Luật Báo chí không thực thi tự do báo chí

Luật Báo chí không thực thi tự do báo chí

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-11-14

  • RFA

namnguyen111414.mp3

000_Hkg7508717-600.jpg

Một sạp báo vỉa hè Hà Nội chụp hôm 26/6/2012

AFP photo

Hiến pháp Việt Nam 2013 cũng như các bản hiến pháp trước đó đều bảo đảm người dân có quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận. Nhưng Luật Báo chí ban hành năm 1989 sửa đổi 1999 trên thực tế chỉ là một bộ Luật quản lý hoạt động báo chí vốn dĩ là trực thuộc nhà nước. Luật Báo chí sẽ được sửa đổi vào năm 2015, nhưng thông tin cho thấy Dự Luật này cũng không thực thi quyền tự do báo chí theo Hiến pháp qui định, mà thực tế là để kiểm soát sự xé rào của truyền thông đa phương tiện.

Sửa đổi để kiểm soát?

Đáp câu hỏi phải chăng các nhà báo công dân ở Việt Nam đang tự thực hiện quyền tự do báo chí qua blog, facebook và các mạng xã hội khác. Ông Nguyễn Quốc Thái, nguyên Tổng Thư Ký báo Doanh Nghiệp từ Sài Gòn nhận định:

Ở những thể chế cộng sản nói chung và Việt Nam nói riêng thì chuyện tự do báo chí là một điều cấm kỵ. Tại sao thế, rất nhiều người đồng ý với tôi rằng những thể chế độc tài thì bao giờ cũng sợ sự thật.
-Nhà báo Võ Văn Tạo

“Hiến pháp qui định mọi người công dân được quyền tự do ngôn luận, họ dùng chính phương tiện họ có trong tay để nói điều họ suy nghĩ, họ nhận định về một vấn đề gì đó. Nếu anh lên tiếng cấm cản điều đó… anh biết bây giờ là vấn đề này là vấn đề toàn cầu không còn của riêng quốc gia nào hay của khu vực nữa rồi. Vấn đề là chúng ta nhìn nhận nhau, hiểu nhau, thông cảm nhau, lắng nghe được nhau đó là điều căn bản điều chính. Còn dùng bạo lực để trấn áp thì tôi nghĩ rằng sẽ đưa đến hậu quả không hay.”

Theo báo điện tử VnMedia, Tại Hội nghị tổng kết 15 năm thi hành Luật Báo chí tổ chức ngày 12/11/2014 tại Hà Nội, ông Nguyễn Bắc Son Bộ trưởng Bộ Thông tin Truyền Thông báo động về hiện tượng “tư nhân hóa báo chí”, “thương mại hóa báo chí”. Ông Bộ trưởng nhấn mạnh phát triển báo chí đi đôi với quản lý báo chí và phải thể chế hóa một cách chi tiết và cụ thể quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác báo chí đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước.

Qua lời Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son, có thể hiểu rằng dù Việt Nam không chấp nhận báo chí tư nhân, nhưng Nhà nước hiện nay vẫn không yên tâm đối với hoạt động báo chí truyền thông của chính nhà nước. Việt Nam hiện có 838 cơ quan báo chí, 67 đài phát thanh truyền hình với đội ngũ nhà báo lên tới 40.000 người.

Nhà báo Võ Văn Tạo từng có hơn chục năm làm báo chuyên nghiệp trong hệ thống báo chí nhà nước từ Nha Trang phát biểu:

“Một trong những biểu hiện của tự do báo chí là có báo chí tư nhân, không nói thì nhân dân cũng biết, lực lượng báo chí của nhà nước cũng biết và quốc tế cũng biết. Ở những thể chế cộng sản nói chung và Việt Nam nói riêng thì chuyện tự do báo chí là một điều cấm kỵ. Tại sao thế, rất nhiều người đồng ý với tôi rằng những thể chế độc tài thì bao giờ cũng sợ sự thật.”

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam dự hội nghị tổng kết Luật Báo chí được Báo Xây Dựng và Đời sống Pháp luật trích lời nói rằng, sửa đổi Luật Báo chí lần này phải có tầm nhìn xa vì thế giới đã thay đổi rất nhanh và báo chí là lĩnh vực chịu ảnh hưởng trực tiếp nhất. Ông Đam nhấn mạnh rằng, sự phát triển của công nghệ thời gian qua diễn ra đặc biệt nhanh chóng, do vậy khi xây dựng Luật phải tính được những thay đổi này.

_MG_1652-250.jpg

Một sạp báo ở Saigon. RFA photo

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam tỏ ra có chút phóng khoáng về hoạt động truyền thông. Nếu Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son chỉ đạo phải thể chế hóa vai trò lãnh đạo của Đảng phủ trùm hoạt động truyền thông báo chí và đề phòng tư nhân hóa báo chí, thì ông Vũ Đức Đam quan niệm không nên đóng sập cánh cửa, bịt hết mọi thứ  trong nhu cầu phát triển báo chí chỉ vì một vài biểu hiện tiêu cực. Ông Đam nêu ra ví dụ trong phát triển của Hệ thống Truyền hình Việt Nam VTV có sự liên kết, xã hội hóa một số chương trình cũng như nội dung. Điều này đặt ra yêu cầu mới và theo Phó Thủ tướng khi xây dựng Luật cần tính đến nhu cầu phát triển chính đáng của cơ quan báo chí tương lai.

Những điều Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nêu ra có lẽ là khá mới mẻ đối với các cán bộ phụ trách văn hóa tư tưởng. Xã hội hóa theo cách nói ở Việt Nam ngày nay có nghĩa có sự tham gia của mọi tầng lớp trong xã hội vào một lĩnh vực nào đó và tất nhiên trong trường này hợp được hiểu là có sự tham gia của tư nhân trong hoạt động truyền thông báo chí.

Không thể cấm phương tiện thông tin toàn cầu

Bên cạnh 838 cơ quan báo chí 67 đài phát thanh truyền hình, Việt Nam hiện có 90 báo điện tử, 207 trang thông tin điện tử tổng hợp của các báo in. Mặc dù tất cả các lĩnh vực báo chí dù truyến thống hay đa phương tiện, đa truyền thông đều chịu sự quản lý chặt chẽ của nhà nước. Nhưng rõ ràng Luật Báo chí sửa đổi lần cuối vào năm 1999 chỉ mới đề cập xơ sài về lãnh vực báo chí điện tử đa phương tiện. Dự luật báo chí 2015 được cho là sẽ kiến tạo khung pháp lý chặt chẽ hơn nữa để Nhà nước quản chặt hơn những đứa con của chính mình.

Theo nhà báo Nguyễn Quốc Thái hiện nghỉ hưu ở Sài Gòn, Internet và các ứng dụng tuyệt vời của nó phát triển rất mạnh trong báo chí truyền thông lề phải. Nhưng đồng thời cũng là phương tiện để các nhà báo công dân thực hiện quyền tự do báo chí. Ông nói:

Phương tiện thông tin đa truyền thông không thể cấm được, muốn cấm cũng không được bởi vì đây là phương tiện thông tin toàn cầu. Trên tất cả các hệ thống mạng phổ biến ở Việt Nam cũng như trên thế giới có những mạng nhà nước không thể kiểm soát được.
-Nhà báo Nguyễn Quốc Thái

“Phương tiện thông tin đa truyền thông không thể cấm được, muốn cấm cũng không được bởi vì đây là phương tiện thông tin toàn cầu. Trên tất cả các hệ thống mạng phổ biến ở Việt Nam cũng như trên thế giới có những mạng nhà nước không thể kiểm soát được. Vì thế thông tin trên mạng là chuyện đương nhiên không thể ngăn cản nổi. Ở Việt Nam ngay cả chuyện sử dụng điện thoại di động có nhiều trẻ mục đồng vừa chăn trâu vừa gọi điện thoại di động. Huống hồ là với các phương tiện thông tin đa truyền thông thì làm sao cấm cản được nhất là ở thành thị.”

Tuy nhà nước không thể cấm các trang mạng có máy chủ ở nước ngoài nhưng công an có thể trấn áp bắt giữ những nhà báo công dân đang sống trong nước và truyền tải thông tin lên các trang mạng đó. Một danh sách dài những tên tuổi như  Điếu Cày, Tạ Phong Tần, Phạm Bá Hải, Phạm Viết Đào, Trương Duy Nhất, Lê Quốc Quân, Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh và người cộng sự Nguyễn Thị Minh Thúy là những thí dụ điển hình.

Trả lời Hải Ninh trên TV Online Đài RFA, nhà báo cũng là blogger Đoan Trang một nghiên cứu sinh tại Hoa Kỳ nhận định:

“Cái hay của trang web anh Ba Sàm là anh đã tạo được một cộng đồng gần như một gia đình trên blog của anh ấy. Từ khi anh chưa bị bắt thì trang web của anh ấy liên tục bị tấn công. Rất nhiều đợt tấn công đã xoá bỏ dữ liệu luôn, đóng cả trang luôn. Mỗi lần như vậy bà con độc giả lo lắng lắm. Họ mong chờ anh, họ làm thơ về anh rằng bao giờ anh trở lại chúng đánh anh chết rồi. Mọi người rất quan tâm, quý vị cũng có thể hình dung được là sau khi anh Ba Sàm bị bắt thì nó gây làn sóng cảm xúc như thế nào ở trong cộng đồng blogger việt Nam. Người ta phẫn nộ, người ta lo lắng mà thực sự là cũng có nỗi sợ. Người ta sợ rằng bắt quá dễ, mà bắt chỉ vì việc đã post bài lên mạng hoặc là chỉ vì đã làm chủ cái blog nổi tiếng như vậy mà cũng bị bắt được. Thế thì chúng ta đều là các tù nhân dự khuyết cả.”

Luật Báo chí 1989 được Quốc hội sửa đổi năm 1999 có đoạn mở đầu rất đặc biệt: “Để bảo đảm quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân, phù hợp với lợi ích của Nhà nước và của nhân dân…Luật này qui định chế độ báo chí.” Từ đó đến nay công dân Việt Nam chưa bao giờ có quyền tự do báo chí, cũng không có báo chí tư nhân.

Dự luật Báo chí sửa đổi để thực thi Hiến pháp 2013 đang được góp ý để Quốc Hội xem xét thông qua vào nghị trình 2015. Nếu như Bộ trưởng Thông tin Truyền Thông Nguyễn Bắc Son cương quyết với thể chế hóa sự lãnh đạo toàn diện của Đảng trong hoạt động báo chí do nhà nước quản lý và đề phòng chặt mọi manh nha tư nhân hóa báo chí, thì giấc mơ tự do báo chí ở Việt Nam vẫn còn xa vời vợi.

” Dạo này dân Việt hình như đang “phiêu” với món cao lương mỹ vị của xứ mình: món tự do. Vô mạng, ra mạng, chuột chạy lung tung chỗ nào cũng đụng tự do báo chí. Tình hình “phiêu” đến mức ông phó thủ tướng Vũ Đức Đam đăng đàn diễn thuyết, nói rằng: Không nên đóng sập cửa báo chí, bịt hết mọi thứ trong nhu cầu phát triển báo chí… Quý vị đừng có mà vội hí hửng nhé, “nói zậy mà không phải zậy” đâu nhé. Quý vị đã bao giờ thấy một nước xã hội chủ nghĩa có tự do báo chí chưa? Cu Ba? Bắc Triều Tiên? Trung Quốc? Liên Xô? Đông Đức?… Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Tất nhiên quý vị có thể mơ mộng chút đỉnh nhưng giấc mơ của quý vị chẳng bao giờ biến thành hiện thực nếu…

Việt Nam bao giờ thì có tự do báo chí?

Điều này bạn phải hỏi chính bạn, sau đó hỏi ông Tập Cận Bình rồi hỏi thêm ông Obama. Nhưng mà khí sắc ông Tập nhìn còn “vượng” lắm. Ông mà cứ “vượng” mãi như thế thì thật đáng buồn cho chúng ta. Thời mồ ma ông Tônxtôi, ông Sê khốp, có lần ông Tôn hỏi ông Sê:

– Nhà bác rất am hiểu đàn bà, vậy bác hãy nói cho nhà em nghe đàn bà nó là như thế nào?

Ông Tôn cười tủm tỉm đáp:

– Chú hãy rán sống mà đợi, lúc nào mỗ đây “sắp đi gặp cụ Các Mác”, mỗ sẽ đặt một chân trong quan tài, một chân ngoài quan tài, lúc đó mỗ sẽ cho chú em biết thế nào là đàn bà. Nói xong mỗ nhảy luôn vào quan tài, đóng sập nắp lại. Đến lúc đó đám đàn bà có muốn làm gì mỗ thì cũng chịu.

Bắt chước nhà bác Tôn, nếu quý vị có hỏi xem Đảng ta đối xử với cái vụ tự do báo chí như thế nào, em xin kiếu, đợi khi nào em trăm tuổi một chân đặt trong quan tài, một chân ngoài quan tài, em sẽ nói Đảng ta coi tự do báo chí là cái chi chi. Nói xong, em sẽ đóng nắp quan tài cái rụp.

Bauxite Việt Nam”

Lắng nghe tiếng Chúa

Lắng nghe tiếng Chúa

Chuacuuthe.com

VRNs (16.11.2014) – Sài Gòn – Thiên Chúa luôn nói với bạn, nhưng bạn có lắng nghe và vâng lời Ngài? Thiên Chúa nói với chúng ta bằng cách nào? Đây là 5 cách Ngài nói với chúng ta:

1. Kinh Thánh

Một đoạn Kinh Thánh có thể là câu trả lời mà chúng ta đã tìm kiếm từ lâu. Câu Kinh Thánh đó khuyến khích, bổ sung, và hướng dẫn chúng ta trong việc theo Chúa hằng ngày. Khi Ngài nói với chúng ta qua Lời Chúa, Ngài hướng dẫn chúng ta cách sống công chính, cách phát triển đức tin, cách vâng lời và yêu mến Ngài.

2. Hoàn cảnh

Các tình huống có thể cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa đang nói với chúng ta. Một bài học cần học, hoặc đức tin của chúng ta được trắc nghiệm. Có thể chúng ta đã làm ngơ các câu trả lời và sự cảnh báo của Ngài, tình huống xảy ra nào đó là để “mở mắt” và “mở tai” của chúng ta.

Sau khi vượt qua tính huống đó, chúng ta có thể vui mừng biết rằng Thiên Chúa đã đưa chúng ta vượt qua tình huống đó để chúng ta kết hiệp với Ngài nhiều hơn.

3. Tha nhân

Thiên Chúa có thể nói với chúng ta qua người khác để “chạm” vào tâm hồn chúng ta. Đó có thể là một lời nói tử tế, một chứng cớ, một lời cảnh báo, hoặc một lời chúc lành. Chúng ta là tôi tớ của Thiên Chúa, việc lắng nghe người khác có thể giúp chúng ta sống tốt hơn.

4. Tiếng nói nhỏ

Thiên Chúa không cần nói lớn như sấm sét. Đôi khi chỉ là âm thanh vừa đủ nghe, có thể “chạm” vào trái tim chúng ta và chúng ta có thể nhận biết. Kinh Thánh cho biết: “Sau động đất là lửa, nhưng Đức Chúa cũng không ở trong lửa. Sau lửa có tiếng gió hiu hiu. Vừa nghe tiếng đó, ông Ê-li-a lấy áo choàng che mặt, rồi ra ngoài đứng ở cửa hang. Bấy giờ có tiếng hỏi ông: Ê-li-a, ngươi làm gì ở đây?” (1 V 19:12-13).

5. Đáp lại lời cầu

Lời cầu nguyện của chúng ta thường là xin điều gì đó, nhưng chúng ta quên rằng lời cầu nguyện phải là cuộc đối thoại với những lời tâm sự chân thành. Nghĩa là chúng ta phải giao tiếp với Thiên Chúa: nói chuyện, lắng nghe, và thấu hiểu.

Mọi lời cầu nguyện đều được Thiên Chúa lắng nghe. Đôi khi Ngài trả lời là “không” hoặc là “được”. Câu trả lời của Ngài phưc tạp hơn chúng ta tưởng, nhưng rõ ràng. Hãy sẵn sàng là lắng nghe tiếng Chúa mọi nơi và mọi lúc. Vì Chúa Giêsu đã nói: “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11:28).

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Beliefnet.com)

Lực lượng nào sẽ làm thay đổi Việt Nam?

Lực lượng nào sẽ làm thay đổi Việt Nam?

Biểu tình chống Trung Quốc tại Hà Nội, ngày 13/5/2014.

Biểu tình chống Trung Quốc tại Hà Nội, ngày 13/5/2014.

Nguyễn Hưng Quốc

14.11.2014

Rất nhiều người có chung một nỗi băn khoăn: Bao giờ thì Việt Nam được dân chủ hoá? Để trả lời câu hỏi ấy, hầu như ai cũng biết một cuộc cách mạng dân chủ ở Việt Nam chỉ có thể xảy ra với một trong hai tình huống: Một, từ trên xuống; và hai, từ dưới lên.

Dân chủ hoá từ trên xuống là một cuộc cách mạng lý tưởng nhất bởi nó nhanh nhất và ít bị trả giá nhất: Đó là các cuộc cách mạng đã diễn ra tại Liên Xô và Đông Âu vào cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, khi giới lãnh đạo ý thức là không thể kéo dài nguyên trạng và chấp nhận thay đổi chế độ ngay cả khi biết với sự thay đổi ấy họ sẽ mất tất cả quyền lực.

Theo tôi, một cuộc cách mạng loại này rất khó xảy ra ở Việt Nam. Có hai lý do chính.

Thứ nhất, ở Việt Nam không có, và sẽ không có một nhà lãnh đạo nào, dù sáng suốt đến đâu, có quyền lực để tự mình quyết định những sự thay đổi lớn lao liên quan đến số phận của cả chế độ. Kết cấu quyền lực ở Việt Nam khác hẳn ở các quốc gia cộng sản khác trước đây cũng như hiện nay: Ở các nước ấy, chủ tịch đảng cũng đồng thời là chủ tịch nước. Khi nắm trong tay cả hai chức vụ ấy, người ta dễ dàng trở thành kẻ quyết định cuối cùng. Ở Việt Nam, ngược lại, người lãnh đạo đảng và người lãnh đạo nhà nước và chính phủ khác nhau, do đó, không ai thực sự có quyền quyết định những vấn đề lớn cả. Tất cả đều phải thông qua ý kiến tập thể, ít nhất của Bộ Chính trị. Để cả tập thể ấy thống nhất với nhau về việc thay đổi chế độ để dân chủ hoá là một không tưởng.

Thứ hai, chắc chắn Trung Quốc sẽ không thể chấp nhận Việt Nam được dân chủ hoá trước. Khi thấy Việt Nam có dấu hiệu rục rịch từ bỏ chủ nghĩa cộng sản, chắc chắn Trung Quốc sẽ can thiệp ngay. Trong tình hình hiện nay, khi Việt Nam bị lệ thuộc vào Trung Quốc trong rất nhiều lãnh vực, từ kinh tế đến chính trị, những sự can thiệp ấy rất dễ thực hiện.

Bởi vậy, triển vọng lớn nhất của xu hướng dân chủ hoá ở Việt Nam là từ dưới lên. Tuy nhiên, ở đây lại có một vấn đề lớn: Lực lượng nào sẽ đảm nhiệm công việc thay đổi theo chiều hướng dân chủ ấy? Để trả lời câu hỏi ấy, các nhà bình luận chính trị và xã hội có thói quen nhìn vấn đề từ góc độ kinh tế – xã hội với những thành phần giai cấp khác nhau.

Trước hết, đông đảo nhất ở Việt Nam là các nông dân. Trong nhiều năm qua, những kẻ bị áp bức và bóc lột nhiều nhất ở Việt Nam cũng là các nông dân. Những cuộc biểu tình đông đảo và gây chú ý trong dư luận nhất cũng gắn liền với nông dân. Lý do dễ hiểu: một trong những yếu tố quan trọng nhất bị giới lãnh đạo Việt Nam khai thác để làm giàu và phân phối lợi nhuận để mua chuộc sự trung thành của các đảng viên chính là đất đai. Việc cướp đất ấy dẫn đến sự bất mãn của nông dân ở nhiều địa phương khác nhau. Lâu nay, rải rác đây đó, có các cuộc biểu tình của nông dân nhằm chống lại lệnh cưỡng chế của chính quyền.

Nhưng những sự bất mãn và các cuộc biểu tình ấy có thể dẫn đến việc làm thay đổi chế độ hay không? Câu trả lời hầu như chắc chắn: Không. Lý do đầu tiên là hầu hết nông dân thường chỉ nghĩ đến những cái lợi cụ thể trước mắt: khi chính quyền cướp đất của mình thì mình vùng lên tranh đấu, nhưng khi chính quyền cướp đất của người khác thì người ta dễ khoanh tay đứng ngó, hoặc, khi tình hình căng thẳng quá, chính quyền chỉ cần nhân nhượng một tí, họ cũng dễ dàng thoả mãn và từ bỏ mọi toan tính chống đối. Lý do thứ hai là tuy nông dân chiếm một phần lớn dân số nhưng họ bị cô lập về phương diện địa lý: làng này xuống đường tranh đấu, làng khách chưa chắc đã biết. Từ việc cô lập về địa lý dẫn đến sự cô lập về truyền thông và hậu quả là không có nhiều người biết. Điều này dẫn đến hai hậu quả khác: Một, ít người ủng hộ; và hai, khó phát triển thành những cuộc xuống đường rầm rộ để có thể uy hiếp được chính quyền.

Còn lực lượng công nhân? Ở Việt Nam, giai cấp công nhân càng ngày càng lớn và đời sống kinh tế của họ cũng gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, sự bất mãn của họ, nếu có, thường nhắm vào chủ nhân của xí nghiệp hơn là vào chính quyền. Chủ nhân của các công ty lớn lại thường gắn liền với người ngoại quốc, do đó, thù hận của họ cũng hướng ra bên ngoài. Đó là lý do tại sao cho đến nay, hầu hết các cuộc đình công hay biểu tình thường diễn ra trong các xí nghiệp và công ty do người ngoại quốc làm chủ.

Giới thanh niên và trí thức Việt Nam hiện nay có thể được xem là thành phần “tiến bộ” nhất: Nhiều người trong họ thấy được những sự bất lực và bế tắc của nhà cầm quyền cũng như có khát vọng được tự do. Tuy nhiên, “nhiều” không có nghĩa là đa số. Khác với ở Ai Cập và các quốc gia Trung Đông trong cách mạng mùa xuân đầu năm 2011, nơi tỉ lệ thanh niên, dù đã tốt nghiệp đại học, thất nghiệp rất cao, ở Việt Nam, về phương diện kinh tế, thanh niên không đến nổi quá khó khăn, do đó, rất khó hy vọng họ sẽ kết tập lại thành một trận chung để đấu tranh cho dân chủ.

Một thành phần khác có khả năng đương đầu với chính quyền là các tôn giáo. Ở tôn giáo nào cũng có những người phản kháng, nổi bật nhất là Cao Đài, Hoà Hảo, Phật giáo và Công giáo. Hai tôn giáo đầu chỉ giới hạn ở các tỉnh phía Nam; Phật giáo thì bị quá phân tán; chỉ có Công giáo là tương đối thống nhất, và do đó, khá mạnh, nhưng dù mạnh đến mấy thì, một mặt, Công giáo cũng chỉ chiếm khoảng 10 phần trăm dân số; mặt khác, do chỉ là một thiểu số, họ khó trở thành những nhà lãnh đạo cho phong trào dân chủ trong cả nước.

Nói tóm lại, từ góc độ kinh tế và xã hội, sẽ không có lực lượng nào đủ sức để chống lại chính quyền, thậm chí, gây sức ép để chính quyền phải thay đổi chế độ.

Một vấn đề có thể được đặt ra: Tại sao tất cả các thành phần trên không thể kết hợp lại với nhau để thành một lực lượng duy nhất và mạnh mẽ? Dĩ nhiên, điều đó có thể xảy ra, và trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay, đó là niềm hy vọng duy nhất để có dân chủ. Có điều: khi nào, và với điều kiện nào, tất cả các thành phần trên có thể đứng lại được với nhau? Câu trả lời: Tinh thần dân tộc hay chủ nghĩa quốc gia (nationalism). Người Việt Nam, bất kể thành phần kinh tế, xã hội và tôn giáo, sẽ đoàn kết lại khi đất nước bị uy hiếp và khi chính quyền bất lực, thậm chí, đầu hàng trước những sự uy hiếp ấy. Tất cả những sự uy hiếp ấy chỉ đến từ một nguồn: Trung Quốc.

Nói cách khác, theo tôi, lực lượng đấu tranh cho dân chủ tại Việt Nam chỉ đoàn kết và trở thành mạnh mẽ khi Trung Quốc gia tăng mức độ lấn chiếm biển đảo và khi chính quyền Việt Nam càng lộ rõ bản chất nhu nhược của họ trong thế trận đối đầu với tham vọng bành trướng ấy.

Không biết cám ơn

Không biết cám ơn

Bùi Bảo Trúc

Hôm 1 Tháng Mười Một vừa qua, trong cuộc thi tuyển người mẫu ở Việt Nam, một thí sinh sau khi nhận được điểm khá cao của ban giám khảo để thi tiếp cuộc thi, đã đi thẳng vào trong hậu trường thật nhanh. Ngay lập tức, cô bị Adam Williams, một giám khảo người Úc, gọi trở lại và thông báo quyết định của ông. Ông đổi ý và không muốn để cho cô tiếp tục thi vòng sau nữa.

Lý do ông cho biết là vì cô đã không biết chào và cám ơn ban giám khảo. Cả ba giám khảo kia cũng đồng ý với chuyên gia về trình diễn thời trang người Úc.

thank
Các bản tin trên báo đều không cho biết khi được thông báo quyết định đó, cô thí sinh này có nói gì không. Nếu cô trở ra, đến trước các giám khảo, nói một câu, một câu ngắn thôi, đại khái cô xin lỗi, nói là vì cô quá hồi hộp, lo sợ, mất bình tĩnh bởi thế nên đã quên cám ơn giám khảo. Cô xin lỗi và xin cám ơn số điểm cô nhận được từ ban giám khảo để có thể thi tiếp.

Tôi tin chắc những người ngồi ghế giám khảo nếu nghe cô giải thích như thế sẽ đổi ý và cô sẽ được cho thi tiếp. Nhưng hình như cô không nói gì nên các giám khảo phải cho cô về nhà. Cô đã đánh mất cơ hội cô đã gần như đã chắc nắm trong tay để bị loại, không được cho tiếp tục cuộc thi chỉ vì không biết nói lời cám ơn khi nhận được điểm tốt của những người chấm thi.

Sau khi bản tin về cô xuất hiện trên báo thì đã có nhiều độc giả gửi thư cho tòa báo, cho ý kiến về quyết định của ban giám khảo. Một số đồng ý với việc cô bị loại, nhưng nhiều ý kiến cho rằng cô dự thi làm kiểu mẫu thì nếu đủ tiêu chuẩn làm kiểu mẫu thì cô phải được cho tiếp tục. Cuộc thi không tuyển người lễ phép, lịch sự thì tại sao đánh hỏng cô. Đó là ý kiến của khá đông người.

Và chi tiết đó là điều đáng nói ở đây.

Những câu chào hỏi thường ngày, những câu cám ơn đã biến mất trên miệng của (đa số) người Việt Nam từ bao giờ? Người đàn ông Úc ngồi ghế giám khảo đã phải mấy lần quay sang hỏi các giám khảo người Việt rằng tại sao họ (các thí sinh) không biết chào và cám ơn ban giám khảo. Như vậy không phải chỉ một thí sinh không biết nói câu cám ơn, mà còn cả những người khác nữa. Nhưng có thể những người kia không được điểm cao nên không thèm cám ơn ban giám khảo. Đến cô thí sinh được cho điểm cao để tiếp tục thi thì cũng đi thẳng vào trong hậu trường nên Adam Williams mới gọi lại và loại cô khỏi cuộc thi.

Chuyện không biết những phép lịch sự tối thiểu trong cuộc sống hàng ngày đã được nói tới rất nhiều lần. Những người hành xử thiếu văn hóa đó thuộc đủ mọi thành phần ở Việt Nam. Đa số là người ở miền Bắc, nhưng nay, hình như cách hành xử thiếu văn hóa đó đang đi tới nhiều nơi khác nữa. Những người Việt sống ở nước ngoài khi về Việt Nam thường bị nhận ra ngay khi mở miệng ra là cám ơn và xin lỗi lia lịa. Trong nước, những cách ăn nói lịch sự đó không còn thấy nhiều nữa. Nhưng thực ra, lối hành xử văn minh, lịch sự cũng đang dần biến mất ở cả những người Việt sống ở ngoài Việt Nam nữa chứ không phải chỉ riêng tại Việt Nam.

Lái xe trên đường mà nhường đường cho đồng hương rất ít khi nhận được một nụ cười, một cái khoát tay, vẫy tay. Mở cửa nép sang một bên nhường cho đồng hương đi trước cũng không một cái nhếch mép làm như thể vừa giúp kiếm cho việc mở cửa cho mình không bằng. Lúc ấy chỉ muốn làm như ông Bá Dương, tác giả cuốn Người Trung Quốc Xấu Xí, là buông tay ra, cho cánh cửa sập lại cho vỡ mặt cái thằng cha hay cái con mẹ nghiêm và buồn vời vợi (?) cho bõ ghét. Những chuyện như thế ngày nào tôi cũng gặp hai ba lần ở đây.

Chỉ khi nào những câu cám ơn, những lời xin lỗi đó trở thành những phản xạ, những hành động tự nhiên, một thứ “second nature” tự động bật ra thì may ra những cách hành xử như cô thí sinh thi làm người mẫu mới không xảy ra nữa.

Tiếng Anh có cả chục cách nói cám ơn. Hay nhờ đó, rất ít khi xảy ra chuyện như cô thí sinh nọ. “Thank you…thanks a million…thanks a lot…much obliged…I do appreciate it…thank you very much indeed… thanks a whole lot…from the bottom of my heart…I can’t thank you enough…what would I do without you…you are an angel…you are too kind… you are the best…thanks a bunch…I don’t know how to thank you, but thank you so much…”

Cô thí sinh bị loại thực ra cũng lại không là người chim sa cá lặn gì cho cam. Cô chưa là “top model” mà đã như vậy. Thử hỏi nếu cô thắng cuộc thi và trở thành người mẫu hàng đầu thì cô còn thiếu văn hóa như thế nào nữa.

Có một câu không biết của ai, nhưng nếu cô cư xử được như thế này thì hay biết bao: “It is nice to be important but it is important to be nice” (Là người quan trọng thì cũng hay đấy, nhưng chuyện quan trọng là phải tử tế với mọi người).

Cô chưa là cái gì mà đã như thế thì khi cô trở thành “top model” thì cô còn thế nào nữa? Cháu ngoan của bác mà thiếu văn hóa vậy sao? Cái nết đánh chết cái đẹp. Nhưng cái đẹp cũng không có được bao nhiêu, lại thêm không có nết thì bị đuổi là phải.

Tiếng chào cao hơn mâm cỗ.

Hơn Cả Tiền Tài và Tuổi Thọ

Hơn Cả Tiền Tài và Tuổi Thọ

Phạm Thị Quang Ninh

Hơn 2300 nghìn năm về trước, nhà bác học Aristotle đã cho rằng hạnh phúc là cái gì mà cuối cùng nhiều người phải chọn lựa. Có nghĩa, khi ta có rất nhiều thứ trên đời mà thiếu hạnh phúc, cuộc đời cũng vô nghĩa
Người Việt ta hay dùng ba chữ chữ Phúc, Lộc, Thọ để chỉ ba điều căn bản của cuộc sống để chúc tụng lẫn nhau. Có lẽ điều chúng ta mong mỏi nhất vẫn là hạnh phúc, nên chữ Phúc đã được xếp trên cả hai chữ Lộc và Thọ.

image

Một thi sĩ đã viết “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu” vì danh từ “tình yêu” rất khó giải cho đúng nghĩa. Hai chữ “hạnh phúc” cũng tương tự như vậy. Đó là một danh từ trừu tượng mà ta tự cảm thấy mà thôi. Hạnh phúc không như tiền tài. Tiền đếm được nhưng hạnh phúc thì không. Hạnh phúc cũng không giống tuổi thọ dù ta không biết bao nhiêu tuổi là già, nhưng ta vẫn có quan niệm chung như đến một tuổi giới hạn nào đó, ta mới được mừng thượng thọ.

Hạnh phúc quả thật khó cắt nghĩa. Hạnh phúc khi ẩn khi hiện, khi có, khi không, tuỳ theo từng chỗ đứng và chỉ chính mình mới biết được. Khi ta gặp một người nhà giàu, tiền bạc xum xuê, xe cộ bóng láng ta nói “Người ấy sung sướng quá. có phước quá” thì chưa chắc đã đúng. Khi ta thấy một người làm việc lam lũ vất vả để nuôi một đàn con, ta hay nói “tội nghiệp”. Nhưng nếu có dịp nói chuyện với người nghèo này chưa chắc ta đã nghe những lời than van như người nhà giàu nọ. Và biết đâu người lam lũ kia chẳng hạnh phúc hơn người giàu có.

image

Theo nhiều cuộc khảo cứu cho thấy những người không có hạnh phúc là những người luôn luôn chú trọng đến chính mình, hay lo nghĩ, thường bất đồng và không chấp nhận ý kiến của người khác. Trái lại, người hạnh phúc luôn hoà đồng với người chung quanh, biết uyển chuyển và có thể chấp nhận những chuyện không vừa ý một cách dễ dàng. Và điều quan trọng, như trong Thánh kinh, người hạnh phúc luôn có lòng thương yêu và tha thứ.
Khi ta được hưởng một điều gì vui, ta vẫn nói “Trời cho” nhưng theo đức Đạt Lai Lạt Ma trong cuốn Nghệ thuật của Hạnh Phúc (The Art of Happiness) thì Hạnh phúc tự ta có thể tìm được bằng cách điều khiển ý nghĩ trong đầu mình. Nếu mình nghĩ mình có hạnh phúc tức là mình đã có hạnh phúc.

Một trong những điều làm mất hạnh phúc là sự so sánh những gì mình có với những gì mình muốn mà không thể có, hay mình có mà không thấy. Người ta vẫn thường nói “cỏ nhà hàng xóm bao giờ cũng xanh hơn cỏ nhà mình”. Như vậy những gì ta ước muốn và có được cũng chưa chắc đã thoả mãn như ý và suốt đời mệt nhoài vì đuổi bắt. Theo tôi, khi ta có căn nhà để che nắng che mưa, có quần áo mặc khi nóng khi lạnh, có cơm ăn no đủ hàng ngày, không bị bệnh tật ốm đau và không bị hành hạ về tinh thần và thể chất, là chúng ta đã có căn bản hạnh phúc. Ta đã có cuộc sống an bình. Chẳng thế mà trong buổi lễ ở các nhà thờ người ta vẫn chúc bình an cho nhau mà không chúc nhiều tiền, nhiều bạc, nhiều của cải. Nếu được hơn những điều căn bản trên, hãy tự cho mình có hạnh phúc hơn nhiều người khác.

Một độc giả trong tờ Los Angeles Times đã hỏi trong mục “gỡ rối tơ lòng” là gia đình bà hay lục đục vì chung quanh bạn bè đều mua nhà mới mà bà không có khả năng. Mỗi khi người có nhà mới dẫn “đi tour” để khoe những cái phòng ngủ tráng lệ, những cái nhà tắm tối tân là bà về nhà gây chuyện với chồng. Bà khổ lắm và chồng bà cũng không hạnh phúc, tuy đời sồng của bà rất thoải mái, không nợ nần gì nhiều.

Người “gỡ rối” trả lời rằng nếu bà cứ so sánh với những gì người khác có thì không bao giờ bà được sung sướng. Giả thử bà được những thứ ấy thì người khác lại có nhiều hơn. Cứ vậy bà sẽ chạy mệt nhoài. Hãy cảm thấy hạnh phúc với những gì mình có và tự nhủ rằng, người ở nhà to là người nợ như chúa chổm, mất việc là mất nhà ngay. Nghĩ như vậy, bà sẽ thấy sung sướng hơn người kia nhiều.

Cũng vẫn nói về hạnh phúc, một nhóm người được thí nghiệm tại đại học New york bằng cách cho viết tiếp theo một câu “Tôi ước muốn tôi là…” Ý viết thêm của những người trong nhóm cho thấy họ cảm thấy không hài lòng với cuộc sống. Cái “ước muốn” nó không có giới hạn và không có điểm ngừng. Nếu ta theo nó, ta sẽ đi tới vô tận.

Có những cái “ước muốn quá đáng” của người vợ mà người chồng phải đi làm hai ba việc vẫn chưa thỏa mãn nhu cầu của vợ. Có cái “ước muốn mọi sự phải hoàn hảo” của người chồng mà người vợ quay như chong chóng vẫn chưa vừa ý chồng mình. Ước muốn có thể làm thăng hoa cuộc sống nhưng những cái ước muốn quá sức, không chính đáng sẽ làm mất đi cái hạnh phúc gia đình mà mình đã có.
Và thật mâu thuẫn, một trong những điều làm ta hạnh phúc cũng là so sánh. Trong một cuộc khảo cứu của các bà ở University of Wisconsin tại Milwaukee, một nhà khảo cứu trình bày hình ảnh cuộc sống khó khăn của phụ nữ ở Milwaukee vào đầu thế kỷ trước. Khi xem xong, so sánh với thời đó các phụ nữ bây giờ cảm thấy hạnh phúc vì cuộc sống hiện tại thoải mái hơn nhiều.

Các nhà khảo cứu làm một thí nghiệm khác tại University of New York ở Buffalo, những người tham dự được đề nghị nối tiếp để hoàn tất một câu “Tôi sung sướng vì tôi không phải là….”. Sau năm lần góp thêm ý vào cùng một câu trên, những ý viết thêm của nhóm này cho ta biết cuộc sống của họ rất thoải mái. Nhiều khi tôi bực mình và nóng nẩy khi trên xa lộ bị kẹt xe vì có một tai nạn. Nhưng chợt nghĩ, tôi không phải là người nằm trên xe cứu thương kia. Sự so sánh đó làm tôi cảm thấy may mắn và nỗi bực bội đã tan biến trong khoảnh khắc.
Khi ta nhìn những nạn nhân bão lụt, màn trời chiếu đất, đói rét tả tơi, hay những người vô gia cư nằm lề đường trong những ngày đêm băng giá, ta sẽ thấy trời đã cho ta nhiều quá. Do vậy mà ta sẽ không mong muốn gì hơn. Ta đã có hạnh phúc.

Tục ngữ ta có câu “Trông lên thì chẳng bằng ai, trông xuống thì chẳng ai bằng mình”. Đó cũng là cái quan niệm sống hạnh phúc, “an nhiên tự tại” của người xưa đã để lại cho hậu thế.
Ngoài những hạnh phúc vật chất còn có những hạnh phúc về tinh thần như tình người với nhau. Tình yêu thương đồng loại, tình gia đình, tình bè bạn… biết bao thứ tình mà chúng ta trân quý để tạo cho chính ta và mọi người chung quanh hạnh phúc.

Đức Đạt Lat Lạt Ma trong cuốn “Nghệ thuật của hạnh phúc: “cho chúng ta một thông điệp về hạnh phúc “Chúng ta không cần thêm tiền, chúng ta không cần thành công hơn nữa, chúng ta không cần có một thân hình hoàn hảo, và ngay cả chúng ta không cần phải có một người bạn đường hoàn hảo”, cho ta thấy của cải, ham muốn ở thế gian không là yếu tố duy nhất làm nên hạnh phúc Trong quan niệm trên chứa đựng một triết lý đông phương rất thâm sâu về Tham, Sân, Si của nhà Phật.

Triết lý đông tây nhiều khi không giống nhau, nhưng quan niệm về hạnh phúc thì hình như cùng gặp nhau ở một điểm. Đó là hạnh phúc là cái gì quí nhất ở trên đời. Như trên, nhà xã hội học Aristotie viết rằng “hạnh phúc là cái đích cuối cùng mà con người mong muốn”.
Các nhà khảo cứu chuyên môn ngày nay cho rằng hạnh phúc gồm hai yếu tố: thứ nhất là do bộ óc của từng người, có thể điều khiển hạnh phúc của mình. Thứ hai là tập thói quen thích thú, lấy sự làm việc, tiêu khiển, liên hệ với mọi người, cùng các hoạt động hữu ích là có ý nghĩa.

Một bác sĩ tâm lý khác, bà Joyce Brothers đang cộng tác với tờ Los Angeles Times cũng nói: Khi một người hoạt động và thích thú với những gì chung quanh mình, cơ thể, trí óc và tinh thần người ấy sẽ càng ngày càng trở nên tốt hơn.“Tâm bình thì thế giới bình”. Khi ta điều khiển được tâm ta cho không xao động, thì ta luôn luôn đạt được tình trạng thái hòa. Khi ta điều khiển được trí óc để có tư tưởng hạnh phúc trong đầu, xã hội sẽ tránh được rất nhiều những thảm cảnh nhiễu loạn và chính ta cũng tránh được bệnh khủng hoảng tâm thần. Hậu quả của loạn tâm nơi chính mình thường rất tai hại cho những người sống chung quanh.
Theo báo cáo mới về bệnh thần kinh mà ông bộ trưởng y tế của Hoa Kỳ mới đưa ra vào tháng 12 năm qua, cho biết 7.1% người Mỹ từ tuổi 18 tới 54 tâm thần không được bình thường và cần chữa bệnh bằng thuốc và tâm lý trị liệu. Tuy nhiên cũng có những ý kiến khác của các nhà tâm lý học thuộc phái Darwin tin rằng cảm xúc là sản phẩm thiên nhiên từ hàng triệu năm qua nên không cần phải chữa trị. Các nhà tâm lý này cảnh cáo rằng chúng ta chưa đủ dữ kiện để chữa bệnh bằng thuốc. Dù sao đi nữa, hiện nay hai loại thuốc thông thường chữa bệnh khủng hoảng tâm thần là Prozac và Zoloft vẫn bán chạy trên thị trường.
Trong cuốn “The Science of happiness, Unlocking the Mysteries of Mood” của tác giả John
Willey & Sons, 2000, nhà khoa học Stepphen Brawn đã phải đánh dấu hỏi về việc số người đã dùng thuốc để trị bệnh tâm thần lên rất cao.Như trên ta thấy khủng hoảng tâm thần cũng là một bệnh như các bệnh trong cơ thể khác. Bệnh này có thể gây tử thương cho chính bệnh nhân và cả người chung quanh, trực tiếp hay gián tiếp. Mà nguyên nhân của bệnh này là do con người không có hạnh phúc mà ra. Nếu trị tận gốc có thể chỉ có một giải pháp là tự tìm lấy hạnh phúc trong ý nghĩ của mình.

Khi chúng ta đói mà được bữa cơm thanh đạm ta vẫn thấy ngon hơn khi được thưởng thức cao lương mỹ vị khi đã no. Chúng ta làm việc mệt nhọc cả tuần, đợi đến ngày cuối tuần để nghỉ ngơi. Vậy mà cái ngày Chủ nhật nhàn nhã lại không vui hơn ngày thứ Sáu vất vả, vì ta không biết thưởng thức cái vui hiện tại và hay lo lắng cho những ngày tương lai. Người Hoa Kỳ chơi chữ bằng một câu “Present is present”, hiện tại là quà tặng, hay có thể nói, hãy hưởng những gì mình đang có bây giờ. Vậy thì, ngoại trừ những điều kiện tối thiểu như cơm ăn, áo mặc, nhà ở, hạnh phúc cũng chỉ là những điều trong tâm ta mà thôi.

Xem thế, không có cái vui nào trên đời mà hoàn hảo cả trừ khi ta biết bắt lấy và thưởng thức khi nó vào tay mình. Không có cái buồn nào là bất hạnh nếu ta cho đó là chuyện bình thường trong cuộc sống, rồi nó sẽ qua đi. Đời có thể không có bất hạnh nếu ta quan niệm như các cụ ngày xưa “Sông có khúc, người có lúc”. Hạnh phúc quả là một cảm giác chủ quan tự mình trong khách quan tương đối ở những hiện tượng thực tế chung quanh.
Một nhà tư tưởng vô danh đã định nghĩa, Hạnh Phúc là tất cả những cái thần diệu của cuộc sống: Sự sung sướng, niềm đau khổ, giọt nước mắt, những nụ cười. Hãy rút kinh nghiệm để mang thêm cho mình lòng yêu thương và trải rộng đến tha nhân trong quãng đời chúng ta đang sống.Chấp nhận quan niệm trên, có lẽ ta đã tìm ra chân lý hạnh phúc.

Phạm Thị Quang Ninh

Những Cánh Bèo Trôi Ở Geyleng

Những Cánh Bèo Trôi Ở Geyleng

RFA

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

“Cứ như thế, chuyến đi của chúng tôi gặp từ người nghèo này sang người khốn khổ khác, một hành trình dài toàn những mảnh đời lang bạt, không tấc đất cắm dùi và gặp nhiều tai bay vạ gió. Và tất cả câu chuyện của họ đầu có liên quan đến chính sách quản lý nhà nước từ nhà đất cho đến giải tỏa, đền bù cũng như thuế và chính sách trợ giúp người nghèo đầy tính bất minh.”

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam

Những Mảnh Đời Lang Bạt Ở Bình Dương” là tựa của một bài phóng sự, đọc được qua RFA, do nhóm phóng viên Việt Nam thực hiện:

“Họ là những người tứ xứ lang bạt về Bình Dương để kiếm sống. Có người làm thuê đủ các công việc để kiếm cơm độ nhật, có người đi buôn rau hành dạo, trái cậy dạo, cũng có người đạp con ngựa sắt cũ kĩ dong ruổi khắp thị thành, ngoại ô để mua ve chai, đồng nát… Cuộc sống của họ khó khăn, bấp bênh, không có ngày mai. Và họ cũng chẳng biết bám víu vào đâu ngoài chút sức tàn lực kiệt lúc tuổi già.

Ông Hoan, một người quê gốc Thái Bình, di cư vào miền Nam sau năm 1975 kể với chúng tôi rằng ông di cư không theo diện nào cả, chỉ đơn thuần lúc đó miền Bắc quê hương của ông nghèo khổ quá, quanh năm suốt tháng chẳng biết làm gì ngoài mấy đám ruộng nhỏ, vài bao lúa mỗi năm cộng với vài chục ký sắn mỗi năm, không tài nào sống nổi, ông khăn gói lên đường hành phương Nam với hy vọng đổi đời…

Vào đất Bình Dương hai chục năm nay, ông đạt được chút thành tựu là nuôi hai đứa con học lên tới đại học, còn lại, hầu như ông chẳng có gì, nhà cũng ở thuê, xe máy không có, bà con ruột thịt không có nốt ở xứ sở xa lạ này. Gần 80 tuổi, ông Hoan vẫn luôn đối diện với nguy cơ đói khổ, bị đuổi ra khỏi phòng trọ nếu như không kiếm đủ tiền trả thuê phòng…

Đồng số phận với ông Hoan, Bà Nga, trôi dạt từ Bến Tre lên thành phố Sài Gòn với nghề bán vé số, rửa chén bát thuê, làm việc phụ giúp ở các quán và giặt giũ thuê. Những công việc này chỉ đủ giúp bà mua gạo, muối, thức ăn cho gia đình hằng ngay. Một thân nuôi ba người con nhỏ, chồng bỏ đi. Cuộc đời bà nghèo khổ, chật vật mãi cho đến khi con bà trưởng thành, đi làm công nhân, bà vẫn chưa hết khổ, vẫn phải đi bán vé số kiếm sống qua ngày.

Ngoài bà Hoa và ông Hoan, còn rất nhiều người, nhiều mảnh đời trắc ẩn, bể khổ đang lang bạt khắp Bình Dương nói riêng và khắp các thành phố trên cả nước nói chung. Mặc dù họ vẫn rất siêng năng, chăm chỉ làm ăn, cố vượt thoát cái nghèo nhưng không tài nào thoát được bởi cơ chế nhà nước đã đẩy họ đi từ khốn khổ này sang khốn khổ khác…

Cứ như thế, chuyến đi của chúng tôi gặp từ người nghèo này sang người khốn khổ khác, một hành trình dài toàn những mảnh đời lang bạt, không tấc đất cắm dùi và gặp nhiều tai bay vạ gió. Và tất cả câu chuyện của họ đầu có liên quan đến chính sách quản lý nhà nước từ nhà đất cho đến giải tỏa, đền bù cũng như thuế và chính sách trợ giúp người nghèo đầy tính bất minh.”

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam

Có lẽ vì không phải là ký giả, phóng viên, nhà văn hay nhà báo gì ráo trọi (giới người thường  chỉ nhìn thấy mặt trái của cuộc đời) nên chuyến đi của tôi – xem ra – lạc quan và vui vẻ hơn nhiều. Ớ Geyleng tôi cũng gặp những người Việt không tấc đất cắm dùi, những mảnh đời lang bạt, những kẻ cũng “bị cơ chế nhà nước đẩy đi từ khốn khổ này sang khốn khổ khác” nhưng (cuối cùng) họ đã tìm ra sinh lộ – dù chưa biết là chuyện mưu sinh (rồi ra) sẽ kéo dài được bao lâu?

Ảnh: VDF

Geyleng là một con lộ dài, cắt ngang bởi vài chục con hẻm lớn, ở Singapore. Nó được mệnh danh là Phố Đèn Đỏ Quốc Tế, với hàng ngàn người hành nghề bán dâm thuộc nhiều quốc tịch khác nhau. Riêng hai con hẻm 20 và 21 (Lorong 20 & 21) hiện nay thì gần như là giang sơn của những cô gái Việt.

Đúng cựu chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết nhận xét: “Con gái Việt Nam đẹp lắm!” Họ tươi tắn và xinh xắn nếu không hơn thì cũng chả hề kém các bạn đồng nghiệp Thái, Phi, Tầu, Nhật, Đại Hàn … đang biệt cư ở những con hẻm khác. Các cháu không chỉ là một “món hàng” mới lạ đối với người ngoại quốc mà giá cả, xem ra, cũng nhẹ nhàng hơn.

Ở Geyleng (chắc) không ai ngủ. Đường phố tấp nập ngày đêm. Giữa đám người đang chen chúc hưởng thụ hay mưu sinh trong những quán ăn lộ thiên, rực rỡ ánh đèn nơi khu phố đèn đỏ này, tôi chợt nhận ra những người phụ nữ Việt Nam (qua những chiếc áo bà ba sờn cũ) đang đi loanh quanh chào mời thực khách mua giấy chùi miệng.

Họ chào hàng bằng tay, bằng ánh mắt van nài, cùng với nụ cười rất hiền lành và hơi buồn bã.  Tôi không dấu được sự ngạc nhiên:

  • Chị người Việt Nam phải hông?
  • Chú cũng người Việt luôn sao?
  • Dạ.
  • Chèn ơi, vậy mà tui tưởng người Sing.
  • Chú mua dùm mấy tệp khăn giấy này nha. Có một đô la thôi hà.
  • Được chớ mà chị ngồi chơi nói chuyện chút xíu cho vui đi. Gấp gáp khỉ gì. Chị dùng chi tui kêu luôn?
  • Chú cho uống được rồi, tui mỏi chân và khát nước quá. Đi từ hồi bốn giờ chiều tới giờ đó.
  • Vậy thì ăn luôn đi.
  • Dạ, cũng được.
  • Rồi mấy giờ chị mới về nhà? Gần sáng tới nơi rồi.
  • Phải đi tới cỡ tám giờ mới đủ sở hụi.
  • Sở hụi gì cà? Chị bán mấy cái tệp giấy này có vốn liếng gì bao nhiêu đâu, không bán nay thì mai chớ hư hỏng lỗ lã gì mà sợ.
  • Tui mua một bịch hai chục tệp giá năm đô, bán hết cả bịch thì lời được 15 đồng.
  • Mỗi ngày chị bán mấy bịch?
  • Cũng còn tùy. Bữa nào khoẻ, chịu khó đi, chịu khó mời thì được ba bịch, còn không thì hai. Có bữa hên bán một bịch thôi cũng đủ tiền rồi.
  • Sao kỳ vậy?
  • Nhiều người khách họ chỉ lấy một tệp giấy thôi, lấy cho mình thấy đỡ kỳ vậy mà nhưng cho tới năm sáu đô la lận. Họ cũng thường cho ăn luôn nữa. Nhiều người tử tế và vui vẻ lắm nhưng ngặt là mình không biết tiếng nên cúi đầu ăn thôi, chớ có biết nói chuyện gì đâu.

Tôi tính nhẩm một đô la của Singpore tương đương với 80 xu của Mỹ nên suy ra là bà đồng hương này cũng kiếm được từ 30 đến 50 Mỹ Kim mỗi ngày.

  • Như vậy bữa nào hên là chị về sớm, ngủ khoẻ re há?
  • Ý đâu có được chú. Ngày hên cũng phải ráng đi để bù ngày xui chớ. Với lại tui ở “ghép” với bà Ba. Phải để bả ngủ cho đủ giấc. Khi nào tui về chui vô ngủ là đến phiên bả đi bán. Ghép như vậy mà một ngày cũng phải trả 12 đô tiền nhà lận đó.

Tôi chưa kịp hiểu sự khác biệt giữa chuyện “ghép phòng” và “ghép giường” nhưng chưa kịp hỏi kỹ thì đã có thêm người nhập cuộc:

  • Út à, ngồi chơi mảy. Chú này là “người mình” chớ không phải Sing đâu nha.
  • Vậy hả. Con chào chú.
  • Chú chào em, ngồi nghỉ chút đi. Ăn gì chú kêu luôn nha.
  • Dạ, con thích ăn cháo cá.

Người mới đến trẻ hơn nhiều (chắc mới ngoài bốn mươi) trông cũng tươm tất hơn hẳn dù trên người vẫn chỉ mong manh có mỗi chiếc áo bà ba và cái quần đen quê mùa giản dị, như cách phục sức thường thấy ở những phụ nữ Việt Nam ở quê nhà. Chỉ vài phút sau, lại thêm một “người mình” nữa hồn nhiên ngồi vào bàn góp chuyện:

  • Chèn ơi, ở đây gần tháng rồi tui mới thấy có chú là người Việt ở Thành Phố qua chơi đó nha. Còn toàn là tụi nhỏ làm gái, với đám bà già tụi tui không hà.
  • Không phải ở Thành Phố đâu. Ổng là Việt Kiều ở tuốt luốt bên Mỹ lận.
  • Ủy Trời, xa dữ thần vậy sao?
  • Ảnh: VDF
  • Tha hương ngộ cố tri. Câu chuyện của chúng tôi dù rất lan man nhưng đều nổ ròn như bắp. Tôi không có gì để nói nhiều nên chỉ ngồi nghe, và được nghe về một phương cách mưu sinh của đồng bào mình nơi đất lạ.
  • Bán giấy chùi miệng là một nghề tương đối mới mẻ của người Việt ở Singapore. (Cũng có người bán vé số nhưng rất ít vì ai cũng ngại phải “ngậm” những tấm vé không bán kịp trước giờ sổ). Dù thời hạn cho phép “du lịch” chỉ trong vòng một tháng, mỗi một chuyến đi – sau khi trừ chi phí máy bay và ăn ở – trung bình một người chịu khó đi bán không ngừng (chừng mười hai tiếng mỗi ngày) có thể để dành được từ tám trăm đến một ngàn đô. Một năm nếu đi được vài lần thì mang về được ba bốn ngàn Mỹ Kim.
  • Ảnh: VDF
  • Đây là một số tiền lớn lao ngoài sự ước mơ của rất nhiều người dân Việt. So với dịch vụ xuất khẩu lao động rất nhiêu khê, tốn kém, phải cầm cố nhà cửa, và bị lường gạt đều đều thì “thương vụ” bán giấy chùi miệng (rất lương thiện này) quả một là phát kiến “thần tình” khi mà nước Việt không còn đủ chỗ chen chân cho những người bị đẩy đến bước đường cùng – mỗi lúc một đông – như tường trình của  thông tín viên RFA:
  • “Chỉ riêng thành phố Sài Gòn, lượng người bán vé số đông lên cả vài ngàn người, họ đến từ thập phương, cũng có người xuất thân là công nhân nhà máy, xí nghiệp, vì tai nạn lao động hoặc vì mất sức lao động, bệnh tật, phải nghỉ việc và chuyển sang bán vé số kiếm cơm độ nhật. Ngồi quán cà phê vỉa hè 58 – Trần Quốc Thảo, quận 1, trong vòng nửa giờ đồng hồ, đã đếm được 16 người bán vé số đến mời, già có, trẻ có, bệnh tật có, nhưng xót xa nhất vẫn là những em bé tuổi chưa đầy 15, học hành dở dang hoặc vừa đi học vừa bán vé số kiếm tiền phụ giúp cha mẹ.”

Singapre một đảo quốc giầu có, với lợi tức bình quân đầu người hàng năm ($53,000) cao nhất nhì thế giới. Người dân bản xứ không ai phải đi bán hàng rong hoặc đi xin ăn. Họ không chỉ giầu có, hào phóng mà còn vô cùng cởi mở nữa. Họ chấp nhận đến bốn thứ ngôn ngữ chính thức khác nhau: tiếng Anh, tiếng Mã, tiếng Tầu, và tiếng Tamil.

Thực khách ở Singapore không ai cần đến giấy chùi miệng nhưng họ vẫn sẵn sàng chia sẻ  vài đồng tiền lẻ với những kẻ không may ở nước láng giềng, qua một hình thức mua bán (tương đối) lịch sự và tế nhị. Thiệt là một vùng đất láng giềng bao dung, và trù phú, nơi lý tưởng cho những mảnh đời cùng quẫn và lang bạt đến tự xứ mình.

Khi còn tại chức, ông Chủ Tịch Nước  Nguyễn Minh Triết đã tuyên bố: “Ngày nay, chúng ta ngẩng cao đầu, sánh vai cùng cường quốc…” Người kế vị, đương kim chủ tịch nước Trương Tấn Sang (vào ngày 19 tháng 8 vừa qua) cũng phát biểu gần tương tự:“Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của gần 30 năm đổi mới mà nhân dân ta đạt được khiến chúng ta hãnh diện và tự hào, bạn bè quốc tế ngưỡng mộ.”

Trong số những “cường quốc” và “bạn bè quốc tế ngưỡng mộ” này (hẳn) không có người dân ở Singapore đâu. Xin mọi người cứ yên tâm, và đừng ai cảm thấy bị tự ái (vặt) làm chi cho má nó khi.

Theo lời một vị lãnh đạo cao cấp khác, (ông T.B.T Nguyễn Phú Trọng) thì chuyện “xây dựng CNXH còn lâu dài lắm.” Nghĩa là sẽ còn nhiều thế hệ con dân Việt Nam đến Geyleng để bán thân, hay bán giấy – nếu họ vẫn còn có thể tiếp tục mở rộng vòng tay chào đón chúng ta.

Kính chúc các chị, các em, các cháu luôn buôn may và bán đắt.

Ô nhục này dành cho ai?

Ô nhục này dành cho ai?

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Ngày 9 Tháng Mười Một mỗi năm, kể từ năm 1989, cả thế giới chào mừng ngày Bức Tường Berlin sụp đổ. Không phải chỉ là những phiên bản, mà bức tường này được cắt từng mảnh, vận chuyển đến nhiều nơi trên thế giới, lắp đặt lại xem như một di tích cần ghi nhớ, bài học của một giai đoạn ô nhục của chế độ Cộng Sản. Một đoạn của bức tường này được để tại Thư Viện Tổng Thống Ronald Reagan ở Simi Valley, California.

Tác giả đứng bên một đoạn Bức Tường Berlin hồi năm 2000.
(Hình: Huy Phương cung cấp)

Sau khi Thế Chiến 2 kết thúc, Cộng Hòa Dân Chủ Đức (Đông Đức) được thành lập tại vùng quản lý của quân đội Liên Xô tại Đức ngày 7 Tháng Mười, 1949, sau khi Cộng Hòa Liên Bang Đức (Tây Đức) ra đời tại phần phía Tây trong khu vực Pháp, Anh và Hoa Kỳ quản lý. Vì lý do còn sự chiếm đóng của quân đội Liên Xô, mặc dù thành lập từ 1949, mãi đến năm 1955, Đông Đức mới tuyên bố đầy đủ quyền tự trị của một quốc gia. Sau gần nửa thế kỷ theo đuổi một nền kinh tế lạc hậu, với một không khí chính trị nô lệ, áp bức, khi nước Đức thống nhất, tổng sản lượng quốc gia (GDP) của Đông Đức chỉ góp được 7% của cả nước Đức so với 93% của Tây Đức dù dân Tây Đức chỉ chiếm 1/3 dân số cả nước. Suốt một thời gian dài sau khi thống nhất, Tây Đức đã hy sinh, chia sẻ để cả hai miền đều no ấm, thịnh vượng bằng nhau.

Tại sao phía Cộng Sản phải dựng lên Bức Tường Berlin? Ông Mikhail Pervukhin, Đại Sứ Liên Xô tại Đông Đức, đã trả lời câu hỏi này, “Nếu không có bức tường người dân sẽ thấy được sự yếu kém của phía Đông so với phía Tây.” Bức tường Berlin phải được dựng lên, nếu không một ngày kia, không còn một người dân nào ở lại với chế độ Cộng Sản, kể cả binh lính. Chỉ trong vòng sáu năm, từ năm 1945 đến 1961, sau khi rơi vào tay Cộng Sản, 20% dân số Đông Đức (3 triệu rưỡi người) đã vượt thoát sang Tây Đức.

Image result for picture of berlin wallImage result for picture of berlin wall

Bức tường Berlin còn được gọi là “Bức Tường Ô Nhục” do chính phủ Đông Đức dựng nên từ ngày 13 Tháng Tám, 1961 được gọi là “tường thành bảo vệ chống Phát Xít,” nhưng rõ ràng không thấy một người Phát Xít nào leo ngược bức tường đi tìm hạnh phúc trong thế giới Cộng Sản. Bức tường này là một trong những biểu tượng nổi tiếng nhất của Chiến Tranh Lạnh và của việc chia cắt nước Đức.

Mặc dù với hàng rào bê tông, cốt sắt có hệ thống báo động tự động, chó săn, 12,000 công an lùng sục ngày đêm, tháp canh, roi điện, hố sâu cản xe tăng và cơ giới, cho đến ngày bức tường sụp đổ đã có hơn 5,000 người dân Đông Đức bất chấp hiểm nguy vượt qua bức tường này thành công đến Tây Đức. Ngoài ra, cũng có 200 người dân Đông Đức bị bắn hạ khi tìm cách vượt qua vùng tự do.

Bài học của Bức Tường Berlin chưa đủ để thức tỉnh lương tri của những chế độ Cộng Sản, nhất là Cộng Sản Việt Nam. Sau Hiệp Định Geneva 1954, sông Bến Hải được làm ranh giới chia cắt hai miền Việt Nam, một triệu người miền Bắc không chờ “bộ đội cụ Hồ” vào tiếp thu Hà Nội đã khăn gói di cư vào Nam. Sau đó hơn 20 năm, cũng chưa thấy ai ở miền Nam bơi qua sông để ra Bắc tìm tự do, no ấm mà chỉ thấy những người bến Bắc, dưới mạng lưới công an dày đặc, tìm đường vào Nam.

Sau Tháng Tư, 1975, khi Bắc Việt lấp được sông Bến Hải thì hơn một triệu người không muốn “được giải phóng” đã bồng bế nhau ra đi, và sau đó, hơn nửa triệu người lại tìm đường vượt biên, vượt biển và cứ hai người tìm cách ra đi thì có một người thiệt mạng. Giá như có một cây cầu có thể nối liền Việt Nam với các nước tự do, hay có tàu bè đến cảng Sài Gòn hay Hải Phòng rước người ra đi vô thời hạn, thì Việt Nam không còn lại được một cái cột đèn để soi sáng “lăng Bác âm u.”

Cho đến 39 năm sau ngày “giải phóng,” vì sao còn cảnh người Việt đóng tàu vượt biển sang Úc, và chuyện đi lấy chồng ngoại, chuyện cầm cố nhà đất để được đi lao động nước ngoài, chuyện cho con du học mà mong con đừng nghĩ chuyện về, chuyện chuyển vốn ra ngoại quốc để lập “đầu cầu” cho mai hậu, phải chăng tất cả điều đó đã nói lên sự “ưu việt” của chế độ Cộng Sản, một chế độ bị chán ghét, đã xô đẩy mọi người phải rời bỏ quê hương, đất nước ra đi.

Nếu Cuba, Bắc Hàn mở cổng biên giới, việc gì sẽ xảy ra.

Nếu biên giới giữa Hoa Kỳ và Mexico bỏ ngỏ thì nước Mỹ sẽ tràn ngập di dân Nam Mỹ bất hợp pháp.

Chính phủ Mỹ đã bỏ ra hàng tỷ đô la để xây vài nghìn cây số tường cao tại biên giới hai nước không phải để ngăn người Mỹ chạy sang lập nghiệp bên đất Mexico. Trước đây, Hoa Kỳ đã không tiên liệu được chuyện hằng năm có khoảng 600,000 dân gốc Hispanic vượt biên vào Hoa Kỳ.

Đông Đức xây bức tường để ngăn dân của họ chạy ra, Hoa Kỳ xây hàng rào biên giới để ngăn dân ở ngoài nước chạy vào. Tị nạn chính trị hay kinh tế thì cũng là do sự lỗi lầm, ngu dốt của một chế độ.

Lúc 11 giờ 30 phút đêm 9 Tháng Mười Một, 1989, một trung tá công an biên phòng Đông Đức, ông Harald Jager, đã khóc sau khi ra lệnh mở cửa Tường Berlin, trong đêm hàng nghìn người đã ồ ạt chạy sang phía Tây. Một năm sau, nước Đức thống nhất trong tự do mà không đổ một giọt máu. Việt Nam “thống nhất” trong một hoàn cảnh khốn nạn nhất, tù đày, kỳ thị, chia lìa, đói nghèo, oan khuất, thù hận ngút trời, mà “đống xương vô định đã cao bằng đầu!”

Bây giờ có một bức tường, không phải xây bằng xi măng cốt sắt nhưng 40 năm nay vẫn còn tồn tại giữa những con người Việt Nam, mà phần ô nhục dành cho phía Cộng Sản.

NHỮNG QUẢ NHO… DỮ DỘI!

Bài viết của một cô bé quá hay làm xúc động người đọc vì đã diễn tả chính xác và rất thật cho tâm trạng của tuổi thơ nghèo khó…

NHỮNG QUẢ NHO… DỮ DỘI!
Nancy Nguyễn

Đất nước tôi, một rẻo đất tẻo teo khốn khó nép mình bên rìa Thái Bình Dương quanh năm giông bão, của cả trời đất lẫn nhân sinh, trong suốt gần một thế kỷ, chưa có một ngày đứng gió.

Mỗi một mười năm, là một cơn dâu bể đầy khinh ngạc của kiếp người, của dân tộc. Không cơn dâu bể nào giống cơn dâu bể nào, ngoài một điểm chung duy nhất: niềm đau.

Những người sinh ra vào khoảng năm 20 phải chứng kiến đất nước bị xâm lăng và đô hộ. Một đất nước không chùn bước trước vó ngựa Nguyên Mông, bỗng một ngày trở thành thuộc địa, đó, chẳng phải là một biến cố lớn?

Nhưng chỉ 10 năm sau đó, những người sinh ra thời 30, phải chứng kiến cảnh đau thương hơn nhiều lần: đất nước chia đôi, nồi da nấu thịt. Súng của ngoại bang chĩa vào da thịt người mình. “Xương chất đầy đồng, máu chảy thành sông”. “Niềm đau” có là một  danhtừ quá nhẹ?

Mười năm sau, hơn hai triệu con người người sinh vào những năm 40 phải gồng gánh nhau, dắt díu nhau bỏ lại nhà cửa ruộng vườn, bỏ lại phần mộ tổ tiên để chạy loạn. Dân tộc tôi chứng kiến một cuộc di cư lớn chưa từng có trong lịch sử. Và nếu không phải do bị cấm cản, cuộc thiên di ấy có lẽ sẽ còn vĩ đại hơn nhiều. Và như thế, dân tộc tôi đã bắt đầu rách bào, chia đôi, bắt đầu viết những trang sử sau đó bằng nước mắt và bằng máu.

Những người sinh khoảng năm 50, ngắn gọn là: một dân tộc, hai định mệnh! Tôi không còn chữ nghĩa nào hơn để diễn tả nỗi bất hạnh cùng cực ấy.

Những người sinh khoảng năm 60, chứng kiến sự sụp đổ của một thể chế, sự tái thống nhất một đất nước, và sự chia đôi vĩnh viễn của lòng người. 40 năm qua đi mà vết cứa vẫn rịn máu tươi. Vết thương lòng chưa thấy ngày se mặt.

Những người sinh khoảng năm 70 có cơ hội chứng kiến cuộc thiên di thứ 2 trong lịch sử. Hàng triệu triệu con người phải mạo hiểm tính mạng bản thân, gia đình, để tháo chạy khỏi quê hương. Đất nước tôi đó, những năm tháng lầm than, kêu trời không thấu, kêu đất chẳng nghe. Dân tộc tôi lạc lõng, bơ vơ như những con thuyền lênh đênh trên biển.

Và những người sinh vào những năm 80, là tôi đây, 10 năm sau “giải phóng”, những-tháng-năm-cấm-vận.

Có lẽ ký ức tuổi ấu thơ là những ký ức hằn dấu nhất, ám ảnh nhất của một đời người. Tôi nhớ hoài mẹ tôi, bà đáng ra còn trẻ lắm, mà dáng đã còm cõi, bà bòn từng đồng, lo chạy bữa cho con. Có những ngày trời mưa, mẹ tôi ngồi co ro bên vệ đường, gánh hàng quạnh hiu. Bà chẳng lo mình sẽ nhiễm phong hàn, chỉ lo làm sao? cho đủ sống! Có đất nước nào khốn nạn như đất nước tôi? Có bà mẹ nào khốn nạn như mẹ tôi, người mẹ Việt Nam? Tôi lớn lên, mang theo trong tiềm thức vóc dáng mẹ tôi, còm cõi như đòn gánh, co ro như một dấu chấm hỏi. Một dấu chấm hỏi xiêu vẹo trong những ngày mưa.

Tuổi thơ tôi gắn với những ngày mưa Sài Gòn, xoong chảo nồi niêu, có gì … hứng nấy bởi cái mái tôn nhà tôi … “đưa ánh nắng vào nhà” (mẹ tôi bảo thế), đêm nằm có thể nhìn thấy trăng sao. Những khi trời trở bão, gió giật từng cơn, tôi sợ sấm sét chui qua lỗ đinh vào nhà.

Tôi nhớ đôi dép cọc cạch, bên trái con trai, bên phải con gái, mẹ tôi bảo dép “uyên ương”. Chiếc bên trái là của anh Hai để lại, chiếc bên phải mới là của tôi. Và cả hai chiếc đều vá chằng vá đụp, bằng chỉ bố, mẹ để dành từ quân phục của ba. Quần áo mới chỉ được bận 3 ngày tết, và cũng là của anh hai tôi để lại. Mẹ luôn mua rộng ra mấy tuổi, anh Hai bận chật rồi đến phiên tôi. Quần áo của con trai đấy, nhưng chỉ cần mới, chỉ cần không … vá đít là đủ hấp dẫn rồi!

Và quả nho, những quả nho … dữ dội nhất của tuổi thơ tôi. Tết năm đó, chỉ duy nhất tết năm đó, mẹ tôi mua nho Mỹ về biếu nội. Những quả nho mẹ chắt chiu từ gió sương của cả năm trời, gom góp lại để biếu mẹ chồng dịp tết đến. Những quả nho mập ú, căng tròn, hệt như trong phim Mỹ, giống y chang mấy chùm nho … giả, loại những quán sinh tố trong xóm hay treo làm cảnh. Trời ơi! Dòn! Mọng! Ngọt! Mẹ đã dặn đi dặn lại không được ăn, mẹ còn cất tuốt lên nóc tủ. Vậy mà mấy trái nho như có ma lực, cái đứa tôi như bị thôi miên! Tôi lén trộm một trái. Trời ơi! Ngon! Rồi 1 trái nữa, rồi trái nữa! Từng trái, từng trái một, như một kẻ đã hoàn toàn mộng muội, không còn có thể cưỡng lại được sự quyến rũ phát ra từ mấy trái nho. Mẹ sẽ đánh nát tay tội ăn vụng, tôi nghĩ, tay … vẫn tiếp tục công cuộc … mưu cầu hạnh phúc. Cảm giác tôi lúc đó vừa hoảng loạn, vừa lo sợ, vừa … sung sướng , vừa sung sướng, vừa hoảng loạn sợ hãi. Tột cùng của sự hoảng loạn sợ hãi là khi chùm nho của mẹ chỉ còn trơ lại cọng. Khốn nạn thân tôi! Rồi tôi sẽ phải sống tiếp phần … ngày còn lại ra sao đây? Vậy mà mẹ không đánh tôi. Bà chỉ ôm tôi vào lòng … và khóc, khóc gào lên, khóc trào ra. Khóc như một đứa trẻ. Mẹ tôi đó. Ôm con vào lòng, gào khóc lên như trút hết hơi sinh vào từng tiếng nấc.

Năm tháng qua đi, cuộc đời mang lại cho tôi thừa mứa. Giờ tôi muốn ăn gì thì ăn, muốn đi đâu thì đi, muốn mua gì thì mua. Tôi ngán đủ thứ, chả muốn ăn gì, chỉ còn ăn được mỗi nho. Bởi với nho, tôi không ăn bằng trực giác, mà thưởng thức bằng mùi vị của ký ức. Và vì với nho, tôi mua được một vé đi tuổi thơ. Hai mươi mấy năm trôi qua, ký ức vẫn chưa ráo mực. Mỗi lần ăn nho, tôi thấy mình bé lại, và được một bàn tay vô hình kéo tuột về thủa ấy, những-năm-tháng-cấm-vận.

Tôi chỉ là một cá nhân, một cá thể, trong một tập thể những con người thế thệ 8x. Và chỉ là 1 thế hệ, trong nhiều thế hệ con người. Nhưng nói như một nhà văn Nga: “Cây đời có hàng triệu chiếc lá, và nói về một chiếc lá, là cũng đang nói về hàng triệu chiếc lá khác”.

Cứ mỗi mươi năm, con Tạo quái ác xoay vần, là dân tộc tôi lại được gán cho một định mệnh mới. Tôi đã nghe rất nhiều người bảo tôi “thời em sướng rồi, thời của anh khổ lắm”, còn tôi, tôi chỉ thấy thời nào cũng khổ. Và chẳng cái khổ nào giống cái khổ nào. Cái nào cũng “đặc thù” và cái nào cũng “nhất”!

Người mình khổ quá, đất nước mình đau thương quá. Phải không mẹ? Phải không anh?

Facebook Nancy Nguyen

Đại tướng quân hai lúa Việt được Campuchia cấp xe hơi, biệt thự hoành tráng

Đại tướng quân hai lúa Việt được Campuchia cấp xe hơi, biệt thự hoành tráng

Vài hôm nay, cái vụ bác Hai lúa Trần Quốc Hải sang Campuchia làm khoa học khiến mình bạc mặt vì mất ngủ. Hết chuông điện thoại để bàn đến chuông di động réo từ sáng đến trưa, từ trưa đến tối, từ tối đến đêm. Hóa ra mấy bác “khoa học” cũng đang “tâm tư” như mấy bác bên quân đội tâm tư vì cái vụ không được lên tướng (dù nước mình, “trần phong tướng” nghe đâu là gần 500, trong lúc thằng Tàu bự cũng chỉ có khoảng 190 tướng). Điện thoại hàng trăm cú nhưng nội dung thì chỉ có một: Campuchia muốn Đại tướng quân Hai lúa hạ cố nhận cho 18 ha xoài, 1 ô tô, 1 biệt thự ở Pnông-Pênh… Nhưng Hai lúa vẫn chưa chịu nhận. Chuyện thật mà nghe cứ như là … “gặp nhau cuối tuần”. Mấy bác giáo sư tiến sĩ bạn mình đang tính đến nước sang Campuchia làm “thuyền nhân” rồi tìm cách trổ tài với bác Hunxen, chí ít cũng được hưởng vài mẫu xoài, chiếc ô tô. Nghe xong, mình mới bảo họ rằng các anh không yêu Đảng à, không yêu tổ quốc Việt Nam XHCN à. Tôi thà làm ăn mày nước Nam còn hơn làm vương Campuchia… Nói vậy nhưng nghĩ lại mình thấy cũng hơi bị lo lo: ngộ nhỡ chất xám mà cứ chảy ồ ồ suốt ngày đêm sang Campuchia thì gay quá, còn gì là tầng lớp trí thức XHCN do Đảng đào tạo nữa. Đảng vừa mất cả tiếng vừa mất cả miếng. Thế cho nên mới tính làm một cái kiến nghị gửi Đảng về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với giới khoa học theo như cách làm bóng đá vậy. Nghĩa là nhà trường XHCN cứ đào tạo thật nhiều nhà khoa học sau đó đem bán dần cho Campuchia, như các câu lạc bộ vẫn bán cầu thủ. Nhất cử lưỡng tiện, Nhà nước thì được tiền, nhà khoa học thì được biệt thự, ô tô, vườn xoài. Tiền thu được có thể đủ phong thêm vài ngàn ông tướng, cho anh em đỡ “tâm tư”, như lời bác Phùng Quang Thanh. Rồi lập thêm mấy cái hội, mấy cái mặt trận để vỗ tay cho rôm rả mỗi khi mấy bác Bộ Chính trị đăng đàn giáo hóa cho dân. Nếu vẫn chưa hết tiền thì mở mấy trường đài tạo dư luận viên rồi gửi tuốt hết sang Campuchia luôn để đám dư luận viên này mở mang đầu óc cho đám trí thức làm thuê kia rằng Đảng ta là đạo đức, là văn minh, ta dân chủ gấp vạn lần bọn tư bản cá mập và nhớ liệu thần hồn mà gửi tiền về cho Đảng để Đảng còn đào tạo 90 triệu con dân thành 90 triệu tôi tớ làm thuê cho đám tập đoàn tư bản lũng đoạn Samsung, Ford, Sony… Được như vậy thì đám trí thức chúng mày không cần phải sang Campuchia làm thuê làm chi cho khổ, cứ ở yên trong nước mà làm thuê cũng sướng chán rồi, khỏi lo mất danh dự vì 90 triệu dân ai cũng làm thuê, cũng bình đẳng nhé

Bauxitte Việt Nam

Sửa chữa và chế tạo xe bọc thép thành công tại Campuchia, cha con Đại tướng quân hai lúa Trần Quốc Hải được biệt đãi như chế độ của đại tướng quân thật sự. Chính phủ Campuchia đã cấp cho gia đình ông một biệt thự, một xe hơi trong những ngày lưu lại nước bạn.

Không chỉ vậy, ông sẽ được sở hữu tất cả cộng với vườn xoài rộng 18 ha nếu chấp nhận sang Campuchia làm khoa học

“Nước bạn kêu tôi sang làm khoa học. Họ cấp nhà đất, xe cộ bảo đảm kinh tế, mình chỉ cần chuyên tâm sáng tạo” – ông Trần Quốc Hải nói.

Chuyện làm tướng của ông hai lúa

Lúc được trao Huân chương Đại tướng quân, ông cũng không ngờ mình và gia đình được đối đãi tử tế như thế. Huân chương do Quốc vương Norodom Sihamoni ký lệnh và Thủ tướng Hun Sen trao tặng.

clip_image001

Thủ tướng Hun Sen trao tặng Huân chương Đại tướng quân cho ông Trần Quốc Hải.

“Lúc nhận huân chương tôi cũng run lắm. Cả đời mình chưa bao giờ dự một nghi lễ long trọng như vậy”. Ông kể, buổi lễ có rất đông người, rất nhiều lãnh đạo cao cấp và tướng lĩnh. Sau này ông mới biết, đó là nghi thức cấp quốc gia.

Ông Hải thật thà cho biết, số tiền đi kèm huân chương chỉ có vài ngàn USD. Tuy nhiên, sau khi phong tướng, cả gia đình ông được biệt đãi rất trịnh trọng. Cuộc sống, sinh hoạt của gia đình ông hưởng đúng tiêu chuẩn cấp tướng.

Gia đình ông được cấp một ngôi biệt thự ở ngay Phnom Penh, cách nơi ông làm việc 3 km. Ông cho biết đó là một ngôi biệt thự rất rộng và bề thế.

Riêng ông Đại tướng quân hai lúa được cấp riêng một chiếc xe hơi 4 chỗ hiệu Hyunhdai Sonatta mới cứng để tùy nghi sử dụng.

“Mọi việc ăn uống, sinh hoạt của gia đình tôi đều có người phục vụ, đúng theo tiêu chuẩn cấp tướng” – ông Hải hồ hởi kể.

Ngoài ông và con trai, nước bạn còn mời vợ và con gái ông sang biệt thự ở chung một thời gian ngắn. Khi hoàn tất công việc, một quan chức dẫn gia đình ông thăm quan vườn xoài 18 ha cùng với thông điệp: Gia đình ông sẽ sở hữu tất cả, biệt thự, xe hơi và vườn xoài nếu sang Campuchia định cư làm khoa học. Họ để dành sẵn chờ ông trả lời.

“Ở bên đó cấp tướng vinh dự lắm, được người ta nể trọng” – ông nói. Quan niệm của nước bạn, đại tướng là thần, chỉ xếp sau vua nên có nhiều đặc ân. Chính phủ bạn còn cho biết, Huân chương Đại tướng quân cho phép ông nhập quốc tịch Campuchia bất cứ lúc nào.

clip_image002

Tổng tư lệnh Quân đội Hoàng gia Campuchia trao Huân chương cho anh Trần Quốc Thanh (con trai ông Hải)

“Sướng nhất là làm khoa học”!

“Họ làm tất cả vì muốn gia đình tôi sang hẳn. Nhưng tôi chưa nghĩ đến việc sang đó. Nói thật tôi đi nhiều nước rồi. Mong muốn lớn nhất là phục vụ dân mình, nước mình” – ông Hải trải lòng.

Ông còn mẹ già ngoài 90 tuổi ở quê nhà Tây Ninh, còn nhiều công trình dang dở phải theo đuổi. Trở về sau chuyến đi Campuchia, ông Đại tướng lại cởi bỏ quân phục, làm anh nông dân chuyên sáng chế.

Nhìn vẻ ngoài rất bình dị và khiêm tốn, ít ai ngờ ông là người quả quyết, dám nghĩ dám làm và thành công. Ông nói thật với chúng tôi, tiền bạc quyền lợi không quan trọng. Cái “sướng” nhất của người làm khoa học là được thỏa mãn đam mê.

“Không định cư nhưng tôi sẽ thường xuyên sang nước bạn. Ở đó làm khoa học sướng lắm” – ông Hải nói tiếp. Tất cả những sáng kiến của ông đưa ra đều được tiếp thu và ủng hộ tức thì. Kinh phí vừa yêu cầu xong, lập tức đến tay.

Mỗi chiếc xe bọc thép sửa chữa, ông được khoán trắng 25.000 USD cả phụ tùng lẫn công cán. Chế tạo xe bọc thép mới, ông được cấp ngay kinh phí trọn gói 200.000 USD/chiếc.

Sắp tới, Đại tướng quân hai lúa Trần Quốc Hải sẽ tiếp tục sang Campuchia thực hiện các đề án khoa học. Tuy nhiên, ông lần nữa khẳng định với chúng tôi, ông vẫn chưa gật đầu với chiếc xe hơi, tòa biệt thự, 18 ha xoài và chế độ biệt đãi dành cho một vị tướng.

“Tiền bạc lời lãi mình không đặt nặng nhưng được tin tưởng, khuyến khích thì mình phấn khích lắm” – ông phân tích. Cộng với việc được phục vụ như một ông tướng, ông chuyên tâm làm, hào hứng làm và đã thành công.

Theo Một thế giới

Nguồn: http://vietnamnet.vn/vn/kinh-te/207105/dai-tuong-quan-hai-lua-viet-duoc-campuchia-cap-xe-hoi–biet-thu-hoanh-trang.html

Lời Vàng Ý Ngọc

Lời Vàng Ý Ngọc

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Con người mất cả liêm sỉ là con người bỏ; huống chi cả một đám người mất cả liêm sỉ, mà còn mong gì được ư?

Phan Khôi

Mấy lúc gần đây, ngó bộ, GS Nguyễn Văn Tuấn mỗi lúc một thêm … khó chịu. Ổng xét nét (thấy rõ) và bắt bẻ liền liền:

Những người lãnh đạo giỏi và có bản lĩnh họ không chỉ nói, mà còn thực hiện những gì họ nói. Ngay cả cách nói, mỗi một lần phát biểu họ đều để lại những câu mà báo chí có thể trích dẫn (quotable words) hay làm cho người nghe phải suy nghĩ vì nó có cái wisdom trong đó…

Nhìn lại giới lãnh đạo VN, tôi thấy hình như họ không có cái tư chất về ăn nói của chính khách phương Tây. Chính khách VN quen với đường mòn chữ nghĩa mang đậm bản chất XHCN nên họ chỉ loanh quanh những câu chữ quen thuộc.

Họ không nói được cái gì cụ thể, mà chỉ xoay quanh các khẩu hiệu quen thuộc, kiểu như “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.” Đọc qua nhiều bài phát biểu của các lãnh đạo VN tôi nhận ra vài đặc điểm chính (có thể chưa đủ) như sau:

Thứ nhất là tính chung chung, không có một cái gì cụ thể…

Thứ hai là dùng nhiều sáo ngữ…

Thứ ba là không có thông tin (lack of information). Có nhiều lãnh đạo VN quen tính nói rất nhiều, nhưng nếu chịu khó xem xét kĩ chúng ta sẽ thấy họ chẳng nói gì cả. “Chẳng nói” vì những gì họ nói ra không có thông tin, tất cả chỉ là những câu chữ lắp ráp vào nhau cho ra những câu văn chứ không có dữ liệu …

Thứ tư là ngôn ngữ khẩu hiệu. Có thể nói rằng rất rất nhiều bài nói chuyện và diễn văn của các lãnh đạo VN chỉ là những khẩu hiệu được lắp ráp vào với nhau…

Những câu văn thượng dẫn chỉ là ý chính trong một bài viết (“Và i Đặc Điểm Trong Các Phát Biểu Của Lãnh Đạo Việt Nam”) của G.S Nguyễn Văn Tuấn. Ghi lại nguyên bài (hổng dài, chưa tới 2.000 chữ) tôi không ngại chuyện mất thì giờ mà chỉ sợ lỡ có vị lãnh đạo đọc rồi  … nhẩy cầu Bình Lợi, hay cầu Hàm Rồng thì tội chết.

G.S. Tuấn nhận xét tuy không sai nhưng (nói nào ngay) cũng chưa hoàn toàn đúng. Quả là những lời phát biểu của giới lãnh đạo Việt Nam (thường) rất chung chung, toàn sáo ngữ, và cứ y như hô khẩu hiệu chớ không có thông tin gì ráo trọi nhưng không phải lúc nào cũng vậy đâu nha.

Ngày 15 tháng 11 vừa qua, độc giả của trang Dân Luận có vị đã  “đề xuất”  hết sức hào hứng như sau:

“Ta nên có cuộc thi xem ai nói bậy bạ hơn . Sẽ rất căng thẳng đấy!”

Có lẽ vì rất thích “không khí căng thẳng” nên (khi chưa bị túm) có lúc nhà báo Trương Duy Nhất đã bỏ công sưu tập những câu nói ấn tượng hàng năm: (“Top ten phát ngôn ấn tượng 2011,” Top ten phát ngôn ấn tượng 2012”). Sau này, vì qúi vị lãnh đạo phát biểu “liên tục” và gây ấn tượng “liên miên” nên ông ghi nhận theo ngày (“Sáu Mươi Ngày Những Phát Ngôn Ấn Tượng”).

Ngày nào mà không có đôi câu … bất hủ: “Ta và Trung Quốc cần hòa bình, hữu nghị, hợp tác, đoàn kết để hai dân tộc cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội.”

Ông Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng nói về quan hệ Việt Trung như rứa đó (vào năm 2011) và chắc nghe chưa được tình nghĩa lắm nên mới đây ông Nguyễn Bắc Việt, Đại Biểu Quốc Hội tỉnh Ninh Thuận – Ủy Viên Ban Thường Vụ Tỉnh Ủy, Phó Trưởng Đoàn Đại Biểu Quốc Hội –  bèn thêm đôi câu cho thêm phần thắm thiết:

– Thứ nhất, phải làm sao gặp gỡ tiếp xúc với Trung Quốc để làm dịu tình hình biển Đông, sớm đưa lại tình hình như trước khi xảy ra sự kiện. Thứ hai, xử lý nghiêm minh theo pháp luật các đối tượng kích động, thông báo công khai…

– Hai nước xã hội chủ nghĩa lình xình với nhau như thế này, ai có lợi…

Nghĩ sao nói vậy, một cách hết sức hồn nhiên và hình tượng  – xem ra – đã trở nên một nét đặc trưng của giới lãnh đạo Việt Nam:

– Đừng để cán bộ viên chức giống như con gì trong rạp xiếc, có cho nó ăn cái hột gì đó nó mới làm. (Ông Nguyễn Bá Thanh – BTTU Đà Nẵng).

– Tòa án là cơ quan xét xử duy nhất, xét xử 2 cấp nên nếu thấy quyết định trái pháp luật thì có quyền hủy, trừ quyết định của Thủ tướng. (Chánh án Tòa tối cao Trương Hoà Bình).

Blogger Lê Anh Hùng đã có nhận xét như sau:

“… trong giới quan chức ở Việt Nam hiện nay hầu như ai cũng giữ được nét ‘hồn nhiên’ đáng yêu của mình cả. Này nhé, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã để lại dấu ấn khó phai trong lòng công chúng với lời chia sẻ:

Xảy ra chuyện như Vinashin, cuối cùng Thủ tướng đứng ra nhận trách nhiệm. Tôi nhận trách nhiệm chính trị với tư cách người đứng đầu Chính phủ, chứ tôi cũng không ra quyết định nào sai’ (!!!), hay lời giãi bày: ‘Trong sự nghiệp của mình, tôi không có chạy, không có xin, không thoái thác, từ chối nhiệm vụ nào Đảng phân công. Tôi sẽ tiếp tục thực hiện công việc mà Đảng và nhà nước giao phó’ (!!!)

Bộ trưởng GTVT Đinh La Thăng thì khiến bao người ngẩn ngơ với lời bộc bạch: ‘Tôi bổ nhiệm ông [Dương Chí] Dũng làm Cục trưởng để cứu Vinalines’ (!!!), hay tuyên bố: ‘Việc đóng phí [giao thông] thể hiện sự yêu nước nên người dân phải thấy hạnh phúc và tự hào’ (!!!)

Thống đốc NHNH Nguyễn Văn Bình thật xứng đáng với danh hiệu ‘Nhân vật của năm 2011”: “Dân có vàng thì dân giàu, mà nhà nước giữ vàng (của dân) thì nước sẽ mạnh’ (!!!)

Bộ trưởng Xây dựng Trịnh Đình Dũng thì thật thà: ‘Câu trả lời [chất vấn] đã có nhưng lại để ở nhà’ (!!!); Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia Nguyễn Duy Chiến thì ‘đi guốc trong bụng’ người anh em ‘4 tốt 16 chữ vàng’: ‘Việc Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh 2 và Viking 2 của Việt Nam là thể hiện tình cảm ‘yêu cho đòn cho vọt’ (!!!)

Phó Chủ tịch UBND Tp Hải Phòng thì lúc nào cũng nghĩ đến dân: ‘Dân bất bình nên phá nhà anh [Đoàn Văn] Vươn’ (!!!); ông Cục trưởng Cục CSGT thì phàn nàn: ‘CSGT nhận hối lộ là hành vi tiêu cực chứ không phải là tham nhũng’ (!!!); còn Trưởng Công an huyện Văn Giang thì thổ lộ: Vụ 2 nhà báo bị 2 công an và 3 người khác hành hung tại dự án Ecopark là do họ ‘tưởng nhà báo là … người dân’ (!!!); v.v. và v.v.

Tôi còn tìm ra được một FB chuyên trị về “Những Phát Ngôn Ấn Tượng,” xin trích dẫn vài câu (cùng hình ảnh) xem chơi:

– Chính phủ họp đảm bảo không có phong bì. ( BộTtrưởng, Chủ Nhiệm Văn Phòng Chính Phủ Nguyễn Văn Nên).

– Hiện rất ít nước quản lý không bài bản như Việt Nam. (Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường).

Tai nạn xảy ra là điều không ai mong muốn, song đừng đề cập đến trách nhiệm thuộc về ai, ngành nào, mà trách nhiệm thuộc về toàn dân. (Nguyễn Đạt Tường, TGĐ Tổng công ty đường sắt VN).

-EVN tăng giá điện 5% là có trách nhiệm với nhân dân. (Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng)

  • – Đường Trường Chinh không cong hẳn mà cong mềm mại. (Ông Dương Đức Tuấn, Phó giám đốc Sở Quy hoạch kiến trúc TP.Hà Nội.
  • Tất cả những câu phát biểu hồn nhiên hay hình tượng (dẫn thượng) có điểm chung vô cùng qúi hoá là nghe cái hiểu liền, chỉ có câu sau đây  của ông chí T.B.T Nguyễn Phú Trọng là hơi bị khó:
  • “Nói biển Đông không phải chỉ là biển Đông. Nói biển Đông không phải chỉ quan hệ ta với Trung Quốc. Nói biển Đông không phải toàn bộ vấn đề biển Đông, nó chỉ có một cái chỗ quần đảo Hoàng Sa với lại quần đảo Trường Sa …
  • Hiểu chết liền!

Bởi vậy khi nghe các đồng chí lãnh đạo loanh quanh những khẩu hiệu quen thuộc, đầy sáo ngữ, chả có thông tin gì ráo trọi, tất cả chỉ là những câu chữ lắp ráp vào nhau … toàn dân nên lấy đó làm mừng. Mừng là ít ra chúng ta còn biết là họ đang hô khẩu hiệu về một vụ gì đó, chớ “nói biển Đông không phải chỉ là biển Đông. Nói biển Đông không phải chỉ quan hệ ta với Trung Quốc. Nói biển Đông không phải toàn bộ vấn đề biển Đông, nó chỉ có một cái chỗ quần đảo Hoàng Sa với lại quần đảo Trường Sa …” thì (đ… mẹ) nói thiệt là chắc Trời – may ra – mới hiểu.

CHẾT TRONG BÀN TAY TIN YÊU

CHẾT TRONG BÀN TAY TIN YÊU

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Thật khó để nói lời an ủi khi đứng trước cái chết, dù người quá cố đã sống trọn cuộc đời, sống thọ và ra đi trong bình an.  Đặc biệt khó hơn khi người chết còn trẻ, còn cần được chăm sóc nuôi dưỡng, khi họ chết trong hoàn cảnh không được lý tưởng cho lắm.

Là một linh mục, tôi đã nhiều lần chủ lễ các tang lễ của những người chết trẻ vì bệnh tật, tai nạn, hay tự vẫn.  Những đám tang như thế luôn luôn buồn thảm và mang tính hoài  nghi.  Tôi còn nhớ một đám tang như vậy: Một học sinh trung học chết vì tai nạn xe hơi.  Gia đình, bạn bè, và bạn học của em lòng đầy thương tiếc đến dự chật kín cả nhà thờ.  Mẹ cậu, vẫn còn trẻ, ngồi ở hàng ghế đầu, lòng bà nặng trĩu với nỗi tang thương mất mát của mình, nhưng rõ ràng bà quặn thắt khi nghĩ về đứa con.  Và hơn hết, em chỉ là một đứa trẻ, phần nào vẫn còn cần người chăm sóc, vẫn cần mẹ.  Và bà mẹ cảm nhận em chết trẻ như thế, theo cách nào đó, cũng đã làm em trở thành em bé mồ côi.

Chẳng có mấy lời có tác dụng trong trường hợp như thế này, nhưng có vài lời mà chúng ta buộc phải nói, ngay cả trong một ngày như thế, khi cái chết vẫn còn trước mặt, khi người ta không cảm được bao nhiêu sự an ủi về mặt tình cảm được.  Phải nói gì trước một cái chết như thế?   Đơn giản là cậu bé bây giờ đang ở trong bàn tay yêu thương hơn, âu yếm hơn, dịu hiền hơn, và đáng tin cậy hơn đôi tay của chúng ta, rằng ở bên kia có một người mẹ đón nhận em, săn sóc nuôi dưỡng mà em vẫn còn cần, giống như ở đời này vậy.  Không một ai sinh ra mà lại không nằm trên bàn tay ẵm của mẹ cả.  Đó chính là hình ảnh mà chúng ta cần phải giữ trước mắt để có thể hình dung cái chết một cách lành mạnh hơn.

Vậy cụ thể hơn, hình ảnh này là gì.  Một vài hình ảnh nền tảng và dịu hiền như hình ảnh người mẹ ôm và ru đứa con mới sinh của mình.   Lời bài thánh ca Đêm Thánh Vô Cùng, Silent Night, bài thánh ca Giáng Sinh nổi tiếng nhất mọi thời đã lấy cảm hứng từ hình ảnh này.  Joseph Mohr, một linh mục trẻ người Đức, chiều trước lễ Giáng Sinh, đã đi đến một căn nhà tranh trong rừng để rửa tội cho một em bé mới sinh.  Khi ông ra về, đứa trẻ ngủ ngon trong lòng mẹ.  Ông được đánh động quá đỗi trước hình ảnh đó, trước sự sâu thẳm và bình an của hình ảnh đó, rồi khi trở về nhà xứ, ngay lập tức ông viết nên những dòng lừng danh của bản Đêm Thánh Vô Cùng.  Người hướng dẫn dàn nhạc của ông, đã thêm một vài hợp âm guitar cho những dòng này, biến chúng thành những dòng bất hủ.  Hình ảnh khuôn mẫu tuyệt đối cho yên bình, an toàn, và bảo đảm chính là hình ảnh em bé sơ sinh ngủ trong lòng mẹ. Hơn nữa, khi một đứa trẻ chào đời, không chỉ có một mình người mẹ háo hức muốn ẵm bồng mà tất cả gia đình mọi người đều muốn.

Có lẽ chẳng có hình ảnh nào phù hợp, mạnh mẽ, có sức an ủi, và chính xác hơn nữa để minh họa những gì xảy đến với chúng ta khi chết đi và tỉnh dậy trong sự sống bất diệt cho bằng hình ảnh bà mẹ ẵm đứa con mới sinh của mình.  Khi qua đời, chúng ta chết trong bàn tay Thiên Chúa, và chắc chắn chúng ta đã được đón nhận với quá đỗi yêu thương, trìu mến, dịu hiền như khi chúng ta được mẹ ẵm trên tay lúc mới sinh.  Hơn nữa, chắc chắn ở đó, chúng ta được an toàn hơn khi sinh ra trên thế gian này.  Tôi cũng nghĩ, ở đó sẽ có những vị thánh quây quần xung quanh, chờ đến lượt mình để được ẵm em bé mới sinh.  Và như thế thật an tâm nếu chúng ta chết trước khi sẵn sàng để chết, khi vẫn còn cần được chăm sóc nuôi nấng, khi vẫn còn cần một người mẹ.  Chúng ta đang ở trong đôi bàn tay an toàn, ân cần, và đầy tình chăm sóc.

Đó có thể là niềm an ủi thâm sâu bởi cái chết đẩy tất cả mỗi người chúng ta vào tình trạng mồ côi, và mỗi ngày, đều có những người chết trẻ, bất ngờ, thiếu chuẩn bị, những người vẫn còn cần được chăm sóc.  Tất cả chúng ta khi qua đời, vẫn còn đang cần một người mẹ, nhưng đức tin bảo đảm cho chúng ta rằng chúng ta sẽ được sinh ra trong đôi bàn tay đáng tin cậy hơn và được nuôi dưỡng hơn đôi bàn tay của nhân loại.

Tuy nhiên, dù có lẽ sẽ đem lại an ủi, nhưng nó vẫn không thể chấm hết nỗi đau buốt vì mất đi người thân yêu.  Chẳng gì cất đi được nỗi đau buồn đó cả, vì chẳng có gì được định để làm việc đó.  Cái chết là vết sẹo không phai trong tâm hồn chúng ta vì đó chính là những đau đớn do tình yêu mà ra.  Dietrich Bonhoeffer đã nói về điều này như sau: “Không có gì có thể khỏa lấp việc mất đi người chúng ta yêu thương. … Thật vô lý khi nói rằng Thiên Chúa lấp đầy khoảng trống, Thiên Chúa không lấp đầy nó, nhưng ngược lại, ngài vẫn để nó trống rỗng và như thế giúp chúng ta giữ mối giao tình với người đã mất cho dù cái giá của nó là nỗi đau.  … Ký ức của chúng ta, nếu càng nhiều và càng thiết tha, thì sự chia lìa càng nên khó khăn hơn.  Nhưng lòng biết ơn biến đổi những nhói buốt trong ký ức thành niềm vui thanh bình.  Vẻ đẹp của quá khứ không phải là chiếc gai đâm xé da thịt nhưng chính là tặng vật quý báu.”

Rev. Ron Rolheiser, OMI

*************************************

Tôi đã được phép giã từ.

Chúc tôi ra đi may mắn nhé, anh em!

Tôi cúi đầu chào tất cả trước khi lên đường.

Này đây chìa khóa tôi gài lên cửa,

Và cả căn nhà cũng trao trọn anh em.

Chỉ xin anh em lời tạ từ lần cuối,

Thắm đượm tình thân.

Từ lâu rồi, sống bên nhau,

Chúng mình là láng giềng lối xóm;

Nhưng anh em đã cho tôi

Nhiều hơn tôi cho lại anh em.

Bây giờ ngày đã rạng,

Đèn trong xó tối nhà tôi đã tắt.

Lệnh triệu ban rồi,

Tôi đi đây.

Rabindranath Tagore

Anh chị Thụ Mai gởi

Tử đạo hôm nay

Tử đạo hôm nay

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Chuacuuthe.com


VRNs (14.11.2014) – Đồng Nai – Con người đều có quyền được đối xử bình đẳng như nhau. Không phân biệt chủng tộc, không được kỳ thị tôn giáo dưới bất cứ hình thức nào. Nếu thể chế chính trị hay tổ chức nào cố tình kỳ thị tôn giáo hay chủng tộc đều là nhà độc tài đáng sợ của nhân loại. Nhất là tôn giáo cần phải được tôn trọng. Đây là đời sống tâm linh hoàn toàn là sự tự nguyện chứ không phải ép buộc hay đe dọa dưới bất kỳ phương tiện nào. Thế nhưng, dầu đang sống ở thế kỷ 21 vẫn còn đó sự bách hại và cưỡng bức từ nhóm ISIS Hồi giáo quá khích. Họ đã và đang ép buộc, cưỡng bức, giết hại những người Công Giáo, cũng như các tôn giáo khác tại Iraq. Họ buộc các tín hữu ky-tô giáo phải bỏ đạo mà quy phục đạo Hồi nếu không phải rời quê hương ra đi hoặc phải chết dã man …

Trong mấy tháng qua những hình ảnh đau xót vô cùng của sự “ác độc dã man” đã cho chúng ta thấy rằng: Một cháu bé gái Công Giáo mới 2 tuổi mà chúng cũng không tha. Chúng lôi em ra chặt đầu trước mặt mẹ và những người thân của cháu, gần bên cạnh một thánh đường và bắt mọi người Kitô giáo phải đổi sang Hồi giáo, nếu không số phận cũng sẽ là như em bé gái này tất cả!

Phiến quân ISIS Hồi giáo còn công bố một clip đã đập nát tượng Đức Mẹ trong một Thánh đường bị phá hủy tan hoang. Tượng chúa Giêsu thì bị chúng chặt đầu nằm trên nền nhà thờ.

Ước tính cho rằng, có khoảng 200.000 Kitô hữu sống trong khu vực Ninive. Những người Kitô Giáo đã bị sát hại chưa thể kiểm chứng chính xác được. Người ta chỉ có thể phỏng đoán căn cứ theo sự mất tích là 10.000 – 50.000 (từ mười ngàn đến năm mươi ngàn người)

Nhân quyền ở đâu? Sự liên đới của Liên Hiệp Quốc ở đâu? Tại sao lại để sự dữ tung hoành ngay trong thời đại tưởng chừng như nhờ văn minh con người đang xích lại gần nhau hơn? Hiểu hết, thấy hết những khốn khổ của người Công giáo ở Irak, ở Syria, . . . sao không thấy các nước can thiệp mạnh mẽ hơn để đẩy lùi sự dữ cho anh em của mình.

Ngượi dòng lịch sử Việt Nam, cha ông của chúng ta cũng từng là nạn nhân của sự kỳ thị tôn giáo và chủng tộc. Chỉ vì là người Công Giáo mà bị kết tội chết, có khi nhẹ hơn là khắc lên trên trán hai chữ “tà đạo” . . .

Trải qua sáu triều Vua: Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, người Công Giáo bị coi là Tà đạo còn lại là “Lương dân”. Thật đắng lòng khi gọi người khác tôn giáo là lương dân còn mình thì bị tước khỏi danh hiệu ấy! Quyền được tôn trọng bị khước từ. Quyền tự do bị chối từ. Các tín hữu Việt Nam cũng từng trải qua những ngày tháng khắc nghiệt để giữ vững lòng tin. Một là bước qua Thập Giá để về nhà, hai là chịu án phạt của cái chết vô cùng dã man với các hình phạt: Bị gông cùm, bị xiềng xích, bị nhốt trong cũi, bị đánh đòn, bị bỏ đói, bị voi giầy, bị trói ném xuống sông, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng, bị chặt đầu, bị thắt cổ, bị thiêu sống, bị phân thây ra từng mảnh… Có 79 vị bị trảm quyết (bị chặt đầu); 18 vị bị xử giảo (bị thắt cổ); 8 vị chết rũ tù; 6 bị thiêu sinh; 4 bị lăng trì (phân thây ra từng mảnh); 1 bị tử thương và 1 bị bá đao.

Thật hạnh phúc cho Giáo hội Việt Nam vì trong số 300 ngàn vị tử đạo đã có đến 117 vị đã được Giáo hội tôn phong Hiển Thánh. Một con số cho thấy đời sống đức tin tuyệt vời của cha ông chúng ta. Các ngài đã nên thánh trong chính đời sống thường ngày của mình. Các ngài giữ đạo mến thương để mọi người ngoại đạo đều yêu mến kính trọng đời sống đức tin của các ngài. Và cái chết tử đạo chỉ là một đỉnh cao cho đời sống trung thành với đức tin của mình mà thôi! Tử đạo là nét son trổi vượt cho một đời sống son sắt trung kiên với Tin mừng. Tử đạo chỉ có giá trị từ đời sống hằng ngày biết mến Chúa trên hết mọi sự và yêu mến tha nhân như chính mình.

Hôm nay mừng các thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta tạ ơn Chúa đã cho quê hương chúng ta có nhiều mẫu gương tuyệt vời về đời sống đức tin, về lòng mến Chúa yêu người. Chúng ta tạ ơn Chúa vì nhờ những gương sáng tuyệt vời ấy đã giúp Giáo Hội Việt Nam vượt qua những phong ba để trưởng thành và thăng tiến. Tạ ơn Chúa, tạ ơn các tiền nhân cũng là dịp để nhắc nhở chúng ta phải duy trì tinh thần sống đạo mến Chúa yêu người như cha ông chúng ta. Mừng kính các ngài không chỉ để ca tụng các ngài, mà quan yếu là dịp học hỏi gương sống đạo của cha ông để sống cho thời đại hôm nay. Một thời đại rất khoa học nên việc bách hại cũng rất tinh vi. Một thời đại rất văn minh nhưng lại quá nhiều lo sợ, bất an bởi an ninh, bởi nhiều cám dỗ, bởi đời sống thác loạn của môi trường.

Nguyện xin các thánh TĐVN giúp cho chúng con là con cháu được trung kiên giữ vững đức tin. Dẫu xã hội hội có nhiều cám dỗ, cạm bãy, xin cho chúng con đừng vì danh lợi thú mà xa rời Chúa, xa rời Giáo hội. Xin Chúa giúp chúng con can trường giữ đạo trong mọi thử thách như cha ông chúng con xưa. Amen

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền