vào thời-kỳ khác với lịch-sử loài người, chăng? Cũng có thể, Giáo-hội ta đang trở-thành một giáo-hội ít hỏi-han giáo-dân mình về cuộc sống và ý-chí tốt-lành của họ, cũng không chừng. Giáo-hội ta như thế, sẽ không đòi thêm nhiều ngoại-lệ ở dân con đạo mình. Giáo-hội như thế, đã biết tôn-trọng giáo-dân về chuyện tư-riêng, bí mật của họ. Và, Giáo-hội nay đã biết phục-vụ con dân mọi người hơn là một tổ-chức này khác chỉ muốn dân con trong Đạo phục-vụ mình, thôi.

Phục vụ dân con trong Đạo mình, có nghĩa là: không tỏ ra thô-bạo với cuộc sống thực-tế rất riêng-tư của họ. Phục vụ dân con Đạo mình còn có nghĩa: biết nhẹ nhàng tôn-trọng phẩm-cách tách-bạch của người đó. Đó là nền-tảng khiến mọi người thực-sự thương-yêu, hiệp-thông với những người sống như thế.

Dân con trong Đạo, là loại người cùng đến để lĩnh-nhận sự hiệp-thông rất thánh trong Tiệc-Thánh mỗi Chúa Nhật. Và, con dân trong Đạo, còn là những người sống khác thường. Sống tốt-đẹp và giùm giúp nhau hơn trong thế-giới rất thực, như kết-quả của sự việc họ tham-gia có mặt ở Tiệc Thánh, cũng đều tốt.

Cuối cùng thì, câu hỏi của Chúa ở dụ-ngôn hôm nay, cũng được gửi đến dân con mọi người trong thánh Hội vẫn cứ hoặc vẫn không tham-dự Tiệc Thánh, ngày của Chúa.

Để chuẩn-bị cho câu trả lời thật đích-đáng, cũng nên ngâm lại lời thơ còn bỏ dở, rằng:

“Nắng xuân nào long lanh trong mắt bé?”

Linh hồn anh, từ đó ướp trầm hương.

Linh hồn anh, từ đó ngạt ngào thơm.

Máu, như nước hoa chan đời lễ lạc.

Máu, như gió lành chảy qua ruộng đồng bát-ngát,

Chở chuyên mùi lúa chín quanh năm”.

(Nguyễn Tất Nhiên – Bài Đầu Năm Tình Yêu)

Bài Đầu Năm Tình Yêu, vẫn có nắng có máu Thánh chan-hoà đời lễ lạc. Có “ruộng đồng bát ngát chuyên chở mùi lúa chín quanh năm”. Đó, là Tình thơm ngát linh-hồn vẫn ướp trầm hương ngạt-ngào, vững mạnh, suốt nhiều thời.

Cuối cùng thì, hãy cứ gần nhau đi dù không nói. Nói làm gì, khi anh đã “thầm hiểu” hãy cứ “lặng cúi đầu” mà suy về dụ-ngôn Chúa kể, để coi đó như bí-kíp sống ở đời. Bí-kíp, dựa nhiều trên chọn-lựa của mỗi người, tùy vào tình thân-thương ta đối xử với nhau, mà thôi.

Lm Kevin O’Shea CSsR

Mai Tá lược dịch.

Nhân Scotland đã “từ chối độc lập”, đôi điều nghĩ về Hồ Chí Minh

Nhân Scotland đã “từ chối độc lập”, đôi điều nghĩ về Hồ Chí Minh

Huy Đức/ FB Trương Huy San

Scotland đã “từ chối độc lập” với tỷ lệ phiếu 54-46. Năm 1999, người Úc cũng đã từ chối trở thành một nền cộng hòa không có Nữ Hoàng. Điều thú vị là cả hai công cuộc giành độc lập này đều diễn ra như lễ hội thay vì kinh qua những thập niên đầu rơi máu chảy.

Không thể so sánh phương thức giành độc lập ở những giai đoạn khác nhau, nhưng quyết định của người Úc 15 năm trước đây và của người Scotland hôm nay cho thấy điều mà Hồ Chí Minh nói năm 1946 là hoàn toàn chính xác: “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng nghĩa lý gì”. Trong lịch sử Việt Nam, Hồ Chí Minh rõ ràng là một trong những nhà lập ngôn xuất sắc nhất.

Khi thu thập tư liệu cho Sách Bên Thắng Cuộc, tôi phỏng vấn rất nhiều nhân chứng và các nhà nghiên cứu về đời tư của Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, tôi quyết định không đưa những chuyện thâm cung của ông vào sách. Đành rằng đạo đức quyết định rất nhiều đến thành công của một nhà chính trị, tôi vẫn cho rằng, đánh giá một nhà lãnh đạo là phải dựa trên những quyết sách dẫn dắt quốc gia. Đừng quan tâm Hồ Chí Minh có con, có người phụ nữ nào hay không mà hãy quan tâm đến di sản mà ngày nay chúng ta đang gánh.

Từ cách tiếp cận đó, tuy tôi vẫn tìm hiểu cách đối xử của Hồ Chí Minh với những người ruột thịt như bà Thanh và ông Cả Khiêm; cách ứng xử của Hồ Chí Minh với những người thầy của ông như Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Nguyễn Hải Thần… Nhưng, chủ yếu tôi tìm hiểu cách ông đã ứng xử sau khi nắm quyền (chứ không phải là giai đoạn tuyên truyền để giành chính quyền) với dân, với nhà nước pháp quyền, với Hiến pháp 1946, với mô hình chính trị mà ông lựa chọn.

Năm 2004, khi tôi gặp hai người trợ lý thân cận của Lê Duẩn, ông Đống Ngạc và ông Đậu Ngọc Xuân, phỏng vấn vì sao Lê Duẩn lại nôn nóng “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội” như vậy. Cả hai ông đều cho rằng, sao lại trách anh Ba vì đó là “con đường của Bác”.

Nhiều thế hệ Việt Nam đã yêu mến Hồ Chí Minh, các bạn cứ tiếp tục yêu mến Hồ Chí Minh, đừng “shock” khi đọc thấy “những người đàn bà của Bác”. Các bạn chỉ nên so sánh di sản của Hồ Chí Minh (là những gì mà Việt Nam đang có ngày nay) với chính chuẩn mực của ông: “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng nghĩa lý gì”.

FB Trương Huy San

Nhìn lại ‘Cải cách Ruộng Đất’ ở Việt Nam

Nhìn lại ‘Cải cách Ruộng Đất’ ở Việt Nam

Thứ năm, 18 tháng 9, 2014

httpv://www.youtube.com/watch?v=MhtWSQznlHw#t=638

Mặc dù cuộc cải cách ruộng đất do Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện 60 năm về trước đã trôi qua, nhưng nhiều người vẫn chưa thể ‘quên được’ ‘sự thật’ vẫn chưa được Đảng nói ra hết, cũng như Đảng phải nhìn nhận ‘tội lỗi’ của mình, theo một khách mời của tọa đàm trực tuyến về “Cải cách ruộng đất” do BBC thực hiện hôm 18/9/2014.

Từ Moscow, hôm thứ Năm, ông Nguyễn Minh Cần, nguyên Phó Chủ tịch phụ trách Nông nghiệp của Hà Nội, nguyên cán bộ sửa sai cải cách ruộng đất của Đảng ở ngoại thành Hà Nội, một nhà bất đồng chính kiến nhiều năm tị nạn chính trị ở Nga, cho rằng Đảng và chính quyền phải ‘sám hối’. Ông nói:

“Bây giờ cải cách ruộng đất đã qua rồi, chúng ta muốn quên đi, nhưng mà sự thực không quên được. Vì sao, bởi vì tôi đã rất đồng ý với nhà văn Trần Mạnh Hảo, là vì trước hết Nhà nước, Đảng cầm quyền phải nói sự thật, phải nhìn nhận tội lỗi của mình, phải sám hối, mới xóa bỏ được hận thù.

“Mới xóa bỏ được: thôi, ta coi vấn đề cải cách ruộng đất là qua rồi. Điều đó nhà nước chúng ta không làm, cuộc triển lãm vừa qua không làm. Đó là điều thứ nhất tôi xin khẳng định như thế.

“Điều thứ hai là bây giờ rất cần một sự thay đổi về ruộng đất. Không phải là chúng ta làm một cuộc cải cách về ruộng đất theo kiểu của Trung Quốc, theo kiểu 1953 trước nữa, mà là phải đấu tranh để xóa bỏ điều ở trong Hiến pháp là quốc hữu hóa ruộng đất của nông dân”

Ông Nguyễn Minh Cần

“Điều thứ hai là bây giờ rất cần một sự thay đổi về ruộng đất. Không phải là chúng ta làm một cuộc cải cách về ruộng đất theo kiểu của Trung Quốc, theo kiểu 1953 trước nữa, mà là phải đấu tranh để xóa bỏ điều ở trong Hiến pháp là quốc hữu hóa ruộng đất của nông dân và đem ruộng đất trả lại cho nông dân.”

‘Quyết tìm sự thật’

Nhà văn Trần Mạnh Hảo, một nhân chứng mà gia đình là ‘nạn nhân’ của cuộc cải cách, như ông tự giới thiệu, nói với cuộc tọa đàm từ Sài Gòn:

“Tôi cho rằng lịch sử phải được thể hiện một cách trung thực, nếu tất cả lịch sử bị bóp méo, và bị dối trá hóa, bị tuyên truyền nhảm, tức là bịa ra lịch sử để sự tuyên truyền, thì chừng đó, sau này dù thời gian sau này chăng nữa, con cháu chúng ta họ vẫn quyết tâm đi tìm sự thật.

“Bởi vì sự thật, chỉ có sự thật mới giải phóng được con người. Chỉ có sự thật mới giúp chúng ta nhìn nhận chân lý, cái gì sai, cái gì đúng, còn cứ bịa chuyện, cứ bịp bợm nhân dân, thì mọi thứ sẽ không bao giờ tốt đẹp.”

“Tôi không muốn nói lại cuộc cải cách ruộng đất, bởi vì vết thương của gia đình tôi, bố mẹ tôi. Bố tôi bị bắt, mẹ tôi phải nuôi ba đứa con, tôi phải đi bắt rận thuê để lấy gạo nấu cháo cho mẹ ăn và các em ăn, tức là rất là thảm.

“Và những gia đình bị bắn ở trong làng tôi cũng không bao giờ là địa chủ. Họ đã bắn, đã giết oan hàng mấy, hàng chục vạn người, thế thì làm sao mà có thể nói là một cuộc cải cách tốt đẹp được”

Nhà văn Trần Mạnh Hảo

“Đẩy gia đình chúng tôi vào thảm kịch có thể chết đói cả ba bốn mẹ con. Và cuộc cải cách ruộng đất tôi đã nhìn thấy nông dân ở làng đến lấy ở nhà tôi từng cái đũa, cái bát, cái mâm, cái hòn gạch, phá nhà, phá cửa, cướp hết toàn bộ những tài sản của gia đình chúng tôi, mà một gia đình lao động, không bao giờ là địa chủ.

“Và những gia đình bị bắn ở trong làng tôi cũng không bao giờ là địa chủ. Họ đã bắn, đã giết oan hàng mấy, hàng chục vạn người, thế thì làm sao mà có thể nói là một cuộc cải cách tốt đẹp được.”

‘Không có cơ sở’

Từ Paris, nhà văn Vũ Thư Hiên, tác giả của cuốn hồi ký chính trị “Đêm giữa ban ngày” đặt vấn đề liệu vào thời điểm tiến hành cuộc cải cách, Đảng có tiến hành một cuộc điều tra ‘đàng hoàng không’.

Nhà văn đặt câu hỏi cho ông Nguyễn Minh Cần:

“Thắc mắc của tôi là vào giai đoạn đó, có một cuộc điều tra về cải cách ruộng đất đàng hoàng không, thành lập được mấy đoàn điều tra, đã đi những địa phương nào để điều tra cải cách ruộng đất, trưởng phó đoàn là ai và báo cáo về cải cách ruộng đất để chuẩn bị cho cải cách ruộng đất có hay không?”

“Sự thực ở đây là không chỉ riêng Hà Nội, mà cả toàn quốc, tỷ lệ 5% mà Hồ Chủ Tịch đưa ra, rồi vân vân, thì không có dựa trên một cơ sở điều tra nào cả”

Ông Nguyễn Minh Cần

Khách mời từ Moscow trả lời:

“Sự thực ở đây là không chỉ riêng Hà Nội, mà cả toàn quốc, tỷ lệ 5% mà Hồ Chủ Tịch đưa ra, rồi vân vân, thì không có dựa trên một cơ sở điều tra nào cả,” cựu Phó Chủ tịch Hà Nội phụ trách nông nghiệp nói.

“Hoàn toàn không có một điều tra nông thôn để mà quyết định vấn đề thành phần, ruộng đất, rồi vân vân, ở trong nông dân như thế nào cả, nông thôn ra làm sao cả. Đấy là một sự thật.”

‘Không thể sửa được’

Về vấn đề sửa sai, ông Nguyễn Minh Cần thuật lại những gì mà ông đã trải nghiệm, cựu thành viên ủy ban sửa sai của Đảng ở Hà Nội nói:

“Ngay bản thân tôi, tôi là người phụ trách sửa sai ở ngoại thành Hà Nội, thì ông Võ Nguyên Giáp thời bấy giờ, Ủy viên Bộ chính trị, phụ trách Hà Nội trong việc sửa sai, chúng tôi bàn với nhau có bao nhiêu việc không thể nào sửa được.

“Vợ, chồng, con cái của người ta bị bắn chết thì hỏi sửa sai thế nào? Chúng tôi có mấy người liên lạc trong thời kỳ bí mật ở ngoại thành Hà Nội, thì đội cải cách về, chẳng hiểu thế nào mà họ nghèo, quy là địa chủ, bắn chết. Chúng tôi làm thế nào mà giải quyết được?”

Ông Nguyên Minh Cần

“Vợ, chồng, con cái của người ta bị bắn chết thì hỏi sửa sai thế nào? Chúng tôi có mấy người liên lạc trong thời kỳ bí mật ở ngoại thành Hà Nội, thì đội cải cách về, chẳng hiểu thế nào mà họ nghèo, quy là địa chủ, bắn chết. Chúng tôi làm thế nào mà giải quyết được?

“Rồi nhà cửa người ta chia ra rồi, bây giờ sửa sai, chúng tôi phải trả lại cho những người đó, nhưng mà trả lại thế nào được? Khi mà nông dân đã nhận được nhà cửa thì họ được tin là phải trả lại, thì họ lấy ngói, lấy gạch rồi phá hết tất cả của người ta.

“Mà khi vào chia đấy, thì bao nhiêu gia đình được một ngôi nhà, thì những cây cảnh, những cái chậu v.v…, thì mình phá hết, thì bảo là trả lại thế nào?”

Các khách mời trong cuộc thảo luận cũng nhìn lại hai luồng ý kiến chính trên các mạng xã hội Việt Nam nhân cuộc triên lãm Cải cách Ruộng đất ở Bảo tàng Lịch sử Quốc gia tại Hà Nội khai mạc rồi bị đóng cửa vì ‘lý do kỹ thuật’ sau khi vừa khai trương đầu tháng 9/2014.

Các ý kiến cũng nhằm sáng tỏ bối cảnh chung, tác động của Trung Quốc, việc tiến hành, vai trò của Ban lãnh đạo Việt Nam khi đó như việc lập các đoàn cải cách.

Cố chủ tịch Hồ Chí Minh

Ông Hồ Chí Minh đã thừa nhận Đảng sai lầm và tuyên bố ‘sửa sai’ sau cải cách ruộng đất.

Cuộc thảo luận cũng nhìn vào ý nghĩa, tác động của Cải cách Ruộng Đất với nông thôn, nông dân Việt Nam tới ngày nay.

‘Bài học lịch sử’

Thảo luận còn nêu ý kiến cần có một cuộc cải cách về đất đai hiện nay ở Việt Nam để giải quyết vấn đề tham nhũng đất, khiếu kiện khá phổ biến về đất đai.

Có khách mời cũng cho hay từ kinh nghiệm của Liên Xô thì sau năm 1991 vẫn không hề có sự nhìn lại về các cuộc cải tạo tiêu diệt nông dân thời Stalin.

Nhưng riêng với Việt Nam, có ý kiến thảo luận nói cần khép lại quá khứ dù không được quên những vụ tàn sát thời Cải cách Ruộng Đất.

Về bài học rút ra và thái độ đối với quá khứ, lựa chọn ứng xử trong hiện tại, ông Nguyễn Quang Thạch, nhà vận động ‘sách cho nông thôn’ nói với BBC:

“Lịch sử là thứ đã qua rồi, chúng ta không được phép quên lịch sử, mà chúng ta phải đánh giá sòng phẳng về nó. Chúng ta không quên quá khứ sai lầm của lịch sử, nhưng cũng không căm hận nó nữa, mà nên hành động để tạo dựng cho tương lai tốt hơn thôi”

Ông Nguyễn Quang Thạch

“Lịch sử là thứ đã qua rồi, chúng ta không được phép quên lịch sử, mà chúng ta phải đánh giá sòng phẳng về nó.

“Chúng ta không quên quá khứ sai lầm của lịch sử, nhưng cũng không căm hận nó nữa, mà nên hành động để tạo dựng cho tương lai tốt hơn thôi.

“Chứ nếu chúng ta, như kiểu vừa rồi, là chỉ đưa trưng bày ra, phô diễn cho người ta, chỉ nói cái tốt, không nói cái sai, khuyết, để rồi cùng nhau nhìn nhận, và không lặp lạih những sai lầm trong tương lai.

“Cho câu chuyện tôi nghĩ là người Việt mình, chính quyền đã đến lúc phải đánh giá lại sai lầm của mình, và sau đó công bố rõ ràng, và chúng ta điều chỉnh chính sách đất đai để không tạo ra sự xung đột giữa chính quyền và người dân. Để không tạo ra sự dồn tích, sự căm phẫn trong đời sống cộng đồng.”

‘Mong cải cách mới’

“Bây giờ có những người nông dân không còn nhà, không còn một tấc đất để sống, trong khi những kẻ tham nhũng có bốn, năm, bảy cái biệt thự, có hàng trăm héc-ta rừng để bóc lột nhân dân… Vì vậy theo tôi, tôi lại muốn có một cuộc cải cách ruộng đất mới”

Bà Lê Hiền Đức

Cũng hôm thứ Năm, bà Lê Hiền Đức, nhà hoạt động chống tham nhũng và vận động cho nhân quyền, nói với tọa đàm từ Hà Nội:

“Tôi lại muốn cải cách ruộng đất bây giờ nữa, nhưng trên tinh thần của tôi bây giờ là gì: tổ chức cải cách ruộng đất không phải là đấu tố như ngày xưa, nâng thành phần từ phú nông lên địa chủ để giết chóc, đàn áp nhau.

“Nhưng cải cách ruộng đất bây giờ là gì: để người nông dân của tôi bây giờ sống bằng đồng ruộng thì nhiều bà con nông dân đã căng khẩu hiệu là ‘Nông dân coi đồng ruộng như máu xương của mình’.

“Nhưng bây giờ mất hết ruộng, mất hết vườn, mất hết rừng, thì hỏi rằng còn gì nữa, vì vậy theo suy nghĩ của tôi, tôi lại mong muốn có cuộc cải cách, nhưng cải cách bây giờ đừng lặp lại những sai lầm dã man, tàn ác, giết chóc như những năm trước đây.

“Mà cải cách bây giờ là gì: để cho những người nông dân đứng lên tố cáo những bọn tham nhũng. Bây giờ có những người nông dân không còn nhà, không còn một tấc đất để sống, trong khi những kẻ tham nhũng có bốn, năm, bảy cái biệt thự, có hàng trăm héc-ta rừng để bóc lột nhân dân…

“Vì vậy theo tôi, tôi lại muốn có một cuộc cải cách ruộng đất mới,” nhà vận động năm nay 83 tuổi nói với cuộc tọa đàm của BBC từ Hà Nội.

Lý Quang Diệu: Tại sao nên đầu tư cho Tiếng Anh

Lý Quang Diệu: Tại sao nên đầu tư cho Tiếng Anh

Khi Singapore giành được độc lập vào năm 1965, một nhóm trong Phòng Thương Mại người Hoa gặp tôi để vận động hành lang cho việc chọn tiếng Hoa làm quốc ngữ. Tôi nói với họ rằng: “Các ông phải bước qua tôi trước đã.”

XEM BÃÂO - Khi Singapore giành Ãâðợc Ãâá»â¢c lập vào nÃÆm 1965, má»â¢t nhóm trong Phòng Thðáng Mại ngðá»Âi Hoa gặp tôi ÃâÃ¡Â»Æ vận Ãâá»â¢ng hành lang cho viá»â¡c chá»Ân tiếng Hoa làm quá»âc ngữ. Tôi nói vá»âºi há» rằng: Các ông phải bðá»âºc qua tôi trðá»âºc Ãâã.

SINGAPORE

Chúng ta còn liên kết với phần còn lại của thế giới thông qua ngôn ngữ. Chúng ta may mắn được người Anh cai trị và họ để lại di sản là tiếng Anh. Nếu như chúng ta bị người Pháp cai trị, như người Việt, chúng ta phải quên đi tiếng Pháp trước khi học tiếng Anh để kết nối với thế giới. Đó chắc hẳn là một sự thay đổi đầy đau đớn và khó khăn.

Khi Singapore giành được độc lập vào năm 1965, một nhóm trong Phòng Thương Mại người Hoa gặp tôi để vận động hành lang cho việc chọn tiếng Hoa làm quốc ngữ. Tôi nói với họ rằng: “Các ông phải bước qua tôi trước đã.” Gần 5 thập niên đã trôi qua và lịch sử đã cho thấy rằng khả năng nói tiếng Anh để giao tiếp với thế giới là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong câu chuyện tăng trưởng của Singapore . Tiếng Anh là ngôn ngữ của cộng đồng quốc tế. Đế quốc Anh đã truyền bá thứ ngôn ngữ này ra khắp thế giới, nên khi người Mỹ tiếp quản, đó là một sự chuyển đổi dễ dàng sang tiếng Anh kiểu Mỹ. Đây cũng là một lợi thế rất lớn đối với người Mỹ khi trên toàn thế giới đã có nhiều người nói và hiểu ngôn ngữ của họ.

Khi sự trỗi dậy của Trung Quốc tiếp diễn, Singapore có thể nâng cao chuẩn mực tiếng Hoa trong nhà trường để cho học sinh của chúng ta có một lợi thế, nếu họ chọn làm việc hoặc giao thương với Trung Quốc. Nhưng tiếng Hoa vẫn sẽ là ngôn ngữ thứ hai, vì thậm chí nếu GDP của Trung Quốc có vượt qua Hoa Kỳ, họ cũng không thể cho chúng ta được mức sống mà chúng ta đang hưởng thụ ngày nay. Đóng góp của Trung Quốc vào GDP của chúng ta ít hơn 20%. Phần còn lại của thế giới sẽ giúp Singapore duy trì phát triển và đạt được thịnh vượng – không chỉ là người Mỹ, mà còn là người Anh, người Đức, người Pháp, người Hà Lan, người Úc, vv…. Các nước này giao dịch kinh doanh bằng tiếng Anh, không phải tiếng Trung. Sẽ là rất ngu ngốc nếu chúng ta xem xét chọn tiếng Trung làm ngôn ngữ làm việc tại bất kì thời điểm nào trong tương lai, khi mà chính người Hoa cũng rất cố gắng học tiếng Anh từ khi mẫu giáo cho đến bậc đại học.

Cuộc cạnh tranh cuối cùng

Hoa Kỳ không phải đang trên đà suy thoái. Uy tín của Hoa Kỳ đã chịu nhiều tổn thất do việc đóng quân lâu dài và lộn xộn tại Iraq và Afghanistan cũng như do cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng. Nhưng những sử gia giỏi nhìn nhận sẽ chỉ ra rằng một Hoa Kỳ dường như yếu đi và trì trệ đã từng phục hồi ra khỏi những tình huống còn tệ hại hơn. Đất nước Hoa Kỳ đã đối mặt nhiều thử thách lớn trong những thời kỳ chưa xa: cuộc Đại Suy thoái, chiến tranh Việt nam, thời kì trỗi dậy của các cường quốc công nghiệp hậu chiến như Nhật Bản và Đức. Mỗi lần như vậy, Hoa Kỳ đã tìm thấy ý chí và sức mạnh để phục hồi vị trí dẫn đầu cùa mình. Hoa Kỳ đã áp đảo. Nó sẽ thực hiện được điều này một lần nữa.

Thành công của Hoa Kỳ nằm ở nền kinh tế năng động, được duy trì không chỉ bằng khả năng đặc biệt sản xuất ra cùng một thứ với chi phí ít hơn mà còn là liên tục đổi mới sáng tạo – tức là sáng chế ra một mặt hàng hay dịch vụ hoàn toàn mới mà thế giới sớm cảm thấy hữu dụng và đáng khát khao. Chiếc iPhone, iPad, Microsoft, Internet – tất cả đều được tạo ra ở Hoa Kỳ chứ không phải nơi nào khác. Người Trung Quốc có thể có nhiều nhân tài so với người Mỹ, nhưng sao họ không có những phát minh tương tự? Rõ ràng họ thiếu một sự sáng tạo mà người Mỹ sở hữu. Và tia sáng đó cho thấy người Mỹ thỉnh thoảng thể có sáng tạo đột phá thay đổi cục diện, điều cho họ vị trí dẫn đầu.

Thậm chí nếu những người theo thuyết suy thoái đúng, và thật là Hoa Kỳ đang trên đà xuống dốc, ta phải nhớ rằng đây là một nước lớn và cần có một thời gian dài thì mới suy thoái. Nếu Singapore là một nước lớn, tôi sẽ chẳng lo lắng lắm nếu chúng ta chọn chính sách sai lầm, vì hậu quả sẽ xuất hiện chậm. Nhưng chúng ta là một nước nhỏ và một quyết định sai lầm có thể gây hậu quả kinh khủng trong một thời gian ngắn. Mặt khác, Hoa Kỳ như là một con tàu chở dầu lớn. Họ sẽ không thể chuyển hướng nhanh như một chiếc thuyền. Nhưng tôi tin rằng các cá nhân tin vào thuyết suy thoái đã sai lầm. Hoa Kỳ sẽ không suy thoái. So sánh tương đối với Trung Quốc, Hoa Kỳ có thể ít uy lực hơn. Có thể khả năng phô diễn sức mạnh ở Tây Thái Bình Dương của Hoa Kỳ bị ảnh hưởng và có thể Hoa Kỳ không thể sánh với Trung Quốc về dân số và GDP, nhưng lợi thế chính yếu của Hoa Kỳ – sự năng động của họ – sẽ không biến mất. Hoa Kỳ, nếu đem ra so sánh đến giờ, là một xã hội sáng tạo hơn. Và khi mà trong lòng nội bộ nước Mỹ đang có một cuộc tranh luận về việc liệu họ có đang xuống dốc hay không thì đó là một dấu hiệu tốt. Điều đó có nghĩa rằng họ không ngủ quên trên đỉnh cao.

Tại sao tôi lại tin vào thành công dài hạn của Hoa Kỳ

Đầu tiên, Hoa Kỳ là một xã hội thu hút đến độ mà Trung Quốc khó lòng bì kịp. Mỗi năm, hàng nghìn người nhập cư đầy tham vọng và có trình độ được cho phép vào Hoa Kỳ, định cư và trở nên thành công trong nhiều lĩnh vực. Những người nhập cư này sáng tạo và thường mạo hiểm hơn, nếu không thì họ đã chẳng rời khỏi quê hương của mình làm gì. Họ cung cấp một nguồn ý tưởng dồi dào và tạo nên một chất men nào đó trong lòng xã hội Mỹ, một sức sống mà ta không thể tìm thấy ở Trung Quốc. Hoa Kỳ sẽ không thành công được đến như vậy nếu như không có người nhập cư. Trong hàng thế kỉ, Hoa Kỳ thu hút nhân tài từ châu Âu. Ngày hôm nay, họ thu hút nhân tài từ châu Á – người Ấn, người Hoa, người Hàn, người Nhật và thậm chí là người Đông Nam Á. Vì Hoa Kỳ có thể dung nạp người nhập cư, giúp họ hoà nhập và cho họ một cơ hội công bằng để đạt được giấc mơ Mỹ, luôn có một nguồn chảy tài năng hướng vào Hoa Kỳ và đổi lại Hoa Kỳ có được công nghệ mới, sản phẩm mới và cách làm ăn mới.

Trung Quốc và những quốc gia khác rồi sẽ phải tiếp thu vài phần của mô hình thu hút nhân tài của Hoa Kỳ phù hợp với hoàn cảnh của mình. Họ phải đi tìm người tài để xây dựng các doanh nghiệp. Đây là cuộc cạnh tranh tối hậu. Đây là thời đại mà chúng ta không còn có các cuộc đua quân sự giữa các cường quốc vì họ biết rằng họ sẽ huỷ hoại nhau bằng cách ấy. Đây sẽ là cuộc cạnh tranh về kinh tế và kĩ thuật và tài năng là nhân tố chính.

Hoa Kỳ là một xã hội thu hút và giữ chân được nhân tài. Họ chiêu dụ được những tài năng bậc nhất từ Châu Á. Hãy nhìn vào số lượng người Ấn trong các ngân hàng và trường đại học của họ — lấy ví dụ như Vikram Pandit, cựu CEO của Citibank. Nhiều người Singapore chọn lựa ở lại Hoa Kỳ sau khi du học. Đó là lí do mà tôi ủng hộ việc cho sinh viên học bổng đi du học Anh, vì tôi chắc rằng họ sẽ trở về Singapore . Ở Anh, bạn không ở lại vì bạn không được chào đón. Và vì nền kinh tế của Anh không năng động như Mỹ, ở đấy có ít công ăn việc làm hơn.

Một lí do tại sao Trung Quốc sẽ luôn kém hiệu quả hơn trong việc thu hút nhân tài chính là ngôn ngữ. Tiếng Hoa khó học hơn tiếng Anh nhiều. Nói tiếng Hoa rất khó nếu như không học từ nhỏ. Đây là ngôn ngữ đơn âm tiết và mỗi từ có tới 4 hay 5 thanh. Khi mà bạn không biết tiếng thì bạn không thể giao tiếp. Đây là một rào cản rất lớn. Đây là kinh nghiệm bản thân tôi. Tôi đã vật lộn trong suốt 50 năm và đến giờ mặc dù tôi có thể nói tiếng Hoa và viết theo kiểu bính âm (pinyin), nhưng tôi vẫn không thể hiểu được tiếng Hoa một cách thành thục như người bản ngữ. Đấy là tôi đã rất cố gắng. Trung Quốc trở nên hùng cường vào tương lai không thay đổi sự thật cơ bản là tiếng Hoa là một ngôn ngữ cực kì khó học. Có bao nhiêu người đến Trung Quốc, ở lại và làm việc ngoại trừ những người Hoa, người Châu Âu và người Mỹ trở thành những chuyên gia nghiên cứu Trung Quốc? Người Trung Quốc cố gắng truyền bá ngôn ngữ của mình ra nước ngoài bằng việc xây dựng các Viện Khổng Tử trên toàn thế giới, nhưng kết quả không được tốt lắm. Người ta vẫn đến Hội đồng Anh và những cơ sở của Hoa Kỳ. Chính phủ Hoa Kỳ thậm chí không cần phải cố gắng. Một thời họ có Trung tâm Dịch vụ Thông tin Hoa Kỳ, nhưng đã bị đóng cửa vì không cần thiết nữa. Đã có hàng loạt ấn phẩm, chương trình truyền hình và phim ảnh làm công việc đó. Nên về quyền lực mềm thì Trung Quốc không thể thắng.

Một nguồn lực khác mang lại sức cạnh tranh cho Hoa Kỳ là nhiều trung tâm xuất sắc cạnh tranh lẫn nhau khắp cả nước. Ở bờ Đông có Boston, New York, Washington, và ở bờ Tây có Berkeley, San Francisco, và ở miền Trung nước Mỹ thì có Chicago và Texas. Bạn sẽ thấy sự đa dạng và mỗi trung tâm lại cạnh tranh với nhau, không ai nhường ai. Khi người Texas thấy rằng mình có nhiều dầu mỏ, James Baker – cựu ngoại trưởng Hoa Kỳ và là người Texas – đã cố gắng thành lập một trung tâm ở Houston để cạnh tranh với Boston hoặc New York. Jon Huntsman, cựu đại sứ Hoa Kỳ ở Singapore và Trung Quốc và là bạn của tôi, là một ví dụ khác. Gia đình ông có tiền sử bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Vì vậy khi ông thừa hưởng gia tài từ cha, ông mang những nhà khoa học giỏi nhất trong lĩnh vực ung thư tuyến tiền liệt về quê nhà ông là bang Utah để nghiên cứu vấn đề này.

Mỗi trung tâm tin rằng mình tốt như các trung tâm còn lại, chỉ cần tiền và nhân tài, điều có thể kiếm được. Không ai cảm thấy phải tuân theo Washington hay New York . Nếu bạn có tiền, bạn có thể xây dựng một trung tâm mới. Bởi vì khía cạnh này, có sự đa dạng trong xã hội và một tinh thần cạnh tranh cho phép sản sinh ra những ý tưởng và sản phẩm mới hữu ích dài lâu. Trung Quốc thì lại chọn một cách tiếp cận khác. Người Trung Quốc tin rằng khi trung ương mạnh thì Trung Quốc sẽ giàu mạnh. Đây là một thái độ cứng nhắc, yêu cầu mọi người phải tuân theo một trung tâm duy nhất. Mọi người phải hành quân theo cùng một điệu trống. Ngay cả Anh và Pháp đều không thể cạnh tranh với Hoa Kỳ về mặt này. Ở Pháp ai là nhân tài cuối cùng đều vào các viện đại học nghiên cứu lớn. Ở Anh thì đó là Oxbridge (Đại học Oxford và Đại học Cambridge ). Những quốc gia này tương đối nhỏ, gọn vì vậy cũng đồng bộ hơn.

Kể từ cuối thập niên 1970 cho đến thập niên 1980, Hoa Kỳ mất vị trí dẫn đầu nền công nghiệp về tay những nền kinh tế mới phục hồi như Nhật Bản và Đức. Họ bị vượt mặt về đồ điện tử, thép, hoá dầu và ngành công nghiệp xe hơi. Đây là những ngành công nghiệp sản xuất quan trọng huy động nhiều nhân công, kể cả những người lao động phổ thông được các công đoàn bảo vệ. Ở một số nước châu Âu, các công đoàn chống đối các cải cách lao động bằng việc đe dọa tiến hành các hành động công nghiệp có thể mang lại tổn thất nghiêm trọng trong ngắn hạn. Nhưng ở Mỹ điều ngược lại đã xảy ra. Các tập đoàn áp dụng những biện pháp thay đổi khó khăn nhưng cần thiết. Họ giảm qui mô, giảm biên chế và cải tiến năng suất qua việc sử dụng công nghệ, trong đó có công nghệ thông tin (IT). Nền kinh tế Hoa Kỳ trỗi dậy trở lại. Các doanh nghiệp mới được mở ra để giúp các công ty tối ưu hoá hệ thống IT của mình, như là Microsoft, Cisco và Oracle. Sau một khoảng thời gian điều chỉnh đầy đau đớn, các công ty có thể tạo ra nhiều việc làm mới trả lương tốt hơn. Họ không thích thú với nhưng công việc lỗi thời mà Trung Quốc, Ấn Độ hay Đông Âu có thể làm được. Họ thấy được một tương lai mà của cải không phải được tạo ra bởi việc chế tạo đồ dùng hay xe hơi, mà bằng sức mạnh trí óc, sức sáng tạo, tính nghệ thuật, kiến thức và bản quyền trí tuệ. Hoa Kỳ đã trở lại cuộc chơi. Họ giành lại được vị trí là nền kinh tế phát triển nhanh nhất trong các nước đã phát triển. Tôi thật sự khâm phục sự năng động và tin thần khởi nghiệp của người Mỹ.

Bạn tiếp tục chứng kiến điều đó ngay lúc này đây. Người Mỹ vận hành một hệ thống gọn gàng hơn và có sức cạnh tranh hơn. Họ có nhiều bằng sáng chế hơn. Họ luôn cố gắng tạo được thứ gì đó mới hoặc làm điều gì đó tốt hơn. Tất nhiên, điều này cũng có một cái giá của nó. Chỉ số thất nghiệp của Hoa Kỳ lên xuống như một cái yoyo. Ở thời kì suy thoái, chỉ số thất nghiệp từ 8 đến 10 phần trăm là chuyện hiển nhiên. Kết quả là một tầng lớp dưới hình thành. Giữa những xa hoa, lấp lánh, các cửa hàng đẹp đẽ ở New York , bạn cũng có thể dễ dàng thấy người Mỹ vô gia cư nằm trên vệ đường. Họ không có gì ngoài tấm áo khoác thân và miếng thùng carton để nằm ngủ. Một số người, kể cả nhà kinh tế học đoạt giải Nobel Paul Krugman, đã lên án khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn ở xã hội Mỹ.

Điều này có chấp nhận được không? Tôi không thể nói được. Có những tổ chức tôn giáo và từ thiện giúp đỡ. Một số thành lập những quán ăn tình thương cho người thất nghiệp, vv…. Nhưng mà bạn không thể vừa muốn có chiếc bánh trong tay, vừa muốn ăn nó. Nếu bạn muốn tạo nên sự cạnh tranh mà Hoa Kỳ đang có, bạn không thể tránh được việc tạo nên khoảng cách đáng kể giữa tầng đỉnh và tầng đáy, và không thể tránh khỏi việc tạo nên một tầng lớp dưới. Nếu như bạn chọn một nhà nước phúc lợi, như châu Âu sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, bạn tự nhiên sẽ không còn năng động.

Cuối cùng, Hoa Kỳ có một nền văn hoá tôn vinh những người dám tự làm tự chịu. Khi họ thành công, họ được ngưỡng mộ như là một nhà khởi nghiệp tài năng và có được sự công nhận và vị trí xã hội họ đáng được hưởng. Khi họ thất bại thì điều này được coi là một giai đoạn tạm thời, tự nhiên và cần thiết để rốt cuộc thành công. Vì vậy họ có thể đứng lên và bắt đầu lại. Nền văn hoá này khác với Anh, một xã hội tĩnh hơn – nơi mà mọi người biết vị trí phù hợp của mình. Nước Anh rất mang tính châu Âu về điểm này. Người Anh từng có nhiều khám phá vĩ đại – máy hơi nước, máy kéo sợi và động cơ điện. Họ cũng có nhiều giải Nobel khoa học. Nhưng rất ít khám phá trong số này của họ trở nên thành công về mặt thương mại. Tại sao lại như thế? Những năm dài của 2 thế kỉ đế chế đã hình thành một xã hội nơi mà giới thượng lưu cũ và những quý tộc có ruộng đất được kính trọng. Giới nhà giàu mới bị xem thường. Các sinh viên trẻ ưu tú mơ ước trở thành luật sư, bác sĩ và trí thức – những người được ngưỡng mộ vì trí tuệ và đầu óc của họ hơn là lao động cực nhọc hoặc lao động tay chân. Hoa Kỳ thì lại khác, là một xã hội mới không có khoảng cách tầng lớp. Mọi người đều ngưỡng mộ việc làm giàu – và muốn trở nên giàu có. Đây là một động lực rất lớn để tạo nên các công ty mới và của cải. Thậm chí ở các công ty của Mỹ, người trẻ có tiếng nói lớn hơn ở các cuộc họp, và sức trẻ của họ được định hướng để giúp công ty trở nên sáng tạo hơn.

Tác giả: Lý Quang Diệu

LÝ NGƯỜI VÀ TÌNH CHÚA

LÝ NGƯỜI VÀ TÌNH CHÚA

AM. TRẦN BÌNH AN

Trích EPHATA 626

Vào tối ngày thứ hai, 20.11.2006, khá đông Giáo Dân ở các Giáo Xứ lân cận đã đến Nhà Thờ Chí Hòa để tham dự giờ cầu nguyện do nhóm cầu nguyện Đức Mẹ Mễ Du thực hiện. Đặc biệt có một Linh Mục ở Châu Đốc và nghệ sĩ Lê Vũ Cầu chia sẻ về ơn của Đức Mẹ đã ban ( Ảnh chụp ).

Chưa tới 19 giờ mà Giáo Xứ đã đặc kín người, rất trật tự và nghiêm trang. Mở đầu chương trình là phần dâng hoa lên tượng Đức Mẹ Mễ Du được đặt giữa khán đài. Trong phần chia sẻ, Linh Mục Giuse Bùi Trung Châu, chính xứ Châu Đốc, đã nói về một cô gái theo đạo khi lập gia đình, trong khi cầu nguyện cô cảm nghiệm được lời báo của Đức Mẹ cho biết sẽ bị liệt và cô được Đức Mẹ cứu chữa giữa sự chứng kiến của nhiều người.

Sôi nổi và sinh động nhất là phần chia sẻ của nghệ sĩ Lê Vũ Cầu. Trước khi chia sẻ, anh đã nói lên những lời cảm tạ Chúa vì Người đã ban cho anh Đức Tin và nhiều hồng phúc. Anh thấy Chúa đã đồng hành với anh qua một tình yêu thương hoàn hảo; anh thấy Đức Giêsu là vị Lương Y tuyệt vời nhất và anh còn thấy có một người Mẹ Hiền là Đức Maria đã đến bên cuộc đời của anh.

Nghệ sĩ Lê Vũ Cầu đã bị bệnh viêm gan siêu vi, sơ gan cổ chướng thời kỳ thứ ba, bị hôn mê, không ăn uống, không vệ sinh được. Ở bệnh viện, người ta coi như đã chết lâm sàng, nhiều người chuẩn bị cái chết cho anh khi thấy bụng sưng to, chân bị phù. Song anh được đẩy xe lăn đến trước tượng Đức Mẹ mà khấn xin cho được sống hoặc cho chết không đau đớn, an lành. Khấn xong, anh về nhà vào phòng vắng trốn tránh báo chí và cả những người thân quen.

Có một nhóm anh chị em Công Giáo đến thăm, đặt tay lên người anh cầu nguyện; rồi anh được đưa đến Nhà Thờ cầu nguyện; được Linh Mục và nhiều anh chị em thiện chí nâng đỡ. Bỗng dưng anh ăn được, ngủ được, bụng và chân trở lại bình thường. Anh phấn khởi, năng lui tới Nhà Thờ và xin ghi danh học đạo. Khi buổi cầu nguyện này diễn ra thì chỉ còn ít ngày nữa là anh được trở thành người Kitô hữu.

Nhưng đáng phục nhất là lời cầu nguyện đầu tiên của anh với Chúa: “Chúa ơi, xin ban cho con Đức Tin. Con muốn được ơn tin vào Chúa !” Quả thực, đây là lời cầu nguyện rất chân thành và đáng khâm phục vì những ai chưa biết Chúa mà có được niềm tin thật sự từ sâu thẳm trong lòng là rất khó. Và anh còn tâm nguyện từ nay đến cuối cuộc đời sẽ làm nhiều việc lành phúc đức. ( Theo VietCatholicNews, 22.11.2006 )

Hai năm sau, cơn bệnh tái phát, anh Anrê Dũng Lạc Lê Vũ Cầu về với Chúa tảng sáng ngày 23.9.2008. Lm. An Mai, DCCT, đã khéo léo ví von anh là người thợ giờ thứ mười một, đã vinh dự hưởng đồng lương khá hậu hĩnh của Chủ Vườn.

Tin Mừng theo Thánh Matthêu hôm nay tường thuật dụ ngôn tuyển thợ làm vườn nho. Những người thợ được tuyển từ sáng sớm bất bình với chủ vườn, đã trả lương hậu hĩnh những người thợ vào làm chiều muộn. Thường lòng đố kỵ, ganh tương, ghen tỵ, hiềm khích luôn xuất hiện, khi thấy kẻ khác được trọng đãi, hay thành đạt, giàu có, giỏi giang hơn mình.

Tình Yêu Thiên Chúa nhân ái, bao dung, quảng đại vô bến bờ, tựa như vòng tròn bất biến vĩ đại bao phủ lên lý lẽ vuông vắn, sắc cạnh, nhỏ nhen, thấp kém của con người. Trong khi thiên hạ lại thường áp dụng cái lý lẽ phiến diện, hà khắc và bất định lồng ra bên ngoài cái tình cá nhân tủn mủn, hạn hẹp, tồi tệ.

Lý người

Lý lẽ, luật lệ, phong tục, tập quán đều là những quy ước của nhân gian dễ thay đổi, dễ biến dạng, thậm chí trái ngược nhau tùy theo dân tộc, thời gian và không gian. Nay hợp lệ, mai thành bất hợp lệ. Xưa cấm đoán việc này, nay xả láng cho tự do. Thế mà thiên hạ cứ cố chấp viện ra lý lẽ, luật lệ nhất thời mà vô tư lên án tha nhân, thoải mái đấu tố, hoặc ném đá vô tội vạ.

Bất bình, ganh tỵ, chấp nhất khi thấy người khác được ưu ái hơn mình, thành đạt hơn, tài giỏi hơn, nổi tiếng hơn, con người còn hay viện dẫn đến sự công bằng mơ hồ, do chính mình áp đặt, mà loại trừ đi tình người, sự thông cảm, bao dung, độ lượng. Thánh Phaolô đã tìm ra căn nguyên sự bất khoan dung: “Vì anh em còn là những con người sống theo tính xác thịt. Bao lâu giữa anh em có sự ghen tương và cãi cọ, thì anh em chẳng phải là những con người sống theo tính xác thịt và theo thói người phàm sao ?” ( 1 Cr 3, 3 ).

Con người thường nô lệ vào bản ngã, cái tôi ích kỷ, nên tầm nhìn lý lẽ, quan niệm, suy xét chỉ quanh quẩn bảo vệ, quy hướng lợi ích phục vụ cho chính mình. Do vậy, các lý lẽ, nhận xét, phê phán thường khó tránh khỏi chủ quan, lệch lạc, phiến diện. Chính vì thế, có sự khác biệt tương phản, sâu xa, rõ ràng giữa phàm nhân với Thiên Chúa, như lời khẳng định của Ngôn Sứ Isaia: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng các ngươi và đường lối các ngươi không phải là đường lối Ta… Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các người chừng ấy” ( Is 55, 8 – 9 ).

Tình Chúa

Thiên Chúa dào dạt yêu thương tạo vật, con người. Dù con người đã bất nghĩa, bất tín, bất trung, nhưng Thiên Chúa vẫn yêu thương, đã ban Con Một nhập thể cứu chuộc nhân loại. Tình Yêu Thiên Chúa vượt xa giới hạn lý luận của con người. Khi bỏ lại 99 con chiên, đi tìm một con chiên lạc mất, Ngài đã bất chấp sự khôn ngoan trần thế, vượt qua lý luận toán học, vượt qua sự tính toán nhỏ mọn, hơn thiệt của con người, chỉ vì Tình Yêu.

Thánh Phaolô đã lý giải sự khôn ngoan của Thiên Chúa: “Song những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn, để hạ nhục những kẻ hùng mạnh, những gì thế gian cho là hèn mạt, không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để hủy diệt những gì hiện có, hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Người” ( 1 Cr 1, 28 – 29 )

Khi tha thứ cho người tử tội cùng chịu đóng đinh, Đức Giêsu chẳng hề tra hỏi về quá khứ, chẳng hề tính toán bao nhiêu lần vấp phạm. Người quên hết mọi tội lỗi chồng chất, khi phạm nhân biết sám hối, biết trở về Lòng Thương Xót. “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng !” ( Lc 23, 43 ).

Khi trả công cho những người thợ giờ thứ 11, Chủ Vườn chẳng tính toán hơn thiệt, làm được nhiều hay ít, mà căn cứ vào tấm lòng chân thành, thiện chí, mà hoan hỷ trả công.

Đừng nói nhiều, làm ít, hoạt động dài, cầu nguyện vắn, nhận rộng rãi, cho hẹp hòi, khoan dung cho mình, khắt khe với người. ( Đường Hy Vọng, số 304 ).

Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con luôn biết tôn trọng, yêu mến tha nhân, dù họ đức độ, tài năng giỏi giang, giàu có hơn chúng con. Xin cất đi khỏi lòng chúng con sự tỵ hiềm, ganh ghét, đố kỵ, chia rẽ, mà biết sống hòa đồng, chan hòa yêu thương, cùng biết cảm tạ Chúa đã ban cho họ và cho chúng con biết bao hồng ân, nhất là được biết Chúa, tin Chúa và theo Chúa.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ là mẫu gương khiêm nhường và nhân ái, xin dạy chúng con luôn biết quan tâm, gần gũi, hòa nhã với tất cả mọi người, kể cả những người trổi vượt hơn chúng con nhiều mặt, để chúng con xứng đáng làm con Chúa. Amen.

AM. TRẦN BÌNH AN

Kê khai tài sản: chuyện hài của chế độ

Kê khai tài sản: chuyện hài của chế độ

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-09-17

thanh-tra-2-622.jpg

Đại diện Thanh tra Chính phủ báo cáo công tác phòng, chống tham nhũng năm 2014 tại phiên họp toàn thể lần thứ 14 của Ủy ban Tư pháp Quốc hội ngày 15/9/2014.

Courtesy PLTPHCM

Ủy ban Tư pháp Quốc hội Việt Nam vừa được Thanh tra Chính phủ báo cáo là trong số gần 1 triệu cán bộ, công chức, đảng viên kê khai tài sản chỉ có 1 trường hợp bị kỷ luật vì không trung thực. Phải chăng nhà nước Việt Nam cho rằng có thể phát hiện tham nhũng qua kê khai tài sản?

Từ dẫn đầu thế giới về tham nhũng…

Mặc dù Việt Nam gần 10 năm thực thi Luật phòng chống tham nhũng, nhưng năm 2013 vẫn bị xếp hạng thứ 116 trên 177 quốc gia về tham nhũng trong khu vực công, theo đánh giá của Tổ chức Minh bạch Quốc tế.

Tính từ năm 2005 đến nay là một khoảng thời gian đủ dài để cơ quan chức năng có thể phát hiện tài sản của cán bộ công chức đảng viên đã phình to như thế nào.

Thế nhưng theo lời ông Phí Ngọc Tuyến, Phó Cục trưởng Cục Phòng chống tham nhũng nói với báo chí hồi đầu năm 2014 thì chưa từng phát hiện được trường hợp nào.

Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thế Hùng, một nhà hoạt động xã hội dân sự hiện sống và làm việc tại Đà Nẵng nhận định:

Chuyện kê khai tài sản ở Việt Nam là kiểu làm cho vui thôi, bởi vì một nền tài chính không minh bạch, ví dụ chi tiêu ở các nước họ truy nguồn gốc ở đâu chuyển tới đâu, người ta không dùng tiền mặt.
-GS Nguyễn Thế Hùng

“Chuyện kê khai tài sản ở Việt Nam là kiểu làm cho vui thôi, bởi vì một nền tài chính không minh bạch, ví dụ chi tiêu ở các nước họ truy nguồn gốc ở đâu chuyển tới đâu, người ta không dùng tiền mặt.

Ở các nước tiên tiến người ta có hệ thống thông tin báo chí tự do, nói chung có xã hội dân sự đầy đủ thì mọi thứ sẽ hỗ trợ. Hơn nữa thể chế tam quyền phân lập, các cơ quan độc lập mới có thể nêu ra những góc tối tăm về vấn đề kinh tế.”

Ngày 15/9/2014, tại phiên họp toàn thể của Ủy ban Tư pháp Quốc hội ở Hà Nội, Phó Tổng Thanh Tra Chính phủ Trần Đức Lượng được báo chí trích lời, cho biết tình trạng tham nhũng diễn biến phức tạp và tinh vi, kẻ tham nhũng là những người có chức quyền, có trình độ hiểu biết pháp luật, quan hệ rộng và liên kết với nhau thành các nhóm lợi ích. Ở nhiều nơi, nạn sách nhiễu vòi vĩnh người dân và doanh nghiệp vẫn diễn ra khá phổ biến.

Theo báo Lao Động online, ông Trần Đức Lượng nhấn mạnh tới một vấn đề nhức nhối gây bất bình dư luận xã hội, đó là tham nhũng, lãng phí trong quản lý sử dụng đất đai, tín dụng, ngân hàng, quản lý vốn và tài sản gây thiệt hại lớn về kinh tế.

…đến trò hài kê khai tài sản

Tại sao Việt Nam luôn xưng danh là một nhà nước pháp quyền, nhưng nạn tham nhũng lại bất trị. Trong dịp trả lời chúng tôi, Luật sư Trần Quốc Thuận, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội từng nhận định về vấn đề này:

Câu chuyện ở Việt Nam là có làm hay không làm và câu chuyện ai chủ trì làm và có làm đến nơi đến chốn hay không. Vấn đề đặt ra là ở đấy, chứ còn văn bản ở Việt Nam không thiếu thứ gì, tất cả những qui định về dân chủ nhân quyền đến phòng chống tham nhũng, chống quan liêu hách dịch rồi đến tiếp dân giải quyết cái này cái khác… không thiếu cái gì qui phạm pháp luật chứa đầy hết nhưng ai thi hành, ai giám sát và có thực hiện đến nơi đến chốn hay không. Đó là một câu chuyện cần phải đặt ra.”

tham-nhung-400

Mặc dù Việt Nam gần 10 năm thực thi Luật phòng chống tham nhũng, nhưng năm 2013 vẫn bị xếp hạng thứ 116 trên 177 quốc gia về tham nhũng trong khu vực công, theo đánh giá của Tổ chức Minh bạch Quốc tế. Photo courtesy of transparency.org

Như vậy sau gần 1 thập niên ban hành Luật phòng chống tham nhũng, mà một trong các công cụ quan trọng của nó là qui định về việc kê khai tài sản bắt buộc, đã tỏ ra không hiệu quả nếu không muốn nói là vô ích.

Được biết cán bộ, công chức từ phó phòng trở lên kể cả đảng viên, sĩ quan từ cấp phó tiểu đoàn trưởng, các giới chức điều hành và thành viên Hội đồng quản trị của doanh nghiệp nhà nước cũng bị bắt buộc kê khai tới 9 khoản về tài sản, bao gồm bất động sản, quyền sử dụng đất cho tới xe cộ từ xe gắn máy, ô tô cho tới tàu thuyền, máy bay, tiền mặt kể cả ngoại tệ, vàng bạc, kim cương tất cả đều phải thành thực khai báo.

Các đối tượng thuộc diện phải kê khai tài sản, mỗi năm phải bổ sung về tổng thu nhập năm trước và cập nhật phần tài sản tăng thêm.

Thế nhưng như Phó Tổng Thanh Tra Chính phủ Trần Đức Lượng trình bày trước Ủy ban Tư pháp Quốc hội, năm 2013 có gần 1 triệu người đã kê khai tài sản thu nhập. Trong số này chỉ có 5 trường hợp phải xác minh tài sản và thu nhập; kết quả sau cùng là chỉ có một trường hợp bị  kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo do kê khai thu nhập không trung thực.

Muốn tiến bộ, phải dân chủ

Quyền cơ bản của công dân như quyền lập hội, quyền biểu tình, quyền tiếp cận thông tin đều có ghi trong tất cả các bản hiến pháp của của nước Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, tuy vậy người dân lại không có những quyền này. Đó cũng là lý do phòng chống tham nhũng ở Việt Nam không hiệu quả.

Không thể nào làm được, tại vì một trận đá bóng mình vừa đá vừa thổi còi. Không thể nào mình tham nhũng lại có thể vạch áo cho người xem mình được.
-GS Nguyễn Thế Hùng

Đáp câu hỏi, nếu Việt Nam kiên định với thể chế một đảng cộng sản toàn trị, thì nhà nước có thể có những giải pháp tốt cho việc phòng chống tham nhũng hay không. Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thế Hùng phát biểu:

“Không thể nào làm được, tại vì một trận đá bóng mình vừa đá vừa thổi còi. Không thể nào mình tham nhũng lại có thể vạch áo cho người xem mình được. Không thể nào được, trong một chế độ tập quyền độc đảng mà nói chuyện chống tham nhũng thì đó là chuyện khôi hài.”

Nếu quan niệm minh bạch tài sản cán bộ, công chức, đảng viên, cụ thể là kê khai tài sản cho những người thuộc diện bắt buộc như một biện pháp phòng chống tham nhũng, thì Việt Nam ít nhất phải có những cải cách một cách tích cực. Quốc hội cần ban hành các Luật về quyền cơ bản của công dân như quyền lập hội, biểu tình, tự do báo chí, trưng cầu dân ý và quyền tiếp cận thông tin… Những quyền này được Hiến pháp qui định nhưng từ nửa thế kỷ qua bị treo không có luật để áp dụng.

Hồi tháng 4/2014 ông Jairo Acuna Alfaro, Cố vấn chính sách của Liên Hiệp Quốc về cải cách hành chính và chống tham nhũng được báo chí Việt Nam trích lời, cụ thể là Lao Động Online, đã góp ý nên rút bớt số người phải kê khai tài sản xuống còn 1.000 người, để có thể quản lý tốt hơn và có đủ khả năng để xác minh các bản kê khai đó. Xin nhắc lại  năm 2013 gần 1 triệu người thuộc diện kê khai tài sản.

Điều quan trọng theo vị chuyên gia Liên Hiệp Quốc là Việt Nam đã đưa ra các qui định rất hời hợt về việc kê khai tài sản và cũng không đưa ra cơ chế cụ thể về việc kê khai tài sản phải tiến hành thế nào.

Theo lời ông Alfaro, việc cán bộ công chức nào không thể giải thích được nguồn thu nhập thì phải coi là tội phạm, Luật Hình sự của Việt Nam nên được bổ sung điều này. Vấn đề sau cùng mà chuyên gia Liên Hiệp Quốc đề cập tới đó là ở Việt Nam có sự cản trở rất lớn vì chưa có hệ thống giám sát hoàn chỉnh và mang tính độc lập.

6 dấu chỉ thời cánh chung

6 dấu chỉ thời cánh chung

Chuacuuthe.com

45

VRNs (18.09.2014)– Sài Gòn-

JANA DUCKETT

Chúng ta nghe nói nhiều tới thời cánh chung, tận thế hoặc Chúa Giêsu giáng lâm. Nhưng rồi nghe mãi hóa nhàm nên chúng ta lại cho là bình thường. Đó là động thái nguy hại cho chính cuộc đời chúng ta. Hãy cảnh giác! Và liệu Kinh Thánh có cảnh báo chúng ta?

Thần học gia Jeff Kinley, tác giả cuốn “As It Was In The Days of Noah: Warnings from Bible Prophecy About the Coming Global Storm” cũng nghĩ vậy. Kinley nói: “Kinh Thánh cho biết rằng Thiên Chúa sẽ có lúc tái lâm để xét xử nhân loại. Nhưng khác với Đại Hồng Thủy, ngày đó sẽ là một sự kiện đơn giản, có thể là một loạt sự kiện xảy ra trên khắp thế giới. Đại Hồng Thủy cho thấy rằng Thiên Chúa kiên nhẫn, nhưng Ngài đặt ra giới hạn chịu đựng. Mặc dù hình phạt hủy hoại dữ dội, nhưng Ngài vẫn xét xử công bình và cho nơi trú ẩn”.

Đối với những người nghi ngờ tính hữu hiệu của Kinh Thánh hoặc không muốn nhìn nhận văn hóa ngày nay, Kinley chia sẻ 6 dấu chỉ và những gợi ý cho thấy thế giới đang đi đến ngày phán xét…

1. KHỦNG HOẢNG KINH TẾ

Qua các phương tiện truyền thông, chúng ta biết nhiều về vấn đề này. Đó là chủ đề nóng về tình trạng kinh tế. Trái khoản quốc gia Hoa Kỳ tiếp tục tăng vọt. Trên khắp thế giới, các nước lớn và nhỏ đều không thỏa mãn nhu cầu nên lún sâu vào hố nợ nần. Cũng như thời ông Nô-ê, người ta phải nhờ vào các nước khác để sinh tồn, và họ phải trở về với Thiên Chúa. Kinh Thánh cho biết: “Nếu dân Ta, dân vốn kêu cầu Danh Ta, mà biết hạ mình xuống khẩn nguyện và tìm kiếm Nhan Ta, từ bỏ những con đường xấu xa mà trở lại, thì Ta, từ trời, Ta sẽ nghe và thứ tha tội lỗi nó và sẽ phục hưng xứ sở của nó” (2 Sbn 7:14).

2. BẠO LỰC và ÁN MẠNG

Kinley nói rằng có một bệnh dịch không thể kiểm soát là thù hận và bạo lực trong thế giới chúng ta, đó là điều hiển nhiên trong các loại tội phạm khủng bố vì thù hận, trong các nhóm tôn giáo, giết người có động lực thúc đẩy, giết những người vô tội và trẻ em trên khắp thế giới – điển hình là những người bị tàn sát dã man tại I-rắc trong những ngày vừa qua (tháng 8-2014). Năm 2011, hơn 1,2 triệu vụ phạm pháp dữ tợn đã xảy ra tại Hoa Kỳ – mỗi năm có 15.000 vụ giết người. Chúa Giêsu đã nói trước: “Thời ông Nô-ê thế nào thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy” (Mt 24:37). Thời ông Nô-ê dầy bạo lực và sự xét xử của Thiên Chúa. Còn hơn là khuyến khích sợ hãi và lo lắng, Kinley động viên các Kitô hữu tìm hiểu các cách thể hiện tiên tri ngày nay và sống đức tin viên mãn là chia sẻ Đức Giêsu Kitô với người khác.

3. TRỘM CƯỚP

Ngày nay, thông tin cá nhân và tài chính không còn an toàn vì các hacker (kẻ cắp dữ liệu). Mối quan ngại này bao gồm cả mật khẩu của điện thư (email passwords), hình ảnh webcam và điện đàm. Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng kẻ trộm cắp không làm gì khác hơn là giết người và cướp của. Chúng ta hiểu thời đại chúng ta theo nghĩa đen, nhưng qua con mắt của Kinh Thánh, kẻ thù đang cố gắng ăn cắp tính đồng nhất hoặc sự nhân dạng của chúng ta (giống như trộm cướp thẻ căn cước). Kinley khuyên các Kitô hữu “sống khôn ngoan và cứu lấy thời đại của chúng ta”.

4. VÔ LUÂN

Thế hệ này mê tình dục quá độ và coi thường tâm linh. Biên độ luân lý hầu như không còn trong văn hóa tự do tình dục, thoải mái chia sẻ các hình ảnh “đen”, kể cả âm thanh và văn bản. Các phương tiện di động (điện thoại, ipod, ipad, iphone,…) và mạng lưới xã hội (facebook, twitter, youtube,…) đầy những thứ độc hại. Kinley nhận xét: “Như trong thời ông Nô-ê, thời đại chúng ta là thế giới ưa tình dục, và ngày nay người ta dùng để bán đủ thứ – từ chiếc kẹo cao-su tới xe hói. Tình dục xuất hiện khắp nơi”.

5. BÁCH HẠI KITÔ GIÁO

Năm 2011, gần 100 triệu Kitô hữu bị bách hại trên khắp thế giới. Năm 2012, con số này tăng gần gấp đôi. Kinley shares that the Bible reaffirms this as Chúa Giêsu nói: “Bấy giờ, người ta sẽ nộp anh em, khiến anh em phải khốn quẫn, và người ta sẽ giết anh em; anh em sẽ bị mọi dân tộc thù ghét vì danh Thầy. Bấy giờ sẽ có nhiều người vấp ngã. Người ta sẽ nộp nhauthù ghét nhau. Sẽ có nhiều ngôn sứ giả xuất hiệnlừa gạt được nhiều người. Vì tội ác gia tăng, nên lòng yêu mến của nhiều người sẽ nguội đi. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 24:9-13).

6. ĐỨC TIN GIẢM SÚT

Thánh Phaolô nói: “Vào những thời cuối cùng, một số người sẽ bỏ đức tin mà theo những thần khí lừa dối và những giáo huấn của ma quỷ; đó là vì trò giả hình của những tên nói dối mà lương tâm như bị thích dấu sắt nung” (1 Tm 4:1-2). Thời đại chúng ta có nhiều niềm tin sai lạc, các triết lý thời đại mới, và các bậc thầy tâm linh. Khi đến ngày tận thế, sẽ có nhiều các tiên tri giả, họ tự xưng là Đức Kitô. Kinley tin rằng việc phục hưng trong Giáo hội là cách mới và không được đề cập trong Kinh Thánh.

VĨ NGÔN: “ĐỪNG SỢ, THIÊN CHÚA LUÔN CHE CHỞ BẠN”

Tác giả Kinley nhắc nhở chúng ta rằng trong thời ông Nô-ê cũng như ngày nay, sự công chính và thánh thiện của Thiên Chúa luôn đứn vững. Khi các Kitô hữu biết trước sự trở lại của Đức Kitô, thì họ cũng phải như ông Nô-ê là biết sống sao cho người khác thấy mà trở về với ơn cứu độ. Hãy sẵn sàng chiến đấu và can đảm như lời Chúa nói với Áp-ram trước khi trở thành Tổ phụ Áp-ra-ham: “Ta là Thiên Chúa Toàn Năng. Ngươi hãy bước đi trước mặt Ta và hãy sống hoàn hảo. Ta sẽ đặt giao ước của Ta giữa Ta với ngươi, và Ta sẽ cho ngươi trở nên đông, thật đông. Ông Áp-ram cúi rạp xuống” (St 17:1-2).

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Beliefnet.com)