11 tuổi đời đi tìm công lý cho cha mẹ

11 tuổi đời đi tìm công lý cho cha mẹ

Hòa Ái, phóng viên RFA
11-11-2014

Ở nhiều nước, việc một em bé 11 tuổi như em bé Cẩm Hiếu ở xã Đường 10, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước vượt hàng ngàn cây số ra Hà Nội đội đơn kêu oan cho cha mẹ ròng rã mấy tháng trời trước cửa công đường chắc chắn sẽ làm lay động lương tri của toàn xã hội. Nhưng ở Việt Nam thì có vẻ như đó chỉ là chuyện vặt bởi cho đến nay vẫn chưa thấy cá nhân nào, tờ báo nào, hội phụ nữ nào, mặt trận tổ quốc nào, hội cựu chiến binh nào… lên tiếng bênh vực, xót thương cho em. Hay là vì dân ta đã chịu quá nhiều đau khổ, hay là vì em chỉ là một dân oan bé nhỏ đến mức không ai nhìn thấy giữa hàng triệu triệu dân oan từ bao nhiêu năm nay mỏi cổ ngóng chờ công lý, hay là vì người Việt đã trở nên độc ác, hoàn toàn vô cảm trước nỗi đau của người khác. 

Bé Ngô Thị Cẩm Hiếu kể: … “ra Hà Nội em ở đó khoảng 3 tháng hè. Xong rồi em lại về đây… Em đi thêm khoảng 1,2 tháng nữa. Đi khiếu kiện ở các cơ quan như Bộ Tư pháp, Cơ quan cảnh sát điều tra và Viện Kiểm sát… Có vài nơi phải đợi lâu lắm người ta mới tiếp cho…”. Tại phiên phúc thẩm thứ 2 mở vào ngày 10 tháng 10 năm 2014, bé Cẩm Hiếu òa khóc trước tòa, kêu oan cho cha mẹ, đặt câu hỏi với tòa rằng: Chú Tư hàng xóm chứng kiến vụ việc xẩy ra mà sao không được mời lên làm nhân chứng? Thế nhưng một vị thẩm phán đã cắt ngang câu hỏi này…

Bộ Tư pháp, Cơ quan cảnh sát điều tra, Viện Kiểm sát hoàn toàn không có một cử chỉ nào, dù nhỏ nhất để giúp đỡ em về mặt tinh thần cũng như vật chất. Những kẻ thực thi pháp luật đã vi phạm luật pháp về quyền trẻ em.

Con người Việt Nam nói chung và giới quan trường nói riêng đang ngày càng trở nên vô cảm – một trạng thái tâm lý, nếu theo lẽ tự nhiên, thì chỉ phổ biến ở loài vật, nhưng đau xót thay, hiện nay nó đang trở nên phổ biến ở con người.

Bauxite Việt Nam

clip_image001

Bé Ngô Thị Cẩm Hiếu chụp trước Toà án huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước trong phiên sơ thẩm ngày 25/2/2014. Photo courtesy of danlambao

Trong số hàng triệu dân oan ở VN hiện nay có không ít nạn nhân là trẻ em. Hòa Ái ghi nhận một trường hợp điển hình về hành trình kêu oan cho cha mẹ của cô bé 11 tuổi, ở Bình Phước, tên Ngô Thị Cẩm Hiếu.

“Hồi lúc ra Hà Nội, em ở đó khoảng 3 tháng hè. Xong rồi em về lại đây. Em đi thêm khoảng 1,2 tháng nữa. Sau đó em ở nhà, mẹ đi còn em không đi nữa. Cũng có nhiều người đi kiện nên khoảng 5,6 người ở cùng 1 nhà trọ. Lúc em đi với mẹ thì không làm gì nhưng khi mẹ đi một mình thì mẹ phải đi rửa chén thuê. Đi khiếu kiện ở các cơ quan như Bộ Tư pháp, cơ quan Cảnh sát Điều tra và Viện Kiểm sát… Có vài nơi phải đợi lâu lắm thì người ta mới tiếp cho. Người ta xem kỹ hồ sơ rồi viết đơn yêu cầu tỉnh Bình Phước điều tra và làm rõ lại vụ việc…Em muốn Tòa án phải điều tra thật kỹ càng, phải xử thật nghiêm minh để những ai làm sai trái trước pháp luật bị pháp luật trừng trị chứ không được bắt oan những người như ba mẹ của em”.

Vừa rồi là câu chuyện kể đi kêu oan và ước vọng của bé Ngô Thị Cẩm Hiếu, 11 tuổi, con của 2 dân oan là ông Ngô Văn Huynh và bà Nguyễn Thị Tâm ở xã Đường 10, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước.

Em muốn Tòa án phải điều tra thật kỹ càng, phải xử thật nghiêm minh để những ai làm sai trái trước pháp luật bị pháp luật trừng trị chứ không được bắt oan những người như ba mẹ của em.

Bé Ngô Thị Cẩm Hiếu

Biến cố xảy đến với gia đình bé Cẩm Hiếu cách nay 4 năm, bắt đầu từ một giao dịch dân sự. Gia đình bị cảnh xiết nợ gây thiệt hại tài sản, bị mất đất trở thành dân oan. Bé Cẩm Hiếu đã cùng mẹ ngược xuôi Nam- Bắc đi khiếu kiện vì cho rằng cơ quan thẩm quyền địa phương giải quyết vụ cưỡng chế bán đấu giá tài sản của gia đình không thỏa đáng. Ông Ngô Văn Huynh, cha bé Cẩm Hiếu bị bắt ngày 4 tháng 7 năm 2013 và mẹ bé Cẩm Hiếu, bà Nguyễn Thị Tâm bị bắt giữ sau chồng 2 tháng vì bị cáo buộc tội đánh cán bộ xã là người thân của chủ nợ. Bí thư Xã đoàn, đảng viên Trần Thị Bích Toàn được chỉ định là người bảo hộ cho bé Cẩm Hiếu. Tuy nhiên, bé Cẩm Hiếu không nhận được bất kỳ sự liên lạc nào từ người bảo hộ do Tòa án Nhân dân huyện Bù Đăng chỉ định mà em phải nương nhờ vào gia đình của người bác họ.

Phiên tòa sơ thẩm TAND huyện Bù Đăng mở hôm 25 tháng 2 năm 2014, kết án ông Huynh và bà Tâm, mỗi người, 5 năm 6 tháng tù giam với tội danh “cố ý gây thương tích” theo khoản 3, Điều 114 Bộ luật Hình sự và bị buộc bồi thường cho nạn nhân, ông Nguyễn Bá Tuyên, số tiền 71 triệu đồng. Cha mẹ của bé Cẩm Hiếu đã phản đối bản án này và làm đơn kháng cáo phúc thẩm.

Phiên tòa phúc thẩm được mở 2 lần. Lần thứ nhất vào ngày 17 tháng 9 năm 2014 nhưng đã hoãn lại do thiếu nhân chứng và nhiều chứng cứ quan trọng chưa được kiểm tra làm rõ. Phiên phúc thẩm thứ hai được mở vào ngày 10 tháng 10 năm 2014, bé Cẩm Hiếu òa khóc trước tòa, kêu oan cho cha mẹ, đặt câu hỏi với tòa rằng “chú Tư-hàng xóm chứng kiến vụ việc xảy ra mà sao không được mời lên làm nhân chứng”.

Thế nhưng, một vị Thẩm phán đã cắt ngang câu hỏi này. Cũng tại phiên tòa phúc thẩm lần 2, ông Ngô Văn Huynh đã nói ông không còn cách nào khác hơn là phải đánh trả lại ông Nguyễn Bá Tuyên khi ông này cầm gậy xông vào đánh vợ con mình. Ông Huynh cũng xin Tòa ở tù thay cho vợ để bà Tâm được về nuôi con. Kết thúc phiên tòa phúc thẩm lần hai là quyết định của Tòa hủy bảm án sơ thẩm ngay lập tức.

Quyền trẻ em ở đâu?

Cuộc sum họp gia đình ngắn ngủi 45 phút đồng hồ của cô bé 11 tuổi với cha mẹ trong khi chờ tòa nghị án và tuyên bố hủy bán án sơ thẩm là niềm hạnh phúc vô bờ bến đối với bé Cẩm Hiếu. Niềm hân hoan và hy vọng sớm gặp lại được cha mẹ của bé Cẩm Hiếu được bày tỏ khi trò chuyện với đài ACTD sau khi gặp cha mẹ ở tòa. Bà Bùi Thị Qui, người đang nuôi dưỡng bé Cẩm Hiếu chia sẻ:

“Hôm nọ thì bảo là bảo lãnh cho ba mẹ cháu ra thì nó mừng từ hôm nọ tới nay. Nếu ở trên giúp đỡ cho cháu thì cháu nó cũng đỡ. Mà chắc gì…tôi sợ là không được”.

Trao đổi về hoàn cảnh gia đình của bé Cẩm Hiếu, Luật sư Nguyễn Văn Hậu, Phó Chủ tịch Hội Luật gia TP. HCM, cho biết bản án sơ thẩm đối với cha mẹ của bé Cẩm Hiếu có vấn đề. Luật sư Hậu phân tích đã có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật và trong quá trình xét xử vụ án, phiên tòa sơ thẩm đã không xem xét kỹ hồ sơ, không điều tra đầy đủ cho nên phiên tòa phúc thẩm có thể hủy hoặc sửa lại bản án. Luật sư Hậu cho biết thêm, trong quá trình hủy hay sửa bản án, tòa có thẩm quyền ra phán quyết thả tự do cho bị cáo do thấy thời gian cách ly không cần thiết. Luật sư Hậu nhấn mạnh, theo Hiến pháp và luật pháp quy định, những người thân trong họ hàng thuộc diện thừa kế thứ nhất của gia đình bé Cẩm Hiếu hoặc Ủy ban Bảo vệ Chăm sóc Trẻ em có thể làm đơn cho cả ông Ngô Văn Huynh và bà Nguyễn Thị Tâm tại ngoại trong khi vụ án xét xử lại từ đầu. Luật sư Hậu nói:

Theo Luật Luật sư thì họ phải bảo vệ công lý, phải giúp cho bị can-bị cáo và bảo đảm quyền tự do, quyền con người của công dân đó, đặc biệt đối với trẻ em vị thành niên.

– Luật sư Nguyễn Văn Hậu

“Họ có quyền yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng tức là Tòa án hoặc Viện Kiểm sát đề nghị với Đoàn Luật sư ở địa phương cử luật sư bào chữa cho trẻ em chỉ định này. Và khi luật sư chỉ định tham gia thì họ phải tận tâm. Theo Luật Luật sư thì họ phải bảo vệ công lý, phải giúp cho bị can-bị cáo và bảo đảm quyền tự do, quyền con người của công dân đó, đặc biệt đối với trẻ em vị thành niên”.

Năm 1941, trong bài thơ “Kêu gọi Thiếu nhi”, Hồ Chủ tịch viết “Trẻ em như búp trên cành/Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan”. Thế nhưng, bé Cẩm Hiếu là một “bé ngoan” khi phải lặn lội hơn trăm cây số thăm nuôi cha mẹ với chút ít thức ăn trong hoàn cảnh không có tiền và giữ kín không cho ai biết cha mẹ bị đi tù dù là tù oan vì sợ thân sinh bị khinh ghét, dèm pha.

Câu chuyện tuổi thơ của cô bé Ngô Thị Cẩm Hiếu, học lớp 6 cũng là câu chuyện của nhiều trẻ em không may mắn ở VN khi gia đình bị rơi vào hoàn cảnh dân oan. Và hành trình đi tìm công lý của các gia đình này vẫn đầy chông gai trước mắt.

H.A

Nguồn: http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/petition-for-parents-when-11-year-old-11112014104215.html

Chấn hưng dân trí: Mỹ dạy học sinh tiểu học cái gì?

Chấn hưng dân trí: Mỹ dạy học sinh tiểu học cái gì?

Chị bạn làm thông dịch viên tình nguyện cho Davis School District, Hạt Salt Lake, tiểu bang Utah. Họ nhờ dịch một bài về “Human Rights” cho học sinh Việt Nam trong Học Khu.

Do chị không có phông chữ Việt nên dịch xong, chị nhờ mình đánh máy lại (bỏ dấu).

Đọc bài học dành cho học sinh tiểu học, mình hết hồn, ngửa cổ lên trời mà than rằng, hèn chi tụi nó dẫy hoài mà chẳng chết.

clip_image002

QUYỀN LÀM NGƯỜI CỦA CHÚNG TA

Tôi có quyền được sung sướng và được đối xử tử tế ở đây,
Có nghĩa là không ai nhạo báng tôi và làm tổn thương tự ái của tôi.

Tôi có quyền là tôi ở đây,
Có nghĩa là không ai được kỳ thị vì màu da của tôi,
Gầy hay mập,
Cao hay thấp,
Trai hay gái,
Hoặc vì cái bề ngoài của tôi.

Tôi có quyền được an toàn ở đây,
Có nghĩa là không ai được đánh tôi,
Đá tôi, đẩy tôi,
nhéo tôi,
làm đau tôi.

Tôi có quyền được nghe và được lắng nghe ở đây,
Có nghĩa là không ai được
La hét,
Quát lên
Hoặc làm ầm ĩ.

Tôi có quyền tìm hiểu về bản thân của tôi ở đây,
Có nghĩa là tôi sẽ được tự do
Phát biểu tình cảm
Và ý kiến của tôi mà không bị gián đoạn hoặc bị trừng phạt.

Tôi có quyền học hỏi theo khả năng của tôi,
Có nghĩa là không ai được gọi tên nhạo báng
Vì cách học hỏi của tôi,
Và với những quyền lợi này,
tôi cũng sẽ áp dụng với những người khác cùng trong phòng học.

___________

Bản tiếng Anh:

Our Human Rights

I have a right to be happy and to be
treated with compassion in this room:
This means that no one
will laugh at me or
hurt my feelings.

I have a right to be myself in this room:
This means that no one will treat me
unfairly because of my skin color,
fat or thin,
tall or short,
boy or girl,
or by the way I look.

I have a right to be safe in this room:
This means that no one will
hit me,
kick me, push me,
pinch me,
or hurt me.

I have a right to hear and be heard in this room:
This means that no one will
yell,
scream,
shout
or make loud noises.

I have a right to learn about myself in this room:
This means that I will be
free to express my feelings
and opinions without being
interrupted or punished.

I have a right to learn according to my own ability:
This means that no one will call
me names because of the way I learn.

With all these rights I have, I give the
same rights to all people in this classroom.

Source: Cummings M (1974), Individual Differences: An Experience in Human Relations for Children
Madison, WI: Madison Public Schools
Adaptation by Julie Cox, Davis School District, Utah

Nguồn: April Nguyen https://www.facebook.com/aprilho.ho.7

VỀ NƠI TĨNH LẶNG

VỀ NƠI TĨNH LẶNG

LM Giuse Hoàng Kim Ton

Bên cạnh cuộc sống ồn ào, vội vã, có người về nơi tĩnh lặng, những vành khăn tang, những tiếng kèn đồng đưa tiễn, những lời kinh chen lẫn tiếng ồn ào của xe cộ, những chiếc máy phát âm thanh, những tiếng rao, cười nói.  Người yên lặng ra đi như gợi lại một lời Chúa bảo các Tông đồ: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6, 31).

Tĩnh tâm: Để tâm hồn thanh thản yên tĩnh không trĩu nặng buồn hay vui, không mê ảo, không xáo động.  Tâm tĩnh là một trạng thái tựa mặt hồ tĩnh lặng soi bóng hàng cây, bầu trời, rõ nét, không lẫn lộn.  Hiệu quả tâm tình luôn là sáng suốt sáng tạo, trong sáng trong suy nghĩ.  Như lời thầm thì, kinh nghiệm của Thánh Phanxicô Assisi trong bài ca mặt trời, nói về tĩnh lặng của tâm hồn để kể về anh mặt trời, chị mặt trăng, anh gió và chị nước, trong đó lời của thiên nhiên tỏ bày những tâm tư sâu kín của cõi lòng con người.  Tĩnh lặng để nói với đóa hoa chưa nở về buổi khai nguyên, về những gì sắp hoàn tất và ngay cả những gì chưa thể hoàn tất.  Trong nội tâm sâu kín của con người cũng mang đầy ước vọng, khi dồi dào, phong phú; khi khô hạn, héo hon; khi vui tươi hoặc cả khi buồn chán.  Yên tĩnh để tiếng nói của Tình Yêu vô tận ngỏ lời, vì trong tiếng nói Tình Yêu ấy sẽ như làn gió mát đuổi cơn nồng, có thể như ngày mới của bình minh chiếu toả.  Sức mạnh không vận dụng từ bên ngoài mà vận dụng tự nội tâm thanh vắng.  Chúa Giêsu nói với các Tông đồ sau khi vui mừng gặt hái kết quả của chuyến loan báo Tin Mừng: “tìm nơi thanh vắng”.

Nơi an nghỉ: Trong tiếng nói yên tĩnh nhất của “chị chết”, mọi người đều không thoát nổi, nhưng “chị chết” cũng cần tập chết đi cho mỗi ngày.  “Hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu” (Rm 6, 11).  Chết, một sự an nghỉ hoàn toàn, không tội lỗi trọng nào, ấy là cái chết đối với tội lỗi.  Vậy “chị chết”, như hạt lúa gieo vào lòng đất, trong mình nó ươm mầm một sự sống, như bình minh sẽ mọc sau đêm tối.  Tĩnh lặng của sự chết không phải là kết thúc mà là một thời gian cần thiết nghỉ ngơi, lấy lại sức lực, đổ rỗng những nặng nề mang lấy gánh nhẹ nhàng.  Kinh nghiệm của tĩnh lặng từ nơi “chị chết” giống như thời gian lặng yên nhìn lại mình trong sám hối, chuẩn bị cho việc đối diện với chính mình bằng việc xưng tội.  Bình minh sẽ lên, chính vì thế, trong bài ca mặt trời của Thánh Phanxicô vẫn liên kết chị chết với anh mặt trời, để không chết trong lần thứ hai là chết trong tội trọng đáng thương, thiếu mất một bình minh.

An tĩnh để kể về tình yêu

Tình yêu như Thánh Phanxicô tường thuật, đó là lời kể của Thiên Chúa thì thầm trong các thụ tạo.  Kể cho đất nghe, chính bàn tay Thiên Chúa đã làm nên, kể cho nắng nghe, Chúa đã làm ra mặt trời, kể cho người nghe, tất cả thụ tạo được trao cho họ…  Ân nghĩa dồi dào từ mẹ thiên nhiên, nếu con người biết yên tĩnh để lắng nghe, sẽ nhận ra vì yêu thương “con người được tạo dựng giống hình ảnh và họa ảnh của Thiên Chúa” (St 1, 27).  Con người được yêu thương để sống yêu thương, con người sẽ không tàn phá thiên nhiên, con người sẽ sống hài hoà với nhau, tôn trọng sự sống của nhau.  Con người an tĩnh sẽ tường thuật tình yêu trong cuộc đời mình, “không thù hận, không oán ghét, không mừng vui vì những bất công, không ích kỷ tìm tư lợi” (x. 1 Cr 13, 4).  Tĩnh lặng để nhận ra lẽ sống của “Kinh Hoà bình”, “chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân.”  Rất nhiều sứ điệp để kể về về tình yêu để con người sống trong thế giới hoà bình.  Tắt đi những chiến tranh, những vũ khí hạng nặng, những thứ giết người hàng loạt, những sự kiện khủng bố, những lời dao búa, những tính chất côn đồ…

Yên tĩnh để suy nghĩ về những điều tuyệt diệu của cuộc sống bằng lời mời gọi “vào nơi tĩnh lặng”, sống tâm tư của tháng mười một, nơi các linh hồn đang an nghỉ và kể về bình an của sự chết trong ánh sáng bình minh.

LM Giuse Hoàng Kim Ton

From: KittyThiênKim & Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Người chứng thứ nhất

Người chứng thứ nhất

Ga 12,24-26

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Một thanh niên 19 tuổi bị tuyên án tử hình mà không được nói một lời để bào chữa mình. Người tuyên án là quan trấn tỉnh Phú Yên. Vào tháng 7 năm 1644 vị quan này từ triều đình nhà vua về, đem theo sắc lệnh cấm đạo và bắt đầu giam một ông già tên rửa tội là Anrê, rồi sai một toán lính đến nhà vị thừa sai Đắc Lộc để bắt thầy giảng số một là Inbaxu. Khi toán lính xông vào nhà tìm thầy Inbaxu thì chỉ gặp người thanh niên Phú Yên là người mà Cha Đắc Lộ đã rửa tội được ba năm và đã từng cho đi theo để giúp dạy giáo lý. Người thanh niên này đã can đảm nhận hết các tội chúng gán cho thầy Inbaxu và các thầy giảng, nên bị chúng trói lại và điệu đi. Anrê Phú Yên vui vẻ theo toán lính và trong suốt quảng đường không ngừng giảng cho những kẻ dẫn mình vào ngục biết đường tránh hỏa ngục hầu hưởng phúc Thiên Đàng.

Nhờ sự can thiệp của cha Đắc Lộ và một số thương gia người Bồ Đào Nha, ông già Anrê được tha bổng, còn Anrê Phú Yên thì không. Người thanh niên cường tráng này dám cương quyết thà chết chẳng thà bỏ đạo nên sẽ phải chết để nêu gương cho mọi người biết vâng lệnh nhà vua. Vậy lính dẫn Anrê Phú Yên tới thửa ruộng cách thành phố chừng nửa dặm. Mặc dầu đeo gông nặng, Anrê đi rất nhanh đến nỗi cha Đắc Lộ theo không kịp. Tới nơi hành quyết, thầy giảng trẻ tuổi Anrê quỳ xuống để chiến đấu cho can đảm hơn. Lính gác chung quanh không cho ai vào phía trong cả, nhưng viên đội trưởng cho phép cha Đắc Lộ được đứng cạnh thầy. Cha thấy rõ mắt thầy Anrê nhìn trời cao, miệng luôn hé mở và kêu danh thánh Giêsu.

Một người lính lấy giáo đâm thầy từ phía lưng, thâu qua ngực chừng hai bàn tay. Khi ấy thầy nhìn cha Đắc Lộ như để vĩnh biệt và cha khuyên thầy nhìn lên trời là nơi thầy sắp được Chúa Giêsu đón vào cõi phúc. Từ giây phút đó thầy chăm chút nhìn lên và không còn nhìn xuống nữa. Người lính rút lưỡi giáo ra đâm phát thứ hai, rồi đến phát thứ ba, hắn cố ý đâm trúng tim anh nhưng vẫn chưa chết. Thấy thế, một người lính khác lấy mã tấu chặt vào cổ anh, anh vẫn chưa xong, phải thêm một nhát thứ hai đầu anh mới lìa khỏi cổ, máu chảy tràn lai làng. Hành quyết xong, toán lính kéo nhau ra bờ sông để rửa các vết máu. Cha Đắc Lộ nhặt đầu anh gói lại kỹ càng như một báu vật, còn xác anh ngài tẩm liệm gởi xuống tàu buôn đưa về Macao chôn cất. Ngài biết đây là một thánh nhân, cần tôn trọng thi thể này để ngàn đời lưu danh. (theo “Người chứng thứ nhất” của Phạm Đình Khiêm).

Anh chị em thân mến,

Mỗi lần nói đến các Thánh Tử Đạo là chúng ta nghĩ ngay đến cảnh ngục tù, gông cùm, gươm giáo, đầu rơi, máu đổ. Thế nhưng, ở thời đại đang tiến dần vào thế kỷ 21, những cảnh hành hình tàn bạo, dã man, cổ điển ngày xưa và việc bắt đạo của các chính quyền hầu như không thể tái diễn. Vì hiến pháp của bất cứ quốc gia nào cũng tôn trọng tự do tín ngưỡng và các quyền cơ bản của con người. Đàng khác, các án tử hình cũng dần dần được loại bỏ trong các bộ luật hình sự của các nước trên thế giới.

Ngày nay, khái niệm về tử đạo hiểu rộng rãi hơn. Người tử đạo là người dám chết cho công lý, cho hòa bình, chết cho quyền sống của con người, nhất là những người nghèo khổ, bị áp bức. Nói chung là chết vì Chính Đạo, chết vì muốn sống theo con đường Tin Mừng của Chúa Giêsu.

Trong Tông Thư “Tiến đến thiên niên kỷ thứ ba”, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II kêu gọi Giáo Hội địa phương lập danh mục các vị tử đạo mới của thế kỷ này. Vì “trong thế kỷ này lại có những người tử đạo, – thường là âm thầm, họ như thể là “những chiến sĩ vô danh” – vì đại cuộc của Thiên Chúa. Giáo Hội không chỉ có những người đổ máu vì Đức Kitô mà còn có những bậc thầy về đức tin, những nhà truyền giáo, những người tuyên xưng đức tin, những giám mục, linh mục, các trinh nữ, những người kết hôn, góa bụa và trẻ em” (số 37).

Tại đất nước chúng ta, giai đoạn lịch sử của 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam được ghi nhận kéo dài đúng 117 năm, với hai vị tử đạo tiên khởi là Thánh Phanxicô Frederic Tế và Matthêu Liciana Dậu, hai linh mục dòng Đa Minh, cùng chịu tử đạo tại Thăng Long, miền Bắc năm 1745. Nhưng trước đó hơn một thế kỷ, đã có máu đào đổ ra để làm chứng cho Chúa Kitô, như thấy nơi cái chết của Thầy giảng Anrê Phú Yên năm 1644 tại miền Trung. Vị Tử đạo cuối cùng trong số 117 là Thánh Phêrô Đa, giáo dân thợ mộc, vừa bị thiêu đốt vừa bị chém đầu ngày 17 tháng 6 năm 1862 tại Qua Linh, miền Bắc. Cuối năm 1861 đầu năm 1862, cuộc cấm đạo trước khi chấm dứt còn bùng lên dữ dội ở miền Nam. Chỉ ở hai nơi là Biên Hòa và Bà Rịa, 846 Kitô hữu đã bị thiêu sống. Vậy trong ngày lễ kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta không những kính 117 vị đã được tôn phong hiển thánh nhưng còn tỏ lòng biết ơn hàng trăm người đã hy sinh tính mạng vì Chúa Kitô và đã có công truyền lại đức tin cho chúng ta là con cháu.

Nhưng trước hết và trên hết, chúng ta cần tỏ lòng biết ơn Đấng là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa đến với loài ngừoi chúng ta. Thiên Chúa đã yêu loài người đến nỗi đã ban Con Một Người và Người Con Một ấy trước khi chết vì chúng ta đã quỳ xuống rửa chân cho từng môn đệ. Kế đến Ngài đã dành những lời tâm huyết để nhắn nhủ các môn đệ. Ngài ví bản thân Ngài như hạt lúa mì gieo vào lòng đất, phải chết đi để sinh được nhiều bông hạt lúa mới (x.Ga 12,24). Rồi Ngài dặn dò các môn đệ về cái thế giới chẳng mấy thân thiện đối với cả thầy lẫn trò: Họ ghét anh em vì họ đã ghét Thầy trước.

Chính tình yêu đến hy sinh mạng sống như Chúa Giêsu là cái giá phải trả để trở nên môn đệ đích thực của Chúa Giêsu. Cái giá ấy các môn đệ xưa đã trả bằng cách hy sinh mạng sống mình. Cái giá ấy các Thánh Tử Đạo cũng đã trả để mang lại nhiều hoa trái là nhiều người nhận biết Chúa Kitô để được ơn cứu độ. Đúng như lời vị Giáo Phụ Tertulianô đã nói: “Máu các vị Tử Đạo chính là hạt giống phát sinh các Kitô hữu”.

Thưa anh chị em,

Hội Thánh thời nào cũng cần những người dám sống đức tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời. Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu, không đòi hy sinh mạng sống. Mỗi ngày chúng ta thường vị đặt trước những chọn lựa, trước thập giá của Chúa Giêsu y hệt như các vị Tử Đạo ngày xưa. Càng có tự do, chúng ta càng dễ sa sút đức tin. Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những tạo vật gây ra những bách hại êm ả và khủng khiếp mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện. Ước gì chúng ta không để mất đức tin đã được mua bằng giá máu của bao vị Tử Đạo, và ước gì chúng ta không ngừng chuyển giao đức tin ấy cho anh em đồng bào trên quê hương Việt Nam chúng ta.

From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ Mai gởi

Con đường hạt lúa

Con đường hạt lúa

ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt

Ga 12, 20-32

Khi đến Rôma, tôi thích đi viếng những hang toại đạo. Hang toại đạo là hệ thống đường hầm đào sâu dưới lòng đất tại các khu nghĩa trang ngoại thành Rôma. Những hang hầm dài nhiều cây số. Không phải chỉ một tầng mà đến 3, 4 tầng sâu dưới lòng đất. Không khí trong hang thật lạnh lẽo. Hơi lạnh từ lòng đất toát ra cộng với hơi lạnh từ những nấm mồ càng làm cho khu hầm mộ trở nên lạnh lẽo đáng sợ. Người sống phải đấu tranh với cái chết. Sự chết luôn đe doạ rình rập cướp lấy mạng sống con người. Tại nơi đây, các tín hữu sơ khai đã ẩn trốn những cơn bách hại liên tiếp trong 3 thế kỷ. Có lẽ thánh Phêrô và thánh Phaolô cũng đã từng đi lại sinh hoạt trong những hang này. Người tín hữu sơ khai đã phải sống trong những điều kiện như thế để bảo vệ đức tin của mình.

Nhưng thật kỳ diệu. Các vua chúa của đế quốc Rôma hùng mạnh đã tìm cách tiêu diệt một nhóm người nghèo khổ yếu ớt không một tấc sắt tự vệ. Không phải chĩ bắt bớ trong một chiến dịch ngắn hạn mà là một chủ trương kéo dài suốt 300 năm. Vậy mà các vua chúa qua đi rồi, nhóm người nghèo khổ yếu ớt đó không những chỉ tồn tại mà còn phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Đi dưới lòng hang toại đạo tôi mới thấm thía ý nghĩa của lời Chúa nói: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”. Hạt giống Giáo Hội đã bị chôn chặt dưới 3, 4 tầng đất. Hạt giống đức tin đã bị vùi sâu đến 300 năm. Tất cả các thánh Tông đồ, các tín hữu sơ khai đã bị mục nát. Và các ngài đã làm trổ sinh cả một mùa gặt dồi dào phong phú. Cả châu Âu đã tin theo Chúa.

Nhìn lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, ta cũng thấy có sự tương tự. Khi đạo Chúa mới được truyền vào Việt Nam, lập tức bị các vua chúa phong kiến bắt bớ. Cuộc bắt bớ kéo dài khoảng 300 năm. Đủ mọi hình thức để tiêu diệt đạo. Nào là cấm cách bắt bớ. Nào là đe doạ bạc đãi. Nào là xua đuổi ra khỏi những vùng trù phú phồn vinh. Nào là phân sáp, tức là tách ly cha mẹ, anh chị em trong một gia đình bắt đi sống riêng rẽ trong các gia đình ngoại đạo. Nào là lấy thép nung đỏ khắc chữ “tả đạo” trên má ngưới có đạo. Và nhất là lên án tử hình những người có đạo. Người tín hữu trung thành với đức tin phải trốn chạy chết trên rừng thiêng nước độc. Nếu bị bắt có thể bị chết trong tù. Nếu không cũng bị xử án tử hình. Có đấng bị chém đầu. Có đấng bị trói chân tay vào chân ngựa. Bốn con ngựa kéo về bốn góc xé nát xác vị tử đạo. Có đấng bị kết án cho voi dày. Thê thảm nhất có lẽ là án bá đao. Cứ sau một hồi chiêng trống, đao phủ xẻo một miếng thịt cho đến khi chết.

Dù các vua chúa đã dùng đủ mọi cách tiêu diệt nhóm người bé nhỏ yếu ớt trong 300 năm. Trong 3 thế kỷ đó có khoảng 100 ngàn người chịu chết vì đạo. Nhưng số người tin Chúa ngày càng gia tăng. Từ một nhóm nhỏ người bị bắt bớ, nay số tín hữu tại Việt Nam đã hơn 6 triệu người. Hạt giống đức tin gieo trồng vào quê hương Việt Nam đã bị vùi sâu, đã bị mục nát, và nay đã trổ sinh một mùa gặt phong phú. Một lần nữa chúng ta lại xác tín lời Chúa dạy: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.

Nhìn lại lịch sử, ta càng thêm tin tưởng vào Lời Chúa. Nếu đang gặp khó khă trong đời sống đạo, ta hãy an tâm. Như Đức Giêsu đã chịu gian nan khốn khó, phải chịu bắt bớ, nhục mạ, phải chịu chết tủi hổ trên Thánh giá, các môn đệ con cái Chúa không thể đi con đường nào khác ngoài con đường Thánh giá. Như các bậc tiền nhân xưa đã chịu vất vả khổ cực để xây dựng một Giáo Hội vững mạnh như ngày nay, ta tin tưởng những gian nan khốn khó của ta rồi cũng sẽ trôi qua. Nếu ta biết chịu đựng những đau đớn, khó khăn, vất vả vì Chúa. Nếu ta vẫn trung thành với Chúa, với đức tin qua mọi gian nan thử thách, chắc chắn Chúa sẽ ban cho ta một mùa gặt bọi thu, kết quả phong phú ngoài sức tưởng tượng của ta.

Lạy Các Thánh Tử đạo Việt Nam, xin dạy con noi gương bắt chước các ngài, luôn trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

  1. Khi mới khai sinh Giáo Hội đã bị bách hại trong 3 thế kỷ. Nhưng Giáo Hội vẫn phát triển. Điều này dạy ta điều gì?
  2. Hãy tóm tắt 3 thế kỷ đầu của Giáo Hội Việt Nam.
  3. Muốn đạo Chúa phát triển ta phải làm gì?

From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ Mai gởi

Giao trứng cho ác

Giao trứng cho ác

Nam Nguyên, phóng viên RFA

namnguyen11122014.mp3

MG_0496-622.jpg

Đường lên Đèo Hải Vân, ảnh chụp hôm 6/7/2011.

RFA PHOTO

Dư luận bất bình

Dư luận phản ứng gay gắt về việc chính quyền Thừa Thiên-Huế cấp giấy chứng nhận đầu tư khu nghỉ dưỡng rộng 200 ha cho Công ty Trung Quốc Thế Diệu ở đèo Hải Vân. Đây là một vị trí chiến lược khống chế cả vùng trời vùng núi và vùng biển Đà Nẵng và có thể chia cắt Việt Nam ở vĩ tuyến 16.

Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thế Hùng một công dân Đà Nẵng đồng thời là một nhà hoạt động xã hội dân sự đã nhanh chóng phản ứng:

“Cũng như bạn bè và học trò, chúng tôi vô cùng sửng sốt không hiểu tại sao chính quyền Thừa Thiên Huế lại làm việc này. Chúng ta biết là Việt Nam trong quá trình mở rộng về phương Nam thì đèo Hải Vân là một trong những chướng ngại thuở xưa. Trong chiến tranh gần đây cũng thế đèo Hải Vân chia cách đất nước Việt Nam, ở đỉnh cao hiểm trở như thế mà cho người nước ngoài thuê để làm cái này cái kia thì đó là điều không thể nào chấp nhận được. Nói thật là chúng tôi vô cùng sửng sốt về chuyện này.”

” Cũng như bạn bè và học trò, chúng tôi vô cùng sửng sốt không hiểu tại sao chính quyền Thừa Thiên Huế lại làm việc này.
-TS Nguyễn Thế Hùng”

Đây là dự án khu du lịch nghỉ dưỡng quốc tế World Shine-Huế do doanh nghiệp Trung Quốc làm chủ đầu tư với tổng vốn 250 triệu USD. Người Trung Quốc được phép sử dụng diện tích 200 ha tại khu vực mũi Cửa khẻm, nơi núi Hải Vân đâm ra biển. Tại đây nhà đầu tư Trung Quốc sẽ xây dựng khu nghỉ mát tiêu chuẩn 5 sao với 450 phòng, một trung tâm hội nghị quốc tế 2.000 chỗ ngồi, khu nhà nghỉ dưỡng năm tầng với 220 căn hộ cao cấp, 350 biệt thự và khu du lịch, nhà hàng bãi tắm. Dự án này được triển khai theo ba giai đoạn từ 2013 đến 2023 trên thực tế đã bắt đầu xây dựng một số hạng mục và cơ sở hạ tầng.

Tuy vậy Ủy ban Nhân dân TP. Đà Nẵng vừa kiến nghị Chính phủ rút giấy phép đầu tư mà Tỉnh Thừa Thiên-Huế đã cấp cho Công ty Thế Diệu của Trung Quốc. Lý do Chính quyền Đà Nẵng đưa ra là dự án nằm ở vị trí trọng yếu về an ninh quốc phòng. Hơn nữa về nguyên tắc dự án này có một vùng chồng lấn trong khu vực chưa thống nhất về địa giới hành chính giữa Thừa Thiên Huế và Đà Nẵng.

Đối với sự kiện một dự án trải rộng 200 ha nằm ở khu vực có vị trí chiến lược lại nằm trong tay nước ngoài đặc biệt là Trung Quốc. Thiếu tướng hồi hưu Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc từ Hà Nội phát biểu với Đài Á Châu Tự Do:

“Những chỗ tốt đẹp có vị trí chiến lược lại cứ bán cứ để cho Trung Quốc làm dự án trong khi mình có thể làm được, Như thế là các anh ấy không suy nghĩ và chỉ thấy có tiền thôi. Tôi cho là chỉ thấy có tiền, nhiều tỉnh cũng thế thôi nghĩa là chỉ thấy có tiền mà không thấy cái nguy hiểm cho đất nước.”

Vị trí yết hầu có thể chia cắt đất nước

Đại tá Thái Thanh Hùng, nguyên chỉ huy phó Bộ chỉ huy quân sự TP. Đà Nẵng, đương kim Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Đà Nẵng được báo điện tử Infonet trích lời nói rằng: “Dự án Trung Quốc trên đèo Hải Vân nằm ở vị trí yết hầu có thể chia cắt đất nước. Nắm vị trí đó là nắm cả vùng trời, vùng núi, vùng biển khu vực phòng thủ Đà Nẵng.”

MG_0498-400.jpg

Cửa Hầm Hải Vân phía nam, ảnh chụp 6/7/2011. RFA PHOTO.

Là một nhà quân sự Đại tá Thái Thanh Hùng nhấn mạnh rằng, đây là vị trí chiến lược, là địa bàn trọng điểm. Ở miền Trung thì khu vực đèo Hải Vân ai cũng biết cả…Nếu xảy ra chiến tranh, nơi này bị chiếm thì đất nước bị chia cắt liền. Do nó đặc biệt quan trọng như vậy nên Đại tá Thái Thanh Hùng cho là không nên cho nước ngoài đầu tư vào khu vực đó.

Vẫn theo Infonet và Đại tá Thái Thanh Hùng, vị trí Thừa Thiên-Huế cấp phép cho phía Trung Quốc xây dựng khu du lịch lại nằm ngay mũi Cửa Khẻm, nơi núi Hải Vân đâm ra biển và coi như bao trùm cả hòn Sơn Trà con cách đó không xa. Khu vực này chính là “yết hầu” của vịnh Đà Nẵng với núi Hải Vân và bán đảo Sơn Trà tọa thành hình cánh cung trấn giữ phía Bắc và phía Đông Bắc. Trong khi vịnh Đà Nẵng là một trong những khu vực vô cùng trọng yếu trên dọc tuyến biển Việt Nam.

Dự án khu nghỉ dưỡng trên đèo Hải Vân với chủ đầu tư là là doanh nghiệp Trung Quốc gây ra mối lo ngại về an ninh quốc phòng, là sự kiện mới nhất về việc các tỉnh trao nhiều đặc quyền cho nhà đầu tư Trung Quốc trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Thiếu tướng hồi hưu Nguyễn Trọng Vĩnh nối kết các sự kiện liên quan đến nhiều dự án ở những vị trí trọng yếu được trao cho nhà đầu tư Trung Quốc. Ông nói:

” Những người lãnh đạo chỉ huy các tỉnh chỉ thấy tiền mà không thấy nguy hiểm cho đất nước, những người ấy vô hình chung tạo điều kiện để mất nước.
-Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh”

“Hà Tĩnh là cái yết hầu của miền Trung và hơn nữa nó xây dựng thành một thứ căn cứ, ở trong đó phức tạp lắm chứ không phải chỉ đơn giản là chỗ luyện thép đâu. Hay Cảng Đông Hà cũng vậy thôi cũng là một chỗ quan trọng cũng là bán cho nó, cho nó thuê nó có thể làm thành căn cứ quân sự, rồi từ Kỳ Anh vào tới chân đèo Ngang cũng thế thôi cũng lại cho nó thuê, phía biển nó làm gì ngoài ấy cũng không biết. Những người lãnh đạo chỉ huy các tỉnh chỉ thấy tiền mà không thấy nguy hiểm cho đất nước, những người ấy vô hình chung tạo điều kiện để mất nước, dù là không có ý thức đi nữa thì cũng là tạo điều kiện để cho Trung Quốc nó chiếm nước mình.”

Chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành hiện làm việc ở Hà Nội từng báo động về việc các nhà đầu tư Trung Quốc, lợi dụng chính sách của Việt Nam đã thuê dài hạn nhiều khu vực dọc theo biên giới phía Bắc giáp Trung Quốc để trồng và khai thác lâm sản, đặc biệt là các dự án ở Vũng Áng Hà Tĩnh mang vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng. Ông Bùi Kiến Thành nhận định:

“Vùng Vũng Áng Hà Tĩnh đối diện gần với Hải Nam, nếu ngày nào Trung Quốc xây dựng Cảng Vũng Áng mà Hải Nam chĩa ngay qua  Vũng Áng thì có thể nói Vịnh Bắc Bộ biến thành một cái ao hồ của Trung Quốc và nó ngăn cản sự vận chuyển giao thông hàng hải của Việt Nam từ Bắc vào Nam thì sẽ ra sao. Ngoài ra nó có những nguy cơ về quốc phòng từ cảng Vũng Áng đi qua Lào chỉ 50 km thôi. Như vậy nếu có chuyện thì làm sao phòng thủ, Trung Quốc từ bên Lào đi xe ô tô qua Vũng Áng chạy ô tô vài tiếng đồng hồ là cắt đôi Việt Nam ra làm hai khúc.”

Không hiểu Chính phủ Việt Nam từ Trung ương xuống địa phương nhận thức thế nào về hiểm họa quốc phòng, khi bất chấp ý kiến của giới nhân sĩ trí thức cựu sĩ quan cao cấp, kể cả chiến lược gia quân sự Võ Nguyên Giáp khi còn sống, cũng gởi thư cho Trung ương Đảng và lãnh đạo nhà nước để cảnh báo về việc không thể cho thuê đất ở các vị trí chiến lược.

Dự án Khu nghỉ dưỡng quốc tế World Shine ở mũi Khẻm núi Hải Vân, nơi chia cách Thừa Thiên-Huế và Đà Nẵng, chỉ là một mắt xích mới nhất trong chuỗi vị trí chiến lược trọng yếu về an ninh quốc phòng đã và đang được trao vào tay nhà đầu tư Trung Quốc.

Hồng y Tauran: Hệ thống Cộng Sản không hoạt động hiệu quả nữa và nó sẽ phải sụp đổ

Hồng y Tauran: Hệ thống Cộng Sản không hoạt động hiệu quả nữa và nó sẽ phải sụp đổ

Chuacuuthe.com

VRNs (13.11.2014) – Sài Gòn –theo  zenit- Hồng y Jean Louis Tauran, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về Đối thoại liên tôn, vào ngày 9 tháng 11 vừa qua, nhân kỷ niệm 25 năm ngày bức tường Berlin sụp đổ đã dành cho hãng tin Zenit một cuộc phỏng vấn.

Ngài chia sẻ ký ức về sự kiện đó như sau:

ZENIT: Ngài đã ở đâu và Ngài nhận tin sụp đổ của bức tường Berlin như thế nào?

Hồng y Tauran: Năm đó tôi làm thư ký dưới quyền của Quốc vụ khanh Tòa Thánh; Tôi đã ở vị trí đó từ năm 1988 đến năm 1990. Tôi đang nghỉ hè tại quê nhà ở Bordeaux. Tôi nhớ những gì Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói rằng: mọi người đều biết hệ thống Cộng Sản không hoạt động hiệu quả nữa và nó sẽ phải sụp đổ; tuy nhiên, không ai nghĩ hoặc có thể dự đoán rằng nó sụp đổ quá nhanh mà không cần đổ máu. Khi Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đắc cử, tôi đã nói: “Cộng sản sẽ bị tiêu diệt”

ZENIT: Những ai ra lệnh ám sát Giáo hoàng Gioan Phao lô II chắc đã ước mong tránh được sự sụp đổ của chế độ Sô Viết.

Hồng y Tauran: Điều đó không biết được, mặc dù thông điệp rất rõ ràng: Ngài là vị Giáo hoàng gây ảnh hưởng với tốc độ lan đi nhanh chóng.

Tôi luôn nói rằng điều đó đã được chuẩn bị bởi 3 việc: 1. tiến trình Helsinki đã tạo ra một triết lý mới trong mối quan hệ; 2. với sự ra đời hiệp định Final Act năm 1975; 3. Tổng thống Gorbachew và Giáo hoàng Giao Phaolô II, hai nhân vật gây ảnh hưởng đã gặp gỡ nhau.

ZENIT: Còn chính sách Ostpolitik của Vatican thì sao?

Hồng y Tauran: Chính sách đó làm cho Giáo hội im lặng không dám lên tiếng nói. Mãi cho đến khi Giám mục Krakow đắc cử Giáo Hoàng, sự im lặng mới được khắc phục…

ZENIT: Làm sao GH Gioan Phaolô II biết được điều này?

Hồng y Tauran: Ngài biết được điều này nhờ phương tiện truyền thông; thêm nữa, lúc đó có các Giám mục lưu động, như giám mục Luigi Poggi, đặc biệt phụ trách trong mối quan hệ với Ba Lan, Hungari, Tiệp Khắc, Rumani và Bungari.

ZENIT: GH Gioan Phaolô II đã làm gì khi Ngài nhận được tin?

Hồng y tauran: Ngài chắc chắn đã cầu nguyện. Tôi cũng nhớ rằng khi chuyến viếng thăm của Gorbachew được thông báo, Gioan Phaolô II đã chuẩn bị cả tháng trước đó, hằng ngày Ngài đọc một trang Tin Mừng bằng tiếng Nga. Cuộc gặp mặt giữa hai người không cần thông dịch vì họ hiểu nhau; Ngài nói tiếng Ba Lan và Gorbachew nói tiếng Nga.

ZENIT: Bức Màn Sắt dạy chúng ta điều gì?

Hồng y Tauran: Rằng con người không thể chia rẽ lẫn nhau, chúng ta được tạo ra để sống cùng nhau trong tôn trọng con người và văn hóa của nhau.

ZENIT: Có phải cộng sản rất sợ Kitô hữu Phương tây hơn cả chúng ta sợ Hồi giáo cực đoan ngày nay không?

Hồng y tauran: Phải. Nhưng mỗi nỗi sợ hãi có nét riêng của nó. Nói về châu Âu, tất cả các quốc gia ở Đông Âu có một di sản chung: Thiên chúa giáo. Theo lẽ tự nhiên, một ngày nào đó những đất nước này sẽ chọn nguồn gốc chung của họ.

ZENIT: GH Gioan Phao lô II đã đến Ba Lan lần 2 trong thời gian luật thống chế. Ngài đã ảnh hưởng đến việc đó như thế nào?

Hồng y Tauran: Tôi không có mặt trong chuyến đi đó, nhưng tại Đông Đức, mọi thứ bắt đầu từ các nhà thờ Chính thống giáo, người ta đốt nến diễu hành đến bức tường Berlin yêu cầu tự do. Mọi thứ diễn ra quá nhanh mà không cần đổ máu; hệ thống bị bỏ trống từ bên trong. Và sau đó vào năm 1987 hoặc 1988, khi tôi đang ở Vienna thương thuyết một hội nghị hợp tác, đó là vào tháng 5, trang Sự Thật phỏng vấn vị trưởng Giáo hội chính thống Pimen cùng với hình của ông, với niềm tin, là Kitô hữu gốc Nga, vì thế có gì đó đang chuyển động.

ZENIT: Dân tộc phương Đông cảm nhận Giáo Hoàng Balan như thế nào?

Hồng y tauran: Họ có cảm giác an tâm. Họ biết rằng, Ngài biết Giáo hội từ bên trong; Ngài không phải nhà ngoại giao mà là người lãnh đạo tôn giáo. Họ biết rằng Ngài đại diện cho tiếng nói của tất cả mọi người. Giáo hội không còn im lặng nữa.

ZENIT: Giá trị đạo đức của câu chuyện này là gì?

Hồng y Tauran: Cuối cùng, Sự thật luôn luôn chiến thắng.

Pv. VRNs

Bốn chữ ‘không’ tồi tệ trong giao thông ở Việt Nam

Bốn chữ ‘không’ tồi tệ trong giao thông ở Việt Nam

Nguoi-viet.com

TỔNG HỢP (NV) – Giao thông ở Việt Nam ngày càng tồi tệ không chỉ do nhà cầm quyền tham nhũng, yếu kém, mà còn do văn hóa giao thông “4 không” mất căn bản của người dân…

Phân luồng như thế này không kẹt xe mới là chuyện lạ. (Hình: Tuổi Trẻ)

Với tinh thần “Tưởng nhớ người đi – vì người ở lại,” ngày 9 tháng 11, hàng ngàn người đến dự đại lễ cầu siêu tưởng niệm những người chết bởi tai nạn giao thông được tổ chức tại Sài Gòn.

Đây là đại lễ bày tỏ niềm thương xót những người không may thiệt mạng, đồng thời chia sẻ đau thương, mất mát với những gia đình nạn nhân.

Chuyện giao thông ở các đô thị lớn của Việt Nam hiện nay càng nói, càng bàn, càng rối càng không hiểu nổi.

Gạt bỏ những thứ chung chung, cứ nói đến giao thông là nói đến văn hóa giao thông. Mà văn hóa giao thông cụ thể là gỉ?

Với người dân, chuyện về văn hóa giao thông là 4 chữ “không”: không sợ; không nhường; không xếp hàng và không biết ngại.

“Không sợ” là vấn đề nhận thức. Không sợ nên chạy xe bạt mạng, lạng lách, băng qua đầu xe, quay đầu đột ngột, sang đường bất chợt, uống rượu lái xe…

“Không nhường” là vấn đề thái độ ứng xử. Đường của chung, mạnh ai nấy cứ lấn tới, thấy chỗ nào trống cũng cố dí đầu xe vào dù chỉ để hơn nửa bánh xe, rồi đè đầu xe người khác mà chạy, bất kể lịch sự, bất chấp văn minh.

Không nhường kết hợp với cái “không sợ,” thế là sẵn sàng dí đầu xe gắn máy của mình vào ngay trước đầu xe hơi.

“Không xếp hàng” là vấn đề về hành vi. Việc này diễn ra từ nhà ra phố nên người Việt khi ra đường sẵn sàng tìm cách lấn làn, chèn đầu xe người khác khi chờ đèn đỏ đã trở nên phổ biến. Xe sau chèn xe trước, kiểu cài thế răng lược ở các nút giao thông và rồi kẹt xe. Đường hẹp cũng kẹt mà đường rộng cũng thông.

“Không biết ngại” là vấn đề đạo đức. Trời mưa cứ lao xe vào vũng nước với tốc độ cao, nước bẩn văng tung tóe, ai trúng ráng chịu. Chèn đầu xe lấn làn gây kẹt cho cả đám người, ai nhắc thì quay ra sửng cồ, to tiếng. Đường là của thiên hạ, nên cứ thế mà tạt nước, mà vứt rác… Hành vi sai đã đáng phê, biểu hiện đạo đức còn đáng trách hơn nhiều.

Còn với nhà cầm quyền thì sao? Cũng là chuyện về 4 chữ “không”: không khoa học; không nhất quán; không nghiêm và không đàng hoàng.

“Không khoa học” thì đã rõ, chỉ cần xem cách bố trí đèn giao thông ở Việt Nam cũng đủ biết. Đèn xanh, hai dòng xe ngược chiều cùng xông tới, các làn xe rẽ trái, rẽ phải, đi thẳng cùng nhận lệnh xung phong. Xe nọ đè đầu xe kia, cài qua cài lại đến hết lượt đèn chỉ đi được vài chiếc.

Trong tình cảnh đó, người tham gia giao thông sẵn sàng chơi trò liều mạng không sợ hoặc láu cá bằng mọi cách để qua được nút đèn nhanh nhất. Thế là đè đầu xe người khác để vượt đèn, rồi thì người này chạy xe đàng hoàng nhưng bị kẻ chạy xe ít đàng hoàng hơn chửi…

“Không nhất quán” lại càng rõ. Mỗi chuyện đèn đỏ quẹo phải mà chỗ được phép, chỗ không; lúc được phép lúc không; giờ cao điểm được giờ bình thường thì không. Vậy nên dân tình đi xe quen chơi trò hên xui, còn lực lượng làm nhiệm vụ thì tùy cơ hội thuận tiện mà thổi còi “làm luật.”

“Không nghiêm” là vì muốn nghiêm cũng không nghiêm nổi. Lúc cao điểm là lúc cần người dân tuân thủ luật lệ nhất, thì lại là lúc gần như người dân được phép lấn làn xe, rướn đèn, chạy ngược chiều…vì cảnh sát giao thông kẹt nhiệm vụ điều khiển, không thể phạt nổi. Thậm chí, có trường hợp người đi đường còn chủ động chỉ cho người chạy xe đi trái luật.

“Không đàng hoàng” là chuyện đạo đức của những người thực thi công vụ. Núp và canh bắt những lỗi sơ suất không đáng của người đi đường để làm luật, trong khi những lỗi nghiêm trọng thì lại hầu như không bắt được. (Tr.N)

ĐTC: cá nhân chủ nghĩa sẽ không bao giờ đạt được hòa bình và công lý

ĐTC: cá nhân chủ nghĩa sẽ không bao giờ đạt được hòa bình và công lý

Chuacuuthe.com

VRNs (12.11.2014) -theo zenit- Trong một bức thư ký ngày 06.11 vừa gửi đến Thủ tướng Australia, ông Tony Abbott, Đức Thánh Cha Phanxicô cảnh giác rằng một “suy nghĩ mang tính cá nhân chủ nghĩa kết cục sẽ bị sa thải và không bao giờ đạt được công lý và hòa bình.”

0

Lá thư vừa được gửi đi nhân dịp hội nghị thượng đỉnh G20 sắp tới, sẽ diễn ra vào cuối tuần này tại Brisbane, Australia. Đức Thánh Cha nói rằng cuộc họp sẽ mang đến một cơ hội cho cả thế giới để “góp phần đáng kể cho Châu Đại Dương trong việc quản lý giao thương trên thế giới.”

Đức Thánh Cha nói rằng cuộc họp sắp tới diễn ra vào thời điểm quyết định khi đòi hỏi của công ăn việc làm cần phải được đáp ứng bằng cách đánh thuế công bằng và minh bạch trong lĩnh vực tài chính. Ngài cũng kêu gọi người đứng đầu nhà nước và chính phủ “đừng quên rằng đằng sau các cuộc thảo luận chính trị sẽ có những mảnh đời bị đe dọa.”

Đức Thánh Cha đã viết trong bức thư như sau: “Các nước G20 thừa nhận rằng, trên khắp thế giới, còn có quá nhiều trẻ em bị suy dinh dưỡng nghiêm trọng; gia tăng số lượng người thất nghiệp; một tỷ lệ rất cao của những người trẻ không có việc làm và tệ nạn xã ​​hội gia tăng có thể dẫn đến nguy cơ phạm tội và thậm chí những kẻ khủng bố còn thông báo tuyển dụng người.”

“Ngoài ra, môi trường tự nhiên bị tấn công do hậu quả của chủ nghĩa tiêu thụ không vô độ, và điều này sẽ gây nên tình trạng đáng lo ngại cho nền kinh tế thế giới.”

Khi nhận đình về tình hình hiện tại của an ninh toàn cầu và hòa bình, đặc biệt là ở Trung Đông, Đức Thánh Cha bày tỏ niềm hy vọng về một sự đồng thuận có thể khơi lên ở đây. Ngài cũng kêu gọi một sự thỏa thuận rộng lớn hơn nữa giữa các quốc gia, thông qua hệ thống pháp lý của Liên Hợp Quốc, để chấm dứt việc xâm lược, bách hại các tôn giáo và dân tộc thiểu số.

Về thỏa thuận này, ngài viết: “nên loại bỏ hẳn tận gốc rễ các nguyên nhân đưa đến chủ nghĩa khủng bố, mà cho đến nay nó đã bành trướng không thể tưởng tượng nổi. Chủ nghĩa này đã gây nên bao nghèo đói, kém phát triển và loại trừ.”

ĐTC cũng nói rằng cần phát triển giáo dục và tôn giáo không thể sử dụng để biện minh cho hành vi bạo lực.

Ngài viết như sau: “Tình hình ở Trung Đông đã khơi lên một cuộc tranh luận về trách nhiệm của cộng đồng quốc tế trong việc bảo vệ các cá nhân và các dân tộc thiểu số. Các hành vi bạo lực này tấn công vào nhân quyền và bất chấp pháp luật.”

“Cộng đồng quốc tế, và đặc biệt là các nước thành viên G20, nên đưa ra suy nghĩ về việc cần thiết phải bảo vệ công dân của tất cả các nước tránh mọi hình thức xâm lược.”

Đức Thánh Cha cũng đề cập đến điều gọi là “lạm dụng trong hệ thống tài chính” đã dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Ngài cảnh báo chủ nghĩa cá nhân sẽ làm người ta ném đi mọi thứ, “sẽ không bao giờ đạt được hòa bình và công lý.”

ĐTC khẳng định: “Trách nhiệm đối với người nghèo và bị áp bức phải là một yếu tố thiết yếu của bất kỳ quyết định chính trị nào, cho dù ở cấp quốc gia hay toàn cầu”.

Kết thúc lá thư, ĐTC bày tỏ sự đánh giá cao đối với công việc của Thủ tướng Abbot và chuyển lời  “cầu nguyện khích lệ” của ngài đến các tham dự viên Hội nghị thượng đỉnh G20.

Hoàng Minh

Dân Việt làm gì có quyền bầu cử

Dân Việt làm gì có quyền bầu cử

Hoàng Long Gửi tới BBC từ Hà Nội

Ông Nguyễn Minh Thuyết trong buổi tọa đàm trực tuyến qua Hangouts-on-Air của BBC Tiếng Việt nói: “Nếu hỏi vì sao chúng ta lại có một Quốc hội mà người dân không hài lòng như vậy, thì tôi cho là chính người dân cũng phải tự trách mình.”

Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết mới đây cho rằng khi có một Quốc hội mà người dân không hài lòng như vậy thì “chính người dân phải tự trách mình” và nếu “chọn lọc cẩn thận thì lúc ấy mình sẽ có Quốc hội như ý”.

Cảm ơn giáo sư đã thẳng thắn nói rằng Quốc hội bây giờ chưa tốt, nhưng có lẽ giáo sư chưa bao giờ đi thị sát một cách đầy đủ các điểm bỏ phiếu ở địa phương.

“Trò bầu cử”

Người dân bao năm qua vẫn thắc mắc rằng: mình không bầu cho ông này, người xung quanh cũng không ai bầu, vì chẳng ai (trừ số ít người quen họ hàng ứng viên) muốn ông ấy làm thêm nhiệm kỳ nữa, thế mà ông ta vẫn tái đắc cử như thường.

Cũng chỉ thắc mắc đến thế chứ không ai nhọc công mạo hiểm tìm tòi thêm, may mà nhà tôi có người quen được ở trong Ban kiểm phiếu: “Ôi ăn gian lắm em ơi, chỉ những vị trí cấp thấp thì may ra…”.

Thế là từ đó tôi đã biết nguồn gốc của từ “trò bầu cử”.

Ngay cả ở vị trí thấp nhất người dân còn chẳng bầu được thì lấy đâu ra tác động được tới vị trí Đại biểu Quốc hội, và đương nhiên lên đến những lãnh đạo cấp cao nhất thì không có quyền rồi, đến đây thì đã là luật.

“Phổ thông đầu phiếu” và “bầu cử trực tiếp” chỉ là hình thức, mà có cho bầu trực tiếp tất cả các vị trí đi chăng nữa thì cũng không có nhiều ý nghĩa, vì các ứng cử viên đều được cơ cấu sẵn.

Với hình thức bầu cử hiện nay cũng chẳng ai biết các ứng viên đã làm hoặc sẽ làm được những gì, đó là chuyện nội bộ của các quan chức với nhau.

“Đảng phân công”

Các quan chức ở địa phương làm được một thời gian là tìm cách chạy lên Trung ương, nói cách khác là chuyển ra Hà Nội nắm giữ các chức vụ do “Đảng phân công”.

Ví dụ như bí thư hay chủ tịch thì sang làm bộ trưởng hoặc trưởng ban, phó bí thư hay phó chủ tịch thì làm phó ban hay thứ trưởng, miễn là chức tương đương bất chấp vị trí chuyên môn có phù hợp hay không.

Ở Việt Nam ai nghe đến “ngoại giao” là cũng nể lắm, vì thường dân ngoại giao được đi nước ngoài, nói ngoại ngữ như gió… nhưng thực tế có khi người đứng đầu ngành ngoại giao lại mù tịt về ngoại giao và ngoại ngữ.

Tất nhiên cấp dưới phải giỏi các thứ tiếng để đi tháp tùng rồi, những người ấy sẽ lo mọi việc cho lãnh đạo. Nhưng cơ hội cho những người đi lên bằng con đường học hành để nắm những vị trí quan trọng nhất thì không nhiều.

Lý do là việc luân chuyển, đề bạt cán bộ cao cấp cũng không liên quan đến thành tích tại nơi làm việc ban đầu. Lãnh đạo của những tỉnh yếu kém bậc nhất vẫn ra Trung ương, nắm giữ những vị trí chóp bu phải là họ, phải là “Đảng phân công”.

Có nhiều người rất giỏi làm ở một cơ quan cả đời chẳng lên được sếp; trong khi có những anh khôn ngoan hơn, tìm cách chuyển sang nơi ít danh giá nhưng ở đó có thể lên làm lãnh đạo rồi cuối cùng lại được “luân chuyển” về làm sếp của cơ quan cũ mà ngày xưa mình chẳng là gì cả.

Rõ ràng năng lực chỉ là chuyện nhỏ, “không thoái thác nhiệm vụ Đảng phân công” mới là chuyện lớn.

Người dân không quan tâm đến bầu cử?

Khi mà người dân đứng ngoài gần như mọi cuộc bầu cử, tại sao họ phải quan tâm đến những cuộc “bầu bán”? Bầu cho ai mà chẳng thế, rồi đâu lại vào đấy cả thôi.

Còn về chuyện nhà nước có mở rộng quyền ứng cử và bầu cử cho người dân hay không, đừng hy vọng hão!

Bầu cử “khép kín” hiện tại là một trong những điều kiện để duy trì quyền lực, bởi nếu dân chúng được tự do bầu cử, họ sẽ không ngại ngần mà chọn con đường khác cho đất nước.

Đến lúc ấy thì người dân chắc chắc sẽ quan tâm đến bầu cử lắm.

Người ta sẽ thấy không phải dân Việt Nam “không quan tâm đến chính trị” đâu, họ không được phép quan tâm thì đúng hơn.

Lãnh đạo là người ra những chính sách tác động trực tiếp đến cuộc sống hàng ngày của họ thì làm sao mà không quan tâm cho được.

Đến kỳ bầu cử người ta sẽ nô nức đi bỏ phiếu và bàn tán xôn xao xem nên bỏ cho ai – điều không thấy ở xã hội hiện tại (có chăng là bàn tán ông nào sẽ mất chức, ông nào sẽ “lên” theo một kết quả nội bộ có thể biết trước từ nhiều tháng).

NGƯỜI VIỆT DỄ GHÉT

NGƯỜI VIỆT DỄ GHÉT

Từ trước đến nay, một cách công khai, trên sách báo cũng như trên các diễn đàn, hình như ai cũng nói người Việt…đáng yêu. Đó cũng là nhan đề cuốn sách do Doãn Quốc Sỹ viết và xuất bản tại Sài Gòn trước năm 1975. Xuất phát từ một lập trường và động cơ chính trị hoàn toàn ngược lại với Doãn Quốc Sỹ, Vũ Hạnh, giả danh một người Ý (Pazzi), cũng vội vã viết cuốn “Người Việt cao quý”, trong đó, nội dung chính của khái niệm “cao quý” cũng là…sự đáng yêu.

Mà không phải chỉ có người Việt Nam mới nói thế. Tôi có khá nhiều sinh viên Úc hoặc người các nước khác thường đi Việt Nam. Nhiều người không ngớt khen là người Việt Nam đáng yêu. Cách đây mấy năm, có một sinh viên người Na Uy sang Úc du học. Trên đường từ Na Uy sang Úc, anh ghé Việt Nam chơi hai tuần. Lý do ghé Việt Nam chỉ có tính chất thực dụng: vật giá rẻ. Vậy thôi. Nhưng hai tuần ở Việt Nam đã làm thay đổi hẳn kế hoạch học tập của anh. Mê Việt Nam trong thời gian hai tuần ấy, sang Úc, anh quyết định chọn Tiếng Việt làm một trong hai môn học chính trong chương trình Cử nhân. Hỏi: Mê nhất ở Việt Nam là điều gì? Anh đáp: Con người. Và nói thêm: “Người Việt rất đáng yêu”.

Cách đây mấy ngày, tôi cũng lại gặp một sinh viên khác, cũng mê Việt Nam như thế. Sau khi học xong trung học, thay vì vào đại học ngay, cô quyết định nghỉ một năm để đi làm và đi du lịch. Sau khi qua nhiều nước, cô ghé Việt Nam. Cũng chỉ là một quyết định tình cờ. Thoạt đầu, định ở vài ba tuần. Nhưng rồi cô lại đâm mê Việt Nam. Bèn quyết định ở lại thêm vài tháng. Trong vài tháng ấy, cô xin dạy học trong một trung tâm sinh ngữ tại Sài Gòn. Cô càng mê hơn nữa. Về lại Úc, cô bèn quyết định học tiếng Việt để sau này có cơ hội quay sang làm việc lâu dài tại Việt Nam. Hỏi lý do, cô cũng đáp như anh sinh viên người Na Uy kể trên: “Người Việt đáng yêu”.

Người Việt đáng yêu như thế nào? Tôi chưa bao giờ có ý định làm một cuộc điều tra thật đàng hoàng về đề tài này. Nhưng từ những gì tôi nghe từ các sinh viên cũng như bạn bè, đồng nghiệp của tôi, những nét đáng yêu nhất của người Việt Nam thường được nêu lên là: vui vẻ, cởi mở và thân thiện.

Tuy nhiên, tất cả những điều kể trên chỉ là một khía cạnh. Có một khía cạnh khác, vì lịch sự, người khác ít nói; và vì tự ái, chúng ta cũng ít khi đề cập: Có vô số người chê người Việt là cục cằn, thô lỗ, ích kỷ, tham lam vặt, hay nói dối vặt, thiếu kỷ luật, thiếu lịch sự, nói chung, là…dễ ghét. Ngay chính những người được xem là “mê” Việt Nam cũng thấy điều đó. Và dĩ nhiên, với tư cách là người Việt Nam, chúng ta cũng thừa biết điều đó.

Thật ra, ở quốc gia nào cũng có những người đáng yêu và những người dễ ghét. Đó là chuyện bình thường. Tuyệt đối không có gì đáng ngạc nhiên cả. Chỉ có vấn đề là: ở những nơi khác, nét đáng yêu và đáng ghét ở con người chủ yếu là do cá tính, hay nói cách khác, do Trời sinh; còn ở Việt Nam, chủ yếu do văn hoá, hay nói cách khác, do xã hội, đặc biệt, do chế độ sinh. Ở những nơi khác, sự phân bố của những người được xem là đáng yêu và những người bị xem là đáng ghét hoàn toàn có tính ngẫu nhiên; ở Việt Nam thì khác: nó có tính quy luật để theo đó, người ta có thể vẽ lên được một “bản đồ” đáng yêu / đáng ghét của người Việt một cách khá chính xác.

Đại khái “bản đồ” ấy như thế này:

Người Việt rất đáng yêu trong quan hệ cá nhân và ở những nơi quan hệ cá nhân đóng vai trò chủ đạo: gia đình, bàn tiệc, quán nhậu, và hàng xóm. Ở những nơi đó, người Việt, nói chung, rất nhiều tình cảm và tình nghĩa. Và cũng ở những nơi đó, ít ai phàn nàn về người Việt.

Nhưng vượt ra ngoài quan hệ cá nhân thì khác. Bước vào không gian công cộng ở Việt Nam, nhất là không gian công cộng thuộc quyền nhà nước, từ uỷ ban nhân dân đến công an phường, quận, thành phố; từ bưu điện đến bệnh viện; từ bàn hải quan đến văn phòng xuất nhập cảnh, v.v…ở đâu người Việt Nam cũng dễ ghét.

Cái dễ ghét ấy có thể được nhìn thấy ngay trên các chuyến bay về Việt Nam: Theo nhận định của nhiều người vốn đi nhiều, ít có tiếp viên hàng không nào dễ ghét như tiếp viên hãng Hàng Không Việt Nam; ít có công an cửa khẩu và nhân viên hải quan nào dễ ghét như những người làm việc tại các sân bay quốc tế tại Việt Nam. Một sinh viên của tôi, người Úc, rất mê Việt Nam, và vì mê Việt Nam, cuối cùng, lấy vợ Việt Nam.

Chính trong thời gian làm đám cưới, phải chạy vạy làm đủ các loại giấy tờ, từ hôn thú đến bảo lãnh vợ sang Úc, anh phờ phạc cả người.

Quay về Úc, anh than: Chưa bao giờ anh thấy nhân viên hành chính ở đâu dễ ghét bằng các nhân viên hành chính ở Việt Nam.

Một người bạn khác của tôi, về Việt Nam thăm thân nhân bị bệnh, phải nằm bệnh viện, than:

Chưa bao giờ thấy bác sĩ và y tá ở đâu lại dễ ghét như ở Việt Nam. Mặt mày ai cũng hầm hầm hay lạnh tanh. Người ta hỏi gì cũng quát, nạt. Họ chỉ dịu giọng được một lát khi nhận tiền lót tay.

Một người bạn khác rất có thiện chí giúp đỡ Việt Nam, nhiều lần tổ chức quyên góp từ quần áo, sách vở đến máy vi tính ở Úc để chuyển về tặng cho người Việt; nhưng sau đó, đâm nản, cuối cùng, bỏ cuộc. Anh nói: “Mình mang quà về giúp, nhưng ở đâu cũng bị làm khó dễ.” Và kết luận: “Người Việt thật dễ ghét!”

Xin lưu ý: những nhân viên các loại và các cấp bị xem là dễ ghét trong công sở ấy có thể trở thành cực kỳ dễ thương với bạn bè, người thân hoặc người quen. Một viên công an mặt mày lúc nào cũng lạnh như tiền và lăm lăm đòi móc túi những người dân đến xin chứng nhận một thứ giấy tờ gì đó có thể là một người cởi mở, hào hiệp và hào phóng khi ngồi vào bàn nhậu với bạn bè. Nhưng trong quan hệ công cộng thì họ lại biến thành một người khác hẳn.

Có thể nói gọn lại thế này: Trong quan hệ cá nhân, người Việt thường đáng yêu; nhưng trong quan hệ công cộng, nhất là ở công sở, người Việt thường rất dễ ghét.

Cũng có thể nói một cách khái quát hơn: ở Việt Nam, cứ hễ có chút quyền lực, bất kể là quyền lực gì, người ta liền biến ngay thành người dễ ghét. Bản tính dễ thương đến mấy cũng thành dễ ghét. Nếu không dễ ghét vì sự hách dịch, quan liêu hay tham lam thì cũng dễ ghét vì sự chậm chạp, cẩu thả, lười biếng và vô trách nhiệm. Bởi vậy, nhiều người nhận xét: Chơi với người Việt thì vui, nhưng làm việc với người Việt thì đúng là một cực hình. Trên bàn nhậu, ai cũng thông minh, biết điều, cởi mở; nhưng quay lại bàn giấy thì người ta lại lề mề, khó khăn, tắc trách, rất ít đáng tin cậy.

Do đó, vấn đề không phải là bản tính mà là văn hoá. Mà văn hoá, nhất là văn hoá hành chính, lại gắn liền với chế độ.

Bạn có nghĩ vậy không?

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi